Tiểu sử: Thạch Lam sinh ngày 7-7-1910, tức ngày 1- 6 âm
lịch, năm Canh Tuất tại Thái Hà Ấp, gần Hà Nội; mất ngày 28-6-1942 tại làng Yên
Phụ cạnh Hồ Tây, vì bệnh lao. Bút hiệu khác: Việt Sinh. Là con thứ sáu trong
gia đình, cha là Nguyễn Tường Nhu. Quê nội làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam. Quê
ngoại: huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tên khai sinh hồi nhỏ là Nguyễn Tường
Vinh, năm 15 tuổi làm giấy khai sinh lại, đổi tên là Nguyễn Tường Lân. Năm lên
bảy, cha qua đời. Thủa nhỏ học trường sơ học Cẩm Giàng tới 14 tuổi. 15 tuổi, đỗ
bằng cơ thủy, xin tăng 4 tuổi để được vào học ban thành chung. Ðỗ bằng Thành
Chung năm 16 tuổi, sau đó, vào học trường canh nông, được một năm, xin thôi, vào
học trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất, quyết định nghỉ trường,
ở nhà học các anh.
Từ 1931, Thạch Lam bắt đầu làm báo, viết cho những tuần báo
Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu Thuyết Chủ Nhật. Tác phẩm đầu tay Gió đầu mùa
tuy được độc giả hoan nghênh, nhưng sách của Thạch Lam tương đối vẫn bán chậm
nhất trong Tự Lực văn đoàn. Tập tiểu luận Theo giòng chứng tỏ Thạch
Lam có một quan niệm rõ ràng về sáng tác và một lý luận văn học chặt chẽ.
Tác phẩm đã in: Gió đầu mùa, truyện ngắn, Ðời Nay,
Hà nội, 1937. Nắng trong vườn, truyện ngắn, Ðời Nay, Hà nội, 1938. Ngày
mới, truyện dài, Ðời Nay, Hà Nội, 1939. Theo giòng, tiểu luận văn học, Ðời
Nay, Hà Nội, 1941. Sợi tóc, truyện ngắn, Ðời Nay, Hà Nội, 1942. Hà Nội
băm sáu phố phường, Ðời Nay, Hà Nội, 1943.
Theo báo Thanh Nghị (số 17, ra ngày 16-7-1942), Thạch Lam còn
để lại hai tác phẩm khác, nhan đề Huyền và Thập niên đăng hỏa.
Theo Ðỗ Ðức Thu, Thạch Lam muốn viết Thập niên đăng hỏa “Mười năm đèn lửa”
nhưng cái chết đến quá sớm. Ðinh Hùng cũng nhắc đến thời kỳ thập niên đăng hoả:
“Anh sẽ viết Thập niên đăng hoả, một thiên ký kể lại thời kỳ suốt
mười năm anh dan díu với ả phù dung. Hiện anh đã ly dị cùng ả rồi, nhưng “mười
năm đèn lửa biết bao nhiêu tình”? (xem bài Ðỗ Ðức Thu, Ðinh Hùng, trên Thế Kỷ
21, số này). Theo Tú Mỡ, Thạch Lam có viết kịch. Trong Từ điển văn học, Hà
Nội, 1984, Nguyễn Hoành Khung nhắc đến tùy bút “Nghệ thuật ăn Tết”, bên
cạnh “Hà Nội băm sáu phố phường”.
Khi Ðời Nay, cho in Hà Nội băm sáu phố phường, có hứa ở
trang đầu: “Chúng tôi sẽ còn sưu tầm văn phẩm về đủ các loại của Thạch
Lam để in ra Thạch Lam văn phẩm toàn tập. Tập Hà Nội băm sáu phố phường này là
bước đầu trong công việc ấy”. Tiếc rằng Ðời Nay đã không tiếp tục công việc
sưu tầm văn bản của Thạch Lam, và ngày nay trở thành công việc của chúng ta.
Một chú thích: Trong Văn 36, tưởng niệm Thạch Lam, ra ngày
15-6-1965, có bài sưu tầm của Lãng Nguyên, tựa đề Thạch Lam ký giả và họa
sĩ, với đoạn sau đây: “Ngoài tài viết văn, làm thơ, Thạch Lam còn là
một hoạ sĩ. Khi vẽ ông ký tên thật là Nguyễn Tường Lân. Trong Ngày Nay số 2, ta
thấy có bài phê bình tranh ông như sau: “Bức họa “Hiện vẻ hoa”, cô con gái ngồi
im lặng dưới bức rèm vừa cuốn của Nguyễn Tường Lân làm ta nghĩ đến những bức hoạ
mỹ nhân, nét bút linh diệu nhẹ nhàng của hoạ sĩ Tàu và Nhật. “Trên đường Bắc Kạn”
cũng là một bức họa đẹp nét vẽ giản dị, màu không nhiều. Ông Lân năm nay đã tỏ
ra một họa sĩ có bản năng, các hình màu đã rõ rệt, không có mịt mù như trước nữa.”
Tới năm 1939, tranh vẽ của Thạch Lam đã được họa sĩ Nguyễn Ðỗ
Cung nhận xét rằng“Vẫn dí dỏm gẩy lên những nét vui tươi xinh xắn trên những
đường toàn thể rất sơ sài” (Ngày nay, số 193, ra ngày 23-12-1939).
Khi còn sinh thời họa sĩ Lê Thị Lựu, chúng tôi có hỏi bà về vấn
đề này, thì được biết: Bà có học cùng với Nhất Linh ở trường Mỹ Thuật Ðông
Dương trong một thời gian và hoạ sĩ Nguyễn Tường Lân không phải là Thạch Lam. Mới
đây, chúng tôi hỏi lại họa sĩ Phạm Tăng, thì ông cũng xác định: Họa sĩ Nguyễn
Tường Lân không phải là Thạch Lam, ông đã từng gặp hoạ sĩ Nguyễn Tường Lân
trong kháng chiến, và sau ông Lân bị Việt Minh thủ tiêu vì tình nghi có hoạt động
cho Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Họa sĩ Nguyễn Tường Lân (1906-1947), là tác giả bức
tranh lụa nổi tiếng “Hiện vẻ hoa” vẽ một thiếu nữ hay thiếu phụ ngồi trên đôn sứ,
trước bức rèm cuốn, vẽ năm 1943, hiện để ở Viện bảo tàng Mỹ thuật, Hà Nội.
Hành trình cảm giác
Nếu Thạch Lam là họạ sĩ,
Nếu Thạch Lam là nhạc sĩ,
Nếu Thạch Lam là nhà thơ,
Thật ra Thạch Lam có thể là cả ba, bởi nhà văn ấy ngắt câu bằng
màu, chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình ảnh. Thử ngắm và nghe bức
tranh Thạch Lam vẽ Nắng trong vườn, một bức tranh rất tầm thường, nhìn qua
ta có cảm tưởng như ai cũng có thể viết được:
“… tôi thong thả theo con sông Cống, chạy khuất khúc lên giữa
các đồi. Một cái cầu gỗ mong manh bắc qua sông. Hai rặng thông từ trên đỉnh đồi
chạy xuôi xuống tận gần bờ, giữa luồng gió thoảng và cái tiếng rì rào như nhớ
nhung của lá thông trái gió nhắc tôi nghĩ đến những cảnh rộng rãi, bao la.
Buổi chiều rất êm ả. Về phía tây, mây trời rực rỡ những màu
sáng lạn và ánh nắng chiều loáng một khúc sông, trông như một giải vàng nổi lên
giữa đồi ruộng đã bắt đầu tím lại. Một đàn chim đi ăn về vút bay qua ngang đầu,
tiếng cánh vỗ rào rào như trận mưa; tôi ngửng lên nhìn theo đến khi cái vết đen
linh động của đàn chim lặn hẳn với chân mây.” (Nắng trong vườn, in lại tại Hoa Kỳ,
trang 8)
Ngòi bút vờn phác một dòng sông, có cầu gỗ bắc ngang, chấm
phá thêm hai rặng thông từ trên đỉnh đồi chạy xuống, rồi điệu nhạc thầm
nổi lên với âm chìm của tiếng thông “trái gió”, tiếng nắng chiều
“loáng” trên sông, họa cùng âm nổi trong tiếng chim vỗ cánh “rào
rào” như mưa, tiếng chim “lặn” vào chân mây… tất cả nhịp nhàng
giao hòa trong thanh lặng, như thể cây cọ vẽ đến đâu, nhạc đệm len lỏi đến đấy,
nhạc thoát ra từ thanh âm thầm kín của những con sông chạy khuất khúc,
những cây thông chạy từ đỉnh đồi xuống bờ sông, những lá thông trái
gió/ nắng chiều loáng/ đồi ruộng tím lại/ đàn chim vụt bay/ cánh vỗ rào
rào như mưa, cho đến lúc vết đen của đàn chim lặn hẳn… nhạc cũng chìm
vào chân mây.
Vậy mà dường như Thạch Lam không làm văn cũng không tả cảnh,
ông chỉ đơn thuần ghi lại hành trình cảm giác. Ðối với ông, những ngõ dẫn
con người ra khỏi trạng thái bình thường, tầm thường, để đến với những gì khác
thường, có thể thay đổi toàn diện mạch sống, đôi khi phát xuất từ những cơ
nguyên rất nhỏ như một tia nắng, vài cụm mây, mấy giọt sương, đôi mắt ngây thơ
của đứa trẻ, tia lửa hồng trong lò sưởi… vô vàn hạt châu vây quanh quanh chúng
ta, nhưng chúng ta không thấy, chúng ta vô tình dẫm lên, quay lưng lại. Thạch
Lam lặng lẽ nhặt lên “từng hột sáng” ấy, dẫn chúng ta trở về lối cũ,
dưới gốc hoàng lan, hưởng lại những mùi xưa, mùi tuổi thơ, mùi quê hương đã tàn
phai trong trí nhớ truân chuyên phủ nhiều bụi bặm chua chát của trưởng thành.
Nhà văn bảo chúng ta thử “ngửi cái mùi cát, mùi đất, lẫn mùi khói rác người ta
đốt ở đầu làng buổi chiều, theo gió với sương mà tràn vào trong phố.” rồi Thạch
Lam mách chúng ta nghe “tiếng tích tắc đều đều kêu se sẽ cái sống ban đêm của
giây cót thép”, cho ta biết “nước giữ cái mát của đêm trên mặt, và cây hồng giữ
cái mát của đêm trong kẽ lá”, tất cả những thứ đó tạm gọi là những “thủ
pháp” sống, tiếng Pháp có chữ “trục”, láu hơn; và những nhân vật của Thạch Lam
đầy những “trục” nhỏ như thế, Bính (trong Buổi sớm) cảm thấy “cái yên” và cái
mát” gặp nhau trong giác quan “thứ sáu” của mình: “yên tĩnh và mát quá, một
cái yên tĩnh mát hay một cái mát yên tĩnh chàng cũng không biết nữa” (trang
116), Bính còn nhận ra cả “cái chấm đỏ thắm như màu mệt của một ngọn đèn lục
lộ treo giữa lối, lặng chiếu từ đầu xa” (trang 116).
Phải thính và tinh lắm mới nhìn được những màu sắc như thế,
nghe được những tiếng động như thế, hoặc bắt gặp được “đôi mắt chị bóng tối
ngập đầy dần” như thế (trang 102).
Với giác quan “thứ sáu”, Thạch Lam hay “chú sáu” có khả năng
làm cho cái tĩnh trở thành cái động, cái động trở thành cái tĩnh, đôi khi cả
tĩnh lẫn động cùng lên tiếng một lúc trong cõi giác vô âm: giác quan bí mật của
nhà văn cộng hưởng với óc tưởng tượng của chúng ta; và để tạo nhạc, nhà văn
không cần đến những tiếng động có sẵn, ồn ào bên ngoài.
Âm thanh, màu sắc, hương thơm, thoảng táp vào ngũ quản những
bước âm thầm. Thạch Lam đã tìm ra con đường huyền bí nối liền thiên nhiên và
con người, những huyền bí ấy đôi khi ta cảm thấy, nhưng không thể nói ra, không
thể diễn tả một cách chính xác. Cuộc đi của Thạch Lam bao giờ cũng mở đầu bằng
một ngẫu nhiên hết sức tầm thường:
“Gần hết mùa hè … Tôi không rời bỏ Hà Nội một cách đột nhiên.
Buổi sớm kia, khi trở dậy trong căn phòng nhà trọ, tôi thấy ánh nắng rực rỡ
xuyên qua các khe lá đến nhẩy múa trên mặt tường.
Trời trong và gió mát quá, khiến tôi chợt nhớ đến cánh đồi,
ruộng ở chỗ ông Ba ở mà đã lâu năm tôi chưa về thăm.” (Nắng Trong Vườn,
trang 7).
Ðó là lối kết hợp ngẫu nhiên và thiên nhiên, một bí quyết
nghệ thuật thường thấy trong tác phẩm của Thạch Lam: Hôm nay trời nắng, nẩy ra
ý đi chơi, từ đó sinh ra bao “sự” khác: gặp lá, gặp hoa, gặp người… Hôm nay trời
mưa, giở quyển sách cũ ra đọc, lạc lối đến một chỗ khác, vào những quanh co rắm
rối khác của tư tưởng…
Bên kia sông, quê tác giả, qua con cầu gỗ, có một chốn bí mật
gọi là bến Sen, cậu sáu hồi đó muốn sang khám phá lắm nhưng chưa dám. Tình
cờ có anh bạn ở bên Sen xin vào học cùng trường. Thế là có dịp sang chơi
bên Sen, gặp và yêu chị Thúy… Bà Cả (trong Ðứa con) là một người đàn
bà không có con, keo kiệt và đanh ác. Bỗng một hôm được bế một đứa bé
kháu khỉnh, lòng dịu đi, bà thay đổi thái độ, trở nên rộng rãi gần như nhân từ… Chỉ
cần một chút than hồng, khơi thêm ngọn lửa trong lò sưởi, Vân (trong Bóng
người xưa) đã thấy hiện lên hình ảnh một người vợ khác - người đàn bà trẻ chàng
đã yêu ngày xưa - khác hẳn người vợ già mà chàng luôn luôn dày vò và hành hạ
bây giờ. Ðổi hẳn cách sử xự với vợ, từ lãnh đạm tàn ác chàng trở lại với âu yếm
săn sóc… Chỉ cần một hôm dậy sớm, tiếp nhận “cái yên tĩnh mát” của
buổi sáng và “một thứ ánh sáng lạnh và biêng biếc như thiếc mới” là
Bính thấy “máu bắt đầu chảy mạnh như xô nhau đi đón khí trời trong” và
chàng đã tìm lại được “buổi sáng” mà từ lâu, sống đời trác táng giang
hồ, chàng đã “quên không biết buổi sáng thế nào”…
Thạch Lam khác với những người cùng thời, kể cả các anh.
Trong khi mọi người thi nhau viết tiểu thuyết luận đề, hoặc hiện thực xã hội, với
những mục đích chính xác: lên án xã hội hoặc cổ vũ quần chúng theo con đường mới.
Thạch Lam cũng muốn “tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn
ác” đấy, như ông viết trong “Lời nói đầu” tập Gió đầu mùa, nhưng Thạch
Lam không cải thiện, giáo huấn mà ông nhờ thiên nhiên, nhờ tình cờ nói
hộ để gián tiếp “gơị ý” cho ta biết chỉ một “sự” cỏn con như vậy cũng có thể
thay đổi định mệnh con người; ta có thể sống cao hơn, nhân ái hơn, tại sao
không nghĩ ra? Và tất cả chỉ chênh vênh trên một “sợi tóc”, ai cũng có thể “làm
nên” hay “làm xuống” những truyện tầy đình. Từ chối chỉ đạo mà chỉ gợi ý, Thạch
Lam đã làm công việc của một nhà thơ trong văn và ông coi ngẫu nhiên như
một tất yếu của cuộc sống.
Phê bình Tchekhov, Nabokov có những nhận xét tinh vi: ông
phân biệt Tchekhov với Gorki, theo ông, Tchekhov là nghệ sĩ đích thực (artiste
authentique) còn Gorki là nghệ sĩ giáo khoa (artiste didactique); và Nabokov
thuật lại một giai thoại về Tchekhov, theo lời nhà báo Korolenko, lúc hai người
mới quen nhau, Tchekhov hỏi:
– Anh có biết tôi viết truyện như thế nào không?
– Như…
Korolenko còn đang lưỡng lự chưa biết trả lời thế nào.
Tchekhov nhìn quanh bàn, thấy ngay chiếc gạt tàn thuốc lá, cầm để trước mặt Korolenko
và bảo:
– Nếu anh muốn, ngày mai tôi sẽ có một truyện cho anh, nhan đề
“Chiếc gạt tàn thuốc lá”.
Lập tức, chiếc gạt tàn thuốc lá, đối với Korolenko, đã biến dạng
trở thành cái gì thần diệu: những tình huống hư ảo, những cuộc phiêu lưu nào đó
chưa thành hình, bắt đầu kết tinh chung quanh cái gạt tàn thuốc lá để trước mặt
ông…
Thạch Lam có nhiều điểm giống Tchekhov: như Tchekhov, Thạch
Lam cũng chỉ viết được đoản thiên (truyện dài duy nhất Ngày mới chỉ
là một truyện ngắn kéo dài) và Thạch Lam không viết luận đề cũng không bịa ra
những tình huống éo le cho hợp với “chủ đề”. Thế Lữ kể: Thạch Lam không cần tìm
“đầu đề”, tìm “câu chuyện”. Ðúng vậy, với Thạch Lam, cái gì cũng có thể là một
“đầu đề”, kể cả sợi tóc. Hơn nữa, một nhà văn đích thực, trên nguyên tắc, không
thể “bí” được, tại sao? vì họ có thể “xoay” được trong tất cả mọi tình huống.
Trong đời sống, mỗi thực thể đều có một “sự sống” riêng, kể cả sợi tóc, kể cả
chiếc gạt tàn thuốc lá… vấn đề là bạn có đủ tinh tế để nhận ra và đủ óc tưởng
tượng để kết nối những tương quan trong trời đất, trong đồ vật, sự vật và con
người với nhau không. Nếu đầy đủ những khả năng ấy thì lúc nào và ở đâu, bạn
cũng có thể viết được, nếu thực sự muốn viết.
Tchekhov có thể viết dễ. Còn Thạch Lam, vẫn theo Thế Lữ, cũng
viết dễ: “cái người tối hôm trước trả lời tôi rằng chưa biết viết gì, sáng
hôm sau đã cho tôi cảm động vì một tập truyện viết đều hàng, nét chữ nhỏ và
nhanh, câu văn đằm thắm… ” (Thế Lữ, Tính cách tạo tác của Thạch Lam,
Thanh Nghị số 39, in lại trong Văn số 60, tháng 6-1966); nhưng Hồ Dzếnh lại bảo
Thạch Lam viết rất khó: “Thạch Lam là người viết rất khó khăn và thận trọng.
Có những truyện anh phải viết đi và sửa lại tới bốn lần như truyện Sợi tóc, Một
cơn giận, Nhà mẹ Lê” (Hồ Dzếnh, Với Thạch Lam, tạp chí Sông Hương, số
31 tháng 5-6, 1988, in lại trong Tự Lực Văn Ðoàn trong tiến trình văn hoá
dân tộc, nxb Văn hoá Thông Tin, Hà Nội 2000, trang 506).
Cả Thế Lữ lẫn Hồ Dzếnh đều có lý, bởi cái dễ và cái khó có thể
hiểu theo nhiều cách, ngay khi Tchekhov tuyên bố như trên cũng chưa chắc là ông
viết dễ. Nói là dễ, bởi trong đầu những nghệ sĩ đích thực luôn luôn có nhiều
tia sáng lóe ra về bất cứ một đề tài, một bối cảnh, một nhân vật, một tình huống…
gì, có thể gọi là những tia sáng tạo, là cảm hứng này khác, Lâm Ngữ Ðường gọi
là những “con trùng” nó đục, nó thúc, bắt buộc phải viết, phải vẽ, phải làm
thơ… nếu không thì không thể chịu được. Nhưng sau cái “khâu” trùng phá hoại hay
“xúi dại” đến công việc đứng đắn hơn, tức là sửa lại văn bản, một mình khổ sai
với chữ nghĩa, Lê Ðạt gọi là “phu chữ”, việc ấy nhanh hay chậm tùy người.
Phê bình Thạch Lam, Vũ Ngọc Phan cho rằng Thạch Lam “tiến bộ”
rất nhiều từ hai tập truyện ngắn Gió đầu mùa, Nắng trong vườn sang
đến Sợi tóc. Theo ông, trong Sợi tóccó năm truyện thì chỉ có Dưới
bóng hoàng lan là tầm thường còn bốn truyện kia thuộc loại những truyện
ngắn hay nhất Việt Nam. Cảm nhận như thế, có thể bởi Vũ Ngọc Phan không tinh tế
như Thạch Lam, cho nên ông đã không tiếp nhận được những cái hay khác của
Thạch Lam, trong Gió đầu mùa, nhất là Nắng trong vườn, mà ông
cho là nhà văn chỉ “chuyên tả cảnh”, hết “nương chè bên sườn đồi” lại đến “vườn
sắn bên sườn đồi”… và rất tiếc là nhiều người viết sau hay chép lại nhận định của
Vũ Ngọc Phan mà không suy xét, kể cả một người khá thận trọng như Ðỗ Ðức Thu…
Còn một hướng khác, đến từ một số nhà phê bình muốn kéo Thạch Lam vào hàng ngũ
những nhà văn “đấu tranh giai cấp” và có lẽ “nhờ đó” mà Thạch Lam là nhà văn
trong Tự Lực văn đoàn được “phục hồi” sớm nhất. Tuy nhiên kéo vĩnh cửu xuống nhất
thời cũng là điều chẳng nên làm, hãy để Thạch Lam giữ nguyên địa vị nhà văn
đích thực của ông, với những tư tưởng nghệ thuật và nhân văn vượt trên mọi yếu
tố tranh chấp nhất thời của các cuộc cách mạng này khác.
Số sáu có nhiều gắn bó với Thạch Lam, sinh vào
tháng sáu âm lịch, mất tháng sáu dương lịch, là người con
thứ sáu trong gia đình Nguyễn Tường, trong cuộc đời ngắn ngủi 32 năm,
kể cả đoản thiên đầu tay Cô áo lụa hồng, in trên Phong hóa, số ngày
4-10-1935, là hơn sáu năm đích thực viết văn, Thạch Lam đã để lại sáu cuốn
sách nhỏ, trung bình mỗi năm một cuốn: Gió đầu mùa (1937), Nắng
trong vườn (1938), Ngày mới, tiểu thuyết (1939), Theo giòng, tiểu
luận (1941), Sợi tóc (1942), Hà Nội băm sáu phố phường(1943).
Những truyện ngắn của Thạch Lam trong ba tập Gió đầu mùa, Nắng Trong vườn, Sợi
tóc và tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường là một chuỗi tác
phẩm viết khá đều tay, mỗi quyển đều có một số truyện thật hay, xứng đáng
xếp vào loại những truyện ngắn giá trị của Việt nam trong thế kỷ hai mươi.
Một tác giả viết đều đều, với phẩm chất cao như thế là nhiều
chứ không phải ít. Nhiều người trách Thạch Lam viết ít, cũng là trách vội. Có lẽ
Thạch Lam chỉ cho in những gì ông biết là sẽ trụ được, trong khi khá nhiều tác
giả nổi tiếng thường hay tham lam, lạm dụng tên tuổi của mình, gì cũng in, làm
ô nhiễm những tác phẩm giá trị của chính mình và trong một chừng mức nào đó
đánh lừa độc giả.
Nắng trong vườn
Nhận xét về Thạch Lam, Khái Hưng đưa ra một nét rất chính
xác: Thạch Lam dám viết hết những cảm nghĩ trong đầu: “Ở Thạch
Lam sự thành thật trở nên sự can đảm, đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi
rùng rợn cả tâm hồn. Tôi xin thú thật rằng những điều nhận xét gay go về mình
và những người sống chung quanh mình, tôi cũng thường có song vị tất đã dám viết
ra. Tôi vẫn ước ao có cái can đảm ấy nhưng không sao có được cái can đảm mà tôi
thấy ở Tolstoi, mà trong đám văn sĩ mới ở nước ta tôi thấy ở Thạch Lam. Lòng ta
là một thế giới mênh mông, nếu ta để trí suy xét của ta len vào các ngách các
nơi kín tối chăm chỉ tìm tòi, ta sẽ thấy nhiều mới lạ. Tưởng sống tới trăm tuổi
ta cũng không biết thực rõ được lòng ta” (trích theo Phạm Thế Ngũ, Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III , Ðại Nam in lại, trang 495).”
Ðúng là Thạch Lam có bạo hơn các anh, bạo hơn những nhà văn
cùng thời. Ông dám viết và dám sống những gì ít ai dám làm,
trong thời ấy: Thạch Lam là người duy nhất trong gia đình lấy vợ vì yêu (theo
Thế Uyên). Các anh Nhất Linh, Hoàng Ðạo đều hô hào tự do hôn nhân, nhưng các
ông lại lấy vợ theo diện bà mối, thậm chí các ông còn chẳng thèm đi xem mặt cô
dâu, mà nhờ em gái xem hộ (hồi ký Nguyễn Thị Thế). Sự kiện này, làm cho chúng
ta hiểu rõ hơn thái độ cực kỳ mới của Thạch Lam trong Nắng trong
vườnvới những đoản văn có tính chất tự truyện đầy nét tính dục: Các cô chỉ 15,
16; chàng “tuổi chỉ mới mười ba” đã yêu lần đầu. Thời ấy, trong văn chưa có
“nhà nào” bạo thế, trừ đám nhà thơ vẫn quen yêu sớm: Nguyễn Bính chả biết mấy
tuổi đã yêu “Chị Trúc”, Hoàng Cầm, 7 tuổi đã biết yêu, 12 tuổi yêu da diết “chị
Vinh” (lá diêu bông), nhưng cả hai đàn em này vẫn chưa bằng anh Thạch Lam, ở tuổi
13 (vào khoảng năm 1923) đã dám yêu “chị Thúy”, tức là cậu sáu hồi đó bằng “tuổi
của nàng”, Nguyên Sa ba mươi năm sau! Yêu sớm cũng chẳng có gì ghê gớm, thiếu
gì người làm được, kể cả anh Khái Hưng, nhưng cái tái táo bạo của Thạch Lam là
dám viết phăng ra trên giấy trắng mực đen điều đó ở thời điểm nghi lễ tôn
nghiêm, anh cả, anh hai, anh ba, anh tư đều mẹ đặt đâu, con xin ngồi đấy; đám
cưới anh Tam áo the khăn đoạn, xe rước râu chạy mấy vòng Hà Nội. Có phải chính ở
cái chỗ “can đảm” ấy mà em Sáu đã làm cho anh Hưng phải “rùng rợn cả tâm hồn”
chăng?
Rùng rợn hay không, Thạch Lam là người đi trước thời đại, tự
do trong một xã hội đầy cấm kỵ và thành kiến. Thạch Lam không đòi hỏi tự do như
những người khác mà ông thể hiện tự do qua cách sống và yêu một
cách hồn nhiên, không gượng ép, không mảy may nề hà đến nền đạo lý chặt chẽ bao
bọc chung quanh: Hậu trong truyện Nắng trong vườn, mới 15, 16 tuổi đã
không ngừng tấn công cậu Bính rất sát: “Hậu ngồi sát lại bên tôi, tôi nghe
thấy hơi thở của cô rồn rập. Buổi sớm cô mặc cái áo lụa mỏng màu đỏ, càng tươi
bên nước da trắng muốt của Hậu. Tôi đoán thấy cái thân hình mềm mại, hai cánh
tay chắc rắn, đôi vú nhỏ và tròn. Người Hậu như thoảng ra một thứ hương thơm
ngát và say sưa” (sđd, trang 20). “Hậu đưa tay nắm lấy tay tôi, lần
lên vai rồi kéo tôi lại gần mình. Mái tóc chúng tôi vướng vào nhau, tôi thấy
trước môi tôi cái miệng xinh thắm của nàng. Chúng tôi lặng lẽ ôm lấy nhau, say
sưa trong cái hôn đầu tiên đắm đuối của linh hồn”. (trang 21)
Một đêm trăng rằm, cả gia đình đi xem hội bắt cá ở làng Vị,
được người anh họ giữ lại xem hội đêm, mình Hậu phải về trông nhà, Bính cũng
“tìm cớ thoái thác xin về”, và “Thế là chỉ có hai chúng tôi xuống thuyền.
Bấy giờ trời đã tối, trăng bắt đầu lên, một mặt trăng vàng đỏ, to như một cái
nia, từ từ nhô lên sau rặng thông ở chân đồi. Tôi đỡ Hậu xuống thuyền, rồi
chúng tôi cởi giầy, để mặc thuyền theo giòng suối (… )
Vừa xuống thuyền, Hậu đã ôm quàng lấy tôi, kê đầu vào má tôi,
ngập ngừng nói những lời ân ái. Tôi thấy tấm thân trẻ và dẻo dang của Hậu quấn
lấy tôi như một giây leo. Chúng tôi hòa hơi thở với nhau, tóc nàng bỗng buông
sõa trên người tôi, thoảng ra một thứ hương ngát dịu và đầm ấm.
Khi tiếng trống hội làng Vị đã nghe không rõ, Hậu ngồi dậy ở
đầu thuyền, một tay dúng xuống sông? Nàng nghịch tung những hạt nước long lanh
sáng như hạt ngọc”(trang 24).
So sánh đoạn văn này (viết khoảng những năm 36-37), với những
đoản văn khác của những người cùng thời viết về tình yêu, về sự gần gũi thể
xác, mới thấy Thạch Lam đi trước thời đại.
Người bạo nhất, có lẽ là Khái Hưng trong Hồn Bướm mơ
tiên, từ 1933, đã cho Ngọc tán sát chú tiểu Lan, dụ chú tiểu ngủ cùng, nhiều lần
cố tình đẩy chú tiểu ngã vào lòng mình, Khái Hưng đưa ra cảnh “chạy đàn” bất hủ,
cảnh Ngọc đằng co với chú tiểu, Lan ngã, bị xổ áo, rất sexy, nhưng Khái Hưng
chưa dám cho các nhân vật hôn nhau, kể cả trong Trống Mái. Nguyễn Tuân mới
chỉ lơ mơ nhắc đến các “cố nhân”. Nhất Linh trong Ðoạn tuyệt, Ðôi bạn, gần
như yêu chay, đến Bướm trắng, Trương chỉ được tiếp xúc thể xác một
cách rất hàm thụ với Thu qua trung gian chiếc áo cánh, và khi được hôn Thu là
đã tự cho mình đi đến “một mực cao cực điểm và từ nay trở đi chỉ là lúc
tàn dần” (Bướm trắng, in lại ở Hoa Kỳ, trang 151).
Nắng trong vườn là một truyện tình mùa hè giữa người con
gái 15, 16 và cậu học trò 18, từ Hà Nội về quê nghỉ hè ở nhà người bạn cũ của
cha trên đồn điền trồng sắn và trà. Hậu là con gái trại chủ. Nắng trong vườn,
giữa thập niên ba mươi, Thạch Lam không viết một truyện tình lãng mạn kiểu cũ nữa,
không yêu thầm, nhớ trộm trong tim, trong óc, mà là một truyện tình consommer,
tình đi tới đích thể xác và không “có hậu”. Các nhân vật của Thạch Lam không sử
sự với nhau như Dũng, Loan trong Ðoạn tuyệt, Ðôi bạn, như Mai, Lộc
trong Gánh hàng hoa, họ đi thẳng vào “thực chất vấn đề”, không qua
trung gian lễ nghi, cưới hỏi, đạo đức xã hội.
Truyện của Thạch Lam có không khí tự do của thập niên 60, những
năm “đợt sóng mới” (nouvelles vagues) trong Bonjour tristesse-Buồn ơi chào
mi, với những mối tình mùa hè, hết hè chia tay, rất thực tiễn, không thề thốt
yêu nhau trọn đời, bởi ở tuổi ấy đã biết thế nào là trọn đời, mà thề thốt? Rồi
xa nhau vì chính họ quyết định như thế: hết hè, Bính về HàNội, không
thư từ cho Hậu nữa. Trước khi yêu Bính, Hậu cũng biết rồi sẽ như thế, nhưng vẫn
bước vào cuộc tình. Sự đắm đuối ở những mối tình trong tập Nắng trong vườn đậm
chất thể xác “Hậu quấn lấy tôi như một giây leo”, người con gái
biết thân xác mình là thuộc về mình chứ không thuộc về cha mẹ, và đó là một
trong những yếu tính căn bản của ý thức tự do. Trong truyện “Ðêm sáng
trăng”, Mai đã sống với người yêu những đêm trăng thần tiên trước khi đi lấy
chồng và trước ngày cưới người ta thấy “nàng nằm chết dưới vệ ao, mái tóc xổ ra
vướng lẫn với cánh bèo” (trang 73).
Ðêm sáng trăng là một huyền thoại mới về tình yêu, với
những bức tranh tuyệt đẹp:”Trong cái vườn nhỏ bên bờ ao, Tuấn nằm trên chiếc
chõng kê vào bóng tối, ngửa mặt lên trời. Chàng nhìn trăng qua cành là tre,
cành lá sắc và đen như mực vắt qua mặt trăng như một bức tranh tàu. Rêu ở tấm
đá gần đó bốc lên hơi lạnh. Bức tường hoa giữa vườn sáng ánh trăng lên, lá lựu
dày và nhỏ lấp lánh như thủy tinh.
Bóng cây trông mát quá, thân mật và kín đáo. Tim chàng đập mạnh
lên. Tuấn với tay và lắng tai nghe; như có tiếng là động, tiếng chân đi nhẹ
nhàng, và nhỏ nhắn. Một cành cây cong xuống, rồi vụt lên, lá rung động ánh
trăng như ánh nước.
Khóm hoa đơn rẽ ra, một bóng trắng mơ hồ tiến lại. Tuấn giơ
tay ôm lấy, cảm động thì thầm:
– Mai… em…
Nàng không trả lời, đến gần rồi yên lặng ngả người vào lòng
chàng.
Tuấn cúi mặt vào đống tóc thơm, ngạt ngào một mùi hương quen
mến. Tay ôm chặt lấy nhau, quấn chặt. Chàng tìm đôi môi xinh đẹp của nàng, hé ra,
hai hàm răng chạm vào nhau trong một cái hôn say mê và đắm đuối.
Hồi lâu, hai người buông nhau ra. Mai gỡ tay vuốt lại mái tóc
rối, những sợi tóc tung ra vuốt buồn trên da mặt chàng, vì hai người vẫn gần
nhau quá. Họ nhìn nhau bàng hoàng, Tuấn thấy trong bóng tối của vành khăn, hai
con mắt Mai long lanh yêu mến. Chàng đỡ lấy nàng, uốn xuống để ánh trăng soi tỏ
mặt… ” (trang 66-67)
“Nàng vòng tay qua cổ Tuấn kéo chàng cúi xuống nàng hòa hợp
trong một cái hôn lặng lẽ. Ðôi môi nàng chảy máu và đau đớn. Mai sung sướng chịu
đau, gửi thác trong cánh tay Tuấn tất cả thân thể và tâm hồn trong sạch của
nàng” (trang 72).
Nhiều yếu tố cổ điển có mặt trong truyện ngắn này: cô hàng
xóm, bé tý đã “lách rào chui sang vườn nhà Tuấn, rủ nhau ngồi thì thầm
trong bóng tối như hai đứa trẻ phạm lỗi. Ðến khi tiếng mẹ gọi vọng bên kia, Mai
mới bỏ tay Tuấn lách hàng rào chạy về” (trang 67). Năm mười ba tuổi, Tuấn lên tỉnh
học, quên dần cô láng giềng… Cho đến hôm mẹ chàng từ quê ra, tình cờ kể chuyện
cô Mai hàng xóm sắp về nhà chồng, Tuấn mới quyết định trở về thăm Mai…
Thạch Lam khởi đi từ sự táo bạo rất Nguyễn Du xắn tay mở
khoá động đào, bước qua tình láng giềng Nguyễn Bính nhà nàng ở cạnh
nhà tôi, và tìm đến cái chết bi kịch Roméo et Juliette để viết một truyện tình.
Một truyện tình giản dị phi thời gian không gian: nếu không có “bóng tối của
vành khăn”, người đọc không thể xác định được Tuấn và Mai đang sống ở thời nào,
họ chỉ là hai kẻ yêu nhau, và Mai, một mình, yêu đến chết.
Hai đứa trẻ (chuyện thật của hai chị em Thạch Lam, theo
Nguyễn Thị Thế), một trong những truyện ngắn hay nhất của Thạch Lam dựa nền
trên sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Những điểm sáng loé lên trong đêm
tối tựa như những ánh diêm soi đêm đông buốt giá sưởi ấm những giấc mơ của đứa
nhỏ trong truyện cổ tích Andersen. Thạch Lam viết về hai đứa bé sống ở một huyện
lỵ, tối tối, sau khi đóng cửa hàng tạp hóa nhỏ và nghèo của mẹ, hai chị em ngồi
chõng ngắm sao, ngắm phố… Trong bóng tối, hai đứa bé nhìn, đếm những ánh sao
trên trời và chờ đợi những đốm lửa hiện ra ở chung quanh; mỗi lần gặp một đốm
sáng, cuộc sống nội tâm của hai chị em lại bừng lên. Mỗi đêm, chúng sống một hiện
thực đầy mộng tưởng, mỗi hình ảnh tạt ngang qua mắt, mỗi âm thanh vẳng đến bên
tai gieo vào lòng hai chị em một mảnh đời, gợi lại trong ký ức chúng những lam
lũ chung quanh. Hai đứa bé nghèo không có gia sản gì, trừ bóng tối, và từ bóng
tối ấy, dấy lên những đốm lửa soi rạng tâm hồn chúng.
Câu chuyện bắt đầu từ ban chiều, buổi chiều tàn với những nét
rực rỡ: “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như
hòn than sắp tàn. Giẫy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền
trời” (trang 102). Các nguồn sáng toả ra từ một đám cháy: mặt trời và mây
cùng bốc hoả, đốt dãy tre làng đen lại -đen lại chứ không phải đen- từ đen đến
đen lại đã có chuyển động, rồi chính rặng tre đen, lại cắt hình trên nền trời
như một nghệ sĩ tạo hình. Và chuyển động vẫn tiết tục: “Tối hết cả, con đường
thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại xẫm đen
hơn nữa, giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tý, và cái bếp lửa của bác Siêu; chiếu
sáng một vùng đất cát. Trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ,
thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa.” (trang 109).
Thạch Lam đi từ vĩ mô đến vi mô, thoạt tiên, ống kính nhà văn
hướng về mặt trời, từ từ chuyển sang mây rồi di xuống những con đường làng và
“zoom” lại trên ngọn đèn của chị Tý, quay sang bếp lửa bác Siêu, dừng lại trên
ngọn đèn con của chị em Liên rồi chiếu xuống cả những “hột sáng” lọt qua phên nứa.
Ðấy mới là phần “ngoại cảnh”. Về phía “nội dung”, ngòi bút của Thạch Lam nhẹ
nhàng lướt qua phố huyện ban đêm “Các nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo
trong nhà bác phở Mỹ, đèn hoa kỳ leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn giây sáng
xanh trong hiệu khách… Những nguồn ánh sáng ấy đều chiếu ra ngoài phố khiến cát
lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên
tối.
Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng
mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ấm
bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em
Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này” (trang 103).
Bút dạo một vòng phố huyện, đến từng trạm sáng, ở mỗi trạm
bút rực lên một chút, như để táp sáng cho người và vật, tỏ sự hân hoan mừng rỡ
chào đón một nguồn sáng mới: “Về phiá huyện, một chấm lửa khác nhỏ và vàng
lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi, rồi lại hiện ra. An trỏ tay bảo chị:
– Kìa, hàng phở bác Siêu đã đến kia rồi.” (trang 108)
Không ai bị bỏ quên, từ hạt cát, hòn đá, đến vỏ bưởi, vỏ
nhãn, vỏ thị, lá nhãn, bã mía, rồi chuyển sang mùi: mùi cát bụi, mùi đất, và
mùi quê hương, lần này nhà văn lại đi từ cái nhỏ nhất, hạt cát, để đến cái lớn
nhất, mùi quê hương. Ðời sống phố huyện đêm, từ từ mở ra với những điểm sáng
lác đác ở nhà bác phở Mỹ, nhà ông Cửu, ở hiệu khách… càng về đêm càng khép lại,
càng thu nhỏ đi, tàn lụi dần với những điểm sáng cô đơn cuối cùng, leo lét bên
những thân phận nhỏ nhoi, xoay quanh ngọn đèn chị Tý, bếp lửa bác Siêu, gia
đình bác Xẩm với chiếc thau sắt trắng và ngọn đèn con của chị em Liên. Úp trên
những chấm sáng nhỏ nhoi ấy, là một “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh
nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay
len vào cành cây” (trang 108), “Qua khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp
lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa
rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. (… )
Trống cầm canh ở huyện đang tung lên một tiếng ngắn, khô
khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào trong tối. Người vắng mãi; trên
hàng ghế chị Tý mới có hai, ba bác phu ngồi uống nước và ăn thuốc lào” (trang
111). Ðặt ngàn sao bên một con đom đóm, hài hòa cái lớn và cái nhỏ, nhà văn tạo
sự tương phản không những trong thân phận con người mà còn tìm đến những tương
phản trong thiên nhiên, vũ trụ. Nghệ thuật của Thạch Lam trong toàn thể truyện
ngắn này là giao cảm, chỉ trong ba chữ “người vắng mãi”, ông đã tạo được một
vùng bí mật của chốn không người, rồi trống cầm canh tung lên, ngàn
sao ganh nhau lấp lánh, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa rụng
xuống vai Liên khe khẽ…
Những chữ: mãi, tung, ganh, nhấp nháy… ở đây, giữ nguyên chất
quyến rũ bí mật của chúng, tại sao lại mãi, lại tung, lại ganh,
lại nhấp nháy? Bởi vì những chữ ấy đã tách biệt thế giới Thạch Lam với những
thế giới khác, một thế giới thuần túy nghệ thuật, có những ngôi sao ganh nhau,
những tiếng trống cầm canh tung lên rồi chìm vào bóng tối, những con
đom đóm tỏa vùng ánh sáng xanh nhấp nháy bung ra như những cánh hoa
khe khẽ “rụng ” xuống… vai Liên. Ở đấy, người vắng mãi, một chữ mãi ẩn
bao nhiêu ngụ ý: người chờ người, người mong người, quán đêm vắng chờ khách, chờ
sự sống, chờ ngày mai… Phố huyện Thạch Lam thầm thì những tiếng bí mật như thế,
tiếng của thanh vắng, của đêm khuya, của thiên nhiên và con người im lặng giao
cảm với nhau trong vũ trụ. Ðối diện với cái nhỏ nhoi tăm tối của người dân
nghèo trong phố huyện là một vũ trụ bao la đầy ánh sáng huyền ảo của thiên
nhiên và vạn vật, nhưng với chị em An, Liên trạm sáng đẹp nhất của mỗi đêm
là chuyến tầu qua tỉnh lỵ.
Hai chị em đêm nào cũng cố thức chờ tầu, không chỉ để vâng lời
mẹ đón khách mua hàng. Thằng nhỏ buồn ngủ nhíp mắt, nhưng vẫn dặn chị nhớ gọi
em dậy khi tầu đến, vì sao, vì tầu sẽ đưa chúng viễn du ra khỏi phố huyện, đem
chúng vào những giấc mơ:
“Chuyến tầu đêm nay không giống như mọi khi, thưa vắng người
và hình như kém sang hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội
xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.
Con tầu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới
khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của
bác Siêu. Ðêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng
ruộng mênh mang và yên lặng.”(trang 112).
Phố huyện với từng ấy tâm hồn “trong bóng tối mong đợi một
cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ” và ánh sáng
Hà thành do con tầu chở đến, đem lại cho huyện nhỏ vài phút mộng mơ. Nhưng con
tàu chở ánh sáng ấy, chưa đến đã vội bước đi, như một niềm vui vừa bùng lên đã
lụi tàn trong khoảnh khắc, “chiếc tầu đi vào đêm tối, để lại những đốm
than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc
đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.” (trang
112).Con tầu như chiếc que diêm của đứa bé trong truyện cổ tích Anderson, lóe
lên ánh lửa rồi tàn ngay trên những kiếp người cô đơn bỏ lại trong con phố tịch
mịch và đầy bóng tối.
Nếu trong một số truyện ngắn Thạch Lam cố ý đứng riêng, đứng
ngoài, để khách quan viết về các nhân vật của mình, thì trong truyện Người
đầm, như một người viết “sơ hở” tác giả để lộ lòng mình. Cơ sự xẩy ra là do lỗi
của một người: người đầm.
Người ấy đi xem ciné mà lại không ngồi lô, không ngồi hạng nhất, “một
người Pháp, mà lại là một người đàn bà, ngồi ở hạng nhì lẫn với người!” chữ người sau
cùng thật ghê, chỉ một mình nó đã nói thay bao chữ lớn lao về nhân quyền, về chế
độ thực dân, về những đàn áp… mình nó bao trùm lên những thái độ, những chế độ
không coi người là người.
Người đầm này cùng chung làn sóng với Thạch Lam, đã dám làm
những việc mà người khác không làm: bởi thời ấy, các người đầm không bao giờ ngồi
lẫn với “người” như thế.
Thạch Lam tình cờ gặp gỡ “người đầm”, người đàn bà Pháp
mới đến, lạ lẫm, không giống ai, một mình với đứa con bơ vơ trên mảnh đất xa lạ
đầy cạm bẫy. Lướt qua những ánh mắt “lãnh đạm và ác cảm” chiếu vào hai mẹ con,
Thạch Lam, cũng một mình, can đảm đi ngược chiều “cộng đồng”, dám biện hộ cho
“kẻ thù” dân tộc. Trút mọi thành kiến, hận thù, để chỉ nhìn con người trần trụi
dưới lăng kính của cảm thông: người đàn bà tội nghiệp ấy với những ngơ ngác,
nhũn nhặn, tế nhị và nhân ái đã làm đảo chao mọi thành kiến về người Pháp và dẫn
nhà văn đến một mối tương quan khác, lên trên và ra ngoài tương quan thực dân –
thuộc địa, để trụ lại ở sự cảm thông, lòng trắc ẩn giữa người và người, đến
tình nhân loại.
Thạch Lam khám phá ra những vùng bí mật ấy của con người bằng
một bút pháp sẽ sàng, gần như thầm lặng. Những chữ bé nhỏ ấy hoá ra lại có khả
năng tỏa sáng bằng bao nhiêu lời lẽ ồn ào, chúng dịu dàng chiếu vào những tương
phản, tạo sáng-tối trong bức tranh đời sống. Nhà văn thường nhặt nhạnh ở chỗ
chúng ta không ngờ nhất: một chút sương, vài ba gáo nước, hai gốc thông, mấy tượng
đá dấu trong cỏ… những dấu ấn nhỏ nhoi đưa chúng ta vào hành trình cảm giác đôi
khi có thể làm thay đổi cả một lẽ sống, một mấu chốt suy tưởng.
Gió đầu mùa và Sợi tóc
Về cách trình bày xã hội Việt Nam những năm 30-40, chúng ta
có thể nhìn thấy rất rõ hai mẫu hình: mẫu Tự Lực Văn Ðoàn, gồm các ông Tuần, bà
Án, tượng trưng cho lớp già trong “chế độ” cũ đối chọi với những Loan, Nhung,
Mai… lớp trẻ, phản kháng chế độ. Và mẫu hiện thực phê phán xã hội gồm bọn cường
hào ác bá đàn áp bóc lột và người dân quê thấp cổ bé miệng trong các tiểu thuyết
Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài…
Thạch Lam không chiếu ống kính vào những nhân vật nằm trong
hai phạm trù trên đây, dường như với ông, con người phức tạp hơn, không dễ chia
cắt thành hai giới tuyến thiện ác thường xuyên đối chọi nhau kịch liệt như thế;
ngoài ra, con người còn có trách nhiệm tự thân về những hành động của chính
mình, cả trong những xã hội khép kín nhất.
Sớm nhìn đến vấn đề trách nhiệm cá nhân, những người con gái
trong truyện của Thạch Lam trao thân cho người yêu không cần hỏi ý cha mẹ. Liên
trong Một đời người, tuy bị chồng và mẹ chồng hành hạ, nhưng vẫn không bỏ
chồng theo người yêu, một phần vì nàng thiếu tự tin và không dứt khoát, Liên
không chỉ là nạn nhân xã hội. Những khổ đau của Dung trong Hai lần chết đã
bắt nguồn từ khi chào đời, bị cha mẹ ghét vì Dung “yếu đuối, ghẻ lở, bẩn thỉu,
khó nuôi” và khi bị gả chồng thì chính sự yếu đuối thể xác của Dung đã không
cho phép nàng thoát ly gia đình. Dung cũng không thuộc lớp người phản kháng chế
độ cũ, bởi ở nàng không phải là sự phản kháng mà là sự đầu hàng vô điều kiện.
Thoát khỏi những cliché thời đại, tác phẩm Thạch Lam mở ra một
xã hội Việt Nam dưới những khía cạnh ít thấy xuất hiện trong tiểu thuyết lúc bấy
giờ: một xã hội đói và buồn, như có gì báo trước thảm cảnh Ất Dậu.
Trước hết là cái đói. Cái đói trong Gió đầu mùa và Sợi
tóc phũ phàng cuốn từ Nhà mẹ Lê sang người phu xe Dư trong Một
cơn giận, đến anh Bào người học trò giỏi và đẹp như con gái trong Người bạn
trẻ, lan đến Sinh người thanh niên bị mất việc trong Ðói, rồi đến
Liên và Huệ, hai cô gái điếm trơ trọi trong căn phòng săm ẩm mốc Tối ba mươi, và
cuối cùng đến Thành, chỉ xém một ly đã tránh khỏi việc ăn cắp tiền trong Sợi
tóc.
Trừ gia đình bác Lê, bác Dư là những người thật nghèo, còn lại
phần đông là cái đói của giai cấp trung lưu, thành thị. Cái đói của một xã hội
phá sản không có việc làm.
Ði đôi với cái đói là sự cô đơn. Cá nhân lạc loài trong xã hội
như những bóng ma đơn côi, không ai giúp ai được. Thạch Lam dự báo cái đói và ý
thức cá nhân: mỗi người có một phản ứng khác nhau trước cái nghèo, cái đói, như
Tâm trong truyện Trở về, chọn lối thoát ngắn nhất lấy vợ giầu, đoạn tuyệt
với dĩ vãng, dĩ vãng nghèo đói ở quê với mẹ mà chàng cho là bẩn thỉu, tồi tàn
và chàng vội vàng chạy vọt ô tô, bắn vọt bùn lên quần áo mẹ, để người vợ giầu
khỏi thấy di tích cái quá khứ lấm lem của mình. Hoặc như Minh trong truyện Cái
chân què, liên miên bị ám ảnh bởi đồng tiền và khi chàng được nhiều tiền
nhất là lúc chàng bị tai nạn xe hơi, phải cưa chân và được hãng bảo hiểm đền
cho một món kếch sù. Minh yêu đời trở lại. Sau một thời gian chơi bời trác
táng, trở về tay trắng, Minh mới cảm thấy rân ran đau “cả vết thương ở
ngoài hình thể và trong tâm hồn”.
Trong ba truyện ngắn Ðói, Một cơn giận và Sợi
tóc Thạch Lam đã tận dụng những nghiệm sinh của chính mình. Ðói, mổ xẻ
bản năng sinh tồn của con người dưới những khiá cạnh ghen tuông, tham lam,
thành kiến, độc ác… Một cơn giận mô tả tình huống một người, chỉ vì một
cơn giận gần như vô cớ, đã đối xử tàn nhẫn với một người phu xe, đẩy thân phận
xấu số này tới bi kịch. Và Sợi tóc, viết về hành trình của Thanh, một người
đi từ “lương thiện” đến “ăn cắp”, với tất cả những chuẩn bị, tính toán, đắn đo,
liệu lượng… cuối cùng không hiểu sao, lại “thoát”, không phạm tội.Và Thanh cho
biết: “Tôi cảm thấy một cái thú khoái lạc kỳ dị, khe khẽ và thầm lặng rung
động trong người, có lẽ là cái khoái lạc bị cám dỗ, mà có lẽ cái khoái lạc đã đè
nén được sự cám dỗ. Và một mối tiếc ngấm ngầm, tôi không tự thú cho tôi biết và
cũng cố ý không nghĩ đến, khiến cho cái cảm giác ấy của tâm hồn tôi thêm một vẻ
rờn rợn và sâu sắc” (Sợi tóc, Sống mới tái bản tại Hoa Kỳ, trang 77). Ăn cắp
hay không ăn cắp? That is the question: “Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi không
biết… Có lẽ chỉ một lời nói không đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía này hay phía
kia, đã khiến tôi có ăn cắp hay không ăn cắp. Chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì
đó, chia địa giới của hai bên. (… ) Hình như những ý nghĩ ham muốn hay trù trừ
tối ấy, không phải là của tôi, hình như của ai ấy, của một người nào khác lạ,
khác với cái người thường của tôi bây giờ… “ (trang 78).
Bộ ba truyện ngắn trên đây chứng tỏ lối phân tích tâm lý của
Thạch Lam nhưng năm 40 cũng đã đẩy xa hơn những người cùng thời, và nếu có
thua, thì cũng chỉ thua người anh, thua sự dài hơi của Nhất Linh trong Bướm
trắng, bởi trong Bướm trắng những phân tích tâm lý chi li như vậy, chạy
suốt dọc chiều dài tác phẩm.
Trong bối cảnh phá sản của xã hội, người phụ nữ hiện ra như
những đốm sao băng, như Liên và Huệ trong đêm ba mươi, chìm nghỉm với miếng
ăn trong cuộc đời giang hồ; như bà mẹ Lê, liều chết tìm gạo cho con lần cuối;
như Tâm, cô hàng xén, tần tảo suốt đời, nuôi mẹ nuôi em, gánh vác nhà chồng
cho đến tàn phai nhan sắc; như Mai, vì đói, phải bán thân kiếm vài miếng
thịt ướp cho chồng, cho mình; như Liên, một đời người, bị chồng và mẹ chồng
hành hạ, nhưng vẫn kéo dài kiếp sống, gánh đầy tủi nhục mà không tự mình gỡ bỏ;
như Dung trong hai lần chết, muốn thoát ly khỏi ngõ cụt nhưng rồi cái chết
cũng đánh lừa nàng.
Không phê phán xã hội, phê phán con người, dù tốt hay xấu mà
chấp nhận họ, Thạch Lam lặng lẽ vượt trên bi kịch, bằng thái độ gần như lãnh đạm
với tất cả mọi hình thức đấu tranh, ông đem cái “nhân phong” vào văn chương, thể
hiện con người trong những hoàn cảnh sống, vừa như một thử thách, để lộ thú
tính và nhân tính, và chính mỗi cá nhân đôi khi cũng không phân biệt được rõ
ràng giữa xấu và tốt, bởi ranh giới chỉ nhỏ như sợi tóc, và bất cứ ai, trong một
thoáng giây có thể chao đảo từ mảnh đất này sang mảnh đất kia mà không hiểu tại
sao.
Từ hai phố huyện nhỏ, phố huyện Cẩm Giàng ở Hải Dương, nơi Thạch
Lam sống những ngày thơ ấu, và phố huyện bên bến đò Tân Ðệ, nơi cả nhà dọn lên ở
với người anh cả dạy học ở Thái Bình, Thạch Lam tạo ra mảnh xã hội nhỏ bé của
mình: một thế giới nửa quê, nửa tỉnh rồi ông nhẩn nha nghiêng mình xuống từng
thân phận một. Những mẹ Lê, mẹ Hiền, mẹ Ðối … đều là những nhân vật có thật gắn
liền với cuộc đời Thạch Lam bên phố huyện Cẩm Giàng và phố huyện Thái Bình. Cạnh
những cô hàng xén chợ huyện, là những khuôn mặt khác của Huệ, Liên, anh Bào… ở
Hà Nội, tất cả dệt nên hình ảnh một Việt Nam u buồn và đói kém những năm 40.
Nhưng tại sao hình ảnh bà mẹ Lê và cô hàng xén lại rõ nét hơn cả, và tại sao cả
hai anh em Nhất Linh, Thạch Lam lại bị cuốn hút bởi hình ảnh hai người đàn bà
đó? Tại sao cái phố huyện nhỏ lại có một sức hút bí mật lạ lùng như thế?
Trước hết phải phân biệt hai mẹ Lê: mẹ Lê của Thạch Lam,
trong Gió đầu mùa, xuất hiện năm 1937. Ba năm sau, khoảng 1940, Nhất Linh
viết Xóm cầu mới (lần đầu), mẹ Lê cũng lại xuất hiện, và nếu chú ý đến
cô Mùi trong Xóm cầu mới, Mùi tuy không gánh hàng xén đi bán như Tâm,
nhưng vẫn có nhiều nét giống Tâm.
Qua chân dung của hai bà mẹ Lê và hai cô hàng xén Mùi - Tâm,
anh em Nhất Linh như đã dở lại từng trang ký ức đời sống thanh bần của chính
gia đình mình với hai phong cách khác nhau: Nhất Linh vui và no, Thạch Lam buồn
và đói. Nhất Linh lạc quan và đằm thắm, Thạch Lam đi sâu vào bi kịch, báo hiệu
thảm cảnh Ất Dậu. Thạch Lam sở trường về đoản thiên (truyện ngắn, tùy bút), Nhất
Linh sở trường về truyện dài, họ cùng gặp nhau ở sự tế vi và nhạy cảm, và chắc
chắn là Nhất Linh đã “bị ảnh hưởng” của em, hoặc ít ra, cũng nghĩ về em khi dựng
lại hai nhân vật “của Thạch Lam” bà mẹ Lê và cô hàng xén. Và việc ấy cũng không
tránh được, bởi đó là hai nhân vật tha thiết nói lên cuộc đời thầm lặng của những
người đàn bà tần tảo nuôi chồng, nuôi con, nuôi cha mẹ anh em, mà trong tay
không có đến một tấc vốn, hình ảnh ấy có chung một nguồn: bà cụ Cẩm Giàng, mẹ của
Thạch Lam, Nhất Linh, Hoàng Ðạo chồng chết sớm, tần tảo buôn gạo nuôi bẩy người
con ăn học. Bà cụ Cẩm Giàng chính là xuất xứ những mẹ Lê, những cô Tâm, cô Mùi,
linh hồn của xã hội.
Gió đầu mùa, tập truyện ngắn đầu tay của Thạch Lam, ngoài
không khí đói và buồn, nó còn hé cửa vào những ngõ ngách phố huyện, phố chợ
trong buổi giao thời chuyển mình từ đời sống thuần tuý nông thôn sang thành thị,
tạo ra một lớp người nửa quê nửa tỉnh, có những thân phận thoát được nghịch cảnh,
có những thân phận chìm sâu trong dòng thủy triều cuốn mau, cuốn mạnh.
Tính chất tương phản giữa hai lối sống, hai trình độ khác biệt
và kỳ thị nhau đó, đã được Thạch Lam nói đến ở ngay những dòng đầu Nhà mẹ
Lê:
“Ðoàn thôn là một cái phố chợ tồi tàn gần ngay một huyện lỵ
nhỏ ở trung châu. Hai giẫy nhà lụp xụp, mái tranh xuống thấp gần đến thềm, che
nửa những cái giại nứa đã mục nát. Gần đấy là những quán chợ xiêu vẹo đứng bao
bọc một căn nhà gạch có gác, bưng bít như một cái tổ chim, nhà của một người giầu
trong làng làm ra đấy để bán hàng.
Người ở phố chợ là bảy, tám gia đình nghèo khổ không biết quê
quán ở đâu, mà người dân trong huyện vẫn gọi một cách khinh bỉ: những kẽ ngụ
cư. Họ ở những đâu đến đây kiếm ăn trong mấy năm trời làm đói kém; làm những
nghề lặt vặt: người thì kéo xe, người thì đánh dậm hay làm thuê, ở mướn cho những
người giầu có trong làng. Người ta gọi mỗi gia đình bằng tên người mẹ: nhà mẹ
Hiền, nhà mẹ Ðối, nhà mẹ Lê.” (Trích, Nhà mẹ Lê, trong tập Gió đầu
mùa, nxb Văn Học, Hà Nội, 1982, trang 12).
Mẹ Lê thuộc thành phần “những kẽ ngụ cư”, mà không phải là
nông dân. Gia đình mẹ Lê thuộc diện ngoại vi, sống bên lề xã hội. Nếu đặt vào bối
cảnh bây giờ, nhà mẹ Lê có thể là một trong những gia đình lam lũ sống trong
các chung cư ổ chuột ở ngoại ô các thành phố lớn.
Nhà mẹ Lê cứ thầm lặng trôi đi trong cái khổ và cái đói,
bác Lê và mười một đứa con quánh lại với nhau, không ai than thở, vì biết rằng
mọi người đều khổ như thế cả, than cũng bằng thừa: “Mùa rét năm ấy đến,
giá lạnh và mưa gió lầy lội. Ðàn con bác Lê ôm chặt lấy nhau, rét run trong căn
nhà ẩm ướt và tối tăm, vì đèn đóm không có nữa. Mấy gia đình ở phố chợ đều đói
rét, khổ sở. Nhưng mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm mà chịu khổ một mình, không than
thở với láng giềng hàng xóm, bởi vì ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau.” (trang
16)
Sự im lặng chịu đựng ấy kéo dài và bao trùm lên bi kịch y như
giọng nói của Bác Lê, sau khi đi vay nợ ông Bá bị chó tây cắn, chỉ nhỏ nhẹ giảng
giải phàn nàn với các con: “Thật cậu Phúc ác quá! Ðã không cho thì
thôi, lại còn thả chó ra đuổi.” Yếu tố “đối chất” duy nhất nằm trong
câu “cậu Phúc mà lại ác quá” còn tất cả đều hiền lành. Phải
chăng chính bởi lối viết đầy “nhân phong” ấy mà tác phẩm Thạch Lam cứ âm thầm
dày vò chúng ta: “cái nghèo nàn không biết tự bao giờ đã vào nhà bác, lúc
sinh ra bác đã thấy nó rồi; và từ đấy nó cứ theo liền bác mãi. Nhưng giá cứ có
người mướn làm thì cũng không đến nỗi. Bác nhớ lại những buổi đi làm khó nhọc,
những lúc vui vẻ được lĩnh gạo về cho con… “ (trang 18).
Cuốn phim đời bác từ từ quay lại trong mê sảng của những cơn
sốt, người ta chú ý đến câu “giá cứ có người mướn làm thì cũng không đến nỗi”, như
thể bác Lê ở bên kia cuộc sống vẫn còn phân trần, giải oan cho hoàn cảnh oan
nghiệt của mình và các con. Nhưng Thạch Lam hiền lành trong lời nói bao nhiêu
thì lại mạnh dạn trong hình ảnh bấy nhiêu: “Mùa rét thì giải ổ rơm đầy
nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con
lúc nhúc”, “Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt
con trâu chết” (trang 13).
Cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc, thịt chúng
nó thâm tím lại như thịt con trâu, những hình ảnh mạnh, cực thực, phi lý,
gần như ác mộng báo hiệu thảm cảnh Ất Dậu, cứ chọc thẳng vào tim người đọc. Thạch
Lam pha trộn chất bi đát cùng với chất thơ thành một thể tuyệt vọng mới, âu yếm
trùm lên những thân phận không còn là phận người trước khi trở nên thây người.
Cả truyện ngắn là một liều lượng pha trộn tuyệt vời đói khát với no đủ, yêu thương
với ác nghiệt, hy vọng với tuyệt vọng qua những hình ảnh đẹp rướm máu, cái chết
của mẹ Lê âm thầm dẫn đến những cái chết của mười một đứa con, tuy không nói
ra, lại càng làm cho chúng ta cảm thấy bàn tay của tử thần sờ trán mỗi đứa nhỏ
mỗi lúc một gần trong từng tích tắc còn lại.
Bác Lê chết rồi, nhưng hình ảnh “một người đàn bà quê chắc
chắn và thấp bé,da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô” như
vẫn chiếm trọn ký ức người đọc, cái ký ức ấy có lúc thấy “Bác Lê đè thằng
Hỉ, con Phún ra gọt tóc cho chúng nó bằng một mảnh chai sắc”, có lúc bác
còn “lấy phẩm xanh bôi cho chúng nó. Trông mẹ con bác lại giống một mẹ
con đàn gà” khiến cho bác Ðối phải nhắc: “Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm
lại con không mất.” Và như thế, mẹ con bác Lê lại âu yếm quay trở lại như
một éternel retour, một phục hồi miên viễn.
Hà Nội 36 phố phường
Hà Nội băm sáu phố phường, gồm những bài văn ngắn, phóng bút,
có thể Thạch Lam đã viết rất nhanh để in trên báo. Sau khi ông mất, Tự lực văn
đoàn thu thập và cho xuất bản. Khi Hà Nội băm sáu phố phường xuất hiện,
tác giả của nó đã qua đời và có lẽ tác phẩm cũng chưa biết rằng nó sẽ trở thành
cuốn tuỳ bút đầu tiên, mở ra một thể văn mới, viết về Hà Nội, về món ăn và sự gắn
bó của ẩm thực với đời sống văn hóa xã hội con người, trong văn chương Việt
Nam.
Hà Nội băm sáu phố phường dẫn đến ít nhất ba hiện tượng
đáng chú ý: sau Thạch Lam, người ta thi nhau viết về Hà Nội; sau Thạch Lam, thể
tùy bút được phát triển; và cũng sau Thạch Lam, người ta ganh đua viết về món
ăn… Nếu nói đến một “trường phái” viết về Hà Nội với những ngòi bút như Nguyễn
Tuân,Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Mai Thảo… thì Thạch Lam phải là người
trưởng môn. Nếu nói đến thể văn tùy bút, người ta thấy rõ hai khuynh hướng:
khuynh hướng trung thành với phong cách Thạch Lam, dùng văn nói và bàn phiếm có
Vũ Bằng, Võ Phiến… khuynh hướng ly khai ảnh hưởng Thạch Lam, dùng văn chương
phóng bút, có Mai Thảo.
Hà Nội băm sáu phố phường viết về Hà Nội, về cái ăn cái
uống của Hà Nội, về thế thái nhân tình Hà Nội. Thạch Lam nói, bàn, kể, phê, tán
thán, khi thì thầm, khi lên giọng, giận lắm sẽ gắt lên… với Hà Nội, với người
Hà Nội, với người Việt. Loại văn này, ngày nay trở nên thông dụng, nhưng thời
Thạch Lam, hình như chưa ai viết như thế:
– Cũng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, bún ấy, thế
mà sao bún chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm
ngon đi.
– Rồi mùa nực thì hàng xôi cháo: cháo hoa quánh mùi gạo thơm,
xôi nồng mùi nếp mới. Xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng mỡ và dừa. Ồ, cái xôi vừng mỡ,
nắm từng nắm con, ăn vừa ngậy vừa bùi. Mà có đắt gì đâu! Ăn một, hai xu là đủ rồi.
Mùa rét thì xôi nóng, hãy còn hơi bốc lên như sương mù, ăn vừa nóng người vừa
chắc dạ.
– Ðối với các bà, các cô đi chợ, cô hàng vải, cô hàng cau,
v.v… là những người ưa món quà vì vừa rẻ vừa ngon, lại vừa no lâu, đã có món
quà của cô hàng cơm nắm lẳng lơ với hai quang thúng bỏ chùng. Món quà này sạch
sẽ và tinh khiết, tự quà cho đến cả quang thúng, cả cô hàng. Tóc vấn gọn, áo
nâu mới, quần thâm, cô hàng trông cũng ngon mắt như quà cô vậy”
(Hàng quà rong, trong Hà Nội băm sáu phố phường,
in lại tại Hoa Kỳ, trang 37-39).
Ðó là “bản chính” của Thạch Lam, sau này nhiều người bắt chước
nhưng ít ai viết được tự nhiên như thế. Thạch Lam là người tiên phong đưa món
ăn vào văn hóa Hà Nội, khuynh hướng này trở thành một “trường phái” với Vũ Bằng,
Nguyễn Tuân và những người viết sau … tất cả đều ít nhiều chịu ảnh hưởng Thạch
Lam, thậm chí có những “formule Thạch Lam” như “nhân tâm tùy thích”, “của đáng
tội”, “thế mà không”, “ngon từ cái mùi thơm, cái nước chấm ngon đi”, “một miếng
ăn là một sự khoái lạc cho khứu quan và đầu lưỡi” v.v… chỉ được son phấn qua
loa rồi chạy thẳng vào văn Vũ Bằng.
Nhưng người đọc vẫn thấy “bản chính” của Thạch Lam thành thật
và chính xác hơn các bản “remake”. Vũ Bằng cũng tài hoa đấy, nhưng ông bị cái tật
lém, hay phóng bút quá đà, cho nên văn ông nhiều chỗ giả tạo. Ví dụ viết về
bánh cuốn Thanh Trì, Vũ Bằng cho những người bán bánh cuốn Thanh Trì đi khắp
các nẻo đường là sai, Thạch Lam thấy họ đến từ phía Lò Lợn; rồi Thạch
Lam nhớ từ cái nước chấm nhớ đi, cũng là được, đến Vũ Bằng nhớ cả cái dáng
người bàn hàng đội bánh nhớ đi, là phịa quá rồi, nhỡ bà già thì sao? chưa
hết, Vũ hứng chí nhớ luôn cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ,thành
ra, tài là một chuyện, nhưng có tài mà thiếu thành thực thì chưa chắc đã viết
hay được(1).
Lang thang trên phố phường Hà Nội, một trong những điều bận
tâm nhất của Thạch Lam là sự đổi thay, thành phố nào rồi cũng phải đổi thay,
nhưng cái lạ là những điều Thạch Lam nhận xét Hà Nội từ những năm 40 đến nay, vẫn
còn nguyên tính thời sự y như mới viết hôm qua:
“Hà Nội đã thay đổi nhiều lắm. Những phố cũ, hẹp và khuất
khúc, với những nhà thò ra thụt vào, những mái tường đi xuống từng bậc như cầu
thang, những cửa sổ gác nhỏ bé và kín đáo, đã nhường chỗ cho phố gạch thẳng và
rộng rãi, với từng dãy nhà giống nhau đứng xếp hàng. Thẳng và đứng hàng, đó là
biểu hiệu của văn minh (… )
Chỉ còn một vài cái ngõ con, ngõ Phất Lộc, ngõ Trung Yên… mấy
ngọn cỏ trên mảnh tường cổng Ô Quan Trưởng, là gợi dấu vết của Hà Nội cũ.(… )
Những nhà cũ của ta có một lối kiến trúc riêng, ở các phố Hà
Nội hiện giờ, thỉnh thoảng cũng còn được một vài. Giữa nhà, mảnh sân vuông lộ
thiên, có bể non bộ và cá vàng, có dãy chậu lan, có bể đựng nước, và trên tường
có câu đối chữ nho. Ðôi khi đi qua, một cánh cửa chợt hé mở, chúng ta được
thoáng nhìn vào: bóng một thiếu nữ nhẹ qua sân, hình dáng một ông cụ già cúi
mình trên cây cảnh. Tất cả cuộc đời của những kẻ bên trong, cuộc đời xưa, những
ý nghĩ cũ, những hy vọng và mong ước khác bây giờ”. (sđd, trang 29)
Ai đã từng đi qua Paris, Florence, Athène, Istanbul, Trường
An, St Christobal, Quế Lâm… hay bất cứ một thành phố nào trên thế giới còn giữ
được một ít quá khứ, một khu phố cổ với “những nhà thò ra thụt vào”, với “những
mái tường đi xuống từng bực như cầu thang”, hay “những “cửa sổ gác nhỏ bé và
kín đáo”, đều có thể bất chợi gặp được “một cây hoa nhô sau bức tường thấp”,
“bóng một thiếu nữ nhẹ qua sân“, lại nhớ đến Thạch Lam, cảm thấy có một
chút Thạch Lam trong tâm hồn mình, một Thạch Lam sẽ sàng sống với “cuộc đời của
những kẻ bên trong” hay bên trong những cuộc đời, bằng lối văn mà Khái Hưng cho
là thủ thỉ.
Bao giờ Thạch Lam cũng thủ thỉ, dù tức giận đến đâu. Hồi ấy
Thạch Lam đã tức giận lắm khi đi qua đền Ngọc Sơn, thấy những sự thêm thắt kệch
cỡm mà người ra bầy vẽ cho Hà Nội. Vậy mà ông cũng chỉ gắt nhẹ:
“Mắc cho đèn sáng, cho tiện các người đi lễ đền. Một ý tốt, rất
tốt. Nhưng sao lại phải trả bằng một cách bôi nhọ vẻ đẹp của đền thế?(… ) Mắc
những vòng sắt với những cánh hoa hoét rẻ tiền kia vào cái cổng đẹp đẽ có lối
kiến trúc riêng, có vẻ cơ sở ấy, thực là một cách đập phá mỹ thuật tai hại
không gì bằng.” (trang 34)
Những thêm thắt ấy, giờ vẫn chưa hết đâu. Nếu Thạch Lam trở lại,
nhìn Tháp rùa, chùa Trấn Quốc, với lớp sơn mới toanh, đỏ lòm, trắng bóc, bởi chỉ
cần vài giờ “trùng tu”, người ta có thể hớt hết màu thời gian rêu phong năm mười
thế kỷ, hẳn Thạch Lam đau lòng lắm.
Hà Nội băm sáu phố phường không chỉ xót thương cho cảnh
quan Hà Nội, mà còn hướng về sinh hoạt tinh thần của con người trong tiến trình
văn hóa và lịch sử.
Sống ở Hà Nội là không chỉ sống trong không gian và cảnh quan
hiện tại của hàng Ngang, hàng Ðào… mà còn sống với vong linh những thời đã qua,
những người muôn năm cũ. Ngõ ngách nào chúng ta đang đứng, có thể trước đấy đã là
đền vua, phủ chúa, đã là nền các cửu trùng đài, đã là mộ những Vũ Như Tô… Thạch
Lam nhắc lại điều đó trong tiếng thở dài:
“Không còn gì của Hà Nội ngoài năm sáu mươi năm về trước.
Thăng Long của vua Lê, của chúa Trịnh không còn dấu vết nào: đâu còn những cung
điện ngày xưa, những phụ đế của các bậc công hầu khanh tướng? Thỉnh thoảng một
vài tên gọi còn nhắc lại, một vài đống đất còn ghi dấu, thế thôi. Chúng ta
không biết được mấy về dĩ vãng, về cảnh phố xá kinh kỳ hồi cụ Lãn Ông một túi
thơ, một bồ thuốc, đi từ Bát Tràng đến Hồ Tây để chữa cho hoàng tử.” (trang
29-30)
Càng viết nhẹ càng đau, càng thấm, cái đau thương cho một lối
xưa, một hồn thu thảo, không được đoái hoài, chăm sóc, gìn giữ, chúng ta không
coi trọng quá khứ, dễ dàng đánh mất người cũ, đôi khi phỉ phui quá khứ, cắt rễ
quá khứ, tiêu diệt quá khứ… và càng buồn hơn khi thấy những dân tộc khác biết bảo
tồn quá khứ, gìn giữ quá khứ. Dường như tất cả mọi người đã biết từ lâu rằng chỉ
có từ quá khứ con người mới có thể cắm mốc để xây dựng tương lai, duy chúng ta
vẫn ngờ ngợ chưa thấy rõ điều đó: một sự trùng tu vội vàng như mèo rửa mặt,
cũng chẳng khác gì việc đạp đổ văn bia, lấy đá lát ngõ.
Vấn đề Thạch Lam nêu lên trong Hà Nội băm sáu phố phường là
những vấn đề hôm nay. Bởi Thạch Lam chưa bao giờ đi ra ngoài quỹ đạo đời sống,
nên không lỗi thời, lúc nào ông cũng ở trong thời, để nhìn thấy những lố lăng,
dốt nát của mọi thời:
“Chữ Elégant hình như được nhiều người yêu chuộng nhất: vì tỏ
ra élégant phải không?
P.T. coiffeur élégant (Bạch Mai), Boulangerie élégante
(hàng Bông), A la coupe de Paris -D M. tailleur élégant (hàng Quạt), Aux
paradis des élégants (hàng Trống), Aux trousseaux des élégants (Lê Quý Ðôn), hiệu
này đâu trước là: Au gout des élégants… P. T. tailleur des élégants (hàng Quạt)…
Toàn những Elégance là Elégance, thật xứng đáng với “Hà thành
hoa lệ”. (… )
Một hiệu khác tham bác cả Tây lẫn ta, và tạo nên được cái tiếng
thần tình này: Satin súp.
Nhưng đến tên các hiệu thì sự văn hoa và cầu kỳ thực đã đến cực
điểm: Au parfait tailleur (hàng Quạt) -Chữ luxe chắc hẳn trong trí các ông chủ
hiệu thợ may, là biểu hiệu của cái tuyệt đích trong sự sang trọng, nên có đến
ba ông dùng: La mode tailleur de luxe, D.P.T. Tailleur de luxe (hàng Gai),
Tailleur de lux (Lê Quý Ðôn) (ông này lại viết lux không có e, ý chừng tỏ ra
luxe một bực nữa). (… )
Nhưng ngẫm nghĩ kỹ ra thì cũng chẳng nên lấy làm lạ, vì ở một
xứ có tờ báo (nghĩa là do hạng trí thức viết), dịch Hôtel de ville là khách sạn
của thành phố và Stars à Hollywood là dân tộc Siars ở Mỹ Châu, thì các ông chủ
hiệu trên kia kể còn là giỏi nhiều.
Mà, có phải không, tờ báo Phụ Nữ Tân Văn ở trong Nam đã treo
biển “Le journal des dames” và tờ Phụ Nữ Thời Ðàm ở ngoài Bắc, “La première
organe de la femme Annamite”? ( sđd, trang 24-27).
Chỉ cần đổi những chữ Tây trên đây thành chữ Mỹ thì thấy ngay
cảnh quang Hà Nội bây giờ. Hoá ra sự đánh Tây, đuổi Mỹ, chẳng ăn nhằm gì. Mà
cũng không cứ chỉ có một mình Hà Nội, nó là quang cảnh chung của các sự học đòi
bắt chước mà không hiểu rõ nội dung, như thể Thạch Lam viết thư cho chúng ta từ
dưới mộ, những dòng chưa ráo mực.
Hiện nay, những ngôn từ rỗng tuếch, cóp đi cóp lại, cứ tràn
ngập thị trường, thứ ngôn ngữ mà Pierre Bourdieu, nhà xã hội học người Pháp vừa
qua đời cách đây mấy năm, gọi là novlangue này không biết từ đâu đến mà tất cả
mọi người đều đồng thanh ca cẩm: nào là toàn cầu hóa, nào là mở cửa, nào kinh tế
thị trường, nào chủ nghĩa cộng đồng, chủ nghĩa đa văn hoá, chủ nghĩa hậu hiện đại,
tính sắc tộc, tính linh động… Thứ ngôn ngữ ấy, tệ hơn, được quảng bá rộng rãi
trong môi trường trí thức, chúng đáng ngại hơn dăm ba chữ tây viết sái của mấy
bác chủ tiệm may, và mớ kiến thức “phổ thông toàn cầu” này là sản phẩm của một
thứ “đế quốc đặc biệt biểu trưng” và hậu quả của nó cũng “đặc biệt” tai hại.
Người ta không cần biết nó là gì, nhưng người ta cứ nói như con vẹt và với những
phương tiện tối tân của vi tính, các con vẹt lanh lẹ truyền đi, thành một “hiện
tượng xã hội phổ quát” khiến Pierre Bourdieu phải bàn đến trong xã hội học, để
vạch mặt chỉ tên một thế giới lấm lem, học lỏm, loè bịp từ nguồn cội chữ nghĩa đến tất cả mọi vấn đề. Tất cả những điều đó, trong một chừng mức nào đó cũng là
những điều mà Thạch Lam nhìn thấy từ Hà Nội băm sáu phố phường, sáu mươi
năm trước: “Người ta bây giờ chỉ ham cái gì rẻ, và chỉ cần có cái màu mỡ bề
ngoài. Sự giả dối, điêu ngoa và luộm thuộm thay chỗ cho sự thực thà, cẩn thận.
Không cứ gì trong các thức ăn, cả những sản phẩm khác cũng vậy.” (trang
69).
Hà Nội băm sáu phố phường không chỉ là những tiếc thương
cảnh quan đường phố, với Thạch Lam văn hóa là con người và con người bắt đầu bằng
món ăn. Tất cả gói gọn trong câu: “Sự bất tử ở văn chương và ở thực
phẩm thật có giống nhau.” (trang 89). Thật thế, cơm tây và cơm tầu là hai
chứng từ về sự đi đôi giữa thực phẩm và văn hóa, nói khác đi, món ăn là một sản
phẩm văn hóa.
Thạch Lam trách người Việt có hai tật: Thứ nhất: “Chúng
ta đã khinh bỉ cái ăn, cái uống quá, tuy không tự thú rằng cái đó là cần, rằng
tự mình vẫn thích” (trang 90). Vì khinh bỉ nên “cách ăn chơi của
người mình mới luộm thuộm và cẩu thả” (trang 91). “Biết ăn tức đã là
một điều tiến bộ lớn trong các điều tiến bộ, nếu không phải là trong hàng những
điều quan trọng nhất.” Ðiểm thứ nhì: “Người mình phần nhiều giàu có rồi
thì không hay cố nữa. Ðó là tật chung khiến cho không có một công cuộc nào phát
đạt được lâu dài, cả từ trong cách buôn bán, khi đã đông khách rồi là tự nhiên
người chủ “chểnh mảng đi”, chất lượng ban đầu không còn nữa. Người ta không biết
giữ những báu vật của mình. Những báu vật ấy là những tinh túy nghiêm cẩn của
nghề nghiệp, như thể làm tồi đi, như đánh lừa được người mua thì lấy làm sung
sướng.”
Viết về món ăn tưởng dễ mà không dễ, Thạch Lam không chỉ viết
về món ăn, mà còn viết về cả môi trường của món ăn, về người ăn và người bán
món ăn, tất cả quyện vào nhau trong một nhịp đập tri kỷ. Ðây là bún ốc về
khuya:
“… đêm khuya, đi qua các nhà cô đào, và các chị em thanh lâu,
thấy họ ăn cái quà ấy một cách chăm chú và tha thiết đến đâu không? Nước ốc
chua làm nhăn các nét mặt tàn phấn và mệt lả, miếng ớt cay làm xoa xuýt những cặp
môi héo hắt, và khiến đôi khi rỏ những giọt lệ thật thà hơn cả những giọt lệ
tình.” (trang 47)
Tất cả những món quà Hà Nội, từ bánh tây, bánh cuốn, xôi lúa,
cơm nắm, tiết canh, lòng lợn, phở, bún ốc, miến lươn, bún chả, bánh giầy giò,
bánh ít, cốm, bánh cốm, bánh xu xê… đến những món quà tàu như phán sì thoòng,
chí mà phù, mìn páo, súi ìn, sa cốc màng … dưới ngòi bút Thạch Lam, mỗi món đều
tỏa ra một không gian văn hóa, quây quanh người bán, người ăn, người làm món
ăn, thức ăn, khung cảnh và cả thời gian đã trôi qua trên bước đi của món ăn ấy
từ xưa đến nay. Ông tạo không khí tương giao giữa những linh hồn đã làm thành
khung cảnh văn hóa đó, thành một Hà Nội riêng, và mỗi lần ghé lại chốn ấy của
Thạch Lam qua tiếng rao bánh giầy giò, chúng ta thấy lại không gian văn hóa của
tất cả những nơi còn giữ được chất thiêng của kiếp người trên hương vị các món:
“Ðêm khuya nữa… ở các con đường vắng, một bóng người lủi thủi
đi, một chấm lửa nhỏ lung lay theo từng bước. Chậm chạp và thong thả, bác hàng
quà đi nhẹ như chân ma, thỉnh thoảng cất lên một tiếng rao khe khẽ, ngắn và
chóng chìm vào quãng tối. Giầy giò… giầy giò…
Tiếng rao buồn thảm, yếu ớt và uể oải như hàm một mối
thất vọng không cùng. Cái đời tối tăm ấy ở những đường phố xa, hẻo lánh như
không còn mong mỏi chút gì. Cả cái thứ quà của bác ta cũng vậy: mấy khoanh giò
nguội, mấy chiếc bánh giò chua ăn lạnh như sương trên mồ người chết. Cho nên
bác cứ đi như thế, lẩn lút ở các ngõ tối đêm khuya, chả mong bán được mà cũng
chả mong ế, lặng lẽ và chán nản như một linh hồn có tội … “ (trang 58-59)
Trên đường tiến bộ và mở cửa, nếu chúng ta cố giữ được một
vài mảnh linh hồn ấy, lưu lại được chút hương thời gian trong không gian trắng
phau của Hà Nội văn minh bây giờ, dù trên tô phở, bát bún hay trên màu rêu một
ngôi đền, trong ngõ hẻm, vài mái nhà thò ra thụt vào… của Hà Nội, cũng là quý
lắm. Chẳng nên gột rửa quá khứ một cách kỹ càng, như cây đã cắt rễ, làm sao có
thể vươn lên được?
Chú thích:
Văn Thạch Lam:
“Nếu chúng ta về ở các tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải
Phòng, Nam Ðịnh nữa, chúng ta mới sẽ biết quà Hà Nội ngon là chừng nào. Cũng là
thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, bún ấy, thế mà sao bún chả của Hà Nội ngon
và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi.(… )
Tang tảng sáng, tiếng bánh tây đã rao, lẫn với tiếng chổi
quét đường.Ðó là quà của những thợ đi làm sớm. (… )
Này đây mới là quà chính tông: bánh cuốn, ăn vời chả lợn béo,
hay với đậu rán nóng. Nhưng là bánh cuốn Thanh Trì mỏng như tờ giấy và trong
như lụa. Vị bánh thơm, bột mịn và dẻo. Bánh chay thì thanh đạm, bánh mặn đậm
chút mỡ hành. Người bán bánh cuốn Thanh Trì đội mẹt và rổ trên đầu, từng tụm
năm, bẩy người từ phiá Lò Lợn đi vào trong phố, dáng điệu uyển chuyển và nhanh
nhẹn… ”
(Xem tiếp bài Hàng quà rong, in trong số này)
Và đây là văn Vũ Bằng:
“Có ai ở Hải phòng, Nam Định, Thanh Nghệ chẳng hạn, về
Hà Nội, mà đã có lần được thưởng thức món bánh cuốn Thanh Trì ăn với đậu rán sốt,
tất còn lâu lắm mới có thể quên được món quà đặc biệt Hà Nội đó.
Khắp các nẻo đường, người ta vẫn được thấy những người đàn bà
mặc áo nâu dài, đội cái món quà đó đi bán từ lúc trời vừa hừng sáng.
Cơ nghiệp của họ không có gì: một cái thúng đội đầu, trên có
đậy một cái mẹt. Anh gọi, người bán hàng hạ thúng ở trên đầu xuống. Anh nhìn
vào sẽ cũng chẳng thấy gì lạ hơn: một chai nước mắm, một chai giấm, một chén ớt,
dăm cái chén, cái đĩa và mươi đôi đuã.
Thế thôi. Nhưng thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi,
anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bàn hàng đội bánh nhớ
đi, nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ… nhớ
quá , nhớ khôn nguôi!
Hồi còn tạm lánh ở một làng vắng vẻ khu ba, có những buổi
sáng êm trời, tôi vẫn vọng phía Thanh Trì nghĩ đến những hàng bánh cuốn đó và thấy
thèm như thèm một hương yêu.
Nỗi “sầu Hà Nội” làm cho lòng người ta rã rời, se sắt (… ).
Không tài nào vơi được. (… ).
Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng, hành mỡ
thoa vào mướt mặt mà nếm vào thì thanh nhẹ, mát rượi đi. (… )
Ngay từ lúc trông thấy bàn tay người bán bánh bóc từng chiếc
một, rồi cuộn lại một cách lơ là, bầy ra trên những chiếc đĩa khiêm nhường, ta
đã thấy yêu ngay những cái bánh óng ả, mềm mại đó rồi. Có khi đương cầm đũa, ta
muốn bỏ ngay ra để lấy ngón tay nhón từng chiếc bánh đưa lên cho khẽ chạm lấy
môi ta như kiểu một cái hôn yêu trong buổi trao duyên thứ nhất.”
(Vũ Bằng, Bánh cuốn, trích trong Miếng ngon Hà Nội,
in lại tại Hoa Kỳ, trang 33-35).














Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét