Tình ngỡ như trăng lạnh
Mùa hạ năm 1980 là một thời gian đầy hứng khởi tại Bắc Kinh,
khi mà những luật lệ trói buộc đời sống người dân Trung Hoa về mọi mặt, bỗng
nhiên được nới lỏng. Một nhóm nghệ sĩ tự do, nhóm Quần Tinh, được phép trưng bầy
tác phẩm hội họa của họ tại Bảo Tàng viện Nghệ Thuật. Các họa sĩ thuộc nhóm Quần
Tinh là những người không ưa chính trị, và không chấp nhận ý thức hệ cộng sản.
Cuộc triển lãm của nhóm Quần Tinh đã đem lại cho Emmanuel Bellefroid một tình
yêu tuyệt vời bắt nguồn từ nghệ thuật và một cuộc tình duyên đầy trắc trở nhưng
đẹp như tiểu thuyết. Emmanuel Bellefrod là một chuyên gia ngữ học 32 tuổi người
Pháp. Emmanuel lúc đó làm việc tại tòa đại sứ Pháp tại Bắc Kinh, và vừa trải
qua những đắng cay của một cuộc hôn nhân tan vỡ.
Tại phòng triển lãm của nhóm Quần Tinh, Emmanuel Bellefroid hết sức chú ý đến một
tác phẩm của nữ họa sĩ Lý Thu An. Emmanuel đứng lặng, chết trân nhìn tác phẩm ấy
hàng giờ. Ðó là cảnh một con chó trên một bãi biển vắng vào một đêm trăng. Con
chó ngẩng lên và sủa mặt trăng ở trên cao vời vợi. Với một tâm hồn tan nát sau
cuộc tình duyên dang dở, tác phẩm "Chó Sủa Trăng" này đã phản ảnh nỗi
cô đơn và tâm tình thế thiết của Emmanuel. Emmanuel cũng cô đơn như con chó
trên bãi biển, và cũng đang ngóng vọng một tình yêu mà có lẽ chẳng bao giờ đạt
được. Cảm phục đưa đến tình yêu. Ðối với Emmanuel, một lần nhìn thấy tác phẩm ấy
đã là thiên thu. Chàng thanh niên 32 tuổi một đời vợ này nhất định xin được gặp
họa sĩ tác giả.
Vài ngày sau, Emmanuel được giới thiệu với Lý Thu An ngay tại phòng triển lãm.
Emmanuel rất đỗi kinh ngạc vì không ngờ người sáng tạo tác phẩm tuyệt vời ấy là
một thiếu nữ trẻ đẹp đến như thế. Hai người cùng nhau đi khắp phòng triển lãm
và xem những tác phẩm của Thu An. Emmanuel nói tiếng Trung Hoa rất giỏi, và
nghiêng mình nói với Thu An bằng một giọng đặc Bắc Kinh rằng anh ta thán phục
các tác phẩm của Thu An lắm.
Emmanuel và Thu An là hai mẫu người trái ngược. Chàng là người Tây phương cao lớn,
còn nàng là một thiếu nữ rất mảnh mai, một nét duyên dáng của Ðông phương. Thế
nhưng đến cuối mùa hạ thì hai người đã yêu nhau và khám phá rằng họ cần phải có
nhau. Emmanuel thú nhận tình yêu của họ đến mãnh liệt như một cơn lốc và không
thể tránh thoát được.
Dù ở bất cứ đâu, tình yêu đi đến hôn nhân cũng là một điều tốt đẹp. Nhưng tại
chế độ cộng sản hà khắc Trung Hoa thì không phải như thế. Liên lạc với người
ngoại quốc là một tội ác, và người con gái Trung Hoa trong trường hợp ấy thường
bị coi là một gái điếm.
Khi còn nhỏ, Lý Thu An được ông bà ngoại nuôi dưỡng. Dưới thời
Mao Trạch Ðông, cha mẹ Thu An bị trừng phạt vì là giai cấp tiểu tư sản được
giáo dục theo Tây phương. Thân phụ nàng bị cách chức giáo sư đại học, và thân mẫu
nàng cũng bị loại khỏi chức vụ giảng huấn, và phải đi lao động tại Mãn Châu,
cách xa Bắc Kinh 600 dặm.
Thu An lớn lên mang hằn dấu vết tủi nhục này. Bị ruồng bỏ và sống trong cô đơn,
nàng rút lui vào thế giới riêng tư với những sách vở về hội họa của ông ngoại.
Thu An tìm sự bình an bằng cách ngồi trên sàn nhà và say mê vẽ. Năm 1966, trong
cuộc Cách Mạng Văn Hóa, lúc đó ông ngoại Thu An đã ngoài 70 tuổi, đã bị Vệ Binh
Ðỏ lôi ra ngoài đường phố, bị buộc tội làm tay sai cho đế quốc Mỹ, rồi bị đánh
đến chết. Căn nhà của ông ngoại nàng bị tịch biên ngay lập tức. Thu An dọn về sống
với cha mẹ lúc này đã được đoàn tụ với nhau rồi. Bà ngoại của nàng trở về sống
với một người con trai. Thu An tìm hết cách tránh né các bạn học cùng lớp, và sống
một cuộc đời hết sức lặng lẽ.
Năm 1975, Thu An bị gửi đến một nông trường tập thể, trong công tác tưới nước
cho những cánh đồng trồng bông gòn. Suốt ngày nàng phải gánh nước từ giếng ra đồng,
rồi đến 7 giờ tối thì gục xuống ngủ thiếp đi vì quá mệt. Nhưng sáng nào nàng
cũng thức dậy thật sớm, từ lúc 3 giờ sáng. Sau khi thêm củi vào lò cho lửa sáng
hơn lên, nàng chăm chú ngồi vẽ cho đến gần sáng, tâm hồn chìm hẳn vào thế giới
của tưởng tượng và nghệ thuật.
Ðến khi Mao Trạch Ðông chết, các luật lệ khắt khe được nới lỏng bớt, và Thu An
được phép trở về sống với cha me tại Bắc Kinh. Nàng được giao phó công việc sơn
vẽ những tấm phông của một đoàn hát. Một thời gian sau nàng gia nhập nhóm Quần
Tinh.
Một ngày nắng ấm tháng Chín năm 1975, nhóm Quần Tinh triển lãm 150 tác phẩm
ngay tại hàng rào bên ngoài Bảo Tàng viện Nghệ thuật. Thu An có ba tác phẩm
trong cuộc triển lãm này. Hai ngày đầu dân chúng đổ xô tới xem và thích thú thưởng
ngoạn những nghệ phẩm chưa được chính quyền chuẩn phép triển lãm này. Rồi cảnh
sát ào tới ngăn chặn cuộc triển lẫm, nhưng những cuộc tranh đấu sau đó đã cho
phép tác phẩm của nhóm Quần Tinh được triển lãm bên trong Bảo Tàng viện Nghệ
thuật.
Khi Emmanuel và Thu An bàn về cuộc hôn nhân thì cả hai đều biết
đây là một việc cực kỳ khó khăn. Ðể tránh bị lộ, hai người quyết định chỉ gặp
nhau vào buổi tối, thường là lái xe đi loanh quanh không mục đích và không dám
dừng xe lại tại một nơi nào. Tuy thế, mối tình của hai người ngày càng nồng nàn
say đắm. Hai người đồng ý rằng tuy quá khứ của họ khác hẳn nhau, nhưng cả hai đều
có cùng một ước vọng cho tương lai. Hai người quyết định công khai tuyên bố ý định
kết hôn.
Nhưng lúc đó, luồng gió tự do tại Trung Hoa đang tàn dần. Khi nhóm Quần Tinh chấm
dứt cuộc triển lãm thì họ không được phép triển lãm tại Bảo Tàng viện nữa. Rồi
những nguyện vọng chống đối và những cuộc tụ họp của những nhóm chống đối chính
quyền bị cấm chỉ. Tệ hơn nữa là người Trung Hoa bị cảnh cáo không được liên lạc
với người ngoại quốc.
