Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2021

Thuở mơ làm văn sĩ 3

Thuở mơ làm văn sĩ 3

CHƯƠNG 12

Con người của NĐSơn bất thường qua những cơn điên dại, đôi khi hoảng loạn. Bất thường như trời mưa trời nắng, thời tiết của miền Nam. Có đêm đang ngủ say, Sơn vùng dậy, ngồi chồm lên ngực tôi, đánh đấm túi bụi, đánh tôi và chửi bới rủa xả ai đó, rủa xả đời, cả ông trời. Hắn nổi điên, tôi biết điều đó, nắm lấy tay hắn, xách cổ hắn ra vòi nước máy ngoài đường tưới cho ướt đầu rồi xách hắn trở vào:

- Mày lại điên rồi !

- Đúng tao điên, taui không đục mày thì chẳng biết đục ai, tau đục người khác thì họ đánh tau chết mẹ.....Mày biết tau yếu mà, tau đâu có đánh được ai. nhưng bây chừ thì hết rồi.

Lần nào cũng vậy NĐSơn vừa vuốt nước trên mặt vừa giải thích với tôi như thế. tôi cảnh giác hắn:

- Mày đánh tao có ăn thua gì, nhưng khi thấy cục đá thì đừng dùng nó đập vào đầu tao là được rồi.

- Tao sẽ cố gắng, tốt hơn hết quanh chỗ mình nằm không nên để vật gì cứng, sắc nhọn bên cạnh. Mày cứ việc xách cổ tau ví vào vòi nước máy. như mình chơi bập bênh con ngựa gỗ ở vườn Tao Đàn. Trẻ thơ chứ hỉ ?

Tôi phì cười và cả hai đứa chúng tôi lại vui vẻ với nhau như không có chuyện gì xảy ra.

Buổi tối trời trở lạnh, chắc chắn Sơn sẽ không nổi cơn điên, hắn có vẻ rất bình thường. Chúng tôi ngồi chơi với nhau ở bờ sông, bên cạnh Cầu Mống. Bên kia sông là Khánh Hội. Cuối công viên là chợ Cầu Muối có quan Biên Thùy, một quán nhậu bình dân, có món cá lóc nướng trui rất nổi tiếng. Một lần toôi đã từng được những tay giang hồ ở chợ Cầu Muối rủ nhau qua đó nhậu.

Ngồi buồn chẳng có chuyện gì nói với nhau. NĐSơn lặng lẽ nghe, hắn chậm rãi nói với tôi:

- Mày cũng có sắp có một món tiền rồi đó, tha hồ mà đi nhậu.

- Tao mà có được ? Mày có xem bói không ?

- Tao không xem bói, mà có thật đấy, chẳng nhiều nhặn gì, trăm đồng bạc mà. Mày có gửi một truyện ngắn cho tờ Ngôn Luận phải không, đăng mỗi ngày một truyện.

- Đúng, đúng, tao gửi lâu rồi, nghĩ họ đã quẳng vào sọt rác. Mà sao mày biết ?

- Tau quen với một thằng, tao chẳng nhớ nó tên gì, nó nói với tau như vậy.

- Tao chỉ gửi cầu may thôi, tao tưởng mục đó dành riêng cho Chàng Phi viết.

- Cũng có thể, thằng đó đau ốm hay bận hút thuốc phiện nên lấy bài của mày thế vào, văn thơ họ đăng chẳng phải chuyện gì trang trọng mà chỉ để thay thế hoặc lấp lỗ trống. Văn còn có tiền, thơ chán bỏ mẹ, đòi được tiền của chủ báo là chuyện xuẩn động. Vào cái nghiệp ấy là bị coi là làm văn nghệ, không có tiền. người ta lạm dụng cái văn sĩ thi sĩ là phải nghèo, dù anh tài năng đến mấy, chúng nó tha hồ bóc lột, như truyền thống một ông sư thì phải trọc đầu, nếu không trọc đầu thì không thể là ông sư, không là chú tiểu hoặc ni cô. Vậy thì làm nghề văn nghệ phải nghèo, phải được tận tình bóc lôt. khi nào có tiền thì phải tiêu hoang cho đến hết. Ngày mai ra sao rồi hẵng hay. Tất cả anh em chúng ta đều như thế, chẳng riêng gì thằng nào. Đó là cái nghiệp, nên tau nghĩ khác, dù vẫn viết văn làm thơ đó. Tau mang cái triết lý của tau vào văn thơ, ít có người hiểu được tau.

Gió sông mỗi lúc một lạnh. Tôi nói chỉ còn vài ngày nữa là Noel thôi. Mày đi chơi Noel với tao nhé.NĐSơn nói, chẳng biết được, tao không mấy quan tâm đến ngày Chúa sinh ra đời. Ngày nào mà mình không là rong chơi. Chán thì tau lên rừng, tau nhắm một nơi rồi.....

Ban đêm hai thằng ôm nhau ngủ, truyền hơi ấm cho nhau. Tôi chỉ nghĩ đến một nơi nào đó có đệm ấm chăn êm để mà ao ước, tiếc nuối rồi ngủ thiếp đi. Chuyện ấy chỉ xảy ra trong giấc mơ. Tô chẳng hề có một mái nhà.....

Tôi nhận được tiền nhuânbụt truyện ngắn vào ngày Noel năm đó. Một truyện ngắn tôi cho là tầm thường vào giỏ rác, một câu chuyện tình rẻ tiền, chạy theo thị hiếu vậy mà lại được đăng báo, có nhuận bút. Khi viết truyện ngắn ấy tôi chỉ mong 9dược đăng báo để có tiền. Nhưng khi gửi đi rồi tôi lại ân hận, hơi chút xấu hổ. nhưng rồi tôi quên đi.

Vậy mà bây giờ nó nằm chình ình trên mặt báo dù nằm ở chỗ khiêm nhường nhất, nhưng tôi vẫn thấy làm sao ấy. một câu chuyện tình hoàn toàn tưởng tuợng, không một chút thực tế. Một con điếm vô học mà nói lên được với một chàng tay chơi dạc dài những lời ong bướm thối không chịu được, mà là tâm hồn thât của nàng. Nhất định không phải như thế rồi, tôi gò ép nhân vật đến tội nghiệp. Tôi là người viết có cái mặt trâng tráo, lãnh đồng tiền đó lại càng trâng tráo hơn nữa. Cũng may người quản lý nhà báo phát tiền nhuận bút của tôi chỉ để ý đến chữ ký nhận tiền, anh ta chỉ làm công việc hành chánh, chẳng mảy may quan tâm đến những bài viết. Thành ra tôi biết thêm một điều mình chẳng là cái thá gì hết. Điều đó khiến tôi đỡ ngượng...

Mới buổi chiều Lễ Giáng Sinh mà đường phố đã đông đảo. Tôi phải tìm NĐSơn, chúng tôi phải ăn một bữa " no căng phao câu ". Tìm Sơn tôi phải tìm ở quán cơm Anh Vũ. Tôi ngồi chờ Sơn mãi mà không thấy. Tôi đành ăn một mình. Phiếu bán cơm có hai hạng: ba đồng và năm đồng. Tôi lấy phiếu 5 đồng. Ăn xong còn uống một ly nước míangay ngoài cửa hàng năm cắc mà vẫn không thấy Sơn. Trời vẫn còn sớm quá, bây giờ về chỗ ngủ chắc gì đã gặp Sơn. Theo đi theo giòng người dạt trôi tới rạp Đại Đồng ở đường Cao Thắng. Rạp đang chiếu phim Les Misérables, phỏng theo tiểu thuyết của Victor Hugo. Tôi lấy vé chui vào rạp ngồi xem một mình. Cuốn phim làm gần đúng với nguyên tắc ccủa nhà văn. Cuộc cách mạng pháp. Nhân dân Pháp nổi dậy chống bạo quyền. Anh tù khổ sai vượt ngục để trở thành một kẻ thàng công, vứt bỏ mọi xấu xa của mình để biến thành một người khác tốt lành đấy lòng nhân hậu, một con người tốt, nhưng nghiệp chướng vẫn mãi đeo đuổi anh...


Tôi ra khỏi rạp, lan man nghĩ hoài về chuyện phim viết. Đạo diễn tài ba khi làm một cuốn phim dựa trên một tác phẩm lớn. VN mình biết bao giờ mới có được một tác phẩm lớn như vậy. Khi đất nước ta nhiều chất liệu vô cùng ? Điều suy nghĩ lan man của tôi bám trong đầu như rong rêu. Đoàn người đi lễ và đi chơi đêm Giáng Sinh đông đảo, đẩy mãi tôi đi. Tôi thấy một nhà thờ, đèn ngôi sao và hang đá Bê Lem lộng lẫy ngay ngopài lề đường. Tôi đứng lại giữa đám người đông đảo đó, nhìn lên gác chuông nhà thờ. Tôi nhận ra nơi mình đang đứng, nhà thờ Bắc hà trên đường Lý thái Tổ nhìn sang chợ cá Trần Quốc Toản. Tôi là người ngoại đạo, nhưng cũng thấy xúc đông về ngày chúa giáng sinh. Những bài thánh ca vang khắp phố phường, ngay trong đầu tôi. Tôi thấy mình cô đơn và muốn quỳ xuống như những con chiên kia ngước nhìn lên tượng Chúa chịu nạn trên thập tự gía. Trong nhà thờ rực sáng ánh đèn. người đông, nhưng cũng chưua phải là giờ Chúa Giáng Sinh, nên chuông nhà thờ chưa reo vang. Cà phê Nhân ở gần đó, tại sao tôi không vào uống một ly cà phê đen đậm đà. Không biết cà phê Nhân này có phải là cà phê Nhân ở phố Cầu Bồ Hà Nội không, chủ nhân là người Bắc di cư, cà phê cũng ngon, tôi không biết rõ vì khi ở Hà Nội tôi còn là môt chú nhóc tì, chưa có dịp thưởng thức cà phê ngon Hà Nội. Tôi tìm môt lối vào quán cà phêNhân trong đám người đông đảo đứng tràn ra ngoài đường. Một tiếng kêu:

Móc tui, móc tui, nó đó, thằng đang đi kìa, coi chừng nó chạy, túm lấy nó.

Tôi choáng váng vì bị một cú đấm vào mặt, chưa hết hoang mang, bị lliền những cú đạp tới tấp. Rồi một cái khoá tay rất nhà nghề vặn chéo tay tôi. Một tiếng quát vào mặt tôi:

- Bỏ cái bóp của người ta ra.

Tôi la lên trong hoảng hốt:

- Cái gì vậy, tôi biết gì đâu, các người lầm rồi.

- Tao không lầm, rõ ràng mày móc túi người ta. A, mày chuyền đồ ăn cắp cho đồng bọn rồi phải không ?

Thêm một cái tát vào mặt tôi cướp tinh thần, người tôi bị lục sóat, không có gì cả.

Vẫn tiếng quát ấy:

- Về bót, người nào mất bóp đi theo tôi, công an chìm đây, nó phải khai....chúng tôi sẽ túm cổ cả bọn. Chỗ chợ cá này kẻ cắp như rươi.

Bỗng dưng, chỉ trong chớp mắt tôi bị khép một cái tội vô cùng bẩn thỉu. Thằng móc túi bị bắt tại trận. Khi ấy chuông nhà thờ đổ hồi, giờ Chúa giáng sinh. Tại sao thế này, tô không biết nữa ?

Tôi bị ấn ngồi xuống chiếc ghế, trước một ông cảnh sát phì nộn:

- Khai đi, đồng bọn của tụi bay ?

- Tôi không biết gì, cũng chẳng móc túi ai hết.

- Vậy mày len lõi vào đó làm gì, trong đám đông, mày không đi lễ như mày đã khai mày là kẻ ngoại đạo. Lợi dụng đám đông, mày len qua người ta, người ta mất liền cái bóp. Không tìm thấy tang vật trong người mày vậy thì mày đã chuyển tay cho thằng nào, biết điều thì khai ra đi, mày sẽ nhẹ tội.

Tôi không biết gì để nhận tội một cách bừa bãi, dầu bị ăn bạt tai, túm tóc dập đầu xuống bàn, tôi không chịu ký biên bản khẩu cung. Đầu tôi vừa nhức vừa buốt. Chịu đựng thôi, tôi không nào nhận bừa một tội bẩn thỉu đến thế, dầu thân phận tôi bây giờ không đáng một xu.

Người cảnh sát lấy khẩu cung thở hồng hộc, anh cầm ly cà phê đá lên uống một hơi, anh nhìn tôi bằng đôi mắt nẩy lửa:

- Nhất định lì hả mày ? mày vã lắm cần hút một điếu thuốc không ?

- Không, không, sao tôi lại nhục thế này.

Một người cảnh sát khác mang một mớ giấy tờ ra, trong đó có cái thẻ quân nhân của tôi, còn sót lại trong bóp. Anh cảnh sát mập nghe anh cảnh sát kia trình bày một hồi, anh ta nhìn tôi cười hà hà:

- Tao đoán không sai mà, mày là thằng lưu manh chuyên nghiệp. đi lính thì đào ngũ ngày 13/11, đúng vào ngày bọn Nhảy dù bị thua Ngô Tổng Thống. Mày lang thang nên đói rách sinh ra ăn trộm móc túi. Tao phải đưa mày về an ninh quân đội điều tra, thôi hồ sơ móc túi của mày chấm dứt tại đây, tao chuyển về bên an ninh, nó đánh vãi cứt mày ra, không có tôicụng thành có tội, xme mày lì đến độ nào....

Năm giờ sáng ngày hôm sau tôi bị đưa về tiểu đội hiến binh Chợ Lớn, phía cuối đường nguyễn Trãi. Người thượng sĩ hiến binh không hỏi gì tôi nhiều ngoài tội đào ngũ. Còn hồ sơ móc tí bên cảnh sát coi như đã làm rồi, ông ta không có nhiệm vụ gì về những vụ án dân sự.

- Vào trong phòng tạm giam kia, đủ số người chúng mày sẽ lên khám Chí Hòa. Bọn lính đào ngũ chúng mày hồi này đông quá.....

Từng đợt lính phạm kỷ luật bị giải đi, chúng được coi là quân phạm. Quâm phạm sẽ có phòng giam riêng ở Chí Hoà. Hôm đi là ngày giáp tết.

Đường thành phố vắng vẻ, đì đẹt tiếng pháo và tôi thấy nhiều nhà bầy bàn thờ ra lề đường.

Chiếc xe chở tù chao lắc.....

CHƯƠNG 13

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một khám đường, phía bên trong nơi đó là khám Chí Hoà nổi tiếng. Khu khám đường ba tầng, kể cả tầng trệt. Khám đường xây theo hình bát quái, tám khu riêng biệt. người ta nói khám này do người Nhật xây sau khám lớn SG do Tây, theo yểm triệt kiểu bùa chú Đông Phương, vào khám là cửa sinh, ra là cửa tử. Ngay giữa khám là một bồn nước lớn, hình dáng của cái chuôi kiếm cắm ngược. Hình dạng khám đường chính là một lá bùa huyền bí ghim bằng một mũi kiếm ngạp đến chuôi.

Tám khu khám đường ồn ào, vo ve như một tổ ong vĩ đại, tiếng mở cửa sắt âm vang ghê rợn cướp hồn những phạm nhân yếu bóng vía. Những đoàn xe tù vào khám chạy quanh đến ba vòng tường cao rồi mới vào phòng can nhơn, từ phòng can nhơn nhận hồ sơ, điểm danh từng tên tù, giam ở phòng tạm giam tầng trệt trước khi phi phân phối di các phòng giam theo tội trạng. Tôi bỗng nhiên bị lãnh đến hai số thẻ bài, một thẻ bài thường phạm và một thẻ bài quân phạm. Cũng có người lãnh đến ba thẻ bài đeo trước ngực áo như đeo huy chương. Tôi hai thẻ bài cũng được sự kêng nể trong đám tù nhân.

Ngoài những giám thị trại giam. các tù công vụ mặc quần áo trắng, tù lao dịch quần áo xanh làm việc tất bật ngoài song cửa. Có những tù nhân hầu như đã quá quen thuộc với nơi chốn tù tội này hỏi thăm nhau, gọi tên nhau:

- Đức ơi, mày được đi làm theo dịch rồi hả, cho tao tán đường coi ?

Những tán đường đen to bằng nửa bàn tay từ ngoài song sắt ném vào rơi lộp bộp trong phòng tạm giam. Một thằng ngồi cạnh tôi nhặt một tán, bẻ chia tôi một nửa:

- Ăn đi buồn quái gì, mà mày tới hai số thẻ bài lận, mày băng nhóm nào ?

Tôi cầm nửa tán đướng nhấm nháp:

- Tao không hiểu, quân phạm thì đúng đấy, tao lính phạm kỷ luật.

- Còn tội thường phạm của mày, đừng nói tội, tao chỉ hỏi mày bị bắt ở đâu ?

- A, phải rồi, nếu mày không giựt dọc ở bến xe Nguyễn Hoàng thì cũng dân môi ở chợ cá Trần Quốc Toản. Tao quen hết những tay đầu nậu ở hai nơi đó...mà mày mang thẻ bài quân phạm nữa, chắc chắn là cướp rồi, chứ mày " già " thế này đâu còn đi môi. Tao biết mấy thằng môi, toàn nhóc tì không hà, chúng thuộc loại tù nhi đồng. Tao tù nhi đồng bây giờ mới lên thường phạm đấy chứ.

- Bộ mày vào nơi này thường sao ?

- Hoài, có năm vô đến ba lần lận.

- Tội gì ?

- Đừng hỏi, tao có hỏi tội mày đâu, nhưng ở đây kiêng. Mày mà hỏi, bà chúa tám cửa ngục bả ghét bả ban cho mày cái án lưu thì thấy con đĩ mụ nội. Mày tù " con so " phải không ?

- Tù con so là sao ?

- Đồ ngu, tù con so là lần đầu tiên vào tù, vậy mà mày dám mang đến hai thẻ bài, hai thẻ bài là hai tội, sẽ phải ra toà hai lần, mang hai bản án chồng lên nhau. Mày mà phải ra toà áo đỏ thì ở tù mọt gông ra đảo hoặc làm tù tử hình.

- Tao không ăn cắp cũng không ăn trộm, móc túi ai hết.

- Vạy thì mày ra tòa áo đỏ rồi, mày phải phòng dự thẩm chứ không biện lý như tao. Đại hình, đại hình đó mày ơi. lại còn ra toà án quân sự nữa. Mèng đéc ơi, mới là tù con somà mày đã " dện " đến hai thẻ bài tổ bố thế này thì có bỏ mẹ không, mày bắn hay liệng lựu đạn ?

Tôi phắt bực mình:

- Đừng hỏi nữa.

- Ừ thì không hỏi, tao mà thanh toán ai thì có chém có lụi nhát dao con chó chứ bọn lính tụi bay là chơi súng, lưu đạn...Tao có quen mấy thằng. thôi chào đaị ca.

Thằng tù mới quen bèn pohng tôi làm đại ca. Theo suy luận của nó chắc tôi phải là một tay giang hồ ghê ghớm lắm, liều tận mạng

Hôm đó ngày 29 tết. Tôi bị phân phối sang phòng giam C2, nhốt thường phạm.

Buổi thăm nuôi cuối năm của những người tù chắc chắn là hậu hĩnh do những người thân. Tôi ngồi buồn xo, tôi có một người bạn thân nào đâu, có thể không kịp thông báo, cũng có thể họ khinh miệt tôi là hạng cặn bã của xã hội. Có chết đi cũng chẳng ai thương tiếc, nói chi đến món quà thăm nuôi.

Ở giữa phòng giam để một cái giỏ cần xé không để hai chữ HẢO TÂM. Mỗi người được thăm nuôi từ phòng can nhơn lên đều bỏ vào đó một món đồ, cái bánh chưng, cái bánh tét, kẹo bánh hoặc hoa quả. Chuyện đó hoàn toàn mới mẻ với tôi vì tôi mới thấy lần đầu. Giỏ cần xé gần như đầy đủ cả hương vị xuân đón tết năm mới, buổi tối sau giờ vào phòng giam những tên tù mồ côi ( như tôi chẳng hạn ) không có người thân thăm nuôi được gọi ra chia phần, hảo tâm của anh em.

Tôi chán đời không nhận gì cả, chuyện đó cũng xong thôi. Anh em để trong giỏ ăn chung, những thằng tù mồ côi cũng ấm lòng những ngày tết. Ít ra cũng không bị bỏ rơi, như ngoài xã hội bỏ rơi: Sống chết mặc bay.

Một anh tù già, tôi coi bộ anh ta cũng là người trí thức, nói với tôi một câu:

- Nhiều năm rồi tôi đi tìm tình người, vào đến đây tôi mới thấy tình người ở những thành phần cặn bã nhất trong xã hôi sống.

Đúng thế, ở đây tôi mới thấy con ngưòi chia sẻ cho nhau từ nỗi bất hạnh đến miếng ăn uống của cuộc đời thường. Biết xót xa cho hoàn cảnh của nhau, những con người.

Một chốn bình sản và sòng phẳng. Sự bạo tàn để trừng phạt, để đền ơn đáp nghĩa hay thù oán cũng có vậy, nhưng nó không phức tạp như đời sống ngoài kia. những điều đó không ai dạy mà tự nó có, anh là con người anh phải có, đơn giản thế thôi.

Tôi không được giam vào phòng quân phạm, mà tôi gặp họ hoài. Đủ thứ tội phạm của quân phạm. Tôi gặp thiếu dù Phan Trọng Trinh, tội phạm của cuộc chính biến 11/11. Ông nhỏ con, đeo kính trắng như một thư sinh. nhưng tính nết của ông thật can trường như một quan nhân chuyên nghiệp. ông sang khu thường phạmđể cắt tóc. Tôi nghe ông chửi thẳng cánh một ông trung tá tên Dung can tội ăn cắp, tham nhũng:

- Xin lỗi, tao không đồng đội với mày vì tao không là thằng ăn cắp như mày. Đừng đền gần tao....

Khi đó tôi thầm nghĩ sao tôi không được dưới quyền của những sĩ quan có tư cách như thế......

Tôi gặp cả đại tá Hiếu, trưởng ban quân lương của đơn vị tôi, một người tận tình bóc lột lương lính đến tận xương tuỷ. Trung sĩ Phan Thành Thiệt. người gây án ở quán kem Kim Điệp vì bênh cấp trên. Rất nhiều bộ mặt, tốt co, xấu có, vô liêm sĩ cũng có.....

Tầm mắt tôi mở rộng, không hạn hẹp và không theo một chiều được chỉ định. tôi nằm chung với ba thằng tù đại hình, đều can tôi giết người. Thằng hùng mặt mụn can tội đâm chết tay cao bồi nổi tiếng hồi đó Lâm thợ điện. Thằng Năm Lửa, tính nóng như Trương Phi, động gì cũng dám động thủ giết người, xếp xòng xóm chơi bời, thằng Ẩn trọc, thằng có tính điên nên rất dễ gây án.

Tôi ốm dề dề, bạn trong khám nói rằng tôi bị hồn oan của những kẻ gây án ám tôi.

sau này trong bọn chúng tôi thêm môt thằng nữa mang tội đại hình, thằng Đỗ Quý Kiệt, bất nhân đại ác giết cả nhà người chủ nhân của hắn. Sau này hắn bị tuyên án tử hình. Bị xử bắn tại chợ Bến Thành, khi tôi đã là phóng viên nhà báo, buổi sáng đô thành trời chưa sáng rõ mặt người, tôi gặp hắn khi hắn thọ hình. Hắn nói với tôi, khi ở phòng giam cứu.

- Mày viết làm sao cho tao được một tờ biện minh trạng để ra tòa áo đỏ giảm án cho tao, bị đày ra đảo một vài chục năm cũng được, thời gian ấy tao lại lại cuộc đời cho hữu ích. Mày thấy không, tao đã học, tao thuộc được cả mấy cuốn English for today. Có muộn lắm không hả mày ?

Tôi biết làm sao trả lời cho được. tội ác hắn trót gây ra nặng quá, vả lại tôi đâu có là toà áo đỏ. Số là thời gian đó ở trong khám tôi cũng làm một vài chuyện giúp anh em bạn tù. Tôi viết dùm những tờ biện minh trạng cho một số người, hoặc oan ức, hoặc biết tội mà xin khoan hồng. Chính điều này cũng giúp cho tôi, tôi thoát được tội nhục nhã mà người ta khép cho tôi. Tôi trần xì là anh lính đào ngũ, lãnh 12 tháng tù. Buổi tuyên án đến mấy chục quân phạm, tội đào ngũ. Đồng loạt 12 tháng tù. Tấm lịch trên tường thay đổi từng ngày, tôi thành án rồi vẫn ở phòng thường phạm, vì còn ít ngày quá, tôi đếm từng ngày.

Rằm tháng 7, cúng cô hồn các đảng. nhưng khám Chí Hoà cúng bà Chúa Tám cửa ngục. Vì những người ở khám tin rằng tám cửa ngục ở cái lò bát quái này có một bà chúa cai quản tất cả các cô hồn uổng tử, những đêm mưa dầm ảm đạm trong không khí bí ẩn. Đèn nhang thắp đầy trên những thềm các cửa phòng giam của cả 8 khu. Sau đó bà chúa phù hộ, có người được giảm tội, có người được tha tội chết. Tin hay không tin nhưng đó là tín ngưỡng của những người cùng khổ.

Tôi may mắn, bỗng dưng được nể vì, được nhiều anh em bạn tù nhờ vả làm " biện minh trạng ", kể cả các anh em bạn tù ở phòng giam khác. Vì tôi viết biện minh trạng " mát tay ". Chuyện đó có trời mà hiểu được.

Cùng năm đó trong khám chí Hoà, mà nhà nước họi là Trung Tâm Cải Huấn Chí Hoà mở khoa thi trung học đệ I cấp. Tôi thi một cú đậu liền. Đến năm tới, khám chí Hoà mở thi tú tài, nhưng tôi không còn ở đó nữa. người giám thị nói với tôi:

- Bằng câp ở Chí Hoà hay ở ngoài cũng giá trị ngang nhau thôi. Của bộ quốc gia giáo dục cấp hết.

Tôi được điều xuống khu làm việc giấy tờ và được coi là tù công vụ tha hồ lục lọi sách vở ở thư viện khám đường, đêm về đọc vùi. Tôi xin ở lại phòng giam cứu, vì thời gian còn quá ngắn. 28 tết tôi mới mãn án. Coi như đúng một năm tù. Buổi tối hôm ấy tôi liên hoan với mấy người bạn tù thân thiết. Hùng mặn mụn có giọng hát hay, hắn hát tặng tôi bài Thiên Thai của Văn cao.

Năm Lửa hỏi tôi câu thực tế hơn:

- Ra khỏi tù mày về đâu ? Tao biết mày không nhà cửa cũng không người thân.

- Ngưòi thân thì có đó, nhưng ngưòi ta có chưa tao hay không thì không biết.

Năm Lửa khẳng định:

- Được, nếu mày kẹt, tao giúp mày....cơm no bò cưỡi được chứ ?

Năm Lửa loay hoay viết một bức thư rồi dán kín trao cho tôi:

- Không còn nơi nào để về thì mày về địa chỉ đề ở trong thu. Tao bảo đảm mày sẽ sống cả mùa xuân này, nếu muốn cứ việc sống.

Tôi không để ý đến điều đó, tôi cũng không nghĩ rằng đó là nghĩa giang hồ Đơn Hùng Tín kiểu Nam kỳ

Đỗ Quý Điệt nắm chặt tay tôi:

- Mình có thể gặp lại nhau, khi mày là nhà báo hay nhà văn gì đó. Có thể ở ngoài đảo.....

Nhưng thực tế sau này tôi không gặp ĐQĐiệt ở ngoài đảo mà gặp ở sân...bắn bao cát ngày Điệt thọ hình. Hắn mặc cái áo len cụt tay của tôi để lại cho hắn hôm tôi dời khám đường. Đôi mắt đẹp của tên tử tội đẹp trai bị bịt lại bằng miếng băng đen.

Tôi không viết nổi một biện minh trạng cho ĐQĐiệt khi còn sống, vì tôihắn quá nặng mà chỉ viết được một truyện ngắn nhan đề " Chỗ gối đầu ". Tôi lấy ra từ câu kinh thánh " Chồn cáo có hang, chim chóc có tổ mà loài người thì không có chỗ gối đầu "

Buổi sáng tinh mơ ngày 29 tết, tôi được gọi trả tự do. Tôi phải xuống phòng can nhơn làm thủ tục. Tôi lãnh lại những đồ bị giữ khi bị bắt. Còn mấy đồng bạc lẻ, tấm vé xem hát bóng ở rạp Đại Đồng đường cao Thắng. Tự nhiên tôi thấy buồn. Sáng 29 tết, như năm ngoái, người ta đi thăm nuôi nhộn nhịp. Mới hôm nào đây mà đã một năm qua rồi. Tôi mới là thằng tù " con so ". nay là thằng tù được tha. Hôm qua còn lãnh bữa cơm tù, hôm nay không gì cả. người giám thị phòng can nhơn nói với tôi:

- Chúng tôi không thể giữ anh lại một ngày, rán chờ đi, đơn vị anh sẽ cho người đến đón. Phần ăn của anh đã bị cắt.

Buổi trưa người bạn tù công vụ mang cho tôi một tô cơm thịt kho:

- Ăn đi, của anh em trên phòng giam xớt cho anh đó, trên ấy họ biết anh chưa về.....

Ôi tình nghĩa...Tôi chẳng biết nói gì đây với những người bạn bị coi là cặn bã của xã hội. Tôi cũng là cặn bã vậy của những ngày qua và những ngày sắp tới....Một tương lai mù mịt đang đợi chờ tôi. Mãi 4 giờ chiều, anh thượng sĩ không quân, ban an ninh mới đến nhận tôi. Anh lái một chiếc xe Dodge 4X4 quá rộng đối với tôi:

- Mẹ, ra ngày nào không ra, đúng vào ngày 29 tết, mày có biết năm nay tết chỉ có 29 ngày không ?

- Tôi không biết gì hết !

Ký kết bàn giao người xong, tôi leo lên xe ngồi. Ngưòi thượng sĩ qua khỏi cửa khám đường đề nghị tôi:

- Này, thế này nhé, hay là mày xuống đây rồi về nhà ăn tết, đến mồng 4 tết mày vào trại lấy giấy tha. Hoặc là mày xin ở lại không quân hoặc mày xin giải ngũ luôn cũng được.

- Tô không đi lính nữa đâu.

- Chuyện đó tuỳ mày.

- Ông không sợ tôi trốn nữa sao ?

- Trốn đi đâu được, mày điên à, mày có trốn đàng trời.

Tôi đi lêu bêu trên con đường Hoà Hưng nghĩ ngợi vẩn vơ, mình về đâu nhỉ, ôi trời đất bao la ! Tôi biết mình không có một mái nhà, người thân họ hàng đầy dẫy nhưng cũng như không. À, nhớ ra rồi, may rathì được, tôi phải nhà một bà mợ, mà thằng em ruột tôi đang trọ học. Từ Khám Chí Hoà đến cư xá Công Lý có quán phở bà Dậu không xa. nhưng nếu gặp một dịp may khác cũng tốt thôi. những dịp may tôi cũng có gặp chứ không phải không bao giờ gặp.

Ngày cuối năm, đường xá vắng vẻ dần, những hàng quán đã dẹp để ăn tết. Xe cộ chạy vội vã về nhà. Đi ra đường Lê Văn Duyệt, tôi gặp Hoàng Bình Sơn, vì HBSơn có ông anh ruột cũng ở tù trong khám Chí Hoà, nhưng ông ta ở bên tù chính trị, tôi không gặp ông lần nào mà chỉ nghe nói đến thôi.

Những quán cơm bình dân đóng cửa. Tôi cũng không quẹo vào ngõ hẻm mà HBSơn trước đây đã thuê nhà cư ngụ tạm thời. Chắc anh ta về nhà bà chị dâu ăn tết với mấy đứa cháu. Bà chị dâu nghèo, gánh hai thúng trái cây khi là những trái cam, khi trái soài nuôi môt ông chồng ở tù lâu năm, những đứa con còn nhỏ dại. Thằng Thấu mới tuổi lên 10 thường hay lẵng nhẵng the ông chú, sống giang hồ ở những nơi chú ngồi dây học. người đầu tiên tôi gặp khi ra khám là Viên Linh, anh cưỡi chiếc Vélo Solex chạy vội vã từ hướng SG về, nhà mẹ anh ở Tô Hiến Thành, có lẽ cuối năm anh về nhà ăn tết. Viên Linh không dừng xe chỉ hếch đầu ra hiệu cho tôi rồi chạy thẳng, tết nhất đến nơi ai cũng bận rộn và vội vã. Tôi băng qua con hẻm sang đường Nguyễn Thông, qua một khúc đường Yên Đỗ sang cư xá Công Lý đến nhà bà mợ, thằng em ruột tôi ở đó. bà mợ tôi từ chối không chứa tôi, dù chỉ qua mấy ngày tết - Một sự quay lưng lại - Thằng em ruột tôi tiễn tôi ra cửa, nó đưa tôi mấy đồng bạc mà nó có:

- Anh giữ lấy ăn tết

- Không đâu, tết nhất ai mua bán gì đâu ? mà anh cũng không cần tiêu, thôi giữ lấy.....

Tôi quay lưng đi và tự hiểu lấy thân phận mình. Có thể tối nay tôi nằm dưới mái hiên nào đó, nghe tiếng pháo nổ đón xuân rộn ràng. Cùng mấy người bạn giang hồ không quen biết, đầu đường xó chợ. Thân phận tôi như thế sao, tôi nhớ không hkí tết trong khám Chí Hoà. Mùa xuân ở ngoài kia phía ngoài song sắt. linh hồn bà chúa tám cửa ngục đi lang thang trên hành lang dài, sâu hun hút, âm vang tiếng xích sắt. Tất cả những hình ảnh đó dậy lên trong đầu tôi, tan như làn khói thuuốc lào.

Tôi xách cái giỏ thăm nuôi đựng ít bộ quần áo đi lẵng nhẵng buổi chiều cuối năm, thưa thớt dần người qua lại. Tôi chợt nhớ đến thư của Năm Lửa nhờ tôi đưa về địa chỉ nhà hắn ở bến xe Nguyễn Hoàng.

Tôi đi bộ một quãng đường dài ra Ngã bẩy tới bến xe nguyễn Hoàng. những chiếc xe đò nằm im lìm quay mũi ra đường, những mâm cúng trước mũi xe khói nhang nghi ngút. Tất cả các tài xế, xe lơ đã nghỉ ngơi, ngồi nhạu nhẹt ngay trên lề đường hoặc chúi mũi vào sòng bầu cua sát phạt nhau tận tình. những cô gái điếm son phấn loè loẹt cũng đã nghỉ ngơi ngồi đánh bài cào với nhau.

May quá còn một quán cà phê mở cửa, mà cũng đang thu dọn bàn ghế. Có lẽ tôi là người khách cuối cùng bước chân vào quán. Anh chủ quán nhìn bộ dạng tôi từ đầu tới chân, quan sát tôi hút thuốc lào. Tô gọi một ly cà phê đen nhỏ.

- Này anh, tôi kêu cà phê đen nhỏ mà, anh bán lộn cho tôi rồi.

Anh nhoẻn cười với tôi:

- Không, tôi không tính lộn đâu, đây là tôi mời không tính tiền.

- Sao lạ vậy ?

Nhìn anh tôi biết anh mới ở trong khám Chí Hoà ra có phải vậy không ?

- Đúng vậy, sao anh biết ?

Da anh trắng nõn, nếu không nói là xanh lượt. Cái điếu thuốc lào của anh, cái lò nấu đèn cầy và cái giỏ thăm nuôi. Anh không về nhà mà tới đây thì nhất định là dân giang hồ, bụi đời rồi. Quán tôi có nhiệm vụ đón khách như quán của Chu Quí dưới chân núi Lương Sơn Bạc ở truyẹn Thuỷ Hử. Miễn phí, tất cả đều miễn phí nhất là buổi chiều cuối năm quán đón một khách giang hồ phiêu bạt...Cửa giang hồ rộng mở cho tất cả mọi người thất cơ lỡ vân.

Tôi cảm động quá, tôi không thể nói nên lời, nhưng cũng phải cám ơn.

- Có phiền gì anh không ?

- Không phiền gì hết, anh ghé đây tất nhiên anh có quen anh em nào đó đang ở tù Chí Hoà mà đã ở đây.

- Năm Lửa, tôi có cầm một bức thư về để đưa cho vợ anh ta.

- Đại ca Năm Lửa ?

Anh chủ quán kêu lên thảng thốt:

- Đâu, thư anh ấy đâu đưa tôi mang tới cho chị ấy, chị ấy cũng là xếp xòng xóm chơi bời trong hẻm này. Anh ngồi uống cà phê đi hoặc uống thêm gì nữa cũng được, có thể thêm chai 33 đĩa dồ mồi trong khi chờ đợi.

- Không tôi không ăn uống gì nữa đâu.

Chờ đợi không lâu, chỉ một loáng vợ Năm Lửa xuất hiện. Chị ta còn trẻ, khoảng trên hai mươi, một thiếu nữ khá coi là có nhan sắc, nhưng nhìn cũng thấy là một gái làng chơi chuyên nghiệp. Những lân la đi theo chị ta là những tay đầu trâu mặt ngựa, những tay sống có lẽ không phải đâm thuê chém mướn thì cũng lưu manh côn đồ.

Vợ Năm lửa nhìn tôi với cái nhìn " bắt giò bắt cẳng ". những đàn em của chị ta cũng vậy, cả anh chủ quán cà phê. Sau này tôi biết có tên là Năm căn, quê anh ta ở tít xứ Năm Căn ở Cà Mâu. Vợ Năm Lửa lên tiếng:

- Tôi là Tuyết, vợ của đại ca Năm Lửa, không may anh Năm vướng vào vòng lao lý. Anh khỏi giới thiệu, anh là bạn thân với chồng tôi, tô biết anh là ai rồi. Chồng tôi có viết trong thư. Anh về đây với chúng tôi vào ngày 92 tết là tốt rồi. Đời ruồng bỏ với ai kia chớ với chúng ta thì không đâu, chúng ta sống có nghĩa giang hồ. Anh hùng chỉ có sa cơ chứ không mạt vận, chúng ta có anh em, rồi đây gây dựng lại cho anh mấy hồi. Anh Năm Lửa đã viết thư cho tôi nói vậy....nơi này như của anh rồi....

Chị ta giới thiệu từng người, tất cả đều là những tay chơi có máu mặt trong giới giang hồ. Những kẻ có thành tích, không từng tù tội thì cũng đi ra từ trại Tế Bần.

- Sáu nhỏ, mày sang quán Bảy Lươn Um biểu khoan nghỉ tết làm tao ít đồ mồi, kéo mấy két bia 33 về đây, cả rượu đế nữa nghe. Nhớ làm tô canh chua có đầu cá lóc cho đại ca nhé.

Tôi chưa được giới thiệu một đại ca nào trong đây hết. Nhưng khi ăn nhậu thì tôi biết chính tôi đã trở thành đại ca, đại ca "ăn theo " đại ca Năm Lửa. Tôi cải chính, không ai tin, có lẽ cái mặt của tôi có nét cô hồn chăng ? Thây kệ, tôi tự nhủ như vậy. Hiện giờ tôi là kẻ vô gia cư không có lấy một người thân, tôi nói với những người ở đây như vậy. Bữa rượu xôm trò, tô say tít mù, và không biết mình đã phát ngôn những gì. Có lẽ lại phéc lác gì đây về chuyện giang hồ, những chuyẹn tôi từng được nghe lại trong phòng giam thường phạm. Tôi nói về bà chúa 8 của ngục. Tôi như bị ma nhập...Tôi được chiêu đãi nhồi ăn nhồi uống đến ói mửa tùm lum.

Tôi loáng thoáng nghe tiếng ai đó nói:

- Tội cho đại ca, có lẽ lâu lắm rồi không được ăn nhậu. Đợt ở tù trước đại ca Năm Lửa cũng một lần như vậy, chớ các tay này mà uống rượu bình thường thì tỉnh như ruồi, cao thủ như Bảy Lươn Um cũng thua.

Tôi không còn biết gì, thật tình tôi không biết thật. Tôi tỉnh dậy vào buổi sáng, trời còn tối nhưng tôi biết đã sáng rồi. Tôi không phải nằm gục trên bàn nhậu và nằm ngủ đàng hoàng, hình như ở một căn phòng gác cây.

Căn phòng vắng vẻ, hình như chỉ có mình tôi, tôi toan tìm cái công tắc bật đèn, nhưng nhìn ra cửa đã thấy trời sáng. Tôi mở rộng cửa, trước mặt tôi là cái bao lơn gỗ nhìn xuống đường, những hàng xe đò đậu san sát. những xác pháo hồng rải rác trên lối đi, như xác những cánh hoa đào. tôi đã ngủ qua một đêm, đêm giao thừa trong một tết nguyên đán cổ truyền. Tôi thêm một tuổi, 25 tuổi, tròn hai con giáp. Hình như tôi chẳng có ưu tư gì cho tương lai của mình. Trong một khoảng khắc tôi đã quên tất cả, vô tư như một sinh vật.

Dưới đường loáng thóng người qua lại, những đứa trẻ mặc quần áo mới, cũng có chút son phấn loè loẹt cho những đứa con gái còn quá bé, tôi hiểu điều đó là hợm hĩnh trong một xóm phường của người bình dân.

Tôi hiện sống ở nơi ấy, không phải ở một nơi đầu đường xó chợ. Đáng lẽ tôi sống đón giao thừa ở một nơi như thế, khi quanh tôi không còn có gì. Vòng tay nào đón nhạn tôi trong hoàn cảnh cay nghiệt vậy ?

Anh Năm Căn lên căn gác ọp ẹp, một cái bắt tay chặt chẽ:

- Chúc mừng năm mới, em xin chúc mừng anh môt năm mới tốt lành, đại ca Năm Lửa đã có lời gởi gấm, chúng em phải có bổn phận.

Tôi xửng sốt:

- Anh Năm nói gì lạ vậy, tôi nhờ vả các anh các chị ở đây một đêm đã là quá lắm rồi.

- Chính anh mới nói lạ, anh không phải đi đâu hết, anh ở đây, có thể anh giúp cho nhiều người đấy. Anh Năm Lửa nói anh là người giang hồ trí thức. Anh biết rành luật pháp, anh từng giúp cho nhiều anh em làm biện trạng. " Dzăng " anh hay lắm, từng làm cảm động những ông toà, những dự thẩm, biện lý....chúng tôi cần anh, anh cũng thừa biết nơi này là nơi tội lỗi mà, bao nhiêu là kẻ phạm pháp cần được cứu giúp.

Tôi sững sờ, anh Năm Căn ấn vào tay tôi một bộ áo pi da ma trắng viền nẹp đỏ đến tận cổ áo cao giặt ủi hồ cứng thẳng nếp:

- Anh thay bộ quần áo này đi rồi xuống nhà ăn bánh tét, lì xì cho các tay em....Anh rửa mặt, chải đầu có " bi ăng tin " ba số 5 kìa.

Tôi thảng thốt:

- Tôi lì xì cho các tay em ?

Anh Năm Căn cười, cái cười lộ những chiếc răng vàng lấp lánh:

- Dạ chị Năm Tuyết lo cả rồi......

Anh Năm Căn nhét vào túi áo pi da ma vừa đưa cho tôi một xấp bao lì xì đỏ. Anh quay đi và dặn tôi:

- Em chờ anh ở dưới nhà, hôm nay không mở cửa hàng cũng như mở cửa hàng vậy.

Tôi thay xong bộ quần áo, chải đầu bi ăng tin bóng lưỡng. tóc vắt gọng kiếng. Tôi đứng ngắm mình trong gương. Tôi thấy mình chẳng giống ai, chẳng giống một con gáip nào. Thế mà rồi đây mỗi ngày tôi phải ngồi ở cà phê Năm Căn, hai chân co lên ghế ngồi chồm hổm, húp cà phê sữa đổ ra đĩa suỵt soạt đúng điệu một tay anh chị lưu manh mở miệng ra là chửi thề thì tôi sẽ ra sao đây ?

Không giống ai, thật vậy chẳng giống ai hết. Tôi phải sống thế này sao ? Tôi không thể sống trong cái luân lý kiểu giang hồ này được. Không thể làm những tờ biện minh trạng, một tờ biện minh trạng cho chính tôi cũng không còn được nữa là cho ai khác. Cuộc đời kinh khủng quá. Nếu tôi có một cây bút trong tay tôi sẽ viết nên chứ không phải để bào chữa, để thăng hoa, để thần tượng hoá, một tay lưu manh nào đó. Không, ngòi bút của tôi không thể dùng vào việc đó được. Chỉ tình người là cần thiết thôi. hình như điều đó tôi đã mơ ước đến từ lâu rồi, từ thuở đầu đời, thuở mơ làm văn sĩ. Vậy sao tôi lại sống như thế này ?

Điều suy nghĩ ấy lẩn quẩn trong đầu tôi. Bên kia đường, ngay khu bến xe hỗn tạp, tôi thấy một nóc nhà thờ mọc cao, ở đó có các con chiên ngoan đạo đi lễ, cầu nguyện dưới quyền cai quản của một cha xứ còn rất trẻ. Nhà thờ cứu rỗi được gì trong cái khu hỗn tạp này, cờ bạc rượu chè, đĩ điếm trộm cắp ? lại một câu hỏi khác hiện ra trong đầu.

Đám anh chị lưu manh ở khu bến xe Nguyễn Hoàng từ đầu Ngã Bẩy đến cuối, ráp với đường Nguyễn Trãi có vẻ nể vì tôi, những nhà cho thuê ghế bố quen mặt tôi. những cô gái làng cũng biết mặt tôi, nhưng không một cô nào dám xáp gần.

Tôi loáng thoáng nghe họ nói:

- Đại ca là người có " dzăng học " sắp làm chồng nhỏ của chi Năm Tuyết đó, đại ca là anh em kết nghĩa với đại ca Năm Lửa, chuyện ấy thường thôi mà, không lẽ để chị Năm Lửa hoài tuổi xuân đi, ở đây đâu có ai xứng....

Bỏ mẹ tôi rồi, tôi phải tìm cách nào chứ, tôi không thể là một cục bột trong tay người khác uốn nặn thành hình dạng gì cũng được. Cục bột tôi vào tay những người này chắc chắn hình dạng tôi trở thành một ác nhân. Một mặt quỷ, một kẻ lòng lang dạ thú.

Tôi được gọi là một đại ca, nhưng không hpải những công việc tàn bạo của những tay anh chị chuyên gác sòng bài hay trấn lột ai, những kẻ say rượu hay những ta ychơi lạc vào xóm chơi bời. Công việc của tôi là làm đơn từ cho những kẻ phạm pháp, đưa hối lộ cho cảnh sát bóp Nguyễn Tri Phương.

Anh cảnh sát mâpcạch nay hơn một năm bắt bỏ tù tôi, giờ thành bạn:

- Tao biết mày là thằng lưu manh mà, nhưng giờ chúng ta là bạn, tình bạn cũng phải bánh sáp đi bánh quy lại mới bền vững. Việc này là công việc làm ăn, biết thông cảm nhau, nương nhau để mà sống thì tốt cả thôi. Tất cả những điều bầy đặt ra chỉ là chuyêngiạ vờ. Toàn đồ lưu manh cả, sự thật đó mày ạ. mày tính coi cái lương cảnh sát của tao có là bao, vậy mà tao phải bám lấy....hì hì...

Anh ta bỏ lửng câu nói, nhưng tôi hiểu anh ta muốn nói gì. Một sự thực torng hàng triệu sự thực khác ở bên trong một xã hội băng hoại. Tô đang sống ở đó. Từ một cái xấu này tìm đến một cái xấu khác cũng thế thôi....Tôi hận đời, bất mãn đời vậy thì tôi đang hận gì đây, bất mãn gì đây ? Suy nghhĩ của tôi đúng hay sai ? tôi thường tự hỏi điều đó.

Tôi ngồi cà phê Năm Căn, nhìn sang bên kia đường. Nhìn nóc chuông nhà thờ, nhìn tượng vị thánh nào đó tay chống thánh gươm, tay cầm cuốn sách. Tại sao ngôi nhà thờ tượng trưng cho một tôn giáo cao quý lại mọc lên giữa nơi này, không sợ bị ô nhễm sao ? Vị linh mục tuổi trẻ kia có trụ vững ở nơi này không ? Những buổi thánh lễ ngày chúa nhật ông đứng rao giảng trên bục trước tượng thanh giá Chúa sao mà vững vàng vậy ? Những con chiên đủ mọi hạng ngưòi già trẻ lớn bé nghe ông và hình như họ nuốt từng lời...

Buổi chiều nay ngồi ở cà phê năm căn, tôi lại thấy một ông già, có lẽ chưa phải già lắm, chỉ khoảng năm mươi, hoặc trên 50 tuổi một chút ngồi ở lề đường, mặt hướng vào nhà thờ lần chuỗi hạt mân côi, miệng lâm râm cầu kinh. Hình ảnh này hình như tôi thấy hàng ngày, trước khi trời sụp tối. Ông già cũng là người xóm này, hình như đi làm đâu đó suốt ngày, gần tối ông ta mới trở về, cái xe đạp dựng ngay bên cạnh và ông ngồi cầu kinh. Chiếc xe đạp hôm nay ông ta khóa cẩn thận. Ông ta là một con chiên ngoan đạo, hình như lễ ngày chủ nhật ông mặc quần áo tươm tất mới bước chân vào nhà thờ....

Ông già đã đọc kinh xong, ra mở khoá xe đạp, tô tới làm quen:

- Xe đạp bác để ngay cạnh, khoá làm chi cho mất công ?

Ông già ngước lên nhìn tôi, đôi mắt lờ đờ, ông cười khẽ nói với tôi vì nhận ra tôi cũng que mặt:

- Cẩn thận vẫn hơn, ăn cắp nó vồ được đẩy chạy, mình mắc công đưổi bắt, cò bóp làm lôi thôi, kẻ ăn cắp cũng tôi.....Không kể mình sơ xẩy còn bị ốm đòn hôi chợ.

- bác đã lần nào bị mất chưa ?

- Ông già lắc đầu:

- Chưa, nhà thờ bên kia thì bị mất hoài đó.

- Có chuyện đó sao ?

Giê Su ma, tôi đâu có dám nói dối, tội chết. Mới ngày hôm qua thôi, thùng tiền trong nhà thờ do các con hiên đóng góp bị quân gian bê đi mất.

- Có thưa gởi gì không ?

Ông già lắc đầu:

- Không, cha không cho thưa gởi gì hết, cầu Chúa tha tội cho họ....

Tôi mời ông già vào quán uống cà phê, nhưng ông ta từ chối. Thú thật rằng đã lâu rồi tôi chưa được nói chuyện với một người tử tế, tôi thèm nói chuyện với một người như bác này. Tôi cố hỏi:

- Vậy muốn gặp bác thì phải làm sao ?

- Dễ thôi mà, nhà tôi ở con hẻm bên kia đường, cứ hỏi nhà Nhưng cu li bến tàu ai cũng biết. Tô đi làm sớm lắm, mãi tối mới về...Nhà tôi cũng dễ tìm, có cây trứng cá ngay trước cửa.

Tôi nhìn theo ông già nhảy lên xe đạp, chỉ một loáng ông già biến vào con hẻm. Trong con hẻm đó không nhiều nhà mà lại là hẻm cụt, nhà ông Nhưng cu li có thể tìm thấy không khó, đặc điểm có cây trứng cá trước cửa nhà như ông đã nói. Có dịp tôi sẽ đến ông tađể nói chuyện tử tế. Tôi đang sống trong một xã hội mà không hoà đồng cũng không hoà nhập được. Tôi nghĩ đến một chuyến ra đi khác nhưng vẫn còn nấn ná không biết bây giờ Nguyễn Đức Sơn ở đâu ? Coi như hơn một năm nay tôi không gặp anh ta. Có lẽ có thay đổi, tôi đọc được một bài thơ " điên điên " của anh in trong tạp chí Văn Nghệ, nơi đó ở Di Linh, anh đi thăm một bà bạn đẻ...Ôi rừng núi, niềm mơ ước lánh đời, xa chốn bon chen của Sơn, tôi vẫn phải sống, mục đích chỉ vì miếng cơm manh áo. Đồ hèn ! Một dịp nào đó tôi lại vô tình gặp Sơn. Tôi sẽ theo anh ngay lên miền rừng núi xa xôi nào đó, để chỉ xa chốn bụi hồng.

Tôi vào quán Năm Căn, nơi đó mỗi chiều tụ tập những tay bụi đời, lưu manh, cướp giật, móc túi. Tính tiền " dù " của gái điếm. Năm Tuyết ngồi ở đó như một bà Hoàng, một đàn chị tối cao.

Những tay em đang ba hoa qua thành tích cướp giật, những chiếc đồng hồ đứt dây, những chiếc dây chuyền bị giựt đứt thảm hại, những xấp tiền bán đồ ăn cắp được cũng xếp trên bàn mộ cách lương thiện không sơ sót. Chia tứ lục, sòng phẳng hay không sòng phẳng còn tuỳ. Một tay đàn anh mặt ngầu, nhìn thẳng mặt một thằng nhóc:

- không phải chỉ có chừng này, hồi chiều mày còn làm ăn được cả một chiếc dây chuyền ở bến xe, chính thằng Tảo cản địa cho mày....

- Dạ dạ có nhưng em nuốt rồi.

- Sao không lấy ra đi.

- Em bón quá nên chưa lấy ra được.

- Hạn cho mày một tiếng nữa, không lấy ra được tao đá lòi phèo ra. muốn sống làm nghề lưu manh ở đây phải biết điều. ĐM tụi bay không biết sợ đầu nậu này là gì mà.

Đàn chị Năm Tuyết đang èo xèo với đám em gái làng chơi.

- Con Thu, mày có bẩy dù thôi, sao ghi mười dù.

- Dạ 10 dù thiêt mà, ba dù chị chưa kịp ký tên vì lúc ấy chị bạn tiếp " khứa " đặc biệt.....

- Tao không cần biết, cái nào tao ký nhận thì tao chi, tứ lục còn đòi chi nữa, tao lỗ sở hụi ai đền cho tao đây ?

- Vậy thì em chịu lỗ, mấy lần trước cũng vậy.

- Mày vốn là lỗ rồi, đừng nói nữa. Không muốn làm thì đi....chẳng ai cản mày đâu....

- Bởi tại em còn thiếu tiền mấy cha noội ở khu này đó thôi.

- Đừng nói láo, lần trước mày bị bắt, không hpải tình chị em tao đứng lên lãnh ra thì mày còn tù mọt gông. Bộ tao không mất tiền cho kiểm tục hả, hay vì lòng nhân đạo mà người ta thả mày ? Công sức của đại ca Hai Bù Loong đây, phải giao thiệp, phải cứu mày, mày đã được một lời cám ơn nào chưa hả con đĩ thúi kia, bây giờ mà còn tính dù nọ dù kia với tao.....

Mụ Năm Tuyết chỉ tay tôi. Biệt hiệu của tôi là Hai Bù Loong, bởi tại có lần tôi vui miệng, cũng có thể là phét lác để cho bọn giang hồ này nghe, tôi đập một thằng bằng cây bù loong nó không chết nhưng cũng ngất ngư. Rồi người ta đồn rằng lúc nào tôi cũng thủ một cây bù loong trong người, kẻ nào lôi thôi tôi đập thấy mẹ. Sự thật là tiếng mà không có miếng. Như suốt cuộc đời tôi sau này. Tôi là du đãng mà không phải là du đãng. Nhà văn du đãng vì tôi hay viết truyệngiang hồ du đãng, những kẻ du thủ du thực...

Tôi chán ngán quá chừng, chẳng qua là do vạ miệng.

Đám giang hồ lần lượt tản hàng, chỉ còn tôi với Năm Tuyết. Anh Năm Căn thì lui cui trong bếp lửa để lo bữa nhậu đêm cho đám " anh hùng " bến xe. Anh ta cũng là một tay giang hồ, nhưng bây giờ anh ta yên phận với cửa hàng miếng ăn, tương đối là lương thiện. đối với người thân, Anh Năm Căn cho biết tên anh ta thạt ra không phải là Năm Căn, mà chính là tên quê hương anh ở vùng Cà Mâu, anh lưu lạc giang hồ từ nhỏ, qua nhiều bến xe, cuồi cùng thì đứng bến ở bến xe này, rồi thành anh chủ quán. đến bây giờ không còn phải sử dụng đến thanh " đoản " thanh " mã " nữa. Anh được nể vì. Anh chỉ căn nhà của anh:

Đầu tiên nơi này là một túp lều, tôi mua lại của một tay " kỹ bẽo ". Bây giờ thì nó thành một cửa hàng rồi đó đú nuôi sống vợ con, có đồng ra đồng vào, vợ tôi không bao giờ còn phải đi " dù " nữa, thành một hiền phụ chồng con đàng hoàng.

Lời tâm sự của anh thành thật và có hướng đi lên, đi lần đến con đường lương thiện. Xứ sở Nam Kỳ này từng sản sinh ra nhiều anh hùng, có người xuất thân từ chốn giang hồ, chọc trời khuấy nước. Như tướng Bảy Viễn của Bình Xuyên, như Năm Lửa ở Cái Vồn của Hoà Hảo. Nhưng Năm Càn chỉ mang mộng ước bình thường.

Anh Năm Căn chiều đãi tôi, dành riêng một căn gác cho tôi cư ngụ. tôi thường mang về căn gác ấy những tờ báo, những cốn sách để nghiền ngẫm và để suy nghhĩ, để biết tình hình xã hội. Thì ra tôi vẫn còn mê thứ nghề nghiệp mà tôi mơ ước từ thuở nhỏ. Mơ làm văn sĩ. Nhưng bây giờ tôi viết gì đây ? Chắc chắn không phải là những bài viết hoa mộng. Đây đã đích thực là đường hướng để tôi đeo đuổi hay chưa ? Còn nhiều năm, nhiều thời gian để tôi luyện. Những đời sống quanh tôi, những tình huống, thân phận và những con ngưòi. Điều trước hết là mình lưong thiện, tôi muốn nói là cầm cây bút

Vậy mà tôi đang sống ở nơi này, giữa những chiếc răng nanh cắn xé con người và đời sống. Anh Năm Căn thấy tôi ham đọc sách báo, anh bèn thuê cho tôi cả bộ truyện Tàu về đọc chơi, sợ tôi không đủ kiến thức để nói đến những nhân vạt giang hồ anh hùng Tàu với anh. những buổi đam bàn như thế anh gọi là " luận anh hùng ". Anh có chiều hướng tốt để xây dựng đời sống cho mình và cho gia đình, những đứa con của anh. Tôi chỉ bên nhà thờ kia có lớp học miễn phí cho trẻ nhỏ. Anh ngưỡng mộ bức tượng của vị thánh nào đó, đúng ra là thánh Phao lồ, dựng trên nóc nhà thờ.

- Đúng vậy, nhà thờ dựng ở nơi bến xe này, ông thánh gì đó bảo vệ nhà thờ phải cầm " mã " và tay thì cầm sách. Tốt lắm, ý nghĩa lắm. Không chê vào đâu được. Cái nhà này, đại ca biết đó, tôi mua với giá rẻ mạt của một tay kỹ bẽo ( cờ bạc ) như đồ ăn cướp. Nay vẫn chưa có bằng khóan, dù rằng nhà tôi có sổ gia đình đàng hoàng, vì mình dốt quá không biết làm giấy tờ nên coi như nhà không có chủ quyền.

Tôi hỏi lại:

- Khi mua có giấy của người bán không ?

- Tôi dốt, nhưng cũng khôn chớ, tôi bắt hắn ta phải làm cái giấy tay, có cả số thẻ căn cước nữa. Hắn còn sống, ở quanh đây thôi...

- Vậy thì được, tôi sẽ làm đơn cho anh ra hội đồng xã. Hai bên ký tên, anh sẽ có bằng khoán của căn nhà. Vĩnh viễn căn nhà đó của anh sẽ truyền lại cho con cháu.

- Vậy hả ? Đại ca giúp tôi, ít ra mình phải có mảnh giấy tờ hợp pháp gì để ăn noói chứ, có điều mình cũng phải mất cho cha kia tí tiền, còn người nhà nước nữa cũng phải có cái gì, sống ở đây tôi biết mà....

- Trà nước, chế độ nào cũng vậy !

Cả hai chúng tôi cùng cười xoà. không đầy một tuần lễ, căn nhà của năm Căn thành căn nhà hợp pháp hoàn toàn. Anh ta trở nên rất quí mến tôi. Tôi có thể nói với Năm Căn những điều giấu kín ở trong lòng mà không chút ngại ngùng.

Năm Tuyết đã đếm xong tiền và số vàng bạc, những thứ lỉnh kỉnh mà các tay em cướp giât được. Cô ta cười với tôi:

- Em thấy vẫn còn thiếu chưa mua nổi chiếc Vespa Italic mới toanh để đi chơi, lâu lâu đi coi cải lương, ăn tiệm ở chợ Lớn.

- Xe thì thiếu gì, đám vồ xế của cô ngày nào không đưa về vài ba chiếc.

Tôi nói vậy, Năm Tuyết xua tay:

- Ậy không được, mình đúng là lưu manh đó, nhưng không xài đồ lưu manh, mình phải là người hợp pháp từ đầu đến chân. Mình mua xe ở tiêm, giấy tờ đàng hoàng, cà vẹc hợp pháp.

Mụ nhìn tôi đĩ thoã:

- Mua xe để tên anh, anh chở em đi chơi chịu không ?

Bỏ mẹ tôi rồi, điều này tôi nhất định không thể nhận được, tôi đang muốn rút chân ra khỏi nơi này, tôi không thể lún sâu thêm nữa. Đầu tiên thì mụ Năm Tuyết nhìn tôi kiểu mắt nai rất cải lương: " Sao vậy anh ? " sau khi nghe tôi giải thích một hồi, mụ nổi giận, đáo để kiểu đáo để của loại người đíêm đàng:

- Nói cho anh biết anh đừng lên mặt, 29 tết anh về đây, không ai cứu vớt anh, tôi vì bức thư của đại ca nên cứu anh. Nuôi anh, quý mến anh bấy lâu nay, cung phụng anh đủ thứ mà anh lại giở quẻ, có phải anh khinh bọn này không, chưa hết đâu, tôi biết hôm trước tôi dụ mãi mới được môt con bé vào đây làm gái, anh xúi nó trốn đi, tô bỏ qua không nói vậy mà anh còn làm tới....Bỏ cái tính quân tử Tầu đó đi thì sống được ở đây, còn không thì kệ anh. Cơm no bò cưỡi, quần áo anh mặc, cà phê anh uống, bia để anh nhậu nhẹt anh biết là tiền ở đâu không, những đồng tiền anh khi rẻ đó. Anh điếm còn hơn những thằng điếm tổ sư ở đây. Năm Lửa không biết nhìn người thế nào mà giới thiệu anh, lại muốn nhường vợ nó cho bạn chớ, ngu ơi là ngu, không biết ăn phải bùa mê thuốc lú gì. Anh lại còn lên giọng khuyên nhủ không nên sang bên nhà thờ kia ăn cắp ăn trộm, đểu giả như thế là cùng. Ăn cắp ăn trộm không chừa một ai, không tránh nơi nào hết, thánh thần cũng không tha. Nghề mà, hở ra là ăn cắp thôi, cũng cực cái thân, không may bị bỏ tù rồi tù tôi ai ở đây thay cho đây.....Đám thuê chém mướn, tạt át xít cũng ở đây. không làm vây lấy gì mà sống. người ta khi rẻ thì đã khi rẻ rồi, vậy thì anh đừng có đạo đức giả....nếu muốn anh đi đi, đừng ở lại đây. Rõ thật tôi là con đĩ mà còn thua anh, một thằng điếm, thằng tổ sư lưu manh.

Tôi như bị dội cả thùng nước lạnh từ đầu tới chân. Tô tức run người, mà tôi làm gì đây, đánh nhau với một con mụ đàn bà à ? Tôi câm họng, tại sao thế kia nhỉ ! Có những d0iều đúng chứ không sai. Đời sống của riêng tôi không thể hợp với bước giang hồ này được. Nó chỉ có giá trị ở chất liệu tôi ném thêm vào trong đầu, một lúc nào đó tôi sẽ bung ra.

Mụ Năm Tuyết nói xong bỏ đi, tôi nói với:

- Tôi sẽ đi, có thể ngay bây giờ, tôi trả lại tất cả những gì của các người.

Nhưng mụ Năm Tuyết vẫn không quay lại. Anh Năm Căn lên tiếng khuyên tôi:

Tính chị Năm nóng nảy vậy đó, anh đi theo nói với chị ấy một câu là xong ngay.

- không, tôi không thể như thế được.....

Tôi cởi nút áo ngay giữa nhà, chạy lên cầu thang đổi bộ quần áo trước khi tôi đến đây. Xách cái giỏ 29 tết rakhỏi tù. Bộ quần áo đang mặc tôi xếp lại gọn ghẽ trả lại cho Năm Căn:

- Cám ơn anh tôi phải đi ngay bây giờ, chuyện này ở đây thường mà, thiệt ra tôi và những người ở đây mang ơn anh nhiều. Ở lại đây đêm nay đi, mai anh đi tôi không cản nữa. Chúng ta thân với nhau ly rượu " quan hà ", rồi tôi tiễn anh tới chốn " tràng đình " cho trọn tình.

- Cám ơn anh Năm, nhưng không tiện cho anh đâu....

Tóc tai Năm Căn dựng đứng:

- Đứa nào dám đụng vào tôi, anh là bạn tôi. Tôi bảo vệ anh, đứa nào đụng vào anh, tôi còn cầm nổi cây " mã ", tôi đã hết thời đâu.

Tôi cười, không biết có phải cười gượng không, đẩy Năm Căn sang một bên, từ chối món tiền Năm Căn dúi vào tay tôi:

- Cám ơn anh Năm, tôi không cần gì cả, không sợ ai cả. Tôi đã từng sống những tháng ngày rài rạc. Hẹn gặp lại anh sau, một ngày nào đó.....

Tôi nghe anh năm Căn nói như nói một mình:

- Cha này cũng chì thật, xứng đáng làm một tay giang hồ, ra đi không cần một xu dính túi....

Vẫn còn là tháng đầu xuân. Bến xe lam đêm vẫn tấp nập. Tôi đi loanh quanh một lúc rồi quay trở lại nhà ông Nhưng cu li. Tôi nghe tiếng cầu kinh của ông ta và gia đình từ trong con hẻm hẹp. Đúng là căn nhà có cây trứng cá. Tôi có thể gặp ông tamột lần để nói câu chuyện tử tế. Rồi tôi đi vào chốn mù sương của đời sống.

CHƯƠNG 14

Trời nóng như đổ lửa, công trường mênh mông, chói chang nắng. Hình như không khí chuyển động làm cho hơi nóng cũng lung linh. Mồ hôi trên đầu, trên tóc, trên từng phân vuông cơ thể tôi vẫn tươm ra ướt đẫm người cay xè mắt mũi. Cái mũ nan chỉ che được nắng gay gắt trên đầu, không phải là một bóng râm thật cần thiết.

Hai cánh tay tôi mỏi rã rời, vì từ sáng đến giờ phải trộn bao nhiêu là mẻ hồ với cát đá sạn xanh. Những cái ki xúc hồ đến ngay lượt khác nườm nượp hốt hết. Cả công trường không chỉ mình tôi trộn hồ mà hàng chục người làm công việc ấy không xuể, những mẻ cốt pha đổ khuôn xi măng cột hàng rào ấp chiến lược nuốt chửng như những con vật khổng lồ tham lam. Những rừng cột xi măng chỉ kịp se mặt đã có xe tải tới chở đi liền. Họ chở đi đâu ? không cần biết. Nhưng ai cũng biết rằng họ chở đi làm ấp chiến lược, hoặc đồn bóp nào đó, cung cấp trong tình trạng chiến tranh. Từ ngoài xa vọng về ầm ì tiếng súng, đã nhiều trận đánh lớn xảy ra trên khắp bốn vùng chến thuật, giữa hai khối chủ thuyết đối nghịch nhau. Mỹ lăm le đổ quân vào cứu tiền đồn chống cộng sản của gia đìnhông tổng thống NĐDiệm. mà ông Diệm đang muốn giữ thể diện quốc gia nên chưa ngã ngũ điều kiện. Phong tráo Phật Giáo đấu tranh cũng đã bắt đầu nổ ra ở Huế và đang lan rộng. Chính quyền ra tay. Phật Giáo nói là đàn áp tôn giáo. Cơ quan mật vụ làm việc cật lực, nhà tù lại chật cứng người.

Tôi nghĩ mình chẳng nên quan tâm đến chuyện đó, tôi hiền lành an tâm làm thân cu li như mọi thân phận cu li khác. Tôi thấy mình lương thiện và thoải mái trong công việc đổ mồ hôi này. Miếng cơm tuy đạm bạc mà ngon miệng, buổi chiều ra bờ sông uống một chai bia mát lòng mát dạ. Tối ngủ khì ở căn nhà trọ, không nghĩ ngợi gì hết.

Tôi làm việc ở đây hơn một tháng do con trai bác nhưng cu li giới thiệu. Buổi tối hôm ấy tôi đến nhà bác. bác đồng ý tìm một lối thoát danh dự cho tôi. Có nhiều nơi cần người làm việc điều kiện phải xa dời ngay chốn chôi bời giang hồ này, những con ngưòi lòng tốt và nết xấu có cơn. Tôi nói với bác tôi không có gì để luyến tiếc. Làm bất cứ nghề gì miễn là nghề lương thiện. Vậy thì tốt, bác nói thế. Mờ sáng hôm sau bác sai anh con trai đưa tôi đi ngay.

Điều không ngờ nhất, một trong những chủ thầu công trường là họ hàng xa lắc xa lơ với mẹ tôi. Ông chú tốt bụng, có lẽ cũng thương xót hoàn cảnh tôi, ông nói:

- Được rồi, chú sẽ thu xếp cho cháu làm công việc bàn giấy, lám cu li với mấy người này chú e cháu làm không nổ đâu.

- Cám ơn chú, cháu lao động được như anh bạn cháu và như mọi người khác. Rồi cũng qune cả thôi.

- Thôi được, tuỳ cháu, cháu muốn thử thách là do cháu.

Rồi cái gì cũng quen, bây giờ tôi như một người lao động chân chính. Da đen nhẻm, người gân guốc, ăn khoẻ như trâu và có lẽ mặt mũi cũng bậm trợn ra.

Biết ăn to noi lớn dù chẳng là cái thá gì. Tôi thấy mình tự tin. Mỗi tuần tôi đến thăm em ở nơi trọ học, có chút tiền vặt giúp đỡ nó dù chẳng đáng vào đâu, bõ những khi xách giỏ quà nghèo nàn thăm nuôi tôi, khi tôi còn ở trong tù. Tôi nhận được những bức thư củ mẹ, bà buôn bán, không phải còn làm vú em u già cho một gia đình ông quan năm lào nào đó. Cũng là môt tin vui báo hiệu cho ngày sum họp gia đình. Mẹ tôi viết trong thư khuyên tôi sống cho đôn hậu có trước có sau. Vì bà vẫn nghi ngờ tôi sống đầy ắp những thù hận do những gian truân tôi đã phải trải qua trong suốt tuổi trẻ. Nhưng tôi nghĩ khác, đó là chất liệu quý giá cho tôi mà ít người có được. Để làm gì nhỉ ! Chỉ biết tôi phải làm gì, giấc mơ " thuở làm văn sĩ " vẫn ở trong lòng tôi đang ngún ngói và tôi muốn gầy cho ngọn lửa cháy bùng...Trong hoàn cảnh này nói ra tôi thấy ngường ngượng, nhưng tôi vẫn theo dõi văn nghệ, những đêm ở nhà trọ chong đèn nằm đọc, gối đầu trên những cuốn sách, những tờ báo xếp chồng rồi ngủ thiếp đi trong mộng lành.

Thời gian này tôi sống yên ổn, hiền lành bên những nguờì bạn lao động lương thiện, nhưng tôi cô đơn. Tôi thấy thiếu một cái gì ? Chất văn nghệ, như ly nước chanh mát lạnhđược uống trong trời nóng đang khát.

Tôi chẳng gặp qi cả, không bí mật mà như kẻ bí mật theo dõi hoạt động văn nghệ tôi ngưỡng mộ nhà văn Nhất Linh lấy cái chết ra để phản đối chế độ Ngô Đình Diêm toan mang ông ra tòa xét xử. Sĩ khí tuyệt vời. Tôi làm gì ? chẳng làm gì, chỉ chơi, chỉ thăng hoa cho mình.

Đang nghĩ ngợi lẩn thẩn thì tiếng kẻng tan rung lên. Tất cả các công nhân, mà họ quen gọi là cu li giạt vào bóng râm nghỉ ngơi, uống nước như trâu, kẻ lấy lon cơm hộp ra ăn, người ra hàng cơm gánh rong ngồi. Tôi không có gia đình làm cơm theo nên ra hàng cơm bán rong:

- Cho tôi một đĩa cơm trứng kho, rưới tí nước sốt.

Bà hàng cơm xúc cho tôi một cái dĩa nhôm to:

- Ối dào ngày nào cũng trứng kho, cậu không ăn sườn nướng đổi bữa hả, chưa vợ chưa con mà kẹo thế, hay dễ nuôi đây ?

- Không dễ nuôi đâu bà, vậy thì hôm nay tôi đổi món, cho tôi miếng trứng chiên rưới nước mắn chanh ớt vậy ?

Bà hàng cơm làm một cách dằn dỗi:

- Chán bỏ mẹ, cả tháng không dám ăn lấy một miếng thịt, cục xương.

Con trai ông già Nhưng, chú Nhớ nói :

- Không phải anh kẹp đâu bà ơi, anh ấy là thầy tu phá giới nên không biết ăn thịt. Ăn nước mắm với nước sốt là qúa lắm rồi.....

Bữa cơm trong tiếng cười hồn nhiên, bà quán cơm gắp vào dĩa tôi một gắp rau muống xào:

- Thêm không tính tiền, nhà chùa không chê chứ, cũng đồ chay đây. Ăn đi lấy sức còn đi đấu tranh.

Bên ngoài cuộc đấu tranh trở nên dữ dội, dù tôi không mấy quan tâm, nhưng vẫn lót vào tai, vào mắt và vào cả lương tâm, ngấm vào đó lúc nào không biết.

Tôi uống cạn một ly trà đá và đổ thêm nước lạnh. Nước đổ vào trong miệng biến thành mồ hôi tươm ra khắp mình. Cái nóng trên công trường mới kinh khủng làm sao. Tôi chui vào một cái ống cống to nằm ngủ cho lại sức. Tôi lại mơ thấy mẹ, thấy một gia đình. Tôi đón bà ở phi trường. Con em gái út nhẩy cẫng lên ôm lấy cổ anh. Khi tỉnh dậy, trong hồi kẻng báo giờ làm việc, tôi biết đó chỉ là giấc mơ. Mà giấc mơ nào chẳng đẹp, tiếc nuối làm chi.

Có tiếc nuối chăng, tôi mang đi vào những buổi chiều đạp xe đi lang thang ở thành phố, hoặc tạt vào sạp sách báo, nhà sách tàng tàng nào đó, coi cọp báo hoặc có tiền thì mua một tờ báo bị đẽo đục lem nhem của bộ thông tin.

Tôi dừng mắt lại ở một cuốn sách in. Sách mà in ronéo trên những trang đánh máy. Đóng thành tập bằng dây kẽm. Tên tác giả Thế Phong. Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến. những cuốn sách viết về những vấn đề văn nghệ, từ lớn đến nhỏ. Đôi khi là tiểu thuyết hay truyện gắn, truyện dài. những cuốn sách " không giống ai " và lạ. Nhưng tôi thấy người chủ trương nhà xuất bản này chính là một tay ngông và kiêu. Việc in ấn như một " con thuyền tải đạo ". Trong một lúc tôi nghĩ là hay, là can đảm lắm.

Thế Phong tôi biết, tôi đã đọc anh từ những bài báo thể phóng sự từ báo Giang Sơn ở Hà Nội. Thế có nghĩa là anh vào nghề, nỗi đam mê rất sớm, cùng thời gian với nhà báo Phan Nghị chuyên viết phóng sự " Bờ Lờ " ở những tờ báo Hà Nội. Các anh ấy chắn chắn là lớn tuổi hơn tôi rồi. Họ đã là nhà văn chưa ? Nhưng họ vẫn đeo đuổi nghề đã chọn. Thế nào họ không có một " thuở mơ làm văn sĩ ".

Tôi quen biết Thế Phong thuở mới lớn, thuở tôi mơ làm văn sĩ, tại nhà anh nhà văn Văn Nhân ở hẻm đường Công Lý, ở Đàm Trường Viễn Kiến của cụ Nguyễn Đức Quỳnh, ở căn nhà thuê nào đó của Thế Phong ở xóm chùa Tân Định. Những lúc xme anh cử tạ, người anh to lớn và dắn dõi như một lực sĩ thể hình. Khi đó những nhà văn nhà thơ thường ẻo lả gầy ốm, có thể vì thiếu ăn hoặc ghiền thuốc phiện. Thế Phong đặc biệt ghét người ghiện hút, dù là bất cứ ai. tôi đã đọc một bài viết của anh về một kỷ niẹm nghiệm hút, gây tai hại và mất niềm tin nơi anh. Anh phải từ bỏ quê hương Nghĩa Lộ của anh lên đường đi giang hồ, khi tuổi anh còn rất nhỏ.

Tôi gặp lại Thế Phong 20 năm sau, cũng là thời gian thân tình nhất, khi hai thằng đã tạm thời buông bút, l;àm nghề cu li ở tít tận Cà Mau để kiếm cơm nuôi mình và vợ con, thuở chúng tôi là kẻ ngã ngựa. Hai thằng đứng ở mõm tạn cùng của đất nước nhìn hau cười ngu ngơ:

- Thân cu li lại hoàn cu li.

Nhưng đó là chuyện sau này, khi tôi, bạn bè tôi 9dã được gọi là nhà văn nhà thơ. Một đoạn đời thê thảm cho một đời người có thấm tháp gì. Ta biết cúi mặt thì cũng biết ngẩng đầu vậy.

Tôi trở về văn nghệ, với mớ hành lý kềnh kàng, hình như không còn chút gì mơ mộng nữa, đó là những kinh nghiệm sống của tôi suốt những năm qua. Từ khi bỏ học đi bụi đời, kiếm sống bằng đủ mị thứ nghề, một lần mắc vòng tù tội lãng hách. Cuối cùng là nghề phu phen cu li. Bây giờ tôi đã vào lứa tuổi trưởng thành nhưng chưa thể gọi là " tam thập nhị lập ". Tôi có dịp hiểu biết nhiều thêm những gì tôi chưa biết về đời sống trong giới lao động, những lớp người ở tận cùng ngoài xã hội. Tôi từng bị sĩ nhục, bị hạ thấp nhân phẩm. Tôi nghĩ mình chẳng cần gì phải che đậy. Tôi cứ bóc mình ra như cái bánh. Một thời gian tôi tự lánh xa tất cả mọi người, bạn bè, bà con. Chẳng phải tôi mặc cảm, tôi chỉ ích kỷ ôm lấy những đau thương một mình để gậm nhấm thi vị hoá nó. tôi ra đời không làm ông nọ ông kia, cũng chẳng đậu đạt được gì cho ra hồn, mớ kiến thức còn nông cạn, ngoại ngữ dốt nát. những đưa em họ, bạn bè cùng học với tôi thuở nào thì bây giờ bằng cấp đầy mình. có kẻ đã làm quan nhà binh. Ngoại trừ thằng em ruột tôi. còn đi học, tôi vẫn thường xuyên tới nó và viết thư cho mẹ. Nếu bây giờ mẹ tôi về đây, tôi có thể góp sức với mẹ, làm lại một gia đình của chúng tôi. Bây giờ tôi là một công nhân bình thườngnhư mọi công nhân khác biết ăn no vác nặng. Chẳng rắc động não gì cả. Tô có động não chỉ coi như là giải trí. Đọc một bài viết bài thơ hay thì thấy thú vị.

Tôi trở về văn nghệ như chuyện tình cờ.

Như thường lệ, anh Bảy già, anh thợ hồ có tay nghề cao nhất rủ tôi sau buổi làm việc:

- Sao, chiều nay mình có ra ngoài bến tàu làm vài chai bia nhậu tôm hùm nướng chớ ?

- Dạ, hôm nay tôi có việc. tôi phải về bên nhà cho tiền thằng em đóng tiền gạo và tiền học.

Anh Bảy già dễ dãi, gật đầu:

- Phải đó, chú lo cho thằng em đến nơi đến chốn.

Tôi đạp xe đạp về nhà trọ của em tôi, thằng em bây giờ đã lớn như một thanh niên cường tráng. Nó đang ngồi học môt mình ngoài đầu hè. Tôi trao số tiền dành riêng cho nó, rồi rủ nó đi chơi với tôi. Nhưng chú em tôi từ chới:

- Năm nay em thi, chỉ còn ít ngày nữa nên phải học ôn gấp rút, thôi anh đi chơi một mình co khuây khoả.

Chú em không quên mang cho tôi một số sách văn học, báo chí mà nó tìm mua ở tiệm bán sách cũ. Ở những trang sách báo đó, tôi thấy nhiều tên tuổi bạn bè tôi lúc đó nào Nguyễn Nhật Duật vừa là một giáo sư triết vừ là một tay phê bình văn học, Dương Nghễm Mậu một nhà văn đíich thực, có sách xuất bản. Lê Đình Điểu một giáo sưvăn chương, triết, theo nghành báo chí. Vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca theo đuổi nghề nghiệp văn thơ và đã có tiếng. Trần Dạ Từ làm chủ bút tờ tuần báo Ngàn Khơi. Tú Kếu Trần Đức Uyển là một nhà thơ trào phúng có tiếng là tổng thơ ký với tờ báo ấy, tôi còn thấy rất nhiều tên tuổi khác. Toàn anh em cả tụ nhau trên một tờ báo. Đằng Giao, người bạn học thuở nào nhưng khác trường có kgiếu hội hoạ, nay đã là hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh biếm hoạ trên báo và trình bày báo như những hoạ sĩ nhà nghề khác. Tôi biết anh ta không xuất thân ở một trường hội hoạ nào ra. Tờ báo Ngàn Khơi rất đẹp, đúng như mộng ước chúng tôi thuở nào....nhìn vào tờ báo,đọc những bài viết thơ văn của anh em, tự nhiên tôi lại có ao ước, tôi nghĩ đến những bài viết của tôi thuở nào, có lẽ đã xa rồi. nhưng vẫn có gì đó vẫy gọi.....

Tô dời chú em, khi thấy nó ôm cây đàn guitar, nay cây đàn đã vừa tầm tay của nó không còn quá to như thuở nào, tiếng đàn thư giãn sau những lúc miệt mài.

Tôi đạp xe đi vòng vòng trong thành phố, ghé nhìn vào những tờ báo bán đầy ở sạp. những tờ báo bị đục đẽo nham nhở, cả những bài bị bỏ trắng. Tệ hại và giả dối hơn, có những chữ ghi " toà soạn tự ý đục bỏ ". Độc giả phải hiểu ngầm rằng bài bị bộ thông tin duyệt có viết mà không cho đăng tải.

Hiểu theo rất VN thì đó chính là câu có hơi gướm xỏ lá cả anh nhà báo, như một câu bỏ lửng, không kết luận của chuyện tiếu lâm, rồi xặc lên một tràng cườì thay cho câu chửi thề. Chuyện tiếu lâm VN có cái thâm thuý của nó. Trong đời tôi nghe nhiều chuện tiếu lâm từ thời thơ ấu cho đến tuổi già. Nó phản ảnh thâm thuý và vẹn toàn đó. Cái cười làm cho con người ta sống lâu mà không chết được vì đau buồn....

20 năm sau tôi còn thấy nhà văn Vũ bằng, bậc đàn anh trên văn đàn, lọm khọn đi thu gom những mẩu chuyện tiếu lâm ở chợ trời trong thành phố được tái chiếm. Những mẩu chuyện tiếi lâm ở khắp VN, phản ảnh đời sống con người VN trong một cuộc chiến dài đau thương mà con người phải bật ra thành tiếng cười thay vì tiếng khóc qua những mẫ chuyện tiếu lâm, những câu vè...Tôi hỏi ông làm gì vậy ? Ông trả lời đồ ngu, tao làm việc này như tao viết " miếng ngon Hà Nội " thuở nào, cứ gom lại đã không cần xuất bản. Cho đến nay hơn 20 năm sau nữa tôi vẫn chưa thấy tạp truyện tiếu lâm của Vũ Bằng gom góp xuất bản. Mất rồi chăng ? Vũ Bằng đã ra người thiên cổ. Tôi tiếc !

Trở lại với hồi ức chiều hôm ấy, tôi gặp lại Tú Kếu, Trần Đức Uyển. Chiều hôm thứ bảy đó khi tôi đang đạp xe đi lang thang trong thành phố quen thuộc. Vẫn dáng gầy cồm ốm yếu như thuở nào, vẫn cặp kính trắng dầy cộm luôn luôn trên mắt. Anh ngồi cắm cuí bên bàn rộng đặt trê hàng hiên nhà in Tương Lai ở đường Võ Tánh, bản in thử rải trước mặt anh, anh đang làm công việc sửa bài cho báo. Anh ngẩng lên nhìn tôi khi nghe tôi gọi tên, phía trong nhà tiếng máy in chạy rầm rập. Thái độ không mấy vồn vã vì quá bận, anh hỏ tôi:

- Sao lâu quá bây giờ mới thấy mày xuất hiện, chờ tao chút, sắp xong rồi, sang quán bên kia đường chờ tao.

Chỉ một lát sau, tôi chưa hút hết một điếu thuốc lá, Tú Kếu đã sang quán với tôi, anh ngồi xuống có vẻ mệt mỏi:

- Đáng nhẽ xong trang này tao về, nhưng gặp mày tao ngồi lại uống cà phê hỏi mày đã biến đi đâu mà lâu quá vậy, nhiều khi anh em nghĩ mày đi lính " ngỏm cù đèo " rồi.

Tôi cười với Tú Kếu, nhìn anh ta, đôi máy anh ta sau cặp kính trắng hấp háy, trông đáng yêu như thuở nào.

- Táo còn đây, chưa tử trận được, bom đạn vô tình nhưng vẫn tránh tao. khám Chí Hoà đã bao bọc che chở cho tao suốt một thời gian, nhưng thôi chuyện còn dài lắm, bây giờ mày cùng tao ra bờ sông SG nhậu một chầu cho đời lên hương.

Tú Kếu cười hì hì:

- Mày có tiền ?

- Dĩ nhiên rồi, tao mời, tiền lương làm cu li của tao đó, chuyên viên đổ bê tông, sản xuất ống cống và cọc hàng rào ấp chiến lược.

- bảnh nhỉ, thôi được, đã lâu tao không có chất thịt. Mẹ, thiếu cả ăn mới khốn nạn chứ, làm báo thời buổi này chán quá, chúng nó đục đẽo nham nhở không còn ra sao nữa, báo bán đếch được, tiền đâu mà chủ báo trả mình. Mày có biết Phật Giáo đang đấu tranh không ?

- Biết !

Tôi trả lời cộc lốc và chở Tú Kếu ra bờ sông, ngồi quán lộ thiên để Phá Kếu mặc sức phá mồi, hai cha ibia đưa cay. Câu chuyện của chúng tôi càng lúc càng trở nên rôm rả. Tô kể cho Tú Kếu những ngày tôi sống lưu lạc, những nghề nghiệp tôi đã làm kiếm sống, những ngày tù tội và đời sống của những người tù, đời sống hạ lưu ở tận cùng xã hội, ở những xóm chơi bời. Tú Kếu trở nên sảng khoái khi anh ta uống hết một chai bia, tôi gọ thêm chai nữa. Tú Kếu uống bia ít mà phá mồi nhiều, khoái chí tử trong câu chuyện

- Chất liệu, chất liệu của mày phong phú thật, tao chán ngấy những truyện bây giờ, toàn là thứ tình yêu lẩm cẩm, chẳng ra đâu hết, nghèo nàn, dốt nát, rẻ tiền. Còn không thì bắt chước Tây Phưong với mớ triết lý vụn, làm mè làm dáng, chẳng giống một con giáp nào.

Câu chuyện của chúng tôi sau mấy năm không gặp nhau, có men bia tự sức xoay quanh chuyện văn nghệ. Tôi không ngờ sau những năm không dính dáng gì đến chuyện văn nghệ, mà nay nói tới tôi lại đam mê. Chúng tôi ngồi nhắc đến những kỷ niệm, như đã lâu lắm rồi. Tú Kếu nói về hoàn cảnh hiện tại, anh đã htôi day học về làm báo, đúng ra làm văn nghệ với bạn bè, vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca.

Giọng anh buồn bã:

- Tờ tuần báo văn nghệ này nghèo lắm, vợ chồng Bạch Ngọc bỏ tiền làm, nhưng họ cũng nghèo quá, nội cái chạy tiền in giấy đã thấy mệt rồi, báo đôi khi bị tịch thu, kiểm duyệt cấm phát hành, nói chi đến chuyện lương lậu cho mình. Chẳng qua vì mình yêu văn nghệ và đam mê nghề nghiêp nên phải hy sih, bọn này cực khổ lắm. Một mình Trần Dạ Từ làm việc ở nhật báo Dân Việt còn có tiền, nhưng cũng eo hẹp và chậm trễ lắm, hắn còn phải lo cho vợ con hắn chứ, hắn mới có một đứa con gái, bé Sớm Mai, cái tên đẹp chứ nhỉ, như tên con gái Hoàng Anh Tuấn đặt là Hoàng Tôn thắm.

Tú Kếu xoay ra ca tụng những cái tên đẹpmà quên mất chuyện đang nói. Một lát trở lại:

- Nói đúng ra là mình làm báo người ta chỉ nuôi cơm, mình cũng chẳng còn thì giờ để đi học thêm, nên đời sống rất là thiếu thốn.

Tú Kếu chẳng cần thanh minh, cứ nhìn cách hắn ăn uống phá mồi cật lực cũng đủ biết rồi. Tôi nhìn Tú Kếu cười:

- Nghĩa là hy sinh vì sự nghiệp văn nghệ.

- Hiểu sao cũng được, cứ cho là như vậy đi, làm văn nghệ kiểu này như kẻ vác ngà voi vậy, cái ngà voi quí thì càng nặng, càng dài. Thằng làm cái công việc ấy mất nhiều công sức lắm, chưa chắc đã đi đến đâu, có khi nửa đường đứt gánh.

Buổi tối hôm đó tôi và Tú Kếu uống hơi nhiều bia, Tú Kếu vẫn không quên bổn phận, anh than phiền làm báo vào đúng thời gian Phật Giáo đấu tranh chống NĐD nên bài vở bị bộ thông tin kiểm duyệt nhiều quá, chiều nay bị bỏ trắng môt truyện ngắn, anh phải viết trám, nhưng bây giờ thì chưa có chữ nào, anh hứa liều :

- Thôi được, mình về ngủ một giấc, đêm dậy viết, sáng mai mang đi kiểm duyệt sớm mang về sắp chữ còn kịp.

Tôi chở Tú Kếu về căn gác thuê trong một xóm lao động nghèo nàn, cửa sổ nhìn xuống con hẻm nhỏ, có lẽ xóm này còn có những ổ chơi bời nữa, như xóm cũ Tú Kếu đã ở. Tôi thấy khách chơi ra vào tấp nập, mùi son phấn và những tiếng gọi nhau ơi ới, những câu chửi thề, những lời trao đổi tục tĩu. Tú Kếu nói:

- Ít hôm nữa mình về nhà Bạch Ngọc, ăn cơm với vợ chồng Trần Dạ Từ mình sẽ đỡ lo hơn, nếu thấy còn ham vác ngà voi thì về với tao, một mình tao gánh mêt quá. Căn nhà đó ở đường Bùi Viên, một gian của trường Thăng Long cũ. Một căn nhỏ bên cạnh cầu thang làm tòa soạn.

Tú Kếu nói thế rồi lăn ra sàn ngủ liền, trong cơn mơ anh vẫn lèm bèm nói anh phải viết bài điền vào khoảng trống. Chỉ còn mình tôi thức trên căn gác. Tự nhiên, như có gì vô hinhthồi thúc tôi ngồi vào bàn. Giống như bị ma nhập, tôi cầm bút lên, như thuở nào, những ngày bắt đầu có nỗi đam mê, tôi suy nghĩ, sắp xếp bố cục và nắn nót ghi cái tựa đề: " Bà Chúa Tám cửa Ngục ". Tôi viết, hình như chẳng khó khăn gì, đến gần sáng nhiều trang giấy đã đặc kín chữ.

Tôi đọc lại những gì đã viết, hình như không đến nỗi tồi. Tôi viết về đời sống những người tù, những điều dị đoan mê tín của họ trong hoàn cảnh cùng khổ, như những điều tôi đã sống và đã kể cho Tú Kếu nghe chiều nay. Vẫn có một quyền lực gì đó siêu linh che chở cho những linh hồn cô đơn giữa chợ đời.

Trời gần sáng, dưới con hẻm bớt lao xao. Tú Kếu vẫn ngủ say dưới sàn gác. Tôi ngồi chống tay lên bàn nhìn ra cửa sổ, phía dưới là những mái nhà cao thấp, những mái tôn chen mái lá. Tôi chợt nhớ đến căn xép nhà tôi thuở nào, bao nhiêu là những người anh em nằm ngủ qua đêm, chẳng biết đến bao giờ tôi mới gây dựng lại được. Hình ảnh một gia đình với tất cả tình yêu thương trong trí nhớ làm tôi thấy buồn.

Tô sửa chữa xấp bản thảo rồi dằn dưới cái gạt tàn thuốc lá. Tú Kếu vẫn ngủ say. Để anh ngủ, tôi viết lại mấy chữ, tôi ra khỏi căn gác. Xuống hẻm và đi ra đường. Một quán cà phê mở cửa sớm, giờ giới nghiêm đã hết, một quán cà pgê Tầu, bán hủ tíu và bánh mì xíu mại, với tiếng gị hàng lảnh lót của phô ki, như những quán cà phê bán sớm ở khắp SG Chợ Lớn thuở đó. Xung quanh tôi những lhuôn mặt mệt mỏi, những tiếng nói chuyện lao xao, họ đang nói chuyện Phật Giáo đấu tranh đòi lật đổ chính quyền NĐDiệm.

Không phải riêng một gia đìng ông ta mới biết chống cộng, một lời phản bác nào đó. Họ nói đến những côcbiểu tùnh bão táp xảy ra trên toàn quoấc

Tôi chờ Tú Kếu ở quán cà phê khá lâu, anh không ra hay đã đi lối khác, những ngõ hẻm trong những xóm như thế này chằng chịt, khô mà gặp được nhau nếu không hẹn trước. Tôi đạp xe lên ngã sáu SG và kẹt vào một đám biểu tình xuống đường. Sư sãi, sinh viên học sinh, nhiều thành phần xã hội. Dây thép gai giăng ra khắp ngã đường, cảnh sát, công an, cảnh sát chiến đấu đàn áo thẳng tay. Tiếng tụng kinh, tiếng đả đảo, tiếng gào khóc, lời rủa sả chế độ độc tài. Từ xa phía ngã tư đường Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt lửa bốc lên. Chuyện gì đó, tôi không biết, người ta chạy rần rần, tôi bị xô đẩy theo hướng đó, tôi bị lãnh không biết một cái dùi cui hay cây gậy, tôi gục xuống. Có cánh tay ai đỡ tôi dậy dìu chạy, không, đây là một vòng tay thân ái, không phải vòng tay thù địch. Tôi hiểu như thế trước khi không biết gì nữa.

Nắng SG vẫn rực rỡ.

CHƯƠNG 15

Tôi gặp lại hầu hết anh em bạn thời niên thiếu, những người bạn như tôi thuở đam mê văn nghệ. Một số khác đã có danh, công tác ở những tờ báo khác như Chu Tử, Hoàng Hải Thuỷ, Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn. Lê Xuyên. Các anh viết cho tờ báo trong đó có tôi hợp tác, vì tình cảm chứ không vì tiền nhuận bút. những người làm việc cật lực để hoàn tất số báo là vợ chồng TDTừ, Nhã Ca, Tú Kếu và tôi.

Tờ tuần báo Ngàn Khơi nghèo nàn đến thảm hại. Toàn là do sự góp công góp sức của các anh em văn nghệ sĩ nghèo. Riêng tôi chưa dám xài danh từ ấy, dẫu là có mơ ước. Tú Kếu và tôi được nôi cơm ngày hai bữa, buổi sáng có gói xôi đồng bạc, ly cà phê đen nhỏ, điếu thuốc. Nhưng chúng tôi làm việc từ A đến Z, không nề hà bất cứ một công việc gì. Tuy thiếu thốn, nhưng tôi lại có một thể hình trâu nước, không ốm đau bệnh tật, nên anh em goọi tôi là thằng trâu nước, những công việc náo nặng nhọc quá tôi gánh thay cho Tú Kếu. Như chạy lên chạy xống bộ thông tin, đi lấy bài vở anh em, có khi chở xe đạp theo Tú Kếu, để nâng cao uy tín lấy bài được chóng vánh, vì khi đó tôi chưa là gì cả, một anh loong toong, tuỳ phái, sai vặt...Đôi khi đi đường đánh lộn để bênh vực Tú Kếu vì hắn ta có tính láo ưa chửi bậy, cà khịa lung tung, bởi cái tính hắc xì xằng kiểu lý tưởng nhà quê. Phần phải về Tú Kếu đôi khi chỉ có 30%, nhưng không lẽ vì vậy mà bỏ bạn sao. Anh em vì vậy cũng gọi tôi là " nhà văn du đãng ". Cũng được, chẳng sao. Tú Kếu chỉ nặng hơn 30 ký lô, có phải chở đi từ đầu SG đến Vò Gấp nhà Đằng Giao để lấy hình vẽ đi làm cliché cũng chẳng nhằm nhò gì.

Công việc mà tôi coi là mệt nhọc nhất là đi xin bài cho báo, các ông nhà văn vốn tính lười biếng, hứa hẹn cho đã miệng rồi khi nước đến chân mới nhảy. Có hôm hai giờ sáng tôi còn phải ngồi chờ bài ở nhà người viết cuối thành phố. Cà phê thuốc lá cho đàn anh viết bài, ban cho những câu văn thơ quí như châu ngọc. Nhà văn đặt bút xuống bàn, ngáp dài, nói torng nụ cười mệt mỏi:

- Cậu thông cảm nhé, không phải vì viết không tiền tôi lười biếng đâu, có tiền cũng vậy thôi, tính tôi thế, anh em mình mà...Mà này, đừng coi này tầm thường, tác phẩm lớn đấy. Nếu thấy còn thiếu thì thêm cái " vi nhét " chậu bông chạu hoa gì vào cũng được.

Thuở đó in báo còn dùng kỹ thuât ti pô, chưa có vi tính như bây giờ nên cực vô cùng, mà tôi với những anh em đam mê. Làm thế nào cho có chữ nghĩa thì thôi.

Tôi giao bài cho Tú Kếu đưa sắp chữ, tôi lăn ra ngủ trên những ram giấy in. Tiếng máy in chạy không làm rộn giấc ngủ của tôi, nói thật tình tôi coi cái âm thanh đó êm ái như tiếng ru của mẹ thuở ấu thơ. Lại mơ mộng rồi thăng hoa tầm bậy. Thực tế không phải như thế, vì thói quen bạ đâu ngủ đó thôi.

Tôi bắt buộc phải thôi nghề cu li đổ bê tông, ống cống, cọc hàng rào ấp chiến lược. Vì chủ thầu lỗ lã quá nặng, nhà nước không thanh toán tiền bạc lấy cớ là thời cuộc đang rối ren. Chủ thầu và các cu li uống với nhau những chén rượu tạm chia tay, hẹn ngay tái ngộ rồi đường ai nấy đi.

Mãi 20 năm sau, khi tôi ngã ngựa, phải buông cây bút, hết thời, tôi và một vài anh embạn đồng nghiệp trở lai làm nghề cu li nay không còn gọi là cu li nữa mà là công nhân. Danh từ nghe cũng hay hay, dân chủ lắm.

Sau bỏ nghề cu li, tôi đi một lèo sang Tú Kếu, TDTừ. Anh em đón tiếp tôi nói rõ điều kiện hợp tác và hoàn cảnh tờ báo hiện tại, kể cả sự nguy hiểm. Tôi chấp nhận. Nụ cười của Tú Kếu thoải mái dễ thương....

- vậy là thêm một thằng nhập bọn " vác ngà voi ".

Tú Kếu vẫn thường có giọng điệu khôi hài như vậy, từ khi anh chuyển sang làm thơ tráo phúng, thơ anh mang bút hiệu Tú Kếu, nghe tếu, châm chọc đủ thứ, đủ mọi loại người không ra gì trong xã hội, bất chấp quan quyền đương thời, bọn đạo đức giả.

Chúng tôi cần cù chăm lo tờ báo. Nhưng báo đã đuối sức quá rồ, bị ngăn chặn phát hành, bị bộ tông tin đục đẽo nham nhở, tờ báo có cơ chết non. Vợ chồng Bạch Ngọc chỉ có nhiệm vụ chạy giấy in và lo khất nợ tiền in với ông nguyễn Đình Vượng.

Thi sĩ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt, một nhà thơ tài năng người miền Nam, dĩ nhiên thi sĩ thì nghèo rồi. Anh thỉnh thoảng đăng thơ trên báo Ngàn Khơi, anh em thấy không trả nhuận bút thì tội anh quá, bèn giao anh mỗi tuần mười số báo để anh tự bán lấy tiền tiêu, giúp đỡ cho vợ con anh phần nào. Nhà anh trong ngõ hẻm lấy lội đường Nguyễn Cư Trinh, cũng gần toà soạn.

Một hôm thấy anh chạy sang rủ tôi đi uống cà phê, tôi hỏi:

- Mày không bán báo à ?

- Bán rồi !

- Sao nhanh thế ?

- Tao bán mão !

- Bán mão là sao ?

- Bán lần một !

- Mày để lại cho người khác ?

- Bán cho con mẹ ve chai về làm bao gói đồ.

- Trời, còn độc giả thì sao đây !

- Độc giả cái con mẹ gì, còn chữ nghĩa đâu mà đọc. Bộ thông tin làm láng rồi......

- Theo đúng ra báo bán ve chai thì phải nhúng mực xanh mới bán vì đó là báo ế, báo tồn kho.

- Không sao, chẳng luật lệ mẹ gì hết, chuyện " chẳng đặng đừng " tao bán được tiền mua ký gạo cho mẹ con nó, còn tiền dư rủ máy đi uống cà phê đne nhỏ, hít điếu thuốc cho đời lên hương, mày lại viết văn còn tao thì mần thơ.....

Tiền bạc chẳng có bao nhiêu, nhưng Trần Tuấn Kiệt cũng đòi sang nhà in Nguyễn Đình Vượng rủ Tú Kếu đi uống cà phê. Nhà in NĐVượng là một nhà in nhỏ, nhưng tay nghề cao, ở đường Phạm Ngũ Lão chợ Thái Bình. Ông chủ nhà in là người yêu văn nghệ nên chịu đựng được bọn Ngàn Khơi. Con đường qui tụ nhiều tờ báo lớn nhỏ, cả những nhà xuất bản loại " bỏ túi " nhưng sẵn sàng " ăn to nói lớn ". Những anh nhà báo, nhà thơ, nhà văn qui tụ dài dài cả ở đấy, cả những tay đầu nậu xuất bản. Lần đầu tiên tôi đích thực tiếp xúc với các nhà văn, nhà báo, hoà nhập với họ. Biết cả những cái tốt và cái xấu mà nghề nghiệp mình theo đuổi hay đam mê, biết nổi giận khi nghề nghiệp của mình bị đàn áp, những bất công trong xã hội bị quyền lực giấu nhẹm hoặc bị bắt nói khác. Biết phẫn nộ khi quyền thứ tư bị chà đạp Giấy bút tôi ai lấy mất đi, tôi sẽ dùng dao khắc trên đá....Câu thơ ấy như châm ngôn dùng cho người viết văn làm báo thuở ấy. Ngược lại cũng có câu: Nhà báo nói láo ăn tiền. Cho những kẻ lợi dụng ngòi bút để làm mất phẩm chất cao quý của nghề nghiêp. Một chốn vàng thau lẫn lộn. Và biết thế vàng có đãi mới thấy, chất ngọc đích thực ở trong đá, phải tìm mới ra. Chuyện đó không phải không gian nan vất vả. Còn chuyênnọi thì dễ thôi, ai nói không được.

Những việc làm quá quắc của nhà nước với báo chí gây thành phong trào chống đối mỡi lúc một rộng lớn, đánh thức lương tâm của mọi hạng người. Những bắt bớ, những đàn áp, những thiệt hại cho dân được nhà nước nhân danh thượng tôn pháp luật, chính trị bị dân coi thường và coi là những biện minh xảo quyệt.

Những bài thơ trào phúng của Tú Kếu bây giờ trở thành món ăn tinh thần của độc giả, cả ông chủ nhà in NĐVượng, ông thường đòi thợ in phải " vỗ phông " ra một bản riêng cho ông đọc, trước khi đem đi kiểm duyệt để chịu sự đục đẽo. Vì sự thông cảm đó mà ông Vượng cho thiếu tiền in chồng chất.

Ông còn đề nghị:

- kệ nó, cứ in nguyên bản một vài chục số, sau này còn phải giữ lấy nó làm tài liệu chứ.....

Với lòng háo thắng của đám anh em chúng tôi, những tờ báo nửa nọ nửa kia đó trở thành báo lậu. Tờ báo được sự bí mật trợ giúp của một số độc giả nên vẫn ngắc ngoải sống được. Mật vụ đánh hơi thấy, dĩ nhiên cũng cho người len lỏi vào để nhận diện, từng tên một, được đánh giá, rồi sẽ giăng môt mẻ lưới....Chúng tôi là một đám người điếc không sợ súng. Sợ đã sợ quá mất rồi nên không còn biết sợ là gì nữa. Và chẳng còn biết an phận là gì, dù thân phận thường xuyên đói rách. Những bài thơ củ Tú Kếu, nay gọi là thơ đen ngày càng kinh khủng hơn, như những phát đạn bắn vào thành trì độc tài, bất công. Nhã Ca làm một bài thơ tha thiết cho xứ Huế. Bài " tiếng chuông thiên mụ ". Đỗ Quý Toàn với bài thơ " Lửa ", bừng bừng khí thế đấu tranh, ngày ngọn lửa thiêu của hoà thượng Thích Quảng Đức ngút cao, đánh thức lương tâm loài ngưòi. Lilêm sĩ của con người được thể hiên trung thực qua ngòi bút, ngòi bút mảng mai và nền bỉ. Tất cả những xấu xa lừa gạt từ bất cứ đâu đến cũng sẽ được phơi bầy. Cái công tâm của người cầm cây bút có liêm sỉ phải đúng như vậy. Tôi mơ ước được mang nó đến trọn đời...Tôi yêu quí nghề ngiệp tôi đeo đuổi. Mộng thành văn sĩ đã đến chưa ? Với tôi là muộn màng rồi đấy.

Chúng tôoi sống với nhau thường xuyên đói rách, thiếu thốn đủ mọi thứ nhưng vui. Lúc nào cũng vang tiếng cười, những chuyện vui dí dỏm thường xuyên giữa chúng tôi.

Chị vợ anh chủ nhiệm mặt méo sẹo, buổi sáng khi phải phát tiền ăn xôi, uống cà phê cho chúng tôi, mắt chị cận thị cứ nặng lên phải soi mãi đồng tiền nhôm lên xem có đưalộn đồng một đồng thành đồng hai đồng không. Có hôm tôi phải la lên:

- Đúng đồng một tì rồi, bà ơi, soi hoài thủng mẹ nó mất tôi làm sao mua sôi được nữa.

Chị Bạch Ngọc phì cười, chữa thẹn:

- Thì đây, các ông cầm lấy, nếu lộn thì trả lại cho tôi, tôi còn chia cho người khác, hai thằng con tôi còn chưa có kìa.....

Những ly cà phê đen nhỏ, điếu thuốc Bastos và nắm xôi làm chúng tôi tỉnh táo cả người sau những đêm thức trắng vàng cả mắt, nhìn gì cũng thấy màu vàng. Tú Kếu còn yếu hơn nữa, có những lúc anh gục đầu vì kiệt sức. Niềm đam mê làm việc bùng lên trong chúng tôi như những con bạc đến hồi khát nước. Làm việc và sáng tác như điên, bất kể thì giờ và sức khoẻ. Tay nghề viết của tôi cũng bắt đầu đi vào nhuần nhuyễn. Tôi không còn làm thơ được dù rất yêu thơ, tôi biết mình không có khiếu trong lãnh vực đó. Tôi thu gom một mớ truyện ngắn của mình cũng kha khá, những đề tài xã hội, đất nước, cuộc chiến....nhưng tôi vẫn chưa lấy làm hài lòng, vẫn còn những nét vụng về khi nhìn lại tác phẩm của mình. Như người hoạ sĩ nhìn lại những bức tranh mình sáng tác.....

Thời gian này tôi quen và thích đọc những truyện ngắn của Duyên Anh, nhất là những truyện viết về tuổi thơ, không biết có phải phản ảnh chính tuổi thơ của Duyên Anh hay không ? Sao nó bất hạnh và gian truân và mộng mơ đến thế: " Dưới giàn hoa thiên lý ; Con sáo của em tôi " Duyên Anh đã có vợ và con, vợ anh là con nhà đại dịa chủ ở Long Xuyên. Anh là Bắc Kỳ di cư, người xứ Thái Bình. Tô thấy trong truyện của anh nhắc đến cầu Bo ở Thái Bình hơi nhiều và trận chết đói năm Ất Dậu 1945, người xứ anh là nạn nhân chính trong vụ chết đói ấy. Anh tuổi hợi, nghĩa là hơn tôi ba tuổi, nhưng cũng dễ thông cảm nhau. Khi ấy Duyên Anh làm công chức, cán bộ gì đó ở Thanh Niên Cộng Hoà. Anh hay đến nhà in Nguuyễn Đình Vượngin sách báo gì đó trong bộ quần áo xanh cán bộ TNCH trên chiếc vespa Italic. Con người lúc náo cũng bảnh bao, mặt trắng và chải tóc mướt. Chúng tôi dễ thân nhau và cũng dễ mày tao chi tớ loan cào cào những lúc ngồi với nhau uống ly cà phê. Khi anh mua cho tôi khúc bánh mì thât dài thật to:

- Mày phải ăn thế này mới đủ được, cái thằng du đãng Trâu Nước.

- Nhưng....

- Không nhưng nhị gì hết, mày biết tao có vợ giầu mà, ở nhà vợ tao xào cho tao nguyên một chảo tim gan phèo phổi, ngày nào cũng vậy, tao ngán lên tận cổ, trong khi chúng mày lại thiếu thốn cả miếng ăn no bụng....

Con người Duyên Anh Vũ Mộng Long như vậy, pha chất kiêu, tếu khi nói chuyện, nên rất bị ngộ nhận. Điều đó tồn tại mãi trong anh cho đến khi anh qua đời. Cái tính huênh hoang không thay đổi và bất cần cải chính có lẽ vì thế đã hại anh. tìm môt con người đích thực ở Duuyên Anh là chuyện khó chứ không phải dễ. Nhưng mấy ai có thân tình và thì giờ để ngồi phân tích một con người. Tôi còn nhớ hai mươi mấy năm sau, sau khi đi học tập cải tạo về. Vợ con anh sau đó được bảo lãnh ra nước ngoài đi trước. Duyuên Anh gặp tôi ngồi ăn với nhau một bữa ban đêm ở chợ Thái Bình, trước nhà in Nguyễn Đình Vượng xưa. Anh đưa tôi xme moịo thứ giấy tờ ra đi theo diện ODP, nhưng rồi anh gấp lại:

- Tao đầy đủ giấy tờ ra đi hợp pháp, nhưng tao không làm chuyện này. tao vượt biên, đi vậy mới đáng mặt, tao lo chuyện này rồi, tao mới bán căn nhà ở Công Lý được mấy chục cây, tao sẵn sàng chi cho mày ba cây để ra đi....

Tôi chần chờ vì còn nhiều lý do. Duyuên Anh nói thẳng vào mặt tôi:

- Tao ít khi tốt với ai lắm, sau này mày đừng hối hận tao đã nói với mày như thế đêm nay.

Lần đó là lần cuối cùng tôi gặp Duuyên Anh, cho đến lúc anh qua đời, qua tin trên đài phát thanh ngoại quốc. Thế là tôi lại mất thêm một người bạn nữa ở nơi xa xôi...Tôi thắp cho anh một nén nhang sau khi nghe tin, hôm đó là một ngày giáp tết nguyên đán.

Không biết có phải là tình yêu ? Hình như là tình yêu, sau những ngáy tháng tôi có một đời sống dạc dài, trôi nổi. Con ngưòi tôi không còn gì là thơ mộng nữa và không thể có cái lãng mạn sướt mướt của một người viết văn tình cảm. Tuổi trẻ, tuổi yêu đương của tôi đã ném vào sọt rác rồi. Tôi làm sao có được các vuốt ve trữ tình, tôi ném vào tình yêu toàn chuyện kinh khủng, tàn bạo qua lối viết văn cộc cằn, đôi khi thô lỗ. Mà tôi cho đó là sự thât cần được nói lên. Có thể tôi đã sai, nhưng đó là lối của tôi. Tôi có thể cười hộc lên một cách bất lịch sự khi nghe lời tỏ tình êm dịu của một cặp tình nhân nào đó ở công viên hay một nơi phong cảnh hữu tình đẹp như thơ.....

Nói tóm lại tôi vụng về trong chuyện ấy. Nếu tôi không thể là một nhà văn có khiếu viết truyện tình yêu. Ngoài bìa sách không thể in được dòng chữ tâm lý ái tình tiểu thuyết. Chưa bao giờ tôi viết được một cuốn tiểu thuyết như thế suốt mấy chục năm cầm bút. Tôi không thể làm đệ tử hoặc theo bén gót được những bậc trưởng thượng Song An Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm, hoặc Tuyết Hồng Lệ Sử của Tầu.

Nhưng bây giờ viết ký ức, tôi nghĩ mình cũng có tí quyền viết về mình một chút chứ. Một chút hình như là tình yêu. nhưng mơ ước, những lãng mạn còm của tôi, một thời đã xa xôi. Xin ai đó thứ lỗi. Nàng, bà lão ở nơi xa xôi cách tôi nữa vòng trái đất...Chính vì đã đọc bài thơ Tình Già của Phan Khôi nên tôi cũng có chút ngậm ngùi và lòng cũng rung lên, không phải cơn sốt rét, mà thật đấy, văn nghệ đấy. 40 năm trước, một hôm tôi ngồi một mình ở toà soạn tuần báo Ngàn Khơi. Tôi cắm cúi viết truyện ngắn có tựa đề là Vác Ngà Voi. Trong khi phật Giáo đang đấu tranh tưng bừng. Chính chúng tôi cũng không biết bị vồ bắt lúc nào.

Tôi vừa viết, vừa gom góp một số truyện ngắn đã đăng báo để làm thành một tập. phải là một tuuyển tập truyện ngắn, như điều toôi mơ ước. những truyện này tôi chọn lựa và sẽ sửa chữa liên tục rồi gửi thằng em. Một ngày nào đó tôi sẽ mang ra trình làng những mẩu chuyện có đề tài quái gở. Không biết tôi có được chấp nhận hay không, chuyện ấy hạ hồi phân giải. Anh em thì nói tôi viết được, có những cái lạ mà nhà văn có đôi tay sạch sẽ không rớ tới. Vatồi cũng tin mình có chút tài năng để được làm nhà văn, điều mà tôi mơ ước từ tuổi hoa niên.

Tú Kếu thì hăng hái hơn, hắn động viên tôi:

- Cứ sáng tác đi, chẳng có gì đáng nản, cả tao cũng vậy, thơ của tao đâu có giống thơ " Lỡ bước sang ngang " của Nguyễn Bính, mình sẽ lập nên một nhà xuất bản, nghề in ở tay mình. Mày biết không mình sẽ lập nhà xuất bản lấy tên là Tiếng Nói.

Thế là tôi quên béng đi mọi chuyện thực tế vây quanh. tôi say sưa với Tú Kếu về nhà xuất bản Tiếng Nói chưa thành hình. Cứ nói cho sướng miệng rồi hạ hồi phân giải. tôi hùng hục viết, sáng tác. Nhà thường cúp điện, tôi tìm được cây đèn dầu cũ, đốt lên vửa đập mũi vừa sáng tác suốt đêm. tôi trở thành anh cận thị hơi nặng.....

Lúc rảnh rang tôi lại lấy giấy bút ra, viết những điều mình từng suy nghhĩ...Không biết nên gọi là nguồn văn lai láng hay lênh láng đây. Tôi không nghiêm chỉnh ở được một việc gì. Tôi biết mình cà chớn trong đời sống, vì vậy tôi thưòng hay thất bại. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng...như câu xưng tội.

Nàng hiện ra lúc đó, khi tôi không chờ không đợi. Mái tóc dài bỏ xoã, mặt hiền lành trắng hơi chút xanh xao, chiếc áo dài lụa nâu, quần đen và một đôi quốc sơn đen, quai nỉ lông trắng, một người con gái giản dị, không một chút xe xua kiểu cách ở tuổi mới lớn. Nàng như một nữ tu, có lẽ một ni cô là hợp thời nhất. Tiếng nói nàng thât nhỏ nhẹ:

- Xin cậu cho cháu hỏi cậu Nhiên.

Tôi ngẩng lên khỏi đống giấy tờ bừa bộn:

- Cậu Nhiên nào, ở đây không có ai là cậu Nhiên hết.

- Cậu Nhiên cháu làm thơ, viết báo ở tờ Ngàn Khơi này mà.

- Vậy thì càng không thể có được. Tôi biết tất cả mọi thằng nhà văn, nhà thơ, nhà báo ở đây., có nhiều nhặn gì đâu, đếm trên đầu ngón tay, chỉ có mấy mạng thôi. Tôi kể ra cho nghe này.....

Cô bé rối rít:

- Dạ đúng rồi, cậu Tú Kếu chính là cậu Nhiên, cậu của cháu. Ở nhà thường hay gọi tên ấy, từ khi ở nhà quê xứ Sơn Tây kia. Cậu cháu đi viết báo, làm cách mạng nên nhiêu tên lắm, ngoài tên nguyễn Huy Nhiên ra còn tên Hoàng Bình Sơn, Trần Đức Uyển và bây giờ thì Tú Kếu.....

Tôi cười thoải mái:

- À ra thế, tôi không biết cái tên cúng cơm của nó, chắc cái tên này hồi còn ở nàh quê Tây Sơn nó đã dùng mua chức lý trưởng để gọi là quan lý, nên nó giấu tôi.

Không chừng nó đã cưới vợ tảo hôn rồi, nên bây giờ nó mới biết làm thơ.

- Không phải đâu cậu ơi. Cậu Nhiên cháu chưa bao giờ lấy vợ và cũng chưa mua lý trưởng.

Tôi cười vui vẻ, ngay lần gặp đầu tiên, trêu chọc thêm:

- Hoặc là chức trương tuần, tôi gọi nó là thằng trương tuần Nhiên, tôi cho nó vào tiểu thuyết. Thôi được rồi, ngồi chờ cậu Nhiên đi, nó ở bên nhà in cũng sắp về bây giờ.

Trong khi chờ đợi Tú Kếu, tôi hỏi cô bé:

- Tôi quen Tú Kếu lâu rồi, từng ăn một mâm nằm một chiếu với nó. Sao không nghe nói đến cô và cũng không thấy cô đến thăm ?

Cô bé bẽn lẽn:

- Cậu ấy chỉ đến thăm ở nhà cháu thôi, cậu ấy hay thuê nhà ở những nơi ghê quá à, ai mà dám đến. Cả tháng nay không thấy cậu ấy đến, mẹ cháu sai cháu đi chợ, cháu tạt qua xme cậu ấy làm ăn làm sao mà biền biệt.....

- Đơn giản thế thôi hả ?

Cô bé gật đầu thật thà:

- Dạ thế thôi, và xem cậu ây thiếu thốn gì....

- Thiếu thốn thì nhiều lắm kể không ra hết. Nhưng Tú Kếu còn có người nghĩ đến, chứ tôi thì bạc phước.

- Cậu...cậu...?

- Chính vậy, tôi mồ côi, không nguyên vẹn hai đấng song thân, mẹ ở xa, không ngưòi thân thích, nói ra mủi lòng lắm.

- Thế hả, cậu nói thật đấy chứ...nàng nhìn vào mặt tôi:

- Ấy, cậu đừng thề, cháu tin rồi, coi như cháu của cậu, cháu là Mai Kha, còn cậu là cậu Long phải không. Nhìn người là biết ngay, cháu có đọc mà.

Tôi xuýt nữa thì phì cười vì sự ngây ngô vô tội của cô bé. Tú Kếu lửng thững đi về. Mặt hắn ta lạnh như băng khi nhìn thấy cô cháu ngồi đó:

- Sao cháu lại đến đây ?

- Cháu tới thăm cậu mà, sao lâu quá cậu không đến thăm nhà cháu, cháu nghe nói mật vụ nó bắt mấy nhà báo nên lo quá.

- À chuyện đó có, nhưng cậu thì chưa, cháu thấy đó, chẳng biết lúc nào đâu mà nói trước....

- Dạ không nên nói trước, nó vận vào người thì khổ. Cậu Thu ở tù lâu rồi mà vẫn chưa ra.

- Ông ấy ra sao được nếu chế độ này chưa sụp đổ. Nó dụ ông ấy vào đảng Cần Lao Nhân Vị thì nó thả liền, nhưng có đồi nào.....

Tôi biết hai cậu cháu nói chuyện đến ai. Cái mặt anh chàng Tú Kếu có vẻ cau có, không biết có phải cau có vì tôi có mặt hay không. Nhưng thây kệ hắn, việc tôi tôi cứ làm. Hai người nói một tí chuyện gia đình, họ hàng bà con, Tú Kếu nhắc nhở cô cháu:

- Này cậu bảo cho mà biết, mày không đi biểu tình xuống đường nghe chưa, bọn chúng dã man lắm, chúng đáng cho bỏ mẹ....Mày cũng về bảo mẹ mày như vậy, bà ấy là tín đồ Phật Giáo cũng hăng tiết vịt lắm. Bọn cảnh sát dẹp biểu tình không chừa một ai đâu, ni cô phật tử nó đánh ráo đấy, bất kể già nua hay còn trẻ.

- Còn cậu thì sao, chửi chúng nó vừa thôi, cạu chửi cả bà Trần Lệ Xuân nữa.

- Con mẹ, không bà nào ở đây cả, nó sang Tây giải độc mà nói ngu như bò.

- Cậu nên giữ gìn sức khoẻ.

- Có sức khoẻ chó đâu mà phải giữ gìn, đói rách thường xuyên, làm việc như trâu mà vẫn thiếu ăn. Ngoài việc hỏi thăm cậu thì đã xong rồi đấy, cậu cám ơn, cháu có thể về, ở khúc đường đằng kia nó mới dẹp xuống đường đấy......

- Cháu không sợ, cháu phải mời cậu đi ăn uống gì chứ.

- Việc đó tốt thôi.

- Tú Kếu nhìn tôi. Cả Mai Kha cũng nhìn tôi cười cười. Tú Kếu hỏi:

- Hai đứa mày quen nhau chưa ? Hay phải để tao giới thiệu ?

Tôi trả lời liền:

- Mới quen nhau tức thì.

Tú Kếu lẩm bẩm:

- Mẹ sao mà nhanh thế, trông mặt thằng này tao thấy gian gian. Thôi được dù sao nó cũng là bạn tao, chúng tao hạt gao cắn đôi, nếu mày mời tao cũng phải mời nó.

Quả thật chúng tôi có chỗ thân tình như thế thật, như sáng nay hai đứa chúng tôi phải ăn chung một gói xôi, chia ra mỗi thằng được một véo, chẳng thấm tháp vào đâu. Được mời như cởi tấm lòng, dĩ nhiên tôi bằng lòng ngay. Ba cậu cháu cùng đi sang chợ Thái Bình. Cô cháu Mai Kha:

- Được rồi hai cậu ngồi ăn gì, cháu ngồi coi không, cháu chỉ uống môt ly chanh nóng thôi vì cháu ăn sáng rồi, lát cháu còn đi chợ rồi mới về....

Tú Kếu hình như quen với chuyện này, anh ta vào ngay hàng hủ tíu, chắc ăn hỏi:

- Thoải mái chứ ?

- Dạ ăn thì phải thoải mái rồi.

Có lẽ cô cháu Mai Kha vì thực thà không hiểu nổi câu hỏi của ông cậu, nên mới trả lời như thế. Tú Kếu nói với tôi:

- Mày thấy không, gọi luôn cà phê đi cho tiện việc sổ sách, hôm nay mình uống cà phê sữa một phen, đừng có khách sáo mà làm mất tinh thần đi. Sao cái mặt mày coi khó ưa quá vậy, chẳng thấy mày phát ngôn được một câu nào.

- Tôi có tính xâu, chưa ăn thì chưa nói.

- Thì ăn đi, như tao, đừng khách sáo nữa coi rởm lắm, mất chỗ thân tình đi, cháu tao cũng như cháu mày. Cuộc ăn uống " bấu xấu " diễn ra ác liệt và rất tận tình. Mỗi thằng ăn tới ba tô hủ tíu vị chi là sáu tô, hai ly cà phê sữa, một ấm trà, hút hết một gói thuuốc lá Ruby. Cô cháu chỉ uống một ly trà chanh nóng mà còn bỏ giở. Cô bé khi trả tiền thì mặt biến sắc, nàng hết nhẵn cả tiền đi chợ. Đúng là gặp ngay hai thằng cậu " ma đói ". Chắc là cạch tới già...Tôi tự trách mình sao mà tôi vô tình đến vậy ? nàng có thể oà khóc như trẻ thơ khi bị ăn dỗ. Lại là tiền chợ mẹ giao cho mới mệt.

Tú Kếu vẫn vô tâm vô tính:

- Chợ đây, mày đi chợ đi, hai cậu xách giỏ cho.

Giọng Mai Kha hơi run:

- Thôi mà cậu, cháu hết cả tiền đi chợ rồi, để cháu về chợ Nancy gần nhà, có hàng quen.

- Mẹ mày thì đánh chết, mày cứ nói đi chợ bị móc túi hết tiền rồi.

Cô bé bây giờ mới rơm rớm nước mắt, có thể oà khóc:

- Không, cháu không nío dối, nói dối là có tội.

- Thôi thì kệ mày....

Tự nhiên tôi ân hận, thấy khó xử trong hoàn cảnh này và có ấn tuơng tốt về một cô bé, mặc cảm xấu xa về chính mình cũng dậy lên trong lòng tôi. Sao tôi lạ thế nhỉ, mới lần đầu tiên gặp cô bé, chẳng biết giới hạn mình. Nhiều năm trời trôi qua, Mai Kha có thể quên, nhưng tôi thì nhớ mãi....Khi nhìn cô cháu từ giã hai ông cậu ôn dịch, tôi đứng nhìn theo chiếc áo dài màu nâu non của nàng, tôi nói một mình, nhưng Tú Kếu cũng nghe thấy:

- Một nàng tiên nâu.

- Con bé đó là một nàng tiên nâu, mày nghiện thì bỏ mẹ.

Hai đứa đành cười xoà, vì biết làm gì hơn được. Tôi nói cho đỡ ngượng: " Lần sau thì cạch mặt hai ông cậu ! " Tú Kếu nói : " Không đâu, nó rất tốt và thông cảm, nó biết cậu nó là con ma đói thì bạn của nó cũng vậy, một tuồng như nhau ".

Hình như là tình yêu, tôi chỉ dám lãng mạn ngầm. Nói ra thằng bạn tôi cười chết. tô thầm mong Mai Kha không cạch mặt tôi. Tôi cứ dính lấy Tú Kếu thì có cớ ăn theo.

Nắng SG vẫn rực rỡ.

CHƯƠNG 17

Tại sao 40 năm sau, một buổi chiều tôi lại chẩy nước mắt, khi tôi ngồi đọc lại cuốn tiểu thuyết Kinh Nước Đen của tôi, xuất bản gần 40 năm về trước ? Đúng là cuốn tiểu thuyết tôi lại được bằng tiền sau ngần ấy năm xa cách, một trong những đứa con của tôi bị thất lạc. Thuở đó kỹ thuật in còn thô sơ nên bản in còn để lại nhiều lỗi chính tả. Cuốn sách tìm lại được, nằm ở một nhà cho thuê truyện, bìa đóng bằng giấy dầu màu nâu xỉn, đã trốn thoát trong trận hoả tai năm 1976, 25 năm qua tôi không rõ nó lưu lạc và ẩn náu ở đâu, bây giờ nó trở về trong chính vòng tay của cha nó. Đứa con được chuộc lại, một đứa con bị kết án là tội lỗi trong suốt bao nhiêu năm trời. Tôi chỉ được nghe bằng hữu nhắc đến nó, chia buồn với cha nó rằng sao thằng bé cũng kháu khỉnh lại mang số phận hẩm hiiu nghiệt ngã như vậy, như những anh em nó. Tô lì ra vì sợ nó bị tội lần nữa và vẫn bí mật đi tìm chuộc nó để làm của riêng, để xếp nó vào ngăn " tủ sách gia đình " mà tôi chợt nẩy ra ý định lập lại. Sau trận hoả tai thảm khốc hồi nào. Những đứa con của tôi còn nhiều, chúng lưu lạc ở khắp nơi mà tôi chưa tìm lại được hoặc nó đã bị biến thể mang một tên khác, hoặc gần giống như thế, tôi có dịp xem lại, tôi nhận ra chúng mang chứng bệnh " chất độc màu da cam ", nó thành dị dạng hay quái thai, chỉ còn có giá trị đi hát xiết rong ở nơi kẻ chợ. Riêng tâm hồn tôi bị tổn thương thì kệ tôi, tôi vẫn tiếp tục đi tìm những đứa con bị thất lạc, tôi đã thấy một vài đứa như thằng bé tội nghiệp này. Cha con tôi ngồi với nhau ở khu vườn sau, căn nhà ở ấp Đông Ba, Gia Định xưa, cũng do chính những đồng tiền của chúng nó kiếm ra cho cha nó lập nên căn nhà xiêu vẹo này, khi ấy là lúc đương thời của tôi, một người " mơ làm văn sĩ " và đã thành sự thật. Đã có một thuở người tagọi tôi là văn sĩ hay nhà văn có tác phẩm bán chạy và cũng đủ ăn đủ tiêu. Thuở đó xa rồi, chỉ còn lại tôi già cỗi và căn nhà xưa xiêu vẹo này, nếu tôi không biết ăn vạ biết lăn đùng ngã ngữa ra thì cũng mất lâu rồi.

Biết đâu bây giờ trên mảnh đất này nó lại không biến thể để trở thành một vi la hiện đại sau buổi giao thời bước sang thuở kinh tế thị trường. Thời buổi mà các ông bà cụ non cùng hô lên khẩu hiệu: " phải biết cấu xé nhau mà sống nếu không sẽ bị tiêu diệt ". Trong khi ấy tôi chỉ là một ông già xưa, hết thời, hết tất cả. Tài năng thì " cà là mèng ", nói năng chẳng được một câu cho chính xác, nên bị coi là nói bậy.

Tôi đọc lại đứa con của mình trong tâm trạng mừng mừng tủi tủi, nên chảy nước mắt. Thì ra ở đó tôi có ghi lại một chút sự kiện lịch sử ở miền Nam, mà bây giờ phải gọi là hồi ức. Ngày lật đổ chính quyền NĐD mà người miền Nam hồi đó gọi là cách mạng. Tôi là một người viết ở miền nam thuở ấy, cũng chịu cái vui buồn chung của nhân dân nên cũng " khóc cười theo mệnh nước nổi trôi " chẳng có chi lạ, cái nhiệt tình của tuổi trẻ ắt phải có, tôi phải ghi lại thôi, ngay chính trong tác phẩm của mình. Đọc lại, tôi thấy những gì đã mất nay bỗng tìm thấy. Dù ngày đó tôi chỉ là một nhà báo tập sự, nhưng tôi có nhiệt tình, những gì tôi ghi lại trong sổ phóng viên là sự thật, sau này tôi biến nó thành một đoạn trong tiểu thuyết, cho nhân vật mình xoay vần nhưng vẫn ở trong sự kiện lịch sử thật. Bây giờ tôi không tìm ra, hặc đã bị xuyên tạc, chẳng còn mất giá trị tinh thần nào. Nản bỏ mẹ, tôi bèn chảy nước mắt.

Tôi có một căn nhà sao hỡi trời ! Chuyện đó có thật đấy, một căn nhà bình thường, ở một xóm yên tĩnh trong ấp Đông Ba thuộc tỉnh Gia Định. Đi qua một xóm cù lao, qua cây cầu gỗ đường Trần Khánh Dư, qua cầu cá và những ao rau muống là sang đến địa phận thành phố SG Tân Định. Nhà tôi ở một xóm ven đô, cảnh tượng còn nhà quê lắm. nhưng muốn đi đâu cũng dễ. Một khung cảnh quê mùa sát ngay nách đô thị. Xóm chưa có nước máy, chưa có đèn điện, nhưng cũng tốt thôi, những thứ đó có mấy hồi, đó là chuyện tuơng lai.

Tâm hồn tôi vốn dĩ lãng mạn, tôi lại thích ánh đèn dầu loe loét trong những khu nhà vườn, khói lam chiều lãng đãng toả ra từ những mái tranh nghèo trong khu vườn cây lá lúc ráng chiều đỏ rực trên con kinh chẩy qua cầu Bông cầu Kiệu. Tiếng chuông thu không ở chùa Huê Nghiêm ngay sau nhà tôi. Cái mả đá to tường rêu phong, mùa mưa ốc ma bám đầy dẫy gây huyền thoại cho người có máu mộng mơ.

Tôi quyết định mua căn nhà giá bèo này ở ven đô, mà tôi đang nằm lăn trên phần gạch bông, nhìn qua cưasô3 thấy trờ xanh và bóng lá cây la đà. Trong căn nhà của tôi xây dựng khúc khuỷu vì tránh mồ mả. Ngưòi chủ nhà nói chẳng sao, nếu cậu chịu khó cắm nhang khấn vái cho những oan hồn uổn tử này, tự khắc người ta phù họ cho cậu. Tôi an tâm nếu tôi làm theo lời nhắc nhở ấy.

Tôi có quyền mơ mộng trong căn nhà nhỏ này. Mẹ con anh em tôi sẽ xum họp sau những năm xa cách, rồi tôi có vợ có con, có bónh dáng những bạn bè đáng yêu như thuở nào. Căn nhà vang tiếng cười. Một hạnh phúc mơ ước được thành hình ? Người vợ hiền thục nào đó mà tôi hằng mơ ước. Bây giờ tôi không mơ thành văn sị nữa mà tôi đúng là văn sĩ. Mộng ước đã thành chăng ? Mộng ước đó không biết có nghèo nàn hay giầu sang, có thể con người tôi nghèo nàn nhưng tâm hồn tôi thì giầu sang, theo như cảm nghĩ riêng tư của tôi.

Tôi tâm sự điều đó với ngưòi bạn ba phải là nhà thơ Tú Kếu, hắn trả lời xỗ sàng:

- Ừ, cũng được, cũng đến lúc phải dừng lại cơm hàng cháo chợ, vợ nhà thổ....nhưng mày có đối tượng nào chưa mà dám nghĩ đến chuyện ấy.

Tôi lặng im, tôi không muốn nói ra điều bí mật ấy, nhưng hắn ta cũng biết.

Giọng hắn nhỏ xuống:

- Tao e rằng khó với những thằng có thân phận như tao như mày, nếu không có quyết tâm. Ngòi bút của chúng ta phóng khoáng quá, như một vết chàm trên thân phận của chính mình. Không ai nghhĩ mình đang làm văn nghệ mà có một sự ngộ nhận tai hại.....

Tú Kếu chỉ nói có thế rồi bỏ đi. Hắn nói để tôi ở nhà một mình tha hồ mà mơ mộng. Tôi lang thang trong căn nhà, tôi tính đến việc phá bung bức vách đằng sau để lấy một khoảng vườn. Đang mơ mộng thì tôi nghe có tiếng gõ cửa se sẽ và tiếng gọi nho nhỏ nghe như một hơi gió. Mai Kha hiện ra ở cửa sổ trấn song. Tôi nhận ra mình nằm trên sàn gạch bông. Tôi ra mở cửa cho Mai Kha vào nhà, vẫn chiếc áo dài màu nâu non, đôi quốc sơn quang dầu, quai ni lông ôm lấy những ngón chân xinh xắn, nhưng hôm nay nàng không đội nón, mái tóc dài như tơ xoã trên bờ vai mảnh dẻ. Câu hỏi của Mai Kha thật nhẹ :

- Hôm nay cậu ở nhà một mình hả ?

- Đúng vậy, có gì ngại không ?

- Không, cháu đi tìm nhà cậu mệt quá, đi quanh quanh queo queo mãi, như đi vào làng nào đó. Cháu xuống xe từ chợ Bà Chiểu.

Mai Kha ngồi trên chiếc ghế đẩu kê cạnh bàn làm việc của tôi. Tôi nhận ra một điều từ khi quen biết với Mai Kha, chưa bao giờ tôi thấy nàng đi xe đạp, nàng toàn di chuyển bằng xe buýt. nàng ngắm nghía căn nhà của tôi:

- Cậu tìm nhà cũng khéo đấy chứ, nơi này cũng tĩng mịch, phong cảnh lại đẹp, như một miền quê.....

- Còn thếu thốn nhiều lắm. Kha coi đó vẫn chưa thể thành một căn nhà cho một gia đình được.

Tôi say sưa với niềm mơ ước của tôi, tôi kể cho Mai Kha nghe, như trẻ nhỏ kể ra niềm mơ ước của mình với bạn bè cùng trang lứa. những mộng ước bình thường, rất bình thường của một con người khao khát sống có hạnh phúc. hay tôi ngồi trước mặt Mai Kha tôi mới nói lên được điều khao khát ấy. Này nhé, trước hết là một gia đình có vợ có chồng, con cái bà cháu, cô chú. Một tiểu gia đình có những con ngưòi thương yêu nhau, chia bùi xẻ ngọt với nhau, con chó con mèo, cái bàn cái ghế, tất cả đều thân thương. Tôi chỉ ra phía đằng sau.

- Cậu sẽ mở một cái cửa đằng sau ra khu vườn, lối đi này tiếp giáp với vườn chùa và sân chùa.

Tôi say sưa với mộng ước của mình. Mai Kha vẫn nghe tôi nói, nụ cười trên môi nàng, hai bàn tay xinh xinh có những đườnf gân xanh úp trên mặt bàn. Đột nhiên Mai Kha hỏi tôi:

- Cậu không còn thích chuyện giang hồ như cậu đã từng viết nữa hả ?

- Đến lúc phải dừng cơn gió loạn lại, mà không phải chuyện giang hồ, mà đời sống xã hội, những con người với những con người.

Tôi không biết nói với Mai Kha những gì, nhưng nội dung chính buổi chiều hôm ấy chỉ có thế. Một chút lãng mạn của một kẻ ra đời phải nhận chịu những roi vọt của cuộc đời ban cho, tuy rằng chưa thấm tháp vào đâu đối với một cuộc đời dài, nói tóm lại chỉ là một mộng mơ bình thường mà ai cũng có quyền mơ ước.

Mai Kha nói thật nhỏ:

- Chỉ thế thôi hả cậu ?

Tôi nhìn vào mắt Mai Kha:

- Chỉ thế thôi !

Tôi thấy Mai Kha ngước lên,nhìn qua cửa sổ, nhìn một bóng mây nào đó đang lãng đãng trôi. Giọng Mai Kha không mấy bình tĩnh, nàng như sắp khóc:

- Chiều rồi đấy cậu, cậu nói cho Kha tập truyện ngắn cậu mới in.

Tôi dụi tay lại, với bàn tay ấy với lên kệ sách, lấy ra quyển sách còn thơm mùi mực in, ký tặng. Sao quyển sách đầu tay nay tôi ký tặng cho Mai Kha không bình thường như những quyển sách tôi ký tặng cho những người khác. Tôi cảm thấy như thế. tôi biết một vài truyện ngắn trong tập truyện này có hình bóng nàng. Một tình yêu lóang thoáng có thể coi là vô vọng của gã đàn ông bất hạnh trong một xã hội nhiễu nhương. Tôi chỉ làm được chừng đó thôi, tôi thăng hoa tình yêu ấy.....

Tôi nhìn Mai Kha, nhìn theo đám mây mỏng manh đang trôi ngoài cửa sổ

- Ừ, chiều rồi đấy, cậu Nhiên phải đi đến tối mới về.

- Kha về đây, đi bộ từ đây ra Bà Chiểu cũng xa quá, đường xá thì loanh quanh

- Có một lối khác đi ra Tân Định, ở đó có xe buýt cũng tiện.

- Thế hả, cậu chỉ lối cho Kha nhá !

- không chỉ đâu, chờ cậu đóng cửa rồi sẽ đưa Kha đi, Kha đi một mình nhất định là lạc đường rồi....

Tôi đưa Kha xuống cù lao Rạch Miễu, đường trong xóm quanh co với những luỹ tre, những ao cá, những mái nhà tranh toả khói lam chiều. những ao rau muống nở hoa màu tím, những giếng nước trong rải rác trong xóm.

Tiếng Mai Kha nhẹ như tiếng gió thoảng:

- Cảnh đẹp quá hả cậu ?

Tôi không nói thêm một câu nào. Đến chiếc cầu cheo leo, tôi vẫy tay từ giã nàng. Hình ảnh này còn mãi trong tôi. Tôi nhìn theo Kha đến khi nàng lẫn vào dòng người đông đảo lên thành phố.

Nắng chiều rực rỡ trên sông mà không gay gắt, một cảm giác nhẹ và êm.

Đó là hình ảnh một buổi chiều của 37 năm về trước. thuở đó tóc tôi còn xanh. Bây giờ thì khác rồi, cảnh tượng của buổi chiều hôm đó chỉ còn lại trong dĩ vãng, chợt nhớ chợt quên. Thời gian vẫn trôi, ấp Đông Ba còn đó nhưng đã đổi tên. Phong cảnh đã thay đổi. những ao rau muống hoa tím nở đầy không còn nữa, đã bị lấp bằng, những mái tranh toả khói lam chiều trên bờ kinh ngày xưa đã biến mất, và nhiều thứ đã biến mất.

Người đưa thư già trao cho tôi một bức thư của Mai Kha, bức thư đề tên tôi, nhưng không địa chỉ mà chỉ đề địa chỉ ấp Đông Ba Gia Định. người đưa thư già noío:

- Nếu không phải tôi đi tìm địa chỉ của " cụ " thì không ai tìm được. Tên này xưa quá rồi.

- Xin cám ơn, tôi biết điều đó.

Trong thư Mai Kha chỉ nhớ mang máng nơi tôi ở cách nay đã lâu, nên viết thư về xem sự " còn mất " của tôi. Tôi vẫn còn đây. Tôi trả lời nàng như thế.

Trời thật đẹp với nắng quái chiều hôm, tôi dời căn gác bút xuống nhà dưới đi theo con đường đất xưa, nay đã trải nhựa xuống khu cù lao bên sông. Không còn gì cả, không còn khung cảnh xưa, cả những bông hoa rau muống màu tím. Nắng quái chiều hôm vẫn còn đó không thay đổi.

Hôm rồi, những ngày mưa gió, tôi đi đón hài cốt của Lê Đình Điểu hồi cố hương, lời nhắn nhủ của anh với gia đình. Nắm xương tàn của anh về an táng ở quê hương xứ Hà Đông xa xôi....Tôi ngồi ở chua An lạcnghe kinh siêu thoát cho Điểu. Trong mấy chục năm qua nhiều ngưòi bạn đã ra đi. LĐDiểu là bạn tôi, từ những ngày đầu " thưở mơ làm văn sĩ " Nay anh đã nằm xuống rồi. Những roi vọt của cuộc đời liên tiếp phủ lên thân phận tôi, còn đau hơn những cái roi đầu đời thuở tôi mơ làm văn sĩ.

Nắng tắt và đèn đường hai bờ sông bật sáng. Hình như thứ ánh sáng nhân tạo này làm át cả ngôi sao hôm mọc ở cuối trời.

Tôi lững thững trở về căn gát bút suy nghĩ ngổn ngang trong đầu.
Sao tôi không nghe tiếng chuông thu không ở ngôi chùa nào đó. Bao nhiêu là ngôi chùa ở trong ấp Đông Ba này.
Ấp Đông Ba năm 2000 
Nguyễn Thụy Long
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...