Sự hình thành cách ghi
Nhờ những công trình nghiên cứu gần đây trong nước và ngoài
nước, chúng ta biết rằng, sự sáng tạo chữ Quốc Ngữ là một quá trình, từ những
thập kỉ đầu của thế kỷ XVII, với sự tham gia của nhiều giáo sĩ Dòng Tên, trong
sự cộng tác và đóng góp của nhiều người Việt [2,4,7,12,15]. Khoảng thời gian từ
1620 - năm các giáo sĩ bắt đầu ghi chép bằng chữ QN đến năm 1651 - thời gian xuất
bản Từ điển Việt Bồ La và Phép giảng 8 ngày được xem là thời kì hình thành chữ
Quốc Ngữ. [Đỗ Quang Chính]. Tư liệu để tìm hiểu chữ Quốc Ngữ thời kỳ này là các
thư, báo cáo viết tay (gọi chung là tài liệu viết tay - TL) của các giáo sĩ
truyền giáo ở Việt Nam: TL của Francisco de Pina [Roland jacques tr.20]; TL năm
1621 của Joao Roiz; TL năm 1621, TL năm 1626của Gaspar Luis; TL năm 1621, TL năm
1621 của Cristoforo Borri; TL năm 1625 và TL từ năm 1631 đến năm 1647 của
Alexandre de Rhodes; TL năm 1632 và TL năm 1637 của Gaspar d’Amaral.Đặc biệtlà
bản viết tay “Manuductio ad linguam Tunckinensem” (Nhập môn tiếng Tonkin),
chưa rõ tác giả, được Roland Jacques phát hiện và công bố gần đây. [4:tr.20].
Dựa vào dạng thức chữ Quốc Ngữ phản ánh trong các TL trên, Đỗ
Quang Chính chia thời kỳ hình thành chữ Quốc Ngữ thành 2 giai đoạn: Giai đoan
1 - từ 1620 đến 1626 và giai đoạn 2 từ 1631 đến 1648. [2: tr. 19-20]. Những giáo
sĩ đi đầu, có nhiều đóng góp ở thời kì này, được Roland Jacques gọi là những người
đi tiên phong trong việc chế tác chữ QN. [4]
Việc dùng các dấu phụ để ghi thanh điệu - hiện tượng lạ, khó
đối vơi những nhà truyền giáo châu Âu vào thế kỷ XVII, là sự sáng tạo, đóng góp
đặc biệt của những người chế tác chữ Quốc Ngữ.
Báo cáo này nhằm tìm hiểu lịch sử xuất hiện ở thời khì hình
thành chữ Quốc Ngữ các dấu thanh (ký hiệu ghi thanh điệu) - một nét độc đáo của
chữ QN. Một số vấn đề sau đây được đề cập trong báo cáo.
Quan điểm về thanh điệu của những người đi tiên phong chế tác
chữ QN.
Sự hình thành cách ghi thanh điệu và vai trò cá nhân một số
nhà truyền giáo.
Dấu ấn phương ngữ tiếng Việt trong cách ghi thanh điệu.
Tiếng Việt khác với các ngôn ngữ châu Âu như tiếng Pháp, Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan ở nhiều đặc điểm, trong đó đặc điểm rõ nhất là tiếng
Việt là ngôn ngữ có thanh điệu. Theo quan điểm ngữ âm học hiện đại về thanh điệu,
thanh điệu tiếng Việt trong chức năng khu biệt nghĩa, là sự khác biệt về cao độ
(pitch) và chất giọng (voice quality), khi phát âm âm tiết. Về cao độ (khái niệm
về cảm thụ, tương ứng với khái niệm tần số thanh cơ bản (F0), về vật lý), các
thanh điệu có thể phân biệt về 1- đường nét (contour) - đó là diễn tiến (sự biến
đổi) F0 trong thời gian phát âm âm tiết; 2- âm vực (pitch level) - đó là vùng
cao độ mà ở đó một thanh điệu được thể hiện (tính từ điểm thấp nhất đến điểm
cao nhất về cao độ). Chất giọng là khái niệm về mặt cảm thụ, tương ứng với khái
niệm kiểu tạo thanh (Phonation type), xét về mặt sinh lý tạo sản lời nói. Kiểu
tạo thanh là kiểu thức rung dây thanh, tạo nên sự khác biệt về trạng thái thanh
môn và lượng dòng khí đi qua thanh môn, khi phát âm âm tiết. [5]
Khi các giáo sĩ châu Ấu mới tiếp xúc với tiếng Việt, việc phát
âm đúng thanh điệu tiếng Việt là khó khăn lớn nhất đối với họ. Linh mục C.
Borri đến Đàng trong năm 1618 thú nhận rằng, muốn hiểu và nói được tiếng Việt
hoàn toàn phải dành ra 4 năm để học. Marini cho rằng,“dường như dân Việt bẩm
sinh đã có một cơ thể rất chính xác, được điều chỉnh thật đúng và hòa hợp hoàn
toàn với trí óc cùng buồng phổi; phải nói là, theo tự nhiên, người Việt là nhạc
sư, vì họ có tài phát âm một cách nhẹ nhàng và chỉ hơi biến thanh là đã khác
nghĩa”. [2:tr.14]. Tháng 12 năm 1624, Linh mục Alexandre de Rhode từ Áo
Môn đi tàu buôn Bồ Đào Nha vào Cửa Hàn đến Thanh Chiêm tức thủ phủ Quang Nam
Dinh và học tiếng Việt tại đó. Về tiếng Việt ông viết: “Riêng tôi xin thú nhận rằng
khi vừa tới đàng trong nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới,
tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng
không bao giờ có thể học được tiếng Việt”. (Alexandre de Rhodes, 1653 tr.
72; dân theo 2: tr. 12).
Theo Alexandre de Rhodes, Marini, Tissanier… thanh điệu tiếng
Việt khó vì những lý do sau đây:
1- Tất cả mọi tiếng đều là cách ngữ (không biến đổi hình thái theo chức năng ngữ pháp).
2- Cùng một tiếng phát ra một cách khác nhau, có thể chỉ nhiều nghĩa và thường lại có nghĩa đối nghịch nhau.
3- Thanh của mỗi tiếng, đôi khi rất nhẹ và khá tế nhị.
4- Cách phát âm: trong khi đọc một tiếng, người ta phải làm thế nào để hơi thở, môi, răng, lưỡi và họng cùng hòa hợp phát ra một tiếng vừa phải và chính xác.
Cùng một tiếng, thêm, bớt, hay là uốn hạ thanh, đều làm cho nghĩa khác nhau. Alexandre de Rhodesđưa ra các ví dụ và thuật lại một số chuyện vui về người Tây phương phát âm thanh điệu tiếng Việt. [2]
1- Tất cả mọi tiếng đều là cách ngữ (không biến đổi hình thái theo chức năng ngữ pháp).
2- Cùng một tiếng phát ra một cách khác nhau, có thể chỉ nhiều nghĩa và thường lại có nghĩa đối nghịch nhau.
3- Thanh của mỗi tiếng, đôi khi rất nhẹ và khá tế nhị.
4- Cách phát âm: trong khi đọc một tiếng, người ta phải làm thế nào để hơi thở, môi, răng, lưỡi và họng cùng hòa hợp phát ra một tiếng vừa phải và chính xác.
Cùng một tiếng, thêm, bớt, hay là uốn hạ thanh, đều làm cho nghĩa khác nhau. Alexandre de Rhodesđưa ra các ví dụ và thuật lại một số chuyện vui về người Tây phương phát âm thanh điệu tiếng Việt. [2]
Những ý kiến trên của các giáo sĩ đã nói khá chính xác về bản
chất ngữ âm-âm vị học của thanh điệu Việt. Bản chất âm vị học của thanh điệu Việt - đơn vị ngôn điệu của âm tiết (tiếng) có giá trị khu biệt nghĩa, được gọi
là thanh vị (toneme) được diễn giải: “Cùng một tiếng phát ra một cách khác
nhau, có thể chỉ nhiều nghĩa và thường lại có nghĩa đối nghịch nhau”. Còn
đây là bản chất ngữ âm của thanh điệu Việt: Đặc trưng về cao độ - đường nét F0
“Cùng một tiếng, thêm, bớt, hay là uốn hạ thanh, đều làm cho nghĩa khác nhau”; đặc
trưng về thức tạo thanh - sự điều phối dòng khí khi phát âm âm tiết “Trong khi đọc
một tiếng, người ta phải làm thế nào để hơi thở, môi, răng, lưỡi và họng cùng
hòa hợp phát ra một tiếng vừa phải và chính xác”.
Sự hình thành cách ghi thanh điệu và vai trò cá nhân của một
số nhà truyền giáo.
Trong các tài liệu viết tay ở giai đoạn 1621-1626, chữ Quốc
Ngữ xuất hiện không nhiều, được dùng chủ yếu để ghi các địa danh Việt Nam. Các
từ tiếng Việt được viết liền; chưa có dấu ghi thanh điệu (dấu thanh). Ví dụ unsai (ông
sãi), ungue (ông Nghè), Quinhin (Quy Nhơn), nuocman (Nước
Mặn - cách Qui Nhơn 20 km về phía bắc), Bendâ (Bến Đá, Quy
Nhơn), Bôdê địa danh ở nam Bến Đá (Quy Nhơn). [2]
Trong các TL được viết từ 1631-1648, chữ Quốc Ngữ xuất hiện
nhiều hơn, dạng chữ khá gần với chữ Quốc Ngữ trong các tài liệu xuất bản 1651.
Về thanh điệu, trong các TL thời kì này, xuất hiện các dấu thanh. Trong các TL
viết vào các năm 1636-1644, Alexandre de Rhodes đã dùng 3 dấu thanh: Sắc, Huyền,
Ngã; ví dụ: cà, cã, cá, tlẽ (trẻ). Đặc biệt, trong các văn bản của
Gaspar d’Amaral, dạng chữ và cách viết chữ Quốc Ngữ rất gần với chữ Quốc Ngữ
trong Từ điền Việt- Bồ - La. [2,15]
Nhìn chung, việc sử dụng chữ Quốc Ngữ nói chung và dấu thanh
nói riêng trong các văn bản được viết từ năm 1620 đến năm 1648 chưa ổn định và
có sự khác nhau giữa các giáo sĩ trong việc sử dụng chữ Quốc Ngữ. Sự khác biệt
này phản ánh mức độ đóng góp của từng người vào sự hoàn thiện chữ Quốc Ngữ. Chẳng
hạn, có thể thấy sự khác biệt trong cách viết chữ Quốc Ngữ giữa Alexandre de
Rhodes và Gaspar d’Amaral. Trong các bản viết tay, kể cả văn bản viết năm 1647
của Alexandre de Rhodes, cách viết chữ Quốc Ngữ còn “luộm thuộm”- như nhận xét
của Đỗ Quang Chính, [2: tr. 49]. Nói riêng, việc sử dụng các dấu thanh của ông
còn sơ giản, nhiều trường hợp không có dấu thanh, ví dụ, các địa danh: Baubom (Bầu
Vom), bochinh (Bố Chính), cai tlam, caitlam (Cát Lâm, gần
Hội An), oũ nghe bo (Ông Nghè bộ - một chức quan). Trong các TL viết
vào các năm 1636-1644, khi sống ở Đàng Ngoài, nơi có 6 thanh điệu, Alexandre de
Rhodes chỉ dùng 3 dấu thanh: Sắc, Huyền, Ngã và thường không chính xác; ví dụ: cà,
cã (cả), cá, tlẽ (trẻ).
Đối chiếu việc sử dụng chữ Quốc Ngữ của Gaspar d’ Amaral và
Alexandre de Rhodes, chúng ta thấy ngay từ năm 1632, cách ghi chữ Quốc Ngữ của
G. d’Amarral tốt hơn Alexandre d’Rhodes. Trong TL năm 1632 và 1637, Gaspar
d’Amaral đã dùng 5 dấu phân biệt 6 thanh và viết khá chính xác. Ví dụ: đàng
tlaõ (đàng trong), đàng ngoày (đàng ngoài), nhà thượng đày (Nhà
thượng đài), nhà phũ (nhà Phủ), oũ Khỏũ (ông Khổng-Khổng Tử), Vĩnh
tộ (niên hiệu Vĩnh Tộ 1620-1628).
Đỗ Quang Chính nhận xét rằng, Alexandre de Rhodes vào
năm 1636, chưa ý thức được vai trò chữ Quốc Ngữ như Gaspar d’Amaral năm 1632.
(Tr. 65). Như vậy, có thể nhận xét rằng, trước năm 1651, Gaspar d’ Amaral sớm ý
thức sự cần thiết của việc phiên âm tiếng Việt bằng các kí tự La Tinh và có những
đóng góp quan trọng trong việc hoàn thiện cách viết chữ Quốc Ngữ nói chung và
cách ghi 6 thanh điệu nói riêng. Xin lưu ý rằng, Gaspar d’ Amaral chỉ ở Đàng
Ngoài (cụ thể là Thăng Long, nơi có 6 thanh điệu khu biệt), 28 tháng rưỡi. Lần
đầu ông đến Đàng Ngoài vào tháng 10 năm 1629; tháng 5 năm 1630, Ông rời Đàng
ngoài đi Áo Môn. Tháng 2 năm 1631, Ông lại đến Thăng Long. Năm 1638, Ông trở lại
Áo Môn; Năm 1645, khi từ Áo Môn sang Đàng Ngoài truyền giáo, tàu bị đắm gần Hải
Nam, Ông bị chết. Còn A. de Rhodes ở Việt Nam 57 tháng (ở Đàng Trong 19 tháng từ
tháng 12 năm 1624 đến tháng 7 năm 1626, ở Đàng ngoài 38 tháng, từ tháng 3 năm
1627 đến tháng 5 năm 1630).[2]
3. Dấu ấn phương ngữ trong cách ghi thanh điệu thời kỳ hình
thành chữ Quốc Ngữ
Một vấn đề từ lâu đã được đặt ra là, trong sự ra đời của chữ
QN, các địa phương như Thanh Chiêm Quảng Nam, Nước Mặn (Bình Định) thuộc
Đàng Trong, nơi các giáo sĩ tiên phong đã sống, học tập, ghi chép, dùng tiếng Việt
để giảng đạo có vai trò như thế nào trong sự hình thành chữ Quốc Ngữ? Có thể trả
lời câu hỏi này bằng cách tìm hiểu dấu vết về từ vựng, ngữ âm của các thổ ngữ,
phương ngữ được phản ánh trong chữ Quốc Ngữ ở thời kỳ hình thành chữ viết này.
Trong phần này, chúng tôi cố gắng tìm hiểu dấu vết của các phương ngữ phản ánh
qua việc miêu tả các thanh điệu, cách dùng các dấu thanh của các giáo sĩ.
Ở thế kỷ XVII, khi xứ Đàng Trong được thành lập, địa bàn tiếng
Việt được mở rộng, tạo cơ sở cho sự hình thành phương ngữ Nam, từ đèo Hải Vân
trở vào.Những cư dân di cư vào vùng đất mới có nguồn gốc chủ yếu từ Thanh Nghệ.
Xét về ngôn ngữ, đặc biệt về thanh điệu, phương ngữ Nam chịu ảnh hưởng chủ yếu
từ tiếng Thanh Hóa. Tiếng Quảng Nam được coi là giọng nói chuẩn của tiếng Đàng
Trong. Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đã ghi: Xứ
Quảng “tiếng nói thì bình dị rõ ràng... kinh sư cũng lấy tiếng Quảng Nam làm
chính”. Đại diện cho tiếng Đàng Ngoài là tiếng nói vùng đồng bằng Bắc Bộ, mà
tiêu biểu là tiếng vùng kinh kỳ Thăng Long.
Về thanh điệu, phương ngữ Bắc Bộ phân biệt với phương ngữ Nam ở
chỗ tiếng Bắc Bộ có 6 thanh điệu, tiếng Nam, tương tự tiếng Thanh Hóa, chỉ có 4
thanh, trong đó thanh Hỏi và thanh Ngã nhập một. Đồng thời, giữa 2 phương ngữ
còn có sự khác biệt về đặc điểm ngữ âm-âm vị học của từng thanh điệu.
3.1. Hệ thống
thanh điệu Bắc Bộ
Hệ thống
thanh điệu Bắc Bộ gồm 6 thanh; đặc điểm âm vị học của các thanh trình bày ở bảng
1 dưới đây.
Thanh điệu
|
Cao độ
|
Chất giọng
|
|
Đường nét
|
Âm vực
|
||
Thanh Ngang
|
Ngang
|
Cao
|
Thường
|
Thanh Huyền
|
Xuống
|
Thấp
|
Thở (chùng)
|
Thanh Hỏi
|
Xuống-lên
|
Thấp
|
Thanh quản hóa
|
Thanh Ngã
|
Xuống-lên
|
Cao
|
Thanh quản hóa
|
Thanh Sắc
|
Lên
|
Cao
|
Thường
|
Thanh Nặng
|
Ngang (Xuống)
|
Thấp
|
Tắc thanh môn
|
Bảng 1. Đặc trưng âm vị học hệ thanh điệu Bắc Bộ [6]
Hình
1: Đồ thị F0 6 thanh điệu phương ngữ Bắc Bộ
3.2. Hệ
thống thanh điệu Quảng Nam, Bình Định
Hệ thống thanh điệu Quảng Nam và Bình Định chỉ gồm 5 thanh,
do thanh Hỏi và Ngã nhập một. Từng thanh điệu ở mỗi hệ thống có thể khác nhau về
đặc điểm ngữ âm học, nhưng thống nhất về đặc trưng âm vị học. 5 thanh điệu tiếng
Quảng Nam (Điện Bàn) và Bình Định (Hoài Nhơn) được nhận diện bằng các tiêu chí
âm vị học ở bảng 2 dưới đây:
Thanh điệu
|
Cao độ
|
Chất giọng
|
|
Đường nét
|
Âm vực
|
||
Thanh Ngang
|
Ngang (xuống)
|
Cao
|
Thường
|
Thanh Huyền
|
Xuống
|
Thấp
|
Thở (chùng)
|
Thanh Hỏi/Ngã
|
Xuống-lên
|
Cao
|
Thanh quản hoá
|
Thanh Sắc
|
Lên
|
Cao
|
Thường
|
Thanh Nặng
|
Xuống-lên
|
Thấp
|
Thanh quản hoá
|
Bảng 2: Đặc trưng âm vị học 5 thanh điệu phương ngữ Nam
(Quảng Nam, Bình Định)
Hình 2: Đồ thị F0 5 thanh điệu Quảng Nam (Điện Bàn)
Hình 3: Đồ thị F0 5 thanh điệu Bình Định (Hoài Nhơn)
3.3. Hệ thống thanh điệu trong chữ Quốc ngữ
Trong "Báo cáo vắn tắt về tiếng An nam hay Đông
kinh”, Alexandre De Rhodes khẳng định hệ thống thanh điệu được phản ánh trong
chữ Quốc ngữ là hệ thống thanh điệu Bắc Bộ (Tonkin - Đông Kinh). Tác giả đã miêu
tả rất ấn tượng các "giọng" (thanhđiệu) và đặt tên cho từng giọng
(thanh điệu). "Thứ nhất, giọng bằng là giọng phát âm không
uốn tiếng chút nào. Thứ hai, giọng sắc là giọng phát âm bằng cách nhấn
tiếng và đẩy tiếng ra giống như người biểu lộ cơn giận. Thứ ba là giọng trầm và
phát âm bằng cách hạ thấp tiếng. Thứ tư là giọng uốn cong, được diễn tả bằng
cách uốn cong tiếng phát ra từ đáy ngực, và sau đó được nâng lên một cách cao
vang. Thứ năm là giọng được gọi là nặng trĩu hay cực nhọc, bởi vì giọng
này được diễn tả bằng việc phát âm từ đáy ngực với sự nặng trĩu hay cực nhọc
nào đó, và nó được ghi bằng dấu chấm dưới. Sau hết, giọng thứ sáu là giọng
nhẹ, bởi vì nó được phát ra với việc uốn cong tiếng cách nhẹ nhàng, như khi
chúng ta có thói quen hỏi, itane (phải vậy không)? và những tiếng giống như vậy,
và bởi vậy, dấu hiệu này được ghi bằng dấu hỏi". [15]
Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta nhận ra rằng, hệ thống
thanh điệu được tác giả miêu tả như trên hoàn toàn trùng hợp với hệ thống thanh
điệu tiếng Bắc Bộ hiện đại; nhất là, nếu chúng ta thay từ ngữ được tác giả dùng
miêu tả những cảm nhận ngữ âm ở thế kỷ XVII của ông bằng các thuật ngữ ngữ âm học
hiện đại. Chẳng hạn, có thể hiểu những miêu tả (cảm thụ ngữ âm học) của tác giả
như: giọng bằng, giọng trầm, giọng uốn cong, giọng sắc, giọng uốn cong, và sau
đó được nâng lên là các tiêu chí chỉ đường nét cao độ, tương ứng các thuật
ngữ hiện đại: đường nét ngang (thanh Ngang), đường nét xuống (thanh Huyền), đường nét uốn
(xuống lên - thanh Hỏi), đường nét lên (thanh sắc), đường nét gãy (thanh Ngã). Còn những
miêu tả: không uốn tiếng chút nào, uốn cong tiếng phát ra từ đáy ngực, giọng
nặng trĩu hay cực nhọc, phát âm từ đáy ngực phản ánh các tiêu chí chất giọng,
tương ứng các thuật ngữ như chất giọng thường (thanh Ngang), chất giọng thanh
quản hóa (thanh Hỏi, Ngã), chất giọng thanh môn hóa (tắc thanh môn -
thanh Nặng).
Việc
các nhà truyền giáo sử dụng các dấu ghi thanh điệu cũng có lý do 4 trong
5 dấu thanh có nguồn gốc Hy Lạp gồm dấu Huyền, Sắc, Ngã, Nặng, dấu Hỏi có
nguồn gốc La Tinh. Việc lựa chọn dấu (hình dáng đồ họa, vị trí đặt dấu) để ghi
mỗi thanh điệu được căn cứ vào cách phát âm của thanh đó. Hình dáng (đồ họa) các
dấu thanh phần nào phản ánh diễn tiến cao độ của thanh điệu mà tác giả cảm nhận
miêu tả và khá tương đồng với đường nét F0 của các thanh điệu tiếng Bắc Bộ hiện
đại (xem H. 1 Đồ thị F0 các thanh điệu tiếng Việt Bắc Bộ). Thanh Ngang có
đường nét bằng phẳng, chất giọng thường (không đánh dấu về mặt âm vị học) được
phản ánh bằng cách không ghi dấu (ký hiệu zero), dấu Huyền, về đồ hình, có đường
nét đi xuống, phản ánh đường nét xuống thoai thoải của thanh Huyền; dấu Sắc có đường
nét lên, phản ánh đồ thị F0 đi lên của thanh Sắc; dấu uốn cong, gãy (xuống -
lên) tương đồng đường nét gãy của thanh Ngã. Dấu Hỏi (nghi vấn) được dùng, bởi
vì thanh này có đường nét tương tự đường nét ngữ điệu hỏi trong tiếng Latinh.
Trong khi 4 dấu Huyền, Sắc, Hỏi, Ngã được ghi trên con chữ nguyên âm, riêng dấu
Nặng ghi dưới, bởi vì thanh này được phát âm với chất giọng đặc trưng giọng nặng
trĩu hay cực nhọc, phát âm từ đáy ngực, do hiện tượng thanh môn hoá khi
phát âm thanh này: âm tiết kết thúc đột ngột với tiếng tắc trong thanh hầu (hai
dây thanh chập lại).
Như vậy, số lượng thanh điệu, việc miêu tả cách phát âm từng
thanh điệu, sử dụng các dấu ghi thanh điệu (hình dạng đồ họa của dấu, cách đặt dấu…)
phản ánh hệ thanh điệu Bắc Bộ thế kỷ XVII và tương đồng với hệ thanh Bắc Bộ hiện
nay. Không tìm thấy dấu vết hệ thanh điệu phương ngữ Nam, cụ thể là hệ thanh điệu
Quảng Nam (Điện Bàn) và Bình Định (Hoài Nhơn) trong việc miêu tả và sử dụng các
dấu thanh của chữ Quốc Ngữ.
3.4. Hiện tượng lẫn lộn dấu Hỏi và Ngã
Sự khác biệt rõ rệt của hệ thống thanh điệu phương ngữ Nam
(trong đó có tiếng Quảng Nam và Bình Định) so với phương ngữ Bắc Bộ là sự nhập
một thanh Ngã và thanh Hỏi, dẫn đến kết quả phương ngữ này chỉ có 5 thanh.Chính
tả chữ Quốc Ngữ dựa trên cách phát âm tiếng Bắc Bộ, tức là có sự phân biệt Hỏi/
Ngã. Điều này khiến những người nói phương ngữ Nam (cũng như tiếng Thanh Hóa)
thường mắc lỗi chính tả trong các từ có thanh Hỏi hoặc thanh Ngã.
Ở các
thập niên đầu thế kỉ XVII, khi sống ở Thanh Chiêm (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định),
các giáo sĩ tiếp xúc, học và nói theo tiếng nói vùng này, chỉ có 5 thanh, không
phân biệt thanh Ngã và thanh Hỏi. Việc chỉ dùng 3 dấu Huyền, Sắc, Ngã để ghi 4
thanh, không có dấu phân biệt các thanh Hỏi/ Ngã ở thời kì đầu và việc lẫn lộn
hai dấu thanh này trong các TL của các giáo sĩ chính là các dấu vết của phương
ngữ Nam trong chữ Quốc ngữ.
Trong các tài liệu viết các năm 1636-1644, khi đã ở Đàng Ngoài, Alexandre De Rhodes chỉ dùng 3 dấu Sắc, Huyền, Ngã, chưa có dấu Hỏi (dấu Hỏi thay bằng dấu Ngã), ví dụ: cà (cà), cã (cả, lớn), cá (cá), tlẽ (trẻ), [2: tr.46]. Như trên đã nói, Gaspar d’Amaral chỉ ở Đàng Ngoài, trong các TL của ông đã dùng 5 dấu phân biệt 6 thanh và ít có các lỗi về dấu ghi thanh điệu. Tuy nhiên, trong TL viết tay của Ông năm 1632 và 1637 vẫn thấy lỗi Hỏi/ Ngã. Ví dụ: oũ Khỏũ (ông Khổng-Khổng tử), nhưng nhà phũ (nhà phủ). Trong Từ điển Annam-Lusitan-Latinh, ít thấy lỗi dấu thanh Hỏi/ Ngã, như trường hợp bẩy (cái bẫy, cái cạm); bẩy chôật (bẫy chuột). [8]
Trong các tài liệu viết các năm 1636-1644, khi đã ở Đàng Ngoài, Alexandre De Rhodes chỉ dùng 3 dấu Sắc, Huyền, Ngã, chưa có dấu Hỏi (dấu Hỏi thay bằng dấu Ngã), ví dụ: cà (cà), cã (cả, lớn), cá (cá), tlẽ (trẻ), [2: tr.46]. Như trên đã nói, Gaspar d’Amaral chỉ ở Đàng Ngoài, trong các TL của ông đã dùng 5 dấu phân biệt 6 thanh và ít có các lỗi về dấu ghi thanh điệu. Tuy nhiên, trong TL viết tay của Ông năm 1632 và 1637 vẫn thấy lỗi Hỏi/ Ngã. Ví dụ: oũ Khỏũ (ông Khổng-Khổng tử), nhưng nhà phũ (nhà phủ). Trong Từ điển Annam-Lusitan-Latinh, ít thấy lỗi dấu thanh Hỏi/ Ngã, như trường hợp bẩy (cái bẫy, cái cạm); bẩy chôật (bẫy chuột). [8]
4. Kết luận
4.1. Việc nhận thức đúng về thanh điệu, miêu tả chính xác và
sử dụng các dấu phụ để ghi 6 thanh điệu là đóng góp quan trọng, độc đáo của những
ngươi chế tác chữ Quốc Ngữ.
