Thứ Ba, 30 tháng 11, 2021

Việt Nam, một thế kỷ qua 3

 Việt Nam, một thế kỷ qua 3

Chương 13
Những Ngày Êm Ấm Trước Khi Gió Bão

Sống ở nhà trọ thì tự do thực, nhưng nhiều khi cũng buồn. Ngày nghỉ, lắm lúc không biết đi đâu. Muốn đi chơi, đi xem điện ảnh, nhưng bạn nào cũng bận, người thì về với vợ, người thì đi du lịch.
Một chiều thứ bảy, ăn cơm xong, không còn ai ở lại. May mà vừa có một người bạn, anh Thành ghé qua. Thấy tôi ngồi một mình ở dưới nhà, vỗ vai hỏi tôi:
Làm gì mà ngồi thừ ra đó? Sao hôm nay lại ngoan ngoãn thế?
Thực ra, lúc đó tôi cũng chưa biết đi đâu.
- Chẳng tính đi đâu cả, ngồi đọc sách thôi! - tôi đáp.
- Tối thứ bẩy mà ngồi một mình à? Thành tỏ vẻ ái ngại, rủ tôi - Hay là đến nhà tao chơi đi. Tối nay, cùng đi xem chớp bóng. Muốn đi không mày?
Chúng tôi thường gọi nhau bằng mày tao.
- Phim gì?
- Phim Đường Tơ Chưa Dứt hay lắm. - Thành đáp.
Đường Tơ Chưa Dứt. Nghe cũng hấp dẫn. Có bản nhạc hoà tấu của Schubert lại thêm tài tử duyên dáng Martha Eggerth trong câu truyện bi ai. Thấy tôi ngần ngại, anh tiếp:
- Nhà tao chỉ có mấy người, không phiền gì đâu. Cùng đi cho vui.
Chúng tôi đạp xe về nhà anh ở phố Cửa Bắc. Một ngôi nhà xinh xắn hai tầng, có hàng rào sắt, có con đường lát sỏi, hai bên trồng hoa. Trong nhà, có bà mẹ, em trai và em gái Thành. Cả nhà rất nhiệt tình. Em trai Thành còn bé, còn cô em gái - được giới thiệu tên là Vân- mới mười sáu tuổi, đôi mắt mở to hơi ngơ ngác, miệng cười chúm chím trên khuôn mặt tròn trĩnh, đúng còn là một cô học trò Trung Học ngây thơ. Chúng tôi ngồi xe điện cho thoải mái, cái xe điện cổ điển từ tốn của Hà Nội. Phim Đường Tơ Chưa Dứt thực là cảm người. Mối tình trong trắng giữa ông giáo dạy âm nhạc và cô học nhạc qúy tộc đã phải đứt duyên vì gia đình phong kiến phản đối. Trong đau khổ, nhạc sĩ đã sáng tác ra bản nhạc bất hủ Ave Maria. Bất giác, tôi nhìn sang Vân, đôi mắt trẻ thơ của Vân long lanh nước mắt. Một tuần sau, tôi được mời tới nhà Thành dự buổi mừng sinh nhật bà mẹ. Xong tiệc, vừa định cáo từ, thì Thành giữ lại dự khiêu vũ gia đình. Mới tập tễnh vào làng nhẩy, tôi định xin kiếu, nhưng trước đôi mắt khuyến khích của Vân, tôi thấy không thể khước từ.
Rồi, từ đó, tôi trở thành một thành viên trong lứa trẻ ấy. Lúc thì đi chèo thuyền, đi bơi, lúc thì đạp xe ra ngoài thành phố ngắm cảnh đỗng quê, đồi núi. Một ngày hè, chúng tôi cùng ra Sầm Sơn tắm bể. Mặc các bạn vẫy vùng dưới nước, Vân kéo tôi chạy trên bãi cát, rồi theo dặng phi lao dài, cứ đi mãi cho tới cửa sông Mã mênh mông, nước chẩy cuồn cuộn. Nắng rát đỏ cả lưng, chúng tôi ngồi dưới gốc thông, cùng nhìn những cánh buồm nâu lơ lửng ngoài khơi.
Một lần, ngồi trên bờ cỏ, nhìn ra mặt hồ rung rinh dưới nầng, hai người không nói gì hết, và cũng không thấy cần nói gì hết, không tính toán gì hết, không nghĩ về quá khứ cũng như về tương lai. Đây có phải là một mối tình duyên không lời, trong cái buổi ban đầu lưu luyến ấy không? Chỉ có một lần, Vân ngước mắt lên, như muốn nói cái gì, nhưng rồi lại thôi. Đôi mắt to và đen gần, gần quá, trông rõ hàng mi mắt trên dài và cong. Tôi đánh bạo đặt một nụ hôn nhẹ trên trán cô, Vân vẫn ngồi yên. Lúc đứng dậy ra về, sắp tới nhà, Vân vội ấn vào trong tay tôi một chiếc khăn tay trắng, rồi chạy vụt đi.
Truyện đến đây chỉ có thế, và về sau cũng chỉ có thế mà thôi. Hai người tiếp tục phải đi học. Mỗi người một hoàn cảnh. Thời thế biến chuyển không ngờ. Tôi bận quá nhiều việc. Vân thì còn bé quá. Có những thứ vô hình ngăn cách. Bèo nước tương phùng.
Tôi không còn rỗi để đến chơi nhà Thành nữa, không biết Vân có giận không? Ngẫu nhiên, có lắn đạp xe, tự nhiên đi tới con phố vắng trồng cây gần trường nữ trung. Tôi đột nhiên dừng xe lại, bóng Vân cắp sách cùng mấy cô bạn học đương bước trên hè: Vân vẫn hồn nhiên cười nói, giọng cười nói quen thuộc ngày nào: Tôi chỉ còn cách né vào đằng sau một gốc cây sấu, nhìn Vân dần dần khuất đi.
Người ta thường dễ quên, nên vài năm sau, trong những ngày kỳ lạ, gian nan, người ta không có cả thì giờ để thở nữa, ngẫu nhiên chúng tôi lại gặp nhau trong thoáng giây. Đôi mắt Vân vẫn mở to, nhưng không biết có nhận được ra tôi không, lúc đó tóc bờm sờm không cắt, râu mọc xồm xoàm. Còn cô thì cao hơn, lớn hơn, con gái hơn, mặt bầu bĩnh hơn. Tuy không ai nói năng gì, nhưng chắc trong ánh mắt, cả hai đều đã nhìn thấy quá khứ.
Nhưng, quá khứ đã qua, thì cứ để cho nó đi qua. Bây giờ khói lửa, loạn lạc. Vân, nay ở đâu?
Ai đã từng là sinh viên hồi ấy, tất cũng nhớ tới mỗi năm một lần, có đại hội sinh viên, với một buổi diễn kịch, mấy hôm hội chợ và có năm, đoàn xe hoa riễu trong thành phố. Theo quy định, những hoạt động ấy chỉ có mục đích mua vui, giải trí và gây quỹ cho Tổng Hội Sinh Viên. Buổi diễn kịch có thể gọi là long trọng và hấp dẫn, nhiều người mong đợi, nhất là nam thanh nữ tứ Hà Thành và cả từ các thành phố khác tới. Người ta thích những kịch cổ điển như Đường Quý Phi, Đường Minh Hoàng, Tây Thi Phạm Lãi,... sau đó hình như còn có Mỵ Châu Trọng Thủy. Trong một bầu không khí qúy phái, nhất định phải có mấy vị tai to mặt lớn nhà nước Bảo hộ, và phải có những nữ sinh xinh xắn đi bán hoa.
Ca nhạc mới cũng bắt đầu xuất hiện và được hoan nghênh. Không nhớ rõ năm nào, một bài ca đã làm thính giả rung động, đó là bài Con Thuyền Không Bến của Đặng Thế Phong, do một thiếu nữ hát. Người nghe tựa như cùng tiếng ca trôi với chiếc thuyền cô đơn trên con sông Thương nước chẩy đôi giòng.
Đặng Thế Phong là một kỳ tài âm nhạc, cùng với Văn Cao, Lê Thương. Tôi không được gặp nhạc sĩ, nhưng khi nghe tin nhạc sĩ chết yểu vì bệnh, tôi thấy cảm thương sâu xa, cũng như trước sự ra đi của Vũ Trọng Phụng, Hàn Mặc Tử... nhiều tài năng xuất chúng đã sớm đi vì nghèo, vì yếu, trong cuộc sống khó khăn.
Những bài ca như Con Thuyền Không bền, Thiên Thai, Gtọt Mưa Thu, Biệt Ly v.v... đã đánh dấu một thời kỳ phồn thịnh của ca nhạc Việt nam, với âm nhạc Tây Phương thay vào những điệu khúc dân gian cũ. Sự dung hợp của nền văn hóa dân tộc với những nét tinh hoa từ thế giới đến đã gây thành một trào lưu văn hóa đặc biệt có một không hai trong lịch sử đất nước.
Điều này chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa, dù ngay ở trong hoàn cảnh ác liệt, bị kìm hãm như dưới ách thực dân thời đó. Một năm nào đó, khi bầu lại ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên, không rõ tại sao tôi và anh Vũ Văn C... được anh em đề cử vào. Thực ra, tôi cũng đã làm gì nhiều cho hội đâu? Và tôi cũng không rõ lắm về nhiệm vụ, tôn chỉ của Tổng Hội. Nếu chỉ có tổ chức diễn kịch, chợ phiên để mua vui thì cũng không có giá trị gì nhiều. Nhưng đã bị cử ra, thì cũng phải làm một cái gì đó.
Họp ban chấp hành để phân công, anh Th... ở trường Luật được bầu làm chủ tịch, vì lẽ giản dị là sinh viên trường Luật rỗi rãi hơn trường Thuốc nhiều và... mồm mép hơn. Thí dụ như Phan Anh, Dương Đức Hiền, những nhân vật hoạt động chính trị sau này, đều tốt nghiệp trường Luật ra cả.
Anhem định giao cho tôi nhiệm vụ văn hoá, làm tờ đặc san của Hội: Song viết bằng tiéng Pháp, lại bị giới hạn không được đả động đến các vấn đề chính trị, xã hội nhạy cảm, mất nhiều công mà ảnh hưởng sẽ rất ít, ăn nói gì đây? nên tôi không nhận lời. Tuy thế, mấy anh em cũng dự định cải cách công việc của hội, tăng thêm những điều có ích cho xã hội.
ảnh hưởng của thời cục cũng phản ảnh vào nội dung các hoạt động của sinh viên. Thí dụ như có lần, ban chấp hành quyết định bỏ vở kịch Dương Quý Phi, soạn một vở kịch lấy tên là Người thanh niên Việt nam qua lịch sử, trong đó có màn về hai bà Trưng, vua Quang Trung, cổ võ người thanh niên rứt bỏ lối sống cá nhân, ủy mị hay lãng mạn để học ý chí quật cường của các tiền bối. Không trực tiếp nói lên được, thì mượn lịch sử để diễn đạt một cách gián tiếp, bọn thực dân tuy biết nhưng cũng không làm gì được.
Trong các chợ phiên, ngoài những gian bày trò chơi ra, thì tổ chức thêm những buổi nói truyện về thường thức y học, về vấn đề xã hội, có khi mạnh dạn nói về ý thức dân tộc. Ngoài ra, còn anh em phát truyền đơn, đi ra các làng xóm ngoại thành để nói truyện về vệ sinh thường thức, khám bệnh miễn phí, phổ cập về pháp luật... Nhiều anh em rất hăng hái trong những việc công ích, khác với nhiều sinh viên khác chỉ miệt mài về học hành, thi cử.
Chương 14
Bước Vào Con Đường Hoạt Động Cách Mạng - Đại Việt Dân Chính - Quân Nhật
Dù muốn hay không, bánh xe lịch sử cũng phải chuyển động và lôi cuốn con người vào trong những cơn gió lốc không ngờ. Thời thế tạo anh hùng câu nói này chỉ có ý nghĩa là hoàn cảnh khách quan chi phối vận mệnh con người.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
(Kiều)
Những năm 1938-39 là những năm đã quyết định vận mệnh của nhiều người Việt, trong đó có chúng tôi.
Thế giới chiến tranh bùng nổ với việc quân Đức quốc xã xâm chiếm Tiệp Khắc, rồi Ba Lan. Cùng lúc, quân Nga Xô cũng tiến vào Ba Lan, chiếm một nửa phía Đông nước này. Dân Ba Lan khốn khổ phải sống dưới hai tròng tàn bạo. Dân Do Thái tại các nước này bị tàn sát, khủng bố dã man. Cuộc diệt chủng đã làm kinh hồn cả thế giới. Hai nước Anh, Pháp sau khi đã thoả hiệp với Đức để Đức dễ dàng xâm lăng Tiệp, Ba Lan, áo, nay thấy không thể lui được nữa, buộc lòng phảỉ tuyên chiến với Đức. Nhưng quân Đức quá mạnh, không bao lâu sau đã chọc thủng phòng tuyến Maginot, tiến vào miền Đông Bắc Pháp, uy hiếp Paris và cả nước Anh.
Phát xít thắng lợi không phải là điều tốt. Nhưng Anh, Pháp thua kém có thể đưa lại cơ hội hiếm có cho những nước bị thực dân thống trị. Tại Việt nam, một số nhân vật có ý thức dân tộc mạnh mẽ, có ý chí quật cường, thấy thời cơ đã đến, thành lập những tổ chức cách mạng để lãnh đạo phong trào. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một trong những người đi tiên phong, cùng với Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Long và một số bạn thân khác, bí mật bàn thảo việc tổ chức. Một ngày cuối năm, anh rủ tôi ra nói truyện ở ngoài sân nhà báo, bày tỏ ý kiến muốn thành lập một đảng với mục đích đâu tranh cho độc lập tự do của dân tộc, đánh đuổi giặc Pháp, phế bỏ chế độ vua quan dựng nên một nước Việt nam cộng hoà, tiến tới dân giàu nước mạnh.
Thực ra, tuy chưa nói lên trước đây, nhưng mọi anh em đều có sẵn tinh thần yêu nước, nay chỉ cần bước vào hành động trực tiếp và cụ thể. Tôi ngỏ ý tán thành và tham gia vào công việc, cả hai đều biết rõ rằng sẽ khó khăn và nguy hiểm. Cương lĩnh chính trị nhấn mạnh vào việc toàn dân đoàn kết để giành độc lập, nhưng không đề cập nhiều đến vấn đề tự do dân chủ, có lẽ vì chịu ảnh hưởng của sức mạnh bề mặt của các nước phát xít và Nhật bản. Về đường lối đấu tranh, do lối nhìn hạn chế, thiếu chính sách cụ thể về các tầng lớp xã hội và về vấn đề quốc tế. Khuynh hướng dựa vào Nhật bản lúc đó cũng ảnh hưởng tới đường lối hành động của đảng, vì chưa trông rõ tương quan lực lượng giữa Trục Đức-ý-Nhật và Đồng minh, cũng chưa nhận thấy rõ bản chất của khối Trục. Do trên, Đại việt dân chính về sau chỉ phát triển được trong giai tầng trí thức, công chức, giáo viên, và tại thành phố, thiếu sự tham gia tích cực của các lớp thợ thuyền nông dân. Các anh em đều nhiệt tình, hăng hái, sẵn lòng hy sinh, nhưng phải công nhận là thiếu kinh nghiệm về hoạt động cách mạng, và thiếu học hỏi nghiên cứu về hiện tình thế giới, thiếu huấn luyện cho đảng viên. Anh em cảm thấy khó khăn trong việc dấy động dân chúng để chuẩn bị một cuộc nổi dậy, mà không mắc vào người thiếu sót của những cuộc cách mạng trước đây. Tôi được giao việc phát triển tổ chức trong tầng lớp sinh viên Đại Học. Chi bộ toà soạn gồm có Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và tôi -Tú Mỡ. Thế Lữ, vì không muốn tham dự hoạt động chính trị, nên không gia nhập. Thạch Lam cũng vậy
Ngoài Đại việt dân chính ra, cùng thời được tổ chức bí mật có Phục Quốc đồng minh hội, Đại việt Quốc Dân đảng, Đại việt Quốc xã, và Đại việt duy dân. Đại việt Quốc Dân đảng với người sáng lập - Trương Tử Anh và chủ thuyết Dân tộc sinh tồn, phát triển nhiều hơn cả trong trường Đại Học. Tại trường Thuốc, có anh Nguyễn Sỹ Dinh, bạn cùng lớp và bạn thân với tôi - và mấy người học lớp dưới, anh Nguyễn Tiến Hỷ tức Phan Trâm- sau này có dạo giữ chức Tổng thư ký Quốc dân đảng Việt nam, anh Nguyễn Tôn Hoàn, và Đặng Văn Sung. Ngoài ra còn có anh Bùi Diễm. Những người này về sau đều đã đóng vai trò quan trọng trong chính trường Việt nam. Anh Đặng Văn Sung nay đã qua đời. Về phần Việt nam quốc dân đảng, các anh em quốc nội bắt đầu khôi phục tổ chức bí mật, và do Chu Bá Phương, Lê Khang, nối lại liên lạc với Hải ngoại bộ ở ngoài nước. Các đảng phái quốc gia tuy nhiều, nhưng nói chung, vì thiếu tuyên truyền về cương lĩnh, đường lối, quá chú trọng về bí mật, nên ảnh hưởng tới quần chúng không rộng. Và cũng chưa kết hợp được thành một lực lượng đủ lớn mạnh để vận dụng thời cơ
Nói tóm lại, thời kỳ 1938-39 đánh dấu cho sự xuất hiện những phong trào chống thực dân Pháp cả ở trong và ngoài nước, báo hiệu cho một thời kỳ đấu tranh lớn và gay go sắp tới trong khung cảnh chiến tranh thế giới mở rộng đến toàn cầu. Phong trào cách mạng này không những đối với người Pháp, mà còn để chống đối với những nhóm người Việt thân Pháp, những nhóm chủ trương thoả hiệp với mục đích duy trì chế độ thuộc địa, và những mưa mô lôi cuốn dân Việt vào con đường phi chính trị, hưởng lạc, miệt mài về những hoạt động thể dục, vui chơi, hay văn chương đồi trụy. Ngọn lửa đấu tranh dân tộc từ đó được nuôi dưỡng âm ỷ trong lòng các tầng lớp dân chúng từ Bắc chí Nam.
Những chuyển động trong xã hội Việt nam và trên thế giới cũng có trực tiếp ảnh hưởng đến sinh hoạt văn nghệ nói chung và của nhóm Ngày Nay -Tự lực văn đoàn nói riêng. Sẽ không còn là thời kỳ tương đối êm đềm, lãng mạn sáu bẩy năm vừa qua. Vai trò của văn nghệ sẽ dần dần phai nhạt trong những giờ phút gay cấn, hoang mang. Chính trong hàng ngũ văn nghệ sĩ cũng sẽ xuất hiện sự phân hoá tất nhiên không thể tránh được, Tự lực văn đoàn cũng vậy.
Cục thế biến chuyển nhanh hơn người ta tưởng.
Tại Trung quốc, quân Nhật đã chiếm miền Hoa Nam, rồi đảo Hải Nam ở ngay bên cạnh Việt nam, uy hiếp tỉnh Quâng Tây. Quân đội Trung Hoa vì yếu kém, phải rút về gần biên giới Việt Trung. Quân Pháp ở Đông dương cảm thấy uy hiếp tới gần. Tưởng Giới Thạch rút về phiá Tây, đóng đô ở Trùng Khánh. Còn Hồng Quân Trung Hoa, sau cuộc chạy dài Vạn Lý Trường Chinh, đã tới chiếm căn cứ Diên An tại Thiểm Tây. Một số đảng viên đảng cộng sản Đông dương từng đã lánh sang vùng này để học tập, chuẩn bị trở về nước hoạt động.
1940. Quân Hitler tiến vào thủ đô Pháp, Paris. Một chính phủ bù nhìn với thống chế Pétain đứng đầu được thành lập. Ngay sau đó, phong trào kháng chiến Pháp nổi lên, tướng De Gaulle thành lập chính phủ lưu vong Pháp tại Luân Đôn. Mặc dầu chính phủ Pétain tuyên bố vẫn có quyền quản hạt đối với các thuộc địa, nhiều người Pháp sống ở các thuộc địa cũng bí mật theo phe kháng chiến, một số chạy trốn sang các nước khác. Có tin đồn quân Nhật bản sắp đánh vào Đông dương. Có một phần người Việt cảm thấy cổ võ, vì tin rằng quân Pháp nhất định sẽ bại. ít nhất, ách thống trị thực dân sẽ sụp đổ. Dù người Nhật nắm quyền, ta cũng được hả dạ vì được thấy bọn da trắng hung hăng sẽ phải cúi đầu khúm núm trước người da vàng. Có người tin rằng Nhật bản tuy là quân phiệt, nhưng có thể giúp cho ta độc lập: bao nhiêu chí sĩ Việt nam chẳng đã từng lánh sang Nhật bản, và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để chẳng vẫn còn ở Đông Kinh?
Dù sao, người Việt cũng phải chuẩn bị để ứng phó với thời thế. Một buổi tối, tôi từ trường học đạp thẳng lên toà báo. Hoàng Đạo, Khái Hưng và một bạn nưa, anh Ph... đương ngồi đánh bài. Khái Hưng nhanh nhẹn lấy bánh mì và một đĩa thịt mặn để trên bàn, rồi bảo:
- Đói quá rồi, tạm ăn thế này cho đủ sức mà bàn truyện.
Bánh và thịt thường mua ngay ở một hiệu tạp hoá Khách xế cửa toà báo, là chỗ chúng tôi hay sang nghỉ ngơi và uống bia sau giờ làm việc.
Mỗi người thêm một cốc bia, rồi sang buồng nhỏ bên cạnh.
Thay mặt bộ chỉ huy, Hoàng Đạo truyền đạt ý kiến ở trên và cho biết tin đặc biệt quân Nhật từ đất Quảng Tây đã chia mấy ngả tiến về phía Lạng Sơn. Dân ở thị xã rất hoang mang, nhiều người sửa soạn lánh ra ngoài.
Phải đặt vấn đề: ngay trước đây Nhật - Pháp vừa ký với nhau một bản thoả thuận, sao bây giờ lại xung đột? Hoàng Đạo giải thích: Có thoả thuận thực, nhưng tướng Nishihara tới Hà Nội tuần qua chỉ để yêu cầu việc đình chỉ giao thông từ Bắc Việt tới Vân Nam, chặn đường tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch.
Mọi người suy đoán, quân Nhật một mặt thương thảo thoả thuận, một mặt gây áp lực bằng quân sự, bắt buộc đương cục ở Hà Nội phải tiếp nhận những điều kiện nặng nề hơn. Nếu xẩy ra chiến tranh, tất cả đều phải chuẩn bị ứng phó và khai thác tình hình.
Hôm sau, được biết một tin quan trọng là một toán quân của Phục Quốc Quân - thuộc Việt nam Phục Quốc đồng minh hội vẫn hoạt động tại biên giới Trung Việt trước đó - cũng đã tiến vào địa phận Lạng Sơn. Chúng tôi rất phấn khởi, vì đây là một toán quân của người Việt mình. Nếu mà chiếm được Lạng Sơn- dù với sự hỗ trợ của quân Nhật- cũng sẽ gây được một tiếng vang lớn, lôi cuốn được sự hưởng ứng từ nhiều nơi trong tình cảnh nao núng của quân Pháp.
Từ lâu, nay mới có một cơ hội tốt đẹp như vậy. Tôi lại chợt nhớ tới những ngày tráng liệt đời xưa, phong trào Cần Vương Đề Thám, Việt nam quốc dân đảng. Trước mặt, còn bao nhiêu gian nan, nhưng cũng tràn trề hy vọng, vì Pháp nay đã suy yếu. Nhưng sẽ phải làm gì, mà phải làm gấp... Các anh em được thông báo, chờ lệnh hành động.
Phần lớn dân chúng tại Hà Nội vẫn có thái độ chờ đợ, e ngại. Chiến tranh sẽ gây ra xáo loạn, rủi ro cho cuộc sống. Có người e quân Nhật quá tàn bạo... Nghe nói có nhiều vụ tàn sát người Trung quốc tại Nam Kinh, tại Hồng Kông. Hình ảnh võ quan Nhật cưỡi ngựa, đeo kiếm dàí bên hông và chém người như ngóe thực ra rất khủng bố. Tránh được beo lại gặp phải hổ. Số phận những dân tộc yếu ớt trước bạo lực thực đáng thương..
Nghĩ lại hồi đó, dân tộc Việt nam lại gặp cảnh bi đát, lại thêm một kinh nghiệm đau thương. Hai đế quốc cấu kết với nhau để cấu xé người dân vô tội. Chỉ hai hôm sau, Nhật và Pháp lại ký kết một thoả hiệp nữa. Lần này, Pháp bằng lòng chịu để quân Nhật đến đồn trú tại Đông dương và được tự do vận chuyển -có nghĩa là trên thực tế, Nhật đã chiếm đóng đất này, với điều kiện là để Pháp toàn quyền quẫn lý nội bộ- có nghĩa là sẽ vẫn đàn áp mọi sự phản kháng của các dân tộc Đông dương.
Sau đó, tức khắc việc gì phải đến đã đến. Nhật rút ra khỏi Lạng Sơn, và nhường cho quân Pháp bao vây, tấn công rồi tiêu diệt toán Cách mạng Phục Quốc Quân. Vì thiếu súng đạn, mấy trăm chiến sĩ không chống cự nổi. Hai vị lãnh tụ là Trần Trung Lập, Đoàn Kiểm Điểm và một số anh em bị sát hại. Đại đa số bị bắt. Số còn lại chạy thoát khỏi vòng vây, sang Trung quốc. Đó là một thảm kịch bi ai trong lịch sử chiến đấu của người Việt bất khuất, một thảm kịch đầy nước mắt và máu. Cho đến tận nay, mỗi khi nhớ lại đoạn sử đó, tôi không khỏi ngậm ngùi, thương tiếc những người đi trước. Bao nhiêu người con ưu tú của dân tộc đã bất hạnh ra đi. Là một thanh niên còn có tâm hồn, không thể không xúc động mạnh, không thể không vừa ngậm ngùi vừa căm phẫn trước mọi tàn bạo, mọi bất công. Người thanh niên ấy đứng trước những đau khổ, éo le của con người, của nhân loại, không thể không suy nghĩ về nguyên nhân sâu xa, những quy luật trong lịch trình triền miên mà nhân loại phải đi, để tìm thấy một con đường hành động. Trong trường đại học và ngoài xã hội, nhiều người hoang mang. Anh em Đại việt dân chính cũng bối rối. Trong một buổi họp ngắn ngủi của chi bộ, ý kiến ở bộ chỉ huy xuống là: mọi người hãy tạm ngừng hoạt động để tránh bất trắc. Hồi đó tôi ở chỗ gác trọ trong ngõ Chân Hưng, gần ga Hàng Cỏ Chỗ này cũng gần ngay Sở Mật Thám Hà Nội. Trừ đi học ra, tôi tránh không gặp mấy anh em sinh viên đã vào đảng, cũng không đến toà báo nữa.
Nhưng, nhanh hơn chúng tôi đoán, tai họa đã đến ngay. Một hôm, vừa ăn cơm chiều xong, thì bỗng có người gọi tôi xuống đường, ra chỗ vắng, và báo tin là Pháp đã bắt đầu khủng bố. Ba anh Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí đã bị bắt. Về anh Nhất Linh, thì không có tin tức gì, cũng không biết ở đâu. Lúc đó, chỉ biết tin có thêm vài anh em bị bắt. Mọi người cần tạm lánh đi nơi nào kín đáo, rồi sẽ tìm cách liên lạc sau. Qua một đêm không ngủ, sáng sau tôi không đến bệnh viện tập sự nữa -bệnh viện Phủ Doãn- mà đi liên lạc xem tình thế xác thực ra sao. Cũng mừng, là vì một số lớn đảng viên trí thức, công chức hay sinh viên vẫn chưa việc gì.
Bọn mật vụ có tới khám xét tòa báo, nhưng ở đó không có tài liệu nào về tổ chức bí mật. Báo tất nhiên phải đình chỉ. Công việc nhà xuất bản, nhà in do anh Thạch Lam điều hành. Anh không dính dấp gì tới công việc chính trị, nên cũng không lo ngại lắm.
Dựa trên tin tức lượm được, và phán đoán trên tình thế, chúng tôi cho rằng tuy bọn Pháp trong tay có tài liệu, nhưng cũng không muốn làm to truyện quá, không có lợi khi quân Nhật vừa tới, nên chỉ bắt mấy người xuất đầu lộ diện để dẹp phong trào và ngăn ngừa người Việt nam tiếp xúc với Nhật.
Tuy vậy, tình hình vẫn cấp bách. Tôì lánh đi ra ngoại thành, tạm trú ở nhà một người bạn, trong một làng nhỏ gần Đại Từ trên con đường đi Vãn Điển. Ngày ngày chỉ có việc đọc tiểu thuyết cùng đánh cờ tướng với ông cụ thân sinh anh bạn. Không thấy có gì lạ sau một thời gian, tôi lại trở về nhà trọ. Một buổi sáng, tôi đến nhà thương, bị mọi người xúm xít hỏi vì sao mất tích mấy hôm. Có cô y tá hóm hỉnh hỏi: Nghe nói, quan về nhà quê cưới vợ, phải không? Nghe tiếng gọi quan, đương buồn bực, tôi cũng phải bật cười, cố đáp:
- Quan muốn lấy vợ lắm, nhưng tiếc rằng chẳng có ai muốn lấy cả.
Một buổi tối sau, có người lên gác trọ tìm tôi. Nhìn rõ, mới biết là anh Dương Đức Hiền. Chúng tôi vui mừng xiết tay nhau. Hiền, ngăm ngăm đen, rất tráng kiện, cứng cáp, tính tình thẳng thắn, được bạn hữu mến. Cả hai đều chưa bị khó dễ. Anh Tam vẫn mất tích. Sau có tin báo là anh đã trốn ra ngoàì nước, đi Quảng Châu. Hai chúng tôi đồng ý tạm thời hãy nằm im, xem tình thế biến chuyển ra sao.
Tình thế hầu như tuyệt vọng. Tổ chức gần như tan rã. Song chúng tôi cũng vẫn cố gắng giữ những đường giây liên lạc bí mật. Sự kiện này đã dạy cho chúng tôi một bài học đắng cay, và cũng mở mắt cho những người chỉ trông mong vào ngoại bang, nhất là vào một đế quốc quân phiệt. Một kinh nghiệm xương máu. Đói với tôi, đây là ký ức thấm thía đầu tiên, không bao giờ quên. Tôi mang máng thấy rằng, một sự nghiệp lớn không thể chỉ có sốt sắng và dấn thân mà có thể làm thành. Cách mạng là cả một khoa học, và cần học hỏi không ngừng nếu không muốn thất bại.
Một sự bất ngờ nữa, sáng hôm sau, đợi tôi ngay cửa phòng cấp cứu bệnh viện Phủ Doãn. Theo tin riêng, chúng tôi đã biết tình hình của anh Long anh Khái Hưng và anh Gia Trí, bị giam trong sở Mật Thám. Các anh bị tra tấn tàn nhẫn, kể cả bằng roi điện. Tìm cách lung lạc mấy tên mật thám người Việt, nhưng không ảnh hưởng nổi mấy tay mật thám đầu sỏ Pháp để cứu các anh em.
Tôi vừa mặc áo khoác, đến cửa phòng cứu cấp thì thấy hai người y tá đẩy một xe cáng tới, trên nằm một người bệnh không trông rõ mặt... Nhưng một điểm khiến tôi chú ý, là đi sau xe cáng, có hai người đàn ông mặc quần áo thường đi kèm sát tù nhân? Bất giác, tôi đi theo xe vào trong phòng. Đầu tóc bệnh nhân cắt ngắn, lởm chởm. Tôi bỗng rợn mình. Bác sĩ thường trực đã đến khám. Người bệnh quay mặt lại. Hai luồng mắt người đó và của tôi chạm nhau. Lạ là tôi còn tự kiềm chế được, không thốt lên tiếng nào, vì đó chính là anh Gia Trí! Dù có thay đổi thế nào, tôi cũng nhận được ra anh, tóc lởm chởm, bộ râu quai nón. Đôi mắt trong và xanh như mắt mèo của anh nay lờ đờ, mệt mỏi như mất hồn. Tôi nén sự xúc động của mình, cố giữ tự nhiên, giúp bác sĩ, xem những vết thương do tra tấn của anh. Bề ngoài, những vết thương ấy không sâu, nhưng vết thương do điện thực ra ảnh hưởng sâu xa tới thần kinh và tinh thần của kẻ bị hại. Mỗi khi bị tra tấn, tù nhân buốt rùng khắp mình, đầu óc đau rức, mắt choáng lên một cách ghê sợ, rú lên một cách thê thảm.
Cũng may, hai tay hộ tống không biết tôi là ai, và cũng không ngờ vực gì. Bác sĩ bảo tôi băng bó. Đây là một dịp tốt vô cùng, có thể trao đổi bằng ám hiệu. Rất mừng là thấy anh tinh thần vẫn còn vững.
Lần sau, anh tới băng bó, thừa dịp, anh đút nhanh cho tôi một mảnh giấy mỏng. Nhờ đó, ở ngoài chúng tôi biết rõ tình hình các anh em ở trong, và ngược lại.
ít lâu sau, chúng tôi được tin một số anh em, trong đó có Hoàng Đạo, Khái Hưng, Gia Trí đã bị giải đi tập trung tại Hoà Bình, cùng với một số người trong các tổ chức khác. Một nhiệm vụ khó khăn đè nặng trên vai chúng tôi là vận động để các anh em được chóng tha về.
Tôi và anh N.L đảm nhiệm việc tiếp xúc với đại diện của Nhật bản ở Hà Nội. Viên Công sứ Nhật này đóng ở ngay Viện Nghiên cứu quang tuyến phóng xạ (radium) bên phố Trường Thi. N.L biết tiếng Nhật và quen thuộc với một số người Nhật trong đó. Ngồi đợi một lúc, thì được đưa vào bàn giấy ở trong. Viên Công sứ độ khoảng năm mươi tuổi, để râu mép -nhiều người Nhật để râu lối ấy- và cũng như nhiều người Nhật, quần áo âu phục nhưng xốc sếch, lôi thôi. Bề ngoài thì hắn ta cũng chăm chú nghe nói, nhưng thỉnh thoảng lại đứng lên, đi tới một cái lồng chim treo bên cửa sổ, ngắm nhìn hai con bạch yến nhảy đi nhảy lại. Sau rốt, hắn hẹn sẽ nghiên cứu và tìm cách giúp đỡ các người bị bắt.
Lúc ra ngoài, N.L. và tôi nhìn nhau, nhếch mép cười. ấn tượng sâu sắc nhất của chúng tôi về buổi gặp mặt đó có lẽ là hai con chim ở trong lồng. Và kết luận không ai nói ra, là chỉ nên trông mong ở mình mà thôi. Cứu tinh Nhật bản miệng nói lớn giúp đỡ các dân tộc bị trị á Châu, nhưng mặc nhiên để cho đế quốc Pháp tiêu diệt khủng bố những người yêu nước Việt nam. Đó là thực tế.
Khỏi cần nói, một bàu không khí lo buồn trùm lên gia đình. Vì mấy anh bị bắt, anh Tam đã lưu vong, bôn ba nơi hải ngoại, biết ngày nào mới trở về? Anh em còn lại, toà báo, đều bị mật thám theo rõi gắt gao.
Duy trì nhà báo và nhà xuất bản, do anh Thạch Lam gánh vác: anh Hoàn giúp việc quản trị. Thạch Lam là một nhà văn giầu tình cảm, nhưng không phải là một nhà kinh doanh tháo vát. Anh Tú Mỡ, Thế Lữ và tôi cố hỗ trợ phần nào. Không còn tờ báo nữa, thì xuất bản sách cũ hay nhận in sách mới để duy trì cơ sở và đồng lương tối thiểu cho các nhân viên.
Lúc này, trên thế giới, cuộc đại chiến đã bước vào một giai đoạn gay go và tàn khốc, Anh, Pháp, Liên Xô đã kết đồng minh với nhau để chống lại tử thù Đức, ý đương hung hăng. Quân Đức đã tiến sâu vào nội địa Liên Xô, uy hiếp thành phố Stalingrad, và bao vây Mạc Tư Khoa, Leningrad. Quân Nhật đã tiến xuống miền Đông Nam á, rồi tấn công Cảng Trân Châu, tại Hawaii, Hoa Kỳ, và do đó, Mỹ bắt buộc phải tuyên chiến với Nhật. Khói lửa tung trời đã lan đến chung quanh Việt nam. Mệnh vận của toàn nhân loại sẽ ra sao? và của các dân tộc nhỏ yếu ở Đông dương sẽ ra sao? Quân Nhật và quân Đồng minh có sẽ xâu xé nhau trên ngay cõi đất này không? Máy bay Hoa Kỳ chẳng đã bắt đầu bay lưọn trên bàu trời Hà Nội?
Nhưng trên đường phố Hà Nội, bên cạnh mấy tên cảnh sát Pháp, và thỉnh thoảng dáng vài tên lính Nhật ngạo nghễ, người dân Việt vẫn phải làm ăn, sinh sống. Hàng Đào, hàng Ngang vẫn còn tấp nập người đi dạo vỉa hè, trên bờ hồ Gươm, những cô gấi yểu điệu vẫn đon đả chào mời khách qua đường ghé vào ăn kem.
Trong tâm lý hoang mang trước tình thế, người Việt nam sẽ phản ứng ra sao?
Chương 15
Thạch Lam Qua Đời
Mỗi lần về sau, có dịp rẽ xuống con đường gạch đưa vào làng Yên Phụ, là mỗi lần bóng dáng người anh cao, gầy trong bộ âu Phục cũ, với cái mũ dạ xám bốn mùa, từ tốn bước chân lại hiện ra trước mắt.
Nếu so về thông minh và tài hoa thì có lẽ anh hơn cả mọi người trong gia đình. Nhưng nếu về sức khỏe thì từ ngày làm báo trở đi, mỗi ngày một sút kém. Có người cho rằng, khác với anh em, anh đã bước vào một cuộc sống lãng mạn, phóng túng hơn, ra ngoài quy củ thường tình, cũng giống như một số văn nghệ sĩ thời ấy. Có thể anh đã tiếp xúc với nhiều tầng lớp, nhất là tầng lớp dưới trong xã hội. Đáng buồn nhất là anh đã mắc nghiện thuốc phiện.
Có lẽ chính vì thế mà anh có những cảm xúc riêng, và tác phẩm của anh có một phong cách riêng, bình dân, giản dị và đầy lòng trắc ẩn, đồng tình với những con người nghèo khổ hơn là những truyên của Nhất Linh, Khái Hưng. Mai hay Lộc trong Nửa Chừng Xuân hay Loan, Dũng trong Đoạn Tuyệt, dù sao cũng là con cái những gia đình khá giả, hay quan lại. Nhưng nhân vật người phu xe già trong một truyện ngắn của Thạch Lam làm cho người ta rung động sâu xa, thấm thiá hơn. Và ngay trong phóng sự Hà Nội ban đêm cùng viết với Trường Khanh, tình trạng chân thực của những kẻ bất hạnh, sa ngã, trụy lạc đã làm cho độc giả thông cảm và đồng tình dưới ngòi bút đầy tình cảm. Tôi còn nhớ hai câu Kiều lẩy trong đó:
Liễu bồ nấp bóng cây tùng,
Thuyền quyên còn đợi anh hùng... lĩnh lương
Đời sống gia đình anh thực là thanh bạch, anh vẫn giữ được phẩm cách không màng danh màng lợi chung của gia đình. Vài tấm phản, mấy chiếc ghế đơn sơ, một bàn làm việc là tất cả gia sản của nhà văn.
1941, gia đình, anh em tan tác. Chỉ có bên anh Cả là yên ổn một chút, nhưng lại quá đông con, cũng vất vả. Anh Hai vẫn làm tại nông trường ở Bolovens, bên Lào. Đôi khi, chúng tôi lên biệt thự Hồ Tây để mượn rượu giải sầu, và riêng tôi cũng để né mắt bọn mật thám.
Bạn rượu thường xuyên nhất là Đinh Hùng, Huyền Kiêu và tôi. Nếu trong túi có được ít tiền, thì mua ít đồ nhắm lên theo. Song Đinh Hùng lúc nào cũng thấy nghèo kiết xác xơ, Huyền Kiêu may mắn thỉnh thoảng được gia đình tiếp tế. Thịnh soạn nhất là khi nào chị Thạch Lam tìm được con cá chắm tươi vừa đánh lên, hay một khúc thịt cầy, thêm vào có bia, hay chút rượu Văn Điển. Nấu xong, mấy anh em ngồi vừa nốc rượu vừa ngâm thơ để chờ trăng lên, nhìn ánh trăng xen qua lá liễu chiếu xuống mặt nước. Tuy không đến nỗi say túy lúy nhưng cũng ngây ngất, mặt Đinh Hùng thì tái xanh, mà Huyền Kiêu thì mặt đỏ hơn gấc, chưa uống cũng đã phải chịu phạt rồi. Thạch Lam thì không dám uống nhiều, mà tôi cũng vậy. Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng theo chị tôi kể. Tết năm đó, trời lạnh, anh về tới Cẩm Giàng là cần ngay một hỏa lò than hồng để sưởi. Có chăn và nệm hẳn hoi mà anh vẫn kêu rét. Sau phải đốt một đống củi lớn ở giữa nhà, trải ổ rơm chung quanh, mọi người ngồi đánh bất để đợi giao thừa. Khi cả nhà ngỗi vào mâm để uống rượu mừng năm mới, anh có vẻ buồn, lặng lẽ ngồi nhìn khói trầm tỏa lên cao. Đó là cái Tết cuối cùng của anh.
Những giây phút như thế cũng không kéo dài được bao lâu. Căn bệnh phổi quái ác đã dần dần gậm nát cơ thể anh. Tôi giục anh đi khám bệnh và chụp lại phổi. Tấm ảnh quang tuyến X của anh khiến tôi và người bạn cùng lớp, anh Đ. phải giật mình. Nhưng thời đó chưa phát minh được thuốc chữa bệnh lao có hiệu quả. Muốn đưa anh đi Đà Lạt dưỡng bệnh, nhưng ông giáo sư khoa truyền nhiễm không đồng ý, sợ bịnh tăng kịch. Ông khuyên nên tĩnh dưỡng và cai nghiện, uống thuốc. Bắt buộc, tôi phải thay anh trông nom việc xuất bản dù còn đương đi học, và luôn luôn đến thăm anh. Chị Sáu lại có mang đứa con thứ ba. Mặc dầu mọi người trong gia đình tận lòng săn sóc, bệnh tình của anh cứ nặng dần. Sang giữa năm sau, đã có lúc anh không đủ sức trở dậy, ra ngồi bên thềm nữa. Mẹ tôi từ quê lên cùng chị Thế giúp săn sóc hai đứa trẻ thơ. Tình trạng ngày càng xuống. Anh đã bắt đầu tức thở, thường thường phải ngồi dậy, dựa vào mấy chồng gối. Một hôm anh hỏi tôi:
- Tôi hút thuốc lại có được không, chú! - Tôi chỉ im lặng gật đầu, rồi quay mặt đi.
Đến một ngày tháng 7 năm 1942, hơi thở của anh lả dần, đôi mắt đã hơi lờ đờ. Mẹ tôi, vợ con anh, anh Cả, chị Năm và tôi đều đứng chung quanh giường. Đến gần trưa, anh vẫn tỉnh táo nhưng không nói ra được tiếng nữa. Anh tự biết sắp đi đến tận cùng con đường mình đi. Ai nấy đều muốn khóc, nhưng không ai khóc ra tiếng. Run tay, tôi tiêm một ống thuốc cường tâm cuối cùng, thì anh bỗng mở to mắt ra hiệu cho mọi người đỡ anh ngồi dậy. Mẹ tôi ngồi đằng sau đỡ anh lên. Nhưng không còn ảo tưởng gì nữa. Thấy vợ khóc, theo lời chị tôi thuật anh còn đủ sức nói anh đã chết đâu mà khóc. Nhưng lúc đó, thú thực, tôi cũng không nghe thấy gì. Không bao giờ tôi quên được Cảnh tượng lâm chung của người anh ruột thân yêu đồng thời cũng là người anh trong sự nghiệp văn bút.
Anh đưa mắt lờ đờ nhìn mọi người như muốn nói lên một điều gì trước khi từ biệt. Hình như anh gọi tên tôi, tôi nghe không rõ. Bỗng anh nấc lên một tiếng, lên cơn suyễn rồi hai mắt nhắm lại. Hơi thở cuối cùng của nhà văn Thạch Lam đã dứt. Anh ngả về đằng sau, rồi dưới sự nâng đỡ của mẹ và vự, anh nằm xuống giường, hai chân đã duỗi thẳng. Người anh thân yêu đã vĩnh viễn bỏ cuộc đời khi mới ba mươi ba tuổi. Trong những tiếng khóc thê thảm chung quanh, muốn tránh nhìn lại anh, tôi vội bước ra ngoài cửa, mặc hai giòng nước mặt tuôn trên hai má. Chưa bao giờ tôi khóc nhiều như hôm ấy. Vài hôm sau, chúng tôi im lặng đi sau xe tang, đưa anh đến nghĩa địa Hợp Thiện, gần Ô Đống Mác, nơi đã chôn chị Cả đầu tiên và những người trong họ. Mọi người đã ra về, tôi còn ngồi lặng bên mộ anh rất lâu, dưới rặng cây âm u, nhưng nỗi thương cảm về cái chết đầu tiên trong anh em bẩy người, cũng như về bao xa cách, biệt ly -làm sao có thể khuây khoả được. Anh là nhà văn giàu tình cảm nhất trong giòng họ Nguyễn Tường, nhưng lúc nào anh cũng cố gắng để vượt qua mọi khó khăn. Trong một cuốn sách tặng anh, nhà văn Lê Văn Trương có đề Tặng anh Thạch Lam, một nghị lực phi thường trong một thân thể còm cõi.
Tôi tin chắc rằng Thạch Lam đã được người đời chấp nhận và đã có một vị thế xứng đáng trong lịch sử văn học Việt nam, sau một cuộc đời quá ngắn ngủi và đầy thương cảm. Trong những ngày khó khăn, tan rã, cái chết của Thạch Lam đã để lại một vết thương không gì hàn gắn nổi. Trong lo buồn, tôi đứng ra làm giám đốc nhà xuất bản Đời Nay, lại vừa tiếp tục đi học năm thứ năm trường Thuốc. Ngoài ra, còn phải lo việc trong nội bộ tổ chức chưa bị phá vỡ liên lạc với ngoài nước. Thi cử đối với chúng tôi, đã không phải là nhiệm vụ quan trọng nhất.
Với thời cục chuyển biến mạnh mẽ, phe Đức ý bắt đầu suy thoái ở âu Châu, quân Nhật gặp nhiều khó khăn tại Trung quốc và á châu. Máy bay Mỹ luôn luôn đe dọa bầu trời Việt nam. Người Việt cảm thấy không chóng thì chày sẽ bị cuốn vào trong một luồng thác lũ.
Những đợt sóng kinh hoàng sẽ đến sớm hơn là người ta tưởng. Do biệt ly, tang tóc, thời đại hoàng kim của nhóm Tự lực văn đoàn -Ngày Nay, và do thời thế đã khác nên đã đi qua rồi, không bao giờ trở lại nữa. Các nhóm văn nghệ khác cũng dẳn dần suy đồi theo thời gian.
Chương 16
Trước Cơn Bão Táp - Giai Phẩm
1943, đời sinh viên của tôi sắp kết thúc, nhưng kết thúc trong bị thương, lo buồn. Các bạn học của tôi miệt mài ứng phó thi cử, tôi cũng miễn cưỡng quá quan, thành tích không mấy đẹp đẽ. Các bạn đều thông cảm với tôi, giúp cho tôi thêm can đảm để bước lên con đường đã chọn.
Lớp học của tôi, từ hơn ba mươi người nay chỉ còn mười mấy người. Một tổ đã bỏ học. Có hai bạn đã sớm qua đời, mà lạ, cả hai đều vì chết đuối. Anh X. thì tại Hồ Tây, do từ thuyền bơi nhảy xuống hồ bơi, bất hạnh chìm xuống dưới mắt của ngay người em ruột. Anh rất xuề xoà, vui tính, và rất thích nói truyện với tôi. Tôi còn nhớ ngày hôm qua, lúc buổi sáng hôm đó, sau khi được vớt lên, anh nằm trên bãi cỏ xanh, mặt ngửa như nhìn lên trên lrờt, ngay trước cổng đền Quan Thánh. Tôi đứng lặng bên anh, rất lâụ, nghĩ tới những người thân của anh từ miền Trung ra. Rồi, sau đó, tất cả đều lặng lẽ đi sau quan tài, đưa anh tới nơi yên nghỉ cuối cùng.
Gần đến tốt nghiệp, lại thêm một bạn học, anh Bửu... đáp tàu thủy không may, tàu đắm. Từ đó, không bao giờ tôi gặp lại mặt anh nữa, một người bạn thẳng thắn, hiền hậu.
Trong thời kỳ tạm coi nhà xuất bản, chúng tôi cho in ra mấy cuốn sách mới. Cuốn Bạch Tuyết và bảy thằng lùn do Tú Mỡ soạn bằng thơ, in màu rất đẹp, là một cuốn có giá trị nghệ thuật.
Ngoài ra, một số sách Hồng cho trẻ em đọc. Còn có thơ của Hồ Dzếnh và Vũ Hoàng Chương:
Tôi còn nhớ mấy câu thơ của Hồ Dzếnh:
Trời đẹp như trời mới tráng gương,
Chân sim bóng nắng rợn ven đường.
Có ai bên cửa ngồi hong tóc,
Cho chảy lan thành một suối hương.
Và tôi cũng xúc động trước hai câu của Vũ Hoàng Chương, trong một bài bát cú:
Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết?
Một ván cờ thua, ngả cuộc đời.
Nhưng chưa bao giờ tôi hỏi anh viết hai câu đó có phải để khóc Thạch Lam không? Vũ Hoàng Chương, một người cao, gầy, nho nhã trong bộ áo dài Việt nam, hôm đó đến gặp tôi ở toà báo. Anh đưa tôi bản thảo cuốn Mây và muốn tôi cho ý kiến.
Sau đó, nhà xuất bản đồng ý in ra cuốn ấy.
Bây giờ, cũng như Thạch Lam, Bàng Bá Lân sau này, và Đinh Hùng, Thế Lữ, Xuân Diệu, anh cũng đã thua ván cờ của anh trong những trường hợp bi ai.
Ôi! những bạn văn thơ thương mến của tôi, nay ở đâu? Cũng vì ý kiến của anh, cùng với các anh Thế Lữ, Nguyễn Tuân, mà chúng tôi thấy nên cho ra đời một tuyển tập gồm sáng tác của những nhà văn hồi đó. Tập này, như nhiều người biết, đặt tên là Giai Phẩm, có đủ thơ, truyện ngắn, bình luận. Tôi có viết một truyện ngắn trong đó, đầu đề là Tha hương miêu tả về cảnh ngộ phúc tạp giữa cái sống và cái chết tại một bệnh viện, và ảnh hưởng tới tâm tư của người sinh viên. Vì quá bận rộn, bôn ba và đầu óc đã khô héo, chính tôi cũng quên bẵng mất. Điều không ngờ là hơn bốn mươi năm sau, khi đã di dân sang Hoa Kỳ, còn có nhiều bạn tôi chưa hằng quen biết, lại nhắc tôi truyện đó, nhắc tới triết lý về nhân sinh bàng bạc trong đó. Các bạn đó cũng tiếc cho tôi không viết nhiều hơn.
Nhiều anh em muốn theo đuổi sự nghiệp văn chương đến cùng. Song hoàn ảnh không cho phép ngồi yên, cũng không còn tâm hồn thảnh thơi để sáng tác nữa. Về sau, nếu có viết, thì lại chuyển sang mặt khác: viết bình luận xã hội, chính trị, vì nhiệm vụ, và chính tôi, nhiều lúc nghĩ lại, cũng thấy tiếc.
Nguồn thơ của Thế Lữ có lẽ đã gần cạn. Anh quay sang nghề kịch. Thế Lữ có tài đa dạng: làm thơ, viết truyện, viết báo, làm kịch. Với sự cộng tác của một số nghệ sĩ trẻ, anh lập ra ban kịch Thế Lữ. Ban kịch dọn tới bên cạnh đầm Sét, thuê một căn nhà gỗ năm gian cao ráo, trước sau đều có đất rộng rãi. Trụ sở ban kịch lại thành ra chỗ tập hợp của nhiều văn nghệ sĩ. Đặc biệt là sau khi quân Mỹ bắt đầu phái máy bay đến oanh tạc Hà Nội, lại càng nhiều người kéo nhau xuống tránh nạn. Có thể đạp xe, hay đi xe điện, rồi đi bộ tới đầm Sét. Đầm này rất dài, có thuyền chở vào trong, giữa hai rặng cây và những mái nhà thấp thoáng, rất nên thơ. Tránh bom ở đây, lại được xem các kịch sĩ luyện tập. Mấy vở kịch đóng xong như Kinh Kha, hay Tục Lụy -truyện nàng tiên xuống trần gian- do Khái Hưng soạn thơ, sau này diễn tại nhà Hát Lớn, rất được hoan nghênh.
Mỗi khi có báo động, mọi người đều chạy ra vườn ngóng nhìn máy bay tới. Một cảm giác hiếm có trong đời là khi nằm ở đằng sau nhà, giữa những gốc dâu thưa, ngửa mặt nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Một lúc, tiếng vang ầm ầm, mấy chiếc oanh tạc lớn từ từ bay ngang trên đầu, chung quanh nhào lộn những chiếc chiến đấu cơ nhỏ nhanh như con cắt. Chúng tôi ai nấy đều nín thở, nhưng mãi khi máy bay tiến tới thành phố mới nghe tiếng pháo cao xạ nổi lên, đạn nổ như những bông hoa trắng chung quanh máy bay. Sau đó, là tiếng bom nổ ầm ầm trong thành phố, mang đến tử thương cho người dân vô tội, nhưng thường không gây thiệt hại gì nặng cho quân Nhật. Chiến tranh, ly loạn, nhưng người ta vẫn phải sống, vẫn phải làm ăn, yêu đương. Bệnh viện buồn tễ thực, nhất là về đêm. Song lại là nơi xe mối tình duyên của nhiều đôi lứa. Không nói đâu xa, ngay trong lớp học chúng tôi, ít ra cũng có hai bạn đã tìm thấy hạnh phúc. Một là anh Đ., anh chàng người miền Trung, trắng trẻo đẹp trai lại học giỏi, một sinh viên mẫu mực. Và một là anh C., chăm chỉ, học giỏi, sốt sắng về công việc chung. Cả hai đều có tài năng, sau này đều giữ chức vụ cao trong ngành y tế chỉ khác là một ở miền Nam cộng hòa, một ở miền Bắc cộng sản, và giống nhau ở chỗ đều có bạn trăm năm cùng trong nghề. Anh Đ. nay sống ở Hoa Kỳ, nhưng anh C. đã ra người thiên cổ.
Còn câu truyện của tôi lại khác. Tôi không phải là một sinh viên mẫu mực, cũng sống một cuộc đời hơi khác. Và cuộc gặp gỡ giữa tôi và Liên cũng hơi đặc biệt. Một hôm, tại nhà thương Phủ Doãn, khi đi theo giáo sư khám các phòng, tôi bỗng để ý tới giữa đám sinh viên, một cô gái nhỏ nhắn, mặt tròn trĩnh với đôi mắt ngây thơ. Tuy cũng mặc áo khoác trắng, nhưng xem ra cô chỉ độ hơn mười lăm tuổi. Làm gì có sinh viên nhỏ tuổi như vậy? Mà xem ra, cô rất tự nhiên, hình như quen thuộc với cả mọi người ở đây.
Sau tôi mới biết cô là con một gia đình Hoa Kiều, bố là người Hoa, mẹ người Việt. Mẹ cô mắc bệnh nằm nhà thương khá lâu, cô thành ra một người khách đặc biệt. Với tính tình hồn nhiên còn trẻ con, mọi người đều coi cô như em gái nhỏ, đặc biệt sau khi bà mẹ từ trần. Haì người thân nhất trong đời cô là bà ngoại và mẹ đã kế tiếp nhau ra đi, ông bố lại ở xa, nên cô học trò trường trung Học Trung Hoa thường chạy vào nhà thương chơi, có khi theo bác sĩ đi vào các phòng bệnh. Rất tự nhiên, có lẽ vì tính tình cởi mở giống nhau, chúng tôi thích nói truyện với nhau, rồi trở nên bạn thân. Liên coi tôi như người anh lớn thông cảm với cô trong tình trạng cô đơn. Gia cảnh đau buồn khiến cô có những ý tưởng mới về vai trò bình đẳng tự lập của phụ nữ.
Với tư tưởng ái quốc, trong tuổi còn nhỏ, cô dấn thân vào phong trào học sinh Hoa kiều chống Nhật bản xâm lược, và đã bị quân Nhật bắt giam cùng với một số thanh niên khác. Trong hoàn cảnh từ tội ác liệt, lại bị tra vấn nghiêm ngặt, qua một thời gian cô mới được thả ra nhờ vận động của các giới. Cùng ở trong cảnh ngộ, để tìm khuây khoả, tôi và những bạn học của cô thường đưa cô đi những nơi thắng cảnh, như chùa Hương, chùa Trầm, Phật Tích. Không rõ từ lúc nào, tình bạn hay tình anh em đã đổi thành cảm tình khăng khít, mặc dầu có những cách biệt về bối cảnh xã hội. Chúng tôi cảm thấy không thể rời xa nhau được nữa, tuy tương lai vẫn còn bất định. Không nói ra, nhưng chúng tôi đã ngầm ước hẹn sẽ chung sống với nhau mãi mãi.
Liên lại là một người cộng tác đắc lực trong việc làm báo Bình Minh, báo Ngày Nay bộ mới sau này, sau khi Nhật bản đảo chính quân Pháp, về việc thu lượm tin tức các nơi và thông dịch tài liệu cần thiết. Trong lúc đó, cô vẫn sống rự lập bằng nghề dậy học. Nhưng, dù có giàu tưởng tượng thế nào đi nữa, cô cũng không thể biết trước vận mệnh sẽ lôi cuốn mình vào một con đường kỳ lạ không ai nghĩ tới.
Cho tới về sau này, tới những ngày nguy nan, những ngày lưu vong đầy khó khăn, trắc trở, chúng tôi bao giờ cũng vẫn là bạn đồng hành cùng chung chí hướng, khuyến khích lẫn nhau vượt qua mọi sóng gió.

Chương 17


Bắt Đầu Nổi Gió

Nếu Cho rằng những ngày tháng 8-1945 đã quyết đinh mệnh vận Việt nam trong nửa thế kỷ sau, thì cũng nên nhận rằng những ngày từ 1940-1945 đã có ảnh hưởng rất lớn. Vì chính trong thời kỳ này, không những cục thế toàn cầu đã thay đổi mà xã hội Việt nam cũng đã biến hoá. Hai đế quốc, Pháp và Nhật vẫn còn đó, còn cấu kết với nhau, nhưng nội bộ hàng ngũ đấu tranh cho độc lập dân tộc đã dần dần chia thành hai phe khác nhau, và đối địch lẫn nhau. Một tiến trình, mà ngày nay xét lại, không thể đảo ngược được.

Hồi tưởng lại những năm đó, nhiều thanh niên đầy nhiệt huyết nhưng chưa đủ khả năng nhìn rõ sự thực, đã bị lôi cuốn vào trong giòng thác lũ như những chiếc lá rơi, mà không biết sẽ đi tới đâu

Mấy anh Hoàng Đạo, Khái Hưng, Gia Trí vẫn còn bị tập trung tại Vụ Bản, Hoà Bình. Theo tin tức nhận được, anh Tam đã qua Hồng Kông rồi đến Quảng Châu. ở đây, anh được mục kích những cảnh tàn bạo do Hoàng Quân Nhật gây ra đối với dân chúng. Anh hiểu rằng Nhật không có thực tâm giúp đỡ các nước á Châu độc lập, mà chỉ lợi dụng họ để giành thắng lợi trong chiến tranh và mở rộng phạm vi quyền lực của đế quốc. Do đó, anh và anh em quyết tâm dùng phương pháp quyết liệt, thoát khỏi sự kiềm chế của Nhật bản và tay sai. Anh em rời Quảng Châu chạy tới Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây. Chỗ này quân của Tưởng Giới Thạch còn giữ được. Tướng chỉ huy ở đây là Trương Phát Khuê, tư lệnh chiến khu số bốn, Trương được chỉ định nắm việc liên lạc, tiếp xúc với những nhà cách mạng Việt nam, với sự phụ tá của tướng Tiêu Văn, chủ nhiệm bộ chính trị quân khu. Trương và Tiêu là hai nhân vật có ảnh hưởng mạnh tới cục thế Đông dương.

Nhưng, vừa sang tới đó, vì từ khu Nhật chiếm đến, anh bị hoài nghi là phần tử thân Nhật, nên bị tống giam vào ngục. Liễu Châu lúc đó cũng là nơi tập trung của nhiều người Việt đấu tranh Việt nam. Tháng 10 năm 1942, một tổ chức kết hợp người Việt lấy tên là Việt nam cách mệnh đồng minh hội được thành lập, với đại diện của Việt nam quốc dân đảng, Phục Quốc, Việt nam Độc lập đồng minh hội (Việt minh), và một số không đảng phái. Chủ nhiệm lúc đầu là Trương Bội Công, và sau đó do Nguyễn Hải Thần thay thế. Anh Tam lúc này lấy tên là Nguyễn Tường Dũng (đúng như tên anh chàng Dũng trong truyện Đoạn Tuyệt, bị giam vào một hang đá gần Liễu Châu...

Một ngẫu nhiên kỳ lạ là trong hang đá ấy, còn một người Việt bị giam nữa, với cái tên là Hồ Chí Minh.
đồng minh hội cử hai anh Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ đến thăm Nguyễn Tường Tam để hiểu rõ lai do. Về sau Hội quyết định yêu cầu tướng Trương Phát Khuê trả tự do cho anh Tam, và cẫ người Việt cùng bị giam, Hồ Chí Minh, vì đều là người Việt yêu nước phải lưa vong tới đây. Cả hai đều được đưa về hội quán, nhưng không ai rõ Hồ Chí Minh tức là Nguyễn ái Quốc.
Trước đây, Nguyễn ái Quốc đã từng hoạt động ở Quảng Đông dưới tên là Lý Thụy, trợ tá cho Borodine, cố vấn Liên Xô cho đảng cộng sản Trung quốc trước và sau công xã Quảng Châu. Vào năm 1944 Việt nam cách mệnh đồng minh hội đặt kế hoạch hoạt động trong nước, phái cán bộ về với một số tiền hoạt động, Hồ Chí Minh chủ động nhận nhiệm vụ, lãnh người và tiền về nước, hoạt động ở biên giới Cao Bằng, tiến tới lập căn cứ sau này.
Còn Nguyễn Tường Tam cũng rời Liễu Châu đi Côn Minh, sau khi bộ Tư Lệnh Quân khu 4 phải rút về gần biên giới Việt nam. Tại đó, anh bắt đầu hợp tác với Vũ Hồng Khanh cùng Hải ngoại bộ Việt nam quốc dân đảng, cùng liên lạc với trong nước. Một hôm, tại địa điểm liên lạc bí mật, một anh em ở ngoài về đưa cho tôi một lá thư nhỏ viết trên giấy mỏng. Đúng là chữ của Nhất Linh, những chữ viết lăn tăn nhỏ tí như dính với nhau. Trong thư chỉ có mấy hàng, anh vẫn được yên ổn khoẻ mạnh, buôn bán làm ăn khá hơn trước, đừng lo. Nhưng thế là đủ rồi, sau khi biệt tích hơn hai năm. Mọi người trong gia đình, các bạn hữu đều vui mừng khi biết anh còn yên ổn. Lúc ấy, lại thêm một tin mừng: các anh Long, Khái Hưng, Gia Trí và một số anh em khác được thả về, nhưng bị quản thúc. Có lẽ bọn Pháp thấy không nên quá ư hà khắc, cần phải lấy lòng giới trí thức người Việt. Tuy trông gầy yếu và xanh xao, nhưng cũng còn đều khoẻ mạnh. Bộ râu rậm của anh Gia Trí đã mọc tua tủa hơn trước.
Nghỉ ngơi một thời gian, anh em lại bắt tay vào việc. Anh Khái Hưng chuyên trông coi nhà xuất bản, nhà in. Còn anh Hoàng Đạo và tôi kiêm về việc liên lạc trong, ngoài.
Một sự kiện quan trọng khiến chúng tôi phấn khởi, đó là việc kết hợp giữa Đại việt dân chính đảng và Việt nam quốc dân đảng. Tại Côn Minh, Nguyễn Tường Tam đã thoả thuận cùng Vũ Hồng Khanh về việc này. Hải ngoại bộ Việt nam quốc dân đảng đã đồng ý. Anh em ở ngoài đều chấp thuận việc bỏ danh xưng Đại việt dân chính, có nghĩa là chỉ dùng tên Việt nam quốc dân đảng.
Chỉ còn cần ý kiến của đảng bộ trong nước. Quyết nghị được do một anh em theo đường Hà Giang qua biên giới, về tới Hà Nội giao cho chúng tôi. Trong một buổi họp giới hạn, toàn thể chúng tôi chấp thuận. Từ đó, không còn danh xưng Đại việt dân chính nữa. Về sau, có nhiều sách ghi chú tới năm 45, có đại diện Đại việt dân chính trong các hội nghị đảng phái hay trong Chính phủ là không đúng sự thực, có thể vì việc kết họp này không tuyên bố công khai.
Các anh em dân chính tán thành việc này, một phần cho rằng Việt nam quốc dân đảng có chính danh và uy tín để lãnh đạo quốc dân hơn, một phần chủ trương đi với Đồng minh, với phe các nước dân chủ là chính xác. Nhật bản không có thành ý giúp đỡ công cuộc độc lập của Việt nam, và cũng đương thất bại trên mặt chiến trường.
Trên thực tế, tại quốc nội, các anh phụ trách Việt nam quốc dân đảng như Chu Bá Phương, Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Xuân Tùng cũng đồng ý thực hiện việc họp nhất. Một bộ chỉ huy được thành lập. Song các chi bộ ở dưới vẫn hoạt động riêng trong phạm vi của mình. Công việc chung là đưa một số cán bộ trẻ sang Trung quốc huấn luyện, thiết lập mấy khu bí mật tại biên giới và tại Bắc Giang, Đông Triều, nhưng chưa thành căn cứ võ trang củng cố. Một công tác quan trọng, là tuyên truyền, dấy động quần chúng vẫn chưa được thúc đẩy mạnh, trong khi Việt nam Độc lập Đồng minh hội (tức Việt minh) do đảng cộng sản thành lập đã bắt đầu khai triển tuyên tuyền chủ truơng chống Pháp, chống Nhật và đặt căn cứ ở Cao Bằng, Bắc Cạn. Sự kết hợp giữa Đại việt dân chính và Việt nam quốc dân đảng là một bước đầu đáng kề, vì Việt nam cách mệnh đồng minh hội chỉ có danh mà không có thực, lại thiếu lãnh đạo. Vấn đề đoàn kết giữa các lực lượng quốc gia từ trước tới nay vẫn là một vấn đề nan giải. Năm 1944, đứng trước tình thế cấp bách và những hoạt động của Việt minh, các anh em ở hải ngoại có thảo ra một văn kiện nói về việc thống nhất gửi về trong nước, vừa để báo cáo vừa để yêu cầu quốc nội tích cực hành động (nguyên văn đăng ở sau).
Bản này do các vị Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Lý Đông A và một vị nữa không rõ là ai, ký tên, do anh Tam chính tay viết. Về phần cương lĩnh thống nhất các đảng phái, bản văn đưa ra khẩu hiệu một chủ nghĩa, một chỉ huy, và đối ngoại thì muôn mặt.

- Một chủ nghĩa, lấy Duy dân chủ nghĩa của Phan Bội Châu (đổi mới).
- Một chỉ huy, một tổ chức.
- Ngoại giao muôn mặt, tùy tiện lợi mà lấy tên riêng, như Việt nam quốc dân đảng ở hải ngoại, Đại việt quốc dân đảng đối với dân chúng trong nước.
- Một lá cờ, một đảng ca.
Về hành động, đề nghị trong nước lập ngay ban Chấp Hành Trung ương, lập các tỉnh đảng bộ, các trạm giao thông, tổ chức một đội cách mệnh nhà nghề v.v.
Bản văn kêu gọi Ngày giờ đã khẩn cấp! Mau lên mới kịp đối phó. Chiến tranh thế giới sắp tới hồi quyết định, sự hưng vong của nòi giống Đại việt ta là ở lúc này đây.
Câu cuối cùng trong bức thư, anh Tam viết: ở ngoài, ở trong cùng hết sức để rồi có ngày kia băt tay nhau ở đất nước nhà, trong cái không khí tưng bừng của ngày Quốc Hội, ngày đầu tiên của nước Đại việt độc lập. Bức thư này ký tên ngày 12 tháng 1 năm 1945.
Không phải là anh em trong nước không nghĩ đến việc kết hợp thành một trận tuyến chung. Năm 1944, một mặt trận lấy tên là Đại việt Quốc gia Liên minh gồm có đại diện Tân Việt nam quốc dân đảng, Đại việt quốc xã, Đại việt dân chính, Đại việt quốc dân đảng được thành lập. Căn cứ trên tình hình đặc biệt trong nước, Liên minh này có khuynh hướng dựa vào thế lực của Nhật để đánh đổ sự thống trị của Pháp trước đã. Nhưng lúc đó, muốn lợi dụng thế lực của ngoại quốc, trước hết bản thân mình phải có tổ chức chặt chẽ và có lực lượng thích ứng. Các đảng phái quốc gia tuy nhiều, nhưng lực lượng không mạnh, chỉ huy không nhất trí, thiếu sách lược cụ thể và quyết đoán khi thời cơ tới, nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội hiếm có, khiến đảng cộng sản Đông dương, với Mặt Trận Việt minh thống nhất hơn, có hệ thống hơn, đã nắm được thời cơ. Đây là một bài học đắng cay và bi đát không bao giờ có thể quên. Đại việt Quốc gia Liên minh lại thiếu tuyên truyền mạnh, không ảnh hưởng sâu vào quần chúng.

Đảng cộng sản có nhiều thủ đoạn tuyên truyền để lôi kéo quần chúng. Họ cũng học được một số kinh nghiệm về hoạt động đảng vụ do Liên Xô, Đệ Tam Quốc tế, và Trung Cộng truyền cho. Những người quốc gia hồi ấy đã đánh giá quá thấp đảng cộng sản và thiếu biện pháp để đánh bạt ảnh hưởng của đối phương. Trước dân chúng hồ hởi và dễ tin, Việt minh tưng ra khẩu hiệu Chống Pháp, chống Nhật có vẻ quyết liệt, hấp dẫn, tung ra tin có Đồng minh ủng hộ, tin đã chiếm được bảy tỉnh miền Tây Bắc, tin nông dân đói nổi lên khởi nghĩa, diệt bọn cường hào ác bá tích trữ lúa gạo... Đồng thời, lại tung ra những lời vu cáo các phái quốc gia, Đại việt, toàn là thân Nhật, phản động, khiến dân chúng có ấn tượng xấu. Nhiều thanh niên, trí thức đã tham gia vào hàng ngũ Việt minh. Xuân Diệu, Huy cận... trong nhóm Ngày Nay, Tự lực văn đoàn, và ngay Dương Đức Hiền đã trở thành một lãnh tụ đảng Dân chủ, một đảng bung sung trong Việt minh. Một đảng khác, trong Việt minh, đảng Xã Hội, cũng do một số trí thức, chuyên môn thành lập.. Trong những địp tiếp xúc bí mật, tôi còn nhớ những khuôn mặt lãnh đạo các đảng phái khác, đặc biệt là của Việt nam quốc dân đảng và Đại việt quốc dân đảng lúc đó còn hoạt động riêng.
Lần đầu tiên, gặp mấy anh em Việt Quốc tại một ngôi nhà nhỏ trong làng Nghi Tàm, nằm bên bờ đê và mặt trông ra một góc Hồ Tây. Nghi Tàm, một nơi quen thuộc đối với thanh niên nam nữ Hà Nội, hay tới đó bơi lội. Trong số anh em đó, một người trạc bốn mươi tuổi, hơi thấp, mặt tròn, để râu mép, đôi mắt rất thông minh, ăn nói chậm rãi, mới trông thọat như một ông thầu khoán, đó là anh Chu Bá Phượng. Anh Phượng trước đã từng làm cho công ty Hỏa xa Vân Nam, giữ việc liên hệ giữa trong và ngoài nước. Tính tình điềm đạm, nhưng bàn luận rất mạch lạc, rất thực tế.
Chúng tôi bàn luận về việc cộng tác và họp nhất, và đồng ý do anh Phượng phụ trách công tác tổ chức chung. Từ đó, trên thực tế, anh Phượng là nhân vật trọng yếu nhất về nội vụ trong Việt nam quốc dân đảng. Anh Hoàng Đạo chủ yếu nắm công tác đối ngoại và tuyên truyền, vì có uy tín cao trong xã hội. Tôi cũng được may mắn gặp anh em Đại việt quốc dân đảng, đứng đầu là anh Trương Tử Anh, trong một buổi họp cấp cao, tại một căn nhà gần phố chợ Hôm. Anh là một người có dáng vóc trung bình, khuôn mặt vuông, người rắn chắc, đôi mắt đầy vẻ cương nghị và tự tín. Anh nói không nhiều, nhưng mỗi câu đều chắc nịch, có sức thuyết phục. Hai bên đồng ý trên nguyên tắc về việc cộng tác, nhưng chưa đề cập tới việc kết họp hẳn, vì còn đợi ý kiến của cả quốc ngoại. Một phái đoàn ngoại giao dự bị đi Trung quốc vào đầu năm 1945. Một nhân vật Đại việt quốc dân đảng rất tích cực lúc đó, anh Nguyễn Tiến Hỷ, tự Phan Trâm, bạn học dưới tôi một lớp, chuẩn bị cầm đầu phái đoàn. Và trong phái đoàn, còn có anh Nguyễn Sĩ Dinh, cùng học một lớp với tôi.
Ngoài ra, còn có mấy anh Nguyễn Tôn Hoàn, Đặng Văn Sung, Phạm Khải Hoàn tức Hy Tống. Nguyễn Tôn Hoàn, Đặng Văn Sung đều là sinh viên y khoa, cùng lớp với Phan Trâm.

Chương 18

Thế Chiến Thứ Hai Sắp Chấm Dứt
Tin quân Đồng minh đại thắng tại âu Châu, phát xít ý bị 1 diệt, Đức quốc xã bị dồn vào bản thổ, Bá Linh bị Hồng Quân bao vây, Nhật bản đã mất Phi Luật Tân, và Okinawa bị uy hiếp mạnh- đưa lại một tình trạng phức tạp chưa biết sẽ kết cục ra sao.
Nếu thời cục đưa lại hy vọng cho người Pháp ở Đông dương, trước sự bại trận chắc chắn sẽ tới của quân Nhật, thì người Việt nam đứng trước khó khăn. Pháp nhất định sẽ nắm vững quyền lực, không để cho hỗn loạn xẩy ra. Đồng minh có muốn can thiệp cho tự do, độc lập của các nước Đông dương cũng khó vì Pháp lại là một trong Đồng Mình. Nghĩ cho kỹ, tình hình cũng không lạc quan lắm.
Còn người Nhật cũng đứng trước cảnh hầu như tuyệt vọng, vừa sợ Đồng minh tấn công vừa lo quân Pháp thừa cơ lật mặt. Song họ còn ngoan cố, chưa chịu bó tay, tiếp tục kháng cự, với hy vọng là điều đình, giữ lại một phần đất đai đã chiếm được. Bất thình lình, sau một tối hậu thư của tướng Matsumoto gửi cho viên Toàn quyền Decoux, yêu cầu lực lượng Pháp phải chịu sự chỉ huy của quân đội Nhật, ngay tối hôm mồng 9 tháng 3 quân Nhật mở cuộc tấn công cấp tốc vào các cơ sở quân sự của Pháp ở khắp Đông dương.
Hôm đó, tôi ở phố hàng Bè, Hà Nội. Gần nửa đêm bỗng nghe thấy tiếng súng nổ vang, hình như ở phía Cột Cờ, ở chỗ trại lính phố Cửa Bắc đưa tới, rồi dần dần lan ra chung quanh. Không ai dám ra ngoài, đường phố vắng ngắt. Không một bóng người. Nhưng tất cả đều cũng đoán được sự gì đã xẩy ra. Gần sáng, tiếng súng đã tất hẳn. Từ cửa sổ trông ra, đầu đường đã có mấy tên lính Nhật tuốt lưỡi lê đứng canh. Sau đó, họ rút về trại. Sự phản kháng yếu ớt của Pháp đã bị đàn áp rất nhanh. Xem ra người Pháp cũng không dại gì chống cự kịch liệt vô ích, chỉ thêm thiệt hại nhiều, trong khi chỉ cần chờ đợi một thời gian nào đó thôi là Nhật tất sẽ bại.
Mọi công việc làm ăn vẫn tiếp tục như thường. Thành phố rất nhanh trở lại yên tĩnh, chỉ có khác là trên đường phố chỉ thấy bóng lính Nhật, không thấy bóng dáng của người Pháp nữa. Bây giờ, Nhật bản trục tiếp thống trị, và tuyên bố long trọng trao trả độc lập cho Việt nam, Nhật bản không có tham vọng gì về Đông dương. Chính phủ Bảo Đại thực ra không có quyền hành gì, trừ việc quản lý nội bộ. Dù sao, đây cũng là một cơ hội có một không hai trong lịch sử, vì nền đô hộ của Pháp đã sụp đổ. ít ra, tạm thời cũng thoát được một ách gông cùm. Dân chúng hồ hởi về những vụ reo hò độc lập, hạ cờ Pháp, lật đổ tượng Paul Bert tại vườn hoa, đổi tên đường phố, và một số chính trị phạm được tha về. Nhưng những người có nhiệm vụ, cần phải nhìn xa, trông rộng hơn, Cần phải tiên đoán... Thời thế bắt đầu có, nhưng anh hùng cũng có thể tạo thêm thời thế.
Mục tiêu của người Việt lúc này là tích súc lực lượng để khi quân Nhật thất bại, thừa cơ nắm lấy chính quyền trước khi người Pháp có thể trở lại. Trông mong vào Bảo Đại không phải là một phương thức tốt, tuy rằng cũng là một yếu tố quan trọng nếu triều đình Huế nắm được lực lượng và tích cực chống Pháp. Trong lúc thúc đẩy việc chỉnh đốn các đảng bộ địa phương ở miền Bắc và miền Trung, theo đề nghị trước đây của anh em hải ngoại, do các anh em bên Đại việt quốc dân đảng tổ chức phái đoàn ngoại giao, trong đó có anh Nguyễn Tiến Hỷ, Phạm Khải Hoàn, Nguyễn Sĩ Dinh v..v. theo đường Lao Cai tiến sang Trung quốc. Tới Côn Minh, các anh em đó hợp với một số anh em Việt nam quốc dân đảng Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ, Lê Khang, thành một phái đoàn thống nhất của người Việt nam quốc gia. Các anh em còn có nhiệm vụ thảo luận về việc đoàn kết, thống nhất các lực lượng quốc gia.
Để tranh thủ dân chúng, lợi dụng tình thế đặc biệt, chúng tôi quyết định tăng cường việc tuyên truyền cho công cuộc giành độc lập của dân tộc. Lúc đầu, qua tờ Bình Minh, rồi sau đó, cho tái bản tờ Ngày Nay, với mục đích truyền bá tư tưởng ái quốc, dân chủ và cải cách xã hội. Tất nhiên, lúc này, không thể công khai đả động tới người Nhật hay chính phủ Huế. Các anh em cử tôi làm giám đốc tờ báo, anh Khái Hưng phụ trách toà soạn, anh Nguyễn Trọng Trạc, một đảng viên đảng Xã hội Pháp, giữ việc trị sự. Nội dung tờ báo khác trước ở chỗ thiên về bình luận chính trị, xã hội, văn hoá, có tính chất hướng dẫn và xây dựng. Lúc này không còn là lúc làm thơ văn khóc sướt mướt, đầy tình cảm lãng mạn nữa, mà là lúc đánh thức, dấy động lòng yêu nước, ý chí đấu tranh của mọi tầng lớp. Quần chúng trong thời kỳ chuyển tiếp này, cũng mong muốn được nghe những tiếng nói có tính chất cổ võ và chỉ đường.
Chủ trường của Ngày Nay bộ mới phù hợp với nhiều tầng lớp trong xã hội. Những bài xã luận có tính chất hô hào, những phân tích về tình hình trong ngoài, hay phóng sự về những vấn đề sôi nổi làm cho độc giả cảm thấy mới lạ, nên được hoan nghênh. Tôi còn nhớ khi ra số đầu tiên, ngay trên bìa vẽ tranh về thời sự, phần trên vẽ mấy người giơ tay hoan hô Độc lập! Độc lập phần dưới lại vẽ những người chết đói ngắc ngoải với đầu đề Đói! Đói! bộc lộ thực trạng cay đắng trước mắt độc giả. Bức tranh đó được nhiều người tán thưởng. Với sự cố gắng và tinh thần làm việc của các anh em, báo bán rất chạy, qúa sự mong muốn của chúng tôi, in ra tới số kỷ lục từ trước tới nay-- hơn mười ngàn số một kỳ.
Những ngày đầu năm 1945, một năm trọng đại trong lịch sử nước ta và cả thế giới, sự thống khổ của dân ta dưới hai tròng áp bức và bóc lột đã lên tới tột điểm, nhưng lại thêm tại họa mới: nạn chết đói khủng khiếp ở miền bắc Việt nam. Ai đã từng sống những ngày đó tại Bắc Việt đều chắc không bao giờ quên cảnh trạng có một không hai ấy. Cảnh này cũng đã có nhiều người, nhiều sách tường thuật rồi.
Tôi còn nhớ như in những xác chết nằm còng queo tại gầm cầu Hà Nội, tại bờ sông, gần các chợ và trong những ngõ hêm, hay rải rác trên ven những đường từ ngoại thành vào. Cũng không quên được những xác sống đủ già, trẻ, lớn, bé, mắt hõm sâu tay chân chỉ còn là mấy ống xương, nằm dụi vào nhau tại vỉa hè hay đi lởn vởn gần những gánh hàng ăn. Những người đáng thương ấy nhiều khi liều mạng cướp giật chiếc bánh hay đồ ăn trong tay người khác rồi chạy đi, không rõ có sức mạnh gì khiến họ còn làm nổi việc ấy. Tội phạm trong vụ làm người chết đói tới hàng triệu này không ai khác là bọn Pháp, bọn Nhật cưỡng bách mua thu hết với giá giết người, gạo để trong kho và cung cấp xuất khẩu, và còn bọn gian thương, một số địa chủ cũng thừa cơ tích trữ gạo để bán ra với giá cầt cổ. Chết đói nhiều nhất tất là nông dân, điều này giải thích tại sao nông dân đã nổi lên tại nhiều nơi để tìm đường sống.
Thảm trạng nạn chết đói càng làm cho nhiều người hiểu rằng không giải trừ được nạn ngoại quốc thống trị thì dân tộc còn phải chịu nhiều đau thương. Lòng căm phẫn trước khổ nạn là một nguyên do khiến muôn ngàn người đã dấn thân vào cách mạng giải phóng dân tộc, không cần rõ là do ai lãnh đạo.
Chương 19
Quan Hệ Giữa Các Đảng Phái Việt Nam
Một hôm, vào tháng 6, tôi đương ngồi sửa bài tại tòa soạn thì ở dưới đưa lên một người lạ mặt. Anh ta bảo có thư riêng của một người bạn thân nhờ đưa đến. Rồi anh rút từ ống giầy ra một tờ giấy mỏng. Dưới ký tên một người mà tôi cũng không ngờ đến: Anh Dương Đức Hiền. Đã hơn một năm, tôi không được nghe tin tức gì về anh. Rất mừng, tôi vội hỏi:
- Anh Hiền hiện nay ở đâu? Có thể cho biết không?
- Địa chỉ anh ấy ở đâu tôi không rõ lắm. Chỉ biết anh ấy lên miền Bắc đã lâu, nhưng gần đây thì đã về Hà Đông. Anh cứ theo đúng ngày giờ và địa điểm, nhất định sẽ gặp.
Mừng vì có tin tức của bạn trong đảng ngày trước, nhưng lại e ngại vì trong thư nói anh đại diện cho Việt minh để bàn luận về việc cộng tác trong công cuộc chung.
Lúc đó, anh Long vắng mặt, nên anh em cử tôi và anh Khái Hưng đi gặp Dương Đức Hiền. Chỗ hẹn là một nơi ở cách Hà Đông độ năm cây số. Chúng tôi đạp xe, gần đến Hà Đông thì rẽ vào một con đường nhỏ, lầy lội, có khúc phải vác cả xe lên vai, lội bùn mà đi. Gắn đến bờ sông Nhuệ, tới một tòa miếu cổ, thì thấy một người mặc quần áo nâu ra đứng đợì. Tuy quần áo khác, nhưng vẫn nhận ra được anh Hiền, gầy hơn, mặt đen sạm, nhưng hai hàm răng lại quá trắng, chẳng cần phải là mật thám cũng biết đây là một nông dân giả hiệu.
Chúng tôi ngồi trên thềm miếu, nhìn xuống giòng sông Nhuệ nhỏ nước chảy êm đềm, trông hao hao giống con sông Sen ở quê nhà. Chung quanh vắng không có bóng người, chỉ có một người ngồi sau rniếu, có lẽ là một tay súng hộ vệ. Sau vài lời hàn huyên, anh cho biết là đã gia nhập vào Việt Minh, với tư cách lãnh đạo đảng Dân chủ, và khuyên chúng tôi cùng các anh em Dân chính khác cũng nên tham gia Việt minh, không nên đứng lừng khừng nữa. Anh cầm tờ Ngày Nay trong tay, phê bình chủ trương của nó không triệt để, không cách mạng theo đường lối công nông. Anh nói Việt minh nay đã phát triển mạnh, có căn cứ quân sự, được Đồng minh ủng hộ. Như vậy, tôi biết anh chưa rõ về việc Đại việt dân chính đã hợp nhất với Việt nam quốc dân đảng, và cũng đã đứng về phía Đồng minh. Vì nguyên tắc bí mật, chúng tôi chỉ nghe, không giải thích gì. Có lẽ vì thế mà anh thất vọng, rằn giọng nói:
- Nếu các anh cứ lừng khừng như thế mãi, thì có ngày Nhật sẽ beng đầu các anh, mà nếu không thì cách mạng sẽ beng đầu các anh!
Đó là nguyên văn lời nói. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, vì lại chính do một đồng chí cũ đưa ra. Tôi và Khái Hưng chỉ cười, đưa mắt nhìn nhau: tuyên truyền anh em cũ vào tổ chức mình mà lại dùng cách đe dọa thì thực là hạ sách. Và lối nói tự kiêu, chỉ có mình mới là cách mạng thì thực là chủ quan, và tỏ ra rằng anh cũng không biết gì về hoạt động của các đảng phái quốc gia. Tôi đáp lời:
- Cách mạng Việt nam thì có nhiều con đường để đi, không nhất định là phải tham gia vào Việt minh. Song về việc hợp tác, chúng tôi sẽ về bàn với các anh em rồi sẽ trả lời sau.
Kết cục, hẹn một tuần sau sẽ gặp lại. Nhưng sau đó, lại nhận được thư của anh Hiền, nói là phải đi lên miền trên có việc cần và sẽ liên lạc sau. Từ đó, không được tin tức của anh nữa, và mấy tháng sau, không ngờ lại gặp anh trong một buổi họp các đảng phái, mà từ bạn hữu đã trở nên đối địch. âu cũng là định mệnh. Chúng tôi cũng muốn hợp tác vì công cuộc chung, góp sức với nhau để đuổi quân xâm lăng ra khỏi nước. Song, thực ra, hai bên có thể chân thành cộng tác với nhau không, lại là một vấn đề khó giải.
Qua cuộc gặp gỡ trên, có những điều, mà nếu lúc đó phe quốc gia phân tích và suy xét kỹ, thì cũng có thể giúp ích trong công việc. Một là, Việt minh không biết rõ lắm về hoạt động của Đại việt Dân chính và Việt nam quốc dân đảng, cùng Đại việt quốc dân đảng, điều này chứng tỏ việc tuyên truyền của đảng phái quốc gia không được mạnh. Hai là, Việt minh đương sửa soạn một cuộc hội nghị quan trọng ở Tân Trào, Thái Nguyên, mà tình báo của Việt nam quốc dân đảng chưa biết tới. Theo chỗ tôi thấy, vì tổ chức nội bộ chưa được kiện toàn nên việc tình báo đối địch và đối với những nhóm người Việt khác cũng chưa có kế hoạch cụ thể, lại không có một sách lược toàn diện về mọi mặt nội, ngoại, và nhiều khi phải ứng phó, nước đến chân mới nhẩy. Đây cũng là một kinh nghiệm quan trọng mà người đấu tranh cần phải rút ra qua những thất hại đắng cay. Thất bại tuy không phải là điều mình mong muốn, song đáng sợ nhất là thất bại mà không biết sửa đổi, mà vẫn tự cho mình là thiên hạ đệ nhất.
Một lý do khiến cho các đảng phái quốc gia không nắm được thời cơ đúng lúc, là tin rằng Nhật bản còn đủ sức để chống cự một thời gian dài nữa, nên không cấp tốc chuẩn bị một cuộc tổng hành động hay một cuộc đảo chính khi cơ hội tới.
Phái đoàn ngoại giao từ trong nước ra họp với anh em ở hải ngoại tại Côn Minh và Trùng Khánh. Tất cả đồng ý trên nguyên tắc thống nhất tổ chức. Còn danh xưng thì ở trong lấy tên Đại việt quốc dân đảng, ở ngoài lấy tên Việt nam quốc dân đảng. Song nguyên tắc ấy, theo chỗ tôi thấy, chưa được thực hiện trên thực tế và chỉ được biết trong vòng một số người cầm đầu.
Chiến tranh tại âu Châu đã kết thúc. Hitler và vợ đã tự sát. Chỉ còn lại đế quốc Nhật có quân tác chiến, tứ bề thù địch. Những binh lính Thiên Hoàng hiện không còn có vẻ uy phong lẫm lẫm như trước nữa.
Hội nghị Potsdam đưa ra cảnh cáo, yêu cầu Nhật bản đầu hàng vô điều kiện, đồng thời cũng có quyết nghị về vấn đề độc lập hay tự trị của các nước bị đô hộ, và phân công trong việc tiếp quản các nơi bị Nhật chiếm đóng khi Nhật đầu hàng. Viễn ảnh quân Đồng minh sẽ nhập Việt đã mang đến hy vọng cho người Việt, nếu sau này quân Trung Hoa tiến vào thay quân Pháp. Dù thất bại dồn dập, quân Nhật vẫn ngoan cố kháng cự. Tháng 7-1945, sau những trận đánh khốc liệt, toàn bộ toán quân tử thủ đảo Okinawa đã trận vong. Bom Mỹ ném xuống như mưa tại các thành phố Nhật, gồm cả Đông Kinh, uy hiếp đến tính mệnh của Nhật Hoàng và đến Chính phủ Đông Điều.
Tại Trung quốc, tại Đông Nam á, quân Trung Hoa, quân Anh mở cuộc phản công dữ dội, quân Liên Xô tấn công Mông Cổ, trực tiếp uy hiếp đến Mãn Châu, bản doanh của đội quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật.
Đây thực là tứ bề Sở ca như Hạng Vũ bị vây khốn cùng Ngu Cơ tại Cai Hạ trước khi nhẩy xuống sông Ô Giang tự vẫn.
Nhưng bọn quân phiệt Nhật vẫn chưa chịu bỏ súng. Thà chết chứ không đầu hàng, là một khẩu hiệu lưu truyền trong các doanh trại Nhật. Đông Điều cự tuyệt lời hô hào của Đồng minh, quyết tâm ngọc đá cũng tan.
Hàng triệu người dân trên thế giới, gồm người Việt Nam, hồi hộp đợi chờ tình hình chuyển động. Nếu Nhật chịu đầu hàng, thì sẽ tránh được tai nạn, nhưng nếu ngược lại, thì sẽ có đổ máu, phá hoại khủng khiếp tại á Châu, và ngay tại Đông dương. Tai họa ghê gớm sẽ rơi xuống đầu bao người dân vô tội.
Vận mệnh dân tộc Việt nam sẽ ra sao trong giờ phút lịch sử quyết liệt này. Và vận mệnh của mỗi người cũng sẽ ra sao? Đó là vấn đề cấp thiết mà người dân Việt, đặc biệt là những đảng phái Việt Nam lúc đó, không thể không đối phó.
Nguyễn Tường Bách
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...