Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

Hoạt động nhận thức

Hoạt động nhận thức 
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận thức, tình cảm, hành động) nó quan hệ chặt chẽ với các mặt kia, nhưng không ngang bằng về nguyên tắc. Nó có quan hệ mật thiết với các hiện tượng tâm lý khác của con người. Nhận thức là một quá trình, ở con người quá trình này thường gắn với mục đích nhất định nên nhận thức của con người là một hoạt động. đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan. Hoạt động này bao gồm nhiều quá trình khác nhau, thể hiện những mức độ phản ánh hiện thực khác nhau (Cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng) và mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan (hình tượng, biểu tượng, khái niệm). Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành hai giai đoạn lớn: Nhận thức cảm tính (cảm giác và tri giác). Nhận thức lý tính (tư duy và tưởng tượng). Hai giai đoạn nhận thức nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động lẫn nhau. V.I.Lênin đã tổng kết mối quan hệ này thành qui luật của hoạt động nhận thức nói chung như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.”
I. NHẬN THỨC CẢM TÍNH
CẢM GIÁC
1.1. định nghĩa
Mọi sự vật, hiện tượng xung quanh ta đều bộc lộ hàng loạt những thuộc tính bề ngoài như: hình dạng, kích thước, màu sắc, trọng lượng, tính chất…những thuộc tính đó được liên hệ với bộ não của con người nhờ cảm giác. 
Vậy cảm giác là gì?
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật và hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
– Cảm giác là quá trình tâm lý đơn giản nhất, nghĩa là có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách rõ ràng. Nhưng nó có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động nhận thức của con người. Kích thích gây ra cảm giác chính là các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan và các trạng thái sinh lý của bản thân ta.
– Cảm giác mới chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật, hiện tượng (như màu sắc, hình dạng, mùi vị, âm thanh…) thông qua hoạt động của từng giác quan riêng lẻ chứ chưa phản ánh được trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Nên cảm giác mới chỉ phản ánh đối tượng một cách mơ hồ, không chính xác.
– Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp. Hay nói cách khác cảm giác chỉ xảy ra khi sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. Nếu sự vật hiện tượng mất đi thì kết thúc quá trình cảm giác. Ví dụ: khi âm thanh tác động vào thính giác ta có cảm giác nghe.
– Cảm giác có cả ở con người và con vật, nhưng cảm giác ở người khác về chất so với cảm giác của động vật. Cảm giác của con người mang bản chất xã hội lịch sử và là sản phẩm của xã hội lịch sử. Cảm giác của con người có sự tham gia của tư duy và ý thức nên chất lượng phản ánh của nó hơn hẳn con vật.
Cảm giác của con người còn phụ thuộc vào trạng thái sức khỏe, tâm trạng, kinh nghiệm sống, ngôn ngữ, tâm thế, tri thức nghề nghiệp và các quá trình tâm lí khác…
1.2. Vai trò của cảm giác
– Cảm giác giúp con người định hướng hành vi, hoạt động trong cuộc sống và có thể thích ứng với sự thay đổi của môi trường.
– Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ não giúp cho con người có cuộc sống tinh thần bình thường. Các trình nghiên cứu cho thấy những người “đói cảm giác” thì các chức năng tâm lý và sinh lý sẽ bị rối loạn.
– Cảm giác là một trong những con đường để nhận thức hiện thực khách quan. đặc biệt quan trọng đối với những người bị khuyết tật.
– Cảm giác là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho các quá trình tâm lý cao hơn. Lênin: “Cảm giác là viên gạch đầu tiên để xây dựng nên tòa lâu đài nhận thức”.
1.3. Phân loại cảm giác
1.3.1. Cảm giác bên ngoài
* Cảm giác nhìn (thị giác) cho ta biết những thuộc tính về màu sắc, hình dạng, kích thước… của đối tượng.
* Cảm giác ngửi (khứu giác) cho ta biết thuộc tính mùi của đối tượng.
* Cảm giác nghe (thính giác) cho ta biết thuộc tính âm thanh, ngôn ngữ…
* Cảm giác nếm (vị giác) cho ta biết thuộc tính về vị của đối tượng như vị: mặn, ngọt, chua và đắng.
* Cảm giác da (xúc giác) cho ta biết thuộc tính nhiệt độ, về trọng lượng…
1.3.2. Cảm giác bên trong
Phản ánh trạng thái của các cơ quan nội tạng và do những bộ máy thụ cảm ở bên trong cơ thể tiếp nhận kích thích. Cảm giác bên trong gồm có:
* Cảm giác vận động: phản ánh những biến đổi xảy ra trong các cơ quan vận động, nó cho ta biết độ co, độ căng, độ gập của các bắp thịt, gân, dây chằng, khớp xương của cơ thể. Cảm giác vận động kết hợp với cảm giác đụng chạm cho ta cảm giác sờ mó. Cảm giác sờ mó giúp ta điều chỉnh có hiệu quả các động tác lao động, nhất là những động tác đòi hỏi tính chính xác cao.
* Cảm giác thăng bằng: phản ánh vị trí và sự chuyển động của đầu ta so với phương của trọng lực. Cảm giác này rất quan trọng đối với hoạt động của con người. Khi cơ quan này bị kích thích quá mức thì sẽ gây ra hiện tượng chóng mặt, ói mửa…Người kém về cảm giác này không thích hợp nghề hàng không, hàng hải.
* Cảm giác cơ thể: phản ánh tình trạng hoạt động của các cơ quan nội tạng. Nó bao gồm cảm giác đói, no, nghẹt thở, buồn nôn và cảm giác đau ở các bộ phận bên trong cơ thể (tim, gan, ruột…). Cảm giác cơ thể báo hiệu tình trạng hoạt động hoặc sự rối loạn của các bộ phận bên trong cơ thể.
* Cảm giác rung: phản ánh sự rung động của các sự vật. Nó do các dao động của không khí tác động lên bề mặt thân thể tạo nên. Cảm giác này đặc biệt phát triển mạnh ở những người khuyết tật (nhất là người vừa điếc, vừa câm).
Các cảm giác bên ngoài và các cảm giác bên trong luôn tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên sự đa dạng phong phú về cảm giác của con người.
1.4. Các qui luật cơ bản của cảm giác
1.4.1. Qui luật ngưỡng cảm giác
– Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào các giác quan, nhưng không phải bất cứ kích thích nào tác động vào giác quan cũng đều gây ra cảm giác. Muốn gây ra cảm giác thì kích thích đó phải đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn đó được gọi là ngưỡng cảm giác. Có hai loại ngưỡng cảm giác: ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên.
+ Ngưỡng phía dưới là cường độ tối thiểu đủ để gây được cảm giác. Khả năng cảm nhận được kích thích này gọi là độ nhạy cảm của cảm giác
+ Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ tối đa của kích thích vẫn còn gây được cảm giác. Ví dụ: ngưỡng phía dưới của cảm giác nhìn có bước sóng là 390 milimicron và ngưỡng phía trên là 780 milimicron.
– Phạm vi giữa hai ngưỡng cảm giác có những vùng cảm giác được, trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất, giúp ta nhận biết đối tượng một cách rõ ràng chính xác.
– Ngưỡng sai biệt là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích đủ để phân biệt được sự khác biệt của hai kích thích đó.
Ngưỡng sai biệt có vai trò đặc biệt quan trong trong việc vận dụng để thay đổi giá cả, mẫu mã và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Ngưỡng sai biệt tỷ lệ nghịch với độ nhạy cảm sai biệt. Ngưỡng sai biệt càng lớn thì độ nhạy cảm của cảm giác nhỏ và ngược lại ngưỡng sai biệt nhỏ thì độ nhạy cảm của cảm giác càng cao. Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt của cảm giác có thể thay đổi tùy theo lứa tuổi, trạng thái sức khỏe, trạng thái tâm sinh lý, tính chất nghề nghiệp và do rèn luyện của mỗi người.
1.4.2. Qui luật thích ứng cảm giác
để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh khỏi bị hủy hoại, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích.
– Tính thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích. Có nghĩa là khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm của cảm giác giảm, khi cường độ kích thích giảm thì tăng độ nhạy cảm của cảm giác. Ví dụ: khi ta đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích của ánh sáng mạnh) mà vào chỗ tối (cường độ kích thích của ánh sáng yếu) thì lúc đầu không nhìn thấy gì cả, phải sau một thời gian ta mới dần dần thấy rõ (thích ứng). Trong trường hợp này đã xảy ra hiện tượng tăng độ nhạy cảm của cảm giác.
– Qui luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng ở các cảm giác khác nhau thì khác nhau. Có những loại cảm giác có khả năng thích ứng cao như thị giác (trong bóng tối tuyệt đối thì độ nhạy cảm với ánh sáng tăng tới gần 200.000 lần sau 40 phút), cảm giác đau thì khả năng thích ứng rất kém. Khả năng thích ứng của cảm giác có thể phát triển do hoạt động và rèn luyện (công nhân luyện kim, có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 50°C– 60°C trong hàng giờ đồng hồ)
Qui luật này thể hiện rõ ở sự thích ứng nghề nghiệp của người lao động. Nhờ có tính thích ứng mà cảm giác của con người có thể phản ánh những kích thích có cường độ biến đổi trong một phạm vi rất lớn. Nếu được rèn luyện đúng đắn thì tính thích ứng sẽ phát triển rất cao và trở nên bền vững.
1.4.3. Qui luật tác động qua lại giữa các cảm giác
– Tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của một cảm giác này dưới ảnh hưởng của một cảm giác kia. Có nghĩa là: Khi kích thích nhẹ vào cơ quan phân tích này sẽ tăng độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia. Kích thích mạnh vào cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy của cơ quan phân tích kia.
Ví dụ: trong phòng có mùi thơm dễ chịu sẽ làm cho mắt ta nhìn tinh hơn. Hay khi ta nấu chè mà nếm lúc còn nóng sẽ cảm thấy không ngọt bằng lúc chè nguội.
– Sự tác động qua lại giữa các cảm giác còn được thể hiện ở chỗ là từ một cảm giác này có thể tạo ra một cảm giác khác. Chẳng hạn ta lấy hai thanh tre, nứa cọ vào nhau, lúc đầu ta có cảm giác về âm thanh nhưng nghe một hồi thì ta cảm thấy gai người (cảm giác cơ thể).
– Sự tác động qua lại giữa các cảm giác diễn ra đồng thời hay nối tiếp trên cơ sở những cảm giác đồng loại hay khác loại sẽ tạo ra sự tương phản giữa các cảm giác. Hiện tượng dùng phấn trắng viết trên bảng đen…
Cảm giác tuy là quá trình phản ánh thấp nhất nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Do vậy mà con người cần rèn luyện cho cảm giác thêm tinh, thêm thính, phải giữ gìn các cơ quan phân tích làm cơ sở để phát triển tính nhạy cảm của cảm giác.
TRI GIÁC
2.1. Định nghĩa
Tri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta. Cùng bậc thang nhận thức cảm tính nên tri giác có những đặc điểm giống cảm giác: đều là một quá trình tâm lý, tức là có nảy sinh, diễn biến, kết thúc một cách rõ ràng. đều phản ánh những thuộc tính bề ngoài của đối tượng và phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp. Tuy cùng bậc thang nhận thức cảm tính nhưng tri giác phản ánh ở mức cao hơn so với cảm giác. Bởi vì, tri giác đã phản ánh một cách trọn vẹn thuộc tính của sự vật hiện tượng mà ở quá trình cảm giác mới chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng. Tri giác phản ánh sự vật một cách trọn vẹn là do bản thân sự vật, hiện tượng mang tính trọn vẹn; do sự kết hợp của các cảm giác thành phần, đặc biệt là vai trò của kinh nghiệm sống và sự tham gia của ngôn ngữ trong quá trình tri giác đối tượng. Tri giác được thực hiện trên cơ sở phối hợp của nhiều cơ quan phân tích. Nhờ đó mà con người có thể tri giác đối tượng một cách đầy đủ chính xác hơn.
2.2. Phân loại tri giác
Căn cứ vào sự phản ánh những hình thức tồn tại khác của các svht ta có:
2.2.1. Tri giác không gian: là sự phản ánh không gian tồn tại của các svht một cách khách quan. Loại tri giác này giữ vị trí quan trọng trong sự tác động qua lại của con người với môi trường, là điều kiện cần thiết để con người định hướng trong môi trường. Ví dụ: Căn cứ vào mùi có thể xác định vị trí của cửa hàng ăn.
Tri giác không gian cho ta biết độ lớn, nhỏ của sự vật, chiều sâu, độ xa và phương hướng của svht. Khi tri giác cơ quan phân tích thị giác giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng không phải bao giờ ta cũng tri giác đúng các svht, mà đôi khi ta cũng có sự tri giác sai lệch, hiện tượng đó gọi là ảo giác không gian.
2.2.2. Tri giác thời gian: là sự phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách quan của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực.
Những khoảng cách thời gian được xác định bởi các quá trình diễn ra trong cơ thể theo những nhịp điệu nhất định (nhịp tim, nhịp thở, thức ngủ…) cảm giác nghe và vận động hỗ trợ cho sự đánh giá các khoảng thời gian chính xác nhất. Nội dung của hoạt động, trạng thái tâm lý và lứa tuổi có ảnh hưởng lớn đến việc tri giác thời gian. Chẳng hạn: khi ta chờ đợi những sự kiện tốt đẹp đến thì ta thấy thời gian dài, khi hứng thú đối với công việc thì thời gian trôi nhanh, khi còn nhỏ thấy thời gian trôi đi quá chậm…
2.2.3. Tri giác vận động: phản ánh những biến đổi về vị trí của các sự vật trong không gian. Loại tri giác này phụ thuộc vào khoảng cách chuyển động của vật và sự di chuyển của người đang tri giác. Chẳng hạn những vật chuyển động quá nhanh hay quá chậm ta cũng khó có thể tri giác được.
2.2.4. Tri giác con người: là quá trình nhận thức lẫn nhau của con người trong những điều kiện giao tiếp trực tiếp. đây là loại tri giác đặc biệt vì đối tượng là con người. Loại tri giác này do giá trị xã hội qui định, nó có chức năng điều chỉnh quá trình hoạt động và giao tiếp của con người, đặc biệt là trong quá trình dạy học và giáo dục.
Các loại tri giác trên giúp ta phản ánh những hình thức tồn tại của sự vật hiện tượng.
Nó không phải do bẩm sinh mà có, mà nó được hình thành trong hoạt động thực tiễn của cá nhân.
3.3. Các qui luật cơ bản của tri giác.
3.3.1. Tính đối tượng của tri giác.
Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới bên ngoài, đó chính là đối tượng của tri giác. Tính đối tượng của tri giác nói lên sự phản ánh hiện thực khách quan chân thực của tri giác vì nó hình thành do tác động của sự vật hiện tượng xung quanh vào giác quan của con người trong hoạt động do những nhiệm vụ của thực tiễn. Tính đối tượng của tri giác là cơ sở của sự định hướng cho hành vi và hoạt động của con người.
3.3.2. Tính lựa chọn của tri giác (qui luật hình – nền)
Các sự vật, hiện tượng trong thế thế giới khách quan vô cùng đa dạng và phức tạp.
Trong cùng một lúc chúng có thể đồng thời tác động vào các giác quan của ta. Trong trường hợp đó, con người không thể phản ánh tất cả các svht đó được, mà con người chỉ có khả năng phản ánh một vài đối tượng nào đó trong vô số các svht xung quanh. đó là tính lựa chọn của tri giác, hay nói cách khác tri giác là một quá trình hoạt động tích cực, trong đó con người thực hiện sự lụa chọn.
Tính lựa chọn của tri giác thực chất là quá trình chủ thể hoạt động tích cực để tách được đối tượng ra khỏi bối cảnh để tri giác đối tượng một cách rõ ràng. Sự lựa chọn của tri giác không mang tính chất cố định, mà vai trò của đối tượng và bối cảnh có sự giao hoán cho nhau có nghĩa là một vật lúc này là đối tượng nhưng khi khác lại là bối cảnh và ngược lại. Vì vậy, những thuộc tính của đối tượng càng khác biệt với thuộc tính của bối cảnh thì ta tri giác dễ dàng, đầy đủ hơn. Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào hứng thú, tâm thế, nhu cầu của bản thân chủ thể tri giác. Trong đó, ngôn ngữ cũng đóng vai trò rất quan trọng, nó có tác dụng định hướng cho sự lựa chọn đối tượng để tri giác. Qui luật này được ứng dụng rất nhiều trong thực tiễn.
3.3.3. Tính có ý nghĩa của tri giác
Tri giác được nảy sinh do sự tác động trực tiếp của các sự vật vào cơ quan cảm nhận, nhưng hình ảnh tri giác luôn có một ý nghĩa xác định. Khi tri giác sự vật hiện tượng một cách có ý thức thì ta có thể gọi được tên sự vật đó trong đầu và có thể xếp sự vật đang tri giác vào một nhóm sự vật hiện tượng xác định, ta cũng có thể khái quát nó trong một từ xác định…Con người có được khả năng đó là nhờ tri giác luôn gắn liền với quá trình tư duy, với sự hiểu biết về bản chất của sự vật.
Nếu ta tri giác được càng nhiều thuộc tính, nhiều bộ phận của đối tượng thì quá trình
tri giác càng có ý nghĩa hơn. Ở đây kinh nghiệm sống có vai trò rất quan trọng đối với tính ý nghĩa của tri giác, đặc biệt là vai trò của ngôn ngữ. Trong quá trình dạy học khi giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan cần phải chú ý đến qui luật này giúp học sinh tri giác một cách đầy đủ, sâu sắc hơn.
3.3.4. Tính trọn vẹn của tri giác
Tính trọn vẹn của tri giác là quá trình tri giác phản ánh tương đối đầy đủ các thuộc tính biểu hiện ra bên ngoài của đối tượng một cách trọn vẹn, nó đem lại cho ta một hình ảnh hoàn chỉnh về sự vật hiện tượng. Nhưng đây không phải là sự cộng lại của các cảm giác thành phần, mà là sự kết hợp giữa các cảm giác thành phần đã được trừu xuất và khái quát hoá từ những cảm giác đó. Tính trọn vẹn của tri giác còn do tính trọn vẹn khách quan của svht qui định. Ngoài ra, kinh nghiệm sống và ngôn ngữ cũng có vai trò rất quan trọng giúp ta tri giác đối tượng một cách trọn vẹn. 

VD: Khi nghe một bản nhạc là ta tri giác toàn bộ bản nhạc đó chứ không chỉ nghe từng nốt nhạc.
3.3.5. Tính tổng giác
Hình ảnh tri giác không chỉ phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của vật kích thích, mà còn phụ thuộc vào bản thân chủ thể tri giác. Sự phụ thuộc của hình ảnh tri giác vào nội dung đời sống tâm lý con người được gọi là hiện tượng tổng giác. Trong quá trình dạy học và giáo dục ta cần tính đến kinh nghiệm, những hiểu biết, nhu cầu, hứng thú, tâm thế…của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả tri giác và năng lực quan sát ở học sinh, tránh hiện tượng “yêu nên tốt, ghét nên xấu” dễ dẫn đến sai lầm. Mặt khác, trong giao tiếp hàng ngày chúng ta cần phải gây ấn tượng tốt với đối tượng ngay trong những buổi đầu gặp gỡ để duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên.
3.3.6. Tính ổn định của tri giác
Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh các sự vật,hiện tượng một cách không thay đổi khi điều kiện tri giác đã thay đổi.
Tính ổn định của tri giác thể hiện rõ trong các trường hợp tri giác về độ lớn, hình dạng, màu sắc của đối tượng. Nó được hình thành trong hoạt động của con người với đồ vật, nó không phải do cơ chế bẩm sinh mà do kinh nghiệm sống của con người tạo nên. Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào kinh nghiệm sống; phụ thuộc vào cấu trúc tương đối ổn định của svht trong một thời gian, thời điểm nhất định và phụ thuộc vào khả năng tự điều chỉnh mối quan hệ ngược của não.
3.3.7. Tính ảo giác (ảo ảnh của tri giác)
Trong một số trường hợp với những điều kiện thực tế xác định, nhưng tri giác có thể không cho ta hình ảnh đúng về sự vật hiện tượng. Hiện tượng này gọi là ảo giác. Ảo giác là tri giác không đúng, phản ánh sai lệch các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Ảo giác là một hiện tượng có tính qui luật xảy ra ở tất cả mọi người bình thường và có ở tất cả các loại tri giác. Mỗi loại ảo giác đều có nguyên nhân riêng của nó. Có loại ảo giác do nguyên nhân vật lý, do nguyên nhân sinh lý và nguyên nhân tâm lý. Người ta đã lợi dụng hiện tượng ảo giác trong mọi lĩnh vực hoạt động như trong hội hoạ, kiến trúc, trang trí nội thất, quảng cáo, kinh doanh, thời trang…
Tóm lại: Các qui luật của tri giác có quan hệ bổ sung cho nhau làm cho tri giác của con người ngày thêm đa dạng phong phú và mang tính chất chủ thể cao. Vì vậy, khi đánh giá khả năng tri giác của mỗi cá nhân và rèn luyện năng lực tri giác của bản thân, ta cần phải chú ý đến các qui luật nói trên.
II. TRÍ NHỚ
Khái niệm về trí nhớ
Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã trải qua của con người dưới hình thức những biểu tượng.
Trí nhớ là sự ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện lại những gì con người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động. Nhận thức cảm tính chỉ phản ánh được sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan của ta. Trí nhớ phản ánh các svht đã tác động vào chúng ta trước đây mà không cần có sự tác động của bản thân chúng trong hiện tại. Hay nói cách khác trí nhớ phản ánh những kinh nghiệm mà con người đã trải qua. Kết quả của trí nhớ là tạo ra trong đầu ta những biểu tượng.
Biểu tượng là những hình ảnh của sự vật hiện tượng được nảy sinh trong đầu óc con người khi những svht đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. Ví dụ: khi ta để cuốn sách ở trước mặt ta thì ta có hình ảnh cuốn sách ở trong đầu. Nhưng ta cất cuốn sách đó đi rồi thì hình ảnh cuốn sách vẫn hiện ra rõ nét trong óc ta. Hình ảnh đó chính là biểu tượng của trí nhớ.
Biểu tượng là sản phẩm của trí nhớ, nó được hình thành trên cơ sở của sự tri giác. Vì vậy, nó vừa mang tính trực quan cụ thể, vừa mang tính khái quát, nên trí nhớ được xếp vào giai đoạn chuyển tiếp trung gian giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Trí nhớ không chỉ là thành phần của hoạt động nhận thức thuần túy, mà nó còn là thành phần cơ bản tạo nên nhân cách con người. Do đó, trí nhớ có vai trò rất quan trọng trong đời sống hoạt động của con người.
Các quá trình cơ bản của trí nhớ
2.1. Quá trình ghi nhớ (tạo vết)
Ghi nhớ là quá trình lưu trữ lại trong não con người những hình ảnh của sự vật, hiện tượng trong quá trình tri giác.
Sự ghi nhớ là quá trình ghi nhận thông tin trong não con người hay còn gọi là quá trình tạo vết. Là quá trình thành lập đường liên hệ thần kinh tạm thời vững chắc trên vỏ não để sau này có thể khôi phục lại được do tác động của những kích thích khác nhau. Có hai cách ghi nhớ: ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định.
– Ghi nhớ không chủ định: là loại ghi nhớ không đề ra mục đích từ trước, không cần dùng một cách thức nào để ghi nhớ và không đòi hỏi sự nỗ lực của ý chí. Độ bền vững của loại ghi nhớ này phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng, vào sự thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, vào mục đích hoạt động…Ghi nhớ không chủ định giúp ta có thể nhớ được một số lớn những hiện tượng trong cuộc sống, làm cho vốn kinh nghiệm sống của con người ngày càng thêm phong phú. Khi ghi nhớ không chủ định phù hợp với mục đích của cá nhân thì nó sẽ trở thành ghi nhớ có chủ định.
– Ghi nhớ có chủ định: là loại ghi nhớ với mục đích đã được định trước. Trong quá trình ghi nhớ đòi hỏi phải có các biện pháp, phương tiện và có sự nỗ lực của ý chí.
Ghi nhớ có chủ định là hình thức ghi nhớ chủ yếu của trí nhớ. Kết quả của loại ghi nhớ này phần lớn phụ thuộc vào mục đích, động cơ, tâm thế của sự ghi nhớ. Ghi nhớ có chủ định được tiến hành bằng hai cách:
+ Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa vào những mối liên hệ bề ngoài của sự vật hiện tượng mà không cần hiểu nội dung cũng như ý nghĩa của sự vật hiện tượng.
Ghi nhớ máy móc là lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn giản đối tượng cần ghi nhớ. Nó là cơ sở của sự học thuộc lòng.
+ Ghi nhớ có ý nghĩa: là loại ghi nhớ dựa vào sự hiểu biết nội dung, bản chất và mối quan hệ lôgic có tính qui luật của các sự vật hiện tượng.
Ghi nhớ có ý nghĩa gắn liền với hoạt động tư duy giúp con người hiểu được bản chất và mối quan hệ có tính qui luật của các sự vật hiện tượng, nó được dựa trên sự hiểu biết của con người nên nó rất bền vững khó quên. Nếu có lỡ quên thì ta vẫn có thể suy luận ra để
nhớ lại vấn đề.
2.2. Quá trình gìn giữ (củng cố vết): là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã được hình thành trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Quá trình gìn giữ có thể được diễn ra đồng thời hay diễn ra ngay sau quá trình ghi nhớ. Gìn giữ thường diễn ra theo hai cách là gìn giữ tích cực và gìn giữ tiêu cực.
2.3. Quá trình nhận lại: là quá trình nhớ được đối tượng đã tri giác trước đây mà hiện tại đối tượng đó lại xuất hiện trước mặt ta một lần nữa. Nhận lại là một quá trình đơn giản diễn ra trước quá trình nhớ lại, nên nó không phải là tiêu chuẩn để đánh giá trí nhớ của con người. Tính chính xác của sự nhận lại phụ thuộc vào mức độ bền vững của sự ghi nhớ, phụ thuộc vào sự giống và khác nhau của hình ảnh cũ và hình ảnh mới. Vì thế, có khi ta nhận lại bị sai do đối tượng gặp lại khác nhiều so với hình ảnh trước đây.
2.4. Quá trình nhớ lại: là quá trình làm xuất hiện lại trong não những hình ảnh của svht trước đây đã được tri giác mà hiện tại svht đó không còn trước mặt ta nữa.
Nhớ lại có thể diễn ra một cách không chủ định hoặc có chủ định. Nó mang tính chủ thể rõ nét vì nó phụ thuộc vào kinh nghiệm sống và tính chất hoạt động. Nhớ lại là khâu cuối cùng của trí nhớ, nó là tiêu chuẩn để đánh giá trí nhớ của con người.
Các quá trình của trí nhớ có vai trò vị trí khác nhau nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau. Trong đó, quá trình ghi nhớ và quá trình gìn giữ là tiền đề, điều kiện của sự nhận lại và nhớ lại. Mặt khác, nhận lại và nhớ lại sẽ giúp con người có thể ghi nhớ và gìn giữ thông tin một cách tốt hơn.
Quá trình quên
* Quên là không thể nhận lại hoặc nhớ lại đối tượng đã ghi nhớ trước đây vào thời điểm cần thiết.
Quên là quá trình mất dần thông tin trong trí nhớ. Khi ta quên thì những đường liên hệ thần kinh tạm thời, những dấu vết đã được hình thành trước đây đã bị ức chế và không thể khôi phục lại được trong một thời gian lâu dài hay tạm thời.
* Các mức độ quên:
+ Quên hoàn toàn: không thể nhận lại và nhớ lại được.
+ Quên cục bộ: không thể nhớ lại được nhưng có thể nhận lại được.
+ Quên tạm thời: trong một thời gian nào đó ta không thể nhớ lại được, nhưng trong một lúc nào đó đột nhiên nhớ lại được. đó là hiện tượng sực nhớ.
* Qui luật quên
- Con người thường quên những gì không phù hợp với nhu cầu, hứng thú và ít liên quan đến cuộc sống.
– Ta thường hay quên những gì ít tham gia vào hoạt động, ít được sử dụng trong việc đạt tới mục đích.
– Chúng ta cũng hay quên khi gặp những kích thích mới lạ, những kích thích có cường độ mạnh.
– Ta thường hay quên những yếu tố chi tiết những yếu tố phụ trước và quên những yếu tố chính, yếu tố quan trọng sau.
– Sự quên diễn ra với tốc độ không đồng đều như: tốc độ quên diễn ra rất nhanh ngay sau khi vừa ghi nhớ, nhưng sau đó tốc độ quên giảm dần.
* Biện pháp chống quên
– Phải gắn tài liệu cần ghi nhớ vào tài liệu học tập của học sinh, làm cho nội dung đó trở thành mục đích của hành động, hình thành nhu cầu, hứng thú của học sinh đối với tài liệu học tập.
– Phải tổ chức hoạt động dạy học một cách khoa học như phân bố thời gian học tập và giải lao hợp lý, không nên dạy hai môn có nội dung tương tự kế tiếp nhau (để tránh các qui luật ức chế).
– Tổ chức cho học sinh tái hiện tài liệu học tập, làm bài tập ứng dụng ngay sau khi học lý thuyết ở trường, về nhà phải ôn lại bài ngay sau khi học tài liệu mới. Nên sử dụng phối hợp các loại ghi nhớ, có kế hoạch ôn tập thường xuyên có khoa học.
III.NHẬN THỨC LÝ TÍNH
1.TƯ DUY
1.1. Định nghĩa
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính qui luật bên trong của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Tư duy là hình thức cao nhất của sự phản ánh, là mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác, tri giác. Nếu cảm giác, tri giác chỉ phản ánh thuộc tính bề ngoài, những mối quan hệ, liên hệ về không gian và thời gian, thì tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất bên trong, những mối liên hệ, quan hệ có tính chất qui luật của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: đứng trước một con người, nhận thức cảm tính cho ta biết nét mặt, hình dáng, cử chỉ…Còn tư duy cho ta biết được quan điểm, lập trường, tính cách, tài năng…những cái bản chất bên trong của nhân cách. Tuy rằng tư duy phản ánh thuộc tính bản chất bên trong của svht nhưng không phải bao giờ tư duy cũng đi đến cái đúng, mà tư duy cũng có thể đi đến cái sai. điều đó nhắc nhở con người cần phải cẩn thận trong khi nhìn nhận đánh giá sự việc. Cần biết kết hợp cái hiện tượng bên ngoài với cái bản chất bên trong. Tư duy phản ánh khái quát các thuộc tính bản chất của svht để rút ra qui luật chung của những svht đó. Tư duy phản ánh cái chưa biết tức là phản ánh cái mới, nhờ nó mà ta mới có khả năng giải quyết những vấn đề do thực tiễn đề ra. Tư duy con người mang bản chất xã hội lịch sử, nó gắn liền với ngôn ngữ. Tư duy được hình thành và phát triển trong quá trình lao động và quá trình giao tiếp giữa con người với con người trong các mối quan hệ xã hội. Hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển nhưng con người vẫn là chủ thể duy nhất của quá trình tư duy đích thực.
1.2. Đặc điểm của tư duy
1.2.1. Tính có vấn đề của tư duy
Trong thực tế tư duy chỉ nảy sinh khi gặp hoàn cảnh có vấn đề. Nhưng không phải bất cứ tác động nào của hoàn cảnh đều xuất hiện quá trình tư duy. Hoàn cảnh có vấn đề là những tình huống mà bằng vốn hiểu biết cũ, phương pháp hành động đã có ta không thể giải quyết được nó. để nhận thức và giải quyết hoàn cảnh có vấn đề mới thì con người cần phải có những tri thức và phương thức hành động mới nhằm đạt được mục đích mới. Hoàn cảnh có vấn đề thường là những câu hỏi, bài tập hay những nhiệm vụ được đặt ra trong hoạt động nhận thức thực tiễn. 
Ví dụ: Quá trình quang hợp của cây xanh được diễn ra như thế nào?
Trong hoàn cảnh có vấn đề luôn có sự mâu thuẫn giữa mục đích đề ra và phương pháp để đạt được mục đích đó. Khi hoàn cảnh có vấn đề xuất hiện sẽ kích thích con người tư duy, nhưng không phải bất cứ hoàn cảnh có vấn đề nào cũng có hoạt động tư duy (Nếu nó quá dễ hoặc quá khó thì cũng không có tư duy).Vì vậy, tư duy chỉ nảy sinh trong hoàn cảnh có vấn đề mà đã được con người nhận thức một cách đầy đủ và có nhu cầu chuyển thành nhiệm vụ của tư duy để giải quyết vấn đề đó. Khi gặp hoàn cảnh có vấn đề mới thì cá nhân cần phải xác định được cái gì đã biết, cái gì cần tìm và mối liên hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm như thế nào để có nhu cầu muốn biết, muốn tìm cái mới.
1.2.2. Tính gián tiếp của tư duy
Nhận thức cảm tính mới chỉ phản ánh bản thân sự vật một cách trực tiếp. Tư duy có khả năng phản ánh svht một cách gián tiếp thông qua các dấu hiệu, kinh nghiệm, ngôn ngữ, những công cụ lao động…Ví dụ: Nhà khảo cổ học chỉ cần dựa vào một vài di tích hoá thạch nhưng có thể biết được nguồn gốc, thời gian tồn tại và nền văn hoá trong niên đại đó như thế nào. Nhờ khả năng phản ánh gián tiếp của tư duy đã giúp con người nhận thức thế giới một cách sâu sắc hơn và mở rộng khả năng hiểu biết của con người đến vô tận. Nhờ tính phản ánh gián tiếp của tư duy đã giúp con người phản ánh được cái quá khứ, cái hiện tại và cái trong tương lai, phản ánh được những cái mà cảm giác tri giác không thể phản ánh được. Dựa vào các qui luật và các mối liên hệ giữa các hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên mà con người có thể hiểu biết được và khám phá được những gì xảy ra trên mặt trăng, mặt trời, sao Kim, sao Hỏa…một cách gián tiếp.
1.2.3. Tính trừu tượng hóa và khái quát của tư duy
Trong một svht bao giờ cũng có những thuộc tính riêng đặc trưng cho đối tượng đó và có những thuộc tính chung khái quát của hàng loạt các đối tượng cùng loại. Nhận thức cảm tính mới chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ rời rạc của một sự vật cụ thể, chứ chưa có khả năng khái quát hàng loạt sự vật cùng loại. Tư duy không chỉ phản ánh svht một cách riêng lẻ cụ thể, mà có khả năng phản ánh svht một cách khái quát. Có nghĩa là tư duy có khả năng trừu xuất khỏi đối tượng những thuộc tính không bản chất mà chỉ giữ lại những dấu hiệu bản chất chung nhất đặc trưng cho nhiều svht cùng loại. Ví dụ: dấu hiệu bản chất của kim loại là có tính dẫn nhiệt và dẫn điện…
Nhờ tư duy phản ánh khái quát các svht mà ta biết được qui luật phát triển chung của xã hội, biết được những cái mà ta không thể biết được bằng nhận thức cảm tính. Nhờ tính khái quát của tư duy mà ta có thể phân loại được sự vật đó thuộc nhóm svht nào và nó có đặc tính gì…Tính khái quát không chỉ giúp ta giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn có thể dự kiến được những cái trong tương lai.
1.2.4. Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ
Trong nhận thức cảm tính dù có ngôn ngữ hay không có ngôn ngữ tham gia thì quá trình cảm giác, tri giác vẫn diễn ra. Nhưng nếu không có ngôn ngữ thì không có bất cứ một quá trình tư duy nào, bởi vì, ngôn ngữ là hình thức biểu đạt những sản phẩm của tư duy (ý nghĩ, khái niệm…). Ngôn ngữ là một mặt không thể tách rời của tư duy, không có ngôn ngữ thì không có tư duy. Ngược lại, nếu không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là một chuỗi âm thanh vô nghĩa, không có nội dung và nó cũng chẳng khác gì những tín hiệu âm thanh của loài động vật. Nhưng tư duy không phải là ngôn ngữ, mà tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
1.2.5. Tư duy liên hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
Tuy là mức độ nhận thức cao hơn hẳn về chất so với nhận thức cảm tính, nhưng tư duy không tách rời nhận thức cảm tính. Tư duy dù trừu tượng, khái quát đến mấy cũng phải dựa vào các tài liệu trực quan mà cảm giác và tri giác đưa lại. Hơn nữa, muốn tư duy trước hết phải tri giác được hoàn cảnh có vấn đề, tri giác được các sự kiện. Như vậy tri giác là một khâu, là thành phần của quá trình tư duy. Kết quả của tư duy đòi hỏi phải được kiểm tra bằng thực tiễn thông qua các quá trình nhận thức cảm tính. Mặt khác, tư duy cũng ảnh hưởng đến nhận thức cảm tính, nhờ có tư duy mà ta có thể tri giác đối tượng một cách nhanh chóng và chính xác hơn. Tư duy ảnh hưởng đến tính lựa chọn, tính ý nghĩa và tính ổn định của tri giác.
1.3. Các giai đoạn của một quá trình tư duy
1.3.1. Các giai đoạn của một quá trình tư duy
Tư duy là một hành động trí tuệ, là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Quá trình đó được thực hiện bởi các thao tác trí tuệ nhất định, nó được diễn ra theo các giai đoạn sau:
1.3.2. Xác định vấn đề
Xuất hiện hoàn cảnh có vấn đề là một điều kiện quan trọng của tư duy. Hoàn cảnh có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau (giữa cái đã biết và cái chưa biết, giữa cái đã có với cái chưa có) con người càng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nào đó càng dễ dàng nhìn ra và đầy đủ những mâu thuẫn đó. Chính vấn đề được xác định này quyết định toàn bộ những việc giải quyết sau đó. đây là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình tư duy.
1.3.3. Xuất hiện các liên tưởng – huy động các tri thức, kinh nghiệm
Xuất hiện trong đầu những tri thức, kinh nghiệm, những liên tưởng nhất định có liên quan đến vấn đề đã được xác định.
1.3.4. Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết
Các tri thức, kinh nghiệm và liên tưởng xuất hiện đầu tiên còn mang tính chất rộng rãi chưa thực sát với nhiệm vụ đề ra. Trên cơ sở sàng lọc này sẽ hình thành giả thuyết tức là cách giải quyết cho phù hợp với nhiệm vụ của tư duy. Chính sự đa dạng của các giả thuyết cho phép xem xét cùng một sự vật hiện tượng từ nhiều hướng khác nhau để tìm ra cách giải quyết đúng đắn nhất.
1.3.5. Kiểm tra giả thuyết
+ Nếu giả thuyết đúng thì khẳng định giả thuyết và đi đến giải quyết vấn đề.
+ Nếu giả thuyết sai thì bác bỏ, xây dựng giả thuyết mới, rồi kiểm tra lại.
1.3.6. Giải quyết vấn đề
Khi giả thuyết đã được kiểm tra và khẳng định thì nó sẽ được thực hiện, tức đi đến
câu trả lời cho vấn đề được đặt ra.
Sơ đồ các giai đoạn của quá trình tư duy
Nhận thức vấn đề
Xuất hiện các liên tưởng
Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết
Kiểm tra giả thuyết
Chính xác hóa                     Khẳng định                         Phủ định
Giải quyết vấn đề               Hđ tư duy mới
1.4. Các thao tác của quá trình tư duy
1.4.1. Phân tích-Tổng hợp
– Phân tích: Là hoạt động trí tuệ phân chia đối tượng thành những bộ phận, những thuộc tính, các quan hệ khác nhau theo một hướng nhất định.
– Tổng hợp: Là quá trình kết hợp những thuộc tính, quan hệ…mà ta đã tách ra do quá trình phân tích thành một chỉnh thể thống nhất.
Phân tích và tổng hợp có mối quan hệ mật thiết với nhau, phân tích được tiến hành trên cơ sở tổng hợp và tổng hợp được thực hiện trên kết quả của phân tích.
1.4.2. So sánh: là sự xác định sự giống nhau hay khác nhau, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các sự vật hiện tượng. Thao tác này cũng có quan hệ chặt chẽ với phân tích và tổng hợp. So sánh là cơ sở của mọi sự hiểu biết và tư duy. Nhờ có sự so sánh các sự vật, hiện tượng với nhau mà ta có thể lĩnh hội các tài liệu học tập với tất cả tính đa dạng độc đáo và phức tạp của chúng.
1.4.3. Trừu tượng hóa và khái quát hóa
Trừu tượng hóa: Là quá trình gạt bỏ khỏi đối tượng những bộ phận, thuộc tính, quan hệ không cần thiết chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
Khái quát hóa: Là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau trên cơ sở có một số thuộc tính giống nhau nào đó.
Nhưng ta cũng cần phân biệt những thuộc tính chung gồm có hai loại: những thuộc tính chung giống nhau và những thuộc tính chung là những thuộc tính bản chất. Vì vậy, nếu khái quát hóa chỉ dựa trên những dấu hiệu chung giống nhau thì dễ dẫn đến sai lầm. Ví dụ: Một số học sinh đã sai lầm khi xếp cá voi vào loài cá…
Trừu tượng hóa và khái quát hóa có quan hệ qua lại với nhau. Muốn khái quát hóa đối tượng thì ta phải trừu tượng hóa những dấu hiệu không bản chất. Khái quát hóa chính là sự tổng hợp ở mức độ cao.
1.4.4. Cụ thể hóa: là sự vận dụng những khái niệm, định luật, quy tắc đã được khái quát hóa vào hoạt động thực tiễn nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể.
Tóm lại: Trong quá trình tư duy các thao tác tư duy có quan hệ mật thiết với nhau, chúng thống nhất với nhau theo một hướng nhất định để giải quyết các nhiệm vụ của tư duy. Việc thực hiện các thao tác tư duy có thể không tuân theo một thứ tự nhất định và cũng không nhất thiết phải sử dụng tất cả các thao tác trong một quá trình tư duy.
1.5. Các sản phẩm của tư duy
1.5.1. Khái niệm: Là những tri thức đã được khái quát hóa ở một loạt các sự vật cùng có chung những dấu hiệu bản chất nhất định.
Khái niệm bao giờ cũng được biểu hiện bằng từ gọi là từ khái niệm. Một khái niệm bao giờ cũng bao hàm một nội dung nhất định gọi là nội dung khái niệm. Quá trình tư duy ở trình độ nào đó sẽ giúp con người nhận thức được một số lượng khái niệm ở một mức độ nhất định. Nên cùng một khái niệm nhưng có người hiểu rộng có người hiểu hẹp.
1.5.2. Phán đoán: Là một sự khẳng định hay phủ định về các sự vật, hiện tượng hoặc những mối quan hệ nào đó giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực.
Ví dụ: Tất cả kim loại đều dẫn điện hoặc mỡ không tan trong nước…
Phán đoán có thể là một nhận định đơn giản hay phức tạp, nhưng nó cũng có thể đúng cũng có thể sai. Kinh nghiệm càng đa dạng phong phú và toàn diện thì việc thực hiện các thao tác tư duy càng hợp lý thì phán đoán càng đúng đắn.
1.5.3. Suy lý: Là một phán đoán được rút ra từ một phán đoán khác. Suy lý có hai loại:
+ Diễn dịch: Từ phán đoán chung đến phán đoán riêng (khái quát – cụ thể) Ví dụ: Kim loại dẫn điện, đồng là kim loại thì đồng cũng dẫn điện.
+ Quy nạp: Từ phán đoán riêng đến phán đoán chung.
Quy nạp và diễn dịch là hai hình thức suy lý gắn bó chặt chẽ với nhau và có vai trò quan trọng trong việc lĩnh hội tri thức.
1.6.Các loại tư duy
* Xét theo mức độ phát triển của tư duy ta có:
– Tư duy trực quan hành động: Loại tư duy này nảy sinh rất sớm ở trẻ dưới 3 tuổi. để nhận biết đối tượng thì con người phải giải quyết bằng những hành động cụ thể.
– Tư duy trực quan hình ảnh: Loại tư duy này chủ yếu dựa vào những hình ảnh trực quan của đối tượng đang tri giác. Loại tư duy này được phát triển ở trẻ 4 tuổi.
– Tư duy trừu tượng: Có hai loại
+ Tư duy hình tượng: Kết quả của quá trình tư duy này cho ta một hình tượng chứ không phải là một khái niệm. Loại tư duy này phát triển mạnh ở những người nghệ sĩ.
+ Tư duy từ ngữ – logic: Loại tư duy này tạo nên những khái niệm, phán đoán nhờ đó mà ta có thể phản ánh khái quát những dấu hiệu thuộc tính, những mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng. đây là loại tư duy phát triển ở mức độ cao nhất, phức tạp nhất của con người vì nó phản ánh sự vật hiện tượng một cách sâu sắc và hoàn chỉnh nhất.
* Xét theo hình thức biểu hiện của nhiệm vụ và phương thức giải quyết vấn đề ta có:
– Tư duy thực hành:là loại tư duy mà nhiệm vụ đề ra một cách trực quan cụ thể và phương thức giải quyết bằng những hành động cụ thể.
VD: Người thợ sửa chữa máy móc
– Tư duy hình ảnh cụ thể:
Nhiệm vụ dưới hình thức một hình ảnh cụ thể và phương thức giải quyết phải dựa trên hình ảnh đã có.
Ví dụ: Hai con đường nhưng ta chọn con đường nào ngắn hơn.
– Tư duy lý luận: Nhiệm vụ đề ra dưới hình thức lý luận và việc giải quyết nhiệm vụ phải đòi hỏi sử dụng những khái niệm tri thức lý luận.
Ví dụ: Giáo viên giảng bài, tư duy của học sinh khi học bài.
( Các loại tư duy trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực tế ít có trường hợp ta sử dụng một loại tư duy mà cần có sự phối hợp các loại tư duy với nhau, nhưng trong đó có một loại giữ vai trò chủ đạo.
1.7. Các phẩm chất của quá trình tư duy
Tư duy mỗi người là khác nhau là do phẩm chất tư duy của họ khác nhau. Những phẩm chất tư duy được hình thành do con người thường xuyên tư duy tích cực và có phương pháp tư duy trong một thời gian dài. Tư duy gồm có một số phẩm chất sau:
1.7.1.Tư duy khái quát và sâu sắc: Là phẩm chất trí tuệ giúp con người có thể bao quát được một phạm vi rộng lớn của thực tiễn tri thức và nắm được mối liên hệ giữa nhiều lĩnh vực. Người có phẩm chất này bao giờ cũng nhìn thấy rõ ràng cái cốt lõi, cái bản chất của vấn đề, có khả năng đi sâu vào đối tượng nhận thức để tìm ra cái mới. Nhờ phẩm chất này mà con người có thể thấy được những nguyên nhân sâu xa, những ý nghĩ đúng đắn, những nguyên nhân hậu quả của vấn đề…
1.7.2.Tư duy linh hoạt: là phẩm chất trí tuệ giúp ta có thể thay đổi kế hoạch hoặc giải pháp đã được xác định, nếu nó không phù hợp cho việc giải quyết nhiệm vụ.
1.7.3. Tư duy độc lập: là phẩm chất quan trọng giúp ta tự tìm ra cách giải quyết vấn đề, nhờ đó con người biến tri thức của loài người thành kinh nghiệm riêng của mình để vận dụng vào hoạt động thực tiễn. Tư duy độc lập đòi hỏi con người phải lao động trí óc thực sự, tốn nhiều công sức, giúp con người có khả năng sáng tạo.
1.7.4.Tư duy nhanh chóng: Là khả năng giải quyết vấn đề trong một thời gian ngắn và đem lại hiệu quả cao.
1.7.5.Tính phê phán của tư duy: Là khả năng đánh giá một cách khách quan những ý nghĩ của mình và của người khác, chứng minh chặt chẽ và kiểm tra một cách toàn diện tất cả mọi giả thuyết và kết luận đưa ra.
2. TƯỞNG TƯỢNG
2.1. Khái niệm chung
2.1.1. Định nghĩa
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của con người bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
Không phải bất kỳ hoàn cảnh có vấn đề nào, bất kỳ nhiệm vụ nào do thực tiễn đặt ra cũng giải quyết bằng tư duy. Có những trường hợp con người không thể giải quyết vấn đề bằng tư duy mà con người phải giải quyết vấn đề đó là tưởng tượng. Tư duy và tưởng tượng cùng ở bậc thang nhận thức lý tính, nên giữa tư duy và tưởng tượng có những điểm giống nhau như: đều nảy sinh trước hoàn cảnh có vấn đề, đều phản ánh cái mới một cách khái quát và gián tiếp. Nhưng giữa tư duy và tưởng tượng cũng có những điểm khác nhau. Tưởng tượng tạo ra hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng của trí nhớ nhờ các phương thức lắp ghép, liên hợp, nhấn mạnh, mô phỏng…
Vì vậy, những hình ảnh của tưởng tượng dù là những hình ảnh sáng tạo nhất, viễn tưởng nhất về nội dung, cũng đều là sự kết hợp độc đáo của những yếu tố nằm trong bản thân các sự vật, hiện tượng có thật.
2.1.2. đặc điểm của tưởng tượng
– Tưởng tượng cũng nảy sinh trước hoàn cảnh có vấn đề. Khi con người đứng trước một hoàn cảnh mới, một nhiệm vụ mới do thực tiễn cuộc sống đề ra mà con người không thể giải quyết được bằng tư duy, thì con người phải tưởng tượng ra. Giá trị của tưởng tượng chính là ở chỗ tìm được lối thoát trong hoàn cảnh có vấn đề ngay cả khi không đủ điều kiện để tư duy.
– Tưởng tượng cũng phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp và khái quát, nhưng nó mang tính độc đáo sáng tạo hơn so với quá trình tư duy.
– Tưởng tượng có quan hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính và ngôn ngữ.
2.1.3. Vai trò của tưởng tượng
– Tưởng tượng có vai trò rất quan trọng trong bất kỳ hoạt động nào của con người. Tưởng tượng giúp con người định hướng hoạt động của mình bằng cách xây dựng trước mô hình tâm lý về kết quả cuối cùng của hoạt động và đảm bảo việc tiến hành hoạt động để đi đến kết quả đó. Nếu không hình dung ra được kết quả công việc của mình thì ta khó có thể bắt đầu công việc được. đây là sự khác nhau cơ bản giữa lao động của con người và những hành động theo bản năng của con vật.
- Tưởng tượng là cơ sở của mọi phát minh khoa học vĩ đại, vì nó giúp cho các nhà khoa học thu thập những thông tin sự kiện để tạo ra các phát minh vĩ đại đó.
- Tưởng tượng giúp nhà giáo dục hiểu sâu sắc thế giới bên trong của học sinh để xác định nội dung, phương pháp và hình thức dạy học và giáo dục có hiệu quả.
- Tưởng tượng giúp cho con người vượt qua một vài giai đoạn của hoạt động trí tuệ, khi mà tri thức của con người không đủ sức giải quyết vấn đề.
- Tưởng tượng có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển toàn bộ nhân cách của con người. đây cũng chính là căn cứ để đánh giá nhân cách của mỗi người như căn cứ vào hình mẫu lý tưởng của con người.
- Tưởng tượng có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần của con người, nó có liên quan đến xúc cảm và có thể là nguồn gốc làm xuất hiện các tình cảm sâu sắc và bền vững. Ngoài ra, tưởng tượng còn ảnh hưởng tới các quá trình hoạt động của cơ thể, nó có thể tạo ra những phản ứng nhất định của một cơ quan nào đó trong cơ thể con người. Chẳng hạn như hiện tượng ám thị hay bệnh tưởng…
2.2. Các loại tưởng tượng
* Căn cứ vào mức độ tham gia của ý thức ta có 2 loại tưởng tượng.
– Tưởng tượng không chủ định là loại tưởng tượng không theo mục đích trước.     
– Tưởng tượng có chủ định là loại tưởng tượng theo một mục đích đặt ra trước, có kế hoạch và có phương pháp nhất định nhằm tạo ra hình ảnh mới. Loại này gồm:
+ Tưởng tượng tái tạo: là quá trình tạo ta những hình ảnh mới đối với cá nhân người tưởng tượng dựa trên sự mô tả của người khác, của sách vở, tài liệu.
+ Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng những hình ảnh mới chưa có trong kinh nghiệm của bản thân, cũng như chưa có trong xã hội. đây là một phần không thể thiếu được trong hoạt động sáng tạo nói chung của con người.
* Căn cứ vào tính tích cực hay không của tưởng tượng có thể chia làm 2 loại:
– Tưởng tượng tiêu cực (mơ mộng)
– Tưởng tượng tích cực: đây là loại tưởng tượng định hướng cho hoạt động và thúc đẩy con người hoạt động để biến tưởng tượng thành hiện thực. Ước mơ và lý tưởng là hình thức đặc biệt của tưởng tượng.
2.3. Các cách sáng tạo hình ảnh mới của tưởng tượng
– Thay đổi kích thước, số lượng, thành phần của các sự vật.
– Nhấn mạnh các chi tiết, thành phần, thuộc tính của sự vật hiện tượng.
– Chắp ghép những thành phần, thuộc tính của nhiều svht khác nhau.
– Liên hợp là kết hợp một số bộ phận của nhiều svht một cách sáng tạo.
– Điển hình hóa.
– Loại suy là tạo ra hình ảnh mới bằng cách mô phỏng từ các sự vật hiện tượng có thật.
Theo http://tamlyhoconline.com/


1 nhận xét:

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội ngũ n...