4.2. Sự hình thành cách ghi thanh điệu chữ Quốc Ngữ là một
quá trình, từ chỗ không ghi thanh điệu đến việc dùng 3 dấu thanh, cuối cùng sử dụng
5 dấu ghi 6 thanh điệu.
4.3. Trong số những người đi đầu trong việc chế tác chữ Quốc
ngữ, Gaspar d'Amaral có nhiều đóng góp trong việc sáng tạo và sử dụng dấu
ghi thanh điệu.
4.4. Hệ thống thanh điệu được phản ánh trong chữ Quốc ngữ là
hệ thống thanh điệu Bắc Bộ thế kỉ XVII. Hệ thống này tương đồng với hệ thống
thanh điệu Bắc Bộ hiện nay về số lượng thanh điệu, đặc điểm ngữ âm và âm vị học
từng thanh điệu.
4.5. Việc không phân biệt thanh Hỏi Ngã ở thời kỳ đầu và sự lẫn
lộn trong việc sử dụng 2 dấu thanh này là dấu vết của phương ngữ Nam (bao gồm
Quảng Nam, Bình Định) trong chữ sự hình thành cách ghi thanh điệu chữ Quốc Ngữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Hoàng Thị Châu, 1989. Tiếng Việt trên các miền đất nước.
Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đỗ Quang Chính,1972.Lịch sử chữ Quốc Ngữ. 1620-1659. Sài gòn,
1972.
Haudricout Andre G. De l’orgine des tone du Vietnamien. JA
242, 69-83.
Jacques, Joland. 1995. Những người Bồ Đào Nha tiên phong
trong lĩnh vực Việt ngữ học. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2007.
Nguyễn Văn Lợi & Edmondson, J.A. . (1998). Tones and
voice quality in modern northern Vietnamese: instrumental case studies. Mon-Khmer
Studies Vol. 28, 1-18.
Nguyễn Văn Lợi. (2004). Đặc điểm ngữ âm - âm vị học của phụ
âm tắc, hữu thanh, thở trong các ngôn ngữ ở Việt Nam và Đông Nam Á (trên bình
diện đồng đại và lịch đại). Trong Những vấn đề ngôn ngữ học. Hà Nội:
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Nguyễn Văn Lợi. (2010). Phục nguyên Hệ thống ngữ âm tiếng Việt
thế kỉ XVII (Trên cơ sở Ditionarium Annamiticum Lusitianum et Latinum (Từ điển
Việt - Bồ Đào Nha - Latin) của Alechxandre de Rhodes). Từ điển học và Bách
khoa thư,5 (7), 16-29.
Rhodes, Alexandre de, 1991. Từ điển Annam - Lusitan -
Latinh, KHXH, Ha Nội, 1991.
Rhodes, Alexandre de, 1993. Phép giảng tám ngày. Nguyễn Khắc
xuyên giới thiệu. Tủ sách Đại Kết.
Đoàn Thiện Thuật. 1977. Ngữ âm tiếng Việt. Hà Nội.
Thurgood, G. (2002). Vietnamese and tonogenesis: Revising the
model and the analysis. Diachronica Volume 19 Issue 2, 333–363.
Hoàng Tiến, 1994. Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ
viết đầu thế kỷ 20. NXB Lao Động.
Lê Ngọc Trụ,1961. Chữ Quốc ngữ từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX. Khảo cổ tập san.
Nguyễn Khắc Xuyên, 1959. Nguồn gốc chữ Quốc ngữ: chữ Quốc ngữ
vào năm 1631. VHNS 42, 685-93.
Nguyễn Khắc Xuyên, 1993. Ngữ pháp của Đức Lộ 1651 Thời điểm.










Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét