Thứ Năm, 30 tháng 3, 2017

Hương trầm - Tinh hoa văn hóa ngày tết Việt

Hương trầm - Tinh hoa văn hóa ngày tết Việt
Không nâng tầm thành nghi lễ như Trà đạo hay Kiếm đạo, cũng không thành nghi thức hay thú chơi chỉ dành cho nơi vương giả quý tộc như Hoa đạo hay Hương đạo của Nhật Bản, tự bao giờ, tục đốt trầm hương đã trở thành một nét văn hóa không thể thiếu trong những dịp tết cổ truyền của hầu hết người Việt. Trên bàn thờ gia tiên- đền miếu hay ban thờ Phật, bên cạnh những vật phẩm như hoa trái, bánh kẹo, trà rượu v.v…thì không thể thiếu một nén hương trầm, một lư trầm nghi ngút hương thơm như tỏ lòng thành kính đến tiên tổ thần linh trong thời khắc giao thừa, ngày tết.
Cùng với đất trời vào xuân, sắc xuân, khí xuân, hương hoa cỏ xuân thoang thoảng thì trong các ngõ làng, phố phường tấp nập góp nhặt nên không khí tết nếu thiếu mùi trầm hương coi như vẫn là còn thiếu hương vị Tết cổ truyền. Từ xưa đã có câu:
Xuân về thắm đủ muôn hoa
Mùi trầm hương thiếu như là chưa xuân
Ngay từ chiều 30 tết đầu làng cuối phố người ta đã thấy xôn xao…mùi tết. Đó là lúc trầm được đốt lên trong nhiều đình làng, đền thờ, chùa phủ và các gia đình làm lễ tất niên- mâm cơm chiều 30 tết mời tổ tiên về hưởng tết cùng con cháu. Đây là tập quán mà bất cứ gia đình người Việt nào cũng có. Trầm hương trước kia chỉ được dùng cho giới thượng lưu, tầng lớp trên và nhà giàu trong dịp lễ lạt của các bậc nho gia cũng đủ thấy Trầm quý biết biết nhường nào. Trầm có hương thơm đặc trưng, thiêng liêng thanh tao mà không một hương thơm nào sánh được. Nó không phải là thứ để dùng đại trà. Người Hồi Giáo dùng trầm trong cử hành lễ. Người phương Đông xưa dùng trầm cho vào nước tắm của các bậc vua chúa hay nhà khá giả vương gia cho trầm vào rương quần áo mong cho ám được mùi hương thơm của nó (áo xông hương). Ngày nay, đốt trầm và chơi trầm đã đi vào đời sống văn hóa tinh thần của nhiều tầng lớp người Việt và trở thành một phong tục không thể thiếu nhất là trong dịp tết đến xuân về.
Dâng nén hương trầm đầu năm, lòng ôn lại truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ và cầu mong an lành trong ngày đầu xuân mới, ước vọng một niềm an lạc cho gia đình, cho xã hội, cho cộng đồng, cho quốc thái dân an… 
Trầm hương được biết đến có đến 2000 năm trước, có nhiều công dụng, là dược liệu quý chữa bệnh, làm tăng sắc đẹp, tinh dầu làm chất định hương, có tính chất huyền bí linh thiêng đối với nghi lễ tôn giáo. Một số tôn giáo đốt trầm hương trong các nghi lễ, được xem là vật giao lưu truyền cảm giữa con người  của thế giới thực tại và với thế giới thần linh, là vật phẩm giao hảo giữa các quốc gia. Trầm hương khi đốt tỏa mùi thơm và được coi là hương thơm hữu ích bậc nhất. Nhiều nước phương Đông có tập quán đốt trầm hoặc nhang được sản xuất từ trầm trong dịp lễ cúng tổ tiên, đất trời thần thánh, đốt trầm hương để chữa bệnh, trừ tà, tạo ra sự may mắn hưng phấn.
Trầm phân bố ở khu vực Đông nam á, nhưng mùi trầm thơm tao nhã  chỉ có ở Trầm Việt Nam. Là loại cây quý tựa quốc bảo đã được chọn để trang trí trên đỉnh đồng ở cung đình Huế. Trầm hương có mặt trải dải miền trung suốt từ Thanh Hóa trở vào đến Tây Nguyên, nổi bật lên chất lượng hương thơm thì trầm Khánh Hòa là nơi mật độ Trầm dày đặc và hương thơm nhất. Trầm là phần gỗ của cây Dó có nhiều tinh dầu được phân bố trên thân cành rễ của cây. Trầm hương có mùi thơm đặc biệt dù là đốt hay chưa đốt. Hàm lượng dầu có từ 25% - 80%, khi thả vào nước có thể “chìm”… Căn cứ vào mức độ tinh dầu, màu sắc, hương vị, hình dáng, trọng lượng, xuất xứ mà Trầm có tên gọi khác nhau: Trầm mắt tử, trầm da báo, trầm điệp  lá…vv… Nghề khai thác Trầm rất nguy hiểm và gian khổ, có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Câu “ ngậm ngải tìm Trầm” là nói về việc tìm kiếm Trầm hương quả là đối diện với sự sống còn của tính mạng vì cây Trầm vốn ở rừng sâu, trên độ cao hay thung thẳm, nói như truyền thuyết là người có duyên thì mới gặp; còn có câu : Ăn lộc rừng rưng rưng nước mắt”… Theo phẩm cấp, trầm hương được xếp thành 3 hạng: Kỳ nam - Trầm và Tốc.
Từ ngàn xưa trong lĩnh vực tâm linh của người Việt, Trầm hương là  thứ vật mà trời đất ban tặng cho người. Dâng lễ vật ngày Xuân để hướng tới tổ tiên thì Trầm hương và nén hương trầm luôn được đặt lên hàng đầu. Mùi trầm phảng phất linh thiêng trên những đỉnh đồng của nhiều gia đình từ thành thị đến nông thôn. Đó là minh chứng cho một nền văn hóa được phục hồi sau vết thương chiến tranh, minh chứng cho sự no đủ an nhàn trong cuộc sống của người dân Việt Nam trong thời hiện đại. Mùi hương thanh nhã này ngày càng được ưa chuộng, thơm không gian, thơm của nhà, thơm quần áo. Thưởng thức hương trầm và làm thơ về các loại trầm vừa đốt lên là thú chơi của người Nhật Bản. Trong ca dao xưa hay các tác phẩm văn học Việt Nam, trầm được dùng như một vật thơm, một thiêng và chỉ xuất hiện trong không gian thiêng:
- Áo xông hương thiếp ngồi, thiếp đắp
Hay:    
- Chồng người áo gấm xông hương…
- Chàng về để áo lại đây
Để đêm thiếp đắp, để ngày xông hương
Cụ Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, đoạn Thúy Kiều khi trao duyên đã có câu:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Sự ra đời của các khí cụ để dùng cho nghi thức dâng hương ra đời và  phát triển thành một trong những khí cụ có nhiều hình dáng vừa quý báu  và linh thiêng được thiết kế tỉ mỉ đẹp mắt. Lư Hương phục vụ cho việc thờ cùng được tạo rất nhiều hình dáng khác nhau, đại thể có mấy loại hình dáng như: hình Bảo đảnh, Phương đẩu, Sư tử, Chim hạc, Liên hoa.v.v… Hoa văn trang trí thường là các loại hoa văn cổ hoặc là rồng phượng, quỷ thần, và chữ Hán.v.v…Lư trầm trở thành một trong nhiều pháp khí của Phật Giáo.
Lư đốt trầm có 2 loại là: Lư dùng trong việc thờ cúng và Lư Trầm để ở bàn Trà. Kích thước từ rất to như Cửu đỉnh ở Huế, Lư trầm  đền các vua Trần ở Nam Định, Vạc trầm đồng ở các đền chùa khác cho đến kích thước nhỏ của lư trầm bàn trà chỉ to bằng trái hồng, trái cam... Dù là để thờ cúng hay chỉ để trên bàn để đốt trong những lúc đông giá, trà lá thư nhàn thì Lư trầm nào cũng  đều có nghệ thuật trang trí chạm khắc trên đồng đến đỉnh cao, đó chính là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Hình lư có thể là tròn, vuông, trái đào hay dáng thạp, sanh thì trên thân đều có các hình trang trí như mặt Hổ phù, Bát tiên, Mười hai con giáp, phong cảnh sơn thủy, các tích truyện cổ. Nắp đỉnh đồng, Lư đồng có các hình con Nghê, kỳ lân hay tượng phật.
Khí xuân se lạnh, trong một gian trà thất vừa đủ, chủ nhà châm lư trầm ta cảm nhận được như đã thu được dịu hoàn toàn thanh tịnh mới thấy rung cảm trước mùi hương mà ta đã ngửi thấy. Bởi vậy không chỉ thưởng thức bằng khứu giác mà ta đã thưởng thức hương trầm cả bằng TÂM nữa.
Khói hương trầm khi đốt lên thoát ra từ miệng con nghê, lan tỏa và  phảng phất mùi thơm tao nhã. Vẻ u tịch nơi đền miếu, chùa phủ, gian thờ tổ tiên hay là không gian một Trà thất cũng đều tạo cho ta một cảm giác trang trọng, sang quý, nhã nhặn hay huyền bí. Giờ đây, người chơi Trầm đã nhiều gấp hàng trăm lần xưa. Trầm đã được sử dụng trên toàn quốc dưới dạng nén Hương Trầm, được nhiều khách nước ngoài và Việt kiều ưa chuộng.
Thú chơi Trầm đã phản ánh chiều sâu văn hóa của người thưởng thức. Trong những dịp cuối năm như thế này, trên các nẻo đường tấp nập bán mua sắm sanh ngày tết, dòng người bán buôn, bán lẻ đang hướng về phố Hàng Hương, mua bằng được cho nhà mình thứ hương thơm linh thiêng mà sang quý để dùng cho những ngày đầu xuân và nhất là thời khắc giao thừa.
Hòa với đất trời đang nô nức vào xuân, hương trầm đang lan tỏa, đang xông cái thơm tho nồng ấm lên vạn vật cỏ cây và tâm hồn con người.
Phương Mai
Theo http://sentichmich89.blogspot.com/




1 nhận xét:

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội ngũ n...