Nếu Huế không có
|
||
Về Huế, Nguyễn Văn Cao mời nghỉ Festival Hotel, ngã tư Đống Đa -
Lý Thường Kiệt. Căn phòng VIP mà tôi chỉ thường trở về vào lúc đêm khuya.
Sáng cho đến khuya, ngồi đâu cũng nghe nhạc Trịnh. Nhạc Trịnh như là của
riêng Huế. Ai cũng hát được nhạc Trịnh, nhưng băng nhạc dùng nhiều nhất ở Huế
là băng Khánh Ly. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly như một tiềm thức Huế suốt nửa
thế kỷ nay. Và vui hơn với người Huế là sau 10 năm Trịnh xa cõi trần, Huế đã
có con đường mang tên người nhạc sĩ của chính mình.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
|
Thanh Ngọc (tạp chí Sông Hương) nhận xét thú vị: Tình cờ, con đường
Trịnh Công Sơn dài 600 mét, trùng với con số 600 bài hát của Trịnh.
Năm 2002, sau ngày mất Trịnh Công Sơn 1 năm, tôi có đề nghị anh Nguyễn Xuân Lý
(Chủ tịch UBND tỉnh lúc đó) nên dành một con đường cho TCS; anh nói phải sau 5
năm. Nay 10 năm, đã có con đường ấy. Tôi nghĩ: Huế chậm nhưng mà chắc.
Đó là con đường ven sông Hương thơ mộng khởi đầu từ cầu Gia Hội bên chợ Đông
Ba. Khi Hữu Thu đón tôi đến thăm con đường ấy, người ta đang thi công công viên
ven sông, bên lề đường TCS. Công viên này là nơi thư giãn thật đẹp, nó cũng là
bến đi về của những con thuyền du lịch sông Hương. Tôi hỏi Hữu Thu, công viên
có tên gì? Thu bảo chưa đặt tên. Tôi nghĩ: Cũng có thể là công viên Trịnh Công
Sơn.

Chúng tôi dừng xe và chụp mấy tấm ảnh kỷ niệm trên con đường mơ ước. Trong ống
kính máy ảnh, tôi thấy Sông Huế thật gần. Đó là con sông mà bà Tuần Chi không
thể bỏ Huế mà đi sang Pháp với con cháu được. Sinh thời bà nói: Tôi chỉ sang
Pháp ở, nếu mang theo được sông Hương sang bên đó.
Chợt nhớ câu hát của Trịnh:
“Một bờ cỏ non, một bờ mộng mị, ngày xưa”.
Gần trưa, tôi thuê một chiếc xe ôm thăm mấy người bạn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đang tắm. Một người cháu đang tắm cho ông. Mỹ Dạ bảo: Anh Tường vừa in cuốn “Lời tạ từ gửi một dòng sông”. Sao lại “tạ từ”? Ông Tường sinh năm 1936, sau bạo bệnh nằm liệt giường 13 năm nay, ông vẫn “viết văn bằng miệng” và đã in được thêm 6 cuốn sách. Một nỗ lực vĩ đại. Từ nhà tắm, ông Tường ngồi xe lăn ra tiếp tôi. Ông mừng, nhưng trách tôi sao Tết rồi không về Huế. Tôi bảo vì mẹ tôi mới mất năm ngoái nên phải về quê, hương khói cho cụ. Ông lặng một lát rồi nói: Sau khi in cuốn “Lời tạ từ gửi một dòng sông”, mình quyết định ngừng bút, không viết thêm gì nữa. Tôi hỏi tại sao? Ông nói như đã định từ lâu: Mình biết mình hết rồi, không còn gì để viết nữa. Nếu cố viết, kém quá thì chỉ hại mình thôi.
Gần trưa, tôi thuê một chiếc xe ôm thăm mấy người bạn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đang tắm. Một người cháu đang tắm cho ông. Mỹ Dạ bảo: Anh Tường vừa in cuốn “Lời tạ từ gửi một dòng sông”. Sao lại “tạ từ”? Ông Tường sinh năm 1936, sau bạo bệnh nằm liệt giường 13 năm nay, ông vẫn “viết văn bằng miệng” và đã in được thêm 6 cuốn sách. Một nỗ lực vĩ đại. Từ nhà tắm, ông Tường ngồi xe lăn ra tiếp tôi. Ông mừng, nhưng trách tôi sao Tết rồi không về Huế. Tôi bảo vì mẹ tôi mới mất năm ngoái nên phải về quê, hương khói cho cụ. Ông lặng một lát rồi nói: Sau khi in cuốn “Lời tạ từ gửi một dòng sông”, mình quyết định ngừng bút, không viết thêm gì nữa. Tôi hỏi tại sao? Ông nói như đã định từ lâu: Mình biết mình hết rồi, không còn gì để viết nữa. Nếu cố viết, kém quá thì chỉ hại mình thôi.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây tùy bút đứng ở hàng đầu, cùng với
Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Phan Nhật Nam... Nhưng tôi vẫn thích đọc ông nhất. Văn
ông khoáng đạt, nhẹ nhàng mà sâu sắc, đọc bị cuốn nhanh chứ không nhẩn nha như
cụ Nguyễn. Nhiều tên sách của ông đã đi vào cổ điển: Ai đã đặt tên cho dòng
sông, Sử thi buồn, Hoa trái quanh tôi... Tôi đã từng được xem bản sưu tập của một
người yêu văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, họ cắt những bài viết của ông trên báo và
dán vào bộ sưu tập với cách trang trí thật đẹp. Đời văn được yêu mến như thế thật
là hạnh phúc.
Giờ ông “ngừng bút”. Vĩnh viễn. Tiếc quá. Tôi nói: Thì khi nào bỗng dưng thích,
lại viết. Làm thơ chẳng hạn, chỉ cần “nhẩm bút” cũng thành thơ mà. Nhưng ông lắc
đầu.
Ngày xưa khi ông chưa ngã bệnh, chuyện trò không dứt. Bà mẹ vợ thường nói với
khách khi ông vắng nhà: Ông Tường đi nói rồi. Tôi coi ông là cuốn “từ điển sống”.
Nhắc chuyện gì ông cũng có thể nói được hàng giờ, mà nói thật sâu, thật kỹ, thật
văn hoa. Ông như một nhà văn hóa nhiều tầng vỉa. Nhiều cuộc nhậu với ông, chỉ
thấy ông uống rượu và nói chứ không ăn. Bởi thế, trong một bài thơ tặng ông,
tôi đã viết:
Rượu ngon nhắm với nói cười
Nghe thời gian tím một trời phù dung...
Nghe thời gian tím một trời phù dung...
Bây giờ (13 năm nay) ông nói thật khó khăn. Mỹ Dạ nhiều lúc phải làm “phiên dịch
viên” cho ông.
Chia tay vợ chồng ông, tôi nghĩ, một ngày nào đó, trở lại Huế không có Hoàng Phủ
Ngọc Tường... Vâng, nếu Huế không có Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn...
Chợt nhớ một bài thơ tôi viết tặng hai người nổi tiếng này từ thời còn ở Huế:
DIỄM XƯA
Cho TCS và HPNT
có thể tóc nàng bạc trắng
vô tình sỏi đá thành vôi có thể cơn mưa đã tạnh trái tim chẳng mọc thêm chồi chàng trai yêu nàng đã chết bên tầng tháp cổ rêu mờ cánh chim thiên di mỏi mệt bay ngoài câu hát ngu ngơ bọn trẻ như chàng ngày trước thả hồn trong quán cà phê ở đó có nàng kiều diễm vai thon ôm mái tóc thề thầm thì đêm nghe gió nói nàng là con của Diễm xưa...
Nguyễn Trọng Tạo
|
Nguồn: Báo Thừa Thiên Huế
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét