Thứ Ba, 30 tháng 11, 2021

Phong trào Duy Tân 1

Phong trào Duy Tân 1

TỰA

Từ trước đến nay, chúng ta nghe nói tới Phong Trào Duy Tân, nhưng chưa có một quyển sách nào đề cập tương đối đầy đủ về lãnh đạo, tổ chức, phát triển Phong Trào. Chính ngay trong các quyển sử hay Văn học Sử nổi tiếng cũng chỉ trình bày một cách hết sức khái quát con người của Phan châu Trinh cùng vài hoạt động của ông. Không thấy có tác giả nào nói kỹ và toàn bộ về sức trổi dậy của ngọn triều ở nơi xuất phát (Quảng Nam), để rồi tràn ngập khắp các tỉnh miền Trung trước khi ra Bắc. Nhiều tác giả còn tách rời Đông Kinh Nghĩa Thục ra khỏi cơ thể Phong Trào, xem nó như một thực thể độc lập. Nhiều tác giả khác và chính là lãnh tụ Phong Trào cũng xem vụ Dân biến 1908 là một hiện tượng độc lập khác nữa.
Tôi cho rằng Phong Trào Duy Tân bao gồm tất cả các hoạt động ấy, nhưng nó biểu lộ những sắc thái và khả năng khác nhau của từng địa phương và không phải bao giờ cũng đi theo đường thẳng nhất định, nên khi dân trí lên cao lại thiếu lãnh đạo liền bột phát thành Dân biến. Dân biến cúp tóc (Tân Văn hóa), xin xâu (Dân quyền) là một diễn trình tích cực, sôi động của Phong Trào khi đi sâu vào quần chúng thực tế.
Vậy, Phong Trào đi từ các nông hội, học hội ở các tỉnh Miền Trung theo con đường thương mãi rất phát đạt từ Phan Thiết (Công ty Liên Thành) tới Quảng Nam (Hợp Thương Diên Phong) tới Nghệ Tĩnh (Triều Dương), tiếp theo miền Bắc mở Đông Kinh Nghĩa Thục, các hội buôn rồi từ đó phát triển vào Nam là một Phong trào không chỉ nặng về kinh tế, giáo dục, văn hóa mà còn cả chính trị mà kết quả là vụ nhân dân nổi lên chống thuế. Có thể gọi Phong trào là toàn diện, là thực sự Duy Tân theo bóng cờ Dân quyền, chứ không phải chỉ là những vá víu cải lương, hơn như thế, những nhân vật Phong Trào đã phục vụ bằng tâm huyết, bằng tinh thần Cách Mạng để quyết tâm làm Mới Con Người, làm Mới Xã Hội. Từ đầu thế kỷ đến 1945, chưa hề có một Phong trào thứ hai có tính cách toàn diện và phát triển rộng ra khắp ba kỳ như thế.
Quyển sách này được viết trong một hoàn cảnh hết sức thiếu thốn. Nhưng tuy thiếu tài liệu khá nghiêm trọng mà tôi vẫn còn được một cái may mắn khác bù đắp : một số nhân vật trên dưới tám mươi tuổi đã chứng kiến, đã biết, đã hoạt động cho Phong trào, vẫn còn sống. Các vị ấy đã cho tôi những chỉ dẫn cần thiết để tạo lại một vóc dáng của Phong trào và qua đó, tôi được truyền thụ những bài ca, những buổi học tập thể dục, những hình ảnh các chiến sĩ, những hoạt động thương mãi, những cuộc tranh đấu dai dẳng và kiêu hùng của nhân dân…
Nhân dịp quyển sách này ra đời, tôi xin ngỏ lời cảm ơn Ông Cử Lương trọng Hối (mới mất năm nay), Ông Cử Hồ Ngận, Ông Bà Lê Ấm (bà là con gái của Phan châu Trinh), Ông Võ Hoán (một thân sĩ ở Quảng Nam), Ông Nguyễn xương Thái (Nguyên quản lý báo Tiếng Dân). Các vị cao niên này đã thành thực chỉ dẫn cho tôi những điều mà các vị đã biết một cách rất đích xác, theo trí nhớ còn sáng suốt và sự cân nhắc rất bình tĩnh của tuổi già. Ông Nguyễn Q. Thắng, một bạn thanh niên cũng gởi cho nhiều tài liệu đã dày công ghi chép tại Tam Kỳ.
Nhưng có một người mà tôi rất muốn cám ơn, song tiếc là không bao giờ còn có dịp : Ông Huỳnh thúc Kháng. Trong khi theo dõi những tập báo, những tác phẩm (một phần lớn là do nhà Anh Minh, Huế, ấn hành), tôi nhận thấy Ông thực sự là sử gia của Phong trào Duy Tân, sử gia quan trọng bậc nhất mà nếu không có những tài liệu rời rạc của Ông để lại, với sự kiện dồi dào, chính xác, với óc nhận xét sâu xa, niềm tin vững mạnh và diễn tả bằng giọng văn trầm hùng, tôi sẽ không biết dựa vào đâu để sưu tầm, nghiên cứu, phỏng vấn, và như thế quyển sách này chắc không thể nào xuất hiện. Người ta vẫn phục Ông cho là có trí nhớ tuyệt hảo. Tôi cũng nhận thấy lời khen ấy không quá đáng khi duyệt xét các tài liệu và do đó nhiều khi cần phải so sánh một sự kiện, một niên hiệu giữa Ông và Ông Phan châu Trinh, tôi đã tin ở ông hơn, lẽ tất nhiên ngoại trừ những việc mà Phan châu Trinh biết rõ theo cương vị lãnh tụ của phong trào. Cũng dưới ngòi bút trầm hùng của Huỳnh thúc Kháng, các nhân vật lớn của thời kỳ lịch sử này sống lại, linh động khác thường.
Tôi giới thiệu toàn bộ tác phẩm của Ông, kể cả tập báo Tiếng Dân, cho bất kỳ ai muốn nghiên cứu một cách đứng đắn, có thực chất, mọi phương diện chính trị, văn hóa, kinh tế, giáo dục của Phong trào Duy Tân và của Trung Việt nửa đầu thế kỷ 20 (mà nhiều phen ông đóng vai trò quan trọng, ít ra là về phương diện tinh thần) nhưng lại rất thiếu sự quan tâm của học giới ngày nay.
Quyển sách này, ban đầu tôi viết thành ba phần : Tiền Phong Trào, Phong Trào và Hậu Phong Trào. Với cái tên chung Phong : Trào Duy Tân. Nhưng khi viết xong tôi thấy nó dày quá, khó phổ biến, nên quyết định dứt ra làm ba quyển khác nhau. Do đó, phần thứ hai tức Phong Trào Duy Tân 1905-1908 được in trước. Sau này, tôi sẽ cho ấn hành hai tập kia. Toàn thể ba tập ấy sẽ trình bày khái quát công cuộc Duy Tân của Việt Nam :
a) Tiền Phong Trào : từ thời các Chúa đến cuối thế kỷ XIX
b) Phong Trào Duy Tân 1905-1908
c) Hậu Phong Trào 1908-1945
Trong ba phần này, thực sự chỉ có Phong Trào Duy Tân 1905-1908 là quan trọng nhất, xuất hiện như một ánh sáng lồ lộ, phát ra tiếng vang dội khắp núi sông, đẫy quặt lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế… sang một ngã rẽ sau khi đã góp phần lớn lao Làm Mới con người và xã hội.
Tôi hy vọng bạn đọc khi xem sách này sẽ không cho tôi là có óc lập dị, muốn bày đặt những lối «bứt râu cha nọ cắm cằm mẹ kia» mà thực sự chỉ là theo tính chất, thực chất của dữ kiện mà phân loại, hệ thống và trình bày đúng theo diễn tiến tất yếu của lịch sử một cách khách quan.
Phương pháp tôi dùng không Mới nhưng cũng chưa Cũ. Cũng như Duy Tân đối với chúng ta không mới mà nhất định chưa cũ. Đó là vấn đề của ngày nay, ngày mai. Chúng ta còn phải học người xưa rất nhiều để thực hiện một cuộc Duy Tân vừa toàn bộ, vừa không xa rời Dân tộc tính, Nhân bản tính. Mối lo âu lớn lao của tất cả những nước nhược tiểu là ở điểm căn bản ấy : triệt để theo mới, nhưng phải cơ sở trên tính chất dân tộc, điều kiện địa phương để khỏi vong bản, bị máy móc chi phối, nô lệ tha nhân.
Một công cuộc phục hưng tinh thần Phong trào Duy Tân với cuộc đại vận động Tân Chánh giáo, Tân văn hóa, Tân sinh hoạt thật cần thiết nếu chúng ta muốn sinh tồn và tiến bộ trong một thế giới đang đi tới trên những đôi hia bảy dặm.
NGUYỄN VĂN XUÂN
PHẦN I






NGUYỄN LỘ TRẠCH VÀ
THIÊN HẠ ĐẠI THẾ LUẬN
CÔNG CUỘC đổi mới ở Đàng Trong của các Chúa Nguyễn đã lẻ tẻ thực hiện, không vượt qua những nhu cầu chiến tranh xa lắm. Nhưng trước sau chưa có một người nào đặt thành vấn đề Duy Tân, nói cụ thể là cải tiến các ngành giáo dục, quân sự, thương mãi… theo Tây phương. Thành phố Hội An tiếp đón hằng năm bao nhiêu thương thuyền ngoại quốc, mang lên bờ bao nhiêu tấn hàng hóa lạ, nhân vật có khả năng khoa học, y học… vẫn không làm xúc động một bộ óc minh mẫn nào khiến họ phải đặt vấn đề thắc mắc, nghĩ xa.
Khi những lực lượng tiến như vũ bão, bách chiến bách thắng của Tây Sơn nổi dậy, hẳn nhiên phải nhờ cậy ít nhiều những vũ khí đạn dược Tây Phương, thế mà Nguyễn Huệ, người có nhãn quan chính trị và quân sự đặc biệt, vẫn chưa bao giờ gợi cho người ta là ông đã nghĩ tới công cuộc Duy Tân. Còn Gia Long, dĩ nhiên ông chỉ dùng các chiến cụ kỹ thuật Tây Phương một cách hữu hiệu theo giai đoạn tính.
Cho tới khi Pháp chiếm hẳn ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ, vấn đề Duy Tân mới được đề ra. Cùng một lúc, Phạm phú Thứ vượt biển với phái bộ như Tây đã sững sờ mở đôi mắt kinh ngạc trước những khả năng kỳ diệu muốn đoạt quyền tạo hóa. Trở về, ông vừa trình bày một tập nhật ký hoàn toàn mới lạ, vừa cho ra luôn trong một thời gian năm bộ sách mà ông dày công sưu tầm, đề tựa và thuê thợ khắc in để giới thiệu nền văn minh của thế giới Tây Phương:
1) Bác vật tân biên (nói về khoa học)
2) Khai môi yếu pháp (bày cách khai mỏ)
3) Hàng hải kim châm (bày cách đi biển)
4) Tùng chánh di quy (kinh nghiệm trong việc làm quan)
5) Vạn quốc công pháp (Lối giao thiệp quốc tế) 1.
Song song công việc Phạm phú Thứ, Nguyễn trường Tộ, người đã thực sự du học Tây Phương, biết rõ những kỹ thuật Tây Phương đã liên tiếp dâng vua Tự Đức những bản điều trần danh tiếng, những văn liệu mà chúng ta ngờ rằng, nếu Vua dốc quyết tin theo để thực hiện, có thể tình trạng Việt Nam đã có nhiều thay đổi.
Chịu ảnh hưởng của hai vĩ nhân trên, xuất hiện ở Thừa Thiên một nhân vật kiệt hiệt: Nguyễn lộ Trạch, ông người Kế Môn Thừa Thiên, học giỏi không thi cử, nhưng nghiên cứu rất nhiều những sách vở tiền nhân, sách vở ngoại nhập, rút ra được những sở đắc thực tế và tiến bộ, dâng lên Vua Thời Vụ Sách Thượng và Thời Vụ Sách Hạ bàn việc canh tân, cải tiến mọi phương diện chính trị, ngoại giao, quân sự… một cách rất có phương pháp, có thể thực hành để quốc gia thoát tình trạng hoàn toàn bế tắc. 2
Nhưng cả ba bộ óc minh mẫn nhất của hạ bán thế kỷ 19 chỉ được đời tán thưởng, khâm phục hoặc mỉa mai kinh dị mà không được chấp nhận. Rồi nước mất, gót sắt xâm lăng dày xéo khắp lãnh thổ.
Nhưng dù sao, các nhân vật lớn này cũng chỉ có công lớn với tư tưởng Duy Tân, chứ chưa gây được một phong trào, ngoại trừ Nguyễn lộ Trạch, người đã sống sót sau quốc biến, người suýt đưa tư tưởng Duy Tân vượt khỏi lý thuyết để đi vào nẻo thực hành. Nguyễn lộ Trạch đã từng thấy Phong trào Văn Thân, Cần Vương được phát động tứ tung. Nhưng những lãnh tụ các lực lượng ái quốc này đều giống nhau ở điểm : cùng không tin là mình sẽ thành công ! Họ cảm thấy đúng hơn, nhận thấy mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết kính cẩn thực hiện tín điều «sát thân thành nhân» và «Thung dung tựu nghĩa» để khỏi hổ thẹn với nền giáo dục Tống Nho đã được nghiêm trang thu nhận. Về điểm này thì các Vua Nguyễn tuy thất bại hoàn toàn trên phương diện chiến đấu, nhưng lại thành công trên chính một điểm làm cho lịch sử giật mình: lãnh tụ lớn, nhỏ của cao trào Văn Thân, Cần Vương dám đi vào cõi chết như tìm về Thánh Địa! Chắc chắn lịch sử Việt Nam chưa bao giờ biết tới những đứa con yêu của tổ quốc chiến đấu trong vô vọng và chết trong vô vọng nhiều và kiêu hùng đến thế suốt mấy chục năm trường!
Những cái chết ấy hẳn nhiên phải làm cho những kẻ thù của chúng ta, những người chuyên cậy vào súng đạn phải lo lắng. Họ phải thấy những anh hùng coi thường cái chết ấy ngày nay sẽ không phải không gây mầm mống cho những hoạt động oai hùng hữu hiệu khác ngày mai nếu những kẻ kế tục sự nghiệp họ được võ trang kiến thức và vũ khí mới.
Những sĩ phu Việt Nam sáng suốt nhất cũng đã nhận thấy rõ ràng điều ấy. Người hăng hái đánh Tây xâm lăng, đánh với tư tưởng mới, có chiến lược, chiến thuật, với lòng ái quốc nồng nhiệt nhất Nguyễn lộ Trạch cũng là người đi tiền phong trong nhận định mới này.
Đánh Tây! Đuổi thực dân xâm lăng! Rất đúng! Đó là vấn đề Đại Nghĩa kẻ sĩ phải rấn lên hàng đầu nhận lấy trách nhiệm. Nhưng không thể coi thường mạng dân, không thể nhắm mắt đui mù trước sự thật về tương quan lực lượng hai bên, khi đối phương đang chiếm được những điểm chiến lược trọng yếu, lập đồn lũy kiên cố, còn ta thì lực lượng toàn bộ tê liệt, tiêu điều sau lần vươn dậy cuối cùng của Cần Vương. Những lãnh tụ chết, những đạo quân tinh nhuệ tan rã, những chiến khu bí mật bị phá vỡ, những đồn điền, kho lương thực bị thiêu rụi, lòng người hãi hùng trước vũ khí Tây Phương. Trong tình trạng không còn một hậu phương, một căn cứ tạm gọi an toàn, một biên giới bạn để ẩn náu thì dù có giỏi đến mức độ nào cũng chỉ như Đề Thám, Phan đình Phùng là cùng…
Bởi thế, ta không ngạc nhiên là một người sáng suốt như Nguyễn lộ Trạch phải thay đổi đường lối, chủ trương, chiến lược.
Từ chủ trương vũ trang súng ống, tàu bè Tây Phương để đánh Pháp, ông chuyển sang vũ trang tư tưởng Duy Tân để tạo điều kiện và cơ hội cho sĩ phu và quốc dân mở mắt trước thời cuộc, trước Đại thế của thiên hạ (đất nước) đã hoàn toàn thay đổi.
Nói cách khác, lý tưởng và mục đích không thay đổi dù tình thế đã thay đổi, kẻ sĩ Nguyễn lộ Trạch vẫn tiến lên hàng đầu sĩ phu và quốc dân. Cùng tiến lên với ông, người ta thấy có Nguyễn thượng Hiền, Phạm phú Đường… 3 Nhưng không một người nào có cái nhìn sâu sắc, thực tế và bao quát bằng ông. Cũng như không ai có đủ uy tín cá nhân như ông. Vì ông đã không thi cử, tuy ai cũng biết ông có tài học hơn đời. Người ta đã biết văn chương ông qua các điều trần. Chúng ta cũng không nên quên các văn phẩm của ông được nhiều thức giả thời – ấy thời rặt văn khoa-bảng truyền tụng. Chính ở điểm này mà người ta càng thêm phục cái chí cao cả của cậu ấm tàng tàng.
Tiếc rằng, cho đến nay chưa có những sưu tầm đầy đủ nào, ngoại trừ một số câu văn, đoạn văn ít oi còn lưu lại. Nhưng có lẽ không cần nhiều, chỉ một bài khỉ ưu thiên sau đây cũng nói lên được cái tâm sự của một nhà đại ái quốc với văn tài đi trước Khương hữu Vi và Lương khải Siêu như Huỳnh thúc Kháng thường ca ngợi.
CHUYỆN KHỈ LO TRỜI
Đại ý : Việc đời nhiều điều đáng lo mà người thường không để ý đến, nếu điều lo kia như khát mà cần uống, đói mà cần ăn thì ai cũng biết được, duy có điều đáng lo đó hơi kín nhiệm nên kẻ thức giả mới trông thấy mà người thường lại khinh suất. Như chuyện Khỉ Nhân lo trời sụp, thuở nay ai nghe cũng cười anh Khỉ Nhân kia là lo thàm (xàm), song có hình thể thì có ngày phải suy diệt, biết đâu sau trăm, ngàn ức triệu năm, trời không có một ngày sụp như Khỉ Nhân đã lo kia. Tự thân anh Khỉ Nhân may mà khỏi cái nạn ấy, rồi con cháu của Khỉ Nhân, con cháu của Khỉ Nhân kéo dài mãi ra, có thoát khỏi cái nạn ấy không ? Nay nghe Khỉ Nhân lo xa như thế, ai cũng cười Khỉ Nhân là ngu, song biết bao nhiêu người không làm Khỉ Nhân, không lo như Khỉ Nhân, sao cũng thấy khù khờ, không thấy cái gì là khôn? 4
Liên hệ với những việc đã làm, ta đoán chắc những tư tưởng Duy Tân cứu nước của ông bị thiên hạ bài bác, khinh thị nên ông viết bài này để tự biện. Ta thấy lòng yêu nước của ông thật không phải của hạng quen nhìn cạn, thấy gần mà bao trùm thời gian. Vì có lòng lo kiểu Khỉ Nhân mới dám có tư tưởng mới, khác hẳn mọi người, nhưng không lập dị mà chỉ căn cứ trên thực tế, khoa học và tiến bộ. Rồi do đó, mới có những hành động táo bạo thời ấy – dù đã mất nước khá lâu – mà chẳng mấy ai dám hay thèm nghĩ tới như :
A. Bỏ tiền ra làm ruộng buôn bán để gây một ý thức về sinh hoạt thực tế vốn bị nhà nho khinh rẻ. Nhà Nho tự đặt mình trên Nông, Công, Thương và quên chính mình có trách nhiệm về các ngành này để phú dân, cường quốc, mà lại rẽ sang con đường tiêu cực, trốn thực tế. Huống chi công cuộc buôn và làm ruộng của ông chắc chắn không phải theo phương thức cũ mà là phương thức Tây Phương. Cứ xem tư tưởng chỉ đạo trong các điều trần cũ (Đồn điền, Tào Vận, Hội thương…) ta cũng hiểu được dễ dàng. Ngoài ra, ta căn cứ trên thực tế này cũng có thể kiểm lại hoạt động của ông thời ấy phần nào. Sau này, ở Thừa Thiên, vẫn còn một số người chuyên đi khai phá nhàn điền, tiêu biểu nhất là Nguyễn hữu Bài 5. Ông Bài được gọi là Cụ Quận Công Phước Môn, và ông có đến những năm nhàn điền chung quanh Huế, có cái rộng cả nghìn mẫu. Năm nhàn điền ấy đều bắt đầu bằng chữ Phước (ngũ phước) :
a) Phước Sơn (cửa Tùng)
b) Phước Sa (Bến Hải)
c) Phước Xuyên (Truồi)
d) Phước Môn (Quảng Trị)
c) Phước Tín (?)
Đối với chúng ta ngày nay, ta có thể công kích Nguyễn hữu Bài ông gia của Ngô đình Khôi và ông gia hụt Ngô đình Diệm, cho ông chỉ là một thứ «Bồi Tây» dù ông được liệt vào hạng «Đày Vua không Khả, đào mã không Bài» và những nhàn điền của ông chỉ theo phương thức bóc lột tư bản Tây Phương tàn nhẫn và trong sự thật cũng đáng gọi ông là tên chủ nhàn điền quỷ quyệt. Nhưng nếu chúng ta chịu lùi lại cái thời kỳ còn thủ cựu tuyệt đối thì ta sẽ thấy những người được gọi tân tiến, Duy Tân chủ trương những gì ?
Phong Trào Duy Tân thuần túy và thô sơ không có mục đích nào khác hơn là khai thác nhiều ruộng đất, nhất là hoang địa ở vùng rừng núi để khẩn hoang đất nước và làm giàu. Giàu cho cá nhân hay cho tập thể cũng được miễn có thể tập trung tư bản thật lớn. Có tập trung tư bản lớn mới mong có những sự mở mang, khai thác công kỹ nghệ lớn. Đã có công kỹ nghệ lớn, tư bản lớn tự nhiên sẽ có những nhà tư sản đứng ra bênh vực quyền lợi của họ. Do đó, các phong trào tự do, dân chủ bành trướng, các đảng phái tư sản thành lập (và tất nhiên nó sẽ dẫn tới chủ nghĩa tư bản với hình thức Tự do, Dân chủ).
Đó là con đường diễn tiến tự nhiên người ta vẫn thấy và riêng các nhà Duy Tân tiền tiến ở Huế, chống Pháp (Nguyễn lộ Trạch) hay theo Pháp (Nguyễn hữu Bài, Thân trọng Huề) phải chủ trương, vì đất Thừa Thiên, ngoài rừng núi hoang vu, không có những cơ sở sản xuất hay thương mãi lớn lao, hoặc có tương lai nào. Ngoài ra tôi cũng nhận thấy là nơi nào có khuếch trương Phong Trào Duy Tân thì bên cạnh hội thương cũng đều có những công cuộc khai thác nhàn điền cả. Phong Trào Quảng Nam (Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Trần quí Cáp, hoặc Vườn Quế, hoặc sở trồng trọt), Phong Trào Hà Nội (Độc tướng quân, Bùi đình Tá v.v…) sau này cũng đều có chủ trương như thế, xem như đó là dấu hiệu của Duy Tân, dù mục đích hai phe Duy Tân mới, cũ có khác nhau.
Còn về hội thương Nguyễn lộ Trạch đã chủ trương ra sao ? Tôi không còn những dấu tích gì của những người đồng thời với ông (như kiểu Nguyễn hữu Bài) để tìm hiểu phần nào. Tuy nhiên, do việc thành lập Công Ty Liên Thành ở Phan Thiết sau này, dù đó là công hô hào của Phan châu Trinh, tôi cho là có chịu phần nào ảnh hưởng của ông như sẽ nhận xét sau.
B. Về việc đi xa kết nạp đồng chí, xưa nay ở nước ta, có lẽ ngoài chính trị (khởi nghĩa, mưu bá đồ vương) và tôn giáo, chưa hề nghe có việc đi thuyết dụ một công cuộc cứu nước kiểu Duy Tân. Chính ở chỗ này mà ta thấy Nguyễn lộ Trạch là người có chí lớn thật sự. Ông biết bây giờ không phải là lúc đưa những Thời vụ sách suông hay chỉ thui thủi hành động cá nhân. Tất cả các phương thức ấy cổ lỗ quá rồi. Cần kêu gọi mọi người đứng lên, kết hợp với nhau để có thể thực hiện công cuộc Duy Tân toàn quốc cùng lúc. Có như thế mới gây nổi một phong trào, mới tạo được một sức mạnh đáng kể trong một đại cuộc đã hoàn toàn thay đổi. Vậy chủ yếu là giác ngộ sĩ phu và quần chúng để tiến tới canh tân đất nước, hòng đạt được mục đích cuối cùng. Bởi thế, ông đã đi đến tận Phan Thiết để tìm gặp những người như Trương gia Mô, Nguyễn trọng Lợi…
Trên kia, tôi có nói đến Công Ty Liên Thành, một đại Công Ty thương mãi ở Trung Việt và Việt Nam, qua bao nhiêu biến cố hiện vẫn tồn tại và phát triển toàn quốc. Công Ty này thành lập năm 1906, do Phan châu Trinh góp ý trong một công cuộc vận động Duy Tân chung, nhưng tôi nghĩ là không phải không chịu ảnh hưởng Nguyễn lộ Trạch. Vì một đại công ty như thế, quy mô to lớn, tập trung nhiều nhân tài vật lực, không thể quan niệm trong năm, bảy tháng, một năm rồi thành lập mà chắc phải có một quá trình tính toán lâu dài hơn nhiều. Cũng như những tổ chức Duy Tân ở Quảng Nam thành hình năm 1906 nhưng tư tưởng, ý định đã phát ra trước đó những ba, bốn năm rồi. Một điều cần nhấn mạnh thêm là những người mà Phan châu Trinh tìm gặp năm 1905 cũng đều là những người mà mười năm trước, Nguyễn lộ Trạch đã tìm gặp: Trương gia Mô, Nguyễn trọng Lợi… 6. Và nơi xa xôi, đèo heo hút gió như cực Nam Trung Việt lại có một phong trào Duy Tân rộng lớn (trong khi nhiều tỉnh khác gần đó không có tổ chức gì đáng kể) thì quả thật không phải việc nhất đán mà thành. Có lẽ sức khỏe không còn đủ đảm bảo cho một hành trình xa hơn nên Nguyễn lộ Trạch đã về rồi chết tại Bình Định như một người chết đúng trên đường Lý Tưởng, một Thánh tử vì Đạo ! Đạo Duy Tân ! Tiếc rằng chúng ta không được biết thêm những gì về công cuộc Thương và Nông cùng lịch sử Nam Du của một nhân vật lớn lao mà lịch sử nỡ quên.
C. Nhưng người ta biết Nguyễn lộ Trạch nhiều nhất là vì bản Thiên Hạ Đại Thế Luận của Ông. Đây là tư tưởng chỉ đạo công cuộc Duy Tân mà chính ông là kẻ vừa nêu lên lý thuyết vừa cố gắng thực hiện một cách nhọc nhằn, gian lao như ta vừa thấy.
Bản ấy thật quan hệ đối với lịch sử, chính trị, văn hóa, học thuật, kinh tế v.v… của Việt Nam. Tiếc là toàn văn đến nay bị mất. Nhưng cũng thật may mắn mà ông Huỳnh thúc Kháng còn chép lại phần đại ý khá đầy đủ và những đoạn ông còn thuộc trọn vẹn trên một số báo Tiếng Dân năm 1932. 7
Để cho độc giả thấy rõ tầm quan trọng của bài báo nói lên giá trị tiên tri chính trị và quân sự đại tài của Nguyễn lộ Trạch dưới mắt Huỳnh thúc Kháng, tôi trích lại sau đây những điểm quan trọng của bài báo và toàn văn của bản «Thiên hạ Đại Thế Luận trích yếu».
Cái đề của bài báo khá dài dòng :
ĐIỀU TIÊN KIẾN CỦA MỘT NHÀ HỌC GIẢ NƯỚC TA
Nhân chuyện Trung Nhật xung đột mà nhớ đến câu nói trong một bài đại luận trước đây 40 năm.
Huỳnh thúc Kháng mở đề bằng chính một đoạn tiên tri của bài luận : «Điều lo của Trung Hoa, không tại các nước ngoài mà tại nước Nhật Bản ». Đó là một cây trong bài «Thiên Hạ Đại Thế Luận» của ông Nguyễn lộ Trạch người Kế môn hạt Thừa Thiên. Bài ấy ra đời cách nay đã trên 40 năm, trước trận Trung Đông đánh nhau (năm 1882 Giáp Ngọ) kia, mà đến nay vẫn cứ thấy nghiệm, ai dám bảo học giới nước ta không có người biết rộng thấy xa.
Về niên đại của bài ấy, lúc bấy giờ Huỳnh thúc Kháng chưa được đọc quyển Ưu Qui Lục nên ông chưa rõ. Vì vậy, sau này, ông ghi: «Năm Thành Thái thứ tư, khóa hội Nhâm Thìn (1892) đề thi Đình có hỏi đại thế hoàn cầu, Tiên sinh không thi cử gì nhưng thấy cái đề có quan hệ, có thảo một bài Thiên Hạ Đại Thế Luận». Vậy, có lẽ niên đại 1892 là đúng. Vì tư tưởng của ông Nguyễn lộ Trạch trước 1884 trong bài tự Quì Ưu Lục khác ít nhiều với bài luận, do lẽ bài luận chỉ viết khi nước mất, lại làm để tuyên truyền trong đám sĩ phu nên lời lẽ có phần dè dặt.
Huỳnh thúc Kháng trình bày tiếp theo cái tình trạng bi đát của Trung Hoa đã bị liệt cường và Nhật xâu xé (hồi đó, Nhật lại khởi đánh nhiều trận lớn). Những chuyện ấy nay ai cũng biết, nhưng thời Nguyễn lộ Trạch thì không phải như thế.
«Ở dưới chánh quyền chuyên chế, nhân dân không can dự gì đến việc nước, lối học khoa cử lại chôn biết bao nhiêu học giả vào cái hầm hư văn. Gia dĩ đường giao thông chưa mở mang (Trung Kỳ chưa có xe lửa), tờ báo chưa xuất hiện, trên vua quan thì rung về ngâm thi, dưới sĩ phu thì chăm vác quyển đi thi, đi hạch. Không những chỉ việc to lớn ngoài thế giới, dẫu như trận Nha phiến nước Tàu (1840), trận Anh Pháp liên quân vào Bắc Kinh (1858) ở bên nước láng giềng mà người mình gần như không hay, không biết. Thậm chí, việc ở trong nước mà chuyện ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ, thì người Trung Kỳ nghe như chuyện ngoài trời kia. Học giới ta lúc bấy giờ hắc ám là đường nào ! Đương giữa khoảng màn kín đen mù, tường cao ngăn đón như thế, mà có nhà học giả như ông Nguyễn lộ Trạch, tự mình tìm lấy sách vở, lại do chỗ học vấn lịch duyệt suy nghiệm cùng con mắt xem đời của mình, không nương dựa vào học thuyết nào 8 làm một bài đại luận nói đại thế trong thế giới mà ở trong có những điều đứng đắn, thật là một bài luận rất có giá trị trong học giới ta. 9
Bài ấy không chỉ nói chuyện Trung Nhật là tiên kiến mà thôi đâu. Toàn bài nói việc thế giới mà nhứt là nói về tình thế nước ta, nhiều điều rất xác đáng. Ký giả có cái hân hạnh được thấy bài đại luận ấy năm 1903. Kế đó nguyên bản thất lạc, nên nay không nhớ cả toàn văn, song đại đoạn vẫn còn in sâu trong não mà không sao quên được, xin lược kể vào đoạn nằm dưới».
Sau đây, tôi ghi toàn bản văn Huỳnh thúc Kháng đã chép lại. Tôi chỉ xin độc giả khi đọc cần phải hết sức thận trọng. Vì loại đại luận này viết rất gọn như các bài hịch, các nguyên lý, chỉ đi vào những điểm khái quát, chủ yếu rồi sau đó, do một câu, một chữ, người ta sẽ viết lại thành một đôi quyển sách, dựng năm ba trăm cơ sở, lôi cuốn cả vạn người, triệu người. Chẳng hạn trong đoạn mở đầu chỉ vỏn vẹn có mười bốn chữ. Nhưng ai cũng hiểu ngay là dù viết lại năm mười bộ sách nói về chánh giáo rồi do đó bàn về cái lẽ mạnh yếu của một nước e rằng vẫn chưa đủ. Và cho đến nay, tôi tin chắc như đinh đóng vào cột, như rìu chém xuống đá rằng miền Nam vẫn phải đặt nguyên tắc chánh giáo lên hàng đầu, phải biện luận đến chỗ tận cùng để thực hiện cho kỳ được. Hiện nay, nguyên tắc chánh giáo được những quốc gia cường thịnh từ Âu sang Á sang Mỹ áp dụng và chính nhờ thế mà họ giàu mạnh chớ không phải tại họ lớn hay nhỏ… Vì những lẽ ấy nên bài luận tuy ngắn mà thật ra rất dài và ta có thể gọi đây là Tuyên ngôn đầu tiên của Phong trào Duy Tân Việt Nam. Tôi dám gọi như thế vì những điểm thiết yếu trong bài luận này rồi đây Phong trào Duy Tân toàn quốc sẽ ứng dụng đầy đủ. Nhưng tại sao gọi nó là đầu tiên ? Như thế nó còn một tuyên ngôn thứ hai chăng ? Không có bản tuyên ngôn thứ hai, nhưng khi Phan châu Trinh thực hiện Phong Trào Duy Tân, ông đặt toàn bộ trong Chủ Nghĩa Dân Quyền, tức là đặt cho Phong trào một vai trò triết học chính trị. Đó là bản tuyên thứ hai bất thành văn mà ta sẽ thấy sau, được nhân dân khắp cõi nhiệt liệt tán thành. Sau đây toàn bản văn:
Bài ấy khởi đầu nói: «Nước mạnh hay yếu là tại chánh giáo chớ không phải tại lớn nhỏ»
Đoạn giữa nói : «Tình thế nước Tàu, trên dưới cô tức du an, không lo chấn chỉnh việc chánh giáo trong nước, sở dĩ không mất là vì tình thế giằng xé của các nước mạnh ở ngoài. Các nước xu trọng nghề thương, lấy Trung Quốc làm tiêu trương, một nước khởi hấn các nước phải phế nghiệp, nên không nước nào chịu làm kẻ gây đầu mối họa. Nhờ cái cớ kiêng kỵ ấy mà nước Tàu được thở, chớ không phải là có tài cán gì. Miến điện bị người Anh lãnh, Lưu Cầu bị người Nhật nuốt, nước Tàu chỉ dương mắt mà trông, cho đến Hương Cảng các phụ bị cắt nhường, đền Viên Minh bị đốt phá, vết thương đau đớn là dường nào ! Mà không làm sao được ! Mình không tự cứu lấy mình còn mong cứu giúp ai được! Người mình lâu nay cứ xướng cái kế của Thân bao Tư 10 cầu cứu với nước Tàu. Triều Tự Đức chỉ lo một việc ấy, thật là không hiểu tình thế chút nào… (chỗ này tiếp nói tình thế nước Nhật mạnh và câu nói trên).»
Kế đó tình thế nước nhà, đại ý nói: «Nước mình không lo việc nội trị, sở dĩ có cảnh huống ngày nay, cái mối nguy nan không phải tại đánh nhau nơi cửa Cần trừ, vùng Đà Nẵng, mà chính tự ngày trước Cao man nước Vạn Tượng đến triều cống kia. Có nước mạnh ngoài tới lấn thì đổ cho họa nước ngoài nếu không nước ngoài, mình có ngồi yên mà ngủ được sao?»
Lại nói : «Người ngoại lại đây, bản ý người ta trù việc lâu dài, chớ không phải toan cái lợi mai chiều trước mắt, mình không biết tình thế sợ đầu sợ đuôi, chỉ rước lấy điều khinh rẻ mà thôi, chi bằng bỏ cái tên trống vô ích bề ngoài mà vạch một cái giới hạn phần đất cho rõ ràng 11 vua tôi trên dưới cùng nhau phản phát lo chấn chỉnh việc chánh giáo lại, thì ngày nay vẫn chư đắc trỉ được, ngày sau há lại không có hồi vẫy vùng sao ?»
Đoạn sau nói: «Có nhân dân mà không biết dạy bảo, có công nghệ mà không biết chấn hưng, có khoáng sản mà không biết khai phá, ngu hèn đến thế là cùng ! Nay có người ngoài đem cái khôn ngoan cơ xảo tới tận bên mình, không phải là cái dịp tốt cho mình học khôn hay sao? Và chăng, người Âu đi đến đâu, thì họ mang học thuật kỹ xảo tới đó mà mở mang việc công lợi to lớn, như là cái tánh tự nhiên, nhà giàu vì chàng trai mà dạy con gái mình, chim tước khéo kia, vì chim cưu vụng nọ mà mang công ra làm ổ, làm ổ xong mà chim cưu tới ở, dạy bảo thành mà chàng trai kia giắt đi, thẩm thời đạt thế mà lo lấy công việc nước nhà, ấy là cái gánh vác bậc quân tử sau này ».
Như trên ta thấy tư tưởng Duy Tân của Nguyễn lộ Trạch có thể chia ra mấy ý chính :
a) Vấn đề chủ yếu là chánh giáo. Chánh giáo là một nền giáo dục lấy chánh đạo để đào tạo sĩ phu và quốc dân (tức như học thuyết Khổng Mạnh, chủ nghĩa Dân Quyền).
b) Trình bày thực trạng của nước Trung Hoa. Sở dĩ không mất là một may mắn của lịch sử. Nhưng nước ấy đã hoàn toàn tê liệt. Người Việt Nam đừng trông mong gì nước ấy giúp mình nữa. Chỉ có nước nào biết Duy Tân và tự cường như Nhật Bản mới mong mở mặt được.
c) Bàn về cái lẽ suy nhược của Việt Nam.
d) Việt Nam muốn cứu lại nước, không thể noi theo đường cũ mà phải : 1. Cần chấn chỉnh chánh giáo. 2. Phải Duy Tân, mở mang mọi phương diện nông, công, thương, học kỹ thuật khoa học của Âu Tây. 3. Sẽ chờ cơ hội thuận lợi mà cứu nước.
Sau khi trình bày bài luận trên, Huỳnh thúc Kháng còn viết thêm : « Độc giả thử nghĩ, 40 năm về trước mà học giới ta có người (Huỳnh thúc Kháng vẫn gọi đại văn hào) có bài đại luận tình lý đã xác thực châu đáo mà văn thể cũng hùng kiện, không đán gọi là Khang, Lương ở nước ta sao ? Chính cụ Sào Nam, cụ Tây Hồ và phần nhiều trong đám tiên thời nhân vật ở xứ ta sở đắc ảnh hưởng của bài ấy rất là sâu xa mật thiết, không kém gì sách Lương, Khang kia ».
Nói cách khác, Huỳnh thúc Kháng xác nhận một thực trạng lịch sử làm bối cảnh cho bài luận nổi bật lên với giá trị vô song của nó : vào thời ấy Văn thân, Cần Vương tan rã, tự nhiên, sĩ phu, nhân dân bị đẩy vào một thất vọng đen tối và chỉ lóe được vài tia sáng mong manh mong chờ Trung Hoa sẽ tới giúp ta. Nếu không như thế thì coi như tuyệt vọng ! Một nước đã chết !
Bài đại luận này xác nhận tình trạng bi đát vô vọng của Trung Hoa, nhưng lại chỉ cho thấy một ánh sáng khác mới lóe lên đã rạng rỡ ; nước Nhật Bản sau vài chục năm Duy Tân đã hết suy nhươc, đang lăm le bước vào con đường văn minh, giàu mạnh. Vậy, vấn đề ngoại vọng không nên đặt ra mà phải đặt chính vấn đề tự cường. Muốn tự cường, cần chấn chỉnh chánh giáo và học thẳng các phương pháp để tiến bộ, các ngành, các nghề, các môn khoa học, kỹ thuật nơi người Pháp chứ không phải ở đâu xa lạ… Rồi khi đủ sức thì sẽ vẫy vùng.
Giữa đêm tối mù mịt, không lối thoát, bài đại luận ấy há không phải là một ánh sáng nhiệm màu mở đường cho sĩ phu và nhân dân hay sao? Giá trị của nó lớn lao đến bực nào, hẳn nhiên các bậc tiên thời đã nhận thấy một cách sâu xa, tha thiết.
Nhưng dù sao, đó cũng chỉ là nét chính, phác học một Phong Trào Duy Tân còn thô sơ. Phải chờ Phan châu Trinh mang chủ thuyết Dân Quyền về làm chánh giáo, mang một ý thức hệ về để làm mới Dân tộc, Phong Trào Duy Tân thực sự mới mở màn.
Chú thích:

1

Cổ học tinh hoa Quảng Nam 1962, trang 101.

2

Xin đón xem tập Tiền Phong Trào Duy Tân của tác giả, có trình bày đầy đủ cuộc đời, tư tưởng, hoạt động của ba nhân vật xuất sắc này.

3

Nguyễn thượng Hiền (1868-1926) hiệu mai Sơn, tỉnh Hà Đông. Tiến Sĩ, sang Tàu theo Phan Bội Châu, Phạm phú Đường : con Phạm phú Thứ được cử công cán ngoại quốc với Nguyễn lộ Trạch nhưng việc không tiến hành được.

4

Nguyễn lộ Trạch. Nhà xuất bản Anh Minh. (Minh Viên Huỳnh thúc Kháng giới thiệu).

5

Điều chắc ai cũng ngạc nhiên là Nguyễn hữu Bài 1863-1935 có chân đầu tiên trong Việt Nam Quang Phục Hội của Cường Để – Cuộc đời Cách Mạng Cường Để TRÁNG LIỆT 1957.

6

Nguyễn lộ Trạch – Anh Minh xuất bản 1966 (Minh Viên Huỳnh thúc Kháng giới thiệu sđđ)

7

Một tập báo do ai cắt ta từng bài đặc sắc rồi đóng lại nên không có ghi rõ số nào ; ngoại trừ vài trường họp đặc biệt tôi tìm ra được số và ngày tháng, tôi sẽ ghi rõ các trường hợp đặc biệt ấy.

8

Tác giả sách này nhấn mạnh để độc giả chú ý, các đoạn sau cũng vậy.

9

Chú thích của H.T. Kháng : «sách Khang hữu Vi, Lương khải Siêu truyền trang bên ta sau cuộc Mậu Tuất chính biến, nước Tàu (1898) mà bài luận này ra trước khi Trung Nhật chưa đánh nhau (Giáp ngọ 1884) nghĩa là trước sách Khang Lương truyền sang». Nhận xét về sách Khang Lương đúng nhưng niên đại bài luận có lẽ sai (1894) như đã nói trên kia (NVX).

10

Thân là tôi Sở, cầu cứu nước Tần, bảy ngày đứng giữa sân mà khóc, không ăn uống (Huỳnh thúc Kháng).

11

Chỗ này nói giới hạng phần đất vạch cho rõ ràng. Vậy phần đất nào ? Vì lúc ấy, Trung Kỳ cũng đã bị chiếm và có khâm sứ, công sứ rồi.

PHAN CHÂU TRINH (1872-1926)
CUỘC ĐỜI, TƯ TƯỞNG, HOẠT ĐỘNG
MUỐN tìm hiểu tại sao Phan Châu Trinh say mê tư tưởng Dân quyền, hăng hái cổ động Phong trào Duy Tân, thiết tưởng cần biết qua đời sống gia đình, cá nhân ông lúc trẻ, nền văn học ông được thu nhận, xã hội ông tiếp xúc.
Ông sinh năm 1872 tại làng Tây lộc, phủ Tam kỳ (nay quận Tiên phước) tỉnh Quảng Nam (nay Quảng Tín) 1 . Ông lớn lên trong tình trạng đất nước bị xâm chiếm. Năm 1885, theo hịch Cần Vương, cha ông là chuyển vận sứ Phan văn Bình (hay Phan Bình lên ở gần Mỹ Lý, vừa lập một đồn điền cực rộng lớn để trồng hoa màu tiếp tế cho đại quân Cần Vương, vừa kiêm coi mỏ vàng A Bá, luyện sắt đúc khí giới. Khi quân Triều đình lên đốt nhà ở Tây Lộc, Phan châu Trinh cùng các anh em đều bỏ làng chạy lên Đồn điền 2 . Chính giữa đường đã xảy ra một sự việc khiến cái cá tính đặc biệt của Phan châu Trinh phát lộ ngay khi ông mới khoảng mười bốn tuổi đầu : một cô em gái Phan châu Trinh trong khi chạy, bỗng chậm lại rồi biến mất. Mọi người quày quả trở lại tìm, mãi không thấy ở đâu. Có người bàn nên bỏ đi, vì đoán cô bé đói quá, chạy vào làng kiếm ăn rồi ít bữa sẽ tìm lên sau. Chỉ có Phan châu Trinh quả quyết trở lui để tìm em trong đám người chạy loạn. Cho tới chiều, mới có một người bảo cho biết cô bé đã rớt xuống một cái hầm bẫy heo rừng. Phan châu Trinh chạy tới nghe tiếng em khóc liền an ủi, dặn em chờ rồi quày quả trở lại kiếm gia đình. Khi mọi người tới nơi, nghe tiếng em khóc thì rất thương xót, nhưng chính các anh lớn cũng bảo nên bỏ đi là hơn. Vì không có dụng cụ, dao mác gì để cứu em giữa chỗ hoang vắng này mà hầm heo thì sâu, lại đào thẳng dựng để cho heo rơi xuống, không có cách gì lại nhảy lên, thoát được. Nhưng Phan châu Trinh quyết nghĩ cho ra kế cứu em. Cậu bảo mọi người tháo hết dây lưng ra (thời ấy, ai cũng buộc những sợi dây lưng dài, sặc sỡ) nối lại rồi buộc ngang bụng, dòng cho cậu xuống. Tới nơi, cậu tháo dây buộc vào bụng em cho các anh kéo lên rồi chờ tới lượt mình lên sau. Thế là cô em thoát nạn !
Tôi tưởng mỗi câu chuyện ấy cũng đủ trình bày cho ta thấy lòng thương yêu sâu sắc, mãnh liệt, trí mưu và sự can đảm phi thường của cậu bé giữa cơn nguy cấp mà chính các người lớn cũng phải đầu hàng.
Cũng do ở mật khu kháng chiến của Cần Vương, ông học được võ nghệ, bắn cung, bắn súng tạo nên một bản lĩnh vững vàng (Huỳnh thúc Kháng cũng nhờ ở mật khu mà học được một ít võ nghệ) của một chiến sĩ trước khi thành văn sĩ.
Một biến cố khác cần ghi nhận vì chắc nó có ảnh hưởng ít nhiều tới tinh thần, tư tưởng của Phan châu Trinh sau này :
Cha ông, chuyển vận sứ Phan văn Bình bị chính lãnh tụ Cần Vương chặt đầu tại cầu Mỹ Lý. Tại sao ? Ta cần biết ông Hường Nguyễn duy Hiệu, thủ lãnh Cần Vương và nhất là tả hữu, nhiều người rất nóng tánh, đa nghi và khắc nghiệt. Thời ấy, Pháp đã dùng Nguyễn Thân để phá quân đối phương. Sau trận thua lớn ở An Lâm, cơ sở chủ yếu cuối cùng bị tan vỡ thì có lệnh gọi ông Bình về. Lúc bấy giờ, Nguyễn Thân đã dùng nhiều người của đảng Cần Vương để thủ thắng nên một số nhân vật Tam Kỳ bị nghi kỵ là theo Thân. Không rõ ông Hường căn cứ trên những tài liệu nào để kết án ông Bình cũng như nhiều người khác. Chỉ biết khi ông mới từ giã đồn điền qua cầu Mỹ Lý liền bị quân cận vệ của ông Hường chận lại, chặt đầu rồi đem cắm nọc bên đường. Một viên đội theo ông Bình phẫn nộ, liền tự sát tại chỗ. 3
Sau biến cố ấy, Phan châu Trinh về ở với anh là Phan văn Cừ. Rồi ông học văn nổi tiếng, thi đỗ cử nhân 1900, Phó bảng 1901. Suốt thời kỳ này, không rõ ông đã chú ý đến thời thế, chính trị trong nước và thế giới ra sao. Chỉ biết là ông kết giao rộng. Nghe ai tài giỏi, hoặc có những gì khác lạ là ông tìm tới tiếp xúc, biện luận. Ông đọc rất nhiều sách, truyện Tàu và kể chuyện rất hay, nỗi danh là ông vui chuyện. Hơn nữa, ông lại được học ở trường tỉnh. Trường này ở làng Thanh Chiêm thuộc phủ Điện Bàn, cách Hội An 10 cây số, cách Đà Nẵng 20 cây số. Chắc chắn ông phải thường lui tới những thành phố ấy luôn vì tính ông thích giao du và xê dịch. Nhất là Hội An, nơi mà học trò Tỉnh vẫn xuống mua sách vở và các dụng cụ, vốn có nhiều người Trung Hoa có học thức và họ thường vẫn mua nhiều sách vở đưa thẳng từ Trung Hoa sang. Một trong những người ấy, Châu thượng Văn sau này sẽ góp một tay đắc lực trong phong trào Đông Du và Duy Tân, rồi tuyệt thực chết trong nhà lao ; ông Văn là bạn của Trần quí Cáp mà ông Cáp đã là bạn của Phan châu Trinh từ năm 1898 lúc cùng học chung cụ đốc Trần mã Sơn (Phan châu Trinh kết bạn Huỳnh thúc Kháng từ 1890-1892) ở Tỉnh.
Nhưng chắc chắn ông thật sự biết Tân thư khi ra làm quan tại Huế. Huế lúc bấy giờ là đế đô, giữ vai trò chỉ huy văn hóa nên có nhiều bậc anh tài, học giả không chỉ ở địa phương mà tứ hướng quay về. Do đó có nhiều sách vở lạ. Chính nhờ những sách vở ấy mà Nguyễn lộ Trạch dám tự học rồi tự xướng tư tưởng Duy Tân. Thời ấy, Huế cũng đã có những du học sinh ngoại quốc về như Thân trọng Huề đã dâng chiếu xin bãi bỏ việc thi cử. Đồng thời, người Bắc có tư tưởng mới như Nguyễn thượng Hiền, Đào nguyên Phổ cũng có mặt ở đấy. Đào nguyên Phổ mua nhiều tân thư của Trung Hoa đưa sang. Sách vở thời ấy do những ghe lớn đưa hàng hóa rồi có những thuyền nhỏ buôn sách trèo lên đậu ở một bến nào đó như Phú văn Lâu để chờ người tới chọn mua. Đó cũng là một trong những ngành thương mãi quan trọng của Trung Hoa ở Đế Đô (còn ở các Tỉnh, kể cả Hội An, cũng ít phát đạt) Tân thư cũng theo đường ấy mà vào.
Trong niên biểu đồ của Phan châu Trinh ở Truyện Giai Nhân Kỳ Ngộ 4 (niên biểu đồ do Huỳnh thúc Kháng soạn) có ghi : «Năm 1903, Quý Mão, bổ làm Thừa biện Bộ Lễ ở kinh. Học Tân học 32 tuổi». Cũng năm này, Huỳnh thúc Kháng nói đã được đọc Thiên Hạ Đại Thế Luận của Nguyễn lộ Trạch. Thế thì Phan châu Trinh cũng đọc vào khoảng đó, chắc là trước ông Huỳnh. Điều này cho thấy khi mới ra Huế làm quan, việc đầu tiên của ông Phan không phải là tìm cái ghế mà tìm ngay những quyển sách. Lúc ấy sách Tân thư, nhất là của Khang hữu Vi, Lương khải Siêu 5 cũng đã có nhiều. Nhưng chắc chắn không có loại sách nào có hệ thống và gây xúc cảm mạnh bằng bài luận nói trên của Nguyễn lộ Trạch, vì không chỉ có trước khi sách Khang, Lương qua, nó còn là cây nhà lá vườn, thích hợp với một xã hội bán phong kiến, bán thực dân mà dân chúng còn đang ở trong một trình độ thấp kém, có nhiều điểm không giống hẳn xã hội Trung Hoa nơi mà phần lớn lãnh thổ chưa bị xâm lăng.
Nhưng dù sao, tư tưởng Khang, Lương cũng rộng rãi, đi vào nhiều vấn đề, nhiều chi tiết để người đọc chưa am tường tư tưởng mới, học thuật mới dễ đào sâu. Tôi không thể nói kỹ, chỉ xin trích lại một vài đoạn văn của bác sĩ Hồ Thích, một văn hào Trung Hoa rất nổi tiếng trong công cuộc Duy Tân để độc giả thấy sức hấp dẫn ghê gớm của Lương khải Siêu đối với Thanh Niên Trung Quốc, đồng văn với ta, để ước lượng sự say mê của các nhân vật đương thời khi đọc Tân thư :
«Giới thanh niên trí thức thời bấy giờ rất nồng nhiệt tinh thần ái quốc. Qua bao sự đổi thay chốn triều thần, với áp lực mạnh mẽ của ngoại xâm đã tạo nên những Phong Trào thanh niên cuồng nhiệt. Nhân vật Lương khải Siêu một bậc lãnh đạo nhìn xa, hiểu rộng. Đứng trước nước non nhuộm màu hắc ám và luồng hồng thủy (?) ồ ạt đang tràn vào tàn phá, họ Lương hô hào toàn dân đứng lên dẫm nát tàn tích cũ cùng chống ngoại lai. Với khẩu hiệu «Trung Quốc chi tân dân», «Tân dân tử», thành lập tạp chí «tân dân tùng báo» vạch rõ những rường mối gây tình trạng chậm tiến, kêu gọi mọi từng lớp nhân dân phải hiểu rõ cảnh nước nhà đa đoan trước tệ trạng của Triều Mãn Thanh, trích ra đây một đoạn xã luận : «Chưa hề có tứ chi đã què quặt, gân mạch đã bị thương, máu đã ngưng đọng mà tấm thân có thể sống được. Thì cũng chưa có dân nào còn ngu muội, yếu hèn, bại hoại, ô hợp mà nước nhà có thể đứng vững được… Nếu có dân tộc hiểu biết đời sống mới, còn lo chi không có chế độ mới, không Chính Phủ mới, không quốc gia mới» (Bàn về thuyết cải cách người dân mới).
Theo đường lối chủ trương chính của Lương Tiên Sinh : « Tôi suy ngẫm lại, cảnh huống lớp người trị nước Trung Hoa ngày nay, cần phải được quét sạch tận gốc rễ tù túng, phải loại bỏ cũ mà phơi bày cái mới một cách rộng rãi vậy» (Bàn về cải cách dân mới).
Họ Lương còn phẫn khích đau xót hơn nữa trong lời thống thiết sau : «Nhưng đường lối cứu sự nguy nan nước nhà đẻ đạt đến bước tiến bộ thì phải thế nào ? Bảo rằng phải trừ khử, nghiền nát cái chánh thể ngang tàng, hung dữ, ô hợp mấy ngàn năm nay tan ra như bột. Thì gây ra cho ngàn vạn bọn quan nha như lũ cọp, chồn, sâu bọ… mất đi chỗ dựa đỡ, trông nhờ cố lũy từ xưa. Nhưng nếu như thế có thể tẩy sạch trong tâm dạ, để đưa đến con đường tiến bộ ư ? Phế bỏ dần những tín điều học thuyết xấu xa, yếu hèn mấy ngàn năm nay ? Thì khiến cho bọn đồ đệ các thuyết ấy nhôn nhao lên. Chúng không còn múa bút, khua môi, uốn lưỡi. Vậy chúng ta phải làm kẻ đứng chịu mũi dùi của sự chống đối đó để cứu nguy khốn cho dân. Sau rốt, sửa đổi dần thì mới thật đi đến bước tiến bộ. Vì vậy, muốn đạt cho được phương pháp của mục đích nêu trên, thì có hai điều :
1) Phải hoạt động không gây cảnh máu rơi.
2) Phá hoại gây lên cảnh máu rơi.
Nước Trung Hoa, nếu như có thể làm công việc cải phá, sửa đổi mới mà giữ được niềm an vui thì ta đây sung sướng bội phần. Còn như trái lại, ôi thôi ! Thân này đau xót biết dường nào (Thuyết cải cách dân mới, bàn về tiến bộ).
Nhóm thanh niên Hồ Thích sau khi đọc xong đoạn này, người hiểu biết sâu xa đều cảm thấy dâng lên tận làn da, chân tóc một sự đau đớn nghẹn ngào, không cầm được ngấn lệ tuôn trào». (Hồ Thích tự thuật. Mai chưởng Đức dịch, Văn 90)
Hẳn nhiên đó cũng là cảm giác, cảm tưởng của sĩ phu ta, những người đồng hội, đồng thuyền thuở đó với sĩ phu Trung Hoa.
Từ Nguyễn lộ Trạch với «Thiên Hạ Đại Thế Luận» ý thức hệ phong kiến vẫn còn, ông còn tin tưởng ở chánh giáo Nho, ở vua tôi trên dưới, đến Lương khải Siêu đã hé ra một ý thức thế hệ mới : Phan châu Trinh vượt lên ý thức hệ cũ, đẩy vua quan vào hậu trường, đẩy Nho giáo vào tàng viện, đặt Dân quyền lên ngai vàng. Tức là ông muốn chấm dứt quan hệ văn hóa với nước Tàu cũ để tiếp thu Văn hóa Tây phương qua một dự phóng nước Việt mới.
Về điểm này, độc giả có học mới chắc phải công nhận nó cực kỳ quan trọng. Nó là chủ não của một cuộc cách mạng chứ không phải cải lương. Vì nó đẩy xã hội đi tới trên mọi phương diện trên một cơ sở tư tưởng, học thuyết hoàn toàn mới, phủ nhận học thuyết cựu truyền nghìn năm. Địa bàn hoạt động của nó không còn đặt ở Huế nơi tư tưởng phong kiến đã thấm sâu tủy não vua quan, sĩ phu và cả những tay chân đông đảo của họ. Bởi vì với Nguyễn lộ Trạch, chỉ là chấp nhận một phương thức đổi mới, cải cách trên một xã hội cũ. Còn với Phan châu Trinh là phải chấp nhận hoạt động cho một lý tưởng cách mạng, chính trị, tư tưởng, xã hội, văn hóa để phục vụ cho Dân, đánh đổ ngai vàng của Vua, đưa dân lên ngai vàng ấy trong xã hội mới. Làm thế nào để tạo một số đồng chí dám có nhìn đảo lộn ngai vàng, đảo lộn quý tộc, đảo lộn Khổng Mạnh, đảo lộn học vấn, đảo lộn đặc quyền, đảo lộn phương thức sinh hoạt, phọng tục, tập quán vào một thời xã hội còn tối ngòm ngòm. Địa bàn hoạt động phải đặt trên những vùng vốn mang sẵn mầm mống tranh đấu để tiến bộ không ngừng.
Không nhận thức được điểm này, tất nhiên cũng không nhận thức được một bước tiến cực kỳ trọng đại của lịch sử, xã hội Việt Nam. Và cũng do đó, không thể thấu hiểu được những hoạt động, cải cách nhiều khi rất nhỏ nhặt gần như vô nghĩa của phái Duy Tân, nhưng lại thiết yếu cho một bước rẽ của lịch sử. Không nhận thức điểm này, nhất định không hệ thống được mọi sự kiện rời rạc, mọi văn kiện lẻ tẻ, văn chương đôi khi khô khan kém cỏi nhưng vẫn nhất trí trong toàn bộ lớn lao của Phong Trào. Và sau hết, không làm sao đánh-giá đúng mức vai trò quần chúng trong việc tự động cải cách các phương thức sinh hoạt, tự động chủ trương các cuộc tranh đấu bạo động để thực hiện lý tưởng Dân quyền sau này.
Nhưng do đâu Phan châu Trinh sớm chủ trương Dân quyền ?
Câu trả lời sẽ dễ dàng đến với những người thường chuyên nghiên cứu tiểu sử cá nhân :
- Có thể đó là một phản động đối với những hậu quả bi thảm mà cha ông đã chịu. Cha ông đã chết dưới lưỡi dao của các nhà ái quốc phong kiến độc đoán và cổ lỗ. Ông căm hờn chế độ ấy trong bản chất, trong ý niệm nên ông chống nó vô ý thức dù ông vẫn tán thành hành động ái quốc. Chợt tới khi muốn cứu nước, khám phá ra một học thuyết vừa chống phong kiến, vừa hợp thời thế, có hệ thống, có tương lai, ông chấp nhận ngay.
- Lý luận ấy không phải không có chỗ đúng. Song nếu chỉ là phản ứng cá nhân thì chắc ông không đủ sáng suốt để nắm toàn bộ vấn đề lớn lao như thế. Tuy nhiên, tôi chắc không ai nỡ gạt ý kiến này như một tài liệu để ghi nhớ khi ta chưa quên bà Trưng, Nguyễn Trãi… Phản ứng muốn trả thù của cá nhân thường chứa chất trong tiềm thức và biết đâu nó chẳng giúp Phan châu Trinh những căm hờn đối với quan lại mà ông thường mắng không tiếc lời. Nhưng nếu có, đó chỉ là phương diện tiêu cực, phương diện tích cực vẫn phải đặt câu hỏi : tại sao ông say mê thuyết dân quyền đến thế kia ?
Phan Châu Trinh tuy có bề ngoài nghiêm trang nóng nảy, hăng hái, nhưng bên trong vẫn là người nhiều tình cảm. Độc giả chắc chưa quên câu chuyện cứu cô em gái. Tập thơ Tây Hồ và Sánte thi tập 6 của ông cũng tràn ngập tình yêu thương hạng người bị áp chế, hạng nghèo khổ, hạng ngu ngơ và cực lực chống lại mọi kẻ quyền thế, giàu có, tàn ác… Nhưng tình cảm và lý trí của ông không giống hầu hết các nhà Nho khác tí nào. Vì ông vừa có cốt cách đại nho lại vừa là kẻ bạt mạng, vừa ở trong khuôn khổ, vừa luôn muốn đạp phá khuôn khổ. 7
Sở dĩ bản tính như thế có lẽ vì ông là con một võ quan, không quen sự câu thúc. Đã thế, mới lớn lên là phải chạy giặc ở mật khu, chuyên học võ và rong chơi với các hạng quân nhân, hạng nghèo khổ, hạng thách đố những thứ giáo dục chi hồ giả dã. Tâm tính của ông chắc chắn chịu ảnh hưởng sâu xa của thời kỳ giáo dục ngoài trời này mà các bạn bè thiếu học của ông thuở ấy hẳn đã nêu cho ông những cái gương vừa bạt mạng, vừa can cường như ta vẫn thấy trong hàng lính tráng, võ quan… Hơn nữa, ta đừng quên là ông ở vùng cận sơn. Nơi đó dân chúng sống còn hồn nhiên, chưa có những khuôn phép quá đáng nào để trói buộc. Chuyện tập họp nhau trên núi săn nai, săn cọp 8 chuyện trai trên gái dưới, chuyện trộm cướp vẫn xảy ra hàng ngày, trẻ con đứa nào mà không biết. Lớn lên ông được học ở huyện rồi lên tỉnh, ra đế đô, phiêu lưu nơi đây, nơi đó chứ không ở cố định ở một nơi nào nên rất ít định kiến, ít tín nhảm, ít bảo thủ. Lúc còn là học sinh ông đã ngang tàng, khí khái, không biết sợ ai, thầy học bất công, ông cũng dám làm cho mang nhục ở vào cái thời quan, sư phụ được xem bất khả xâm phạm. Huỳnh thúc Kháng có kể một dật sự của ông trong Giai Nhân Kỳ Ngộ :
«Tên sinh (Phan châu Trinh) có tính không chịu khuất, không kỳ người bậc nào, lấy điều trái lẽ mà gác mình, thì cự lại ngay, dầu cho kẻ có quyền cũng vậy. Lệ thường, học trò quan huấn với quan giáo (huấn đạo, giáo thọ là quan dạy trong một huyện, có quyền thủ xả 9 học trò trong lúc khóa hạch) không kỳ mình có học hoặc không học với qua đó, đến kỳ mùng năm ngày Tết phải có lễ thúc tu (lễ học trò tết thầy) tới làm lễ tết thầy. Một ngày nọ, tiên sinh cùng hai người bạn, bưng một mâm gạo trên đặt ba quan tiền tới trường xin vào yết kiến quan huấn, tên hầu cửa xem thế liếc mắt, ngó một cái rồi đi vào (có ý ghét lễ ít, khác với học trò khác, thường thường đến kỳ khóa hạch là mùa của quan huấn, quan giáo, học trò không những tết nhứt hậu lễ mà thôi, lại còn lo lót nữa vì muốn cho lấy mình đỗ. Học dốt mà lễ nhiều cũng đỗ được (…) Gõ cửa mà không thấy ra, tiên sinh gõ cửa đại làm như tuồng muốn xô mà vào, tên hầu ra ngăn trở rằng quan có khách và la lớn rằng trò này vô lễ. Tiên sinh giả làm đụng tên hầu một cái xẩy tay đổ mâm gạo, lặt tiền đi về, quan huấn nghe tên hầu bẩm giận lắm, tư giấy vào huyện xin quan huyện bắt tiên sinh trị tội (anh Huyện lúc đó là Hồ…) một tay ác có tiếng… Huyện nọ nghe lời quan huấn, hạ trát cho sai nha tới bắt tiên sinh. Ai thấy vậy cũng chắc rằng sẽ bị nhục. Tiên sinh tự nhiên ra đi, đem đồ câu theo, đến cổng làng Chiên Đàn (là làng ở sở tại trường huấn, đường đi vào huyện phải đi ngang qua), bảo người bạn rằng chiều nay tôi lại câu tại cống đấy. Đến huyện, anh huyện ta tác sắc lập nghiêm nạt rằng : «Sao anh là học trò mà lại vô lễ với thầy anh ? Tiên sinh nói : học trò đã mang lễ thúc tu đến xin yết thầy, sao gọi rằng vô lễ ? Cự không cho vào và xô đẩy mắng nhiếc làm ra sự bất lịch sự là tại tên hầu, không trị tội tên hầu đó, mà thiên nộ tới học trò, lại làm phiền tới quan lớn, phải hạ trát văn, phải sai dịch đi tới tận làng, tận nhà, bắt một anh học trò như nã một tên bơm, ấy thầy tôi đã tự xử vào chỗ vô lễ rồi, quan lớn không cần phải hỏi kỹ nữa». Anh huyện thấy tiên sinh nói ngay, lý thẳng và xem khí sắc cứng cỏi, vững vàng, không thể lấy điều phi lý mà dọa nạt được, phát lạc qua loa cho rồi chuyện.
Chiều hôm ấy, tiên sinh hẳn về câu tại cống Chiên Đàn. Người ta hỏi sao mà chắc quan huyện không làm điều nhục và giam phạt ? (giam phạt là một việc chắc chắn phải chịu, không luận việc gì, tới cửa nha thì thế, nực cười chưa ?)
Tiên sinh nói rằng : Hồ là một tay lão hoạt rành việc lại (quan) lấy một ông huyện trị một anh học trò, hơn không ai khen, nếu thua hoặc có bày việc ra, thì mang tiếng. Huống việc này xuất tự ý riêng anh huấn, muốn cậy thế dọa bậy đó thôi, ma bắt coi mặt người ta, tên Hồ… gian hùng, có chịu ra tay làm thay những việc đó đâu.
Anh huấn ta vì việc đó căm giận lắm, sau đến kỳ hạch thi, bọn môn hạ (mấy tên học trò dốt, dua hót) lại giục anh ta, anh ta thảo một tờ tư với quan đốc học tỉnh cùng quan tỉnh rằng : tên Phan… vô hạnh và lại con quan ngụy chuyển vận sứ v.v… xin đừng cho vào hạch thi. Tờ tư chưa kịp phát, có người nói với tiên sinh, tiên sinh tức giận đi thẳng tới nơi trọ tìm anh huấn, giữa đám học trò đông, tiên sinh biện bác rầy rà, lời lẽ ngay thẳng và giọng nói dữ dội lắm. Anh huấn ta không trả lời được câu nào. Tiên sinh nói câu cuối cùng rằng : «Tờ tư ấy phát bố ra, thì là cái thù không đội trời chung, chớ không còn là thầy trò chi nữa». Anh huấn có bụng khiếp, tầm tờ tư đó, chỉ bẩm miệng mà thôi, rồi cũng vô sự (tiên sinh độ ấy học tại trường tỉnh đã có tiếng, nên quan đốc Mã Sơn có binh vực cho)».
Ngày xưa, cái đạo thầy trò trọng như thế mà ông còn dám chơi thầy «một vố» tối tăm mày mặt và rất xứng đáng, huống chi gặp những cảnh bất bình khác trong xã hội. Mà phải nói ngay là tuy rất nóng, nhưng ông không bao giờ thiếu trí. Cứ xem như chuyện đi câu ở Chiêu Đàn, điều dự liệu của ông đúng với các diễn trình xảy ra sau này thì phải nói ông thật mưu trí và hùng biện. «Ông có cái thói như sách sĩ đời Chiến Quốc» (Huỳnh thúc Kháng ghi nhân). Chính nhờ mưu trí và hùng biện này mà ta sẽ thấy các hành động khác của ông về sau cũng đều có xếp đặt một cách khôn khéo, uyển chuyển cả, dù… bao giờ cũng có cái bề ngoài hăng hái, nhiệt thành, có khi hùng hổ là khác 10 nhưng đừng lầm tưởng ông chỉ hăng hái đóng kịch đâu ! Ông hăng từ bản chất ! Ông không sợ trước uy vũ nào, kể cả uy vũ ghê gớm của Tây gác tù là thứ không còn biết gì đến nhân đạo. Sau này, khi ở Côn Lôn vì sự lôi thôi giữa ông với lính «Gardien Chef vào hỏi, tiên sinh biện bạch cứng cỏi. Chef tay cầm roi lăm le, tiên sinh giựt mà bẻ ngay. Anh Chef giận, xin với tham biện phạt bốn ngày xiềng». Lại lần khác : «tên Cai mã tà cầm xâu chìa khóa đá lên muốn đánh, tiên sinh thuận tay bắt lấy, quăng một cái rủi nhằm trán tên cai ấy đổ máu». Có người sẽ cho là ông cậy dựa vào hội Nhân Quyền, vào ông Babut những kẻ ở bên ngoài… Nói thế thì ông cậy dựa vào cái thế lực nào mà coi thường bệnh dịch là bệnh mà chính cả Tổng Thống Pháp cũng kinh hồn, nói gì hội Nhân Quyền ? Một lần, nhân có bệnh dịch, người ta muốn đem ông nhót vào bagne 11 nơi đang có dịch để ông chết. Nếu ông chịu nói một tiếng ngọt với lý hương làng An hải thì chả việc gì, nhưng ông khẳng khái bảo : «Con ma chuyên chế, con sát cường quyền, cũng kiêng ông thần tự do mình tao, đồ dịch quỷ làm gì». 12
Thế rồi ông vào bagne ở.
Vậy, nếu theo thói quen nương cậy, tinh thần quen hưởng viện trợ mãi để phân tích, phê phán, ta sẽ không bao giờ hiểu được cái hùng khí của vĩ nhân. Ta phải đi từ bản chất, tính tình, thói quen, nền giáo dục mà họ thu nhận, sinh hoạt của họ trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, ta mới khám phá được lý tưởng, hành động của họ. Họ không phải không biết nương cậy, vì trong mưu trí đã có nương cậy, nhưng bao giờ họ cũng tự nương cậy ở khả năng mình trước hết. Nếu Phan châu Trinh không có bản lĩnh vững vàng, không coi thường lao tù, không đủ kiến thức, không rành võ nghệ, ông đâu dám chống bạo lực, cường quyền, uy vũ dù chỉ để thủ thân giữa chỗ gươm thần, dáo dựng?

Bản tính chống mọi bất bình cá nhân sẽ là bước căn bản để tiến tới chống bất bình xã hội. Người hăng hái đối với mình, lại giàu tình cảm thương người sẽ cũng là người hăng hái đối với xã hội khi ý thức những nỗi bất bình xã hội. Ý thức xã hội, quốc gia nảy nở trong ông từ bao giờ ? Tôi tưởng muốn biết điều này phải đọc những thơ ca của ông thời gian ông còn trẻ. Tôi hy vọng có cơ hội viết một quyển nghiên cứu khác đầy đủ hơn. Ở đây, tôi thấy tài liệu chỉ còn phần lớn trong tập Tây Hồ và Sánte thi tập 13 Đó là một tập thơ đồ sộ, có thể nói rất đồ sộ, kể về số lượng. Trên trăm trang giấy, mỗi trang có ít là hai bài, còn thì ba bài. Nghĩa là ít ra cũng non ba trăm bài thơ Thất ngôn Đường luật. Tôi không rõ số lượng thơ của Trần tế Xương để lại có nhiều hơn không?

Tập thơ phong phú ấy được giới thiệu là phần lớn làm khi ở ngục Santé. Nhưng tôi đọc kỹ nhiều lần, cố tìm hiểu thì chỉ thấy có số ít bài thật sự ghi là làm ở Paris hoặc lấy chủ đề khi nằm ở trong ngục Santé. Còn hầu hết đều lấy chủ đề từ lúc ở Việt Nam, khi còn sống đời sống bình thường, yên ổn, cho đến lúc bị đày ra Côn Lôn rồi về Mỹ Tho. Tôi chắc đây chỉ là những thơ tác giả làm hồi còn trẻ, nay nằm trong ngục, ông chép cả lại để làm tài liệu. Vì hai lẽ : tư tưởng trong những bài ấy đều cũ so với sự thay đổi lớn lao, mãnh liệt của ông sau này. Huống chi trong đó còn những bài luận về đạo vua tôi một cách đơn sơ, giản dị, không bắt kịp những tư tưởng Dân quyền, nhất là tư tưởng chống đối kịch liệt Khải Định. Nhưng quan trọng hơn nhiều là chính các đề tài. Ông Phan châu Trinh thường dùng ngòi bút diễn đạt những xúc cảm, nhận xét, phê phán. Thơ ông có tính cách hợp thời như kiểu Trần tế Xương, đề tài rút ngay trong hoàn cảnh sống. Thế mà hầu hết những bài thơ này lại có chủ đề trong xã hội Việt Nam mà người ta chỉ có thể xúc động và diễn tả ngay khi đứng trước những cảnh : «Thịt chuột thì ít, con nít thì nhiều», «Lấy chi mà trả cái ân, lấy chi mà nạp công ngân cho làng», «Nghênh ngang như làng không ông xã», «Lòn cửa tiền cửa hậu. Ai lòn chỗ giậu chó chui»… Những phản ứng này nhất định phải ghi lại ngay vì lòng thương kẻ nghèo, vì đau xót số phận dân chúng, vì phẫn nộ với kẻ ngang tàng, vì khinh bỉ đối với kẻ cong lưng, uốn cổ… chứ không ai chờ những 5,7 năm sau mới nổi hứng sáng tác.
Thơ của Phan châu Trinh trong tập Tây Hồ Thi Tập về thể thức có một: là đường thi, nhưng chủ đề và đề tài thì rất nhiều. Tôi không đề cập những loại ông viết khi bị bắt, bị đày hay khi sống ở Ba Lê. Tôi chỉ ghi lại những loại chắc ông đã làm khi còn ở trong làng, trong tỉnh, cảm hứng bắt nguồn từ một thực tại tầm thường, vẫn luôn luôn xảy ra trong xã hội:
a) Loại nói về tình yêu
b) Loại nói về phê phán chế độ đại gia đình
c) Loại nói về cảnh khổ của dân chúng
d) Loại chống cường quyền, phú hào
e) Loại chống những người phản quốc, đề cao những nhà ái quốc
f) Linh tinh : nhân tình thế thái, khôn dại…
Các nhà thơ, phần lớn đều lấy đề tài ở một câu tục ngữ hay ca dao. Nói cách khác, riêng câu tục ngữ và ca dao làm đầu đề đem chép cả lại, cũng đã là một cống hiến của tác giả cho nền văn học Bình dân Việt Nam. Nhất là nhờ đó, ta biết chắc chắn thời tác giả quả đã có những câu ấy ở địa phương tác giả rồi. Số câu ấy ít ra cũng trên 200 câu 14 và nhiều câu còn hoàn toàn mới mẻ đối với chúng ta. Điều này còn cho chúng ta thấy cái học của Phan châu Trinh gắn liền với nhân dân, quần chúng và sự tranh đấu của ông sau này sẽ được quần chúng ủng hộ đã phát xuất ngay từ sự thông cảm căn bản ấy. Thật vậy, cứ xem những chủ đề đã liệt kê ở trên, ta thấy ngay nó là những yêu cầu mà xã hội, quần chúng thời ấy đòi hỏi được giải quyết từ nhiều năm trời, chứng minh là đầu đề đều do quần chúng cung cấp sẵn rồi. Phan châu Trinh sẽ theo quần chúng để diễn tả cho rõ hơn và thêm những lời bình luận sáng suốt của ông vào. Đây không phải là quyển phê bình văn học nên tôi chỉ trích lại một số bài, số đoạn nào cần để cho người đọc theo dõi dễ dàng quá trình phát triển tình cảm và tư tưởng của ông, trước khi ông dấn bước vào công cuộc Duy Tân. (Mà cho dẫu các bài thơ này có làm vào thời ở ngục Santé chăng thì nó vẫn chỉ có tính cách hồi ký, nghĩa là ghi lại đúng những cảm giác, cảm tưởng của tác giả khi đứng trước sự kiện xảy ra ở quê nhà trước những năm Duy Tân. Nhưng nhất định không thể có như thế, vì như tôi đã nói trên, nhiều đề tài chỉ có thể diễn tả lập tức đã đành, lại có những đề tài trình bày tâm trạng của cô gái non về tình yêu chẳng hạn : mơ ước lấy chồng thi đỗ cao, con gái mất trinh, con gái chửa hoang v.v… đều không thích hợp chút nào với tâm trạng của tác giả Giai Nhân Kỳ Ngộ khi đang phiêu bạt ở nước người và lại đang ở trong ngục chính trị phạm nữa).
Vậy nếu bỏ đi các loại chủ đề tình yêu và thanh nữ, loại phê phán chế độ đại gia đình mà tôi sẽ trình bày một cơ hội khác, ở đây, tôi thử giới thiệu ít đoạn thơ của các loại sau :
Loại chủ đề cảnh khổ của dân chúng : Loại thơ này nói về đời sống khốn cùng, bị chèn ép, phải lìa gia đình, người yêu để đưa thân cho chế độ dày vò.
BÀI: Thịt chuột thì ít, con nít thì nhiều (Chỉ cần nghe qua cái đề ấy cũng đủ làm người ta xúc động vì cái cảnh thèm thịt của lũ trẻ nghèo nàn).
Chà chà con nít ở đâu nhiều!
Thịt chuột sao cho phát đủ đều
Lúc nhúc hàng bầy xào mấy tí 15
Lao nhao mũi váng chực bao nhiêu 16
Cùng sào vuốt đặng đuôi quân quỉ 17
Hụt đũa xong đâu miệng lũ yêu
Mèo chực mỡ treo khôn thế dấu 18
Lôi thôi ngang họng nuốt không tiêu.
BÀI: Lên non túc một hồi còi
Thương con, nhớ vợ, lệnh đòi phải đi.
Nhớ vợ, tương con dạ nặng trì
Lên non còi túc lệnh đòi đi
Ba quân hiệu giáp nghe vang cả,
Hai mối tình sâu dễ sá chi...
BÀI: Lấy chi mà trả ái ân,
Lấy chi mà nộp công ngân cho làng.
Biết lấy chi chi trả ái ân,
Phần thì làng bắt nộp công ngân,
Đá vàng trơ đấy khôn rồi nợ,
Tiền bạc vơ đâu để rảnh thân.
Ngãi mẹ, ơn cha trời đất nặng,
Bán con, đợ vợ, tháng ngày lần.
Đắp đàng, đào suối, bòn vàng mỏ, 19
Khuây khỏa vì ai khổ kiếp dân.
Những cảnh nghèo đói, cảnh kêu gọi dứt mái ấm gia đình tòng quân, cảnh sinh ly giữa những đôi vợ chồng son để đi phục vụ cho quan lại và thực dân, để trả thuế, đến nỗi có người phải bán con đợ vợ sống qua ngày, là những thực trạng khốn nạn, lúc người Pháp mới sang và tác giả chứng kiến tận mắt.
Về chủ đề cường quyền tiêu biểu là quan lại hợp sức với phú hào để bức bách hãm hại dân lành thì rất nhiều. Có lẽ ông nghĩ không cần phải tả trực tiếp nỗi khổ của dân mà chỉ cần tả sự áp bách của hai hạng này, cấu kết với thực dân là chúng sẽ có một bức tranh xã hội thật rõ ràng trong đó dân đen nghẹt thở.
Đề: Thần thế đồng tiền
Oai quyền thúng thóc.
Thử xem trước mắt người thiên hạ.
Đệ nhất nhà quan, nhị chủ điền.
… … …
Đó là hai hạng tiêu biểu đầy đủ cho giai tầng áp chế. Thực dân dùng quan lại, quan lại bảo bọc chủ điền, chủ điền thường dựa vào chỗ quan lại bú sữa rồi cả quan lại cùng chủ điền thi nhau bóc lột dân. Tại sao quan không bao giờ thương dân được mà chỉ thích gông tù roi vọt?
Không thương vì bởi con không đẻ,
Hùm dữ càng hay ních thịt con.
(Quan lại cha mẹ dân)
Vì là cha mẹ của nhiều dân quá cho nên quan không thể ngay thẳng được, vì chữ quan vốn trong nó có mỗi lúc đến hai chữ khẩu (miệng) :
Giằng đầu đã chắc nhờ che chở,
Thêm miệng nên thêm lắm vặn xoay.
Nói hiếp, nói gian thêm đủ mực,
Bắt tròn, bắt méo cả hai tay.
(Chữ quan hai chữ khẩu)
Vì có hai miệng nên muốn nói gì thì nói, chẳng cần sợ trúng trật gì :
Thiên hạ kìa ai muốn nói gian,
Hãy xin kiếm miếng để làm quan.
(Muốn nói gian làm quan mà nói)
Rồi không chỉ quan làm tàng, chính những kẻ tay chân của quan, bọn lính cậy thần cậy thế cũng làm tàng với dân, nhưng thấy giặc lấp ló đã chạy trốn. Mà sở dĩ quân đội bệ rạc, tàn nhẫn không phải vì tại họ. Phan châu Trinh không lầm! Chính vì các kẻ điều khiển họ cũng có tâm lý hèn hạ như họ :
Ấn mới rời tay xem nhẹ hỏng,
Giặc vừa thấy mặt bỏ đi nhầu.
Miệng hùm, da rắn ai yêu được?
Cũng bởi nhà quan chớ bởi đâu.
(Bạc là dân, bất nhân là lính)
Loại thơ chỉ trích, đả kích kịch liệt quan lại rất nhiều trong toàn tập thơ cho hiểu tại sao tác giả sau này đặt nó thành điểm mấu chốt trong bức thư gửi cho Chánh Phủ Pháp, xem như một thách thức, một tuyên chiến với quan lại. Ai có sống ở nước ta trước đây trên vài ba chục năm mới hiểu nỗi khổ của dân chúng dưới ách quan lại khủng khiếp đến đâu!
Nhưng, chỉ trích quan lại như thế, ông đã có mộng Dân quyền chưa? Chắc đã chưa. Hình như có một thời ông vẫn còn mơ ước một chế độ quân chủ đẹp đẽ, giản dị mà Vua không phải là bậc chí tôn ngồi trên ngai cao chín bệ, các quan tới cúi đầu, quỳ lạy tung hô vạn tuế, chả khác gì một bọn mất hết ý thức danh dự làm người. Trong bài Luận vua tôi, ông vẽ lại những cảnh vua tôi đời Thuấn, Võ, Thương, Châu (Thượng cổ Trung Hoa). Vua tôi nào có khác gì anh em cũng ừ, cũng è, cũng mời nhau ngồi đàm đạo như bà con thân thiết:
Ừ, è Thuấn Võ cơn trò chuyện,
Mời mọc Thương, Châu lúc đứng ngồi.
Ấy thế mà ngày nay:
Cao thấp vì ai, phân quá bậc,
Lạt như nước lã, đục như vôi!
Chắc có một thời, ông những mong muốn có một chế độ thật gần gũi giữa dân chúng, quan lại và Vua. Ông có những bốn bài ở khít nhau (của trang 34, 35, 36) nào Nước, Vua, – Luận Vua tôi – Đạo vua – Đạo tôi để vạch rõ địa vị, trách nhiệm, bổn phận của từng người. Với kẻ làm tôi ông viết:
Xưa nay khó nữa đạo làm tôi,
Yêu nước thương vua vẹn cả đôi...
Đất cát ông cha chung để lại,
Nỡ nào mượn lốt để ăn chơi
(Đạo tôi)
Còn kẻ làm vua ông không cho đó là cái nghề dễ, ngồi cao, hưởng phúc mà trách vụ thật quá đỗi nặng nề:
Xưa nay khó nhứt đạo làm vua.
Tài đức gồm hai thế mới vừa.
… … …
Chuộng sĩ, yêu hiền quên thế vi
Lánh xa đệ nhất tiếng a dua.
(Đạo vua)
Có lẽ thời ấy, ông chủ trương một kiểu như quan chủ lập hiến. Ông công kích kịch liệt quan niệm:
Xưa nay gọi nước của Vua rồi,
Sống thác, nên hư bỏ mặc đời.
Ông khẳng khái xác định :
Nước vốn ông cha chung khoảnh đất,
Vua là chủ tịch của đương thời.
Chùa làng không dễ sư quơ sạch,
Ruộng tổ nên nhường trưởng kỵ thôi.
Trưởng kỵ thôi, hiểu như thế là vua chỉ còn địa vị người giữ hương hoả danh dự kiểu vua quan nước Anh chứ không phải chế độ quân chủ phong kiến nữa.
Nhưng quan điểm hay chủ trương vua tôi đẹp đẽ, đó có lẽ chỉ có cho tới khi ông thất vọng vì các quan lại ở Huế. Ông đã tin tưởng vào họ như Nguyễn lộ Trạch, Phan sào Nam đã tin. Nhưng không tiêu cực khi vỡ mộng, ông ngay thẳng chống đối họ, làm cả một bài «Điền xá ông truyện» để châm chọc ông quan có danh tiếng nhất ở Huế, người đã tuyệt khẩu trước sách Lưu cầu huyết lệ của Phan sào Nam, rồi bỏ đi. Cả hai chí sĩ từ đó mới tuyệt đường mơ tưởng bọn quan Nam triều trong tiền đồ Cách mạng dân tộc.

Để làm nổi bật thêm cái xấu xa, nhục nhã của sĩ phu ra làm quan, để vạch mặt những hàng ái quốc giả hiệu, Phan châu Trinh còn làm những việc mà tôi ngạc nhiên là ít người nói tới: sáng tác rất nhiều thơ phản đối Tôn thọ Tường. Con số thơ này nếu kể những bài họa với đề Thi xưa (tức là họa 10 bài tự thuật của Tôn thọ Tường hai lần thành hai mươi bài) thì tổng số có đến khoảng hai mươi lăm bài. Ít ai chú ý vì không mấy ai chịu khó nghiên cứu thơ văn cách mạng, ngoại trừ một số nhà thơ quen biết và vì ông lấy những cái đề khác như cu ngoài trách cu trong, cu trong họa lại… Những bài này đều làm khi ở Mỹ Tho, nghĩa là sau khi ông ở Côn Lôn ra. Sở dĩ tôi cũng ghi vào đây là cốt để cho độc giả biết diễn tiến tư tưởng của ông, đồng thời muốn trình bày một sự phân biệt triệt để sâu xa giữa chủ thuyết Pháp Việt đề huề của ông với của Tôn thọ Tường, của một người chịu bắt tay Pháp theo chiến thuật để cứu nước và để bị tù đày và một người cúi đầu theo Pháp để vinh thân phì gia. Các bài thơ ấy không toàn bích so với Phan văn Trị nhưng kể ra, cũng có những bài có những câu đặc sắc. Nhất là nó vượt qua Phan văn Trị rất xa ở điểm này: Phan văn Trị chỉ có một niềm tin đơn giản, căn cứ trên truyền thống bất khuất của dân tộc và đạo lý. Còn Phan châu Trinh thì tin ở một học thuyết mới lạ mà nhờ đó sẽ đánh đuổi được Tây:… 

Dân ước Lư Thoa sách một pho
Trôi máu vất thây thề đất nước
Lòng người đã muốn, ắt trời cho
(VII)
Niềm tin ở sự quật cường, chí sắt đá, được dẫn đạo bởi học thuyết Lư Thoa 20 nhất định sẽ dẫn tới cái kết quả toàn dân mơ ước :
Mấy mươi ta hãy chớ xăn văn,
Cọp tới nhà đây thế phải ngăn.
Xem lại kình tay ra sức chống,
Thôi đừng trây máu kể phần ăn.
Xoang mưu Trí Bá thành chưa ngập,
Hết sức Ngu Công núi phải bằng.
Người định hơn trời nghe đã chắc,
Xưa nay lẽ ấy vẫn hằng hằng.
(IX)
Niềm tin sắt đá, khoa học và bất tuyệt ấy là một thách đố không chỉ với Tôn thọ Tường, bè lũ bán nước mà còn chính cả với thực dân. Sức mạnh của lời thơ như chặt đinh, chém sắt ấy ít khi nghe thấy trong văn thơ Việt Nam, là tiếng kèn kêu gọi những người tâm huyết đi tới theo bóng cờ Dân chủ !
Đã đả kích kịch liệt bọn Tôn thọ Tường, tất nhiên ông đã quên đề cao Nguyễn đình Chiểu. Chín bài liên hoàn Điếu ông Tú tài Chiểu làm lúc ở Paris cho thấy sự kiên định thêm tư tưởng của tác giả.
Nhưng, như đã nói: bài này không cốt ý thì nghiên cứu và phê bình văn học của Phan châu Trinh nên tôi tạm dừng lại đây, chờ một cơ hội khác. Chỉ xin cùng độc giả nghe vài lời thân thiết, không phải tự miệng ông mà từ trái tim rướm máu của ông khóc nhà ái quốc Miền Nam:
… 

Giọt máu trung thành rơi đã khắp,
Hội này chưa dễ gặp người đâu.
Dẫu thế nào Phan châu Trinh cũng chưa chủ trương đánh Tây ngay! Đó là điểm chủ yếu của vấn đề Duy Tân. Không phải ông khiếp nhược như Tôn thọ Tường:
Chớp nhoáng, thẳng bon dây thép kéo,
Mây tuôn đen nghịt khói tàu bay.
Hay liều lĩnh như Phan văn Trị :
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Ông bình tĩnh nghe, phân tích lợi hại bằng một óc sáng suốt để định một thái độ :
Đề: Tai nghe súng nổ cái đùng
Tàu Tây để lại Vũng Thùng 21 bữa qua
Kìa đâu súng nổ đã nghe đùng,
Cách bữa Tàu Tây lại Vũng Thùng.
Nửa hạt Hòa Vang rần tiếng sấm,
Mấy ngày Đà Nẵng đậu buồm bông.
Khoá Sơn bắn trả quen nghề trẻ,
Việt hải bay qua chịu phép ông.
Vịt chửa lên khô, lên cũng giỏi.
Bông mai, vỏ lửa thị như không.

Sự thật, thơ này chắc ông làm lúc đã lớn, lúc Pháp đã đánh tan lực lượng Cần Vương rồi. Cái bình tĩnh của ông là kết quả của một thời gian dài gần 20 năm suy gẫm. Ông có đủ thì giờ nhận ra những thứ súng Khoá Sơn của ta là loại đại bác tồi nhất của trẻ con, không còn công hiệu gì trong chiến tranh mới. Và lời đồn Tây chỉ giỏi dưới nước như vịt, lên khô nắm cổ mà xách đều không đúng: họ lên khô cũng giỏi như khi họ ở dưới nước. Và những thứ bông mai, vỏ lửa, những chiến cụ dùng để cho họ đạp phải, cũng như những chông tre, trái mù u, cạm bẫy đều bị những bàn chân có đầu gối, có giày đinh đạp lên, dày xéo lên như xéo trên cái kiến! 
Chưa thể đánh họ được ngay với các chiến cụ cổ lỗ hoặc ngớ ngẩn ấy. Nhưng phải nuôi lòng :
Đống xương nghĩa sĩ đôi lần chất,
Giọt lụy anh hùng lắm lúc sa,
Phải đặng đông tay nâng vạc ngã,
Non sông may cũng họa chăng là…
(Thi xưa)
Vậy thì ông không quản ngại đống xương nghĩa sĩ phải chất, và ông sẵn sàng góp phần xương của mình vào.
Nhưng phải góp thể nào cho hữu ích. Thời đại này không thể đi tìm một số đồng chí sĩ phu rồi cùng nhau âm mưu toan tính mà thành công. Phải có nhiều, rất nhiều vô số quốc dân góp sức, phải đặng đông tay nâng vạc ngã thì mới mong cứu vãn quốc gia.
Lịch sử do một số ít tạo nên đã vượt qua. Trang sử mới là trang do toàn dân kiến tạo. Và phải kiến tạo theo bóng cờ của chủ thuyết Dân Quyền.

Chú thích:

1

Vì lẽ ấy nên trong các phần sau, tôi hay gọi Quảng Nam – ngoài để chỉ phần đất nay là Quảng Nam và Quảng Nam – trong này là Quảng Tín.

2

Nên phân biệt đồn điền của quân lính và nhàn điền của tư nhân. Hai loại ấy khác hẳn nhau.

3

Đây là tài liệu trong gia đình Phan châu Trinh cho. Theo người ngoài kể thì có vài giả thuyết khác nhưng cũng đều cho ông Bình chết oan cả.

4

Giai nhân kỳ ngộ Lam Hồng 1958. (Tài liệu rút trong đó sẽ ghi G.N.K.N.) Phan châu Trinh sáng tác, Lê văn Siêu giới thiệu.

5

Khang Hữu Vi (1858-1927) chủ trương cuộc chính biến 1898 (Quang Tự 24) ở Trung Hoa. Ông soạn các sách Đại đồng thư và Âu châu thập nhất quốc du ký.
Lương khải Siêu (1813-1929) hiệu Nhiêm công, Tỉnh Quảng Đông môn đệ Khang hữu Vi. Sau trận Trung Nhật chiến tranh (1894) xin đổi hiến pháp không được, mở thời vụ báo. Sau biến chính 1898 thất bại đi du lịch toàn cầu. Rồi trở về Nhật làm Tân Dân Tùng báo, bỏ bảo hoàng theo Cộng Hòa.

6

Tây Hồ và Santé thi tập: Phan Châu Trinh (Di thảo) Lê Ẩm sao lục 1961 (Viết gọn Tây Hồ Thi Tập)

7

Huỳnh Thúc Kháng chứng thực điều này như sau : Tiên sinh là người thích thảng, không có cách cẩn thứ mực thước như bọn hủ đạo đức, bình sinh trong trường quan, cõi sắc, đám bạc, cuộc say, chỗ nào cũng chui mình vào, không thèm trớ tránh chi cả, song đã biết là lụy thì tức thì gò ngựa, không bước vào nữa, không có chút gì là quyến luyến. Thường bảo ông Nghè Trần (Trần quí Cáp) cùng tôi rằng : người ta lâm vào cái cảnh tình dục ham muốn, vào trong ấy mà lại ra được, mới là hào kiệt, mới là không nịch (chìm đắm), như các anh là đứng ngoài xa trông vào mà đã sinh lòng sợ, không dám lại gần đó mà thôi, nhất đán vào trong, biết đâu không mê mà bị nó làm lụy mình như các người khác. Ông Nghè Trần thâm phục câu nói ấy, song trả lời rằng: «để cho đến vào trong mà không ra được, thà không vào là hơn». Một đời tiên sinh hẳn là làm được như lời. (G.N.K.N)

8

Xin xem: Nguyễn văn Xuân. Vậy Hội. Tân văn số Tết Kỷ Dậu 1969.

9

Lấy hay bỏ.

10

Tôi có quen một ông phó bảng biết Phan châu Trinh bảo là «Ông Phan «Hỗn» lắm nên cha tôi không cho tôi tiếp xúc bao giờ dù ông chơi ở gần nhà tôi luôn». Chữ hỗn dùng ở đây có lẽ không quá đáng vì ta biết ông Phan không phải hạng người thích nói hàng hai hay thích lựa những lời êm ái, ngọt ngào đối với các hạng phản động, buôn dân, bán nước hoặc hạng ù lì.

11

Nhà ngục.

12

Các dẫn chứng đều rút ở Giai Nhân Kỳ Ngộ trong phần dật sự.

13

Tây Hồ Thi Tập sđd.

14

Không kể những câu dẫn chứng ở mỗi bài. Khá nhiều, có lẽ cũng ngót vài trăm câu nữa. Tổng công trên 400 câu.

15

Chuột bầy đào chẳng nên hang.

16

Con nít chưa sạch váng mũi.

17

Chuột chạy cùng sào.

18

Mỡ treo miệng mèo. (Phan châu Trinh chú)

19

Ca dao: Lấy chi mà trả ái ân. Lấy chi mà nộp công ngân cho làng? Phần thì quan bắt đắp đàng, đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu. (Phan châu Trinh chú).

20

Ông cũng đã trách Tôn Thọ Tường là đã sang Pháp mà:
«Muôn dặm Châu Âu thân lặn lội
Dân quyền hai chữ dễ làm ngơ»

21

Tên của cửa bể Đà Nẵng.

PHAN CHÂU TRINH VÀ
PHAN BỘI CHÂU (1867-1940)
CHÍNH TỪ chủ trương nhân dân tham gia việc nước đó mà Phan châu Trinh luôn luôn không gặp và phản đối chủ trương của Phan bội Châu.
Trong giai đoạn đầu, sự phản đối đó chưa có gì là quyết liệt, còn nằm trên lý thuyết hơn hành động. Trong căn bản tư tưởng, Phan châu Trinh đã tâm niệm mỗi một chữ Dân Quyền chứ không có thể có chủ thuyết nào thay thế.
Huỳnh thúc Kháng ghi rõ sự tiến triển tư tưởng của Phan châu Trinh:
Tiên sinh đởm thức tót người, lại giàu đường huyết tánh, từ buổi nhỏ đi học đã để con mắt xem đời mà chứa sẵn một lòng yêu nước; song khốn vì ở trong nhà quê, chung quanh rành những xã hội hủ bại, bình sinh được thấy chỉ một lớp tuồng đảng Cần Vương mà thôi; nghe thấy đã hẹp hòi, lịch duyệt cũng chưa rộng, nhiều khi cảm xúc mà không chỗ đâu mà mở mang ra, vẫn cho là việc đời không làm gì được trong lòng uất ức, thường làm ra thi văn để tỏ ý mình :
1) Thôi cũng cùng đầu xem cuộc thế,
Có đâu dư bụng chứa tuồng đời.
2) Giông mây cuộc thế xoay sao được,
Đèn sách công phu trả chửa xong.
3) Lẽ giống da vàng đành lấp đất?
Chán phường áo trắng lại lo trời! v.v… 1
Ấy, từ những nỗi niềm ưu thời, mẫn thế xem như vô vọng, xem như một cửa hàng dằng dặc tối mù, mà chỉ ở kinh đô Huế hai năm, được xem tân thư, bàn luận cùng bè bạn, đọc Thiên Hạ Đại Thế Luận, ông đã như kẻ giác ngộ, kẻ được soi sáng, đường hầm hiện ra ánh sáng chiêu dương rực rỡ ở cuối nẻo tuyệt mù :
«1. Kinh đô là nơi trung tâm điểm học thuật chính trị nước ta, mà cũng một chỗ đô hội, hội hiệp cả sĩ phu trong nước, tiên sinh ở đây để lòng xem xét chánh giáo mình hủ bại ra thế nọ, sĩ phu mình liệt nhược ra thế kia, cái nguồn gốc hư hỏng nước mình là tại đó, thấy được rõ ràng, biết hẳn rằng công việc cải cách to lớn không trông mong vào một bọn danh lợi cùng lão hủ đó được, những điều chiêm bao lăng miếu, triều đình ngày xưa, không còn dây dính trong óc chút nào, ấy là một.
2. Người Pháp sang ta đã hơn năm mươi năm, mà sĩ phu trong nước không biết Tây học là cái gì, cho đến độ này, người Tàu đem học thuyết Âu Tây dịch ra làm sách, làm báo để truyền bá mà tỉnh thức người nước, tiên sinh được học thuyết đó, như một trận gió mát thấu vào trong óc, thổi sạch cả những đám mây mù che đậy thuở nay, ấy là hai.
Từ đó học thuyết Tiên sinh tiến tới một bước dài, mà tấm lòng nhiệt thành ái quốc cũng cao thêm mấy độ nữa, ngày trước là: thời sự vô khả vi 2 nay trong lòng và trước con mắt, thấy rõ ràng có một đường, mà phương châm hạ thủ làm thế nào, cũng từ đó mà nhất định. Tiên sinh thường nói rằng : Cái độc chuyên chế cùng cái hủ nhà nho ta, đã thành chứng bệnh bất trị mà học thuyết tự do Dân quyền Âu Tây chính là vị thuốc đắng đầu chữa bệnh đó. Ngày trước người mình cứ thấy đầu trị đầu, thấy chân trị chân, thuốc không nhằm bịnh nên không hiệu là phải. Chí hướng đã định rồi, xảy có cuộc Nga Nhật chiến tranh (1904) phong triều giục đến một bên, mà Tiên sinh không thể ngồi yên được vậy». 3
Bởi thế, khi gặp Sào Nam, Phan bội Châu thì hai bên có nhiều chỗ gặp nhau, trên mục đích cứu nước là chủ yếu, nhưng chủ thuyết thì hoàn toàn khác nhau. Phan bội Châu lúc bấy giờ đã đỗ giải nguyên một cách rực rỡ như chưa từng thấy (tên ghi trên một bảng riêng, khác thông lệ), mượn tiếng vào Huế học ở Quốc tử Giám để đi thi Hội mà tìm người đồng chí. Thời kì này Sào Nam đã được Nguyễn thượng Hiền cho xem những sách của Kỳ Am Nguyễn lộ Trạch: «Tôi được đọc bài Thiên Hạ Đại Thế Luận của ông Kỳ Am mà hiện thế giới tư tưởng mới măng mầm từ đó. Tiên sinh lại cho tôi mượn mấy bộ sách như Trung Đông Chiến Kỷ, Phố Pháp Chiến Kỷ, Dinh hoàn chí lược, tôi vì xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình trạng cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng quốc vong chủng diệt càng kích thích trong óc sâu xa lắm». 4
Sau đó, ông vào gặp Nguyễn Thành ở Quảng Nam. Bắt đầu công cuộc chuẩn bị kết nạp của Sào Nam là lúc ở Nghệ Tĩnh, nhưng mọi tổ chức thực tế và quy mô cho công cuộc khởi nghĩa rồi dẫn tới Đông Du sau này đều khởi sự từ mùa Xuân năm Quý Mão (1903) ấy. Nguyễn Thành (1863-1910) hiệu Tiểu La làng Thạnh Mỹ, Phủ Thăng Bình là một đảng nhân Cần Vương còn sót lại. Lúc trẻ ông là một tướng lãnh có biệt tài và mưu trí. Chính lúc Cần Vương dấy lên, quân Nghĩa hội chiếm tỉnh Quảng Nam, toàn thể đều lo khuân vác tiền bạc, của báu, riêng mình ông lo khuân kho vũ khí đạn dược. Nhờ đó mới chống với Pháp mấy năm trời. Ông kín đáo dự liệu mọi việc một cách rất cặn kẽ, tổ chức một Chính Phủ bí mật ngay trong Nam Thình Sơn trang của ông với «minh chủ » Tôn Thất Toại, «một người đã âm mưu quang phục bị thất bại, trốn vào Quảng Nam mà Tiểu La Tiên sinh đã thu tàng 5, 6 năm» 5 . Nhưng khi Nguyễn Thành đem Toại giới thiệu, Phan sào Nam thấy người tầm thường không chịu. Tuy nhiên, Sào Nam vẫn quyết tâm theo đuổi các kế hoạch mà Nguyễn Thành đã vạch ra : «…Thuở nay, ai muốn mưu toan đại sự trước hết phải cần ba điều này: một là thu phục lòng người, hai là góp số tiền lớn, ba là sắp đặt mua sắm quân khí cho đủ. Hễ lòng người đã chịu tin phục thì số tiền lớn có thể góp được. Có tiền thì vấn đề quân giới không khó giải quyết đâu». 6
Mà muốn thu phục lòng người phải mượn tiếng phò vua giúp chúa. Phan bội Châu nhìn nhận: «Tôi với hai ông Đặng, Lê ban đầu, thật chúng tôi chưa hề suy tính tới việc tôn người dòng dõi nhà vua. Tới đây nghe Nguyễn quân, chúng tôi cho là phải lẽ lắm ».
Tôi không rõ Sào Nam diễn ý như thế có mâu thuẫn chút nào với một kế hoạch mà ông cùng các đồng chí dự liệu trước khi gặp Tiểu La, khi còn ở Nghệ An khoảng năm 1900 là Ủng phù một vị minh chủ, kén chọn trong hoàng thân lập ra… 7 không?
Do lẽ tìm Minh chủ mà Sào Nam tìm tới Cường Để (1882-1951) 8 rồi mời Cường Để vào Nam Thình Sơn trang hội họp với Nguyễn Thành (cũng gọi Nguyễn Hàm). Lần này, các hội viên đồng thanh tôn Kỳ ngoại hầu Cường Để, cháu giòng đích tôn của vua Gia Long, làm Hội Chủ.
Hội ấy là Hội nào ? Cường Để thì gọi là Việt Nam Quang Phục Hội. Suốt quyển cuộc đời Cách Mạng Cường Để (do con trai ông là Tráng Liệt xuất bản 1957), ông luôn luôn gọi hội ấy với cái tên như thế và cho biết « những người nhập hội đầu tiên là Trần đình Phác, Nguyễn hữu Bài, Nguyễn Thuật, Nguyễn Thăng, Đào Tiến, Phạm Tấn và Đốc vận Hiền (theo đạo Da Tô) đều là người trong quan trường và có óc trung quân ái quốc». Còn theo Phan bội Châu, thì «bắt đầu khai hội từ buổi sáng qua chính trưa tan hội. Tên hội chỉ những người trong hội biết không lập sổ sách (…). Đặt Kỳ ngoại Hầu làm hội chủ, hễ lúc xưng hô chỉ gọi bằng Ông Chủ, cấm không được hở chữ «Hội» ra. Hội Viên trọng yếu lúc ấy thì có những người như: Nguyễn Hàm 9 Phan bội Châu, Trình Hiền, Lê Vũ, Đặng tử Kính, Đặng thái Thân». Vậy thì ông Cường Đề chỉ ghi những tên các quan lớn (lớn lắm, như Thản (hay Thảng) Đông Các, Thuật Lại Bộ Thượng Thư v.v…) đang tòng sự tại Huế mà Phan bội Châu đều ngán mặt qua các tài liệu ông để lại. Có lẽ bọn này chỉ theo đảng của Cường Để ở Huế chứ chắc chắn đời nào dám vào Nam Thình Sơn trang ! Có lẽ họ sợ lỡ sau này Cường Để có được làm vua thực sự, họ cũng vớt vát được phần nào… Còn cái tên của đảng, hay Hội thì Phan bội Châu không tiết lộ. Cho đến sau này Kỳ ngoại Hầu Cường Để xuất ngoại rồi, mới cần một chương trình thành văn gởi về nước, Phan bội Châu mới cho biết tôn chỉ của Hội ấy : « chuyên đánh đổ Chính Phủ Pháp, khôi phục Việt Nam, kiến thiết quân chủ lập hiến quốc». Ông cũng cho biết « Những bản chương trình ấy đến tháng mười năm Tân Hợi (1911) đã tuyên bố thủ tiêu, và tên hội cũng đã đổi làm Việt Nam Quang Phục Hội, nên không chép lại làm gì » (Tự Phán : 68) Ông không chép lại tên Hội, nhưng tiêu đề chương này ghi là : IN THÀNH VĂN CHƯƠNG TRÌNH DUY TÂN HỘI. Vậy thì đó là tên nguỵ để che dấu cái tên chính mà Cường Để đã ghi «Việt Nam Quang Phục Hội» như chính mục đích thực sự của đảng? Rõ ràng hội không có chút chiếu cố Duy Tân nào hết, mà chỉ muốn mượn một cái tên hợp thời, nhẹ nhàng để tránh sự dòm ngó của các hoạt động THIẾT HUYẾT (Sắt máu) mà người ta vẫn dành cho nhân vật và lực lượng ám xã (xem sau) do Phan bội Châu và Nguyễn Thành lãnh đạo. Do lẽ đó, để cho thuận tiện, tôi sẽ dùng cái tên Quang Phục Hội khi đề cập mọi hoạt động sau này của Cường Để và Phan bội Châu, kể cả Phong Trào Đông Du. Vì sự thật, nó chỉ là một bộ phận của Quang phục, trong mục đích quang phục mà thôi.
Sau đó (hay trước khi tôn Minh Chủ ? Tự Phán và Ngục Trung Thư đều lẫn lộn, tôi chưa quyết sách nào đúng dù NTT viết năm 1913 mà TP viết khi bị an trí ở Huế). Ông Phan bội Châu viết Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư để âm kết với quan trường nhưng không thâu được kết quả gì. Quyền này chia làm 5 đoạn :
Đoạn thứ nhất nói về những điều sỉ nhục vì nước mất, quyền mất và nói sẵn về kết cục thảm hoạ về tương lai. Ba đoạn chính giữa nói kỹ những kế hoạch sẽ cứu cấp đồ tồn :
1) Mở trí khôn cho dân (khai dân trí)
2) Nhức nhối khi dân (chấn dân khí)
3) Vun trồng nhân tài (thực nhân tài)
Đoạn cuối cùng thì kỳ vọng với các người đương lộ (làm quan) lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ (TP trang 34, 35).
Các quan đọc xong đều tuyệt khẩu 10 . Nhưng nhờ quyển sách ấy mà Sào Nam kết giao được với Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng và Trần quí Cáp.
Phan châu Trinh đọc sách ấy phê bình ra sao ? Ông cho « Sào Nam là một người hào kiệt nóng lòng việc nước mà kiến thức thì chưa thoát khỏi khuôn sáo cũ chút nào ». Nhưng cũng nhờ « Dịp đó hai người gặp nhau, nghị luận tuy có chỗ không hiệp nhau mà vẫn phục nhau, có cùng nhau bàn việc phế khoa cử, lập hội thương, trường học, song cũng chưa làm. Tháng chạp năm ấy (1904) ông Sào Nam vào Quảng Nam tới thăm tiên sinh tại nhà rồi về đi Nhật Bản. Tiên sinh mới gặp ông Sào Nam, bác riết bài Lưu Cầu huyết lệ, cho là không hiệp thời thế cuộc đời bây giờ, song ông Sào Nam lúc đầu đang nóng về chủ nghĩa bài ngoại, nên cũng không chịu phục ». (GNKN trang L)
Về đoạn gặp gỡ này Phan bội Châu chỉ ghi : « Ngày tháng 7 năm ấy, tôi mượn tiếng là đi mừng bảng Hội, bắt đầu ở nhà Tiểu La, thăm nhà cụ Hoàng thạnh Bình (Huỳnh thúc Kháng) vừa đụng cụ Tây Hồ, cụ Trần thái Xuyên 11 , thảy đều ở đó, nói chuyện suốt đêm rất vui. Tôi lấy ý sắp sửa ra đi ngỏ với các ngài, các ngài dòm nhau cười mỉm, chúc tôi thành công ». (Tự Phán 41)
Phan bội Châu không tiết lộ gì về các cuộc gặp gỡ với phái Duy Tân khi ông sắp thực hiện một cuộc khởi nghĩa quân chủ, điều mà dĩ nhiên Phan châu Trinh không bao giờ tán thành. Vì có lần Phan châu Trinh hỏi Sào Nam : « Từ thế kỉ XIX về sau, các nước tranh nhau càng ngày càng dữ dội, tính mạng một nước gởi trong một số người đông, chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà ngày nay lại còn dựng cờ quân chủ lên hay sao ? »
Tư tưởng, chủ trương hai chí sĩ ấy hoàn toàn khác nhau từ căn bản. Phan bội Châu là đứa con hào hùng của Cần Vương Văn Thân, và được chính một nhân vật kiệt hiệt cuối cùng của lực lượng này bảo trợ, đặt mưu, định kế, từ việc dựng minh chủ, tới việc Nam Du, việc Đông độ mua khí giới của Nhật. Cũng chính nhân vật này bảo toàn việc đưa Cường Để xuất dương, vận động làm chiêu cổ phần lập thương hội (giả) để có đủ tiền bạc trợ cấp cho lực lượng ở hải ngoại. Nếu Nguyễn Thành và Phan châu Trinh ăn ý được với nhau thì chắc chỗ ngồi của Sào Nam đã là của Tây Hồ. Vì hai người vốn ở cùng tỉnh, nhà lại gần nhau. Thế mà đến 1904 Phan châu Trinh mới kết giao cùng Thạnh Mỹ (Nguyễn Thành – theo niên biểu đồ) thì rõ là họ không muốn biết nhau và chỉ biết nhau vì Phan sào Nam ; Huỳnh thúc Kháng trong đoạn trước đã cho chúng ta thấy Phan châu Trinh không mấy thiện cảm với lớp tuồng đảng Cần Vương mà ông xem như tuyệt vô hy vọng.
Đối với Phan bội Châu thì sao cũng được, ai cũng tạm được, miễn là hãy cứ tiến hành công cuộc khôi phục quốc gia. Nhưng với Phan châu Trinh phải là học thuyết, là chủ trương đường lối, chính sách, phải là quảng đại quần chúng. Và bây giờ chưa phải đánh Pháp ngay sau những trận thất điên bát đảo nhân tâm ly tán, đời sống nhân dân bị chà đạp, bị bóc lột đến tận xương. Trong khi đó, đối phương có một bộ máy hành chánh thạo việc và thâm độc, một lực lượng quân đội với vũ khí tối tân, huấn luyện kỹ lưỡng… và quân đội ấy đã bước qua gần hết những khu chiến đấu bí mật của ta để lập những cơ sở chiến lược qui mô, vững chãi.
Cũng kể từ đây một ý thức hệ mới bắt đầu hình thành bên cạnh một ý thức hệ sắp tắt, nhưng vụt soi sáng hơn cả bao giờ, sáng rực đến năm 1916 mới chịu tắt hẳn. Mang hai ý thức hệ ấy, hai bậc đại hào kiệt Việt Nam đầu thế kỷ XX ngang nhiên rấn bước.
Chú thích:

1

Giai nhân kỳ ngộ (Sđd) trang XXXXVIII XXXIX.

2

Việc đời không làm được.

3

GNKN (Sđd) trang XXXIX, những chỗ in đậm hơn là do người chép lại muốn lưu ý bạn đọc.

4

Tự Phán, Phan Bội Châu – Anh Minh 1956.

5

Tự Phán (Sđd) trang 32.

6

Ngọc Trung Thư, Phan bội Châu – Tân Việt 1950 trang 19.

7

Tự Phán, Sđd, trang 30 – Tôi ngờ Phan bội Châu về sau muốn phủ nhận hẳn tư tưởng tôn quân thuở trẻ nên có sự mâu thuẫn ấy chăng?

8

Cường Để: Tức Kỳ ngoại Hầu. Thuộc dòng Hoàng tử Cảnh, trưởng tử Gia Long. Sống ở Huế cho đến năm 1906 sang Nhật.

9

Tôi chỉ thấy Cường Để gọi Hàm, chứ ít thấy Phan bội Châu dùng tên ấy, thường chỉ gọi Thành.

10

Trong số ấy có những người mà Cường Để ghi là vào Việt Nam Quang Phục Hội do Cường Để và Phan bội Châu lãnh đạo.

11

Sách in Thái Xuyên. Nhưng theo chỗ tôi được biết thì là Thái Xuyên, hiệu của Trần Quí Cáp.

PHẦN II
CĂN CỨ ĐỊA CỦA
PHONG TRÀO DUY TÂN
Như chúng ta biết, Phong trào Duy Tân phát xuất từ Thừa Thiên, nhưng không sống nổi. Nguyễn lộ Trạch đã thất bại ngay trên quê hương của mình rồi cả những nơi ông đi qua cũng không nơi nào Phong trào bừng dậy được.
Cho tới khi Phan châu Trinh, Trần quí Cáp, Huỳnh thúc Kháng muốn thừa kế đại sự nghiệp của ông, sau những va chạm với các quan lại, sĩ phu, biết rằng đế đô không dung nổi những thay đổi lớn lao có thể đến tận gốc rễ về mọi phương diện, họ phải chọn một địa bàn khác để hoạt động.
Họ đưa về Quảng Nam, tỉnh nhà.
Quảng Nam xưa kia là Thừa Tuyên, là dinh đã có khi ăn vào tới Bình Định và ảnh hưởng đến cực Nam Trung Việt, và cái tên ấy cũng thường dùng để chỉ cả Miền Nam Việt Nam hiện nay : nước Quảng Nam (Nam Hà) như Miền Bắc hay ngoại quốc thường gọi. Cho tới khi rút gọn vào trong một tỉnh thì nó vẫn còn khá rộng, gồm cả hai phần như hiện nay đã chia : Quảng Nam và Quảng Tín. Hai phần này nhiều người vẫn lầm lộn là cùng chiếm của Chiêm Thành một lần. Sự thật, Quảng Nam chiếm trước, là một phần cống hiến trong thỏa hiệp đổi Công Chúa Huyền Trân và trở thành một bộ phận của Thuận Hóa. Sau đó, một thời gian khá lâu, cho tới lúc lực lượng Việt Nam theo đường biển đổ bộ cửa Đại Chiếm mới tiến vào Quảng Tín qua ngã Đồng Tràm. Tướng chỉ huy thời kỳ này là Phạm nhữ Dật (con thứ năm của Phạm ngũ Lão) và một quan văn nguyên Thừa tướng Thượng tể đời Hồng Thuận nhà Lê : Nguyễn văn Lang. Cả các vị này rồi sẽ lấy đất Đồng Tràm làm chỗ nghỉ ngàn thu của mình.
Quảng Nam có một địa thế lạ, ít nơi nào trên đất Việt đã có : gồm một lúc hai cửa bể cực kỳ quan trọng : Hội An và cửa Hàn (Đà Nẵng). Theo nhận xét của tôi, cửa Hội An chắc chắn là một thừa kế của Chiêm Thành chứ không phải là một phát hiện của Việt Nam 1. Nghĩa là nó có đâu nhiều thế kỷ trước khi chúng ta đổ vào đấy. Trong khi đó, cửa Hàn cũng đã là nơi tới lui của những tàu buồm ngoại quốc; Lê thánh Tôn khi nghỉ quân trên đèo Hải Vân, đã thấy Lộ hạc Thuyền trên Vũng Thùng Đà Nẵng rồi. Nhưng suốt thời Chúa Nguyễn và Triều Nguyễn đang thịnh, Hội An đóng vai trò Hải Cảng số một của Đàng Trong: đó là nơi giao thông quốc tế.
«Ngành ngoại thương đã phát triển ở Hội An, mà người Âu gọi là Faifo kể từ cuối thế kỉ 16. Nguyên nhân chính yếu của sự phát triển ấy là đạo dụ năm 1567 Minh Mục Tông, cho phép thường dân Trung Quốc xuất dương buôn bán với các quốc gia Đông Nam Á, nhưng sự giao thông với Nhật Bản vẫn bị nghiêm cấm. Vì lẽ ấy, thương thuyền Nhật Bản phải tới Hội An, một thương cảng của Chúa Nguyễn để giao dịch với các thương thuyền Trung Quốc năm nào cũng từ đại lục tới đây buôn bán. Hội An biến thành một địa điểm chuyên khẩu hoặc trung gian cho cuộc mậu dịch giữa Trung Hoa và Nhật Bản. Từ 1604 đến 1634, 86 chiếc thuyền Nhật đã tới Hội An thông thương, nghĩa là 1/4 tổng số thương thuyền Nhật (331 chiếc) đã tới các thương cảng Đông Nam Á trong 30 năm đó. Sự kiện này chứng tỏ rằng Hội An chiếm một địa vị đặc biệt trong thương nghiệp Viễn đông trong tiền bán thế kỉ XVI 2 . Do những lẽ ấy mà «ngọn gió ngoại thương ngày càng mang thêm về (…) nhiều loại hóa phẩm ngoại lai quí lạ, (…) do những thương thuyền từ các xứ Âu Châu, hoặc từ Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, hay từ Phi luật Tân, Malacca đổ về Hội An 3 một mã đầu lớn vào thời đó. Tơ lụa, gấm, vóc, sa đoạn, đồ sành, đồ sứ, đồ đồng, họa phẩm, đao kiếm, giày, bít tất, các loại rượu và hào soạn, thuốc men cùng các chất bổ dưỡng hiếm lạ. Cũng vào lúc bấy giờ, một vài thứ công nghệ trong xứ đã bắt đầu phát triển, đáng lưu ý nhất là nghề dệt các thứ hàng quý như: thái đoan, sa lăng, cẩm trừu, cùng các loại hàng có hoa. Viễn tổ của các phường dệt nổi tiếng thuở đó là người phủ Thăng Hoa, thuộc Quảng Nam dinh» 4. Hội An, như vừa nói, là một mã đầu lớn, có sức quyến rũ khá mạnh đối với bọn thương nhân tới. Mà sức quyến rũ của Hội An chính là sức quyến rũ của nguồn thổ sản sung thiệm ở Quảng Nam dinh. Một vùng mà Lê quí Đôn đã từng cho là «một xứ phì nhiêu bậc nhất trong thiên hạ», và một thương khách họ Trần, người Quảng Đông, từ Trung Quốc qua đã phải nhìn nhận rằng: «…buôn bán ở Quảng Nam thì trăm thứ chẳng thiếu hàng gì, các Phiên bang chẳng nơi nào sánh kịp» 5. Của núi, của rừng cống hiến thì có : trầm hương, tốc hương, sáp ong, mật ong, dầu sơn, cây gỗ, sừng tê, ngà tượng, của sông, của bể cung cấp thì có : lúa, kê, đường, chè, hạt cau, hồ tiêu 6 (…). Nhờ có sự tiếp xúc chung đụng sớm sủa như thế với đám người Thiên triều, mà một số người địa phương ở Quảng Nam dinh, đã học được nghề dệt các thứ hàng quí nói trên, Vì sẵn óc thông minh, sẵn có xảo tư, lại giàu tính cần cù chịu khổ công tìm tòi cái khéo của người, nên «người Phủ Thăng, Phủ Điện dệt các thứ the đoạn, lụa là, hoa hòe, chẳng kém gì hàng Quảng Đông». 7
Nơi đó, không chỉ các Chúa Nguyễn thâu được rất nhiều thuế giúp cho sự thịnh vượng của xứ sở do tàu bè ngoại quốc mang tới mà còn là nơi dân chúng thâu nhận được rất nhiều luồng tư tưởng Âu Tây và Trung Hoa. Âu Tây với Thiên Chúa Giáo, với các y sĩ, nhà khoa học, nhà kinh tế… Ảnh hưởng Trung Hoa cũng khác Miền Bắc Việt : không phải những tư tưởng Khổng Mạnh cũ, văn nghệ cũ Tống, Đường, Nguyên do những quan lại từ các kinh đô Miền Bắc truyền sang đã Việt Nam hóa qua thời gian. Ở đây là những tư tưởng Nho, Phật, những bộ môn văn nghệ do người Trung Hoa Miền Nam mang thẳng sang, tuy chưa tinh luyện, chưa tế nhị như Trung Hoa Miền Bắc, nhưng rất thích hợp với vùng đất mới, đời sống và văn hóa còn đơn sơ, giống phần nào với chính nhân dân Miền Nam Trung Hoa ở bên này sông Dương Tử Giang nơi mà Sử Tàu cũ thường cho là vùng chưa khai hóa. Hội An có nhiều phố xá buôn bán phồn thịnh do nhiều người ngoại quốc, quốc tịch khác nhau điều khiển : Nhật, Bồ Đào Nha, Trung Hoa v.v… nhưng rồi, người Tàu với những khôn ngoan tế nhị đứng hàng đầu vai trò trung gian thế giới nhất là ở Đông Á, đến nay còn chứng tỏ, người Tàu đã hất cẳng lần các thương gia của những nước Văn minh để lên hàng số một rồi Duy nhất. Hội An mất lần địa vị ưu đẳng khi người ta khám phá lần ra rằng Đà Nẵng thuận lợi cho các tàu buôn ngoại quốc càng ngày càng kềnh càng hơn. Kể từ 1843 rồi 1858, khi liên quân Pháp, Y Pha Nho bắn vào cửa Hàn thì địa vị Hải Cảng Hội An xuống nhiều. Nhưng thực tế, cho tới đầu thế kỷ này, nơi đó việc buôn bán với người Trung Hoa đã tiến tới mức phồn thịnh tột điểm, dù người Pháp tìm hết cách để mở mang Đà Nẵng vừa thuận lợi việc nhập cảng qui mô của họ, vừa để dễ khống chế kinh đô Huế. Hội An đã biến thành một thành phố Tàu đặt ngay trước một tòa sứ Pháp với những Chùa Bà Mụ. Chùa Âm Bổn, Chùa Ông, Hội quán… đồ sộ, lộng lẫy như chưa hề có một công trình nào quy mô hơn ở nhiều tỉnh Trung Việt. Có chùa Quảng Triệu – người Tàu đã «khiêng» hẳn từ Trung Hoa sang bằng thuyền, đồ sộ bên cạnh Lai Viễn Kiều (chùa Cầu, do Nhật Bản kiến trúc) 8 khiến du khách có cảm tưởng mình lạc vào thế giới nào không phải đất nước Việt Nam ! Người Trung Hoa ở Hội An tổ chức đời sống của họ rất vững vàng, phong phú, gương mẫu. Họ được người bản địa trọng nể. Họ hoàn toàn nắm mọi công cuộc buôn bán ngoài và trong xứ và tự do thao túng thị trường với một bộ mặt khả ái, cử chỉ thân thiện, thông cảm, niềm tin cẩn giản dị mà chưa một thương gia ngoại quốc nào – dù văn minh đến đâu – bì kịp. Người Việt gọi người Âu Châu là ông, là thằng một cách xa lạ hay kinh thị thì gọi là chú, thím, cương vị dành cho em của cha mình một cách ngon lành mà còn tin cậy họ có khi hơn cả người trong gia tộc. Lối buôn bán của người Trung Hoa, bên trong thì róc cả xương thịt chúng ta, nhưng bên ngoài thật hợp đạo Khổng Mạnh : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Chính họ góp phần rất lớn trong việc đưa Khổng Giáo và Phật Giáo vào Nam Hà kể cả các Cao Tăng rồi một số Cao Tăng ở hẳn lại đây… Nhưng họ chỉ giúp ta học, ta thi, ta tu hành mà không bao giờ giúp chúng ta những kiến thức và phương tiện kinh doanh (như các nước ngoài hiện nay không bao giờ viện trợ cho ta máy móc và các phương tiện để tự cường !) Mà cái đạo Khổng Mạnh và Đạo Phật cao quí ấy không phải để ta tiến bộ đâu ! Rõ ràng là để thuần hóa ta cho tiện việc buôn bán của họ và để mở đường cho những sản phẩm công nghệ của họ tràn nghập thị trường của ta ! Ta đừng quên thời ấy, Công giáo cũng đang tràn sang ta mạnh mẽ và nếu Công giáo ưu thắng thì sự thờ cúng sẽ suy sụp. Do đó đổ tứ thư, ngũ kinh, tiểu thuyết lịch sử anh hùng, tiết nghĩa vào viện trợ những cao tăng Trung Hoa tới tu ở Huế, Quảng Nam, Bình Định 9 là những phương pháp thương gia Trung Hoa, bề ngoài, muốn giúp ta xây dựng tôn giáo, nhưng bên trong là một kế hoạch của gian thương nhằm hai mục đích:
a) Đẩy Công giáo là một tôn giáo có thể dẫn dắt nhiều nhà thương mãi ngoại quốc với óc kinh doanh, tài buôn bán quy mô, có thể hất cẳng thương gia Trung Hoa.
b) Lợi dụng Phật Giáo, Khổng Giáo để bày ra nhiều lễ nghi, tập tục, do đó họ sẽ bán được rất nhiều sản phẩm của họ.
Đây không phải là một chuyện do tôi sáng tạo để gây sự nghi ngờ tôn giáo, các tôn giáo mà tôi đang nhiệt thành thắp hương học hỏi. Tôi chỉ muốn trình bày một sự thật và đi tới nhận định ai cũng thừa biết : cái gì do thực dân, thương gia, nhà truyền giáo ngoại quốc mang lại cũng đều có mang ẩn ý xấu xa kể cả những việc ích lợi. Phật giáo do Thầy Huyền Trang băng ngàn lội suối sang Tây Trúc rước về Trung quốc không thể là Phật giáo do gian thương Trung quốc mang sang ta 10. Điều chứng minh cụ thể nhất là Thích Đại Sán sang Việt Nam không phải để truyền giáo mà là để xin rất nhiều vàng của Chúa Nguyễn phúc Chu về dựng chùa, dựng miếu bên Tàu dưới danh nghĩa… cúng dường 11. Và Sán theo truyền thuyết là một nhà sư xấu xa, biết vẽ cả «Một tập hình tố nữ với kiểu chơi bí mật rất khéo để dua mị các quý nhân, việc đó chưa biết chừng cũng có» kiểu chơi bí mật nào? Mà với nhà sư mà dám có sự nghi ngờ đến thế thì thiết tưởng cần gì phải nói, cần gì phải nói cuộc vân du sang Nam Hà chỉ là cuộc buôn lậu khỏi thuế với số tăng chúng mang hàng hóa những 50 người. 12
Tôi trình bày thế cốt để bạn đọc thấy rõ thêm địa vị cực kỳ quan hệ của Hội An, nơi tiếp nhận bốn phương nhân vật, cửa ngõ quốc tế của Hội An, sức mạnh phi thường vô song của thương gia Trung Hoa với những mưu toan kỳ dị của họ để độc chiếm những cửa ngõ trên nhiều quốc gia mà Nam Hà, với Hội An, là một chứng minh hết sức hùng hồn. Vậy thì một phần văn minh Nam Hà, văn hóa Nam Hà, Tôn giáo Nam Hà, khi ly khai miền Bắc chính là một cống hiến, không phải của chính trị gia Trung Hoa mà là của thương gia Trung Hoa. Họ thao túng mọi phương diện ở Nam Hà mà riêng Quảng Nam, phải chịu cái ảnh hưởng sâu xa nhất. Ngoài nho, y, lý, số, ngoài bình hương, thỏi trầm, ngoài tấm hàng, chén thuốc, đôi dép, cái khăn… (nghĩa là tất cả nhu cầu của thời ấy sau gạo và cá thịt do dân bản xứ tự cung cấp), người Quảng Nam còn chịu theo cả những tục lệ của họ: khắp Trung Việt, không nơi nào trên bàn thờ ngày Tết có cái bánh tổ thì những bàn thờ ở Quảng Nam đều có. Nếu không có, không thành Tết!
Nhưng nếu bị thương gia Trung Hoa róc thịt xương thì lại có hai mối lợi rất lớn mà chắc người Trung Hoa không ngờ đã giúp cho dân tỉnh Quảng Nam học hỏi nhiều để tự canh tân cải tiến và phát triển các ngành trồng trọt, chăn nuôi, ươm tơ, dệt lụa, khai mỏ… Đất đai Quảng Nam được khai thác đến tận núi rừng và những đại điền chủ có từ một đến vài nghìn mẫu ruộng đã xuất hiện như Cai Nghi, Thất Sáu… Nhiều nhất là những tư sản nhỏ mỗi ngày một xuất hiện khắp nơi. Miệt trong (Quảng Tín) thì các lâm sản mà vườn quế là một mối lợi đáng kể. Trong Tự truyện, Huỳnh thúc Kháng viết: «Năm 1903 Gia Nghiêm trồng vườn quế theo thời giá được ba bốn trăm đồng đều bỏ ra sửa lại cảnh nhà cũ». Năm 1903 mà có đến một lần những ba bốn trăm đồng thì rõ là một cái vốn khá lớn. Không dám ví với người Nam Kỳ, chứ so với các vùng khác, món tiền ấy thật đáng chú ý trong số thâu của một chủ vườn. Thế mà gia đình Huỳnh thúc Kháng không phải hạng giàu mà chỉ thường thường bậc trung. Đó cũng là nhờ sự giao thiệp buôn bán với người Trung Hoa. Họ có những đoàn phu, do một đội trưởng tự bầu ra, vượt núi băng ngàn để chuyên chở những tấn quế ấy xuống bến đò, bày ra một lối hoạt động thương mãi náo nhiệt đến tận rừng xanh. Đó là chưa kể các mỏ vàng, những suối đá vàng đã được Lê quí Đôn nhắc nhở cũng là mối lợi cực kỳ quan trọng mà ai cũng muốn nhìn vào. Ở miệt ngoài (Quảng Nam) thì các ngành, các nghề ươm dệt, mía đường cũng tạo ra một cảnh sống rộn rịp, khác hẳn đời sống nông nghiệp thuần túy chỉ biết có cây lúa, củ khoai. Các sông đào như sông Câu Nhí được khai thông khiến cho ghe thuyền càng ngày càng tấp nập và những cuộc buôn bán bằng ghe bầu vượt biển cả vào Nam, ra Bắc càng ngày càng mở mang để tranh thương với Trung Hoa, ít nhất là trong nội địa và đã mang lại những kết quả lớn lao.
Đó là cái lợi thứ nhất. Có thể nói là thương gia Trung Hoa đã mang tới cho tỉnh Quảng Nam một nhu cầu Duy Tân sau khi các dân Hòa Lan, Bồ đào Nha, Anh, Pháp, Nhật, Tây ban Nha đã mở ra cho người Quảng Nam thấy thế nào là văn minh tân tiến trước đó hằng thế kỷ. Nhưng công cuộc Duy Tân này chỉ theo phương thức cổ của một nước Á Châu tiểu công nghệ, tiểu thương mãi và sự phát triển chỉ theo một nhịp điệu chậm chạp gần như khó thấy.
Cái lợi thứ hai cũng nằm ngay trong cái lợi thứ nhất : hơn bất kỳ một tỉnh nào ở Trung Việt, kể cả Huế, người Quảng Nam được tiếp xúc với đủ hạng người ở cả hai cửa bể nên họ sớm quen với nền văn minh Âu Châu hơn hết. Ở Trung kỳ xưa có câu tục ngữ nhiều người biết «Quảng Nam hay cãi». Đó là một đặc tính của người Quảng Nam. Tại sao ? Tôi nghĩ một phần đặc tính ấy mà có, duyên do là tại họ được tiếp xúc lâu đời quá với đủ các bộ mặt ngoại quốc, các nền văn minh các tôn giáo, các hàng hóa, các thói tục, các khả năng… Nó giúp cho họ có một trí phán đoán khác lối phán đoán quen thuộc của tiền nhân trong sách vở. Do đó họ cũng thiếu niềm tin tuyệt đối ở một sự kiện, một luận lý nào tuyệt đối. Vì không có chân lý nào có tính cách độc tôn trước mắt và trong tầm suy nghĩ của họ. Văn minh Trung Hoa nhất ư? Cổ nhân là vô địch? Tây Phương là quỷ trắng? Phật Giáo là vô song? Thiên chúa giáo là tà đạo? Khoa học là nói láo Súng ta, kể cả thần công là toàn thiện?… Những câu hỏi đó là những khẳng định của sĩ phu, của vua quan. Nhưng trước mắt người Quảng Nam, dù cả những kẻ cúi đầu để nghe, vẫn không có gì nhất thiết là thế, tuyệt đối là thế mà bao giờ cũng có một nhận xét nào khác để chứng minh nó chưa hẳn Chân lý. Thuyền buồm Tàu thì có tàu đồng của Tây, Phật Giáo, Nho Giáo thì có Công Giáo, người Tàu giỏi nhất thì người Âu Tây cũng giỏi nhất. Hàng hóa của Tàu có gấm, nhiễu cho văn quan thì vua chúa cũng nhập cảng vải hồng mao, hàng nhung cho võ quan, chén dĩa Giang Tây tuyệt hảo, thì chén dĩa Fontainebleau cũng hảo tuyệt và vua cũng vẫn xài như xài thuốc Bắc cùng lúc dùng ngự y Tây Phương. Thuốc súng Tàu là nhạy nhất thì vua quan vẫn mua thêm thuốc súng Tây ở Tân Gia Ba hay của tàu ngoại quốc buôn lậu… Và những loại ấy đều diễn qua dưới con mắt hiếu kỳ của người Quảng Nam trên cửa Hội An. 13
Hóa cho nên, từ mới thành lập về sau, Quảng Nam chỉ nhan nhản những người quen cãi, quen chống đối. Đầu tiên, có lẽ chính những người hay cãi, hay chống đối là bị… đày vào chốn biên thùy xa xôi, hẻo lánh ấy đã, như nay công chức, quân nhân nào thiếu kỷ luật là đày đi nước độc hay mặt trận cho biết mùi! Một trong những nhân vật kiệt hiệt là Nguyễn văn Lang, ông người Nghệ An, huyện Nghi Xuân, xã Tiên Bào, làm quan đến Thừa Tướng Thượng Tể, chị làm cung phi đời vua Tương Dực (Hồng Thuận) nhà Lê. Ông biết Mạc đăng Dung sắp cướp ngôi vua, nhân vua mời vào Triều, ông không đi, lại dâng điều trần bình trị gồm 14 điểm, trong đó có những điều triều thần cho là muốn «dạy vua» nên khuyên vua đừng nghe: tự răn mình, sửa lỗi để tránh mọi tai hại cho dân, lánh xa thanh sắc để chỉnh lòng người và can gián nhiều điểm khác về quân đội, hiệu lệnh… Lẽ tất nhiên, ông biết mình không nên sống ở Bắc, phải xin vua cho di dân vào Nam khai thác biên thùy. Ông lập xã Hương Ly ở Quảng Nam rồi ở luôn tại đó. 14
Với những loại (thủy tổ) có thành tích cãi vua cỡ đó thì có lẽ trong bản chất người Quảng Nam đã có máu cãi. Vị Tướng lừng lẫy của Tây Sơn là Nguyễn văn Nhậm cũng người Quảng Nam (theo Hoa Bằng Hoàng thúc Trâm) mà bị các tướng tá ghét, dẫn tới việc Nguyễn Huệ phải hạ sát cũng một phần do tính hay cãi, tính chống đối, không tin có gì là tuyệt đối… kể cả thần tượng Nguyễn Huệ. Người ta còn kể là khi Nguyễn Huệ giết Nguyễn văn Nhậm, có bảo: «Ta giết ngươi vì ngươi giỏi hơn ta». Nhưng đàn ông hay cãi, hay chống đối còn dễ hiểu. Đến cả đàn bà cũng mang tính ấy một cách rất tự nhiên. Trong văn học miền Nam của Phạm việt Tuyền 15 có chép lại cả đoạn về nữ sĩ hay cãi ấy như sau:
«Chiến cổ đường thi tập» của nữ sĩ Lam Anh và chồng bà là Nguyễn dưỡng Hiệu. Nữ sĩ Lam Anh là người Quảng Nam, con ông Phạm hữu Kính đã từng làm cai bạ ở Quảng Nam (khoảng 1751) về sau khi mất được tặng Tán trị công thần, (…) Nàng, tiểu tự là Khuê, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, hay ngâm vịnh, tự đặt cho mình cái tên là «ngâm si» tức là si thơ! Nàng được cha yêu quý, đón một thầy đồ tên là Nguyễn dưỡng Hiệu về ở trong nhà để dạy học thêm. Hiệu cũng có tiếng hay thơ, nguyên người Duy Xuyên cũng thuộc tỉnh Quảng Nam, biệt hiệu Phục Am. Trong lúc cha phải phụng mệnh đi tuần sát các hạt đến hai ba tháng thì cô cậu ở nhà từ xướng, họa thơ văn đi đến chỗ vụng trộm ái tình ! Khi cha trở về, câu chuyện vỡ lở, nàng suýt bị đưa đi dìm sông. Nhờ có bà con bạn hữu khuyên can, ông mới tha thứ cho đôi trẻ và lại cho kết duyên với nhau. Sau khi Lam Anh được Dưỡng Hiệu cưới về nhà chàng, trai tài gái sắc cùng nhau xướng họa thành ra có tập thơ trên. Về tập thơ này, Đại Nam liệt truyện tiền biên, trong đoạn nói về Phạm hữu Kính và con cháu, có ghi: «Trong tập toàn là những câu bắt bẻ cổ nhân! Nhất là lời thơ Lam Anh thì lại nhiều câu cổ kính. Tỉ như vịnh Khuất Nguyên có hai câu rằng: Cơ phẫn khi thành thiên khả vấn. Độc tinh nhân khứ quốc cơ không» (nghĩa là: khối hận kết riêng trời thử hỏi. Một người tỉnh vắng, nước hầu quang). Hai câu này được đời truyền tụng và cho là hay nhất!»
Đàn bà mà còn chuyên bắt bẻ cổ nhân thì đàn ông chắc còn chuyên hơn. Và đó là tiền bối giữa thế kỷ XVIII huống gì các thế kỷ sau! Mà không phải họ chống đối, cãi nhau một đời đâu. Tôi đã từng biết một gia đình cãi nhau những ba đời. Đó là gia đình ông Phan Khôi. Cha ông Phan Khôi, một bậc đại khoa (đậu phó bảng) tên là Phan Trân (con án sát Phan Nhu) – tôi không rõ giữa ông Phan Nhu và ông Phan Trân có hay cãi nhau như thế nào không – nhưng giữa ông Phan Trân và Phan Khôi, các cụ vẫn còn kể lại những vụ cãi nhau rất kinh động. Rốt cuộc, cha thường vác roi đuổi con chạy tơi bời. Điều ấy dễ hiểu : ông Phó Bảng Phan Trân bênh vực cổ nhân như các bậc đại khoa thời ấy ; ông Phan Khôi chống lại vì ông đọc tân thư, tin ở Dân Quyền. Mà tính ông Khôi, đã cãi thì hay cãi đã, quên hết người đối thoại kể cả cha mình. Rồi khi ông Phan Khôi lớn lên, ông càng tin ở tân học, ông cưới cả nàng Lô Gích già khọm ở Tây Phương làm vợ, ngày đêm nỉ non ân ái, đến nỗi trên văn đàn có thành ngữ (hay tục ngữ) 16 «Lý luận Phan Khôi». Khi ông có con, con lớn lên, phần lớn lại say mê Mác xít. Mà ông thì không tin chút nào ở Mát xít như từng chứng tỏ trong các cuộc bút chiến với Hải Triều. Thế là cha con cứ cãi nhau. Không chỉ cãi ở Quảng Nam. Ra đến Hà Nội sau 1954, họ càng cãi hăng hơn, đến nỗi, theo Trúc Sĩ trên Bách Khoa nó đã thành những giai thoại của thành phố ấy và rất nhiều người biết.
Có thể nói chắc đó là gia đình tiêu biểu cho sự phát biểu của các luồng tư tưởng của quốc gia ta ở thế kỷ XX này. Và điều rõ ràng là họ cãi nhau không phải vì miếng cơm, đồng bạc mà chính vì lòng nhiệt thành đi tìm một chân lý mà ai cũng có ảo tưởng mình đang nắm chắc 17. Chính đó là động cơ thúc đẩy cho sự tiến bộ và luyện cho người Quảng Nam dễ quen nghị luận, yêu thuật hùng biện, thích thảo luận để tìm cái mới, cái đúng và do đó, rất ít định kiến và ít cố chấp.
Cũng do sự quen thảo luận, tiếng Quảng Nam một ngày một tinh luyện, giọng nói không hay nhưng rõ ràng và được chấp nhận làm tiếng chính thức của Triều đình Nguyễn (Đại Nam nhất thống chí. Tỉnh Quảng Nam) và mặc nhiên thành tiếng chính thức của văn học hát bộ (tức là những thổ âm răng, rứa, mô, tê trong các bản hát bộ từ Bắc chí Nam đều dùng) là nền văn học chủ yếu của miền Nam. 18
Do những cái lợi thu nhận được về kiến thức, kinh tế, thương mãi mà giới tiểu tư sản, trí thức càng ngày càng thêm đông và càng đặt ra những câu hỏi về hiện trạng và tương lai của họ. Nhất là từ thời người Pháp sang, Đà Nẵng đã mở mang hải cảng, có nhiều tàu buôn vào ra, các ngành giáo dục, kinh doanh, kể cả xuất cảng, nhập cảng, đổi mới, «thành phố này giết lần thành phố kia» như nhận xét của Jean Marquet sau này trong Les cinq fleurs (Ngũ hoa) thì chính người Trung Hoa ở Hội An cũng rúng động và muốn chuyển ra Đà Nẵng.
Các nông gia, các nhà trồng cây công nghệ (quế, mía) các nhà chăn tằm, dệt vải các nhà buôn đều nhận thấy một cách rõ ràng là họ không thể theo phương thức cũ để phát triển trong một xã hội có nhiều thay đổi lớn. Phải thay đổi, nhưng thay đổi ra sao? Thay đổi những gì? Ai đứng ra để thay đổi? Đó là những câu hỏi vốn tự nhiên xuất ra từ bản năng cạnh tranh và sinh tồn chứ chưa kịp nâng thành lý luận. Nhất là giới sĩ phu, đa số là con những nhà có tư sản, có sản xuất (như Huỳnh thúc Kháng nói trên) là những kẻ, trước những va chạm lớn của lịch sử và xã hội, lại ở trong một khu vực quen lý luận, càng nhận thấy tha thiết hơn ai hết là phải có những thay đổi lớn. Họ cũng nhận thấy vai trò của họ là phải lãnh đạo công cuộc thay đổi ấy dù bây giờ họ chưa thấy rõ nó sẽ theo phương thức nào. Chỉ có thay đổi mới mong tiến bộ, giải phóng tình trạng của giới sản xuất bị Tàu, Tây chèn ép đủ mặt và do đó mới mong gia nhập vào xã hội mới để tự cứu mình rồi sau đó mới cứu nước, hoặc cứu nước để cứu mình.
Cho nên khi những Tân thư Trung Hoa đưa sang họ chụp lấy ngay!
Không phải họ không đọc nổi tiếng Pháp hay quốc ngữ nên chẳng biết gì về những tiến bộ, khoa học Âu Tây. Nếu họ không đọc được, sẽ có người đọc cho họ nghe. Nhưng theo truyền thống, họ không tin gì những tờ báo quốc ngữ ở Sàigòn, những ông cố đạo, hoặc những người Công giáo hiểu biết giảng giải cho họ. Nghĩa là nhất định văn minh Âu Tây không thể truyền thẳng bằng tày thủy từ Sàigòn tới hay Mác Xây qua. Nó phải vòng vo qua Thượng Hải được các sĩ phu Trung Hoa đọc, tán thưởng, viết lại bằng chữ Tàu rồi lại theo thuyền buồm Tàu chuyển sang cùng hàng hóa của Tàu mới được sĩ phu Việt Nam tin cậy!
Và nó lan man như cỏ gú gặp mưa rào.
Vậy phong trào Duy Tân căn bản là một Phong Trào Vận động của tư sản muốn tự giải phóng và gia nhập vào xã hội mới. Tư tưởng Tư sản dân quyền, đối với thời đó là tư tưởng tiến bộ nhất so với toàn thể các tư tưởng đang du nhập vào Á Châu. Nhưng không ai muốn chỉ thấy giá trị vật chất trong đó. Nhất là tiến tới mục đích vật chất lại càng đáng cho sĩ phu ái quốc phỉ nhổ. Vậy, không thể hướng nó đơn thuần về kinh tế, tài chánh mà bản tâm sĩ phu cũng không muốn. Vì nếu muốn thế thì chỉ cần một cuộc Duy Tân hóa, tự nó trước sau gì cũng đến kia mà ! Duy Tân hóa khác với Phong trào Duy Tân. Duy Tân hóa là noi theo tư bản Âu Tây trong sự khống chế của thực dân để tiến bộ theo họ. Vật chất sẽ đẻ ra những nhà đại kinh doanh, đại tư sản mại bản và tinh thần sẽ đẻ ra Tôn thọ Tường, Phạm Quỳnh còn Phong trào Duy Tân là một cuộc vận động lớn về chính trị, chủ yếu là thuyết dân quyền làm cơ sở cho mọi phát xuất và phát triển về cơ cấu. Phong trào Duy Tân sẽ đẻ ra Phan châu Trinh, Lương văn Can, Huỳnh thúc Kháng… Duy Tân hóa chỉ cần một bọn thực dân, tư bản tới để bày dạy để « truyền giáo» người bản xứ thụ động tuân theo. Phong trào Duy Tân do chính người bản xứ giác ngộ, chủ động đi tìm hiểu, đi tra gạn đến nguồn gốc nó từ chỗ căn nguyên. Do đó, Duy Tân hóa chịu ảnh hưởng tới các từng lớp tư sản, còn phong trào Duy Tân, vì là phong trào ái quốc, Duy Tân để cứu nước nên không chỉ các tầng lớp tư sản mà cả nhân dân đều hưởng ứng. Sàigòn đã Duy Tân hóa nên không gây ảnh hưởng sâu mạnh nào. Còn Quảng Nam xướng Phong trào Duy Tân nên phát ra tiếng vang toàn quốc và chính sau này Sàigòn – qua con đường Hà Nội – sẽ làm theo cái mà họ đã làm, đã biết, nhưng thiếu nội dung tư tưởng.
Hiểu như thế, chúng ta đã hiểu tại sao căn cứ địa của nó phải đặt ở Quảng Nam. Vì Nghệ Tĩnh có nhiều sĩ phu anh hùng nhưng không có cửa biển nào để dân chúng mở rộng đôi mắt. Thừa Thiên tuy đào tạo nổi một Nguyễn lộ Trạch mà không đủ quần chúng sĩ phu tân tiến, không đủ những nhà tư sản, sản xuất thương mãi, đòi hòi Duy Tân, lại bị chế độ phong kiến bóp nghẹt. Hà Nội có những sĩ phu giác ngộ, nhưng đã lâu, dưới sự cưỡng chế của Triều Nguyễn, sĩ phu Hà Nội bị gạt ra khỏi « tập đoàn» lãnh đạo, nên nay trở nên bỡ ngỡ. Quảng Nam có những điều kiện về cửa biển, về nguồn lợi và nhất là sĩ phu có óc cầu tiến và quần chúng ít thành kiến cho nên Duy Tân là một nhu cầu chính trong sinh kế, trong phát triển và cả trong dự phóng cứu nước một cách hữu hiệu.
Chính vì thế mà khi Phan châu Trinh xướng lên Phong Trào Duy Tân với học thuyết Dân quyền là nhiều sĩ phu và quần chúng ùa theo ngay. Như đã nói trên, nếu Dân quyền đi bằng tàu Tây tới, họ đã ghẽ lạnh. Nhưng nó đi từ xứ Khổng Tử Viết tới, với sách chữ nho rành rành giấy trắng mực đen thì có «điều chi nữa mà ngờ» ! Xứ của Thánh – Thánh địa – còn Duy Tân, huống hồ nữa là ta. Nói thế không phải không có những phản động lực cản trở khác nhiều là khác. Nhưng ai cản nổi cái chí hăng hái nhiệt thành của quần chúng đang lăn trên bánh xe tiến hóa.
Nghiên cứu Phong trào Duy Tân mà không tìm thấy những lý do chính trị – chống thực dân, phong kiến – lý do kinh tế, thoát khỏi chèn ép thương gia Tàu, phát triển các ngành sản xuất để cung ứng những đòi hỏi của thị trường mới mà chỉ đi lướt bên trên, xem nó như một ngẫu nhiên của lịch sử là một lầm lẫn đáng kể. Tưởng cũng nên nhắc : hai khu vực mà Phong trào Duy Tân lớn mạnh nhất đã phát xuất các lãnh tụ tiếng tăm đều là khu vực mà nền sản xuất và thương mãi phồn thịnh nhất : Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Lê Cơ : quế, Trần quí Cáp, Phan thúc Diện, Phan thành Tài: mía, đường, dệt, tơ lụa, ghe bầu đi biển. Tôi muốn nhắc đến hai cơ sở lừng lẫy nhất: Phú Lâm và Phong Thử ở hai đầu của tỉnh Quảng Nam như hai ngọn Tháp Ếp phên (EIFFEL) cao sừng sững để quảng cáo cho chất sắt, chất thép, Duy Tân với những khả năng vô địch.
Chú thích:

1

Xin xem Văn hóa Nguyệt San số 3, 4, 1967. Nguyễn văn Xuân: Theo dõi sự phát xuất và phát triển của một câu ca dao. Những điềm nào trong bài ấy không đúng với tập sách này thì xin lấy tập sách này làm căn cứ, xem như được đính chánh ở đây.

2

Nguyễn thế Anh: Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua Triều Nguyễn. Trình bày xuất bản 1968 trang 29. Những đoạn nhấn mạnh là của tác giả sách này.

3

Việt Nam Pháp thuộc (1862-1945) của Phan Khoang trang 13 (5 chú thích kể từ đây ghi theo Phan Du trong bài «Giấc mộng kinh sư dưới mái chùa Linh Mụ» Văn Hóa Nguyệt san số 2-1968.

4

Y phục người Việt Nam qua các thời đại – Thái văn Kiểm. Tạp chí Đại học số 38-4-1964 trang 244.

5

Phủ biên tạp lục quyển VI, Lê quí Đôn, Đại học số 21-7-1961 trang 99.

6

Phủ biên tạp lục quyển VI, Lê quí Đôn, Đại học số 21-7-1961 trang 99.

7

Trích trong bài Giấc mộng kinh sư – Phan Du. VHNS số 2, 1968.

8

Đã có vào khoảng Thế kỷ XVII khi Nhật sang buôn bán với ta.

9

Thích Mật Thề : Việt Nam Phật Giáo sử lược. Phật Học Viện l.P. 1960.

10

Chẳng hạn, chúng ta không thể so sánh đạo Phật ấy (do thương gia Tàu mang vào – có lẽ cũng như Thiên Chúa Giáo do thương gia Âu Tây mang vào) với Phong trào vận động Chấn Hưng Phật giáo đã thành lập Nam kỳ Phật Học hồi năm 1931, (Trung kỳ) Phật Học hội 1932 và Bắc kỳ Phật Giáo Tổng Hội 1934. Tuy Phật Giáo Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng Chấn hưng Phật Giáo ở Tàu, nhưng đó chỉ là một thúc đẩy ở bên ngoài, còn bên trong vẫn là sự nỗ lực Duy Tân của chính lực lượng Thiền Môn Việt Nam. Do đó, tuy chưa đạt những thành tích lớn ngay, nhưng Phật Giáo đã nuôi cái chí tự lực, tự cường và dân tộc hóa để dẫn tới những hoạt động lịch sử gần đây. Nói cách khác, nếu không có công cuộc Duy Tân ấy của Phật Giáo sau năm 1931, chỉ quen truyền thống xem Phật Giáo Trung Hoa, tăng sĩ Trung Hoa là chân lý như trước thì Phật Tử hiện nay không thể đứng ra, tự lực dám đương đầu với những trở lực lịch sử chứ đừng nói là dám làm lịch sử.

11

Chúa cúng năm ngàn lượng (ngũ thiên kim) khủng khiếp chưa ! Đó là chưa kể tiền, gạo, yến sào, dầu dấm, tương, muối, hương đèn, cho đến kỳ nam hương, trân châu, vàng bạc, người ta đem đến tặng biếu ngày nào cũng có (Theo sự ghi chép của Thích đại Sán).

12

Các tài liệu này đều rút ở Thích đại Sán: Hải ngoại Ký sự Viện Đại Học Huế 1963. Tập tài liệu có một giá trị sử rất lớn.

13

Theo Thích đại Sán. Hội An thời trước, ba phần là biển, tức là một hải cảng. Nay thành phố đã ở trong đất liền.

14

Một tài liệu về cuộc di dân Nam tiến của tiền nhân. Lâm hoài Nam tự xuất bản trang 72-1959.

15

Khai trí xuất bản 1965.

16

Thành ngữ hay tục ngữ là tùy cách dùng văn liệu ấy trong trường hợp nào, theo thái độ nào.

17

Thật ra, con ông Phan Khôi không người nào nổi tiếng về Mác xít, nhưng bà con ông, Phan Bôi (Hoàng hữu Nam), Phan Thanh đều là những kiện tướng. Phan Thanh là diễn giả khét tiếng ở Hà nội xưa kia.

18

xem thêm: Nguyễn Văn Xuân: các bài nghiên cứu về tuồng ở trên tạp chí Tân Văn 1968 và riêng bài thế kỷ XIX, thế kỷ của Văn học trình diễn. Tân Văn số 4, 1968.

12/11/1969 
Nguyễn Văn Xuân
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...