Tuy vậy ngày 18-6-1981, Emmanuel cũng thông báo cho toà đại sứ Pháp về quyết định
muốn kết hôn với Thu An. Về phần Thu An, nàng cũng đệ đơn lên ủy ban nhân dân
thành phố, xin được phép kết hôn với Emmanuel. Ngay tại cuộc triển lãm chiều
hôm ấy, hai người xuất hiện đứng bên nhau như một cặp vợ chồng sắp cưới. Lúc ra
về, Emmanuel ra xe hơi trước và chờ Thu An dẫn xe đạp của nàng ra. Ðúng ngay
lúc ấy, một nhóm cảnh sát chờ sẵn bên ngoài, chặn Thu An lại và dẫn nàng về trụ
sở cảnh sát quận. Thu An bị liên tiếp thẩm vấn suốt bốn giờ về sự liên hệ của
nàng với Emmanuel. Thu An luôn luôn lo lắng tội nghiệp cho Emmanuel không biết
được những gì đã xảy ra, và có lẽ đang mòn mỏi trông chờ nàng.
Nhưng Emmanuel cũng biết được sự việc ngay và đã có mặt tại sở cảnh sát và nhất
định yêu cầu cảnh sát phải trả tự do cho nàng. Một viên chức cảnh sát cho biết
Thu An chỉ là một con điếm.
Emmanuel lập tức cãi lại Thu An là hôn thê của chàng. Cuối cùng Thu An cũng được
thả ra. Từ khung cửa bên trong, Thu An hiện ra, mặt tái nhợt nhưng vẫn giữ được
đầy đủ phong cách của một nghệ sĩ uy vũ bất năng khuất. Nàng và Emmanuel tay
trong tay bước ra khỏi sở cảnh sát. Một viên chức cảnh sát căm giận nói với
theo những lời hăm dọa, "Lần sau thì sẽ biết!"
Emmanuel và Thu An tiếp tục nộp hết giấy tờ này đến giấy tờ khác. Trong suốt
mùa hè ấy, cả hai người chạy đua với thời gian. Tình hình chính trị ngày càng bất
lợi cho họ. Ðã có những cuộc thanh trừng khủng bố mới; những vụ bắt bớ mỗi lúc
một nhiều hơn.
Ðầu tháng Tám. một người bạn của hai người làm việc tại bộ an ninh quốc gia báo
động cho họ biết sở cảnh sát thấy không cản được cuộc hôn nhân của hai người
nên đã ra lệnh bắt giữ Thu An. Lập tức Emmanuel đưa Thu An vào chỗ ở của chàng
bên trong khu vực của ngoại giao đoàn, nơi cảnh sát không được phép vào. Ðến cuối
tháng Tám, Emmanuel biết giấy tờ hôn nhân của hai người đã tới được cơ quan cao
nhất, và bộ ngoại giao Trung Hoa đang cần sự thân thiện của Pháp, đã hứa chấp
thuận cuộc hôn nhân của Emmanuel và Thu An. Hai người vô cùng sung sướng và dự
định cử hành hôn lễ vào ngày 1-10.
Ngay sau đó Emmanuel có việc phải đi Hồng Kông vài ngày. Ðối với Thu An ở lại một
mình, ngày giờ dường như dài hơn. Ngày 9-9 nàng gọi điện thoại mời một người bạn
đến chơi. Ðúng 3 giờ chiều, Thu An xuống cổng tại ranh giới giữa khu vực ngoại
giao đoàn và khu vực thuộc quyền chính phủ Trung cộng, để mở cổng cho bạn vào.
Bất thình lình những cảnh sát mặc thường phục nhào ra từ phía sau, và lôi Thu
An ra khỏi khu vực ngoại giao đoàn.
Ngày 11-9 Emmanuel từ Hồng Kông trở về và được đại sứ Pháp báo cho biết tin dữ.
Emmanuel liền tự ra sở cảnh sát để dò hỏi về Thu An thì được trả lời, "Ðây
là vấn đề thuộc thẩm quyền chính phủ Trung Hoa. Hãy quên cô gái ấy đi, và anh sẽ
chẳng bao giờ gặp lại cô ta nữa."
Emmanuel thề sẽ tìm lại được người yêu.
Dưới áp lực của chính phủ Trung cộng, Emmanuel bị đuổi về
Pháp. Trung cộng buộc tội Emmanuel đã tài trợ cho các phong trào chống đối
chính phủ, và đã hành động phản lại tư cách ngoại giao của mình. Emmanuel báo
cho các nhà báo Tây phương biết những gì đã xảy ra cho Thu An, và tin tức nói về
Thu An bỗng nhiên trở thành những hàng tít lớn trên báo chí thế giới.
Khi Emmanuel trở về Ba Lê vào một ngày tháng Mười lạnh lẽo, rất đông phóng viên
vây quanh chàng và đặt rất nhiều câu hỏi về Thu An và mối tình của hai người.
- Thu An có phải là một người chống lại chính quyền Trung Cộng không?
- Không.
- Cô ta đã làm những gì?
- Cô ta chẳng làm gì cả.
- Vậy tại sao cô ta bị bắt giữ?
Emmanuel buồn bã trả lời, "Tại vì cô ta không may đi yêu một người
Pháp."
Emmanuel vận dụng thời giờ và tìm sự trợ giúp của các viên chức chính phủ, và
trả lời thật nhiều các cuộc phỏng vấn. Tháng Mười Một, các thân hữu của
Emmanuel tổ chức một cuộc biểu tình, và cuộc biểu tình này lôi cuốn hàng trăm
người khác tới tham gia. Các biển ngữ xuất hiện khắp thành phố, "Hãy Trả Tự
Do Cho Lý Thu An." Hội Ân Xá Quốc tế xác nhận Thu An là một tù nhân của
lương tâm.
Trong khi đó Thu An bị ghép vào tội "Phản động, hành động tồi bại" và
"xúc phạm đến danh dự quốc gia." Nàng bị kết án và bị lưu đầy làm lao
công cưỡng bách tại một nơi cách bắc Kinh 28 dặm, trong một tình trạng gần như
cô lập. Sự cô đơn làm nàng tê dại. Nàng không được phép vẽ và đọc sách nữa. Người
ta bảo cho nàng biết Emmanuel đã trở về Pháp và đã quên nàng rồi. Nhưng lúc nào
Thu An cũng nhớ về Emmanuel. Rồi một hôm nàng được gọi lên văn phòng của quản đốc
trại lao động cải tạo.
Hắn hỏi nàng, "Tại sao cô quan trọng đối với người Pháp như thế?"
Thu An chỉ biết lắc đầu trước câu hỏi này. Nhưng đêm đó, khi nằm trên chiếc ghế
bố nhỏ hẹp, nàng cảm thấy vô cùng êm ái. Emmanuel đã không quên nàng.
Phải mất hai năm trôi qua trước khi chính quyền Trung cộng
nhượng bộ áp lực của những cuộc thương thuyết ngoại giao. Một buổi sáng tháng
7-1983, tên cai ngục mở cửa phòng giam của Thu An và bảo nàng gom vật dụng lại.
Sau đó nàng trông thấy thân phụ và hiểu rằng ông đến để đưa nàng về nhà. Nàng
được trả tự do.
Sáng sớm ngày 9-7-1983, Emmanuel giật mình thức giấc vì điện thoại của ông đại
sứ Pháp tại Bắc Kinh. Ông ta bảo cho chàng biết Thu An đã được trả tự do. Trong
lúc chờ đợi xin chiếu khán xuất ngoại sang Pháp, Thu An sống những ngày vô cùng
hồi hộp. Nàng say sưa vẽ để bù lại những ngày đã mất. Cuối cùng ngày 25-11, Thu
An lên phi cơ đi Ba Lê.
Hàng trăm ký giả có mặt tại phi trường từ 6 giờ sáng để chờ đợi chuyến bay của
Thu An. Khi Thu An bước xuống phi cơ, nàng chạy đến ôm choàng lấy Emmanuel, bất
kể hàng trăm ký giả đứng chung quanh. Cơn ác mộng của hai người đã chấm dứt.
Emmanuel và Thu An đã đạt được hạnh phúc to lớn mà họ đã tưởng không bao giờ với
tới được. Cặp vợ chồng hạnh phúc này sang làm việc một năm tại đại học
Stanford, California cho một chương trình nghiên cứu về Trung Hoa. Sau đó Thu
An và chồng sống tại Pháp. Emmanuel vẫn làm việc cho chính phủ Pháp còn Thu An
trở lại với con đường nghệ thuật của nàng.
Nguyễn Vạn Lý
Nguyễn Vạn Lý
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét