Bên đời hiu quạnh - Khánh Ly
Bên Đời Hiu Quạnh - Khánh Ly - NhacCuaTui
1. Ở đâu và bao giờ cũng vậy, mỗi khi nghe tiếng anh nói cười,
tôi đều cảm thấy một nỗi yên tâm vô cùng… “Ồ, Mai hả, có qua không”. Tôi cười…
“Em cũng chưa biết tính sao, để xem đã nghe anh…” Miệng thì nói vậy, sáng hôm
sau tôi đã có mặt ở phi trường. Chuyến bay cất cánh lúc 7 giờ sáng.
Trời lúc đó đã sang tháng 4. Tuyết vẫn phủ trắng xóa hai bên
đường từ phi trường về nhà. Hình như cái gì vào lúc sắp hết cũng mạnh mẽ thêm,
như ánh lửa, như cơn nắng, như mùa đông, như tình yêu - rồi mới chịu dứt hẳn, mới
chịu buông tay chấp nhận. Cũng may, tôi chuẩn bị áo lạnh đầy đủ, vậy mà cũng
không tránh khỏi những suýt xoa.
Tôi đi thẳng lên lầu, rón rén bước vào phòng. Anh đang ngủ.
Giấc ngủ buổi chiều. Khuôn mặt gầy, xương xương góc cạnh. Cái kính gọng vân vân
như đồi mồi để trên cái bàn nhỏ đầu giường. Anh gầy quá. Tôi bước lại gần anh
hơn. Rất nhẹ nhàng tôi cúi xuống nhìn sát mặt anh. Tôi không nghe thấy hơi thở
của chính mình. Tự dưng tôi muốn hôn lên trán anh. Tôi không làm thế. Tôi muốn
nắm lấy bàn tay rất gầy có những ngón thon dài, đặt trên ngực. Tôi không làm thế.
Và cũng rất nhẹ nhàng như khi bước vào, tôi ra ngoài phòng khách ngồi nói chuyện
với Tâm, Tịnh, và anh Thích.
Anh bước ra, tay vuốt tóc, tay chỉ tôi… “A, tới rồi à. Tới hồi
nào vậy?”. Giọng anh không hề có chút ngạc nhiên, làm như cái chuyện tôi đến,
anh đã biết. Ngày xưa cũng thế. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau và đến lúc này tôi
mới cảm nhận rằng chúng tôi thực sự có nhau. Không phải trong một giấc mơ kéo
dài 17 năm. Tất cả chúng tôi ngồi bên nhau. Hình như chưa bao giờ chúng tôi nói
với nhau nhiều dù ở bất cứ một đề tài, một lãnh vực nào. Hình như chúng tôi có
cách nói mà chỉ hai chúng tôi hiểu được. Một cách nói ở bốn con mắt im lặng.
Cũng có lúc, cả hai chúng tôi bị lôi cuốn vào câu chuyện vui của mọi người.
Nhưng đó là những điều hoàn toàn không dính líu, liên quan đến những điều thực
sự chúng tôi muốn nói với nhau. Tất cả những điều cần nói, chính là những điều
không bao giờ nói ra bằng lời.
Buổi chiều tuyết rơi kín mặt hồ, chúng tôi đi bên cạnh hàng
cây đầy hoa. Hoa tuyết. Nói chuyện bâng quơ, không có gì rõ ràng được đặt ra,
không có gì thắc mắc, không có khoảng cách 17 năm để phải ngỡ ngàng. Tôi ngỡ
như vừa từ Sài Gòn vào Huế thăm anh. Anh từ Huế vào Sài Gòn. Chúng tôi uống
cafe tại La Pagode. Tôi tưởng sẽ có nhiều điều, để hai anh em nói với nhau.
Nhưng cả hai đều không nói gì cả.
Bao nhiêu ngày tháng đã đi qua giữa chúng tôi. Anh vẫn không
bao giờ thay đổi. Tôi cũng thế. Cả hai không có những thắc mắc về đời sống của
nhau bởi 30 năm trước đã không hỏi thì 30 năm sau cũng không hỏi… Tôi quý những
giây phút ở bên anh và tôi nghĩ anh sẽ nói với tôi điều cần nói, nếu có. Anh im
lặng cũng có thể vì những điều anh nghĩ, anh muốn, không còn cần thiết phải nói
ra.
Trong một căn phòng, không phải bên cạnh sông Hương mà ở ngay
giữa lòng thành phố Montreal. Bên ngoài tuyết rơi, chúng tôi ngồi với nhau, những
người bạn cũ. Hát lại những bài hát ngày xưa. Hoặc những tình ca mới. Mỗi người
một ly rượu, khói thuốc mù mịt, mỗi người ngồi sát nhau trên chiếc thảm, trước
lò sưởi… Không ai cảm thấy lạnh. Không chút lạnh lẽo nào giữa chúng tôi trong
căn phòng nhỏ… Anh hát đi. Không, Mai hát đi. Giang hát đi. Mai ngâm thơ đi…
“Mà sao giấc ngủ không dài.
Mà đêm không ngắn mà trời cứ mưa.
Ở đây tôi sống như thừa.
Có đem men rượu tẩm vừa lòng nhau”
(Nguyễn Bính)
Cũng mùa đông, một đêm nào đó, 1974 ở nhà anh chị Lê, ở Huế.
Ngôi biệt thự bên cạnh sông Hương. Ngoài trời cũng tối và lạnh như đêm nay. Mùa
đông ở Huế. Chúng tôi cũng ngồi bên nhau như hôm nay. Lúc đó tôi vừa 30 tuổi. Tóc
vẫn còn xanh. Lòng còn tha thiết yêu đời sống. Một buổi sáng tôi bỗng thấy mặt
trời lên cùng tôi và biển cả. Nước mắt tôi tuôn như mưa. Tôi nhớ mùa đông ở Huế.
Mùa đông ở Huế và anh.
17 mùa đông lặng lẽ đi qua, tôi vẫn nhớ những ngày âm u lạnh
lẽo của Huế. Tôi có thể quên nhiều điều, tôi có thể quên tất cả để chỉ nhớ về
những con đường của Sài Gòn - nơi tôi đã ở và đã từ đó ra đi… nhưng không bao
giờ tôi quên được những ngày tháng ngắn ngủi, vội vàng ghé Huế. Đến vội vàng.
Đi vội vàng mà chẳng thể nào quên được. Một thứ tình lạ thường đã trói buộc Huế
trong trái tim tồi. Một trói buộc mơ hồ nhưng mạnh mẽ, đằm thắm. Tôi lớn trong
hơi thở có Huế. Chính Huế cho tôi hơi thở.
Bây giờ là cuối đông. Những bông tuyết bay trong chiều, đậu
trên những cành cây trụi lá, gầy guộc. Chúng tôi đi bên nhau. Tia nắng dịu dàng
đậu trên những bông hoa nhỏ bé, lấp lánh, tấm thảm dầy trắng tinh, chỉ có vết
chân bé nhỏ của những chú sóc nghịch ngợm chạy tới ăn những hột bắp rang no bụng
mà anh liệng ra để dụ chúng lại gần. Anh cười vui, ánh mắt long lanh theo dài.
Tôi ít thấy anh cười mà cũng không bao giờ thấy anh tỏ vẻ buồn bã.
Chúng tôi tìm đến một thân cây lớn, một nửa ngập dưới tuyết,
ngồi nghỉ chân. Tuyết vẫn rơi. Chỉ có hai chúng tôi giữa một vùng trắng mênh
mông yên lặng. Chẳng lẽ không có gì để nói, không còn gì đáng nói sau mười mấy
năm vắng nhau? Có chứ. Anh đã nói, không phải với riêng tôi, mà ở những bài
hát. Tôi đã nghe và hiểu từ đó…
“Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ. Có hồn ai đang nhè nhẹ
sầu lên… Tôi là ai mà còn khi giấu lệ. Tôi là ai mà còn trần gian thế. Tôi là
ai? Là ai? Là ai mà yêu quá đời này… Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo. Con diều
rơi cho vực thẳm buồn theo…”
Tôi bỗng thương anh thêm và càng quý trọng những giây phút
bên anh. Cũng vội vàng, ngắn ngủi như những lần tôi ghé Huế. Tuy nhiên, tôi
nghĩ, như thế có lẽ tốt hơn. Bởi vì những điều như thế đã cho tôi cái cảm tưởng
là không hề bao giờ, giữa chúng tôi có cái khoảng cách 17 năm. Lá vẫn rơi trên
lối chúng tôi đi. Những khóm hoa nắng vẫn lấp lánh trên đường chúng tôi đi. Tất
cả vẫn rất còn rực rỡ.
Quay về căn phòng nhỏ. Ánh lửa như hồng thêm, ấm áp thêm bên
ly rượu màu hổ phách, cay nồng. Cởi áo lạnh ra, trông anh gầy hơn xưa nhiều
song so với lần gặp nhau ở Paris 1989, anh có vẻ khỏe hơn. Bên cạnh anh là
Hoàng Xuân Giang của quán Văn ngày xưa. Giang đã có vợ, con gái lớn rồi. Hoàng
Xuân Sơn cũng đùm đề một gánh thê nhi nặng trĩu hai vai. Phạm Nhuận to béo hơn
xưa, vui vẻ cười nói ồn ào bên cạnh Hoàng Xuân Sơn nhỏ nhẹ thư sinh. Hoàng Xuân
Giang vạm vỡ khỏe mạnh như loài cây hoang trong rừng già và anh, anh mỏng manh
và thật đằm thắm. Nhìn quanh, tôi thấy như mình đang sống trong thần thoại 20
năm là đây. Chỉ ở một buổi chiều cuối đông tại thành phố Montreal. Còn ai nữa
nhỉ? Chắc chắn là còn thiếu một vài người. Trong tôi, một thoáng ngậm ngùi.
Chúng tôi chia tay nhau, dưới ánh đèn đường vàng vọt, trước cửa
nhà anh Quế. Mai gặp lại. Anh và tôi trở về nhà Tâm. Nỗi vui làm tôi khó ngủ
như ngày xưa sau mỗi buổi hát, chúng tôi thường ngồi lại với nhau, chia cho cạn
niềm vui còn sót lại. Những niềm vui không thể để vung vãi, bỏ phí. Phải uống hết,
phải nuốt hết vào lòng. Chúng tôi đã sống bằng những niềm vui không nhiều trong
đời. Tôi tự cho mình là cái bóng của anh và cũng được hưởng niềm vui đó.
Tôi mở cửa phòng rất nhẹ. Anh đã ngủ yên. Chỗ tôi nằm cách chỗ
anh một sải tay. Tôi khẽ nằm xuống, kéo mền lên, nhắm mắt dỗ giấc ngủ. Tôi nghĩ
lát nữa đây, khi mặt trời lên trên thành phố này, khi tôi thức dậy, tôi sẽ nhìn
thấy anh. Tuyết vẫn bay ngoài cửa sổ nhưng ngày sẽ đẹp.
Anh dậy rất sớm và việc làm đầu tiên trong ngày của anh là ra
khỏi nhà. Tìm đến một quán Cafe, ngồi đó hút thuốc và nhìn người qua lại trên
đường phố… “phải nhìn thấy mọi người, một ngày không thấy ai, buồn dễ sợ”. Tôi
nhìn anh cười không nói. Cái nhìn và nụ cười là câu trả lời. Ngày xưa anh cũng
thế. Chúng tôi cùng nhau xuống phố. Vẫn im lặng đi bên nhau với nỗi hân hoan hạnh
phúc không thành tiếng… “Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi. Đường đến anh em, đường
đến bạn bè. Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát. Để thấy tiếng cười rộn rã bay…”
Đó là những điều rất thật thà anh đã nói, đã làm, để sau
cùng… “Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống, vì đất nước này cần một trái tim. Và
như thế tôi đến trong cuộc đời. Và như thế tôi sống vui từng ngày. Đã yêu cuộc
đời này bằng trái tim của tôi”.
Tôi thấy anh yêu đời thật sự. Anh cười với ông Phạm Duy, ông
Trầm Tử Thiêng, ông Duy Khánh và các bạn qua điện thoại. Anh hát và chỉ cho
tôi, cắt nghĩa cho tôi những bài hát mới. “Nhớ đừng có hát như trả bài nhe…”.
Giọng anh hát khỏe hơn lần gặp ở Paris… “Thôi anh hát đi, anh hát hay… hơn em”.
Anh cười, mắt anh cũng cười… “Anh bao giờ cũng hát hay hơn Mai”…
Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày tháng của năm 1967. Chúng tôi
những người bạn nghèo, đến với nhau, gắn bó không ngờ. Gia đình anh giầu, gia
đình Hoàng Xuân Sơn, Hoàng Xuân Giang cũng giầu, nhưng cá nhân chúng tôi đều
nghèo. Một đĩa cơm chia hai, một điếu thuốc cùng hút, một ly cafe cùng uống.
Chia nhau nằm ngủ trên những tờ báo nhầu nát trải dưới đất. Tình bạn, tình anh
em nảy mầm ở đó. Quán Văn, cái tên quán dễ nhớ và dễ thương, mọc lên chơ vơ giữa
lòng Sài Gòn trăm ngàn màu sắc. Mái bằng lá, và những tấm ván ép hư bể, được
ghép lại, nhỏ hơn cái bếp ở đây, chỉ dành làm chỗ pha cafe. Mọi người tới tùy
tiện tìm chỗ ngồi trên cái nền xi măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại.
Đó là nơi gặp gỡ đẹp đẽ nhất của một thời tôi còn trẻ.
Chúng tôi không hề biết ngoài đời có gì vui. Chúng tôi không
cần biết vì niềm vui đã có. Rất đơn sơ mà thắm thiết không rời. Đến với nhau
qua sự run rủi của định mệnh. Không thề thốt, không hứa hẹn. Đến và ngồi với
nhau. Một lần rồi thì có nghĩa là mãi mãi. Giang đó, Sơn đó, Nhuận đó, Thảo đó,
Anh và tôi… từ những ngày lăn lóc đó cho đến bây giờ vẫn không dời đổi. Qua những
bài hát của anh, sự kết hợp những người trẻ thật khít khao vừa vặn. Ai đến cũng
được, ai đi cũng được…
“Em theo đời cơm áo. Mai ra cùng phố xôn xao. Bao nhiêu ngày
yêu dấu tan theo…”. Tôi có cảm tưởng đó là một lời trách móc anh dành cho tôi.
Rất dịu dàng như bản tính anh. Từ bao nhiêu năm nay, câu hát đó theo tôi như một
vết thương. Đời cơm áo quả thật đã cho tôi lắm ê chề, khổ đau, nhưng những ngày
yêu dấu bên anh và bạn bè đã chẳng bao giờ tôi quên… dù đời sống có làm tan vỡ,
có làm chìm sâu những mơ ước của một đời người - thì trong trái tim bầm dập của
tôi, những ngày tháng cũ vẫn là một điểm son, là một bám víu cuối cùng và duy
nhất…
2. Nói về cái vụ sao hạn, tôi cũng loáng thoáng nghe. Nào là La
Hầu, Kế Đô, nào là con bà Hắc Đế, nào là tướng tinh con cọp, con heo, con gà,
con khỉ… vv… và vv… Rồi cúng sao giải hạn. Nghe thôi chứ tôi thường nghĩ nếu quả
là số, có sợ thì chạy đâu khỏi. Người Trung Hoa có cái câu hay lắm… Khi xui, uống
miếng nước cũng sặc. Hoặc là… Càng nói, càng sai… Hay. Và vì là người Công Giáo
tôi không có cái màn cúng giải hạn.
Ngày cuối cùng của năm, tôi lên đường qua Hawaii hát đêm Giao
Thừa nhưng tôi phải rời Hawaii bằng chuyến bay đêm cất cánh lúc 11 giờ 55. Dạ
vũ tổ chức ngay tại hotel tôi ở nhưng xui cho bầu, cho bà con và cả cho tôi là
cùng lúc đó cũng có một cái party của Mỹ. Thế là bà con ta dù đã mua vé nhưng
không có chỗ đậu xe, dẫu đã chạy vòng vòng cả 2 tiếng đồng hồ.
Nhoáng một cái nhìn đồng hồ đã thấy 11 giờ kém. Tôi phóng lên
lầu thay quần áo. Bầu chưa kịp đi lấy tiền, tay đang cầm mấy trăm bạc, tôi giựt
luôn… Chị không chờ được, em gửi tiền cho chị sau nhé… 11 giờ 20 tôi chụp được
một chiếc taxi… Bằng bất cứ giá nào, mày đưa tao ra phi trường cho kịp chuyến tầu…
Tay lái xe lắc đầu… Tao không nghĩ mày có thể bắt kịp, tao chỉ hứa là sẽ có mặt
ở phi trường lúc 11 giờ 40… Tôi thấy ngàn phần trăm là ở lại Hawaii đêm nay
nhưng lỡ rồi, cứ đi biết đâu chừng tầu cất cánh trễ năm mười phút.
Phi trường vắng đúng như… đêm 30, chỉ có 3 mạng ngồi nói chuyện
gẫu, chỉ gate xong họ lại tiếp tục câu chuyện để mặc tôi với hai cái valise, một
bọc áo thun. Tôi bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng đến muốn khóc. Khi chất hai valise
lên xe đẩy thì Lậy Chúa Tôi lòng lành vô cùng, tôi thấy một anh chàng đi đến gần
chỗ tôi và trên tay anh ta là cái boarding pass. Như vậy có nghĩa là anh ta đã
check-in và máy bay không thể bỏ anh ta lại. May cho tôi làm sao.
Quả đúng tôi là hành khách cuối cùng bước vào máy bay. Tầu bốc
lên khỏi phi đạo. Vừa qua giờ Giao Thừa. Năm mới đã đến. Cái con sao Kế Đô thổ
tả không biết nó đã… xéo… đi chưa mà sao nước mắt tôi cứ chẩy xuống như mưa. Là
một trong 12 con giáp bỏ mẹ, tôi thấy năm nào, con nào cũng xui. Không chủ quan
nhưng tôi ít khi nói sai. Cái ý là nếu sai, tôi không nói. Ở tuổi tôi, giờ còn
nói sai nữa, e không… thọ, dẫu vẫn biết rằng sống cũng chẳng có gì vui, chết chả
phải là điều đáng buồn. Ấy thế mà còn sống được là còn thấy những điều cười ra
nước mắt. Tấn kịch đời… khôi hài bi thảm.
Khóc đã rồi hắt hơi, hắt hơi liên tục không biết ngượng trong
suốt 5 tiếng đồng hồ. Đoan đón tôi ngay cửa máy bay, đưa áo lạnh. Anh ái ngại
nhìn tôi hắt hơi nữa… Đi nổi không em, nếu không thì về đi… Về sao được anh, đầu
năm đầu hôm của người ta, lại trần xì chỉ có 2 mống, em không tới làm sao Lê
Tâm gồng một mình lại còn mang tiếng nữa… Mới 7 giờ sáng. Còn sớm chán, vợ chồng
thủng thỉnh kéo nhau đổi qua cổng số 1 tới USAir. Đoan lì xì cho tôi phong bao
đỏ, tôi lì xì cho Đoan một bọc áo thun có in toàn là Rồng. Con nằm ngang, con nằm
ngửa, con vểnh râu, con lộn đầu… Em đi nhé…
Lên tầu rồi tôi lại hắt hơi tiếp. Ý cha mẹ ơi, năm nay coi bộ
lạ đấy, ai nhắc MÌNH mà hắt hơi dữ vậy. Cứ như thế cho tới khi tàu đáp xuống
phi trường Charlotte, North Carolina. Lê Tâm chưa tới. Tôi vội vã lấy đồ nghề
làm mặt ngay tại chỗ… Mẹ kiếp, đã xấu sẵn rồi, làm gì cũng không thể đẹp hơn, cứ
quẹt quẹt tí xanh xanh đỏ đỏ cho bà con… đỡ sợ là được rồi. Chẳng có chỗ thay
áo dài, tôi chơi luôn quần jean, áo lạnh lên sân khấu. 10 tiếng chập chờn hắt
hơi sổ mũi vậy mà Chúa Mẹ thương, tôi cứ hát được như thường. Cái này sức người
không thể.
Buổi tối là Dạ Vũ, tôi có được 2 tiếng đồng hồ để tắm gội sửa
soạn mặt mày quần áo cho đúng lễ nghi quan cách. Biết tôi bệnh, Lê Tâm rán gồng
dùm tôi bằng những bài hát hot nhất. Bà con, nhất là giới trẻ khoái chí vỗ tay
như sấm nổ, tất cả cứ đứng tại piste chờ đợi, chẳng ai chịu vào chỗ ngồi. Riêng
tôi được một bà mẹ của em chơi keyboard cho uống thuốc, cạo gió và ăn Donut.
Cũng có thể vì ăn chay lại đai-ét, cơ thể tôi yếu quá chăng. Nhưng sao vẫn hát
được. Ấy, đã nói có Chúa Mẹ đỡ mà.
6 giờ sáng, lại ra phi trường bay về Houston. Cái màn hắt hơi
đỡ rồi nhưng phải thú nhận là tôi đã thấm mệt. Thuốc ngủ cứ uống nhồi mãi mà ngủ
không đủ do đó tôi cứ như người mộng du. 11 giờ vào đến cái sân vận động khổng
lồ, là nơi tổ chức Hội Chợ Tết Con Rồng, chưa có một mống ca sĩ nào cả. Ngay
bên cạnh sân khấu là cái… lều quây bằng vải đen dùng làm chỗ thay quần áo cho
các đấng ca sĩ từ giọng hát hàng đầu đến hạng chót… same same. Tôi chắp 3 cái
ghế lại làm được một giấc. Ôi, gẫm còn hơn hạnh phúc của giấc ngủ thiên thu.
Thế là xong 3 ngày Tết lênh đênh trên trời, mấy chục tiếng đồng
hồ bay chạy giạng chân từ phi trường này tới phi trường kia, từ cổng này đến cổng
nọ. Cầm đồng tiền, nước mắt lại chẩy ra, nghĩ đến khán thính giả đã chia sẻ cho
mình mồ hôi nước mắt của những ngày giờ làm việc bấm thẻ. Cứ nghĩ thế mà cho rằng
mình còn may mắn hơn rất nhiều người trong đời sống, trong nghề nghiệp có những
oan trái đắng cay lại phải nuốt sâu vào lòng, đêm đến thì mượn thuốc ngủ làm…
người tình trăm năm. Liều lượng ngày một tăng, tháng nào cũng phải cúng cho nó
cả trăm bạc. Vậy nên nếu lúc nào tôi về… hưởng nhan Thánh Chúa… thì đó là lỗi tại
tôi. Xin cả làng nước đừng bảo rằng chồng tôi… thuốc tôi để lấy bảo hiểm. Gì chứ
nói oan cho người khác, tội nghiệt không phải nhẹ đâu nhé, đừng tưởng lời nói
gió bay.
Tôi cảm cúm đã 4 tháng kể từ đêm quyên tiền cứu lụt miền
Trung tại San Jose. Bà con ngồi cả dưới đất, trời đêm đó lạnh như cắt ruột. Ôm
thùng tiền đi xin, thấy chỗ này vẫy, chỗ kia tay cầm tiền ngoắc, làm sao len
vào với đôi giầy vừa to vừa cao như cái chiến hạm, thế là tôi chơi cái chân đất
đặng chạy cho lẹ. Đi 2 tiếng đồng hồ cho đến khi bàn chân tôi tê cóng vì lạnh.
Thằng Kenny, con tôi đi theo ôm áo, ôm giầy xót mẹ kéo tôi vào quên cả bé Dung,
vợ nó, cũng đang ôm một thùng đi xin tiền. Gần 80 ngàn đô đã được Đỗ Văn Trọn tự
tay cầm về.
Vancouver kêu. Seattle kêu. Toronto kêu… Lụt đây… lụt đây…
Nhiều khi nghĩ cũng lạ. Chỗ nào ấm áp, ăn uống nhậu nhẹt nhảy đầm thả giàn, cờ
bạc chí chạp ít có mình. Có lẽ tại thấy tôi đai-ét triền miên, nhảy đầm lại dốt,
cờ bạc thì… rét nên thỉnh thoảng tôi mới góp mặt. Sao thế nhỉ? Cái này tôi phải
chờ thầy Nhật Thanh coi dùm xem tôi được sinh ra dưới ngôi sao nào. Tuy nhiên
cũng tốt thôi… Mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn… Ngày xưa ở VN được đóng
góp trong những công việc từ thiện, xã hội cũng là nghề của nàng. Giờ đổi đời,
ai đổi thì đổi chứ với tôi đó vẫn là niềm vui như anh Trịnh Công Sơn thường dặn…
sống phải có tấm lòng. Sống phải tử tế với nhau…
Trước khi đi, Đoan bắt tôi phải chích thuốc khỏe cộng thuốc
trụ sinh vì tôi đã uống quá nhiều trụ sinh trong mấy tháng qua và xông cả chục
nồi thuốc xông tổ bố. Anh soạn áo lạnh kín cổ cao tường và xếp cho tôi 5 cái
khăn quàng cổ đủ màu. Vợ chồng vui vẻ chở nhau ra phi trường, lấy boarding pass
xong cả hai còn kéo nhau ra lề… ăn điếu thuốc rồi mới chia tay. Không có ôm ấp
hôn hít gì cả chỉ có hai cái mũi quẹt vào nhau, coi như xong. Đoan lên xe, tôi
quay vào, không cả cái màn… đứng sững nhìn theo… như chú Mai Thảo đã viết… “Đứng
sững mới hay lìa cách đã. Sơn cùng thủy tận giữa đôi ta”… Chi dữ vậy. 2 ngày
bay, một ngày hát là lại… phải nhìn thấy nhau rồi.
Toronto lạnh quá. Tuyết trắng cả một khung trời. Chỉ mong ra
khỏi phi trường cho mau đặng ăn điếu thuốc giữa một thảm tuyết trắng cũng đáng
gọi là một điều thống khoái. Khiếp, nghe tôi nói cứ như một gã đàn ông dọc
ngang nào biết trên đầu có ai. Thủ tục đóng thuế cũng nhanh nhờ tôi có đem theo
giấy đóng thuế tuần rồi ở Vancouver. Ba cái valise nhỏ xếp gọn trên xe, tôi đi
như một người dư thì giờ đi dạo chơi. Mít gặp nhau là nhận ra ngay. Một người
đàn ông trung niên tóc muối tiêu dáng mảnh khảnh, mắt hiền lành phúc hậu với nụ
cười vui vẻ rộng hết cỡ chạy tới… Sao, cô có mệt không, vào đây làm ly café đã,
chờ cháu nó lấy xe. Tôi là Doanh, Hội Người Việt ở đây… Dạ chào bác, cảm ơn bác
nhưng bác cho phép em ra ngoài… ăn điếu thuốc đã… Ừ được nhưng mà lạnh lắm đấy,
cô phải cẩn thận nhé…
Trên đường đi, bác Doanh, Du - con bác Doanh - nói cười vui
như Tết, như đã quen nhau từ… muôn kiếp trước. Giờ có ly café thì ấm bụng bác
nhỉ… Ấy có đây, để cháu nó đưa cô đến, chỉ sợ giờ này nó đóng cửa… Một tiệm
café có karaoke, trên màn ảnh đang chiếu cuốn… “Mẹ” của Thúy Nga. Vui đáo để và
café thật ngon. Du uống được còn bác Doanh thì thật là… phí tiền vì bác chỉ cần
có mấy giọt mà thôi… Tôi vừa nhâm nhi café, thuốc lá vừa hỏi thăm bác Doanh
chương trình, bởi vì tôi biết là tôi sẽ được hát chung với Giao Linh như ông
Kha Xe nói, mà tôi thì lại rất quý và muốn gặp Giao Linh… Bác Doanh ạ, chương
trình gà nhà của Toronto ra sao chứ chỉ có 2 mống gồng, có nước… hộc máu… Bác
Doanh cười… Cô đừng lo, cây nhà lá vườn ở đây cũng nhiều, có cả Tuấn Tài nữa cơ
mà… Vậy mà em có biết đâu bác, ông Kha Xe chỉ nói tới Giao Linh thôi…
Chợt có người đập vào vai tôi đánh bộp một cái… À lại gặp rồi,
trả nợ đi chứ, hứa gửi bài mà chả thấy gì, hèn chi bị lão Phan Ni Tấn làm thơ mắng
khéo đầu năm… Ối giời ơi, bố Nguyên Nghĩa đi đâu đây - Rõ là vô duyên, đi vào
tiệm café là để uống café chứ chẳng lẽ vào đây mua cá mua thịt - Nguyên Nghĩa
đi với một anh được giới thiệu là Khải kéo ghế ngồi bàn bên cạnh… Này, thế ngày
mai ông có đi không. Nguyên Nghĩa cười lắc đầu… Tôi không đi, gặp mặt nhau mất
vui… Tại sao… Chị không biết à, ngày mai có Nguyệt Ánh, có Hưng Ca hát mà… Bác
Doanh cười nói… không có Nguyễn Hữu Nghĩa, chỉ có Nguyệt Ánh và Nguyễn Xuân
Nghĩa mà thôi… Ồ vậy sao, tôi có đi hát chung với Nguyệt Ánh và Nguyễn Xuân
Nghĩa rồi mà sao tôi không nghe nói gì cả, tưởng chỉ có Giao Linh thôi. Vậy
Nguyên Nghĩa chuyển lời mình thăm anh chị Nguyễn Ngọc Ngạn và anh chị Phan Ni Tấn
nhé vì ngày mai tôi phải gặp con gái, sợ không có thì giờ. Hẹn gặp ở Paris.
Bác Doanh và Du chở tôi lại nhà của nha sĩ Từ Chấn Phong, người
em kết nghĩa “vườn cải” có một cái nhà tổ bố lại ở một mình, rất mê hát
karaoke, rất quý mến ca nhạc sĩ. Tuấn Ngọc và tôi từng được gửi ở đây - ban tổ
chức đỡ tốn tiền hotel và có lẽ sẽ có thêm đề tài về ông nha sĩ trẻ và bà ca sĩ
già. Có hề chi… Phong, thằng cu Hiền cháu Phong và tôi ngồi trên thảm hát
karaoke mà lại hát tiếng Tây mới chiến chứ… 2 giờ sáng tôi xin phép hai chú
cháu đi ngủ nhưng dầu đã uống thuốc ngủ, tôi cứ trằn trọc mãi vì sự… thiếu sót
của ban tổ chức. Đêm mai, tôi sẽ đối đầu với một người đã dùng tờ báo của mình
làm phương tiện đánh phá tôi trong suốt hơn 10 năm qua, mà hình như cho đến bây
giờ vẫn chưa thôi.
Kế Đô vừa qua, còn cái gì nữa thì tới luôn cho tiện việc sổ
sách. Mà nói cho cùng tôi cũng chẳng còn nhớ mặt mũi cái người chửi tôi ra sao.
Vài chục năm trước, chỉ nghe, thấy loáng thoáng từ xa khi Nguyễn Hữu Nghĩa đi
theo sư phụ là Nguyễn Đức Quang… Thôi đọc kinh rồi ngủ. Cái mặt tôi đây, ai muốn
chửi, thích chửi thì xin mời. Chỉ biết một điều là bao giờ tôi cũng đứng thẳng,
nhìn thẳng và đi ngay. Nếu có một điều gì cần phải chứng minh thì tôi chỉ chứng
minh với chính tôi mà thôi. Hơn thế nữa điều mọi người muốn ở tôi là hát. Vâng,
tôi sẽ hát, hát đến có phải bật máu ra mà chết tôi cũng sẽ hát bởi đó mới là điều
quan trọng, đó mới là niềm hạnh phúc mơ ước của tôi. Xin kính chúc tất cả sức
khỏe và sự bình an. Bình an trong đời sống. Bình an trong tâm hồn.
3. Tôi vừa chia hũ cà cuối cùng. Một cho Ngọc Minh. Một cho bà nội
của Cu. Thế là hết 100 pounds cà cha Nam Hải gửi cho. Tôi đã làm đúng lời cha dặn.
Chia cho mỗi người một ít gọi là quà cha gởi tặng, trong khi tôi lại là người
được hưởng ít nhất. Bởi bị cúm cả hơn tháng, tôi chẳng dám đụng tới một quả cà.
Vừa ngớt bịnh, chuẩn bị thâu băng, Giang lại bồi thêm một cú. Này, đừng có ăn
cà, khản tiếng đấy. Đành nhịn thèm nhìn các hủ cà to, nhỏ trên tay các bạn.
Bye.
Chắc tương lai tôi khi về già sẽ gần gũi với ruộng vườn, gia
súc. Lần đầu tiên những cây ớt tôi gieo trồng đầu mùa xuân cho tôi nhiều trái.
Thích trồng cây nhưng không biết cách, lại lười tưới bón, có khi đi hát xa cả
tháng, về đến nhà, cây cối chết tiệt. Năm nay chịu khó hơn, tôi thăm chừng mấy
cây ớt mỗi ngày, kể từ lúc mới nhú trong chậu, cho đến khi tôi đánh cây con trồng
riêng ở ngoài.
Đây là những cây ớt VN. Tôi lấy giống từ nhà Sĩ, Nguyên ở Úc.
Ớt cũng từ VN qua Úc rồi từ Úc nhập cảnh lậu vào Mỹ. Mọi người dọa. Này, mang
trái cây vào Mỹ là tội đó, tụi nó mà bắt được. Tôi cứ gân cổ cãi. A, bắt được
thì phạt chứ sao. Tớ đếch sợ, tớ có chỗ dấu. Dấu ở đâu, trong… quần à, ớt mà
dính… vào đó, cay hết biết, mà rồi bà có trồng được, cũng không ai dám ăn. Kệ
cha tôi, tôi dấu chỗ nào là chuyện của tôi, trồng cây đâu phải để hòng hái
trái, ngó cũng vui mắt rồi, muốn ăn, ra chợ mua chứ tội gì bứt cây mình trồng.
Chỉ có em là điên như thế thôi. Đoan bảo vậy. Hoa thì không
trồng lại đi trồng ớt, trồng xả, trồng rau, mà rồi lại không cho hái, không cho
nhổ. Ừ, em điên kệ em, muốn ăn, muốn hái, muốn nhổ cũng được nhưng phải tuỳ.
Tùy cái gì? Thì tuỳ người em quý, người quý em, nhớ đến công em săn sóc tưới
bón chứ. Em thật là điên còn vớ vẩn, ai ăn mà chả thế, còn bày đặt lựa người rồi
mới cho ăn. Kệ em, anh có công việc của anh, em có công việc của em. Công việc
nào cũng cần sự suy nghĩ và lựa chọn.
Hoàng Xuân Giang cười. Đoan nói đúng đấy, cây hết trái, hết
mùa, phải tỉa, cắt bớt những cành yếu, cây mới mạnh, lứa sau sẽ nhiều trái. Xả
phải nhổ bớt nó mới đâm thêm chồi mới, giềng gom lại 1 bụi đủ rồi, ớt phải trồng
chỗ nhiều nắng, phải thêm đất, thêm phân. Nghe lời Giang và nể chồng, tôi hát ớt…
đãi bạn. Tùng Giang, Du Miên ăn ớt như nhồng, nhìn mấy trái ớt đen thẫm tôi đưa
với cặp mắt… khinh bỉ. Mẹ ơi, cả hai người gần té đái vì cay, gật gù. Được, ớt
này được, bẻ ra đã nghe cay rồi. Người nào trồng ớt cay là người tốt. Tôi chẳng
biết thầy Thiêng nói có đúng không vì thầy này là vua điển tích. Song tôi vui
vì đây là công lao của tôi.
Ổi tôi được ăn nhiều. Ở nhà chị Hà, ở nhà Kiều Loan, ổi nhà
Elvis Phương nhưng không ổi nào ngon bằng cây ổi tôi mua 15 đồng 6 năm trước.
Đúng là ổi xá lị. Ngọt, dòn và thơm. Ăn một miếng, sướng một miếng, nuốt tới
đâu, sướng tới đó. Mùa đầu tiên, nó chỉ có hai trái to hơn cái bát ăn cơm. Mấy
năm nay, trái khá nhiều nhưng nhỏ. Nam Lộc bảo tôi khi hết trái phải tỉa bớt
cành, chỉ giữ lại những cành mạnh thì năm sau trái mới to. Tôi cứ thương
thương, tiếc tiếc thế nào ấy, không chịu nghe lời. Nhìn cái cây cành lá đang
xum xuê, bảo tôi phải cắt bớt, tôi không nỡ. Tôi sợ cái cây nó đau sao?
Cam cũng thế, bơ cũng thế. Cứ để chín vàng cho đẹp. Đừng ai bứt
trái, bẻ cành của tôi. Muốn ăn thì đi mua. Không tiền thì nhìn cũng đủ… mát ruột
rồi. Trái nào chín quá rụng xuống, tôi mới ăn. Bơ nhà tôi ngon lắm, hột nhỏ,
cơm dầy, vàng và béo ngậy. Trái chỉ dành để biếu bạn, cho con dâu là salade vì
mùa này ở chợ Mỹ bán gần 2 đồng một trái.
Đấy, tôi chỉ có thế, gia tài của mẹ chỉ có thế. Tôi nói với
con tôi như vậy. Và đó còn là những người bạn của tôi nữa. Những người bạn
không biết nói. Bảo Linh đưa vợ con lại thăm tôi, nó nhìn tôi cười và nói. Mẹ
thích chó và cây vì nó không biết nói. Tôi cũng cười, không trả lời. Con tôi đã
thành nhân.
Những cây hồng dòn, cây mận nhà Du Miên nặng trĩu đến gãy cả
cành làm tôi tiếc mãi, xót xa mãi như chính mình bị thương vậy. Cây ngọc lan vẫn
là nỗi ao ước của tôi. Năm tới tôi sẽ mua một cây, một cây lớn có hoa ngay, khỏi
phải chờ đợi. Mua cả hồng dòn nữa. Nhất định mùa xuân tới tôi sẽ mua, lúc đó nếu
có Hoàng Xuân Giang ở đây, sẽ nhờ Giang phụ một tay…đào đất. Tôi tự hẹn với tôi
như vậy và khi tôi nói ra, Đoan bảo. Em muốn cái gì thì có trời xuống cản nổi.
Muốn thì mua ngay đi. Cái thích của tôi ngang với cái lười. Thôi để vào xuân
đã, bây giờ gần đông rồi. Thế đấy.
Vẫn biết là muốn gì được nấy, không ai có thể cản được. Chính
vì thế mà tôi… ít muốn và… muốn ít. Nhưng cái “ít” của tôi làm Đoan nhiều khi
chạy… sút quần. Muốn thâu băng là thâu ngay. Tự lựa bài, tự đưa bài làm hoà âm,
tự gọi điện lấy phòng thâu, mặc cho Đoan tự động chạy tiền. Không cần biết bao
giờ mới phát hành. Cứ thâu. Vì sao? Vì tôi thích chứ vì sao. Cuốn này chưa
xong, nhồi thêm cuốn nữa. Đoan chạy tiền bở người mà không dám hé răng cằn nhằn.
Sợ con điên nổi cơn thì còn mệt hơn lúc chạy tiền.
Được cái Đoan cũng mê văn nghệ, hát hò. Có nhiều khi anh… chỉ
tôi cả cách diễn tả bài hát nữa. Em phải hát như thế này mới đúng ý ông Sơn, giống
như anh Giang đã chỉ em đó. Rồi anh thản nhiên nhắm mắt nhắm mũi, tay múa loạn
lên như đang trình diễn, như nhạc trưởng đang điều khiển một dàn nhạc đại hoà tấu.
Trước mặt ông Thiện, ông Thiêng, John, Mai và bác Lê Nguyễn, Đoan say sưa hát,
khi trầm như lời thủ thỉ, khi bổng tiếng kêu đau thương của người tuyệt vọng.
Lúc đó là lúc anh hoàn toàn quên những cơn điên của tôi, quên cái cảnh chạy tiền
trả nhạc sĩ, phòng thâu. Ngược lại, tôi nghĩ anh rất hài lòng.
Có người bảo. Mẹ, thâu gì mà thâu lắm thế, bán cho ai, bán
cho chó à. Ấy, đừng nói thế, băng nhạc thì bán cho người chứ sao lại bán cho
chó. Nói sao nghe nặng nề thế, không sợ à. (Chả là chúng tôi có ông Tổ và ông Tổ
này, nghe kể lại thì đó là một con người ăn mày, do đó có cái lệ ca sĩ kiêng
không cho tiền những ai ăn xin. Vì sao thì tôi không biết.) Tổ rất linh. Bên cổ
nhạc thường xá Tổ trước khi ra sân khấu. Tôi không làm vậy, chỉ làm dấu thánh
giá nhưng cũng e dè không dám làm điều gì…bất nhân vì sợ Tổ lấy lại nghề hay lộc
Tổ đã đãi. Thế nên khi nghe những lời nói ác độc, tôi làm lơ và tiếp tục công
việc của mình.
Tôi sợ, tôi sợ một buổi sáng đẹp trời nào đó, mở mắt dậy nói
không ra hơi, khào khào như vịt, ngan, ngỗng kêu. Chắc tôi sẽ tự tử chết cho rồi.
Có gì bảo đảm đâu? VN mình có được bao nhiêu Kim Tước, Châu Hà, Thái Thanh, Mai
Hương, Hà Thanh? Mà đâu phải lúc nào cũng có, lúc nào cũng lấy rổ đong được. 35
năm cũng là quá nhiều cho một việc làm mang ý nghĩa, giá trị tinh thần nhiều
hơn. Không hát được nữa thì tôi sẽ làm sao với bao nhiêu tâm sự ngổn ngang muốn
gởi gắm qua các bài hát. Chỉ có chết là hết chuyện.
Lê Bá Chư cũng than buồn. Ôi, đá cũng đổ mồ hôi sao? Tưởng
Chư không bao giờ buồn, không bao giờ biết buồn chứ? Băng nhạc nào ra, tuần lễ
đầu cũng bán gần chục ngàn cuốn, dưới trướng là bao nhiêu ca sĩ nổi tiếng. Có
tiền, đẹp trai lại một thân một mình, tìm đâu chả ra người yêu. Buồn cái nỗi
gì? Buồn vì sao? Than buồn rồi còn muốn… chết nữa. Gì mà ghê vậy. Có buồn thì
cũng in ít thôi, chừa lại cho anh em với chứ. Buồn thì có… danh giá gì mà dành
về phần mình hết vậy. Ơi Chư ơi là Chư, nếu quả thật có buồn thì về nhà, vào
phòng đóng cửa lại, chửi thề một tiếng thật to, hét lên một tiếng thật to là
xong ngay. Đừng chết nhé. Uổng. Đời đẹp lắm. Cũng còn những điều khả dĩ có thể
yêu được, chẳng hạn như Hội Nhớ Huế của Chư đó. Cả bọn cười vang phòng thâu.
John trố mắt nhìn, tưởng chúng tôi điên. Đường về khuya vắng
vẻ. Đoan cho xe chạy chầm chậm lướt qua những trụ đèn. Anh lẩm nhẩm hát theo một
bài vừa thâu. Tôi im lặng nhìn ra ngoài. Những trụ đèn trong đêm trông buồn bã
lạ thường. Tôi nhớ những trụ đèn ở Dalat, ở Huế, ở Paris, ở Canada. Những trụ
đèn ở đâu trong bóng đêm, cũng buồn như nhau. Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày, đêm,
mưa, nắng. Những trụ đèn vẫn đứng đó im lặng. Trông tội nghiệp ghê đi. Nó cũng
biết đau đấy chứ. Nó cũng có những niềm đau của nó. Nó cũng biết buồn đấy chứ.
Nó đang… thở dài đó. Có ai nghe tiếng thở dài của những trụ đèn đó không. Người
và xe vẫn thản nhiên lướt qua. Tôi nghĩ đến những trái ớt, những trái ổi đã
chín mà tôi định hái sáng mai.
4. Mấy hôm rồi, một mình tôi ở nhà, một mình tôi hưởng cái lành
lạnh buồn buồn, ôm cây đàn tôi tập lại bài hát mới “Có chút lệ nhòa trong phút
hôn nhau, có những vực bờ chôn theo tình đầu. Có tiếng thở dài dưới gió thu
đông. Có nỗi bùi ngùi bay đi thầm lặng.” Trời buồn, một mình buồn, bài hát buồn,
tôi chợt thấy lênh đênh lãng đãng, tôi trôi dần về kỷ niệm.
Cuộc đời tôi, mỗi bước đi qua, mỗi kỷ niệm. Vui buồn hay
thương đau cũng như nhau, cũng là kỷ niệm cũng làm lòng mình ấm lại trong những
ngày chớm thu. Tôi đang bước về khoảng trời yêu thương nhất của một thời, tình
yêu còn mới như trang giấy, mới viết một chữ yêu. Đà Lạt của năm 1962. Bắt đầu
cho tôi những ngày sống thần tiên. Tôi yêu cái thành phố - đi dăm phút lại gặp
nhau, trên những con dốc, những mái nhà ngói nhỏ thấp thoáng cao thấp trên những
sườn đồi. Con gái Đà Lạt má đỏ, môi hồng, da trắng tóc dài giản dị mà duyên
dáng nhẹ nhàng như con gái Huế. Những chiều nắng vàng, tôi trốn bạn bè lên đồi
Cù, nằm một mình dưới gốc thông, lắng nghe gió thổi mơn man trên tóc trên da,
có lúc đi bộ vòng vòng trước vườn ươm cây cạnh Hồ Xuân Hương, có lúc một mình
ngồi uống ly cà phê sữa nóng tại nhà thủy tạ đợi chiều xuống. Rồi lại một mình
đón xe đò về nhà. Đi xe đò, xe lam ở Đà Lạt cũng là một cái thú. Dù đi một mình
hay với bạn bè.
Tôi yêu Đà Lạt như yêu Huế, yêu bờ sông Thạch Hàn. Rời Sài
Gòn lên Đà Lạt, lúc đó tôi 17 tuổi. Quyết định một mình và ra đi một mình. Tôi
bắt đầu hát ở Night Club ở Đà Lạt ngày 15-11-1962. Cái nhà hàng nằm ngay bên cạnh
đường đi trại Hầm. Cũng từ ngày đó tôi tự coi tôi như người Đà Lạt, người của
Đà Lạt. Không có một nơi nào của Đà Lạt mà tôi không đặt chân đến. Không có tiệm
ăn nào, món ăn nào ở Đà Lạt mà tôi không nếm qua. Từ Mekong, Sanghai, đến tiệm
Mì Quãng Ngọc Diệp, bà bún riêu chợ Hòa Bình, bao nhiêu năm sau dù đã rời xa Đà
Lạt tôi vẫn ghé thăm mỗi khi trở lại. Phở Ngọc Lan, cơm thịt đông, dưa chua Bắc
Hương, café Tùng… Gần như ngày nào tôi cũng có mặt. Cái thành phố lên cao xuống
thấp, nhỏ như bàn tay, mọi người đều quen biết nhau. Bây giờ người đã chết, người
còn sống với bao nhiêu trách nhiệm bổn phận của gia đình. Nhắc nhớ là một chuyện
không nên. Dù lòng tôi, tận trong thâm tâm tôi, tôi không hề quên. Có điều tự
nhủ. Số phận. Mỗi người một phần số. Dòng đời trôi quanh co có khi xui người lỗi
hẹn hò. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm một thời, còn mãi những mộng mơ…
Giờ tuổi đã lớn, con cái đã lớn, có những buổi chiều mưa buồn
một mình như chiều hôm nay, tôi chợt thấy lại sống trong những kỷ niệm tôi đã
đào sâu chôn cất bao nhiêu năm… Tôi đã tự nhủ với lòng rằng tất cả chỉ là định
mệnh, trời đã cho ta thế, ta nhận thế. Tôi đã hài lòng, an phận với hạnh phúc
gia đình đơn sơ như hôm nay.
Lẽ ra tôi không nên viết những điều này lên báo. Nhưng khổ nỗi,
tôi chỉ có thể viết được những điều tôi nghĩ, không thể khác hơn… Có những lúc
cơn nhớ nhà nổi lên bất tử. Đang ngồi tự nhiên la lớn… Trời ơi nhớ nhà quá, nhớ
Đà Lạt quá, nhớ Huế quá…
Tôi ở Đà Lạt 5 năm, ai kêu ai rủ về Sài Gòn cũng lắc. Đà Lạt
với tôi là nhất. Đà Lạt như chỗ ẩn náu thần tiên, thân thiết yêu thương tôi.
Nhưng sau cùng tôi phải cắn răng bỏ Đà Lạt ra đi, để bước vào một định mệnh
khác. Một hạnh phúc. Một bất hạnh khác. Sau đó nhiều lần tôi trở về thăm Đà Lạt
như đứa con xa về nhà. Không phải xa lạ như một người khách bất chợt trên đường
ghé qua. Lần sau cùng tôi và một người của Đà Lạt về thăm nhà nhưng cây cầu La
Ngà đã gãy, chúng tôi phải trở về. Từ đó tôi không bao giờ thấy lại người đó của
Đà Lạt và cũng không bao giờ hy vọng về nhà nữa. Những đêm ngồi một mình đến 4
giờ sáng, nhiều lúc quạnh quẽ cô đơn, tôi nhớ Đà Lạt biết đến chừng nào. Nhất
là café Tùng, bến xe đò Minh Trung, và con đường hun hút thông reo qua hồ Than
Thở đến trường Võ Bị. Từ ở đó, cuộc đời tôi qua nhiều khúc quanh, từ ở đó nơi
đêm đêm tôi hát Đời ca hát ngày tháng cho người mua vui. Nơi tôi khóc ngày mới
đến, tôi đã khóc ngày ra đi, tôi đã tiếc nuối không được trở lại để sống cho niềm
mơ ước của mình một lần.
Có còn bao giờ không em. Có nỗi bùi ngùi bay đi thầm lặng, có
ai nghe thấy tiếng thổn thức đó chăng? Hay chỉ mình tôi, tôi nghe tiếng tôi thở
dài trong đêm với Đà Lạt, với niềm mơ ước của tôi.
5. “Hôm nay thức dậy không còn thấy mọi người, không còn thấy mặt
người. Vây phủ quanh đời nói tiếng yêu thương” (TCS). Hôm nay thức dậy. Một
mình. Bao nhiêu mệt mõi của một cuối tuần như ngựa. Rống như trâu. Bây giờ mới
thấm. Tôi như người mộng du. Ở San José, mở mắt dậy, tưởng ở nhà. Về đây rồi.
Còn tưởng sáng San José. 6,7 giờ sáng khi mọi người thức dậy, các con đi học
thì tôi… ngủ. 3 giờ chiều mới mở mắt. Ngày hay đêm. Ở đâu đây. Chẳng biết. Chẳng
cần biết. Mấy chục năm như thế rồi. Giờ đã gần cuối đời. Có cần thiết phải thay
đổi một… thói quen. Một thói quen mọi người cho là… xấu. Khó chịu. Nhưng đáng
yêu với tôi. Thói quen nào cũng đáng yêu. Yêu người, thương áo quen hơi ngọt
ngào. Yêu đêm tối có nỗi cô lẻ mênh mông. Hơi áo người yêu. Tôi không chia cho
ai. Ðêm tối bao la kia. Không ai chia cho tôi. “Một người điên trong thành phố”
(TCS)
Ði. Về. Rồi lại đi, về. Cứ như thế. Chẳng cần biết nơi mình đến
trời có xanh? Nơi mình về trời có vui? Những thành phố giống nhau đến nhàm
chán. Những khuôn mặt da trắng, tóc vàng, mắt xanh..nhìn hoài thương không vô.
Tôi đi ngơ ngác, chán chường với một điểm hy vọng nhỏ nhoi. Ðến với người mình
còn yêu. Và còn yêu mình.
Trời đã vào thu. Cơn mưa bất chợt phủ trùm thành phố. Vẫn tìm
đến như đã tìm đến nhau. Mưa ngoài trời. Mưa trong lòng, trong mắt trong cả môi
cười. Ðến với nhau. Lòng như đại dương. Tình như non cao. Giữa đời suối khe.
Mưa nữa đi. Lạnh thêm chút nữa. Cho lòng thêm chút ấm. Vẫn chưa đủ, vẫn còn xa
quá. Bao nhiêu cho đủ. Bao nhiêu cho vừa. Xuân. Không thấy xuân vui. Hạ không
thấy lòng bớt nhớ những chiều qua phố xưa. Thu. Nỗi nhớ nhiều hơn. Nhớ nhiều
quá. Yêu nhiều quá những cơn mưa phùn Ðà Lạt, những con dốc nhấp nhô, mái nhà
ngói đỏ phơi mình giữa màu xanh của lá. Chưa lạnh lắm nhưng đủ để thu mình ở một
góc nhỏ café Tùng. Hơi nóng từ ly café chuyền qua ấm dần hai tay giá lạnh. Thú
vị lắm. Ngồi ở nhà Thủy Tạ, một mình nhìn mưa bay trên Hồ Xuân Hương. Mưa bay dịu
dàng. Nỗi buồn cũng dịu dàng. Trong cơn điên dịu dàng. Mướn Taxi chạy xuống phi
trường Liên Khương. Không đón đưa ai. Ðến để nhìn mọi người đưa đón nhau. Xem
xem vui buồn đến đâu. Chạy lên phi trường Cam Ly, cũng chẳng đến đưa ai. Phi
trường vắng lặng. Phi đạo nằm soải im lìm chờ đợi. Như một người chờ một người.
Người không đến thì ta đi. Phi đạo nằm lại. Tiếp tục chờ đợi. Nắng. Mưa. Ngày.
Ðêm. Phi đạo Cam Ly vẫn còn đó.
Bốn mùa buồn. Bốn mùa chờ đợi. Một chờ đợi cũng dịu dàng. Nhớ
Saigon. Chạy ra chợ Hòa Bình rinh một sọt chuối Laba. Nhẩy lên xe đò Minh
Trung. Ði ghé Ðịnh Quán ăn cơm thịt heo quay. Xe ghé Ðịnh Quán cũng lại cơm. Tới
Saigon chỉ ở lại một ngày. Làm một vòng Saigon-Chợ Lớn. Phân phát hết sọt chuối.
Lại nhảy lên Minh Trung về lại Hồ Than Thở. Nhưng không thở than.
Một thời 20 rất bụi đời, rất vỉa hè. Ðến như gió. Ði như gió.
Từ đâu tới. Ði về đâu. Không biết. Không cần biết. Ðáng yêu biết bao những ngày
tháng mây trời, biển khơi. Phà khói thuốc vào sương mù Ðà Lạt. Buổi sáng thức dậy,
ngửi mùi thơm của thông. Nghe thông hát reo nhè nhẹ. Mặc áo len cổ tròn, quàng
cổ, quần jean, thế là… xuống phố. Có lúc đi giữa mưa vẫn nghe tiếng chân mình rộn
rã reo vui trên mặt đường loang nước. Từ ngã tư. Xe đò, xe lam từ hướng Chi
Lăng chạy ra. Bước lên xe ngồi xuống. Bao giờ tôi cũng nhìn ngoái lại trường tiểu
học Phan Chu Trinh nằm bên kia đường. Tôi đã học ở đây năm 1956. Xe qua nhà
vãng lai dành cho các sĩ quan Không Quân nghỉ mát. Qua ga xe lửa. Tiệm phở ở ga
ăn cũng khá. Ðổ một con dốc. Rồi một con dốc nhỏ nữa, qua nhà thương Soyer. Trường
Yersin. Xe cứ chạy. Tay trái là sân vận động, sân tennis. Khách sạn Palace. Ðường
rẽ lên nhà thờ chánh tòa Ðà Lạt. Bên phải là Hồ Xuân Hương. Vòng theo một bùng
binh. Ngang qua quân Vụ Thị Trấn, xe đò lên dốc. Vào bến đậu ngay cạnh café
Tùng. Vào làm một ly đã. Mọi chuyện tính sau. Ngày nào cũng thế năm năm như thế.
Không thay đổi.
Không ai có thể “bẩy” tôi ra khỏi Ðà Lạt lúc đó, dù là ông
Cương khểnh, dù là ông Trịnh Công Sơn, dõi theo từng bước chân tôi những chiều
đến giáo đường một mình. “Sợi tóc em bồng trôi nhanh trôi nhanh”. Những cùng sống
mỗi người một đời nhỏ nhoi, mỗi người một góc trời nhỏ nhoi. Sơn không biết gì
về tôi. Tôi không biết gì về Sơn. Không cần thiết. Sơn không bao giờ hỏi. Tôi
không bao giờ hỏi. Một người hát nhạc một người. Anh Sơn và Mai. 20 năm trước
như thế và 20 năm sau cũng vẫn như thế. Một người hát nhạc một người. Anh Sơn
và Mai.
Tôi chỉ thực sự là tôi. Thực sự hạnh phúc khi hát nhạc anh Sơn.
Ngoài ra chỉ là một thứ hạnh phúc mong manh. May ra rực rỡ hơn cho cái hạnh
phúc thật sự của mình. Ðó là sự thật. Tôi chỉ thuần phục một người. Ðó là Trịnh
Công Sơn. Không bao giờ hối tiếc. Sau này có ông Trầm Tử Thiêng. Tôi không bao
giờ hối tiếc.Trong đời, tôi cũng đã gây nên nhiều lầm lỡ. n hận hối tiếc đã nhiều.
Những vấp ngã ít người tránh khỏi. Nhiều hay ít mà thôi. Song trời đưa đẩy tôi
gặp Sơn. Trời cho tôi những ngày đẹp đẽ đáng yêu nhất. Tôi không bao giờ hối tiếc.
Nếu có kiếp sau. Tôi cũng xin gặp lại Sơn, như đã gặp. Ở Ðà Lạt. Ở Việt Nam.
Mùa đông cũng đã gần kề. Mùa đông Ðà Lạt như mùa thu kéo dài.
Thêm chút lửa ấm từ lò sưởi ngọt ngào mùi gỗ thông. Ðêm Ðà Lạt bao giờ cũng lạnh.
Hơn, kém một tí cũng không cho ta thấy rõ mùa đang chuyển. Bốn mùa xoay quanh
những thói quen đáng yêu. Hương café thơm ngát qua bao nhiêu suối khe đồi núi.
Dốc tháp, dốc. Mái nhà ngói đỏ và mùi thơm của gỗ thông. Tôi yêu Ðà Lạt vô chừng.
Như một người tình. Hơn một người tình. Tôi rời Ðà Lạt không ngờ, như khi đến.
Rời xa mà vẫn yêu. Yêu nhiều hơn vì trong cái yêu có cái tiếc nuối mặc dù sự việc
rời bỏ Ðà Lạt năm 1967 đã đưa tôi đến một đổi thay, đến một hạnh phúc may mắn
không bao giờ tôi dám nghĩ đến. Năm 1964 khi Trịnh Công Sơn rủ tôi về Saigon đi
hát với anh. Tôi từ chối. Không phải vì không yêu nhạc Sơn. Nhưng lúc đó tôi
yêu Ðà Lạt hơn. Cái lối sống xô bồ, ồn ào mánh mung của Saigon không hợp với
tôi. Trong khi đó Ðà Lạt là thiên đường. Êm ả, trong sáng. Saigon đó có một chỗ
đứng nào cho tôi. Là một người không hề có một chút tham vọng. Thích an phận, bằng
lòng với những điều mình có. Một đứa con gái tầm thường như tôi. Những ngày
tháng ở Ðà Lạt đã là một an ủi quá đủ rồi. Với làm vui chi những điều quá xa vời.
Cũng không hề mơ ước một đổi thay. Hơn thế nữa con người tôi, tâm hồn tôi hợp với
Ðà Lạt hơn. Thế mà rồi tôi đã rời xa nơi chốn đã cho tôi biết bao ngày tháng đẹp
đẽ trong sáng.
Một ngày của năm 1967. Tôi đến Nha Trang. Vùng biển xanh, cát
trắng. Không một chuẩn bị nào cho nơi chốn mới. Thì cũng đến hát là cùng. Vẫn
còn cơ hội để không trở lại Saigon. Một vài tháng phù du đủ làm đời tôi nổi
sóng. Nha Trang không có gì quyến rũ. Nha Trang tầm thường quá so với Ðà Lạt.
Nhưng tôi không muốn trở về Ðà Lạt. Nơi đã tặng tôi một bất hạnh. Một người đã
cho tôi sự sợ hãi, ê chề không tưởng. Trên một chuyến xe đò. Tôi và các con tôi
đành phải trở lại Saigon. Một nơi chốn cũng đã làm tôi sợ hãi. Cùng với hạnh
phúc tuyệt vời. Tôi cưu mang cho đến cuối đời.
Mùa thu nhẹ nhàng cho những tâm hồn đa sầu đa cảm, đa tình,
lãng mạn. Gợi biết bao nhiêu cảm hứng cho thi, văn, nhạc sĩ. Mùa thu là mùa đẹp
nhất trong bốn mùa. Ðông đến. Mùa đông ở xứ Mỹ bàng bạc khắp nơi mầu trắng của
tuyết. Cái lạnh lẽo bao trùm cả trời đất. Cả lòng người. Nhất là những người xa
quê hương lưu lạc trôi nổi. Giáng sinh đã gần kề. Gần lắm rồi. Ở đây Giáng Sinh
được đón chờ nhiều hơn Tết Nguyên Ðán. Bà con gửi thiệp cho nhau. Quà cáp tặng
nhau. Người lớn, trẻ con. Ai có phần nấy. Rộn ràng nhộn nhịp trong tiếng nhạc
đón mừng con một Ðức Chúa Cha xuống trần gánh chịu tội lỗi của loài người. Và tội
lỗi đó vẫn tiếp tục một cách thản nhiên. Chắc Chúa cũng phải hối hận khi đặt
loài người trên tất cả mọi loài. Nhưng dù gì, mọi người, mọi nơi đều rộn ràng
chờ đón Giáng Sinh. Giầu có thì huy hoàng. Nghèo khó cũng ráng cho được một cây
thông nhấp nhánh những ngọn đèn xanh đỏ, tím vàng. Gọi là có với gia đình. Ấy,
đôi khi nghèo mà vui. Bạn bè vài ba người quay quần bên mâm cơm. Ôn lại kỷ niệm
cũ. Bạn bè cũ. Ðứa nào còn, đứa nào đã về với Chúa. Hạnh phúc, niềm vui, không
tìm được ở nơi chốn ồn ào náo nhiệt. Ở những nơi đó thường thiếu sự thật thà, sự
tử tế. Bởi có những người đến với nhau không có lòng thật thà, không có lòng tử
tế. Cả hai điều này ngày càng ít đi.
6. Một ngày đối với người như tôi dường như hơi ngắn. Tôi chưa kịp
làm gì, trời đã tối. Ngày ngắn nhưng đêm lại quá dài. Không biết làm gì cho hết
đêm. Có người bảo cứ nghĩ đến những việc sắp làm song càng nghĩ lại càng tỉnh.
Có người bảo cứ mở TV coi cho mỏi mắt sẽ ngủ. Coi cái phim dở thì mở qua đài
khác. Gặp phim hay, hấp dẫn quá quên… ngủ luôn. Có người bảo đọc sách cho mỏi mắt.
Sách hay quá, truyện tuyệt vời phải xem cho tới hồi kết không bao giờ có chuyện
ngưng nửa chừng. Thì tìm sách..dở mà đọc, chán quá sẽ ngủ. Chán thì có chán
nhưng ngủ thì không. Lại đi mò tìm sách khác và tới sáng trắng. Nhớ tới câu ru
con ngày xưa..Con cò mày đi ăn đêm. Ðậu phải cành mềm. Lộn cổ xuống ao. Tôi là
con cò và tôi muốn lộn cổ xuống ao cho rồi.
Nói ra thì lại bảo là sao cứ kêu rêu hoài, than thở hoài, tôi
không kêu, không than đâu mà là một chút tâm sự thôi. Không lẽ cũng bị cấm nữa.
Bảo là ở với cộng sản bị cấm đoán, bị đe dọa, bị lên án đã đành. Ở đây xứ tự
do, đàn bà lại đứng thứ 2 chỉ thua con nít. Vậy mà hở ra cái gì cũng bị… cấm
thì… ít vui. Kỳ quá. Vả lại tôi đã nói rất nhiều lần là tôi chỉ viết và viết..về
tôi và các bạn tôi mà thôi. Về bạn thì dù có bị bạn chửi cũng… quen rồi. Còn về
chính tôi, nhiều điều để nói ra, viết ra. Người lạc quan yêu đời sẽ cười dễ
dàng vì những cái lẩm cẩm, ấm ớ của đàn bà. Người yếu đuối, bi quan, lòng mềm yếu
dễ ngậm ngùi thương cảm. Tôi chú ý viết để các bà các cô đọc chơi. Cùng phận
đàn bà dễ chia sẻ, thông cảm những rắc rối về công việc, đời sống, chồng con. Những
điều rất nhỏ nhoi trong đời sống song đôi lúc, cái nhỏ nhoi đó làm ta đau đớn
không cùng. Ðau mà không nói được, không cho nói thì… chết sướng lắm.
Ðây nhé, sáng nay tôi thức dậy, đánh răng rửa mặt xong, mở tủ
lạnh lấy đá, đập nhỏ bỏ vào ly café sữa, chồng đã pha sẵn cho. Xong, bắt tay
vào việc liền. Cái việc mà tôi rất sợ hãi, rất nãn lòng. Ðiện thoại cho các đại
lý. Nhưng sao lại sợ, sao lại nãn. Bán được hàng thì có tiền để sống, đó là một
công việc… quá nhẹ nhàng, dễ dàng và nhàn hạ mà. Ðại lý nào cũng quý hóa, dễ
thương. Thăm hỏi dăm ba câu rồi là đặt hàng. Nhiều khi hai bên tâm sự ba điều bốn
chuyện, vui lắm chứ. Vậy thì sợ đây là sợ cái câu hỏi của các đại lý. Băng hay
không Khánh Ly? Làm sao tôi trả lời. Nếu mời băng cho một người khác, tôi sẽ rất
mạnh miệng để trả lời một cách hùng dũng rằng. Hay lắm. Tuyệt. Bây giờ chẳng lẽ
tôi lại khen… tôi rằng… hay. Dạ em không biết, xấu đẹp tùy người đối diện. Dạ
chắc cũng không đến nỗi nào tệ lắm. Ðại khái là vậy. Cái thứ hai là, “sao băng
cô mắc thế, làm sao bán?” Cái này cũng khó cắt nghĩa. Vô lý lại đề cao băng tôi
vì thế này, thế kia nên phải bán giá cao, băng người khác vì thế kia, thế nọ,
nên giá hạ hơn. Cả hai đều tôi nói đều không được. Rồi các đại lý vẫn đặt hàng
và rồi tôi vẫn rất sợ, rất mệt trong những lần phát hành băng. Mà nếu tôi không
là người kêu cho đại lý thì không ai có thể làm được.
Việc tưởng dễ mà không dễ. Tỷ như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên
cho bà con té khơi khơi chỉ vì một… sợi tóc vướng chân người ấy mà. Tỷ như Trịnh
Công Sơn đã vẽ ra bức tranh tuyệt vời, mặt hồ nổi sóng, đời người đã lênh đênh
chỉ vì một… giọt nước mắt của em. Thấy không, chỉ một sợi tóc, một giọt nước mắt
mà biết bao trái tim thổn thức khổ đau. Nhưng đấy là cái thổn thức khổ đau vì
yêu nên rất… thơ, rất… nhạc. Tôi đang khổ đau, tim cũng nhức nhối vì bấm điện
thoại liên chi hồ diệp. Cái khổ đau thổn thức rất… người và rất khó. Ðại lý lấy
băng mới. Lấy thêm băng cũ. Ghi, ghi, chép, chép. Chừng một tiếng đồng hồ, hai
tay, cổ mỏi nhừ, mắt muốn nổ đom đóm vì phải đeo cái kính..lão vào mới thấy đường
mà ghi chép. Chỉ ghi chép thôi còn việc tính tiền thì có Misa hay Ðoan. Chả là
từ bé đến lớn, dù được đi học (hết bậc tiểu học Cầu Kho chứ ít sao) tôi cũng
chưa bao giờ một mình làm được một bài toán. Dốt thì cũng dốt vừa vừa thôi chứ.
Bao nhiêu cái dốt dành lấy hết, làm sao sống (ủa sao cái này không thấy ai
dành). Như có lần bán băng cho ông Hoàng Ngọc Ẩn ở Houston, vừa điện thoại, vừa
tính tiền. Hơn ngàn anh Ẩn à. Tuần sau đó ông Ẩn qua Cali ghé nhà ăn cơm. Ðoan
lấy sổ ra xem. Em cộng thế này mà cộng được à, lấy ở đâu ra mà cộng như thế.
Tôi cười. Thì anh cộng lại, sổ sách còn dó chứ có mất đâu, tiền thì vẫn nằm
trong túi anh Ẩn, có sao đâu mà… lên giọng.
Việc tính tiền là của Misa và Ðoan. Ngay cả đến việc xếp băng
vào thùng tôi cũng làm không được vì nếu có thì thế nào cũng… lộn, hoặc dư hoặc
thiếu. Ðoan lại phải đổ ra và đếm, xếp lại..từ đầu. Nhưng những việc đó dễ thôi
phải không. Cái khó và khổ nhất tôi đã gánh. Tôi phải gánh thôi bởi chỉ mình
tôi biết ông Ðoan là chồng tôi chứ đại lý biết ông Ðoan là ai. Chẳng lẽ lúc đó
lại giải thích rằng tôi là chồng cô này, chúng tôi lấy nhau mười lăm năm rồi…
vân vân và vân vân… Xin quí vị mua băng của… vợ tôi. Ðoan không chịu làm. Người
ta biết em và người ta quý em thì chỉ có em gọi được thôi. Ðoan nhất định, một
hai gì cũng… không. Mà thật ra Ðoan không làm việc này là… đúng. Thế thì dang
ra cho… con già này làm việc. Gọi điện thoại cho đại lý liên tiếp 3 ngày và
ngày nào cũng vậy, lúc buông cây bút xuống, gỡ cái mục kính ra. Tôi mới nhớ là
suốt cả một ngày tôi chưa ăn gì. Ðói gần chết.
Ðã nói là trong cái khổ nó có cái vui. Thực thà mà nói thì
chưa có đại lý nào nỡ nói với tôi những lời nói nặng. Chỉ nhẹ nhàng. Sao cô để
băng giá mắc quá. Thế thôi. Và sau cùng cũng lấy. Nói nặng thì không nỡ nhưng hốt
hụi rồi… chạy luôn thì có. Khi thấy con số lên đến bạc ngàn mà mình thì… rách,
bèn nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng. Chị thông cảm gửi cho em để em lấy băng mới đã
sang xong nhưng… không tiền, thì bèn được một câu cũng nhẹ nhàng không kém. Ồ
mình… sang tiệm rồi để mình tính rồi mình gửi cho Khánh Ly ngaỵ Cái “ngay” đó
hình như không bao giờ có. Có nơi tháng trước mới order băng. Tháng sau liên lạc
lại. Ðã đổi chủ. Cũng nhanh như Sài Gòn đổi chủ vậy. Ôi giời cao đất dày ơi. Chết
em. May mà lâu lâu mới bị một vố chứ nếu bị hoài chác tôi lên… bàn thờ lâu rồi.
Bình thường, tôi làm cái gì cũng nhanh. Ði, đứng, ăn nói, làm
cơm rửa chén, 30 giây. Nhưng hôm nay là ngày phát hành video “Một Ðời Việt Nam”
của tôi thì cả Ðoan lẫn tôi cùng đau ốm bịnh hoạn. Hôm đi lấy video về, Ðoan đã
không khỏe nhưng thấy ông em rể lể mể khiêng hết thùng này đến thùng khác, vô
lý mình đứng… ngó, vô lý mình chơi cái. tình lờ. Bèn hùng dũng ra cái điều
không răng mô. Nào hay già cả rồi chịu sao thấu, trật xương, cụp xương, cụp
xương gì không biết mà qua ngày hôm sau, chàng đi như người… đau lậu. Vì tôi ngủ
riêng nên chàng kể cho 2 sư phụ Thiện và Thiêng và tôi nghe là sáng nay chàng
phải… bò dậy, bò ra mặc quần áo, bò ra đi giầy, bò ra xe và lái đi mua thùng giấy.
Về đến nhà chàng hô hào Misa, Cu và hai cô cháu từ Phila xuống chơi, ra xe
khuân thùng vào, lấy video lên bắt đầu làm việc. Con, cháu tôi thay vì hôm nay
đi biển chơi bèn được cho lao động vinh quang. Song chàng hứa sẽ chi tiền cho
các con, các cháu đi Magic Mountain chơi. OK xong ngay. Từ trưa tới chiều vô
thùng được hơn ngàn cuốn. Mệt quá rồi, 6 giờ rồi. Nghỉ cái đã. Tôi ăn vội miếng
bánh chưng còn thừa ngày hôm qua vì đói quá rồi. Tụi nhỏ rút vào buồng coi TV.
Sư phụ Trầm Tử Thiêng lên chở Ðoan Hố Nai đi bác sĩ. Không biết bác sĩ Nguyễn
Xuân Quang phán làm sao, lúc chàng về, tay xách hộp Pioneer Chicken, mặt mày
nhăn nhó. Dám phải mổ lắm. Cái gì. Mổ chứ gì, ngày mai đi chụp hình, bác sĩ
Quang nói là cái xương nó… đè… cái gân. Có thể phải mổ, không thì… liệt luôn,
phải chụp hình ngày mai. Tôi không cùng đi với Ðoan nên không biết cái
xương..nào đè cái gân nào. Không sao đâu anh. Ở đây mổ xẻ là chuyện thường như
người ta mổ… gà vậy. Sư phụ Trầm Tử Thiêng tay xách dùm Ðoan pack beer cằn nhằn.
Tôi đã bảo rồi mà, ông đã bị cụp xương một lần rồi là phải cẩn thận, già rồi,
cái gì bây giờ cũng phải sợ. Hai ông già ngồi giữa một đống thùng băng ngổn
ngang.
Số là tuần rồi ở Houston về. Tôi bỗng bị trở lại cái bệnh nhức
tay, nhức chân. Thường thì bệnh này hay tác quái vào mùa lạnh. Mấy tháng qua tưởng
đã đỡ. Nhưng bệnh ở trong xương làm sao mà rờ. Tôi ngủ không được chong đèn đọc
sách chờ mắt mỏi. Chờ đến 8 giờ sáng vẫn không ngủ. Ðoan mở mắt thấy tôi còn ôm
cuốn sách, không hiểu vì sao, lại cằn nhằn sao tôi mê truyện không chịu ngủ. Phần
vì đau nhức suốt đêm, phần thì mệt vì không ngủ. Tôi bổng nổi cơn điên, phóng
xuống giường tìm thuốc ngủ rồi ôm mền gối qua phòng con. Ðoan hoảng hồn chụp
tôi lại, nhưng lúc đó cơn tủi thân đang lên cao. Tôi la bài hải, tôi nhất định
không thèm ngủ chung. Tôi nhất định không làm phiền ai dù người đó là chồng,
con tôi. Ấy cái tính tôi vậy. Hay tự ái, tủi thân với chồng con. Do đó lúc Ðoan
bị đau tôi không biết. Cứ nghĩ là chàngg đau sơ sơ, đau ít thôi nhưng nhỏng nhẽo
một chút để làm huề dù sáng hôm sau Ðoan đã xin lỗi mà tôi còn chưa chịu huề.
Ðoan đau như vậy, chỉ làm được việc nhẹ. Ði bác sĩ thì nhờ sư
phụ Trầm Tử Thiêng, Thiện chở đi. Còn lại mấy mẹ con, bác cháu. Làm mệt nghỉ. Hết
mệt làm tiếp. Và khi tất cả mọi người đã ngủ yên. Tôi vẫn lụi hụi ngồi một mình
viết viết ghi ghi buồn vui của một ngày cho Du Miên. Ðến 4 giờ sáng tôi vào
phòng Misa nằm đọc truyện tiếp chờ giấc ngủ, 5 giờ rưỡi mò lấy thuốc ngủ. Uống
đại để ngủ cho rồi.
Tôi uống đủ mọi thứ thuốc. Cảm nặng, trúng độc thì trụ sinh
triền miên. Ðau nhức uống thuốc Bắc. Không hết thì thuốc ngủ. Thuốc như kẹo, uống
như một thói quen. Uống cho quên đau. Quên đời. Và nếu có một buổi sáng đẹp trời
nào đó, tôi không mở mắt ra được nữa thì xin đừng ai ngạc nhiên. Lỗi tại tôi mọi
đàng. Lỗi tại tôi đó thôi. Ðừng ai suy diễn lòng thòng thêm rắc rối. Ðừng bảo rằng
chồng tôi..thuốc tôi. Giết tôi. Rồi mỗi người suy diễn một kiểu. Mỗi người cho
tôi chết một kiểu khác, kiểu nào, cách nào thì cũng ly kỳ. Như mọi người đã từng
làm với tôi và với người khác.
Cả tuần nay không nấu nướng gì. Phần đau lại lu bù công việc,
thôi thì bạ cái gì ăn cái đó. Mọi người Hăm-bơ-gơ riêng mình tôi là cơm. Ăn để
mà sống thì ăn sao cũng được, nhét bất cứ cái gì cho đầy bao tử là được rồi.
Nghỉ được vài ngày lại bắt tay vào việc mới. Mix băng đã thu.
Thâu project mới để dành, 11 projects đã thâu xong từ lâu. Ðể đó. Có dư được
chút ít là tôi lại đổ vào băng nhạc. Chúa thương cho tôi một giọng hát. Chúa có
thể lấy lại bất cứ lúc nào. Tối nay còn véo von. Sáng ra có thể không còn nghe
tiếng nói, không còn nói được. Vậy thì cứ hát để đó. Ðủ làm vốn cho con xong Ðại
Học. Việc đời đã lo xong. Tôi có thể bỏ hết thì giờ cho đạo.
Theo gương bà mẹ chồng của tôi. Mấy tháng nay, tôi gia nhập hội
các bà mẹ Công Giáo Cộng Ðoàn St Columban, linh mục Mai Khải Hoàn là cha Quản
Nhiệm, vậy mà tôi chưa làm được việc gì cho hội. Nói ra thêm xấu hổ. Tôi có lỗi
vô cùng. Khổ cho tôi một điều là các buổi họp thường nhằm vào Chủ Nhật đầu
tháng, lúc 10 giờ sáng. Thường thì giờ đó tôi đang ở trên máy bay hoặc đang ở
phi trường chờ tầu. Xấu hổ thêm nữa là tôi không lái xe. Ði đâu cũng phải nhờ
Ðoan hay Misa. Phiền hà cách chi ấy. Cho nên lòng tôi cứ áy náy xốn xang hoài.
Nhiều lần xem lễ xong, tôi lẻn về. Trốn, không dám gặp cha.
Khổ vậy đó. Tôi có nhiều nỗi bận tâm mà chồng con không chia
sẻ được. Ðành phải ghi trên giấy. Trình làng với bà con. Mong sự thông cảm, kẻo
tôi điên… thêm. Ðánh vật với đời sống ở đây. Ðánh vật với con cái. Không điên
cũng uổng. May mà thuốc ngủ đã giúp tôi… quên được rất nhiều điều. Thật vậy 30
năm qua tôi uống liên miên nên bây giờ ruột để ngoài da. Nói trước quên sau. Ai
nói gì với tôi chỉ vài phút sau là tôi… quên hết. Bạn bè biết tính tôi, biết
cái bệnh của tôi nên giận mãi cũng chán, bèn không thèm để ý nữa. Tôi lại không
nhớ cả ngày, tháng. Luôn cả đồng hồ tôi cũng liệng luôn. Thế là không biết gì cả.
Thấy trời còn sáng thì đó là ngày.Trời tối là đêm. Thế thôi.
Tôi khổ đấy rồi tôi vui đấỵ Các bạn bảo tôi điên. Tùng Giang
thì. Không. Mai đâu có điên, Mai vẫn còn… tỉnh hơn người… tỉnh. Nói thế thì có
khi Tùng Giang Phạm này cũng… điên và điên hơn tôi nữa. Nhưng tội gì. Ðược cho
là tỉnh hơn người tỉnh cũng mất mát gì đâu. Thầy Thiêng nói. Bộ bây giờ đến cái
điên cũng dành nhau à. Bèn ngồi im cười. Ðiên cũng được. Tỉnh cũng được. Dốt
cũng được. Nhưng đừng… ngu. Tôi không thích.
7. Mùa thu không có ở Cali. Dường như không có thấy chớm lạnh.
Mùa đông đã đến, cơn nóng dữ dội vừa dứt, cái lạnh đã ụp xuống. Tôi vốn rất yêu
mùa đông nhưng là những mùa đông xưa. Ngày còn trẻ kìa, ở thành phố đi dăm phút
đã về chốn cũ. Mùa đông ở Ðà Lạt, ở Huế, ở Quảng Trị, ở Pleiku. Thời đó, chúng
em còn nhiều mộng mơ, còn yêu say, thấy nước mắt cũng cho là… kim cương. Thời
đó… thời đó… đã qua, không bao giờ còn trở lại. Mình chỉ được quyền cuồng điên ở
một thời nào thôi. Bây giờ… xếp tàn y để giữ dành hương. Mai sau dù có bao giờ
trở lại những nơi chốn cũ. Sẽ phải có một lần trở lại chứ. Ðể chảy nốt, chảy
cho hết nước mắt còn giữ lại. Rồi thôi. Rồi không bao giờ nữa. Dòng nước vô
tình vẫn lặng lẽ chảy dưới chân cầu đã gãy. Lối về đã không còn. Mà dù có còn,
cũng không nên, không thể.
Mùa đông ở đây có đẹp, với chúng tôi cũng không còn nguyên vẹn
sự đợi mong khi phải… xé con mắt dậy lúc 5 giờ sáng, chạy vùn vụt trên xa lộ
trăm ngàn exit. Lúc nào cũng vất vả, hấp tấp ngược xuôi chạy xấp, chạy ngửa giữa
các phi trường. Tôi không còn dám tả cảnh mùa đông thơ mộng như ngày đi thi tiểu
học đã tả cảnh mùa hè sái buổi chợ, khi mà cái đầu nhức, sổ mũi ho hen kèn cựa,
ho như chó sủa đêm đêm. Chồng tôi rất… chán đời khi nhìn thấy con vợ chơi một bộ
đồ ngủ dầy cộm, chơi thêm một… đôi vớ len, trông rất nản. Không còn một tí ti
ông cụ nào là hấp dẫn, là thơ mộng… Tôi cũng biết chồng tôi thích nhìn thấy ở
tôi… cái vẻ sẵn sàng… rước cụ. Song tôi không bao giờ ở trong tư thế sẵn sàng
chờ đợi. Biết đến lúc nào thì mất chồng đây? Ðiều đó dễ xẩy ra thôi. Tôi sẽ
không còn ngạc nhiên nữa. Bây giờ, sau trận đau lê lết, chàng cám ơn con vợ những
lúc bưng bô, tắm rửa bèn… ngứa nghề làm thơ… ơn em sinh tử có nhau. Mai kia mốt
nọ, khỏe mạnh rồi bỗng thấy… ơn em nhẹ hơn… sợi lông, sợi tóc. Thổi nhẹ một cái
là ơn em bay mẹ nó đi mất.
Tôi không đánh giá chồng tôi thấp thế đâu nhưng… đời mà. Giầu
vẫn hơn nghèo. Ðẹp vẫn hơn xấu. Mới vẫn hơn cũ. Ðến các con tôi còn… chê tôi
old fashion nữa cơ. Mà ngay chính tôi cũng thấy mình… quê mùa thế nào ấy. Nhưng
tôi thế đấy. Không bao giờ thay đổi. Vả lại, hát về, mệt bỏ mẹ đi còn hơi sức
nào… o bế chồng. Hôn con thì OK, vuốt má chồng một cái cũng OK, chỉ thế thôi.
Có lẽ tôi thích những gì có vẻ… thơ mộng, lý tưởng như kiểu một
mái tranh, hai trái tim vàng, một… lu nước lạnh, yêu nhau, cầm tay, ngồi cạnh
nhau cũng đủ rồi. Yêu cái kiểu ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày… sắp tới. Ở tuổi
tôi yêu kiểu đó mất chồng như… khều. Vậy mà tôi chấp nhận thương đau nếu có để
sống theo ý tôi. Cái quần, cái áo, đôi giầy, tại sao tôi biết nâng niu giữ cho
mới hoài mà tình yêu mình lại xem nhẹ. So sánh với quần áo, giầy dép với tình
yêu coi bộ… không ổn song cái ý của tôi là những vật nhỏ mà mình còn quí huống
chi tình yêu. Vợ chồng ngoài tình yêu còn cái nghĩa. Sống với nhau cả đời, đi
đâu mà vội. Cơm chưa nấu thì gạo vẫn còn đó. Phải như vậy thì tình yêu nó mới
không cũ, không chèm nhẹp.
Quan niệm về tình yêu của tôi hơi… quái đản nhưng chắc cũng
có người đồng tình, đồng ý. Dầu những cảnh đổ vỡ thương tâm cũng đã xẩy ra
nhưng đó là tại… khi tình yêu đã hết. Tình đã hết thì còn cố buộc làm chi cho
khổ cả… làng. Chẳng thà đường ai nấy đi, sau này có gặp lại cũng lời được… câu
chào. Vợ, chồng, cũ, mới cứ tứ hải giai huynh đệ cho nó… đẹp. Hận thù làm người
ta… xấu đi. Mà có chết ai đâu, chỉ thỉnh thoảng mới xẩy ra điều không may. Còn
thì rồi đâu cũng vào đấy. Ai yêu ai, lấy ai cũng được bởi tình yêu thiêng
liêng, cao quí vô cũng, chín sông cũng lội mà vạn đèo cũng qua cơ mà. Tất cả là
duyên, nợ đã được định trước chứ nào phải khơi khơi gặp nhau, yêu nhau, lấy
nhau rồi bỏ nhau.
Em thật… quái đản. Em là một thằng đàn ông - Ừ, em là cái gì
cũng được, anh có chán, có tìm được người khác, nhớ… đánh điện tín cho em biết.
Mẹ Mai này… ly kỳ thiệt - Ồ, bây giờ Misa mới biết à - Mẹ Mai này… phiền hà quá - Lâu rồi con. Hai mẹ con cười. - Misa cũng ly kỳ cũng phiền hà vậy - Thì giống
mẹ đó - Misa trả lời rất ngon lành. Cu Hố Nai thì không thắc mắc về mẹ. Nó yêu
mẹ hơn, sợ mẹ hơn và chỉ làm tình làm tội bố nó - Ðấy, Hố Nai muốn xử nhau sao
thì xử - không xong thì giao cho tôi - Xử gọn và đẹp. Một là một chứ không có
hai.
Thế thì dù hỏng về mặt này. Tôi cũng không đến nỗi tệ về phía
khác. Phỏng? Ráng lo cho gọn gàng trong ngoài để còn… chạy nữa chứ. Tôi đi khỏi
nhà sẽ… sạch hơn… thơm hơn. Theo lời Misa. - Bìa băng sẽ được đưa cho ông đạo
ngâm. Băng sẽ được mix. Mẫu quảng cáo sẽ được hoàn tất. Ðó là lời Ðoan. - Vậy
thì các… đồng chí cứ việc ở nhà lo công việc, chê tớ thì tớ… đi. Chê tớ nhưng cứ
thử… đốt đuốc đi tìm khắp năm châu bốn biển, xem có tìm được một người… quái đản
như tớ không.
Nói vậy có nghĩa là tụi tôi chuẩn bị lên đường. Nói có trời
thương, tuần nào cũng chạy vắt giò lên cổ. Song cực khổ chừng nào nên mừng hơn
là buồn. Vì có nghĩa là còn được mọi người… nghe. Cứ tong tả hết nơi này đến
nơi khác. Nóng cũng đi, lạnh cũng đi, xa gần không cần biết. Ðược hát là vui rồi.
Ðứng ngay trên sân khấu quên mẹ nó hết cả buồn phiền, nếu có, quên luôn cả chồng
con. Ði đến nỗi nhiều khi valise khỏi mở luôn, để tuần sau đi tiếp. Tay chân bại
xụi cũng vì xách valise chạy như giặc. Các con tôi đã quen với những chuyến đi
của tôi. Hà Khánh Hội hăm - Chị Mai đi hoài coi chừng anh Ðoan đó nhe - Khỏi
hăm em, xứ này Tự Ro mà, bộ cứ ôm riết lấy nhau rồi không mất chắc. Hà bồi thêm
nhưng đi đâu thì đi, nhớ… bài cho em.
Lạy Chúa tôi, tôi là Bionic Woman chăng, là Tề Thiên Ðại
Thánh chăng. Tôi đâu có tài phóng bút như Du Miên dù đôi khi cũng muốn thử
nhưng sợ phóng mạnh quá, mất mẹ nó… bút, lấy gì mà viết. Ðọc sách, truyện của
các nhà văn, thấy họ viết sao hay quá, hấp dẫn, mê ly quá, mạch lạc dễ dàng
quá. Còn tôi chữ nghĩa thì què quặt, ý tứ nghèo nàn. Viết một bài còn khó hơn
đi… đẻ. Thảo nào người ta là văn sĩ, còn tôi là ca sĩ. Ham vui chi cho khổ, mua
dây buộc vào người rồi than. Tôi mệt quá, tay mỏi, cổ mỏi, mắt mỏi - Mẹ mệt quá
Misa ơi. Con cười - Mẹ Mai này - Thôi con ra đàn đi, may ra tiếng đàn của con
cho mẹ chút hứng khởi chăng.
Mà khoan đã, phải gửi băng cho đại lý. Buông bút, chạy xuống
garage - Ồ, gọn gàng sạch sẽ quá. Nhưng Biển Nhớ ở đâu hè. Kinh Khổ mô hè. Dọn
kỹ quá giờ đâu có nhớ nó nằm chỗ nào. Thùng nào cũng giống nhau, cũng nặng như
nhau. Chừ biết làm răng hè - Khéo, khéo kẻo… bổ. Khéo kẻo lại trật tay, cụp
xương sống thì chết… con. Chúa, Mẹ ơi, biết đường mô mà tìm - Sa ơi, Sa hỡi, chỗ
đó đó con, Mẹ… hope so, giúp mẹ chút đi. Nặng quá mẹ khiêng không nổi. Lặc lè từ
garage lên nhà, cầm bút định viết tiếp bỗng cảm thấy thiếu thiếu cái gì. Cái
chi hè. À, cơm, thì ra từ sáng đến giờ mới có ly cà phê. Có gì ăn đâu. Tủ lạnh
trống rỗng chỉ còn mấy cái hột vịt muối - Ôi, có còn hơn không. Muỗng cơm chưa
đưa kịp đem vào mồm, điện thoại reo. Mợ Giao Linh cười khành khạch ở đầu giây
bên kia xứ Texas. Mai gởi thêm vidéo cho em, dặn Sơn Tuyền nữa - Ok, Ok, nói ba
điều bốn chuyện, tới chừng sờ tới chén cơm đã nguội ngắt. 12 con giáp, tôi là
con gì mà vất vả rứa tề.
Vất vả thật chứ chơi sao. Sáng nay đang ngủ ngon, Ðoan thức
tôi phán liền. Em đi với anh xuống Hà viết bài luôn. Ôi trời đất mẹ cha nào mà
nói. Tôi tiếc giấc ngủ của tôi quá, tôi thèm ngủ quá. Tôi muốn để kệ cho Hà,
Miên chửi, cho Trần Quốc Bảo chửi, cho Châu Ðình An chửi, (nói thì nói thế chứ
tụi em đâu dám… chửi đâu, sao chị cứ vu oan giá họa cho tụi em vậy, chỉ có… buồn
thôi, tụi em réo chị thì ít nhưng độc giả réo tụi em mà thắc mắc về bài chị thì
nhiều, thành ra chúng em đành cứ bám theo chị vậy!) Tôi muốn chui vào chăn ngủ
tiếp - Ôi, chưa bao giờ tôi thấy cái chỗ nằm nó dễ thương như sáng nay - Giọng
tôi buổi sáng mà được một phần giọng cô Thái Thanh, tôi sẽ hát… vào mặt Ðoan - Em đang mơ giấc mộng dài, đừng lay… em nhé… những người chung quanh. Tiếc thay,
trời cho tôi cái giọng của một con vịt đực, của một người đàn ông. Tôi đành ôm
mối hận lòng, bò ra khỏi giường, bước thấp bước cao vào phòng tắm – Tắm một quả
may ra khá hơn chăng - Ðâu có dễ dàng dzậy… già. Ngồi trước xấp giấy, mũi sụt sịt,
mặt nặng một đống, cỡ mặt Mike Tyson lúc bị đo ván - Anh ơi, em không đi đâu,
em mệt quá, ở nhà may ra viết được, còn gửi băng, còn đủ chuyện, thôi anh đi
trước hẹn gặp ở nhà Miên - Ðoan lấy thuốc cảm cho tôi, hôn nhẹ vào cái đầu…
chua lè của vợ. Bye nhe - bye.
Chả là đêm qua có Trần Quốc Bảo, ông Lê Văn Thiện, Tuyền
Quang, Mai Năng Quân ngồi bàn chuyện quốc sự đến 4 giờ sáng, thành ra giờ tôi dật
dờ như người có chửa, mà Hà, Miên hối như đòi nợ (còn hơn như thế nữa đó chị
Mai ơi, vì đòi nợ nhiều khi người ta không trả thì còn quên luôn, chứ bài của
chị Mai thiếu là chúng em chả có… tha đâu nhé!). Nhắm mắt, cố nặn tim óc, cố bắt
hết… máu trong người may ra viết nổi. Chứ ngày mai lên đường rồi, thi hành
nghĩa vụ - Bố Ðoan sẽ khỏi phải nhìn mặt con vợ… táo bón trong 4 ngày. Chặng
này ly kỳ lắm. Sơn Tuyền và tôi 6 giờ sáng mai sẽ ra đi khi trời vừa sáng. Thứ
sáu, từ Phila bay về trời cũng chưa muốn sáng. Từ phi trường Los, Tuyền bay đi
Denver. Tôi xuôi Santa Ana, leo lên tàu bay đi San José. Chủ nhật lại lấy tăm
chống con mắt lên bay về cho kịp đám cưới con gái ông Mai Năng Quân. Các bạn
tôi cũng vẫn tiếp tục… lấy chồng. Con cái bạn tôi cũng đã bắt đầu lấy vợ, lấy
chồng. Vui nhỉ, các con tim dù già hay trẻ cũng như nhau cũng đập bình bịch khi
yêu.
Tuần lễ nầy qua lẹ như ngựa của ông Lê Văn Thiện ở Santa
Anita. Thầy Trầm Tử… Ðịa, người có đôi chân chậm nhất trong các cuộc chạy đua
ái tình, cũng bận rộn mắt mở không ra. Ðành phải trả lại cái bằng… đi bộ của thằng
Trí - Trả tạm vài ngày thôi, mai mốt tao lấy lại nghe mày. Bỗng nhớ đến ông Mai
Thảo - Từ hồi nào đến giờ ông Mai Thảo hoàn toàn phản đối việc… lái xe, kẹt là
cái xe… xích lô ông order từ 12 năm nay phải đạp qua nửa vòng trái đất chưa tới
nơi, nên từ nhà ông, mỗi sáng ông đi bộ tà tà trên đường Bolsa. Trông ông thong
dong nhàn nhã như… Tiên ông vậy. Ðất Mỹ, dù to đến mấy với ông Mai Thảo cũng nhỏ
như đường Nguyễn Huệ. Xe ở đây dù có nhiều, ông cũng coi là xe đạp, xe lam, xe
xích lô thôi. Cho nên, tiên ông Mai Thảo cứ tự nhiên băng ngang đường trong tư
thế của một người… vừa đi, vừa ngước nhìn (TD). Ông thong thả, thoải mái. Ông
đang đi tìm nàng thơ chăng. Nhưng mấy khứa cớm Mỹ không phải là thi sĩ nên
không “ke” nàng thơ nàng thẩn gì cả. Ông đi bộ mà không đi trong cái lằn ranh
dành cho người đi bộ thì ông có lỗi rồi. Cớm bèn thắng ông lại cảnh cáo.
Ở khu phố Bolsa thì quanh đi quẩn lại cũng chỉ là những anh cớm
đó. Mà hình như dáng ông Mai Thảo cũng rất là đặc biệt, dễ bắt mắt, dễ nhớ.
Sáng nào cớm cũng lái xe trên đường Bolsa hết, ngược lại xuôi. Sáng nào tiên
ông Mai Thảo cũng cà phê, cà pháo rồi làm một vòng tham quan từ khoảng nhà hàng
Song Long cho đến cái khu Phước Lộc Thọ. Ngày này qua ngày khác. Thì cũng phải
gặp thôi. Cảnh cáo một lần lại gặp ông từng bước từng bước thầm lặng lẽ qua đường.
Cảnh cáo lần thứ hai, lại thấy ông chậm rãi… con đường của đôi mình, con đường
mình ta… đi. Ðến lần thứ ba thì so-ri, “Sơ” thì em phải chặn “Sơ” lại. Đúng lúc
đó. Hà Khánh Hội đưa con đi học, thấy tiên ông bị cớm Mỹ… dí.
Không biết chuyện gì, Hà bèn tấp lại tính chuyện giải vây
cho… sư phụ. Sau khi nghe Hà giới thiệu về ông Mai Thảo. Cớm cười… nhưng cớm tặng
ông một ticket và bắt ông phải đi học bằng… đi bộ nếu không thì rút bằng đi bộ
của tiên ông. Lần sau là rút bằng luôn, không phạt nữa.
Sau ông Mai Thảo, Trí bị rút bằng đi bộ, dám tới phiên tôi lắm,
vì tôi cũng chê rằng lái xe coi… không sang bằng ngồi… ngửa ra cho người khác
lái, lại còn phì phèo điếu thuốc. Sang trọng kể sao cho xiết và khi cần qua đường
tôi còn chơi bạo hơn tiên ông Mai Thảo nhiều. Thế nào cũng có ngày lãnh nợ. Bởi
cười người hôm trước hôm sau người cười, là điều phải đến – Em đang chờ. Em sẵn
sàng nộp phạt hay bị rút bằng… đi bộ. Vì em thấy bà con lái xe sao vất vả quá,
lao tâm khổ trí quá. Ngồi trên tay lái, mặt mày nghiêm và buồn như Tổng thống
Dương Văn Minh khi bàn giao lại miền Nam cho Việt cộng. Mùa hè mồ hôi mồ hê nhễ
nhại, vừa lái xe vừa uống cà phê, vừa… chửi thề vì nạn kẹt xe. Rồi phải rửa xe,
phải hút bụi. Nội cái đầu quay trái, quay phải mỗi lần đổi lane cho kịp exit, lại
còn cái màn de ra, de vào. Ôi thôi, con xin lậy cả nón lẫn tơi. Kiếp sau con
cũng nhất quyết đối lập việc lái xe. Cùng lắm thì con xin làm cái xe. Vưỡn còn
sướng hơn người lái. Sẽ không bao giờ bà con nghe từ miệng tôi câu… cho ngộ…
lái một chút.
Tuy nhiên cũng có lúc tôi hơi hơi hối hận về cái cụ đối lập
lái xe của tôi. Ðó là lúc Ðoan đau nằm một chỗ. Ðã định kêu Sears tới dậy lái
xe rồi đấy chứ. Cũng may là vì lu bu rồi tôi lại quên và nhờ Tâm, nhờ Misa. Chứ
không thì giờ này tôi cũng chễm chệ trên… bàn thờ rồi. Bởi cái đầu của tôi giờ
phút này có điều khiển được chân tay hay cổ cánh của tôi nữa đâu. Thôi thì cái
số ngu cứ chịu ngu cho yên chuyện. Ngu mà hưởng thái bình thì đó là ngu khôn.
Cái này khó có ai có thể tranh giành với tôi. Ðồng ý.
8. Đàn bà, con gái Việt Nam từ ngày rời xa quê nhà, sang xứ lạ
thật đã chịu nhiều thay đổi, gần như toàn diện. Rất ít người được giữ nguyên bản
chất ngày xưa của mình. Địa vị trong gia đình được nâng lên ngang với chồng, vốn
luôn luôn là chủ gia đình. Được tham gia vào đời sống xã hội như tất cả mọi người…
đàn ông. Trong gia đình, được chồng cho tham dự vào liên hệ kinh tế, được cùng
chồng tham khảo, bàn tính về những dự tính làm ăn lớn, nhỏ hay những thay đổi
nơi ăn, chốn ở. Được phép có ý kiến với chồng về việc giáo dục con cái. Đàn bà
vẫn là… đàn bà. Nhưng không bị đè bẹp bởi người chồng với cái thành kiến trọng
nam khinh nữ của người Việt Nam và đàn bà không đã không còn đơn thuần là một
cái… máy đẻ, một vú em, một con sen.
Được như vậy sau một cuộc đổi đời, kể ra cũng mãn nguyện lắm
rồi. Riêng tôi, không còn một đòi hỏi nào. Song những thay đổi đó có tính cách…
quốc gia đại sự. Cạnh đó là hằng hà sa số những thay đổi rất… đàn bà mà cũng
coi như rất là quan trọng. Đàn bà là một sinh vật được sinh ra để làm… đẹp cho
cuộc đời, để an ủi người Adam, để sinh con đẻ cái gìn giữ cái… giống nòi. Người
đàn bà là bóng dáng của hạnh phúc mà trong đó ấn chứa những… rắc rối của cuộc đời.
Một ông Tây đã làm phim “Et Dieu créa la femme” (và Chúa đã sinh ra đàn bà). Rồi
các ông Tây lại suy diễn thêm từ đó “Et la femme créa la salade” (và người đàn
bà đã… làm ra đĩa salade). Loại salade mix. Tùm lum thứ ở trỏng.
Người Mỹ luận về đàn bà ra sao, tôi không biết chứ ông Lâu thỉnh
thoảng lại chép miệng. Đàn bà… rắc rối bỏ mẹ. Ông Thiện nhẹ nhàng… không biết
được các bà ra làm sao. Ông Thiêng lắc đầu… đàn bà là một thứ… tàn nhẫn nhất.
Ông Lâu ơi, đàn bà không rắc rối không phải là … đàn bà, mà đàn ông các ông
cũng chưa chắc không rắc rối như… đàn bà, có khi còn hơn… đàn bà nữa. Ông Thiện
làm sao biết, làm sao hiểu được đàn bà. Nếu ông biết, nếu ông hiểu thì ông đã
chỉ yêu ngựa mà thôi chứ ông đâu có yêu vòng vòng cái kiểu… one way street như
ông đã yêu. Còn ông Thiêng, tôi không thấy ai tàn nhẫn với ông, chỉ thấy ông dứt
là dứt, hết là hết. Thấy cần, thấy nên là chấm dứt. Thế thì ông tàn nhẫn với
đàn bà chứ đừng đổ thừa nghe ông thầy.
Tôi đồng ý hoàn toàn về nhận xét của 3 ông, kể cả của thầy
Thiêng vì nói thì nói chứ tôi cũng biết đàn bà lúc cần xuống tay là xuống đẹp.
Không thương tiếc. Song dù gì đi nữa tôi vẫn bênh vực đàn bà bởi đàn bà… nhỏ
bé, mong manh đáng yêu và đáng được… tha thứ mọi lỗi lầm rắc rối… nếu có.
Trong khi các ông lo việc… quốc gia đại sự, giải phóng quê
hương, bù đầu vì họp hành bầu bán thì đàn bà chúng tôi cũng có những mối lo phải…
lo, phải sợ. Sợ mập, sợ xấu, sợ già, sợ chửa đẻ, nuôi con ở xứ này sợ cao máu,
sợ cancer và sợ… rụng tóc. Trong tất cả các mối lo này. Tôi sợ nhất là… mập và…
rụng tóc.
Thời con gái, nghĩa là cách đây… 30 năm, tóc tôi đẹp lắm. Dầy,
đen và mượt. Nhìn vào chả được cái gì ngoài mái tóc rất dài. Lúc di tản tôi mới
ngoài 30, tóc vẫn còn dầy, còn đẹp, đó là nhờ gội đầu bằng chùm kết, chanh và
nước mưa, nước giếng. Mỹ là gì có chùm kết, có giếng, mưa thì một năm được một
ngày, mưa lún phún đến bực mình, hứng không đầy một thau. Nhập gia tuỳ… thủ tục,
ai sao mình vậy. Thuốc gội đầu đủ mọi hiệu bán đầy chợ, hiệu nào cũng quảng cáo
là nuôi tóc, là mọc tóc. Mua đại, gội đại chứ biết tin vào loại nào bây giờ. Và
kết quả là tóc cứ dần dần rơi rụng theo ngày tháng. Đổi cả chục loại thuốc mà mỗi
lần gội đầu tôi muốn khóc. Gội cũng rụng, chải cũng rớt cả nắm… Uốn quăn cho nó
có vẻ nhiều. Đoan không chịu, Misa không chịu và khổ nhất là đối với khán thính
giả, tôi không thể thiếu cái tóc quen thuộc. Tóc và tôi từ bao năm nay đã là một.
Đội tóc giả chụp một cái hình cũng đã gây bàn tán suýt xoa.
Trẻ thì có trẻ ra nhưng không còn là… tôi nữa. Bà con không chịu. Lại cậy cục
đi tìm hỏi thuốc… bôi đâu mọc đấy, kẻo cái… phi đạo trên đường ngôi đã rõ nét
quá. Ai chỉ thứ gì mua thứ đó. Mua gội rồi đổi mua thứ khác. Mỗi loại 2, 3
chai, để đầy cả phòng tắm. Cũng không… ăn thua gì cả. Tiền cứ tốn mà tóc cứ rụng
như thường. Phải nói là tôi quý , tôi thương mái tóc của tôi nhất vì như đã
nói, ngoài mái tóc ra, tôi không có gì đẹp cả, và ngày nào tôi còn được đứng
trên sân khấu, tôi còn phải giữ mái tóc rất… old fashion này, mái tóc rất nhà
quê mà tôi rất yêu.
Tuy nhiên tôi cũng hiểu là khi tuổi đã lớn, không có gì bỗ dưỡng
(vì tôi diet tối đa) thì từ da mặt đến tóc cũng không thể nào tốt tươi như thời
con gái. Mỹ phẩm tôi không xài. Mỹ viện tôi không tới. Thuốc bổ tôi không uống.
Ăn toàn thứ độc hại như… cà, sầu riêng, hồng. Toàn những thứ để lại trên da mặt
tôi những tàn phá. Da mặt… Đoan tốt hơn tôi. Tóc Đoan dầy không tưởng được. Cứ
phải vuốt cho… rụng bớt vì nhiều tóc, nhiều tội. Và Đoan chỉ gội đầu bằng… baby
shampoo trong khi tôi tốn biết bao công sức đi tìm thuốc mọc tóc.
Bây giờ, lần này là lần chót, tôi vào ngay tiệm thuốc Tây của
người Việt Nam và hỏi mua thuốc gội đầu. Được hay không được như ý tôi cũng
không bao giờ nghe ai để phải… tốn tiền nữa. Kỳ rồi hát San Jose, Hà Cẩm Tú cho
tôi một bộ tóc giả. Đội vào coi ngộ lắm. Lúc nào cần sẽ xài. Tuy vậy trong thâm
tâm tôi vẫn mong là không đến nỗi và sẽ có một lúc nào đó. Mọi người cho phép
tôi đổi kiểu tóc vì chẳng lẽ đã gần năm bó rồi mà từ năm đến sáu bó không lâu lắm
đâu, tôi cứ để tóc thề hoài.
Phải công tâm mà nói, tôi là cái… rắc rối nhất trong gia
đình. Đoan, Misa, Cu đều công nhận. Nội cái vụ rụng tóc của tôi cũng đã làm khổ
chồng, con. Tóc rụng cùng khắp mọi nơi. Tóc làm hư luôn máy hút bụi và mỗi lần
gửi băng đi, Đoan cứ cằn nhằn tóc tôi dính đầy băng keo dán trên thùng băng. Phải
gỡ ra dán lại vì trông rất là… quái đản và bất lịch sự.
Khi nấu cơm, tôi bới hoặc cột ngược lên như mấy bà… đánh ghen
để mọi người khỏi ăn phải tóc tôi. Có lẽ đây là nỗi khổ tâm nhất của tôi từ mười
mấy năm qua và các ông cho là… rắc rối.
Một trong những yếu điểm của đàn bà là hay lo. Lo cả những
chuyện không đáng lo. Rồi từ chỗ đó làm khổ chồng con và khổ chính mình. Tôi lo
cho các con tôi… lấy Mỹ. Lại ông Lâu. Các bà cứ lo con bò trắng răng, tụi nó
yêu ai thì cho nó lấy, có gì đâu, chứ bộ Mỹ nó không phải là… người à. Đồng ý
nhưng giá mà tụi nó lấy… mình thì… được hơn. Vẽ. Người mình thì đã chắc vì hay,
Mỹ thì đã chắc gì xấu. Ừ… nhưng… không nhưng không nhị gì cả, tụi nó lớn, nó
ưng ai là quyền tụi nó, ngày xưa cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, giờ tụi nó đặt đâu
mình ngồi đó. Tôi nghe mà cay đắng trong lòng. Đoan cũng phải chịu điều ông Lâu
nói là đúng. Nhưng con tôi mà, núm ruột của tôi mà. Con tôi mà lấy chồng, lấy vợ
Mỹ, Mễ, Tây, Tầu chắc chắn là tôi phải buồn. Cái này thì các ông không thể cấm
chúng tôi được.
Hãy tưởng tượng trong nhà có ông rể Mỹ. Ra nó… vỗ đít bố vợ một
cái Hi Dad, vào, nó vỗ vai mẹ vợ Hi Mom thì chỉ… có thác. Mỹ nó tự nhiên mà, tụi
nó coi chuyện đó là thường, với người mình thì không được. Đó là chưa kể tới
cái màn trưa hè nóng nực, thằng rể chỉ trần xì một cái quần đùi nhỏ xíu, phơi
nguyên bộ ngực lông lá như đười ươi trước mặt bố mẹ vợ. Chuyện đó cũng thường đối
với Mỹ. Và nếu ở chung một nhà thì không thể không… điên lên được. Hoặc một cô
con dâu Mỹ, đeo lấy bố chồng hôn chùn chụt good morning, xem mẹ chồng như người
ở. Buồn buồn nàng… chơi một bộ bikini nhỏ bằng… nửa bàn tay, nằm chần dần giữa
vườn phơi nắng. Phơi hết cả sự đời ra trước mắt bố mẹ chồng.
Ôi chỉ mới tưởng tượng thôi mà tóc tôi dù đã rất thưa, cũng dựng
lên như gặp ma ấy thôi. Tôi là loại người không đến nỗi cổ lỗ sỉ. Trái lại là
khác nhưng ở một điểm nào đó trong tình yêu của tôi dành cho các con tôi. Ước
mơ của tôi là được ôm những đứa cháu nội, cháu ngoại cùng màu da. Tôi vẫn thấy
“cái” tình nghĩa vợ chồng “nó” đằm thắm, thủy chung hơn. Tình yêu nếu chỉ đơn
thuần là cái giường và kiểu tiền anh, tiền tôi thì đó chỉ là tình dục mà thôi.
Như 2 con thú tìm đến nhau. Mà Mỹ hình như đa số sống theo cái lối đó, đến với
nhau theo lối đó. Đông và Tây muôn đời không bao giờ gặp nhau ở điểm này.
Tôi may mắn đã có cháu nội tóc đen, da vàng. Song còn 2 trự
nhỏ. Biết ra sao ngày sau. Tụi nó còn nhỏ nhưng rồi sẽ lớn, sẽ phải dựng vợ gả
chồng. Biết có được như điều mình mong không. Nếu bảo rằng tôi quá lo hay quá sớm
để mà suy nghĩ thì điều đó không đúng. Bởi tôi yêu con và dù tôi không được quyền
tham dự vào gia đình hạnh phúc của con nhưng rủi mà có đứa khổ, bộ tôi vui được
sao, tôi ngồi yên được sao. Có thể là khi con tôi đã có vợ có chồng, không cần
đến mẹ nữa. Tôi chấp nhận mà vẫn nghĩ đến con.
Cái vấn đề là làm sao cắt nghĩa cho con hiểu điều mình mơ ước,
làm sao hướng dẫ con trở về nguồn. Không dễ như có người đã nghĩ. Hoặc vả thôi
thì nó yêu thương ai nó lấy người đó cũng như mình ngày xưa vậy. Khi yêu rồi,
có ai nói mà nghe.Thời nàuy không còn ai mỉa mai người lấy Tây lấy Mỹ nữa.
Nhưng phải lấy những người tử lịch sự kìa. Thì cũng chỉ cầu mong co niênu Đời
nó lấy cho nó chứ phải cho mình đâu mà… rắc rối.
Thế rồi cuối cùng những lo lắn của tôi và của các bạn tôi vẫn
cứ… dậm chưn tạo chỗ. Chịu Tụi nhỏ sinh và lớn lên ở đây nước này, chịu ảnh hưởng
nhiều nền giáo dục ở đây. Đa số đã bị Mỹ hoá. Đó là điều không thể tránh. Vả lại,
bíêt đâu mình chẳng… sai. Đã có những cặp vợ chồng Mỹ Việt sống rất hạnh phúc,
rất nề nếp, đâu ra đó. Có thấy ai than phiền về dâu, rể Mỹ đâu. Xem ra người Mỹ
lại có vẻ lấy làm hân hạnh được suôi gia với Mít. Các anh chị Mỹ coi các đấng
chồng, vợ Mít như thần tượng hầu hạ kỹ lưỡng, thêm phần ga lăng hơn cái ông
Mít.
Ai đúng ai sao? Ôi người lớn có cái đúng cái sai của người lớn.
Tuổi trẻ có cái đúng cái sai của tuôi trẻ. Phải chăng tôi càng lớn, cái óc càng
nhỏ lại nên mới có những suy nghĩ quá sức rắc rối về từng sợi tóc rơi rớt theo
tuổi đời đến hạnh phúc của một thế hệ… không cần đến sự quan tâm của người như
tôi. Bác Lâu nói đúng. Các bà chỉ lo con bò trắng răng. Tôi chưa bao giờ thấy
răng con bò nhưng nhìn vào gương, cười với mình. Tôi nghĩ có lẽ răng con bò trắng
thật. Ít ra cũng… hơn tôi.
9. Chúng tôi từ giã nhau. Hai cái mũi đụng nhau. Ðó là cách từ
giã của chúng tôi. Ðúng một giờ trưa. Tới phi trường tôi nói Thanh Tâm cứ để
tôi ở đó một mình. Về đi có nhiều việc để làm. Chờ đợi ở phi trường đã quá
quen. Ðưa cũng thế. Mà không đưa cũng thế. Gửi hành lý xong tôi phone về cho
Ðoan. Anh cằn nhằn sao không giữ Tâm ngồi lại. Thế là không ai..bye em hết à.
Có anh thôi, không có anh thì có ai cũng vậy thôi. Tôi lững thững đẩy xe vào
Gate. Còn sớm nên tôi đi rất từ từ. Trông có vẻ nhàn hạ lắm. 3 giờ 20 bắt đầu
boarding. Tôi kêu về cho Ðoan. Bye nghe. Ði bình an nghe em. Thành công nghe
em.
12 tiếng đồng hồ lặn lội, ngồi nằm đủ kiểu, rồi cũng tới.
Khiêng hai cái valise 50 kilos, nặng tắt thở. Phải lấy thế ngồi xuống rồi mới
tà tà đứng lên bằng hai chân. Kinh nghiệm bản thân mà. Mỹ, Ðức lõ mắt nhìn con
nít chút xíu mà xách 2 cái valise tổ chảng. Trong valise có giò bì, giò lụa, có
rau thơm đủ loại, có cả rau đay, rau dền. Dễu dễ sợ. Ði hát có 5 show. Mang
theo cả chục cái áo dài. Chắc mặc 2 cái một lần chăng.
Về đến nhà, cách phi trường một tiếng. Vừa bước lên cầu thang
đã nghe giọng Kiều Nga rổn rang như chuông đồng vọng xuống.
Ðến rồi, vào đây làm việc ngay. Bước vào phòng, Kiều Nga đang
ngồi trên sàn ngổn ngang băng nhạc. Nàng đang dán label và đây là công việc của
nàng. Kiều Nga không cho ai làm. Sau khi chào hỏi, đưa quà cho cả nhà, tôi xuống
bếp bỏ thịt ra, lặt rau, nấu cơm chiều. Canh rau đay nấu tôm khô, thịt heo kho
khô, và đậu que xào. Ăn xong cả nhà quay quần coi video cải lương, coi Ngọc
Giàu, Út Bạch Lan, Phượng Liên, Minh Phụng. Hay hết xẩy. 1 giờ khuya, bầu và ca
sĩ chào nhau “gút-tờ-nắc” nghĩa là good night.
Ðang ngủ ngon, bỗng mắc… tè, lò mò ngồi dậy, chưa ra đến cửa,
Kiều Nga gọi giật giọng làm tôi hết hồn. Chị Mai em ngủ hông được, cho em viên
thuốc đi. Và lần đầu tiên trong đời tôi ngủ một giấc… khủng khiếp. Mở mắt dậy,
xuống bếp tìm café, nhìn đồng hồ. Chúa Mẹ ơi, 8 giờ tối. Ðúng là ngủ… sau bao
nhiêu ngày đêm ngủ không đủ giấc. Kiều Nga cũng đánh một giấc đến 3 giờ và đã
đi phố rồi. Tôi lại lo cơm tối. Canh bầu nấu thịt heo nạt, tim heo luột ăn với
rau sống. 10 giờ cơm nước xong. Lại ngồi tán dóc, Kiều Nga dán label tiếp. Dũng
lo liên lạc với Trung Hành và được biết Trung Hành không qua vì giấy tờ sao đó.
Dũng liền kêu cứu Anh Sơn ở Pháp. Thiếu Trung Hành thì cũng không sao miễn là
chị, Kiều Nga, Sơn Tuyền đã đến là được rồi. Chỉ tiếc là cái vụ liên tình khúc
do Kiều Nga và Trung Hành không có trong chương trình. Thôi thì đành xin lỗi bà
con và liệu cơm gắp mắm. Trung Hành hát với Kiều Nga là nhất nhưng Anh Sơn có
nét lắm, hát hay, duyên dáng, đẹp trai và cũng gồng chương trình dữ lắm. Không
có gì đáng lo ngại nữa đâu. Thế là qua một đêm xa nhà. Mới là đêm đầu tiên, còn
3 tuần nữa cơ. Ôi xin thời gian qua mau
Ðêm qua 2 giờ sáng tụi tôi mới đi ngủ, 6 giờ sáng mợ Kiều Nga
đã la bải hải dựng tôi dậy. Em không ngủ được. Tội nghiệp cho tôi, dù đã uống
thuốc ngủ, nhưng lỡ thức rồi ngủ lại không được. Hai đứa bèn rủ nhau xuống bếp
chiên cơm ăn. Ăn xong, ngủ lại không được, hai đứa lấy video ra coi cho tới
trưa. 11 giờ trưa Sơn Tuyền đến, tụi tôi rủ nhau đi phố mua áo quần giầy vớ. Mua
gần hết cả tiệm luôn. Thế là tiền hát chưa có đồng nào, coi như bay hết một
show rồi. Ðúng là đàn bà. Chán ơi là chán.
Sáng thứ sáu thức dậy, tôi kho một nồi thịt với trứng và củ cải.
Ăn uống no say xong, các mợ nai khăn phố lên đường… ra biên cương. Ðụng đấy. Tụi
tôi hát ở Lucerne, cách đó 200 cây số là Laussane, có Linda Trang Ðài, Tuyết
Nhung, Thanh Tùng, Băng Châu, Hương Lan và vài ca sĩ của ban nhạc. Bên tôi có
Kiều Nga, Sơn Tuyền, Anh Sơn, Việt Sơn, ban nhạc Dạ Khúc và tôi. Ðụng thế này
là địch..chết toi, ta chết cả. 7 giờ tối, Anh Sơn chạy vào, Tôi hỏi khách được
chưa. Sơn cười. Có… 9 người. Bỏ mẹ, tóc tai tôi dựng lên khỏi cần xịt keo. 15
phút sau. Truyền tin báo..200 rồi. Ðược đấy. 7 giờ 30 mở màn. Gần đầy rồi, cái
phòng nhỏ chút xíu có 500 chỗ mà không đầy thì… chết sướng hơn. Tôi mở màn với
Em Ði Qua Chuyến Ðò và Kinh Khổ. Tới Kiều Nga, khách vào thêm nhiều. Rồi Anh
Sơn, Sơn Tuyền, Việt Sơn và tôi lại đóng lại phần một bằng một bài yêu cầu Mười
Năm Tình Cũ. Hết chỗ ngồi. Bà con đứng phía dưới ngay chỗ cửa ra vào.
Chương trình hoàn toàn đều đặn. Bài bản hay. Kiều Nga, Sơn
Tuyền mặc đồ đẹp. Anh Sơn, Việt Sơn. Hay. Tôi và các bạn vẫn được… yêu như ngày
nào. Tụi tôi mừng quá. Vui quá. Ðã quá. Bà con nhảy như điên. Trẻ nhảy nhiều
hơn. Còn thì lại ngồi nghe tiếp. Về đến nhà, tui tôi dở xập xám ra binh chờ ăn
cháo. Tuyền vào bếp làm cho tôi tô mì gói vì cháo là tên… ông cố tổ tôi. Bầu Ngọc
tặng mỗi người một hộp chocolate ăn lấy thảo.
2 giờ trưa chủ nhật, tụi tôi lấy xe ra về. Chưa kịp thấy
thành phố ra sao. Nhưng trời thương mà thương không trót. Mới đi dược 3 tiếng đồng
hồ, xe hục hặc ho hen như ông lão 90 rồi nằm ụ. Gọi được xe kéo cũng mất một tiếng
đồng hồ. Tụi tôi ngồi y nguyên trong xe cho tài xế kéo lên cái xe kéo cao ngất
đưa vào hãng xe ở một exit cạnh đó. Vô phúc cái xích mà đứt thì..bỏ mẹ cả lũ.
Nhưng làm sao mà sửa xe bây giờ. Chiều chủ nhật mà, ở Ðức chứ đâu có phải là… Mỹ
mình. Tìm đâu ra thợ. Thế là kiếm xe lửa về. Có mấy trăm cây số mà từ 2 giờ chiều
đến 1 giờ sáng hôm sau mới về tới Dormund. Ra đón tụi tui chỉ có một cái xe, ngồi
trên hai người, kể cả tài xế và một mớ đồ. Băng dưới… 6 người. Kiều Nga ngồi
trên lòng tôi. Vân Kiều ngồi trên Dũng. Sơn Tuyền thụt vào, Minh ban nhạc Dạ
Khúc ngồi nhô ra. Trời mưa mù mịt nên cảnh sát không thấy cái “hộp cá mòi” bốn
bánh di chuyển. Tụi tôi như cái mền rách. Tôi lao vào buồng tắm trước hết, rửa
mặt, tay chân, thay đồ ngủ rồi leo lên giường. Tuyền, Nga lần lượt mò vào giường.
Nga ngồi đọc kinh niệm Phật. Tôi làm dấu đọc kinh, lấy chuỗi mân côi để trên
bàn ngủ. Bên cạnh, Sơn Tuyền đã nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ. Kiều Nga cũng đã nằm
yên. Rút cuộc chỉ còn mình tôi. Lúc trên xe về nhà tôi tưởng 2 con mắt không thể
nào mở được và nếu có chỗ nằm được là tôi sẽ… thăng ngay. Vậy mà khi tất cả mọi
người đã ngủ rồi. Tôi vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Một viên thuốc cho chắc. Hại
thì hại rồi đó. Nhưng… kệ mẹ nó. 30 năm trước không sợ, lẽ nào bây giờ… ngán.
Mà dù có ngán, có sợ cũng trễ rồi. Cũng… không ăn thua gì cả.
Sáng nay Ðoan kêu qua. Tôi mừng quá là mừng. Nghe được giọng
chồng, biết Ðoan đã đi lại được dù là những bước ngắn. Làm café lấy, đi toilet
lấy một mình. Và để thì giờ làm thơ cho… con vợ già. Mới đi có một tuần đứa nào
cũng nhớ nhà. Nhớ như nhớ ông bà.. ông vải vậy đó. Ở đâu, hay đi dâu, người ta
cũng chiều chuộng cơm nước, lo lắng cho từng chút một mà vẫn nhớ nhà. Mỹ cà chớn
thiệt. Mỹ đáng ghét thiệt. Nhưng Mỹ chỉ dễ thương khi viết câu “Home sweet
home”.
Nói là Mỹ dễ ghét nhưng Ðức còn khó ưa hơn. Tụi Mỹ gặp mình
dù quen hay lạ, cười cái đã, “hai” cái đã, rồi hồn ai nấy giữ. Ðức là không à.
Nó lạnh lùng, khinh người còn hơn dân Ăng lê nữa. Nó ghét Mít ra mặt. Tụi tôi
cũng bèn phản ứng lại ngay. “Mắt trả mắt. Răng trả răng” mà. Tây nói thì có lẽ
đúng. Tây dễ chịu hơn nhiều. Tụi nó lõ mắt nhìn cái áo dài của tôi. Cái tóc dài
của tôi. Ngay cả lúc tôi búi tóc, cài cái bút chì thay cho cái trâm cài đầu. Ði
shopping ở Mỹ, thử cả chục bộ, lục tùm lum rồi bỏ lại, đi ra. Mỹ vẫn cúi đầu
thăn… cu. Ðức chỉ cho thử một lần 4 bộ. Không mua nó cũng khó chịu, mà mua nhiều
nó cũng… khó chịu. Ý là mày làm gì có tiền mà mua lắm thế. Mà có nhiều nhò gì
cho cam.
Có mấy cái quần, mấy cái áo, toàn đồ rẻ tiền mà nó còn ghét
mình. Kiều Nga, Sơn Tuyền mua đồ đắt tiền hơn là vì đồ mặc đi hát. Thấy hai mợ
trả tiền, tôi tối tăm mặt mày, hoa cả mắt. May mà mình già rồi chứ nếu không
thì làm sao đua lại với mấy mợ được.
Khi đi Ðoan dặn tôi. Em thích gì cứ mua, đừng mua đồ già quá.
Chả là cái gout của tôi rất… già. Mỗi lần đi mua bất cứ cái gì tôi đều hỏi ý
Ðoan, Cái này được không anh. Mầu này, kiểu này được không anh. Anh tiếc là lần
này anh không đi được với em, mua cái gì cho đáng, đừng mua bậy rồi không mặc,
vừa chật tủ, vừa tốn tiền vô ích. Tôi thì cái gì cũng thích và đúng như Ðoan
nói. Mua rồi không mặc. Tiếng là đi show có tiền, vậy mà lúc về chỉ toàn là xì
dầu, café, thịt hộp, kem đánh răng, kem bôi tay. Thật là khùng đến như tôi là
cùng.
Tối qua mưa. Tối nay mưa. Ngay lúc này khi tôi đang ghi lại
buồn vui của một chuyến đi. Trời cũng đang mưa. Mưa rơi trên cánh cửa kính. Mưa
rơi trong cái vắng lặng của một con phố nhỏ. Lâu lâu mới có tiếng xe chạy qua.
Như khơi động thêm cái buồn của một người xa nhà. Tôi nhớ cây ổi đầy trái, tôi
nhớ vườn rau xanh ngắt, tôi nhớ những cây ớt vừa cho những bông trái đầu tiên.
Tôi nhớ con, tôi nhớ bạn bè ở đó. Nhớ lung tung và nhớ người… nhớ tôi. Hạnh
phúc của một mái ấm gia đình cũng quan trọng như hạnh phúc của một ca sĩ trên
sân khấu.
Căn nhà tôi dù nghèo nàn tôi vẫn yêu. Sân khấu dù đôi khi xập
xệ tôi vẫn yêu. Bởi đời cho tôi thế. Bởi số mạng đã định cho tôi như thế. Tôi
hân hoan lãnh nhận như lãnh nhận một ân sủng của Thượng đế.
Ði hát 30 năm, đến bây giờ còn được ở trong tình thương yêu của
mọi người. Về làm bạn với Ðoan 15 năm, đến bây giờ khi ngồi viết những giòng chữ
này, tôi mới biết chắc là tôi không cô đơn lúc tuổi già bóng xế. Tôi chỉ còn cầu
mong sao cho các con tôi học hành ngoan ngoãn, nên người. Thế thôi. Ngoài ra
tôi không còn mơ ước một điều gì. Lúc trước, tôi cứ mơ ước được về… nằm trên
quê hương mình. Nhưng một người sống an lành thì..chết ở đâu cũng an lành.
10. Viết. Với tôi, nghĩa là ghi lại những sự việc mắt thấy tai
nghe. Vui, buồn, sướng, khổ, giàu, nghèo. Tất cả đều là sự thật từ trái tim, tự
đáy lòng tôi. Ðó là vì trách nhiệm. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm… với tôi. Chỉ
là những chuyện lẩm cẩm, nhỏ nhặt của một người đàn bà bình thường. Và tôi
tránh tuyệt đối cái việc được viết của mình, làm tổn hại cho người khác.
Sở dĩ tôi chỉ thích viết về những gì tầm thường nhất mà lại
hay xảy ra nhất ở bất cứ gia đình Việt Nam nào, là bởi vì khả năng của một người…
vô học như tôi, chỉ cho phép tôi làm được đến như thế mà thôi. Mà quả tình thật,
tôi cũng không muốn, không dám sờ mó tới đời tư của ai. Tôi có hơn gì ai đâu?
Ðôi khi còn tệ hơn người khác nữa ấy chứ. Thế cho nên, tôi chỉ thích ghi nhận
lên trên giấy những điều tôi biết rất rõ về tôi, nghĩa là những cái xấu nhất của
mình, để… may ra nó bớt xấu đi chăng.
Người đời thường hay thích đề cập tới những điều ngoài tầm với,
những chuyện “đội đá, vá trời”. Nên hay bỏ quên hoặc khinh thường những gì họ
cho là nhỏ nhặt không đáng nói đến. Song cái gần chúng ta nhiều nhất, trói buột
chúng ta nhiều nhất, làm phiền, làm khổ chúng ta nhiều nhất mà chúng ta phải
nghĩ đến nhiều nhất. Hỡi ơi, lại chính là những cái nhỏ nhất. Thế mới biết… nói
là một chuyện, ai nói thánh, ai nói tướng gì cũng được. Làm, lại là chuyện
khác.
Tôi vốn hèn mọn như cỏ dại, chữ nghĩa không đầy một cái lá.
Nhưng… bia đá còn biết đau thì cho dù là cỏ dại. Tôi cũng có những niềm vui, nỗi
buồn riêng của tôi. Hát một tình khúc, làm một bài thơ. Trước hết là để giải tỏa
bớt nỗi thống khổ của chính mình, sau nữa là để tìm, để tặng người… tri kỷ. Vô
lý trời đất rộng bao la, bao nhiêu tỉ người, không có lấy một người cùng cảnh
ngộ để chia sớt với mình? Dù là những điều hèn mọn nhất?
Ðời sống ở đây dễ làm cho tôi… điên. Hoặc trở thành bệnh hoạn.
Cả hai điều, tôi đều không muốn. Chúa cho tôi một giọng hát, dù không ra gì. Ðó
là một… n Sủng. Bạn bè cho tôi một cơ hội, mảnh đất nhỏ nhoi trên báo, để tôi
có dịp ghi lại những gì đến và đi trong đời sống tôi. Ðó là một hạnh phúc. Dĩ
nhiên, không phải bất cứ bài nào tôi hát, cũng được mọi người thích. Không phải
bất cứ bài viết nào của tôi, cũng được mọi người khen. Tuy vậy tôi không thể
làm khác hơn được là bởi vì… con người tôi nhu thế. Tôi hay mọi người, đều có
những cái tốt hay xấu. Ðều có đầy đủ. Hỉ – Nộ – Ái – Ố – Ai – Lạc -Dục. Có điều,
nói rất thật thà, tôi sợ làm điều xấu, tôi sợ xấu hổ khi nhìn mặt mình trong
gương. Ðôi khi tôi nghĩ: Ðó cũng chưa hẳn là điều tốt. Nhưng tôi vẫn sợ và vẫn
tránh, cố sức tránh để khỏi phải ân hận, để không phải né tránh cái nhìn của
người đối diện.
Tôi là một người có nhiều khuyết điểm. Không thù, giận ai,
không dám hại ai (dù chỉ là ý nghĩ trong đầu). Không dám mong sự dữ cho bất cứ
ai. Khi không làm được điều gì cho ai, tôi áy náy không yên đến độ quay ra giận
chính mình. Tôi chưa bao giờ hơn thua với bạn bè. Ai muốn hơn, cứ tự nhiên. Ai
muốn chửi, cũng cứ tự nhiên. Chẳng bao giờ tôi có ý kiến. Tôi nghe nhiều, rất
nhiều nhưng hình như những điều đó không liên quan gì đến tôi. Bởi tôi chỉ được
nghe qua người này hay người nọ. Thế thì tại sao tôi phải để ý. Sự im lặng cũng
dễ gây ngộ nhận. Nhưng con người tôi vốn như thế. Như cuộc đời vốn không thể
khác. Ðó là những khuyết điểm của tôi, làm tôi luôn luôn bị thiệt thòi.
Mà tôi cũng… lạ thật. Có nhiều người chửi tôi, ngồi đâu chửi
đó, cái gì cũng mang tôi ra, như một bằng cớ để mọi người tin. Nhưng rồi sau đó
lại gặp tôi sau điện thoại rất âu yếm, rất ngọt ngào, rất tay bắt mặt mừng. Tôi
cũng cười. Tôi ngu chăng? Không. Tôi không ngu tí nào cả. Chỉ vì những điều đó,
những người đó đã vốn như thế. Tôi biết hết nhưng không bao giờ nói ra. Tại
tôi… muốn ngu mà thôi. Ngu để được bình an vì không có gì hạnh phúc cho bằng một
con người được sống trong sự bình an. Tôi ăn cái gì, tôi được cái gì khi hơn
thua với người khác. Ai ghét tôi, người đó khổ chứ tôi không khổ. Vì ghét, nên
họ cứ phải nghĩ đến tôi hoài, phải tìm trăm mưu ngàn kế để hạ tôi. Do đó , họ
khổ , cái tâm họ khổ vì cứ phải nghĩ đến người họ… không yêu. Trong khi đó, tôi
rất… nhẹ nhàng vì tôi..không biết. Và tôi… chưa bao giờ cần biết.
Tôi sống rất là… hồn nhiên. Hồn nhiên đến độ làm nhiều người
bực mình. Thì tôi vốn thế mà. Lòng tôi như chiếc bánh, đã bóc ra cho mọi người
thấy hết rồi, không có gì phải che đậy, dấu diếm. Trong gia đình, với chồng.
Ngoài xã hội, với bạn bè, với khán thính giả, tôi sống hết lòng. Người cho tôi
một.Tôi trả lại mười. Từ 32 năm qua, tôi sống như thế. Tôi chỉ duy nhất… phụ một
người. Người đó đã chết.
Tôi không được gần giới trí thức hay những người thường tự vỗ
ngực khoe mình. Tôi không được gần những người giàu có, danh vọng. Bởi tôi sống
giang hồ từ nhỏ. Tôi thường hãnh diện với chính mình về điều đó. Sống gần giới
giang hồ nên tôi không thích những người… chơi bẩn. Và bạn tôi toàn những người
chạy gạo từng ngày. Nhưng tôi kính phục và quý mến họ.
Mẹ tôi thường phàn nàn về cách ăn mặc giản dị của tôi. 32 năm
tôi không thay đổi. Mẹ tôi lại phàn nàn tiếp, vì sao tôi thương bạn hơn anh em
ruột thịt? Lúc tôi khổ sở, không tiền trả tiền nhà, tôi có thấy anh trên, em dưới
nào đâu? Làm sao mẹ tôi biết và hiểu được nỗi cơ cực của vợ chồng tôi? Nhưng
tôi biết nói thế nào cho mẹ tôi hiểu? Tôi không nói gì cả. Tôi vốn thế.
Mẹ tôi, người sinh ra tôi còn không bắt tôi… sống khác đi được,
huống chi là ai. Thì thế đấy, tôi có sao nói vậy nhưng không bao giờ nói bậy.
Không nói bậy thì không làm bậy. Tôi cũng chưa bao giờ tự nhận mình là người… lịch
sự,chính vì thế trên sân khấu, hay trong các bài viết trên báo, tôi đã nói rõ rằng
tôi là một người vô học và ăn nói đôi khi rất là… cà chớn. Có điều gì lỗi lầm,
xin bà con, cô bác bỏ lỗi cho.
Nhưng mà những điều tôi nói hay viết dù không phải ai cũng
thích, song cũng có người..không ghét. Ðó là những người thích..có sao nói vậy,
những người không hề đòi hỏi những điềiu quá khả năng của tôi. Bởi đời sống ở
đây quá nặng nề với những… ý đồ vĩ đại, nên đôi lúc, cái lẩm cẩm, đàn bà, cà chớn
của tôi đem đến ít phút thoải mái trong… phòng tắm.
Chú Mai Thảo của tôi bảo viết một bài trên báo Văn. Tôi dạ
nhưng… vờ quên. Ông Nguyễn Xuân Hoàng kêu viết, cũng một bài ở Thế Kỷ 21. Tôi
cũng dạ rồi thôi luôn. Lý do, tôi không dám, tôi không xứng đáng được chen
chân, góp mặt. Cũng bởi tôi kính trọng và quí mến những người nghĩ đến tôi, cho
nên không dám đưa cái văn bằng duy nhất của tôi ra (bằng quốc tịch ấy mà). Sợ
làm 2 ông mất mặt và những người khác không vui khi có tên tôi bên cạnh. Như thế
cũng có thể gọi là biết điều đấy chứ.
Thường thường, ở những nước văn minh, người ta thường hay
khuyến khích những… mầm non, ở bất cứ lãnh vực nào. Riêng tôi, tôi thấy người
mình hơi… khắc khe, hơi… ác với nhau đó. Ác nhiều hơn là khắc khe. Vì ác khác
mà khắc khe khác. Dĩ nhiên là không phải mọi người ở đây đều như thế. Song người
ác nhiều hơn và hay… khoe cái ác của mình, một cách hãnh diện. Ðó chính là nỗi
khổ tâm của họ bởi những người có cái tâm ác độc ác, sẽ không bao giờ sung sướng,
hạnh phúc cả. Nếu không thế, chẳng hoá ra ông Trời bất công lắm ru.
Chính vì nhiều người không sống với nhau bằng sự tử tế, ngày
về mới… bóng chim tăm cá… Phải chi. Ừ phải chi… Ôi nói ra thì vô cùng, mà lại bị…
chửi là… ca sĩ mà cũng bày đặt nói chuyện nước non. Nhiều khi tôi có cảm tưởng
mình là người… ngoại quốc xa lạ trong cộng đồng mình. Là sao? Rất nhiều lần,
trên tàu bay, tôi bị hỏi: “Mày là người ở đâu đến…”. Lúc đầu tôi hùng dũng trả
lời “ Tao từ Nam Việt Nam, qua đây trốn Cộng sản…”. “Thế sao bây giờ tụi mày
không về đi, nước mày thống nhất rồi đó…” Ðau gà không. Bèn gân cổ lên cãi. Cãi
đã rồi…chửi luôn, bao nhiêu vốn liếng tiếng Mỹ… ăn đong mang ra xài hết. Kệ mẹ
nó có hiểu hay không. Nhưng rồi tôi bỗng… sợ. Mình chửi nó hăng quá, nó mà nổi
điên lên, nó dám xách cổ mình, liệng mẹ nó ra ngoài tàu bay thì chỉ có nước ngủ…
với giun. Từ đó mỗi lần… được hỏi thăm, tôi bèn trả lời. Ú ớ trả lời, ra cái điều
không biết, không hiểu… “Tao… Cambốt…”. Bèn được yên ngay.
Nếu bây giờ tôi nói tôi là… người Mỹ. Cũng đúng thôi. Vì tôi
đang mang quốc tịch Mỹ. Nhưng nói thế chẳng thà tôi tự lấy dao đâm mình còn sướng
hơn. Tôi nhớ là tôi đã khóc rất lớn, khóc một cách tận tình, làm mọi người ngạc
nhiên, khi giơ tay tuyên thệ, thề bảo vệ xứ sở này. Tôi đã từ bỏ, chối bỏ nguồn
gốc của mình. Bài quốc ca Mỹ vang lên như những mũi đinh nhọn hoắt đâm thẳng
vào tim tôi.
Tôi muốn được mãi mãi làm một người VIỆT NAM… NGUYÊN VẸN HÌNH
HÀI… trong cái cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Một cộng đồng biết thương nhau
bằng trái tim Việt Nam, thì tôi cũng sẽ không phải, không đến nỗi phải yêu
thương cuộc đời này bằng chính trái tim… của tôi… “MỖI NGÀY TÔI CHỌN NGỒI THẬT
YÊN. NHÌN RÕ QUÊ HƯƠNG NGỒI NGHĨ LẠI MÌNH. TÔI CHỢT BIẾT RẰNG VÌ SAO TÔI SỐNG.
VÌ ÐẤT NƯỚC CẦN MỘT TRÁI TIM” Tôi ở đây và tôi cũng cần một trái tim.
11. Hoàn thành một cuốn băng với ai thì tôi không biết. Riêng
tôi, nó khó khăn, vất vả như đàn bà đẻ. Mà cũng có thể nói như vậy được. Ðây là
một đứa con, đã cưu mang hơn 9 tháng 10 ngày. Gẫm lại thấy còn châm hơn chứ
không dễ dàng như khi bỏ cuốn băng vào máy, hay cho ra đời một đứa con.
Với một người đàn bà bình thường, cứ có bầu đủ 9 tháng là… xổ
bầu. Nhẹ nhõm ngay. Ngay cả đến cái chuyện chẳng may phải mổ, hoặc vì muốn làm
đẹp nên mổ chứ không sanh bình thường, cũng rất là mau lẹ. Soẹt một cái là
xong. Ở Mỹ, họ mổ như mổ gà vậy mà. Bốn ngày sau, sản phụ đi lại bình thường.
Như tôi ngày xưa, cũng chỉ 4 ngày sau khi mổ, tay ôm bụng, tay ôm con, rửa
chén, nấu cơm, đánh dấu bài, chùi nhà, giặt quần áo.
Ðó là chuyện của đàn bà, còn cái này, tuy cũng là chuyện đàn
bà, nhưng đứa con tinh thần coi bộ hơi khó nuôi. Tôi thai nghén project “Thương
Ca Chiến Trường” này đã hai năm nay. Ði lên, đi xuống phòng thâu không biết mấy
chục lần rồi. Ðã phát hành bên Úc. Rồi lại thêm nhạc, mix lại. Chỉ thấy tiền
ra, chưa thấy một cent nào về. Mong có tí tiền còm đặng trả nợ. Dù bạn không
đòi song phải thấy nhột.
Nhờ ba tuần lễ ở nhà, tôi hoàn tất được 4 trong 15 projects
đã thâu nhạc sẵn, có cái thâu hát lại. Hát phải có hứng mới hát ra. Không phải
lúc nào cũng hát được. Thường tụi tôi hay về chiều chủ nhật, phải mấy ngày sau
mới lại hồn, lại giọng. Thứ ba, phòng thâu kêu cho hay có giờ trống. Ðầu óc tôi
còn quay cuồng với chuyến đi. Tai còn ù, giọng khào khào như vịt, hơi hám chạy
đằng nào hết không biết. Phải thâu trong tình trạng đó có khác nào… cởi áo
không cho la. Hát xong 12, 14 bài. Nghe lại, sao dở thế. Thôi để đó, sẽ thâu lại.
Mà cứ đi hoài thì biết chừng nào mới xong.
Cái đám hỏi cô Hiền, em gái út của Ðoan, đã định ngày, nhưng
ông anh nhớ lộn, làm tôi bỏ show ở nhà vì là dâu trưởng, nên mẹ tôi muốn tôi phải
có mặt. Hiền nói… “Chị ráng ở nhà, một đời em có một lần”. Nhờ vậy mà tôi… bị ở
nhà và nhờ vậy mà tôi có thì giờ hát lại đàng hoàng 4 projects. Cứ 3 giờ chiều,
tôi ra khỏi nhà, có khi 4 giờ sáng mới bò về tới nhà. Ðoan thì lo mix cuốn Buồn
Tàn Thu, 16 bài lọc lại còn 12 bài. Tôi chơi bạo thêm một cuốn nữa với hòa âm của
thầy Thiêng. Tội nghiệp thầy Thiêng, tối nào cũng ghé phòng thâu coi con nhỏ
hát ra làm sao, mà đã chỉ cho hát ngay từ lúc thâu basic. Ðã ghi sẵn hết rồi,
hát qua một lần rồi. Giờ thâu lại, thầy vẫn đến… “Có anh ở đó, ít ra khi em
hát, có người hiểu em hát cái gì. John rất giỏi, lui có thể thay anh chỉ dẫn những
chỗ sai, nhưng người Mỹ, họ có biết mình hát cái gì đâu? Ðiều đó cũng làm tụi
em không có fi-lình khi hát…”.
Ðối với những ca sĩ già (nói theo Lan Làng Văn), nhịp nhàng ở
trong đầu chúng tôi, dù không giỏi nhạc, không tốt nghiệp ở trường (có nghĩa
là… vô học như anh Trần Quang Hải đã viết trên báo). Song ông Trời cho chúng
tôi cái lỗ tai cộng thêm mớ kinh nghiệm tròm trèm 30 năm. Ðưa bất cứ thể điệu
nào chúng tôi cũng cân hồ ráo. Giọng hát có, nhịp nhàng vững. Chưa đủ. Không đủ.
Phải hát bằng tất cả rung động của trái tim, như “Yêu anh bằng trái tim em” vậy.
Có thế người ca sĩ mới chuyển đạt được đến người nghe tất cả những ý, tình, người
viết gửi gấm, ký thác ở tác phẩm của họ. Ca sĩ là cái gạch nối giữa người viết
và người nghe.
Hát bằng cả trái tim mình. Thoạt nghe thì rất dễ, mà không phải
vậy. Giọng hát hay, kỹ thuật cao, giỏi nhạc, tốt nghiệp ở một tỉ trường âm nhạc
cũng không hay bằng một tiếng hát được cất lên từ một trái tim mềm yếu nhưng
luôn rực lửa yêu và đam mê. Ðam mê đây là mê hát chứ không phải là mê… hoảng.
Như tôi thích nghe Tuấn Vũ, bởi trong giọng hát đó tôi “nhìn
thấy”, cảm nhận được nỗi cô đơn buồn bã. Tiếng hát Carol Kim, tôi nghe như tiếng
kêu thảm thiết, thống khổ của một kiếp người. Nỗi cô đơn buồn bã, nỗi thống khổ
thê thiết kia ở trong tiếng hát, bung ra từ một trái tim, òa vỡ, tan biến vào
tâm tư người nghe. Ðọng lại ở đó, thành một khối buồn, không bao giờ tan. Như
khối buồn Trương Chi, song nước mắt Mỵ Nương của thế kỷ 20 này, nếu có, cũng
không đủ sức làm tan vỡ.
Tôi rất thích nghe các bạn tôi hát. Và thật là kỳ quái, tôi
không bao giờ nghe… tôi hát cả. Chỉ thỉnh thoảng, ở trên xe, nghe cuốn băng mới
thâu, vừa mix xong để tìm khuyết điểm. Ðể bạn bè nghe, phê bình, trước khi phát
hành rồi… thôi. Vì sao? Vì tôi nghĩ rằng tại sao như vậy? Tôi còn có thể… khá
hơn được chứ. Và tôi làm lại. Cho dù cuốn băng đó được thâu từ năm 85, giờ tôi
thâu lại với lòng tự tin. Tôi sẽ hát… tới hơn, bởi giờ tôi đã… chín. Và như một
ngọn đèn trước khi tắt bao giờ cũng bừng sáng dữ dội. Tôi yêu hát như chưa bao
giờ yêu như thế.
Biết đâu chừng ngày mai, tôi không còn thức dậy nữa. Biết đâu
chừng sáng mai tiếng hát từ giã tôi mà đi. Biết đâu chừng, sáng mai mọi người
quay lưng lại tôi. Biết đâu chừng… biết đâu chừng. Ðiều gì cũng có thể xảy ra
được. Thế cho nên ngày nào tôi cũng ôm nhạc đi. Ngày nào tôi cũng gân cổ, nhắm
mắt, nhắm mũi lại mà hát. Như chưa bao giờ được hát. Như sợ không còn hát được
nữa. Ôi, tôi yêu cái bài hát, cái micro, cái phòng thâu biết là bao nhiêu.
Trong suốt đời tôi, tôi chỉ có thể làm được một việc khả dĩ
có thể được mọi người, mọi giới chấp nhận. Ðó là việc tôi đã bắt đầu và liên tục
làm trong vòng 32 năm. Hát. Chưa một phút nào cảm thấy chán. Có phải con tim
tôi còn mềm sau bao đoạn trường? Có phải tôi đã rõ cuộc đời vốn không thể khác,
tôi đã trải qua khỏi bể oan cừu, qua khỏi bến mê? Có phải tôi đã sống trong cái
tâm “…Buồn vui kia là một. Như quên trong nỗi nhớ” (TCS).
Không biết. Chỉ thấy tôi càng ngày càng tha thiết với mọi người,
với cuộc đời. Dù ai đó có muốn gạt tôi ra bên lề cuộc sống chung, tôi vẫn tha
thiết xin cho được sống cùng, sống cho, sống với. Tôi điên rồi sao? Không, tôi
không bao giờ điên. Và chưa bao giờ tỉnh để nhìn rõ mọi sự việc như bây giờ.
Lòng tôi thanh thản quá. Tâm tôi yên tỉnh quá. Không hề có một chút bối rối, vọng
động.
Không hiểu tháng này là tháng gì mà sao lắm tin vui. Vui từ
trong ra ngoài. Cái mặt tôi vốn đã khó nhìn, thấy mình cười toe trong gương,
cũng đành phải công nhận là… khó ưa thật. Nhưng mà tôi vui thì phải cho tôi cười
chứ vì dù sao thì, với tôi, cười cũng dễ chịu hơn là khóc. Xấu lắm và mau già nữa.
Tôi vui vì sau bao nhiêu cố gắng, bao nhiêu mệt mỏi. Băng nhạc
Thương Ca Chiến Trường của tôi đã hoàn tất, cùng một lúc với CD Tình Nhớ. Vui
vì Ly Cơ rất chịu khó, tiếp tục học thêm, tiếp tục gọi về thăm mẹ. Giọng con
tôi ngọt như đường cát, mát như đường phèn… I love you mom… bao giờ cũng vậy
trước khi cúp phone. Cu Hố Nai thì đã quen trường, quen nếp sống nội trú hắc
ám. Trước khi trở lại trường bao giờ cũng ôm hôn mẹ. Misa tối ngày đi học giáo
lý, đi nhà thờ, và nghe nhạc đạo nhiều hơn. Hai mẹ con càng ngày càng trở thành
hai người bạn thân thiết và nhiều cảm thông.
Còn Hố Nai lớn của tôi vẫn chịu khó chịu đựng con vợ… điên của
mình, cùng sự mè nhèo của hai đức con. Tụi nó muốn gì thì cứ nhè Ðoan mà đòi,
tôi có biết thì cũng cười trừ mà thôi. Mình ăn thì hết, con ăn thì còn. Vui với
con, vui vì có thêm hai người bạn nhỏ. Mà ở hai người vừa là con, vừa là bạn,
tôi đã học được rất nhiều điều. Cái mà tôi thích nhất là sự hồn nhiên. Ðiều này
tôi không có khi còn trẻ, song lại rất có lợi cho tôi ở tuổi này.
Tôi còn vui vì cái nỗi xách valise lêu bêu hết phi trường này
đến phi trường khác, đi thiếu điều muốn… lé mắt luôn vì mệt. Thế mà vẫn cười.
Thì đã gọi là…hồn nhiên mà lỵ. Vui mà cười là sự thường. Mệt cũng cười cho quên
mệt. Cứ xem như không có gì… mệt cả thì sẽ không mệt. Cứ coi như không có gì khổ
cả thì sẽ… sướng. Cứ… tưởng là mình giàu thì sẽ không nghèo. Cứ cho là mình…
mù, điếc, câm thì cuộc đời lúc nào cũng đáng yêu, đáng sống.
Bây giờ, sau khi đã hoàn tất công việc, cứ coi như thế đi,
tôi ngồi một mình gõ bài cho Thời Báo bên cạnh hai cái valise nặng và to như gò
Ðống Ða. Tôi sẽ đánh vật với chúng bằng hai cánh tay đã yếu dần theo ngày
tháng. Vài tiếng đồng hồ nữa thôi tôi sẽ lên đường đi thăm lại phố phường
Paris. Tìm lại một chút mơ mộng của cái thuở biết yêu lần đầu, trong một quán
café bên sông Seine, tìm lại một góc Saigon, một chút Huế, một tí Ðà Lạt trong
buổi chiều heo hắt nắng, lành lạnh nhẹ. Một mình đôi lúc cũng chưa hẳn là buồn.
Thật vậy, có nhiều điều chỉ có mình “cảm nhận” được. Và chỉ
“cảm nhận” được khi chỉ có một mình. Không có gì quan trọng cả, chỉ là những điều
rất nhỏ, rất tầm thường trong đời sống nhưng lại rất cần thiết cho một người
như tôi. Sống lãng đãng giữa đời. Tuy tôi ăn nói có đôi lúc rất..trần tục,
nhưng lại luôn luôn thèm khát một cuộc sống thơ mộng, một tình yêu thanh thoát,
đẹp đẽ, nên thơ. Ấy có thể vì tôi vào đời sớm nhưng lại biết yêu quá trễ. Giờ
tôi cố gắng gìn giữ hạnh phúc nhỏ nhoi của mình, làm sao như ngày đầu. Lúc nào
cũng như ngày đầu.
Không dễ gì mà làm nổi đâu. Ở một nơi như cái gì cũng vuông vức,
cái gì cũng bấm bằng máy, tính bằng giờ. Nhìn quanh, thấy đời sống trần trụi
như một người không mặc quần áo, khó khăn, vô tình như xa lộ nhiều ngã rẽ, những
lòng sông quanh năm không có một giọt nước, nằm phơi lòng cạn cợt dưới chân cầu.
Ôi, dễ gì có được một chút nhỏ nhoi yêu dấu kia.
Tôi đã mất 16 năm, tiêu xài trọn vẹn khoảng thời gian 16 năm
và bây giờ tôi có thêm những người bạn không ai có thể thay thế được… Ðoan và
các con tôi. 16 năm dài, quá dài để đợi cho được điều mình muốn. Ðoan luôn luôn
là một người… tình, hơn là một người chồng. Dĩ nhiên không thể nào là người
tình thuở 17, 18 nhưng vẫn có cái khác lạ. Một người tình trong một người chồng.
Ðoan phải cho tôi điều tôi mơ ước. Thật không dễ dàng gì…
cũng “hoàn cảnh” lắm chứ chẳng chơi sao. Song Ðoan đã làm được việc đó bởi chỉ
có Ðoan mới thấy rõ những điều tôi dấu kín trong lòng, trong đó có điều tôi ước
mơ. Tôi không hề đòi hỏi tiền bạc, nhà cửa, xe cộ hay những thú vui xác thịt.
Tôi vốn lúc nào cũng yêu thích những điều tử tế, đẹp đẽ, dịu dàng, thơ mộng. Những
điều này không phải trả tiền song đôi khi có tiền, cũng vô ích.
Sự tương kính cần thiết ngày càng gắn bó chúng tôi hơn. Chúng
tôi và các con. Vợ chồng, con cái. Những người bạn. Sau 16 năm, chúng tôi chỉ
có thể, bên cạnh một vài người bạn thật sự là bạn. Là bạn, là anh, là thầy, là
em. Cuộc đời tôi đã ở trong một cái khung rất tròn, rất êm ái, rất đẹp.
Và tôi yên tâm, cái tâm tôi rất yên để giờ này ngồi đây tâm sự
vụn với bà con khắp nơi. Những người đã yêu thương tôi qua bao dâu bể. Còn đúng
4 tiếng đồng hồ nữa, tôi lên đường. Ðoan dặn dò “…ráng cho hay nghe em…”. Bao
giờ mà tôi chẳng ráng hết sức mình. Bao giờ cũng vậy. Trên sân khấu hay ở những
cuộn băng. Người ca sĩ không đơn thuần là ca sĩ mà còn là một chiến sĩ trên cái
chiến trường của mình. Không chiến đấu bằng súng đạn, không có kẻ thắng kẻ bại.
Chỉ có những niềm vui san sẻ cho nhau, cho những mảnh đời nổi trôi, cho những
trái tim còn đầy ắp tình người Việt Nam.
Bao giờ cũng thế, ở đâu cũng thế. Tôi luôn cố gắng trong tình
thương của mọi người. Tôi làm tốt cái việc tôi đang làm. Không phải cho cá nhân
tôi hay Ðoan, mà cho mọi người. Tôi bán băng chứ không cho không, thế thì phải
làm cho hay, dù tốn kém bao nhiêu cũng được. Người ta bỏ tiền ra đi nghe mình
hát, mua băng nhạc của mình,có nghĩa là chia cơm xẻ áo cho mình, bằng đồng tiền
mồ hôi nước mắt. Phải làm sao cho xứng đáng với lòng yêu thương của mọi người,
khi mình cầm đồng tiền ấy. Biết ơn. Ðiều đó dĩ nhiên rồi, nhưng còn phải cố gắng
nhiều hơn nữa. Ngày nào còn được thương, còn phải cố gắng nhiều hơn nữa.
“Nếu em không làm tốt đẹp cái việc em đang làm, nếu em không
yêu cái việc em làm. Nếu em chỉ muốn dối gạt mọi người để có tiền thì tốt hơn
em đừng làm nữa”. Chồng tôi luôn luôn nói với tôi như thế. Anh là một cố vấn tốt
khi anh coi cái tên KL không ra gì, mà chỉ chú trọng đến cái việc tôi làm. Nếu
tôi thèm một cục hột xoàn, anh có thể từ chối, nhưng nếu một cuốn băng đòi hỏi
anh phải chi thêm tiền cho hay, thì anh không bao giờ nghĩ ngợi. Vậy thì cái việc
tôi yêu cầu anh đứng ở trong quần chúng thì cũng đúng mà thôi.
12. Khi tôi đến nơi, mọi người tề tựu đã khá đông. Thật đau cho
chúng tôi cứ phải gặp nhau ở chỗ đưa người về cõi khác. Không còn chỗ nào để gặp
nhau nữa sao? Hay chỉ có những nơi như thế này, mọi người mới thật thà đến và
đưa nhau đi? Nhà quàn nằm giữa ở ngã tư Bolsa và Beach đã trở thành quen thuộc
với tất cả chúng tôi. Một khu đất riêng có bóng cây cao mát, có hồ, có hoa, có
bướm, có chim về hót quanh năm một bài ru dịu dàng. Quê hương của những người
Việt đã chọn nơi này nằm xuống cùng anh em, bạn bè.
“Trưa nắng người về, người về đất, về đất. Trên cánh chim người
quy cố hương. H.D.L”. Chúng tôi ra về, kẻ trước người sau, sau khi đã phủ lấp
huyệt mộ. Nguyễn Tất Nhiên nằm tại đó cạnh ngay mộ em trai tôi và quanh đó là
những người cùng màu da, cùng tiếng nói. Chắc hẳn cũng có cả những người đã từng
đọc và yêu thơ của anh. Nguyễn Tất Nhiên ra đi rất bình thản như anh đang ngủ,
giấc ngủ đẹp hơn tất cả những giấc ngủ trong khoảng thời gian 41 năm đã qua
trên đời anh. Người vợ đã xa, những đứa con chưa lớn và Minh Ngữ, người bạn
thân cuối đời, người đã lo cho Nhiên một nấm mồ, tất cả đã chẳng ai nghe anh
nói một lời cuối cùng. Tôi nghĩ..Nhiên không hề đau khổ. Anh rất tỉnh và thản
nhiên khi chọn cho mình con đường này.
Có nhiều cái chết mọi người cho là vô lý. Với tôi không hẳn vậy.
Ðôi khi là một lựa chọn khôn ngoan, chỉ phải cái… hơi ác… bởi đã để lại bao nhiêu
điều ân hận cho người sống… “Nỗi khổ còn đây người ở lại. Chén rượu nào vơi được
nhớ thương H.D.L”. Chẳng có gì vơi được. Chẳng bao giờ vơi được. Rượu sẽ hết mà
sầu chẳng nguôi. Người đã chết chẳng bao giờ sống lại. Có uống đến ngàn chai.
Có khóc đến cạn nước mắt, đến chảy máu mắt, cũng chẳng còn kịp nữa. Ðời người
như cơn gió, như vạt nắng cuối chiều. Một đời người sống là… đợi chết không
may.
Dù đã quá quen với những mất mát nhưng ở mỗi cuộc chia tay,
ngay cả với một người không quen biết, tôi vẫn thấy xót xa. Cái đám người tha
hương lạc loài nơi xứ người chẳng có là bao, mất đi một người, cái thân thể Việt
Nam vốn đã rách nát từ ngày chinh chiến đó lại thêm tả tơi. Nước mắt đổ ra
trong suốt bao nhiêu năm bom đạn vẫn tiếp tục đổ ra trên xứ lạ. Còn bao nhiêu
người nữa sẽ nằm lại ở đây? Chúng tôi nhìn nhau thở dài. Tóc đã bạc rồi, một
ngày sống là một ngày bước lại gần hơn huyệt mộ của chính mình.
Ðầu óc tôi còn đầy ắp hình ảnh Nguyễn Tất Nhiên nằm bình thản
trong chiếc áo cuối đời thì tin buồn lại tới. Ca sĩ Anh Thoại trong lúc thâu
băng đã bị stroke bởi một cơn đau tim, anh được đưa ngay vào bệnh viện và đã
qua một đêm một ngày, anh vẫn chưa tỉnh. Ôi tại sao bất hạnh lại nhiều như thế.
Nhiều và hay đến với những người vốn đã nghèo, đã kém may mắn. Tôi chỉ biết ngồi
cầu nguyện cho Anh Thoại và ngồi trách trời gần, trời xa.
Có lúc tôi nghĩ Thượng Ðế thật bất công. Nguyễn Tất Nhiên vừa
nằm xuống. Anh Thoại đang mê man trên giường bệnh, họ là những người hiền lành,
dễ thương và đáng sống biết bao. Thế mà… thế mà. Thật không thể nào hiểu nỗi.
Càng nghĩ càng buồn, càng buồn càng hận mà chẳng biết trút vào đâu cái buồn hận
này. Người nghệ sĩ suốt đời mang lại niềm vui cho cuộc đời, khi hai tay buông
xuôi, chẳng còn gì, chẳng còn gì. Nguyễn Tất Nhiên sau cùng cũng đã có một căn
nhà suốt đời anh mơ ước với tình thương của anh em, bạn bè. Giờ chúng tôi lại
chia ra theo dõi, giúp đỡ Anh Thoại. Tinh thần cũng như vật chất.
Ðêm 13-9 tới đây, Ông Trầm Tử Thiêng cùng một số ca, nhạc sĩ
tổ chức đêm văn nghệ cho anh Ngô Văn Quy. Quy là nhân viên của hội thiện nguyện
USCC, anh cũng là huynh trưởng gia đình Phật tử Long Hoa. Tháng vừa qua, trước
cổng chùa Việt Nam tại Los. Gia đình anh đã gặp tai nạn. Một người Mễ sau khi đụng
một chiếc xe, bị rượt bắt đã tông vào xe anh khiến anh bị thương nặng. Hàm bể
nát phải giải phẫu, khâu lại, vợ anh gãy xương vai. Người lái xa kia không có bảo
hiểm và xe anh cũng vừa hết. Ngô Văn Quy rất sốt sắng trong những buổi văn nghệ
từ thiện, gây quỹ cho chùa, cho trẻ mồ côi tại tại các trại tị nạn. 17 năm qua
ngoài công việc giúp đỡ bà con mới đến từ VN hoặc từ các đảo như chỉ dẫn lấy
mê-đi-keo, tiền trợ cấp, xin việc làm, Ngô Văn Quy dành hết thì giờ làm việc
trong chùa, hướng dẫn các em trong gia đình Phật tử Long Hoa.
Ngô Văn Quy làm thơ, viết truyện ngắn đăng trên Hồn Việt là tờ
báo anh đã đóng góp công sức từ những ngày đầu cùng với Nguyễn Hoàng Ðoan, Du
Miên, Trọng Viễn, Huỳnh Công Phúc khi Hồn Việt còn ở trong một cái nhà kho ở
San Diego. Quy cùng với Nam Lộc là 2 trong số ít người Việt có việc làm ngay
khi còn ở trại tị nạn vì anh giỏi cả hai sinh ngữ Pháp và Anh. Song đời công chức,
đồng lương không bao nhiêu mà đời sống càng ngày càng khó khăn. Quy rất gói
ghém không bao giờ làm phiền bạn bè, không mấy khi tham dự party nhưng vẫn giữ
liên lạc với bạn, đặc biệt là giới ca, nhạc sĩ. Nếu anh có nhờ ai một việc gì
đó thì cho chùa mà thôi.
Chính ở tính tình hiền lành không bon chen nên anh không
giàu. Tuy nhiên nhờ thế mà chúng tôi thương quí anh. Giờ anh gặp nạn mọi người
xúm lại lo cho anh. Buổi văn nghệ này là một surprise bởi Quy không hề biết.
Anh ngại nhờ bạn bè, anh sợ tình nghĩa không trả được nhưng đây là tấm lòng của
những người anh đã giúp, muốn được trả lại một phần nào ân tình đó. Chúng tôi hẹn
nhau có mặt tại Ritz ngày 13-9 sắp tới. Nhiều ít gì cũng là nghĩ đến nhau. Có
còn hơn không Quy ạ.
Tôi thường hay nghĩ về cái Hội Nghệ Sĩ chưa bao giờ có ở đây
mặc dù văn. thơ, ca, nhạc sĩ đã kẻ trước người sau qua và ở tại Cali rất đông.
Những người đi hồi 75 coi như đã… mồ yên, mả đẹp… và những người đi sau rất bơ
vơ, rất thiệt thòi, nhất là gặp lúc kinh tế tụt dốc như bây giờ. Ðã cùng một
nghiệp dĩ thì không nên luận sang hèn, lớn nhỏ. Ðã cùng một xuồng thì chẳng nên
phân chia. Ðã cùng một cảnh ngộ mà còn bè phái thì thật đau lòng. Nghệ sĩ tuy đời
sống có hơi khác thường nhưng vẫn tôn ti trật tự như thường. Vẫn có thể bảo
nhau cùng ngồi lại với nhau chia vui, sẻ buồn. Vừa có thể giúp đỡ lúc hoạn nạn,
vừa tạo thêm niềm thương mến trong lòng khán thính giả. Ngồi lại với nhau không
có nghĩa là… ăn hết của nhau. Không có gì đẹp bằng cái hình ảnh vai sát vai của
những người luôn luôn cống hiến cho đời những điều đẹp đẽ.
Qua văn, thơ, nhạc chúng ta thường thấy ca tụng tình yêu
thương giữa người và người. Hình như tất cả những gì đẹp và lý tưởng nhất đều
đã được ghi trên giấy người người đều đọc, đều nghe. Thế mà thực tế lại không hề
được một phần nào.
Như thế chẳng hóa ra chúng ta lừa bịp mọi người sao? Và lừa bịp
cả ngay chúng ta nữa. Thật đáng buồn và đáng thương biết bao nhiêu nếu chúng ta
cứ phải sống với nhau bằng những đều không thật.
Trở lại vài tháng trước đây khi Nhật Minh ra đi. Nếu không có
linh mục Paul Chiếu, nếu không có những người không quen, xa gần cảm thương cho
một đời nghệ sĩ, liệu Nhật Minh đã có một nấm mồ như đã có không? Và nếu không
có sự quyết tâm, hy sinh công sức của Minh Ngữ, liệu chúng ta có còn một nơi chốn
để tìm đến, thắp cho Nguyễn Tất Nhiên một cây nhang, đặt xuống một cành hoa?
Hay là cả Nhật Minh và Nguyễn Tất Nhiên đều đã thành tro bụi cả rồi.
Vẫn biết chết là hết. Chôn hay thiêu cũng là chết. Ðủ tiền
thì chôn, nghèo thì đốt. Mỹ hay đốt bởi vì họ quan niệm còn phải lo cho người sống.
Cũng có lý nhưng chúng ta quan niệm Á đông: sống có một mái nhà, chết cần một nấm
mồ. Ngày xưa lúc còn ở bên nhà, tôi ít thấy cái vụ thiêu. Công giáo cũng không
thiêu. Chỉ có ở đây mà thôi. Ðôi khi giàu cũng đốt chứ không cứ là nghèo. Khi
em tôi chết, mẹ tôi nhắc lại lời Hải nói đùa một tuần lễ trước đó rằng nếu nó
có chết thì thiêu chứ đừng chôn. Mẹ tôi muốn như vậy để có thể mang về nhà thờ
cho gần gũi, mẹ tôi cũng đã lớn tuổi, bà sợ không thể đi thăm mộ thường. Tụi
tôi nhất loạt phản đối và cùng hùn tiền lo cho Hải.
Tôi dứt khoát không chịu thiêu. Bất nhẫn quá. Ðau lòng quá. Cứ
nghĩ đến ngọn lửa hừng hực, hung hãn thiêu đốt xác thân anh em, tôi không chịu
được. Một nấm mồ cũng vẫn hơn, dù đất đã lấp kín nhưng khi đặt một cành hoa, thắp
một nén nhang, đốt một điếu thuốc, tôi vẫn cảm thấy rằng bạn tôi, em tôi dù
cách xa ba tấc đất, vần là còn đó, vẫn ngửi được mùi thơm của hoa, của nhang.
Khác hẳn với nhúm tro than trong bình. Song cũng có người không đủ phương tiện
lo cho người thân một nấm mồ dù họ rất muốn. Trong đó có nghệ sĩ.
Tất cả những người mang danh là nghệ sĩ đều nghèo. Tôi chưa
thấy ai giàu. Có thể là lo ít, lo nhiều thôi. Từ hồi nào đến giờ, từ khi khôn lớn
biết suy nghĩ, tôi thấy đời sống ca, nhạc sĩ Việt Nam khổ quá. Lúc sống, ngay cả
lúc vàng son nhất, cũng chỉ đủ ăn đủ mặc, không đến nỗi phải cấu véo bạn bè.
Nhưng khi không làm hay đau ốm ở nhà một tháng là thấy đời nhau ngay. Nhất là ở
đây. Tôi được nghe kể rất nhiều về đời của những nghệ sĩ cổ nhạc. Ða số là chết
trong nghèo khổ và quên lãng của mọi người. Tôi thật không thể hiểu vì sao. Có
người vì hút, vì cờ bạc. Ừ thì cho là vì như thế nên họ nghèo. Nhưng những người
khác thì sao? Vậy mà tất cả gần như chung số phận. May mắn lắm mới có vài người
thoát ra khỏi cảnh nghèo lúc cuối đời nhờ lấy được chồng khá hoặc biết dè sẻn,
buôn bán, có ra đi cũng ra đi trong êm ấm, đầy đủ. Cái chết của Thanh Nga là
cái chết có một không hai.
Chúng tôi thường lo âu về tương lại mỗi khi gặp nhau. Ai biết
được ngày sau sẽ ra sao. Ai biết được ngày mai sẽ thế nào. Mọi người thường
nghĩ về chúng tôi qua hình ảnh rực rỡ, vui tươi trên sân khấu. Ðèn tắt rồi, màn
buông rồi, phấn son chùi rửa rồi, chúng tôi có chung với mọi người một khối lo.
Có thể chúng tôi khổ hơn vì đôi khi phải cười mà trong lòng muốn khóc. Ôi đời
cơm áo tàn nhẫn biết dường nào. Ðời của một ca sĩ đáng thương biết là bao.
Vừa nghe tin Anh Thoại nằm bệnh viện, bài viết chưa xong,
Trung Nghĩa báo tin… Anh Thoại mất rồi… Mới ở nghĩa trang về, lại sắp tiễn đưa
người khác… Nghĩa nói: “…Sao kỳ vậy chị Mai, sao toàn chuyện buồn không vậy, tại
sao người ta không cưới nhau mà chết quá vậy…”. Làm sao tôi biết làm sao bây giờ.
Chí Tài phone: “…Sao kỳ vậy chị Maị sao vậy, ảnh mới rủ em đi ăn, em hẹn tuần
này mà…”. Việt Dũng cũng kêu: “Sao lạ vậy chị Mai, chắc chị phải làm một cái
gì, cúng tổ đi chị, sao cứ nhè ca, nhạc sĩ không vậy…”. Ông Thiêng nói: “… Kỳ
quá, mới gặp hôm kia đây mà, gì mà kỳ vậy…”.
Tôi ngây người ra. Tôi bỗng ngu hẳn lại. Tôi bỗng thấy một nỗi
chán nản, tuyệt vọng chụp xuống khiến tôi choáng váng mặt mày, không thở được.
Thôi tôi ngưng.
13. Chị Ký Điệu gặp tôi, chửi toáng lên. Tiên sư mày, tao chỉ định
là sẽ đi Hongkong chơi, trước khi trao trả lại cho Trung Cộng. Chỉ định thôi chứ
đã đi đâu mà mày la om xòm. Mẹ, cái mồm như mồm… Mồm gì thì nói đại ra đi, mồm
tao cũng giống mồm mày thôi. Thì tao cũng nói là mày định đi chứ tao có nói
thêm đâu mà mày làm ào ào… Ừ thì tao cũng muốn đi chơi một chuyến cho khuây khoả.
Mẹ, cày bừa hoài, mệt quá rồi.
Giọng Minh dịu hẳn lại. Tôi hơi ngạc nhiên vì bà cô xứ Thái
này ít khi toả ra… sầu đời, ít khi thở ra hơi chán nản. Cái gì xảy ra đây? Chị
than thở tiếp… Đời sống ngắn ngủi quá, sống nay, chết mai, ai biết được, có làm
lắm cũng đến thế, tay buông xuôi, có mang được gì theo đâu… Bộ bây giờ mày mới
biết à?. Tao nói thì mày chửi. Nào là tao không lo, không biết. Nào là tao ngu,
tao điên. Riết rồi chồng tao cũng nhập tâm là tao… ngu. Tao điên thật. Nói xin
lỗi mày chứ, cứ bán cái ngu của tao đi, nuôi được 100 thằng khôn. Bán cái điên
tao đi, nuôi được ngàn thằng tỉnh.
Minh buồn hơn tất cả những lần tâm sự. Từ trước tới giờ tôi cứ
nghĩ Minh là con người sống bằng lý nhiều hơn tình. Điểm trái ngược thứ nhất giữa
hai đứa tôi. Minh sống căn cơ, vén khéo, bạn ít, ít bạn, luôn luôn có giới hạn.
Minh tự giới hạn, tự đóng khung đời sống của mình, ngay cả đến tôi, người bạn gần
như duy nhất của nó cũng không thể vượt qua. Tuy vậy cũng có lúc chị tâm sự với
tôi… tất cả. Đó là những giây phút Minh sống thật với chính mình và phá vỡ tất
cả mọi giới hạn. Những giây phút ấy không nhiều nhưng đã rất đủ cho tôi hiểu điều
nó thường giấu kín.
Đó là điều trái ngược thứ hai. Tôi đã nói với Minh nhiều lần.
Cái điều người ta thường muốn giấu kín, thật ra không có gì ghê gớm lắm đâu, nó
chỉ là một điều… giấu kín mà thôi. Và chính điều đó làm ta nặng lòng hơn cả. Có
cái gì quan trọng đâu? Không, trên đời này, ngó vậy mà chẳng có gì quan trọng cả.
Chỉ vì mình cho nó là quan trọng mà thôi. Minh nói… tao không thể như mày được.
“Tại sao không thể và như tao là như thế nào? Tao nhởn nhơ quá chăng? Tao dễ sống
quá chăng? Tao hời hợt quá chăng? Không đúng vậy mà… hơn vậy nữa.”
“Nói như mày chướng bỏ mẹ đi, bố ai mà hiểu mày nói gì”. “Mày
thông minh lắm Minh à, mày hiểu hết dù tao không nói. Cuộc sống tao, đôi khi
làm mình khó chịu nhưng tao cảm thấy rất thoải mái. Cái gì cũng vậy, khi thấy
không thể nắm giữ được thì tao buông. Bất cứ cái gì. Không hề hối tiếc, … Mày
đã biết đời sống ngắn ngủi – biết hơi trễ đó Minh – thì tại sao không tìm kiếm,
không tạo dựng cho mình, cái ngắn ngủi ấy, trở thành đẹp đẽ. Một ngày đẹp một
ngày, một giờ đẹp một giờ.”
“Mày làm như dễ lắm, muốn là được à.” “Được chứ có khó khăn
gì. Đừng muốn gì quá tầm tay. Hạnh phúc là gì? Mấy ai hiểu được đúng nghĩa hai
chữ đó. Hạnh phúc chẳng là… mẹ gì, nó rất tầm thường song nếu mình bằng lòng
thì nó trở thành một điều tuyệt vời.Thế thôi. Đừng suy diễn nhiều quá, dễ trở
thành rắc rối và rồi chính mình bị vướng vào, không gỡ ra nổi. Ngày xưa, khi
còn trẻ, tao luôn mơ những điều mà cho đến một lúc, tao nhận thức ra, đó là những
điều chỉ có trong… tiểu thuyết. May mà tao sớm biết, nếu không đời tao còn gọi
là… ăn mày chán.”
Minh nhìn tôi có vẻ nghi ngờ. Nhiều người cũng nghi ngờ, cũng
tự cho là tôi không có hạnh phúc. Ôi cái hạnh phúc chẳng phải là một cái áo, một
đôi giày. Nó lại càng không phải là một cục hột xoàn để có thể đem theo khoe
cho mọi người thấy. Hạnh phúc không nằm giữa đường Bolsa. Hạnh phúc không có mặt
trong các vũ trường, sòng bạc hay ở trong những ly rượu đầy. Hạnh phúc đơn giản
hơn nhiều. Đôi khi là một gói đậu phọng luộc. Một miếng đậu hũ còn nóng. Đôi
khi là một con cá chiên giòn, nóng hổi bên cạnh chén nước mắm tỏi và đĩa rau
lang luộc. Hạnh phúc ở trong lời thăm hỏi bình thường, trong cái nắm tay nhè nhẹ,
trong cả những phút im lặng bên nhau.
Hạnh phúc của tôi là như thế. Hạnh phúc ở trong trái tim
mình. Hạnh phúc chính là… mình. Tiền bạc và danh vọng đều… không ăn gì cả, đều
vứt đi hết. Hột xoàn dù sáng cũng không che được cái lấp lánh của giọt nước mắt.
Cái áo có đẹp, có đắt tiền, cũng không gói kín, làm ấm lại một trái tim lạnh lẽo,
tan vỡ. Có thể cho đây là cách suy diễn tự an ủi mình để mà sống tuy nhiên để
có đủ sáng suốt để suy diễn như vậy, không có mấy người.
“Minh à, mày một mẹ, một con lại chồng lúc nào cũng ở bên cạnh
yêu chiều, có gì để mày phải lo nghĩ, buồn phiền. Con đã lớn, nó có đời sống của
nó nhưng bất luận thế nào, nó cũng là con mình…”. Ừ, lẽ ra tao không đi, tao muốn
ở lại với mẹ nhưng thằng bé cứ khóc, đòi theo mẹ Mai để được đi học, nên tao cắn
răng ôm con sang đây. Bây giờ, mẹ không còn, con đã lớn thế là mình đã mất mẹ lại
sắp sửa mất luôn con…”. “Mày vớ vẩn bỏ mẹ đi.Trai lớn có vợ, gái lớn có chồng.
Đời cua, cua máy, đời cáy, cáy đào. Bổn phận của tụi mình là nuôi con cho khôn
lớn, tiền bạc không có để lại cho con – mà tụi nó cũng chẳng cần tiền của mình
– thì mình đã để lại cho nó, đã tạo dựng cho nó cái vốn chữ nghĩa cho tương
lai. Tao nghĩ thế là đủ rồi.”
“Thì tao cũng như mày, thế cho nên bây giờ, sau bao nhiêu năm
cực nhọc tao mới có thời giờ nghĩ… đến tao. Tao định dành tiền để mỗi năm đi một
nước chơi cho thoải mái cái đầu”. “Thì cứ đi, tao đi với, rủ Hà cũng đi nhưng
mà đừng đi Hongkong, có mẹ gì ở đó mà đi.Tao muốn tới Trung Cộng coi cái Vạn Lý
Trường Thành nó ra sao, coi cái Di Hoà Viên của Từ Hi đẹp cỡ nào.”. “Chừng nào
đi, nói để tao lấy ngày nghỉ”. “Ấy, từ từ, để đợi tao dư dư chút đã, giờ chưa đủ
sức đi chơi, mẹ kiếp. Bill tới tấp như lá mùa thu. Khoan nói chuyện đi chơi
đã.”. “Mày, chán bỏ mẹ, cứ hẹn hoài, biết bao giờ mày mới… đủ”.
Cuộc tâm sự của chúng tôi ngang đó thôi. Không phải là lần đầu.Tôi
lại nghệch mặt ra nghe Minh chửi. Đi thì đã đi quá nhiều rồi nên không còn là một
nhu cầu nữa. Song nhất định lần này tụi tôi sẽ kéo nhau đi coi Vạn Lý Trường
Thành. Nhất định rồi, mọi chuyện đã chuẩn bị xong xuôi, chỉ còn chờ… tiền. Thế
nào bà cô trên ngàn xứ Thái cũng rít lên… “Mẹ, đúng là cái con… ăn cứt không biết
thối”. Sorry chị, tại em nghèo, em cũng ham chơi lắm nhưng lao ví nặng quá, chờ
em với nhé.
Ngưng cuộc đấu láo với thị Minh, tôi quay qua nồi cá kho đã
bén lửa.Tí nữa thì mất ăn. Trên bàn cả chục chai nước mắm thị Hà mang lên nhờ
pha dùm. Con dâu tôi cũng, mẹ pha hộ con nước mắm ăn bún. Kể ra, nghề sến nương
của tôi cũng không đến nỗi vô dụng lắm. Cứ được bạn nhờ là vui rồi. Thích nấu mắm
là nấu, thảm nhung gì tôi cũng không care. Cái thảm thì cũng chỉ là cái thảm
thôi, có gì mà phải dữ vậy.
“Này, khi nào mày không hát nữa, đi rửa chén cũng sống đấy
con ạ”. “Rửa chén thì đã sao, bộ rửa chén xấu lắm à, ngày xưa lúc tao mới qua,
tao chùi cầu tiêu vẫn thấy… thơm. Vẫn sống phẻ. Minh cười khằng khặc. Nói với
mày tao nói với… đầu gối sướng hơn. Ấy, mày đừng tưởng nói với đầu gối mà dễ
nghe con. Đầu gối tao quý lắm à. Phải là chuyện gì hay ho lắm, quan trọng lắm
tao mới dám vạch đầu gối ra nói”. “Sư mày, đụng chút là mỉa mai, là nói móc”.
“Đâu có, tại tao thấy đầu gối tao nó biết nghe, biết điều phải trái nên tao chọn
nó chứ đâu dám mỉa mai móc mỏ gì mày.”
Minh này tao sẽ tự làm cho tao một buổi hát, mày có mặt nhé.
Ra mắt băng à? Không, mày biết tao mà, có bao giờ tao dám đâu, làm một buổi hát
với nhau cho đời thêm vui thôi… Khi nào mày làm? Sẽ. Sẽ là bao giờ. Sắp. Cái
con này, mày không thể nói chuyện tử tế được sao mà lúc nào cũng đùa nghịch. À,
khi nào tao nói chuyện tử tế thì mày nên coi chừng…cứt tao ấy. Có làm thật thì
cho tao hay. Dĩ nhiên, nhưng tao còn đang chờ. Chờ gì? Chờ… tiền.
14. Có nhiều lúc, tôi nói mà chẳng hiểu mình nói gì. Nhiều lúc viết
mà cũng không biết mình viết gì. Bởi tôi nghĩ gì nói đó, ghi xuống đó. Rồi
thôi. Rồi gió cuốn đi. Chẳng phải tôi là kẻ vô tình. Chỉ vì lúc đó tôi nghĩ thế
và… như thế.
Buồn, vui như trời nắng, trời mưa. Như lúc nóng, lúc lạnh.
Con người sống phải như thế. Lúc lên voi, lúc xuống chó. Lúc buồn tủi. Lúc hân
hoan hạnh phúc. Vì nếu không đau khổ, nếu không nghèo ai biết được cái cảm giác
“không tả được” khi ra khỏi cảnh huống đó.
Nói là buồn. Buồn thật đấy. Nhưng nỗi buồn không ở lại trong
tôi lâu dài. Ði là một niềm vui. Ði mang lại niềm vui. Ði sẽ thấy niềm vui. Và
đồng thời thấy rằng, nỗi buồn của mình thật ra chẳng đáng gì, so với bất hạnh của
người.
Ðiều oái oăm là chính những người thiếu may mắn hơn tôi lại
chính là người mang lại cho tôi hạnh phúc. 500 người, 700 đến nghe tôi hát, đâu
phải tất cả đều sung sướng hạnh phúc. Họ cũng như tôi, có những nỗi khổ tâm
không nói được. Cả hai tìm đến nhau. Cả hai đều mong được chia xẻ, cách này,
cách khác. Cả hai đều mong được vay mượn của nhau chút hạnh phúc mong manh ngắn
ngủi.
Nhiều người mới rời quê nhà đến đây. Lòng đã hoang mang, ngán
ngẫm. Chân đã muốn tìm đường về. Họ mất 17 năm. Họ đi chậm hết 17 năm. Họ đã gặp
những tảng băng dày, kết lại từ 17 năm. 17 năm trước, họ đã mất. 17 năm sau, lại
mất thêm lần nữa. Mà đời người có được bao nhiêu ngày để sống, để phải mất mát
nhiều như vậy. Tôi biết nói sao bây giờ bởi nỗi buồn của những người đi sau lớn
quá. Nỗi khổ và sự chịu đựng của họ vĩ đại quá. Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình nhỏ
bé, thấp hèn trước những khuôn mặt ngơ ngác, những cái nhìn buồn bã câm lặng.
Ngược lại, cũng có những người dù đã ở đây một thời gian khá
dài, mà càng ở lâu thì lại càng buồn (trong đó có tôi chăng). Bởi không cách
chi họ có thể hội nhập vào đời sống này. mà có nói ra điều đó, cũng không mấy
ai tin. “Có mà điên à. Ở đây sướng như thiên đường còn đòi hỏi gì nữa. Cứ thử về
Việt Nam bây giờ xem. Nóng điên người, ăn uống thì bao quanh toàn là ruồi muỗi
không. Ðường toàn là xe đạp, bụi và khói”.
17 năm trước, khi tới đây, có phải họ chạy trốn cái nóng
không? Có phải vì họ sợ ruồi muỗi, xe đạp và bụi không? Có phải vì họ nghĩ đây
là thiên đường hay không? Không. Hoàn toàn không bởi trên mảnh đất tang thương
rách rưới đó, họ đã được sinh ra và lớn lên. Lòng đã quá gắn bó với đất mẹ.
Không có hạnh phúc nào có thể đánh đổi được. Họ vẫn sống. Nhưng loài cây được bứng
đi từ nơi này, trồng ở nơi khác. Những cây sẽ không bao giờ còn cho trái nữa.
Ðời sống đáng thương lắm chứ. Tôi đang ở đâu đây? Tôi đang sống
cuộc sống của… ai vậy? Tôi đang ăn hay ai ăn. Tôi đang nói hay ai nói. Tôi đang
đi hay ai đi. Tôi đang thở hay ai thở. Ðêm của ai. Ngày của ai. Chẳng phải của
tôi. Một đời sống vay mượn. Những mái tóc cứ bạc đi cùng nỗi nhọc nhằn, khắc
khoải. Nhìn lại mình trong gương bỗng ôm mặt khóc. Ai đó không phải là tôi.
Không còn là tôi.
Tôi buồn cho tôi, cho cả nỗi buồn của người khác. Tôi không
có thói quen đổ lỗi hay trách móc bất cứ ai. Lỗi tại tôi. Lỗi tại tôi mọi đàng.
Có được bao nhiêu vui, buồn tôi trút tất cả vào bài hát, bài viết. Ðến gần mọi
người. Cố gắng kéo mọi người đến gần mình. Chỉ cần 2 người thôi, là không còn lẻ
loi nữa. Anh cứ nói. Chị cứ nói. Em cứ nói. Bác cứ nói. Tôi nghe và tôi hát.
Dĩ nhiên mỗi người ôm một nỗi niềm riêng, nhưng tất cả được gọi
chung là Buồn. Chỉ có khác là nói ra hay không nói ra. Im lặng chịu đựng là một
hành động can đảm nhưng đó cũng là cách tự tử chậm. Ðiều này không nên. Ðời của
tôi, tôi muốn làm gì… kệ cha tôi, kể cả hủy diệt nó. Cái này thì sai bởi mình
đâu có phải từ “lỗ nẻ” chui lên. Mình đâu có từ đá nứt ra. Và khi được sinh ra,
ai cho phép mình muốn làm gì đời mình thì làm.
Ngay đến như Tề Thiên Ðại Thánh kia, nứt từ đá nứt ra, tấm
thân đó cũng giúp cho thầy Tam Tạng đường xa vạn dặm, tìm kinh, dù tấm thân đó
chẳng đẹp đẽ gì. Cứ thử hỏi ta đã giúp đỡ được gì, cho những ai. Nếu mọi người,
cứ hễ buồn, nghèo hay tự tử thì thế gian này còn ai, còn có bao nhiêu người nữa.
Nhiều ít gì, thì ai cũng có bạn. Mà bạn để làm gì? Không phải
để đàn đúm giỡn hót, nói chuyện người này, người kia hay xúi giục, che chở cho
bạn mình làm những điều không phải. Bạn đúng nghĩa là luôn luôn có mặt bên nhau
trong cơn hoạn nạn. Bạn tốt là người biết nghe, biết chia xẻ, biết phân biệt phải
trái, biết khuyên nhủ bạn mình những điều nên làm, biết thẳng thắn ngăn bạn
mình những điều bậy, biết vun xới, xây đắp hạnh phúc gia đình cho bạn.
Ðôi khi, trong những chuyến đi hát xa, tôi gặp những người
hoàn toàn xa lạ, thế nhưng chỉ qua vài ba câu chuyện, chúng tôi đột nhiên trở
thành thân thiết. Cùng chia xẻ với nhau những khó khăn của đời sống, những trắc
trở của hạnh phúc gia đình, chồng con. Sở dĩ tôi hay tạo được sự thông cảm mau
lẹ với những người ngoài giới dù chưa bao giờ quen biết, là bởi trong câu chuyện,
tôi không bao giờ tỏ ra mình là người hạnh phúc, may mắn hơn. Lúc đó tôi không
phải là một ca sĩ, chỉ như một người bạn đồng cảnh ngộ. Chị khổ. Tôi cũng không
sướng gì. Cảnh của chị cũng giống như tôi. Hai người không may gặp nhau, dễ có
sự thông cảm. Bởi đó tôi có nhiều bạn. Bạn ở cùng khắp. Mới đầu là bạn, sau gần
như người nhà.
Thật ra, chẳng phải vì cuộc đổi đời mà đời đổi, mà những nghịch
cảnh mới xảy ra. Ðừng đổ lỗi cho cho bất cứ điều gì, bất cứ ai. Ở đâu thì khi
chuyện phải đến, cũng đến, cách này, cách khác. Tại mình mà thôi. Tại cái lòng
mình khi yêu, khi ghét. Tại lòng mình quá nhỏ không dung chứa nổi nghịch cảnh
mà chỉ muốn nhìn lên. Nhìn lên không bằng ai. Thế cho nên buồn.
Ở lứa tuổi như tôi, nếu nói là hưởng thì quả thật chúng tôi
hưởng đã quá nhiều, quá đủ. Giờ ở xứ người, kéo cầy trả nợ đâu có phải cho
mình, mà cho các con có được một đời sống tử tế, an lành. Cực khổ mấy tôi cũng
bằng lòng. Ðôi khi “nhõng nhẽo” than thở chút đỉnh về nỗi cực nhọc của những
chuyến đi, chỉ là chút tâm sự của một ca sĩ với khán thính giả. Nghề nào lại
không cực khổ, không phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có miếng cơm. Ngồi trên
tiền còn khổ huống gì phải chạy tiền từng tháng.
Ða số những chuyện khổ tâm, thường không do ngoại cảnh đưa tới.
Nó phát xuất từ ngay trong chính gia đình mọi người. Từ cha mẹ, anh chị em, vợ
chồng, con cái, họ hàng làng nước quanh mình. Ôi, Làm sao ở cho vừa lòng tất cả
mọi người? Biết thế nào là rộng, thế nào là hẹp. Bao nhiêu là đủ, bao nhiêu là
thiếu. Cứ nói ngay tôi đây. Chẳng bao giờ ai vừa lòng. Từ gia đình đến bạn bè
trong giới. Ai cũng sẵn sàng chỉ trích. Không làm gì. Làm thinh. Cũng bị chửi.
Riết rồi tôi cũng chẳng muốn đi đâu. Chẳng muốn làm gì. Chẳng
muốn gặp ai. Chỉ còn vài người bạn gan ruột. Những người bạn tôi quí hơn vàng bạc
châu báu. Những người bạn sẵn sàng chia xẻ với tôi mọi điều, kể cả bữa cơm đạm
bạc nhà nghèo đông con. Thanh Tuyền, Phật giáo, tôi, Công giáo. Lần nào gặp
nhau, hai đứa đều nói về đạo của mình, cũng an ủi nhau, khuyên nhau, chia xẻ nhau
những khó khăn đời sống. Ðó là gặp người và nói ra những u uẩn của lòng mình.
Như khi mình tìm đến khán thính giả, người nghe, người hát, chẳng biết nhau mà
thật ấm lòng biết bao nhiêu.
Ðời có lúc buồn, có khi vui như sông lúc êm ả, lúc qua gềnh
qua núi. Nhưng đời đáng sống nếu ta cứ nghĩ rằng trong cuộc đời – dù là một vật
thừa thãi dưới cái nhìn của gia đình – chúng ta vẫn còn có thể mang lại niềm
vui dù nhỏ nhoi đến cho người khác, những người không may mắn. Khi nào Chúa, Phật
gọi, lúc đó sẽ hay. Cứ biết rằng ta đang sống và hãy tạ ơn Trời đất, tạ ơn Thượng
Ðế.
Cứ nói thẳng ra những điều mình nghĩ. Chẳng ai chê trách. Cứ
khóc khi cần khóc, cứ cười lúc muốn cười. Ðêm Lễ Tạ Ơn, nhìn mọi người chung
quanh mình cười nói xôn xao, quấn quít nhau trên sàn nhảy, nước mắt tôi bỗng ứa
ra. Phương Anh đưa cho tôi ly rượu “Em nhớ lấy thêm một ly cho Jenny Mai”. Tôi
đốt một điếu thuốc gác ngang ly rượu. Mai ơi, về mà vui với chị em, chỗ này là
chỗ của em, chưa ai quên em đâu… Chúng tôi im lặng cạnh nhau. Hà Cẩm Tú. Mỹ
Hoàng. Phương Anh, Quốc Bảo, ai cũng có điều gì thầm kín muốn nhắn gửi người đã
đi. Ðã đi, nhưng sống mãi trong lòng mọi người.
Nhờ mọi người thương, tôi mới còn có ngày hôm nay. Ðiều đó chắc
chắn là như thế. Tình thương của mọi tầng lớp khán thính giả đã thay thế tình
yêu gia đình và an ủi tôi rất nhiều. Hơn 30 năm qua, tôi sống như thế và tôi biết
ơn những người đã cho tôi tình thương, điều tôi mơ ước hơn bất cứ mọi thứ của đời
sống. Và khi tôi được đến gần mọi người, bao nhiêu nỗi buồn phiền cũng tan biến.
Lời ca, tiếng nhạc nuôi tôi sống – cứ hiểu theo hai nghĩa – lựa
chọn đúng nhất và duy nhất của tôi. Nói như thế không có nghĩa những lựa chọn
khác là lỗi lầm. Tôi không bao giờ hối tiếc những việc mình đã làm, cho dù cái
giá tôi đã trả không phải là nhỏ. Hối tiếc là việc vô ích và càng làm ta khổ
tâm hơn. Chuyện gì đã xảy ra, đã qua. Thuộc về dĩ vãng. Gia đình, bạn bè có
thương hay không. No big deal anymore.
Ðó là lời nói thật lòng tôi. Bao nhiêu năm nay, tôi đã sống bằng
tình thương của nhiều người. Có những người không bao giờ giáp mặt hay nói với
tôi nửa lời. Nhưng tôi biết người ta thương tôi… Có hai người là không còn lẻ
loi. Vậy thì tôi không có quyền tự ý sử dụng cái đời của tôi theo những ý định
rồ dại. Ở khắp các nơi đã đi qua, tôi nợ mọi người một ân tình quá lớn. Tôi muốn
được trả lại bằng tất cả hơi sức còn lại của tôi. Dù không còn được bao lâu nữa.
Tôi nói với các con của tôi. Ngày nào, đối với mẹ cũng là
ngày Lễ Tạ Ơn. Tôi nói cho các con tôi nghe về cuộc đời của tôi, về những món nợ
tôi đã mang, các con tôi cũng mang… “Mẹ cố gắng cho các con một đời sống tốt đẹp.
Hãy vì thế mà làm những điều tốt đẹp. Nhưng trước hết, các con phải làm cho đời
mình bởi nếu cuộc đời con có tốt đẹp, con mới có thể làm được cho người khác.
Các con không hề nợ mẹ đời sống nhưng các con nợ cuộc đời, hãy sử dụng đời mình
cho xứng đáng. Ðó là các con nhớ và yêu mẹ…”
Chỉ còn vài tuần nữa, năm cũ sẽ qua. Mùa Ðông đã đến nhưng rồi
mùa Ðông cũng sẽ qua. Và mặc dù giữa những ngày Ðông tháng giá, tôi vẫn mở lòng
sẵn sàng đón mùa Xuân. Mà cũng có thể, đời tôi vốn đã là mùa Xuân. Buồn nhiều
quá rồi. Bây giờ dù bất cứ chuyện gì xảy ra, cũng coi như không dính líu gì đến
tôi. Một chút tâm sự gói ghém trong mấy câu thơ tầm thường, tôi làm bên cạnh
Sơn trong một ngày tuyết rơi trắng cả tâm hồn. Ðọc rồi, ai muốn hiểu sao cũng
được. Dĩ nhiên là thơ rất dở, nhưng tôi quan niệm, cái gì thật vẫn hơn. Thì đây
là những gì thật thà nhất:
Từ trời mưa đổ oan khiên
Bờ vai bạc mệnh một miền cưu mang
Xót thân lệ chẩy hai hàng
Tà dương kia cũng bàng hoàng phút giây
Thương sao phận mỏng như mây
Phận hèn như cỏ, phận gầy như lau
Phận buồn như hạt mưa mau
Gọi thêm tóc trắng nỗi sầu trăm năm
Ngủ đi thôi. Một giấc đằm
Thiên thu rồi sẽ về nằm cùng ta
Nhớ nhau một giọt lệ sa
Có thương thì cũng đã là… là thôi
Sơn đọc xong. Anh không chê dở. Chỉ nói… Sao buồn vậy. Vì
sao.
15. Hình như ông trời còn thương, còn muốn nhắc nhở đám dân VN xa
nhà, ngày Tết linh thiêng của dân tộc. Sau gần 1 tháng mưa gió đầy trời, ngày
30 Tết, như có phép lạ. Không mưa, dù chưa nắng ấm nhưng tất cả đều có vẻ tươi
mát, sạch sẽ, sẵn sàng chuẩn bị đón Giao Thừa. Khi chúng tôi bước lên tàu, về
miền tuyết trắng, bà con ta ở Los chắc chắn sẽ đổ ra đường như trẩy hội để sắm
sửa, mua bán đồ ăn, thức uống cho mấy ngày Tết. Đi chợ chiều 30 Tết như ngày
xưa.
Năm nay, Tết rơi đúng vào cuối tuần. Ở Los, bói không ra một
ca sĩ. Các nơi kêu về tôi, nhờ giới thiệu, kiếm dùm xe ca sĩ nào có thể đi được
vào giờ chót. Chịu. Chả có ai rảnh cả. Đâu đó đã sắp đặt từ… năm ngoái. Ai cũng
muốn đi hát đầu năm để lấy hên. Bốn chúng tôi, Sơn Tuyền, Băng Châu, Cao Lâm và
tôi hẹn nhau tại phi trường. Đứa Cerritios, người Santa Ana, kẻ Anaheim đổ về
John Wayne Airport.
Một tốp khác bay lên miền Đông, đi cửa số 1, chúng tôi ở cửa
số 2. Tôi đến sớm nhất. 10 giờ. Mai Năng Quân có mặt thi hành công tác liền.
Máy quay dàn ra. Bắt đầu nhé. Tôi, người diễn viên cinéma bất đắc dĩ cũng bắt đầu
diễn xuất. Cột hành lý vào xe kéo đi. Vào counter đưa vé, gửi valise. Cắt.
xong. Tiếng máy kêu cạch cạch nghe cũng vui tai, khác hẳn khi quay video. Mai
Năng Quân và Đoan chỉ dẫn cho 1 lần là tôi biết ngay, bắt đầu diễn ngay khi
nghe tiếng máy kêu. Để lâu uổng phim, tốn tiền. Mình quay theo kiểu nhà nghèo,
tiết kiệm từng giây một.
Ngày 29 Tết đã “khai máy” rồi. Đã Quân và Đoan lẫn tôi đều hồi
hộp mà không đứa nào dám nói ra. Quay phim là nghề của Quân từ khi chàng mới 21
tuổi. Quân và Đoan chơi với nhau từ ngày đó. Hai mươi mấy năm qua rồi, chàng
Quân nay đã có cháu ngoại, lâu nay cầm máy video bao thầu việc quan-hôn-tang-chế.
Biết tay nghề còn vững không. Cái máy mới mua dĩ nhiên là máy cũ, xài rồi. Quân
bảo tốt, nhưng chẳng biết tốt đến cỡ nào. Ống kính còn nguyên hay bị trầy trụa,
sướt sát. Tiếng máy chạy cạch cạch đến đâu, tôi nghe tiền chạy theo tới đó. Tim
gan phèo phổi cả 3 cứ thót lại từng chập một. Phải chờ rửa phim, chiếu ra coi
thử mới biết được là hên hay xui, là đúng hay sai.
Đoan và Quân xếp đồ nghề (Đoan phải trở về đưa Lâm Hy ra phi
trường Los về Singapore ăn Tết với vợ con).Tôi đứng lại một mình, tựa cột hút
thuốc vặt, chờ các cậu mợ. Chờ mãi mới thấy mợ Băng Châu lóc cóc đi tới. Hai đứa
tay bắt, mặt mừng ngồi chờ tiếp, cùng nhau tâm sự vụn, kể lể chuyện ngày xưa.
Tôi và Băng Châu có nói với nhau nhiều kỷ niệm khó quên và chỉ
hai đứa biết mà thôi. Đó là những kỷ niệm ngày xưa. 18 năm về trước. 20 năm về
trước. Giờ Băng Châu ở đâu, tôi không biết. Cả mấy năm rồi hai đứa không gặp
nhau. Lần đi hát chung sau cùng ở Montreal là Tết 88 hay 89 gì đó. Cùng với ban
nhạc CBC. Chúng tôi là lớp ca sĩ trước 75 nên với ai cũng có ít nhiều kỷ niệm.
18 năm trước cũng ở phi trường cũng trên một chuyến bay, chúng tôi đi với nhau.
Hôm nay ngày 30 Tết. Lại gặp nhau tại phi trường. Nhưng mọi chuyện đã khác. Bốn
con mắt long lanh nhìn nhau.
Cao Lâm đi qua chỗ chúng tôi ngồi. Mặt mũi anh ta có vẻ mới
ngủ dậy. Lâm không thấy chúng tôi. Sơn Tuyền đến sau cùng, dáng vẻ khoan thai,
chậm rãi, quần áo chỉnh tề. Tài tử Tô Quang cười toe toét… “Nghe tiếng vòng
lách cách là tụi em biết ngay chị ngồi đâu”. Mới 30 Tết mà chàng tài tử này diện
bảnh bao quá chừng và đẹp trai có phần hơn cả diễn viên Hồng Kông. Quang để
valise của Tuyền xuống rồi vội vã chạy đi mua hăm-bơ-gơ cho nàng. Chúng tôi
chúc Tết anh chàng tài tử này rồi từng đứa sắp hàng leo lên tàu.
Ai bảo là… hai cô ca sĩ có ưa nhau bao giờ… điều đó cũng có
lúc sai, ít ra là với chúng tôi. Pháo Tết chưa nổ, mà chúng tôi 3 đứa chuyện
trò nổ hơn pháo. Đến nỗi tụi Mỹ xung quanh chẳng hiểu chúng tôi nói cái giống
gì, ngôn ngữ gì mà líu ríu như chim, cười nói liên tu bất tận. Chỉ có Cao Lâm,
mặt mày xanh như lá gói bánh chưng, nằm nhắm tít mắt lại trong một góc. Nam nhi
mà coi bộ hơi yếu đó nghe. Châu, Tuyền và tôi bàn nhau về bài bản sẽ hát trong
chương trình ngày mai. Xa hơn nữa là những project chúng tôi sẽ thâu trong năm
mới. Chỉ cho nhau những bài hát hay, những người chụp hình bìa băng đẹp.
Vậy mà hơn 3 tiếng đồng hồ đi qua thật nhanh vì… chuyện 3 người,
chứ nếu đi một mình thì sẽ cảm thấy đường bay dài bất tận. Ra đón chúng tôi là
một anh chàng trẻ tuổi, dáng dấp thư sinh với chiếc xe vừa to vừa dài. Có thế mới
chở được hết hành lý của 4 đứa. Nào valise quần áo, nào băng, nào poster, nào
báo. Chỉ có tôi lu bu dỡn hớt, quên mất cuốn Tam Quốc Chí trên tàu. Thắng chạy
lên counter khiếu nại liền, nhưng lúc đó tàu đã bay đi Baltimore… “Thôi để về
nhà em kêu cho hãng sau, em có cho tụi nó cái số ghế của chị rồi”. Tôi đã mất một
lần đi u châu vừa qua, mà khổ nỗi cái này mà mất một cuốn, phải mua lại cả bộ mới
là hao bạc. Thôi đành, hy vọng tụi nó không vứt của mình vì cậu em Thắng rất
thông minh dặn nhân viên hãng… “Cuốn sách này rất quan trọng, tụi mày ráng tìm
giữ lại cho chị tao…”. Mà quả thật lúc về, tôi lấy lại được.
Bốn đứa, Sơn Tuyền, Băng Châu, Cao Lâm và tôi… quậy quá chừng
chừng. Quậy đến độ ai cũng ngạc nhiên, ngẩn ngơ đứng ngó. Nào New wave, nào
twists, nào chachacha. Thôi thì chẳng tha cái gì. Vui mà. Buổi chiều Đại Nhạc Hội
thì có cười, có khóc. Tối đến, tụi tôi giỡn còn hơn giặc cái. Bầu Thắm ôm cái
đàn, mắt cứ trợn tròn nhìn chúng tôi. Cả ban nhạc chứ không cứ gì bầu. Hết bài
này tới bài khác, hết mợ này tới mợ khác. Ban nhạc đàn khùng luôn. Nhấc tay
không nổi. Đứng không vững.
Về đến nhà bầu Thắm, cơm gà có gỏi đã bày sẵn cùng 2 bộ bài
Tây, bầu Thắm rao hàng liền… “1 đồng 1 chi đây, ai chơi thì vào”. Sơn Tuyền và
tôi nhào vào ngay. Băng Châu ngồi cạnh mách nước. Cuối năm bài xấu quá. Thua một
hơi 27 đồng.Tuyền thì cứ ăn lia lịa. Bầu Chi xuất hiện, thò tay ngọc, thọc tay
ngà cầm bài cho tôi. “Đồng chí cái” này dữ thiệt. Bài lên ào ào, gỡ lại 27 đồng,
ăn thêm 5 đồng, nhưng mà rồi chẳng ai chung cả. Bầu Thắm thua cả làng, hẹn binh
tiếp sẽ trả. Tuy nhiên Thắm trả bằng cách mua băng lì xì đầu năm cho chúng tôi.
Năm nay tuy là năm tuổi, nhưng theo tử vi thì là năm của… nàng. Ngọn đèn treo
trước khi tắt thường sáng hơn. Phải vậy chăng…
Nhưng mà thôi. Mưa lúc nào mát mặt lúc đó. Sáng được lúc nào,
được bao lâu, cũng là vui thôi. 2 Tết về đến nhà, được báo cáo là khúc phim vừa
quay rất đẹp. Máy rất tốt. Tay nghề Mai Năng Quân vẫn ngon lành.Tôi chẳng cần.
Chỉ muốn biết là cái mặt của mình lên phim còn ngó được không… “Như gái 18…”
Quân bảo thế. Tôi không tin. Mẹ, già ngáp như tôi mà bảo là gái 18 thì có Tây mới
tin chứ ai mà tin, nhưng Đoan bảo… “Được”.Tôi cũng hy vọng là thế vì sau khi
hát, bầu Thắm cho coi lại cuốn video quay bằng máy tài tử, tôi thấy tôi không đến
nỗi nào, còn đẹp hơn lúc tôi hát cho các trung tâm lớn khác.
Đầu năm đi hát. Vui. Có lộc. Về đến nhà cũng nghe tin vui.
Cành lan chị Hà cho nở vàng rực. Bác Phiếu, ông xuôi gia với gia đình Đoan cho
nguyên một cây đào nhỏ, hoa nở đầy cành, chị Lâu cho hai chậu cúc vàng như mọi
năm. Ngọc Minh cho cặp bánh chưng, hai cây giò.Thế là Tết rồi. Vui như Tết là
đúng. Nhìn quanh chỉ thấy hoa tươi, đẹp đẽ, thơm tho và đồ ăn đầy đủ. Năm nay
chắc không đến nỗi. Tuyền lì xì 20 lấy hên. Băng Châu tặng cuốn băng mới của
nàng. Cao Lâm cũng tặng băng.
Hồi nào đến giờ tôi rất phục Ngọc Minh vì sự chịu khó, kiên
nhẫn, biết nhìn xa, lo cho tương lai, không làm phiền ai. Tôi cũng phục Sơn Tuyền,
thông minh, tự mình làm nên sự nghiệp nhanh hơn người khác, vững vàng tiến tới,
tính toán rất đúng và đâu ra đó. Tôi mến Thanh Tuyền ở chỗ biết chị, biết em,
biết tình, biết nghĩa, biết lo cho cái gia đình, thương con, quý bạn bè, nhường
nhịn hết mực. Bây giờ tôi phục Băng Châu.
Tôi quên không hỏi Châu tuổi con gì mà tình duyên lận đận, đời
buồn nhiều hơn vui. Một năm qua, Băng Châu vắng bóng. Đêm 30, nàng tâm sự cùng
Tuyền và tôi… “Em ở nhà một năm qua, không ra ngoài, giới hạn mọi sự giao thiệp
bạn bè để… học. Em học hát và em tìm đến cô Thái Thanh…”. Tụi tôi cùng nhau
nghe cuốn băng mới của Băng Châu. Phải công nhận cái gì cũng vậy. Có học, có
khác. Ngày xưa, mỗi lần nghe Châu hát, tôi cứ sợ cô nàng… gục bất tử. Vậy mà
hôm nay tôi không còn nhận ra giọng Băng Châu nữa. Hoàn toàn thay đổi. Mạnh mẽ
hơn, rõ ràng hơn, kỹ thuật hơn, vững vàng hơn và dĩ nhiên hay hơn tất cả những
cuốn băng trước của Châu. Tôi và Tuyền mừng cho Băng Châu. Sau khi nghe hết cuốn
băng Lời Cho Người Tình Xa.
Giọng hát thay đổi, nhân dáng cũng thay đổi, Băng Châu vốn đã
đẹp, lại đẹp hơn trong lối trang phục mới. “Chic” hơn, tươi hơn, mới hơn, sexy
hơn.Trong nỗi buồn có niềm vui.Trong cái dở có cái hay. Trong cái xui có cái
hên. Nỗi buồn của Băng Châu đã giúp cô đi lên, ngước mặt mà đi. Bỏ lại sau lưng
những sầu thảm không may. Băng Châu là một người can đảm và cái may của Băng
Châu là cô đã tìm đến cô Thái Thanh, nghĩa là tìm đúng thầy, đúng lúc. Tôi
không ngần ngại khi giới thiệu đến quý khán thính giả cuốn băng Lời Cho Người
Tình Xa. Nếu cho rằng tôi quảng cáo cho Băng Châu thì đây cũng là một việc nên
làm và làm đúng. Và dĩ nhiên tôi không muốn mọi người cho là tôi vì tình riêng mà
bốc bậy.
Đối với tôi, bạn bè ai khá, tôi mừng. Bất cứ ai. Tôi cầu mong
tất cả hạnh phúc, may mắn, khá giả. Chẳng phải để họ cho gì tôi. Nhưng tôi quan
niệm những người hạnh phúc thật sự, đều là những người dễ thương và thương dễ.
Tấm lòng của họ sẽ bao la hơn. Cái nhìn của họ cho cuộc đời và mọi người sẽ dễ
dãi hơn, sẽ cởi mở hơn. Mà theo tôi, tất cả những điều trên đều rất cần thiết
cho một người ca sĩ. Đặc biệt là giới này. Bầu trời sinh họ ra để mang lại niềm
vui cho cuộc sống mà nếu ngay cuộc sống của họ không tròn vẹn hạnh phúc, thì họ
còn gì để cống hiến cho đời, cho người.
Tôi xin chúc bạn bè, lớn, bé, thân, sơ, xa gần những điều may
mắn, tốt đẹp nhất.Và tôi cũng không quên những người bạn đã bỏ chúng tôi mà ra
đi trong những năm tháng qua. Đầu năm, có thể tôi không gặp được mấy người sống,
song có điều chắc chắn là tôi sẽ đi thăm những người vắng mặt. Đặt trên đó một
cành hoa và thắp một nén nhang.
16. Cơn mưa đầu tiên của mùa Ðông Cali đến đột ngột vào lúc nửa
đêm. Tiếng mưa rào rào trên mái nhà. Tiếng gió rít từng cơn. Tiếng của những
cành lá quằn quại đập vào nhau, nghe thật rõ trong đêm vắng. Tôi còn nghe rõ tiếng
xe ai đó rít trên mặt đường, qua những vũng nước, tiếng nước văng tung tóe dưới
bánh xe hình như cũng lớn hơn mà chắc chỉ mình tôi nghe, mình tôi để ý đến.
Buổi trưa, chỉ cần một chiếc áo lạnh mỏng, tôi có thể cảm nhận
được cùng một lúc cái lạnh nhè nhẹ cùng hơi ấm mặt trời hòa tan trong nhau,
trên mặt, trên tay. Thật dễ chịu sau những ngày Hè đỏ lửa. Riêng sáng nay, dù
trời rất âm u và lạnh nhiều nhưng vẫn không có một báo hiệu nào cho những giọt
mưa thật bất ngờ đổ xuống. Trời đổ. Gió đổ. Mưa đổ. Và tháng 12. Tất cả đã làm
xao động cõi nhớ thương thầm kín trong lòng tôi. Tấm lòng của một người đã đi rất
xa, qua rất nhiều thăng trầm dâu bể mà vần cảm thấy như đang nằm ngủ, vừa thức
dậy trong hơi thở quen thuộc Việt Nam.
Bao nhiêu năm rồi. Cứ hễ mùa Ðông đến và tháng 13 chuẩn bị
đón Giáng Sinh. Tôi lặn ngụp dưới hàng trăm nỗi nhớ. Thuở đó… Thuở đó tôi còn
trẻ, rất yêu đời. Những buổi sáng, những buổi trưa, buổi chiều cùng bạn bè ra
phố. Con phố lúc nào cũng đông người qua lại. Quanh một bàn tròn. Quanh một bàn
vuông. Ly càfé đậm đặc. Những nụ cười tươi trẻ căng tròn, sát lại gần nhau. Những
ánh mắt ngời ngời tin yêu, ấm áp trong làn khói thuốc dày đặc, mờ đục như sương
mù. Quán nhỏ đông người, tiếng hát lẫn trong tiếng cười và tiếng mưa xối xả
trên hè phố. Thuở đó, chúng tôi chưa biết buồn.
Xuống một con dốc. Qua một cây cầu. Lên một con dốc. Hàng
quán kề cận nhau có dáng vẻ thân mật chào đón bởi ở đó, ai cũng biết nhau. Cái
bàn nhỏ dưới chân cầu thang hình như dành riêng cho những cặp tình nhân rất trẻ.
Thuở đó, tình yêu trong sáng và thiêng liêng. Ðược ngồi cạnh nhau, đã là hạnh
phúc lắm rồi. Ðôi má người con gái vùng cao như hồng thêm, cặp mắt nhìn xuống,
hai tay rất ngoan nắm lấy nhau. Mái tóc đổ qua một bên, đầu nghiêng nghiêng lắng
nghe. Bạo dạn hơn là hai bàn tay tìm nhau dưới gầm bàn, mắt còn liếc quanh, sợ
có người trông thấy. Thuở đó, tình yêu đẹp lắm. Ðẹp và thôi biết bao những buổi
chiều có mưa Xuân lất phất, cùng che chung một chiếc dù.
Tôi không nhớ ai là người đã đặt cái tên Ðèo Ngoạn Mục, nhưng
hơn nữa là một thành phố chói chang nắng vàng, lồng lộng gió biển. Thành phố có
những cơn mưa rào vội vàng mùa hè dưới ánh mặt trời. Cũng nhỏ. Cũng vài con phố
quen. Cũng đi dăm ba phút lại gặp nhau trên bãi cát ấm. Quán ăn lúp xúp dưới
tàng cây gòn, những người phu xích lô ghếch xe lề đường, chen vai ngồi cùng nhậu
nhẹt cho bỏ một ngày cực nhọc.
Vài tháng ở nơi đó thật không có bao nhiêu kỷ niệm, không có
gì đáng gọi là tha thiết ngoại trừ những buổi chiều thả dài trên bãi biển vắng
vẻ. Có lẽ vì đã coi thành phố là của riêng, nên người ở đây có vẻ ơ hờ trước cảnh
trời biển bao la. Có mặt trên bãi là chủ nhân những quán ăn và du khách từ xa,
như tôi chẳng hạn. Từ một vùng cao nguyên thông reo ngút ngàn, tôi làm quen với
sóng biển cát vàng và từ ở đó, tôi bắt đầu yêu cái rực rỡ của mặt trời. Mặt trời
nơi thành phố không có mùa Ðông. Cho đến bây giờ, mấy chục năm sau, tôi mới biết
thêm, ở thành phố đó có một mgười đẹp tên Diễm Phúc, người có nụ cười luôn luôn
nở trên môi, có đôi mắt lúc nào cũng long lanh như chứa trong đó một hồ lệ.
Thành phố đó có mùa Ðông và mùa Ðông đã đến và ở lại trong đôi mắt Trần Thị Diễm
Phúc.
Khi tôi tới nơi, những giọt mưa mùa Ðông tạt vào mặt đau rát
như kim chích. Co ro trong cái áo lạnh lông giả của Sears mua ở chợ Cồn, tôi dò
dẫm từng bước một trên con phố thưa người. Những nơi tôi qua, hầu như toàn là
những thành phố nhỏ, nhưng cái lạnh ở đây mới thực sự cho tôi thấy mùa Ðông, mà
từ ngày di cư của năm 54, bây giờ tôi mới tìm lại đuợc. Có lẽ chỉ mình tôi cảm
thấy tay chân cóng lại vì lạnh. Người đàn bà vừa đi ngược chiều, gánh một gánh
gì đó thơm lừng, chân mang guốc, bà ta không tránh những vũng nước mưa và chỉ một
cái áo len mõng đã cũ khoác bên ngoài chiếc áo dài trắng ngả màu.
Bầu trời thẫm đen, nặng nề. Gần như có thể vói tay lên được.
Mưa vẫn sợi ngang, sợi dọc, đan lấy nhau dăng dăng trước mặt. Ðể cản chân người
xa lạ đang khua động cõi thâm u tịch mịch. Ðể không ai có thể thấy những giọt
mưa như nước mắt long lanh trên những cánh lá sen còn sót lại trong hồ. Tôi cứ
nhẩn nha đứng bên hồ đưa mắt nhìn khắp nơi. Cây hoa Ðại chắc đã già lắm rồi,
thân sù sì, ngoằn ngèo, chùm lá xanh đẫm nước mưa, sạch sẽ, bóng loáng và mầu
xanh của lá như vẫn thẫm hơn. Những trận mưa mùa Ðông ở đây thường kéo dài mấy
ngày liền. Mưa và lụt cách nhau không bao xa.
Tôi ngồi trên xe, mặt xanh đi vì lạnh và sợ. Bốn bề là nước.
Mênh mông là nước. Không một ngọn cỏ nào lú lên. Những mái nhà lá xa xa chỉ còn
thấy mái. Xe vẫn lầm lũi nhích từng chút một, không biết đâu là đường, đâu là
rãnh. Không còn phương hướng. Lúc đó mà xe sụp lỗ, tôi chỉ còn nước chết. Dù
cho biết bơi thì cũng chết vì lạnh. Chẳng rõ là bao nhiêu cây số mới có một mái
tranh nhưng mà hình như xa lắm, lâu lắm tôi mới thấy. Mấy chục cây số dò dẫm
trong nước, tôi dường như không thở được. Ôi cái xứ sở gì mà… khổ quá vậy.
Qua khỏi được biển nước, cây cầu hiện ra trước mặt tôi thật
tang thương. Cây cầu bằng gỗ ghép lại, qua bao nhiêu mưa gió và sự di chuyển nặng
nề đè lên, đã không còn hình dạng một cây cầu. Nó còn đứng vững là nhờ bốn cái
chân cầu khẳng khiu như chân người đói. Nhìn cây cầu, tôi mất thở. Còn sợ hơn
lúc… xe lội sông. Xe bò lên thật chậm như để thăm dò nếu gẫy, còn kịp… nhẩy xuống.
Tôi thót người lên để có cảm giác là mình không hề…. đang ngồi trên xe, may ra
nó nhẹ đi chăng. Trời lạnh như dao cắt, tôi nghe mồ hôi rịn ra ở lưng và hai
bàn tay ướt đẫm.
Ôi, cái đôi chân ham đi của tôi. Cái tật ham đi của tôi quả
đã cho tôi những giây phút thở ra thì được, hít vào thì không… Dưới chân, trại
lính nằm có vẻ bình an. Từ cao nhìn xuống thấy rõ giao thông hào, những ụ súng,
những bao cát chung quanh. Mầu đất đỏ của trại lính nổi bật giữa mầu xanh bạt
nhàn của rừng. Nếu ở một lúc khác, tôi sẽ có mơ ước được sống ở đây bởi cái mầu
xanh trùng điệp kia mang một vẻ quyến rũ lạ kỳ, như mầu xanh của biển khơi.
Nhưng không, tiếng nói của người trưởng đoàn đã cất lên, rất tàn nhẫn cắt đứt tất
cả những ý tưởng chưa kịp thành hình… Tầu chạm đất là phải nhẩy xuống, phải chạy
cho nhanh đấy nhé. Coi chừng tụi nó… pháo đấy. Nhớ đồ nào của mình thì xách
theo, tầu nó trở lại tỉnh, mai mới đón mình. Nào chuẩn bị nhanh chân lên nhé… Tụi
tôi ào xuống như một bầy vịt, tay áo, ta đàn cắm đầu chạy không nghe tiếng súng
mà sao tôi thấy nhồn nhột ở lưng.
Chiếc Chinook vừa hiện ra trong tầm mắt, chúng tôi đã lại sẵn
sàng chạy. Thật là không còn tìm thấy chút gì vẻ yểu điệu thướt tha của lúc
trên sân khấu. May mà chưa đến nỗi xô đẩy nhau. Ngồi cạnh nhau, đứa nào đứa nấy
im thin thít, cho đến lúc tầu bốc lên cao bỏ lại trại lính cô quạnh giữa đám bụi
đỏ, giữa rừng già. Người lính trẻ theo chuyến bay về tỉnh chỉ cho chúng tôi…
Kia là biên giới Miên đó… Cách mình xa không anh… Xa gì đâu, có 6 cây thôi… Úi,
lậy mẹ, có 6 cây số thôi à… Cũng may, thói quen của chúng tôi là mỗi sáng không
phải chường mặt với nguời lạ, anh nào cũng có dặm chút phấn son, má hồng, người
lính nọ không thấy được sự sợ hãi của chúng tôi ẩn dưới đó.
Không có tầu về Sàigòn, Vẻ thảm thương bây giờ mới hiện ra.
Chết mẹ, bây giờ phải làm sao đây. Ðứa nào cũng cần phải về, bỏ đi mấy ngày rồi.
Hát cho lính, đứa nào cũng hát chùa, giờ kẹt lại đây ai ở đó mà đi làm cho, mấy
phòng trà ai chạy cho. Mà không hát thì không tiền. Vừa sợ chết xong, đến sợ
đói. May thay ông chỉ huy trưởng căn cứ hình như thông cảm được nỗi lo của
chúng tôi, cố gắng dàn xếp một chiếc chở chúng tôi về. Tên ông hiền như người,
nhưng giờ ông đã xa chơi nơi cõi khác. Từ ngày đó, tôi không có dịp nào gặp lại
để cám ơn ông, nhưng tôi vẫn không quên.
Tầu vào không phận Sàigòn. Trời đen như mực và mưa tầm tã.
Thân tầu chao qua, chao lại, trồi lên hụp xuống. Giữa bầu trời bao la đầy bão tố,
con tầu thật nhỏ bé lạc loài. Ðèn trong lòng tầu chớp tắt, chớp tắt. Bạn tôi bắt
đầu nôn mửa thốc tháo. Bao nhiêu đồ ăn trong bao tử cho ra hết. Ðến nước này, sợ
cũng bằng thừa. Nhẩy dù xuống à? Tầu văn nghệ mà, có phải Bắc tiến đâu mà có
dù. Giả tỷ có dù đi chăng nữa, có dám nhẩy không? “Kinh nghiệm chiến trường”
nhiều hơn, tôi bảo các bạn tôi ngã người xuống, có chổ đủ cứ nằm, bao tử không
bị đưa lên dồn xuống, sẽ không còn nôn nữa. Chúng tôi ngã lên người nhau, tay
này nắm chặt tay kia. Lúc đó, có ghét nhau như đào đất đổ đi, vẫn cứ quên hết.
Vật lộn mãi rồi tầu cũng đáp được an toàn. Các ông nội Không
Quân mặt vẫn tỉnh như ruồi, cười nói tự nhiên như vừa đi nhẩy đầm về. Các ông
ném cho chúng tôi cái nhìn thương hại, còn ngụ ý… cho chừa nhé, cho lần sau khỏi
đi nhé… Tụi tôi muốn cám ơn mà không đứa nào mở miệng được, dắt nhau chạy túa
tìm chỗ…. xả, không kịp vào tìm toa-lét. Bụng đã nhẹ nhõm, cầm tay nhau từ biệt,
hẹn tối gặp. Quay đi rồi còn vói lại dặn… Này nhớ ghé chợ mua nhãn nhé… Rắc rối,
tuần sau tha hồ mà ăn, mua ở đây làm gì, vừa đắt lại không ngon.
Sự sợ hãi chỉ còn trong chuyện kể. Buổi sáng, còn sớm lắm. Vừa
hết giới nghiêm. Chúng tôi như một đám giặc chòm. Mới bảnh mắt ra mà giọng đứa
nào cũng tốt cả. Cười nói, la hét dành lấn chỗ ngồi, cấu chí nhau om sòm. Lòng
tầu rộng thênh thang. Cùng đi với chúng tôi là những người lính đã hết phép, trở
ra đơn vị. Họ cùng chúng tôi trò chuyện vui vẻ như đã quen nhau từ… kiếp trước…
Các chị hát cho binh chủng nào vậy… À, tiểu đoàn đó vừa từ Hạ Lào về, thế hát ở
đâu? Tụi này lại xem ké có được không? Tụi tôi đưa mắt ếch ra nhìn. Hát ở đâu?
Ai biết?
Tôi vốn vô tâm nên buổi hát không đậm nét lắm. Chỉ nhớ là hôm
đó, giữa một cái sân chùa hay đình gì đó. Giữa những người lính trận vừa về từ
chiến trường nét mệt mỏi còn hằn trên mặt, chúng tôi đã đứng hát giữa trời và
dưới cơn mưa. Dĩ nhiên, nếu được lựa chọn một chỗ khô ráo, ấm áp để hát. Nhưng ở
đó, ngày hôm đó, giữa những người ngồi vòng tròn trên sân gạch đó, chúng tôi
không thấy một chọn lựa nào. Mọi người cứ ngồi. Chúng tôi cứ hát và trời cứ
mưa. Quả thật không có gì để lựa chọn.
Có nhiều điều lớn lao đã xẩy ra, nhưng qua một đêm, tôi quên
sạch, quên đến nỗi… không bao giờ nhớ rằng có chuyện như thế đã xẩy ra. Vậy mà
có những việc… có những thoáng bèo nước gặp nhau, vẫn sống mãi trong lòng tôi.
Những màu Ðông. Những cơn mưa. Mọi người có thể khác đi. Nhưng lòng tôi không
thể khác. Mọi người có thể không nhớ. Nhưng tôi nhớ. Một con dốc. Một khúc đèo.
Những buổi chiều chân không trên bãi cát vàng chan hòa ánh nắng. Những ngày
Ðông sướt mướt bên gốc cây hoa Ðại, bên cạnh một hồ sen. Cây cầu ván trên con
đường mênh mông nước. Trại lính cô quạnh giữa rừng già biên giới và những cơn
mưa. Không thể khác. Không thể quên nhất là mỗi lúc Ðông về, trời bỗng đổ mưa.
Chiều xuống mau trong khu vườn lạnh buốt. Tôi ngại ngùng
khoác áo ấm ra ngoài. Mới 5 giờ, đã như rất khuya. Cây cỏ trong mùa Ðông thật
tiêu điều nhưng tôi đã trông thấy một nụ hồng. Ngày mai, sáng mai tôi sẽ cắt nụ
hoa đó chưng bàn thờ Ðức Mẹ bởi vì có thể sẽ mưa nữa.
17. Đời sống thật đáng yêu. Tôi thực sự nghĩ như vậy khi bước chân
vào năm mới, khi treo cuốn lịch mới lên tường, khi thay đổi cuốn sổ ghi show,
khi nhận cú phone đầu tiên lúc đồng hồ vừa chỉ 12 giờ 15 của Sơn Tuyền, ngay
khi chúng tôi bước vào nhà với những cành lộc đầu năm.
Tưởng mình đi chiều 30, ai dè mở vé máy bay ra mới biết sẽ được
đón Giao thừa ở nhà. Sáng Một Tết cũng như những buổi sáng bình thường. Cà phê
xong, tắm rửa sạch sẽ, quần áo gọn gàng ra phi trường. Các con vẫn đi học như
thường mặc dù tụi nó cũng biết hôm nay là Tểt và đêm Giao Thừa, cả hai chịu khó
thức với bố mẹ, xem bố mẹ cúng Trời Đất, đi hái lộc và lì xì.
Tuy là đầu năm, tôi đã thấy vất vả. Dường như cuộc đời tôi là
cả một chuỗi dài vất vả liên tục. 5 giờ sáng, trời lạnh như dao cắt. Mỹ Hoàng
chở tôi lên tận phi trường Los Angeles đi Canada. Cả đêm không ngủ, tôi hối
Hoàng về trước. Chờ đợi một mình ở phi trường là nghề của nàng bởi đầu năm, làm
phiền cô em như thế là quá nhiều rồi. Phải nói là Hoàng thương tôi lắm, chứ nếu
là người khác, cái đó còn phải hỏi lại. Dễ dầu gì lôi người ta ra khỏi nhà vào
giờ đó.
Vào trong rồi mà tôi vẫn lạnh. Lạnh vì thiếu ngủ và đói. Áo lạnh
ôm ở tay mà không dám mặc, sợ bị đòn vì tội lấy lông thú làm áo. Đành ngồi chịu
trận 2 tiếng đồng hồ. Chuyến bay cũng thập phần khốn khổ, khốn nạn. Tàu dừng ở
Toronto. Chờ 4 tiếng đồng hồ mới có chuyến đi Quebec. Tổng cộng 12 tiếng nghĩa
là dài và lâu bằng từ Los đi u Châu. Vừa từ xứ tuyết về, lại đến nơi phủ đầy
tuyết. Được đi hát ngày đầu năm, vui thì có vui nhưng cái sự đi đứng cực khổ
không thể tránh khỏi.
Đã rất nhiều lần trên Thời Báo, tôi kể cho mọi người cùng
nghe những gian nan của các ca sĩ. Có người tin vì biết rõ chúng tôi như cậu mợ
Du Miên, như chị Lâu, như Kathy Huệ. Biết rõ vì đã nhiều lần gặp chúng tôi khi
vừa ở phi trường về. Không thể tả được cái… tấm nhan sắc sau nhiều tiếng đồng hồ
bị máy bay nhồi như nhồi bột. Có nhiều người không mấy tin lắm… Mấy mợ ca sĩ
chúa là làm màu, nhỏng nhẽo, đứt cái tay mà làm như là đổ ruột. Tàu bay nó bay
chứ có phải mình đội tàu bay đâu mà kêu. Nghéo một cái đã tới nơi. Vừa được ăn,
vừa được hát, vừa được nói, vừa được gói mang về. Sướng… thấy mẹ, còn cứ lảng
nhảng kêu rêu. Cứ như là bị đi làm thuỷ lợi hay kinh tế mới không bằng.
Mà nào đã hết đâu. Vừa về đến nhà đã có điện thoại… đòi nợ. Mợ
Lệ Thu đòi nợ… ăn. Số là hồi trong năm, hồi năm ngoái, gặp nhau ở tiệm Nhật Thuỵ,
mợ đòi ăn nộm rau muống. Món này chỉ có Bắc kỳ rốn mới rành nhưng nó lích kích,
lỉnh kỉnh mà mùa đông, rau muống mắc hơn hột xoàn. Tuy nhiên bạn mình một năm
đòi ăn có một lần, mệt cỡ nào, rau mắc cỡ nào tôi cũng phải làm kẻo đầu năm, đầu
tháng nợ nần không trả không xong với mợ Lệ Thu. Trong khi đó, mợ Ngọc Minh đòi
mắm kho, tôi kho cho một nồi to tướng nhưng mợ thì bóng chim tăm cá. Đầu năm
thì đầu, tôi cũng gọi mợ cự nự một hồi. Giọng mợ… thều thào cố hữu… Tao phải
làm việc, mệt quá, 9-10 giờ đêm mới bò về nhà. Có kịp ăn uống gì đâu, leo lên
giường nằm thở cũng no rồi. Tuần sau… nấu nữa nhé. Đúng rồi Minh ạ, tao đang
thiếu… bà nội để hầu đây. Tuần sau sẽ nấu nhưng tuần sau năm tới nhé cưng.
Mỗi người đòi nợ một món. Sơn Tuyền thì bún riêu. Hố Nai lớn
thì bún bò. Cô Hiền đòi cá hấp trong khi đầu bếp này, cái gì cũng đớp, đớp như
cá tra, cá vồ. Nộm rau muống làm xong, nhường cho chồng, cho bạn, cho vợ chồng
Nhật Thuỵ. Nửa đêm, còn lại vài cọng, tôi gắp ăn đỡ cho biết mùi và đỡ thèm.
Nói nghe tội nghiệp nhưng thật ra, với tôi, chút mắm muối cũng xong bữa. Nhìn
tôi ăn, mọi người sẽ nghĩ rằng ăn như thế, chẳng mấy lúc mà khá. Cái thú của
tôi là nấu và ngồi nhìn… người khác ăn. Nhìn người ăn tôi cảm thấy như chính
mình ăn và tự động no theo.
Một tuần ít nhất tôi nấu 3 món đặc biệt cho gia đình và các bạn.
Nhưng cũng chỉ là nghề tay trái của nàng. Cái chính dĩ nhiên vẫn là hát và làm
băng nhạc. Ít khi tôi nhắc đến các băng nhạc của mình trên trang báo Thời Báo
dành cho tôi. Sợ lại vướng vào cái bịnh tự quảng cáo cho mình. Tuy nhiên, từ mấy
chục năm nay, tôi sống chết với con đường mình đã chọn nên gì thì gì, không thể
tách rời những công việc này ra khỏi sinh hoạt hàng ngày của tôi. Nó cũng quan
trọng và được tôi yêu như cái việc nấu nướng hầu bạn bè vậy.
Người ta thường nói hai cái đầu bao giờ cũng hơn một. Tôi chỉ
góp ý chút chút vào dự tính của Đoan nhưng nhiêu đó cũng đủ gây những trận bàn
cãi sôi nổi. Bàn để tìm ra cái tốt hơn cho mình, rồi nghe thêm ý kiến của các bạn.
Chúng tôi, cả hai đều biết nghe, biết nhìn nhận khuyết điểm của mình. Người có
tiền làm được việc là chuyện thường, không đáng nói. Người có tiền đôi khi
cũng… ngu vậy, huống chi mình không có bao nhiêu, muốn làm được việc, nghĩa là
muốn làm một việc gì tương đối được phải cần nhiều cố gắng, phải biết nghe, biết
nhìn. Cho dù có học lóm của người thì cũng nên tìm cái hay mà học.
Làm băng nhạc hay video, chúng tôi chỉ nghĩ mình làm cho mọi
người và cho chính mình. Cái sì tin của mình từ hồi nào tới giờ được mọi người
đồng ý thì cứ thế mà khai triển thêm ra thì sẽ không phụ lòng ai. Bắt chước người
khác là điều tối kỵ. Tôi ít khi chờ người khác ăn ốc, mình ôm vỏ đi đổ. Ganh
đua, cạnh tranh bằng chính khả năng của mình. Đó là ý kiến của tôi, một người…
dốt nhưng không… ngu. Tôi phục vụ cho người yêu mình từ bao nhiêu năm qua. Ngày
mình còn trẻ, mọi người cũng còn trẻ. Giờ mình lớn hơn, mọi người cũng lớn hơn
nhưng vẫn cứ theo nhau mãi. Ngày nào những người yêu tôi không còn, tôi cũng…
đi luôn.
Để sống còn, người ca sĩ có nhiều nỗi khổ tâm, có nhiều điều
tối kỵ. Khổ tâm vì luôn luôn phải làm mới công việc của mình, con người của
mình. Trong nghệ thuật, đứng là lùi. Nhưng nếu không tiến được thì cũng phải
làm sao để cái “đứng” lại của mình không bị lu mờ. Tối kỵ là những việc dẫm
chân người khác. Không muốn như vậy, người làm văn nghệ phải có sáng tạo, chứ
không phải cứ ngồi chờ sẵn đó, ai có sáng kiến hay là nhào vô… ăn có. Ăn thì
cũng được, xứ này tự do mà, ai muốn làm gì ai cũng chẳng sao nhưng điều đó chứng
tỏ cho mọi người thấy rõ một điều là mình… nghèo quá. Nghèo tiền đã đành, cái đầu
cũng nghèo thì văn nghệ ở đây sẽ chỉ là một sự lập lại của nhau. Tôi thích bản
chính và nếu đã có bản chính, ai dại gì coi cái bản chụp lại.
Tụi tôi học hành chẳng bao nhiêu bên cạnh cái túi rỗng, nhưng
xứ Mỹ này dù không mấy yêu nó, dù chống Mỹ đến cùng, cũng phải công nhận rằng
đây là một xứ sở có quá nhiều cái hay, cái tốt để mình học và bắt chước. Dĩ
nhiên không thể nào đủ cả 10 nhưng ít ra cứ bắt chước hay học được một cái hay
của họ thôi, mình đã khá hơn rồi. Chính vì nghĩ như thế, chúng tôi ít xem video
của VN. Tránh được nhiều thứ cố gắng thu nhập cái hay của người, chế biến đi
cho hợp… khẩu vị người mình. Trong tinh thần đó, chúng tôi bắt tay vào cuốn
video kỷ niệm 50 năm của đời tôi.
Xin Trả Nợ Người đang được bắt đầu sau một năm dài chuẩn bị,
bàn cãi, lấy ý kiến của nhiều người, nhiều giới khắp mọi nơi. Cái khó là tôi
không muốn giống ai. Không giống thì không sợ có sự so sánh. Nó cũng như cái
tóc của tôi 30 năm nay. Nó như thế, giản dị như nó là tôi. Thế thôi. Những cảnh
đã quay, coi lại, thấy không “đạt” lắm. Bỏ. Bỏ ngay không thương tiếc dù biết rằng
mình vừa đốt một ít tiền. Đốt thế chứ phải đốt thêm nữa, tôi cũng không ngần ngại.
Tuổi đời và tuổi nghề đã không cho phép tôi làm việc một cách… bôi bác, giựt tiền
của người ta.
Quanh mâm cơm, chúng tôi ngồi bàn bạc với nhau những điều nên
làm, cái gì nên tránh. Sơn Tuyền là một người thông minh và rất thẳng tánh. Anh
Dzu có mắt nhìn và kinh nghiệm sân khấu. Tô Quang nắm rõ thị trường và thị hiếu
khán giả. Khánh Phương có tấm lòng yêu nghề. Thầy Thiêng kinh nghiệm chiến trường
đầy mình. Cùng ngồi với nhau. Cùng muốn… trả nợ người một cách nghiêm chỉnh, đứng
đắn, đầy thận trọng, sự thận trọng của người biết… yêu mình, yêu công việc của
mình nhưng ít tiền.
Bây giờ mọi chuyện đã xong xuôi. Chỉ còn chờ lúc đèn sân khấu
bật sáng và máy quay bắt đầu hoạt động. Thật không uổng công tôi sau những chuyến
đi thập phần vất vả còn cong đuôi lên nấu nướng. Được nhờ cái bạn bè thương,
lúc nào cũng sẵn sàng cho tôi những ý kiến đúng và tốt. Cho đến bây giờ thì tôi
rõ một điều là tôi không chơi với người xấu mặc dù tôi thừa biết cái gì đúng,
cái gì sai, cái gì xấu, cái gì tốt. Nhưng gặp được bạn tốt vẫn là điều đáng quý
vì người tốt vốn hiếm hoi, người tốt mà lại tốt với cả người khác. Ôi thắp đuốc
giữa ban ngày cũng khỏi thấy nữa mà.
Từ băng nhạc, mix xong cũng cho bạn nghe. Xin ý kiến. Bài nào
nên để đầu băng. Ông Thành Hiện Đại, Kathy Huệ, Sơn Tuyền luôn luôn là những
người nghe và xem băng của tôi đầu tiên. Bài này dở hả? Bỏ luôn. Xách cổ nó bỏ
qua một bên. Cứ như thế mà hiện giờ tôi có 20 bài… nằm chơi xơi nước, chưa biết
đến bao giờ mới đụng tới. Đó cũng là lỗi của tôi, thấy bài hay, thấy người ta
hát hay, tôi tưởng mình cũng có thể hát được, bèn nhắm mắt thâu. Hát xong, khi
nghe lại mới thấy mình… hố. Mình đâu phải người ta. Đồng ý là ca sĩ có thế hát
được tất cả các bài hát mình thích và nhạc sĩ làm ra một bài hát để mọi người
ai hát cũng được nhưng có người “đạt” có người không. Rủi mà mình rớt nhằm cái
“không được” ấy thì cứ coi như mình ngu và mất tiền toi.
Bác Lê Nguyễn cười bảo tôi: …“Con mẹ này sao mà kỳ quá, sao
mà khó quá vậy.” Bác Lâu bảo… “Tôi thấy được đấuy chứ, sao bà lại chê. Bỏ uổng
quá”… Khánh Phương khen hay Đoan bảo OK được lắm rồi, anh thấy được…. -“Anh thấy
la một chuyên”. Ai thấy cũng không quan trọng bằng chính mình. Bao giờ cũng vậy.
Tôi nghĩ… mình có thể khá hơn. Và dù cho băng có mix rồi, tôi vẫn lấy phòng, chịu
tốn tiền thêm để hát lại.Có thể dở hơn nhưng cứ thử may ra khá hơn chăng và lại
cái lần trước còn giữ đó, có xoá đi đâu. Nếu hát lần sau dở và biết chắc mình
không thể hay hơn được, rằng sức mình chỉ ngang đó, thì lại xài lại cái đã hát.
Có sao đâu. Nhưng ít nhất là tôi cảm thấy yên ổn khi đã cố gắng hết sức mình.
Nhiều người đã hỏi khi nào có Xin Trả Nợ Người? Tôi không biết
chắc. Khi nào xong sẽ có. Chúng tôi có thì giờ và cũng đã ngày hai bữa từ bao
nhiêu năm nay nên không bao giờ vội vã. Gạo mình chưa nấu thì cũng còn đó. Cũng
là của mình. Ai muốn làm gì cứ tự nhiên. Đi vội, đi nhanh, dễ vướng dây, dễ vấy
té. Cứ từ từ mà chắc. Người ta khi yêu, 30 năm còn chờ được cơ mà. Miễn là khi
gặp, người mình yêu đừng bèo nhèo quá, mà muốn không bèo nhèo thì phải chau chuốt
cho gọn gàng. Ấy thế mới biết ở đời chẳng có gì là dễ cả. Nếu được yêu, chín sẽ
bỏ làm mười. Ngược lại dù có hay mười mươi đi chăng nữa cũng chỉ vứt thùng rác
mà thôi. Tóm lại, ở đâu cũng thế, bên Tàu, bên Tây cũng như bên ta, cái tiền chẳng
có nghĩa lý gì. Cái Tâm , phải, chỉ có cái Tâm mới đáng quý mà thôi. Cái Tâm với
chính mình, với đời sống và trong công việc, kể cả việc nấu ăn trả nợ bạn bè.
Điều này tôi đang cố gắng cắt nghĩa cho các con tôi hiểu và
cũng tự nhắc nhở mình mỗi ngày bởi đời sống ở đây đã làm mất mát quá nhiều. Tôi
chấp nhận mất mát đó như một sự tự nhiên tuy có cái Tâm, là điều duy nhất tôi
còn mong giữ lại được. Có thể chẳng để làm gì. Có thể chỉ để gió cuốn đi.
18. Ở Mỹ gần 20 năm, tôi biết tiểu bang tôi đang ở chỉ có 2 mùa.
Mùa nóng đến chín cả người, sắp tới và mùa lạnh, đủ lạnh đến suýt xoa, sắp qua.
Chẳng cần giở lịch coi ngày tháng. Chỉ thấy ong bắt đầu trở về làm tổ, cây lá
xanh mởn những nụ mầm mới và đóa hoa đào nở muộn màng, phớt hồng, mỏng manh bên
những bông hồng rực rỡ, tôi biết bây giờ mùa đông chỉ còn lại những thoáng lạnh
khi màn đem buông xuống.
Với một người không bao giờ cần biết đến ngày tháng, giờ giấc
như tôi, biết như thế là quá nhiều. Mà sở dĩ tôi biết được là bởi tôi đang chuẩn
bị lên đường. Sẽ lênh đênh, không phải trên sông Hương mà là vùng trời u Châu
quen thuộc. Cảnh vật nơi đó quen thuộc đến độ tôi thích trùm mền nằm nhà đọc
truyện kiếm hiệp hay coi cải lương hơn đi ra ngoài. u Châu cũng là một vùng thường
có những cơn lạnh, cơn mưa bất ngờ nên tôi phải nhắc chừng Ðoan theo dõi tin thời
tiết ở báo hàng ngày. Áo để hát là điều không thể thiếu và áo ấm. Vừa đủ ấm cho
tháng này.
Nếu nói về lạnh, Ðức và Pháp không lạnh bằng một vài tiểu
bang của Mỹ và Canada. Nhưng cái gió của u Châu dễ làm mình bị cảm nhất là ở những
nhà ga xe lửa, một nơi trống trải, thiếu tiện nghi. Bốn bề là gió, không có một
chỗ cho mình ngồi nghỉ chân chờ tàu và tránh gió. Nếu Chúa còn thương, cho hát
thêm vài ba năm nữa hay mươi, mười lăm năm sau, tôi cũng không bao giờ quên
chuyến đi từ Ðức qua Pháp của tôi và Tuyết Nhung hồi tháng 1 vừa qua.
Ðó là một đêm mưa. Mưa không lớn lắm nhưng lạnh. Cái lạnh kỳ
cục buốt xương cắt thịt như mùa đông ở Huế. Lạnh và gió. Xứ u Châu tiếng là văn
minh nhưng lại nhiều điều rất phiền nhiễu, nhiêu khê, chậm tiêu. Muốn đi xe lửa,
phải mua vé trước tại ga. Thực lòng tôi không muốn đi nhưng đã hứa giao băng nhạc
cho Ngọc Hoàng, lại là CD mới. Có bán cái mới, mới có tiền làm cái tiếp theo.
Thu tiền CD này đem về lấy CD kia bán. Phần Tuyết Nhung cũng muốn trở qua Pháp
để mua một… cái quần mà cô nàng không kịp mua tuần trước.
Hai chị em được linh mục sở tại cho ăn cơm tối, rồi hối hả nhờ
ông Sỹ và ông Sâm chở ra ga Duisburg. Tụi tôi không biết đích xác giờ nào tàu đến,
chỉ đoán chừng khoảng 11:50 tối. Bà bầu Chi cũng xác nhận như vậy. Nhưng vì
không chắc ăn nên tụi tôi đến quá sớm. Cả bốn người đi vòng vòng mãi không tìm
ra chỗ bán vé. Cái valise nặng như một cái cùm, bốn bánh xe gãy một còn ba. Quặt
quẹo đẩy không được. Ði nữa thì đi không nổi, muốn ngồi nghỉ thì không có lấy nửa
cái ghế. Gió cứ lồng lộng thổi luồn tứ tung. Chận dân Ðức lại hỏi thăm chỗ bán
vé. Mình nói tiếng Ðức được nhưng tụi nó dù có hiểu cũng chơi cái tình lờ lắc đầu
không chỉ. Sau cùng, tôi hối hai ông Sỹ, Sâm hỏi thăm hai anh chàng mặc đồ có vẻ
là công nhân làm việc ở nhà ga thì được biết vé sẽ bán trên xe lửa chứ giờ này,
các quày bán vé đã đóng cửa từ khuya.
“Thôi rồi, cái điệu này thế nào cũng bị phạt…” Ông Sỹ nhảy dù
nhất định cãi… “Làm gì có chuyện ấy, tôi biết mà. Cứ lên xe lửa mua cũng được vậy.
Luật ở đây như vậy mà. Tôi biết rõ…”. “Nhưng anh đã đi xe lửa lần nào chưa? ” Cả
hai ông nhìn nhau rồi nhìn tôi và lắc đầu. 11 giờ 45 tầu sẽ ghé và chỉ ghé 2
phút. Thấy trời lạnh quá, tụi tôi cũng ái ngại cho lòng tốt của hai ông cựu sĩ
quan của mình. “Thôi, cám ơn hai anh, cứ để tụi tôi chờ một mình cũng được, chứ
trời lạnh thế này, hai anh mặc phong phanh quá, thế nào cũng ốm mà thôi…”. Ông
Sỹ và ông Sâm cùng cười rất hăng hái… “Ôi, có gì đâu, tụi này ở đây quen rồi. Vả
lại ở trong có mặc đồ người nhái, hai cô đừng lo…”
Tuy miệng dục các ông ấy về, lòng lại cầu mong các ông ấy đừng
về vội. Của đáng tội, thấy và biết mấy ổng lạnh lắm rồi nhưng cái valise của
tôi dù nó không lạnh nhưng có nặng quá sức. Nếu không có hai ông thần này, Tuyết
Nhung và tôi làm sao xách nổi lên mấy bậc cầu thang kia. Nhất là trưa hôm đó,
tôi đã nhắc chừng ông Sỹ rằng nhớ ghé ga mua giùm vé xe lửa nhưng ông cứ nhất định
bảo rằng không cần thiết. Có lẽ vì thế, mấy ông ấy không nở bỏ hai chị em tôi một
mình trơ trọi ngoài ga giữa nửa đêm.
Vần được cái valise lên trên chỗ đợi tầu. Lạy Chúa, Ðức Mẹ,
gió ở đâu mà hung dữ đến thế. Lạnh đến nỗi tôi chảy cả nước mắt mà phải đứng chịu
trên 15 phút chờ tàu. Ôi, 15 phút chờ dài như bao nhiêu thế kỷ và nếu không có
ông Sỹ, ông Sâm, hai đứa tôi cũng không biết làm cách nào để mang cho được cái
valise lên tàu vì tay chân cóng cả lại rồi…
Ðược cái tàu hôm nay vắng quá. Có lẽ vì lạnh và vì kinh tế u
Châu cũng… thất thu như Mỹ nên ít người nghĩ đến chuyện đi chơi. Mà ngay cả tụi
tôi đây, nếu chẳng vì miếng cơm manh áo, ai dại gì nửa đêm, nửa hôm đội mưa gió
ra đi, dù là đi Paris. Chẳng mất công tìm couchette, hai đứa tấp vào một toa trống
cho hút thuốc. Kéo tay ghế lên là có thể ngả lưng làm một giấc thẳng cò tới
Paris. Tuyết Nhung thì ngủ ngay. Tôi hoàn toàn không. Không ngủ được và không
dám uống thuốc ngủ. Không dám ngủ. Ngồi hút thuốc lá vặt chờ anh chàng bán vé.
Y chang những gì tôi nói… “Tao bán cho tụi bay vé này chỉ tới
biên giới thôi nhé (biên giới giữa Ðức và Bỉ là thành phố Aachen, đọc là A khần)
và vì tụi mày không giữ chỗ trước nên tụi mày phải trả thêm tiền…” Thôi, dại rồi
mới biết khôn làm sao đây. Tàu chạy qua Essen, qua Kohln rồi tới Aachen… “Tụi
mày phải mua vé từ đây tới Paris…” Tôi trả tiền, cất vé kỹ càng rồi ngả lưng,
nhắm mắt… để đấy chứ nào dám ngủ. mà quả đúng như vậy, chỉ lát sau là có mấy
ông Tây nhào vào hỏi giấy tờ. Rồi xe lại chạy. Rồi lại ngừng, lại có vài người
lên, lại có vài thằng khùng kéo cửa thò mặt vào ngó một cái rồi rầm rập kéo đi.
Chả có một tiếng… sorry êm ái như ở… xứ mình.
6 giờ 30 sáng, tầu đến gare du Nord. Tôi kéo, Tuyết Nhung đẩy
mãi, cái valise mới xuống tới đất. Lạy Chúa tôi, ở đây còn lạnh hơn đêm qua nữa.
Toa của tụi tôi là toa cuối cùng, đẩy được cái của nợ này vào tới nơi, chắc
tôi… hộc máu ra mấy đống máu chứ không phải chơi. Trong cái không khí buổi sáng
lạnh căm, đứng trước cái valise CD giữa gare du Nord, nước mắt tôi ứa ra không
phải vì gió. Tôi muốn hét lên cho thấu tới trời… “Chúa ơi, con ăn uống được bao
nhiêu, con hưởng được bao nhiêu mà sao con khổ thế này…”. Tôi bậm môi chận đại
một ông Tây già xin đổi tiền lẻ để lấy chiếc xe kéo. Ông ta cũng không có nhưng
ông ta lấy một đồng xu gì đó bỏ vào lỗ, ngoáy một cái kéo được một chiếc xe ra.
Quãng đường bình thường tôi đi chỉ có 5 phút, giờ phải 30 phút mới vào được tới
trong. Tuyết Nhung phone cho Phương và vợ tới đón chúng tôi nhưng trước khi ra
khỏi ga, tôi mượn tiền Tây của Phương mua hai vé trở về chiều hôm đó, chuyến 6
giờ 30 vì công việc giao hàng của tôi chỉ mất nhiều lắm là một tiếng đồng hồ,
ghé chợ mua ít hũ càfé về chia cho bạn bè.
Cầm vé xe lửa trong tay, tụi tôi đề nghị Phương đi ra quán
làm cái càfé cho ấm bụng, ăn điếu thuốc cho hồn vía trở về, cho cái vong linh hồn
lai tỉnh trở lại. Dễ mà, gì chứ càfé ở Paris… chạy đầy đường. Chỗ nào cũng là
quán hàng đẹp đẽ lịch sự với những ông bồi Tây sạch sẽ, khăn trắng luôn luôn vắt
trên tay và cái thói quen quái đản là kẹp chai nước giữa đùi để mở nút. Ấy, Tây
u mấy ngàn, mấy trăm năm văn hiến, tôi không cần biết nhưng cái vụ kẹp chai vào
háng và phạt tiền vì không mua vé xe lửa trước thì tôi không thể ngửi nổi. Có
thể vì thế mà Tây đói cứ dài người ra. Ðói mà lại hay làm… bảnh mới là phiền quốc
dân đồng bào. Nói cứ như… Bố nằm với Mẹ mà toàn là… của người phúc ta không hà.
Mọi việc xong xuôi, tôi chán Tây quá rồi bèn nhờ vợ chồng
Phương chở ra ga sớm vì đường đất Paris từ 4 giờ là kẹt xe khủng khiếp. Ai vô
phúc bị bệnh, bị tai nạn thì cứ gọi là cầm chắc cái chết trên xe cứu thương vì
có hú còi đến vỡ tung cái thành phố đẹp nhất u Châu là Paris này cũng chẳng có
cái xe nào tránh chỗ cho đi. Tôi chưa tìm ra, chưa biết đánh vần chữ “lịch sự” ở
Tây. Hoài của.
19. Mỗi con người, khi đến cái tuổi mắt không còn xanh, tóc không
còn đen, môi không còn hồng, dấu vết để lại của thời gian là những nỗi héo hắt
tiêu điều trên nét mặt, trong dáng ngồi chịu đựng, trong dáng đi rã rời mệt mỏi,
cố giữ cái thân mình trên đôi chân lê từng bước một. Người đã già. Người đã quá
chán chường, ngán ngẩm cái cuộc sống đầy ưu phiền. Người buông tay. Người sắp
buông xuôi. Đây là lúc người ta tìm lại cho mình tuổi thơ. Người trở lại, một
mình, tìm về căn nhà quá khứ. Thắp lên ngọn nến nhỏ. Rất nhỏ. Đủ soi thấy một
chút đời đã qua. Người sẽ buồn hơn. Người sẽ thấy lòng ấm áp hơn. Người sẽ thấy
cơn đau dịu lại. Cuộc đời. Đời sống. Vẫn còn đáng sống. Trái tim vẫn đập, tuy rất
nhẹ, những nhịp yêu thương. Người còn có nơi chốn để nghĩ về. Còn cả một khoảng
trời cao xanh bao la để ngóng vời. Còn thấp thoáng đó đây, xa gần, khuôn mặt bằng
hữu còn hiếm hoi nơi này, nơi đó, để nhắc nhở cánh cửa mở ra. Cái ta nhìn thấy
đầu tiên và rõ ràng nhất… là ta.
Nhưng cứ nhốt mình trong căn phòng kỷ niệm cứ trói buộc mình
với cái quá khứ đã tan tành như khói thuốc. Ngẫm cũng không ích gì. Đồng ý quá
khứ cho ta một chút hãnh diện. Nếu có. Kỷ niệm cho ta chút ấm áp dịu dàng. Nếu
có. Tuy vậy… để sống còn thì hãy thả trôi đi tất cả. Quá khứ, kỷ niệm tô điểm
cho đời sống ta, thì được. Nô lệ vào nó thì… không xong. Ngày xưa… Ngày xưa là…
ngày xưa. Dường như là điều… không có thật nữa. Bất cứ điều gì bắt đầu bằng hai
chữ… ngày xưa. Đã là thần thoại. Đã là huyền thoại. Cười. Huyền thoại là điều…
không có thật.
Trải qua thời gian dài lêu bêu, trôi nổi xứ lạ. Nhiều người
đã quá khổ sở với cái quá khứ của mình. Không thoát ra được. Làm như nếu tách
ra, mình sẽ không còn… là mình nữa. “Đời tôi ngốc dại. Tự làm khô héo tôi thôi”
(TCS). Lại cười. Phải nhìn tới, đi tới dù đôi chân đã mệt, dù cái thân này đã mỏi.
Nhưng đường trường xa, còn xa. Còn phải đi. Tôi không muốn… vấp ngã nữa. “ Thôi
xếp lại, mơ non cùng ước bể. Bờ bến xa xin hẹn lại một ngày” (P.N) và dù không
sát nhập cuộc chơi. Tôi đứng bên lề, vui cái vui của người khác.
Một trong những cái vui là… lập hội. Ai có hội nấy. Hai người
cũng hội. Ba người cũng hội. 100 người cũng hội. Vui chứ. Đây là hội LaSan, hội
Gia Long, hội Trưng Vương, hội Cu-văng, hội Chu văn An, hội những người yêu… mạt
chược, hội những người yêu… súc vật, hội… tứ sắc, hội những người… mất đồ chơi,
hội những… mẹ goá con côi, hội những người yêu âm thầm. Thôi thì đủ mọi thứ. Mỗi
hội một vẻ. Ăn uống chí chạp, Cười đùa bốn mùa, nhảy nhót tưng bừng hoa lá cho
bõ những lúc giới nghiêm, thiết quân lực.
Thú thật với bà con cô bác, thấy người ta lập hội, vào hội, họp
hội, chơi hội. Tôi cũng thèm lắm. Nhưng hồi nào tới giờ, từ thuở biết cắp sách
đến trường, tôi chỉ thích… hát và thơ. Thế cho nên cái bằng tiểu học cũng không
có. Năm đó tôi đi thi tiểu học. Đề bài luận văn là các em cho biết về mùa hè
năm nay. Chả là mùa hè năm đó, trời nắng quá, Sài Gòn bệnh tật tùm lum, mọi người
thở ra khói, song với tôi, dù Sài Gòn có trôi ra khỏi đất liền tôi cũng không để
ý. Trong đầu óc một con nhỏ 12 tuổi sớm thích ca hát, văn thơ. Tôi tả cái nắng
Sài Gòn đầy những mộng mơ. Nào là trời xanh, mây trắng. Nào là những cuốn lưu
bút xanh trao tay nhau dưới hàng phượng vĩ. Ôi toàn những chuyện trên trời dưới
nước không hà. Chỉ nội nhiêu đó cũng đủ… trượt vỏ chuối rồi. Đừng có nói là mấy
bài toán trật lất. Suốt mười mấy năm đi học. Tôi giỏi nhất môn… học thuộc lòng.
Cũng còn may là để sau này thuộc bài hát mà làm ca sĩ.
Tôi cứ học trong cái tình trạng… lơ vơ, lờ vờ đó cho tới khi…
giả từ thơ ngây. Chả có một mảnh bằng giắt lưng quần. Ngoài hát ra, tôi không
được học một cái gì khác. Kể cả… lái xe. Chỉ có một cái hoa tay trong 10 ngón
tay. May mà có được một. Tôi ngu dại. Tôi đui mù. Và Chúa thương những kẻ như
tôi. Cho tôi một niềm vui nhỏ nhoi, để sống.
Đọc báo thấy quảng cáo hội họp, ăn uống, nhảy đầm ở Ritz, ở
Diamond, ở Majestic, ở tùm lum nơi. Nghe bà con gọi nhau ơi ới như… hò sông
Cái. Hẹn nhau đi sắm đồ. Hẹn nhau đi làm tóc, làm móng tay, móng chân. Mà sốt cả
ruột. Cali bốn mùa hội họp. Cái này vừa qua, đến mục khác. Nghĩ lại mình, thấy…
tủi. Xuất thân trường… tiểu học… Cầu Kho. Tìm cả… 10 năm mới ra được… một người.
Ở Oakland. Ồ chị, thấy chị viết ngày xưa chị học Cầu Kho, tôi cũng học ở đó. Mừng
như được tàu Mỹ vớt ngoài khơi Vũng Tàu, song chưa kịp mở miệng rủ rê lập hội,
lập hè, người Cầu Kho đã biến mất. Song ít ra cũng biết được là ở Mỹ có một người
biết hồi nhỏ tôi có… đi học.
Có một hội vui lắm là hội các… bô lão. Số là thỉnh thoảng tôi
cũng có hát giúp vui cho các cụ trong những buổi họp mặt. Bố mẹ tôi ở San José
cũng vào hội… người già. Đến đó tôi thấy các cụ đủ hết nào Mỹ trắng, Mỹ đen,
Phi, Lào, Miên, Mễ, Mít. Có cụ vẫn hùng dũng nhảy be bop, quay Valse, lả lướt
bước Tango. Có cụ run rẩy dìu người bạn đường của mình, cũng run rẩy không kém,
theo điệu slow, Boston…buồn. Các cụ bà quần áo phấn son rực rỡ, vòng vàng chuỗi
ngọc giả sáng ngời. Các cụ ông cà vạt, com-lê, giày láng coóng, cùng rượu.
Một hôm Đoan đưa tôi đi ăn trưa ở tiệm Viễn Đông của ngài Lâm
Quang. Không biết hôm đó là ngày gì mà trong tiệm chỉ có 2 vợ chồng chúng tôi
là trẻ nhất. Toàn là các cụ ở tuổi bố mẹ tôi hoặc hơn. Các cụ… nói cười rân trời
đất. Nào là con thằng này… hỏng rồi. Nào là con bà kia bỏ chồng lấy con ông nọ.
Nào là bà đó mới hốt hụi rồi… dông luôn. Bà kia mới vừa mua một chiếc cẩm thạch
cả… chục ngàn. Ông bà nọ vừa đi Tây chơi. Ông bà kia sướng thật, con cái người
bác sĩ, người kỷ sư, cứ là ngồi mát ăn bát vàng, nhà nọ có… mả học. Ôi chuyện
trò của các cụ nổ ra đôm đốp, văng qua chéo lại chiu chíu. Vui không chịu được.
Tôi và Đoan ngồi nghe và cảm thấy thức ăn hôm ấy… ngon hơn.
Có một hội đáng lẽ phải được tổ chức sớm nhất, xôm tụ nhất là
hội nghệ sĩ thì lại chìm lỉm nhất. Lạnh lẽo hương khói nhất. Ngày xưa, các cụ rủa
xả là cái đồ xướng ca vô loài. Nhưng thử hỏi từ ngày xưa cho đến ngày nay. Hội
nào lại không có cái thứ… xướng ca vô loài. Cũng phải có gì khác chứ. Từ chính
trị, đến tôn giáo… v.v và v.v… ở đâu cũng lai rai dăm ba ca sĩ. Từ Mỹ đến u
châu sang Úc châu. Đã hát thì mọi người gọi là ca sĩ cho tiện việc sổ sách.
Không thể nói là tôi hát nhạc tranh đấu nên tôi không phải là… ca sĩ. Không thể
nói là tôi chỉ hát nhạc Thánh ca, hát Phật ca nên không được… ghép tôi vào loại…
ca sĩ. Ấy nói thế là sai, là… thiệt cho mình mà thôi. Bởi ca hát là một nghiệp
dĩ không phải ai muốn cũng được. Và dù ở bất cứ thời đại nào, dưới bất cứ cái
nhìn nào. Người ca sĩ với nghiệp dĩ của mình vẫn có được một chỗ ngồi. Trong
huy hoàng hay tăm tối là do mình không do ai đặt để.
Thế thì ca sĩ ở đây nhiều lắm. Có khi không bao giờ gặp lại
nhau. Chỉ nghe tiếng mà thôi. Đông thế sao không lập hội hè gì cho vui. Để cái
câu 2 cô ca sĩ có ưa nhau bao giờ… chưa bao giờ đúng. Lập hội theo thiển ý của
một người ngu dốt như tôi không có nghĩa là để ăn uống, nhảy nhót, vui chơi. Bởi
không hội thì tụi tôi vẫn phải ăn, vẫn có những niềm vui dù nhỏ. Nhưng nghĩ đến
câu “Một cây làm chẳng được gì”… và lại thấy ca sĩ Mỹ, Tây luôn luôn có mặt bên
nhau trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong hoạn nạn lúc nào cũng có người đưa cho
bạn mình bám vào để đứng lên. Bèn lấy làm suy nghĩ. Suy nghĩ thôi chứ nhận thấy
mình nhỏ bé, nghèo hèn, chẳng dám lên tiếng. Từ bấy lâu nay, mạnh ai nấy sống.
Đường ai nấy đi. Khổ ai nấy chịu. Chẳng ai chia với ai. Chẳng ai đưa… tay với
ai. Sợ bị chém sao. Sợ bị kéo cho…ngã theo sao.
Trong giới ca sĩ, có người may mắn, có người bất hạnh. Có người
giàu, có người nghèo. Chẳng ai để ý đến ai. Nếu có thì toàn là những chuyện
riêng tư để bàn ra, tán vào, thêm thắt cho tăng phần ly kỳ rùng rợn. Giới ca sĩ
đông nhất, được yêu thương nhiều nhất (tổng thống VNCH cũng không bằng). Lại chẳng
bao giờ ngồi lại nói chuyện với nhau. Chỉ tay bắt mặt mừng lúc đó thôi. Quay
lưng đi. Mọi chuyện lại khác. Dù ở đâu, ca sĩ cũng được kêu gọi góp mặt, nhưng
tai tôi đã nghe rất nhiều, rất nhiều người, kể cả bầu show gọi ca sĩ là thằng
này, con kia. Ấy là vì vẫn có người cho ca sĩ là hạng vô loài. Vậy thì khi mình
ngã, ai nâng. Khi mình về già, liệu mình có thể vào hội những người già như một
người bình thường không.
Nhạc sĩ to nhất nước, lớn nhất nước Phạm Duy ở đâu, sao không
thấy làm gì để dìu dắt anh em, con cháu vượt… Trường Sơn. Ông Hoàng Thi Thơ,
ông Lam Phương, ông Văn Phụng ở đâu sao không ai diện kiến. Sao các ông không
đưa ra những khuôn vàng, thước ngọc cho đám hậu sinh này… khả úy hơn. Có lúc
tôi trộm nghĩ rằng chắc các ông này không muốn… chia chát chút… mặt trời cho ai
chăng. Tôi mong các ông trở thành… Đinh Bộ Lĩnh phất cờ lau. Lê Lợi áo vải đất
Lam Sơn vùng lên… dẫn dắt đám… lâu la này, sát cánh nhau dưới… trướng của mấy
ông. Giúp đỡ nhau ở đây và nghĩ đến những bằng hữu không có ỏ đây. Một mình ông
Trầm Tử Thiêng mình hạc, xương mai è cổ ra gánh cả … 100 ông nhạc sĩ bên nhà.
Coi bộ vất vả lắm chứ chẳng chơi. Biết dành ăn, dành mặc, dành đẹp, dành sang.
Sao cái này không ai… dành.
Các chị Trưng Vương, Gia Long – Convent vừa đẹp vừa giàu, vừa
có học lại hát hay đang dành sân lấn đất ca sĩ chuyên nghiệp đó. Liệu mà lo kẻo
lại mất hết cả show. Lại còn hội nhớ Huế nữa. Các o, các mệ đất thần kinh véo
von như chim, cũng đáng ngại lắm. Bà con ta chớ có ngủ quên trên chiến thắng cá
nhân để lúc thức dậy thấy người về tới mức ăn thua không phải là… phe ta thì… vỡ
nợ.
Không nghĩ tới chuyện hội hè thì thôi. Nghĩ đến lại… ứa gan.
Bà con… Cầu Kho đâu hết rồi. Đứng lên lập hội đi chứ…
Đó là điều tôi mong muốn. Còn lại cả nước Việt Nam, ai muốn
chia… khúc nào cũng được. Cứ để những cái… hèn mọn cho chúng tôi. Một ngôi trường
tiểu học nhỏ bé. Một mảnh vườn xinh xắn. Một góc phố của Huế xưa. Một khoảng đất
nhỏ của đồi thông ngút ngàn Dalat. Chúng tôi sẽ trở lại đó. Bao nhiêu lá me
trên đường Duy Tân gom lại hết, thả đều trên những con đường tôi sẽ đi qua. Lá
sẽ reo mừng đón bước chân tôi. Ngày đó tôi sẽ mở hội. Mở hội trên cả 3 miền.
Tôi sẽ… tôi sẽ… khóc rất nhiều. Nhưng ngày ấy… bao giờ.
20. Ở vào những năm cuối của Thế Kỷ 20, khi mà con người đã mò
lên mặt trăng hỏi thăm chị Hằng, xem chị và chú Cuội sống chung ra sao. Khi mà
nước Nga, nước Mỹ, nước Nhật, nước Tầu và mới nhất là Bắc Hàn, muốn tiêu diệt
nhau, và cũng là tiêu diệt cả thế giới, chỉ cần… một ngón tay, bất cứ ngón tay
nào trong… “ bàn tay năm ngón em vẫn kiêu sa …” và một cái nút tí tẹo. Một cái
nhấc tay. Một cái hạ xuống. Xong. Xong hết. Không cần tới 30 giây mà chỉ một
giây thôi. Con người được tạo dựng bởi cát bụi, trở lại cát bụi.
Quả thật là chúng ta đang sống không phải là một mà là nhiều
cái nút. Khi máy móc làm việc thay cho người, đó cũng là lúc chính con người
cũng trở thành một cái máy. Một ngày rất gần chúng ta sẽ tự hỏi… Mình đang ăn
hay cái máy nó ăn. Hình ảnh Charlie Chaplin được cái máy đút cho ăn lập tức sống
lại trong trí nhớ mù mịt của chúng ta. Tự hỏi là bởi trong lồng ngực chúng ta,
trái tim, may mắn thay nó còn đập. Ðập để nhắc rằng chúng ta chưa phải là cái
máy.
Cứ thử nhắm mắt và tưởng tượng đến cái lúc chúng ta sống như
những người máy hoặc là máy móc sống thay cho chúng ta. Ăn, có máy đút, chân gắn
bánh xe di chuyển. Cởi quần áo máy cũng cởi dùm. Tất cả đều là máy với một cái
nút nhỏ bé xinh xắn. Thậm chí đến cái tư tưởng của chúng ta cũng không cần phải
nói ra bằng lời bằng miệng. Bấm một cái nó hiện lên màn ảnh com-pui-tơ ráo trọi.
Thế mình đâu còn là mình nữa. Ðâu còn là con người nữa. Trái tim có còn đập thì
cũng chẳng ăn thua gì. Chỉ làm ta chán nản thêm bởi nó cho ta thấy rõ đời sống
không còn ý nghĩa nữa. Thời đại máy móc, hiện đại những năm tháng sắp tới sẽ
tiêu diệt nốt chút nhân tính còn lại trong chúng ta. Dù có muốn chết cũng..làm
biếng, vả lại cái máy nó sống chứ có phải là mình nữa đâu và cái máy nó không
biết chết là gì. Nó bắt mình phải sống như thế để trả nợ cho cái xứ sở này.
Chuyên Khoa Học Giả Tưởng ấy mà. Tuy vậy nó cũng làm cho tôi
nổi da gà, nghẹt thở. Phải đi ra ngoài tìm chút không khí bạn bè, nói dóc dăm
ba câu chuyện cho cái đầu bớt căng. Hẹn nhau ở Phở Hồng Long, tôi gọi là Phở Nhật
Thụy. Ngồi đợi đã đến lúc mỏi mòn mới thấy nhà… làm luật Trầm Tử Thiêng khệnh
khạng vác cái bụng lép xẹp như bánh tráng tới, theo sau là một người đàn ông tuổi
trung niên. Một người mà tôi rất biết. Rất quý mến của cái thời cả hai chúng
tôi đều còn tương đối trẻ. Thời của những bài tình ca đẹp đẽ trong sáng với tiếng
đàn thùng đơn giản cất lên giữa những bãi cỏ, sân trường, khuôn viên Ðại Học.
Có thể nếu tình cờ gặp nhau giữa phố, tôi không còn nhớ được anh là ai mặc dù
trong trí nhớ đã rất mịt mờ của tôi, tên anh vẫn còn rất đậm nét. Có thể tôi sẽ
nhíu mày cố lục lọi, để cố tìm hiểu xem cái khuôn mặt… quen quen này là ai? Tên
là gì? Bởi vì đã hơn 20 năm, giờ gặp lại… Ðây Ngô Mạnh Thu đấy. Tôi đâu có quên
anh đâu. Tôi không quên tên anh thì đúng hơn.
Tôi có thể đã rất khổ sở khi gặp lại những người quen cũ.
Quen biết từ 2, 30 năm về trước. Ða số là tôi nhớ mặt nhưng nếu cắt cớ hỏi. Nhớ
thật không? Tên gì nào? …thì tôi đành xấu hổ mà rằng… cái vụ nhớ tên thì tôi
thua… Nhưng cũng có trường hợp ngược lại. Nhớ tên, nhớ rất nhiều, nhưng khi gặp
mặt thì tôi cứ ngu ra. Ngu như chưa từng bao giờ… ngu thế. Thực tế, tôi không
phải là người mau quên mà phải nói là tôi có một trí nhớ đáng kể. Nhưng hơn 30
năm nay, thuốc ngủ đã làm cho tôi đôi khi ngây ngây, dại dại, lúc nhớ lúc quên.
Tình trạng mỗi ngày một tồi tệ thêm, tôi đành tự an ủi rằng… Thôi thì cũng nên
quên bớt đi cho dễ sống.
Ngô Mạnh Thu là một tên tuổi lớn của thời Du Ca, hình như còn
trước cả Nguyễn Ðức Quang, trước Trịnh Công Sơn, bởi năm 1967 khi tôi được cùng
hát với Trịnh Công Sơn tại Quán Văn, đã có Ngô Mạnh Thu rồi. Bởi anh hiền lành,
đứng đắn và không… đẹp trai lắm, nên tôi kính anh như một người anh lớn và tất
cả những giao thiệp sau đó giữa tôi và anh đều nằm trong sự Tương Kính. Chẳng
hiểu anh Ngô Mạnh Thu có “kính” tôi hay không nhưng riêng cá nhân tôi, cho đến
bây giờ gặp nhau trên xứ người, tôi vẫn giữ nguyên sự Kính Nể đối với anh như
ngày xưa.
Dĩ nhiên là cả hai anh em chúng tôi đều đã già theo năm
tháng. Hơn 20 năm mà bảo là… không có gì thay đổi… là điều không thật. Ngày xưa,
anh em chúng tôi còn quý nhau ở điểm, cả hai chúng tôi đều..không đẹp. Nhưng
hôm nay, tôi thấy anh Thu không quá già như trường hợp của nhiều người khác, mà
hình như anh… đẹp hơn thuở thanh niên… Cái này tôi thường gọi là… đẹp lão. Anh
chưa già đủ để thành lão nhưng tóc anh đã bạc nhiều. Lạ nữa là anh trắng hơn
ngày xưa. Tóm lại ở Ngô Mạnh Thu tôi thấy có nhiều thay đổi duy chỉ có cái khí
chất điềm đạm ở anh là còn nguyên. Y chang, không mảy may thay đổi. Cái điều
làm cho lớp chúng tôi quý mến anh còn nguyên vẹn, bao nhiêu tang thương, biến đổi.
Kể cũng hiếm thấy.
Tôi còn nhớ dù rất lờ mờ, những ngày cùng sinh hoạt ở Hội
Quán Cây Tre đường Ðinh Tiên Hoàng, cạnh sân Vận Ðộng. Anh Thu tập cho chúng
tôi hát. Một trong những bài hát nổi tiếng của anh thời bấy giờ là bài Lạc Vùng
Ăn Năn. Chúng tôi chỉ biết hát, trong khi anh Ngô Mạnh Thu vừa sáng tác vừa hát
hay nên dạy cho chúng tôi là điều quá dễ đối với người có vốn Nhạc Lý thuộc loại
cao cấp như anh. Dễ nhưng mà khó bởi muốn bửa đầu chúng tôi ra để nhét vào đó một
bài hát, không phải là không mất thì giờ. Nói thế không phải là chúng tôi quá
ngu nhưng vì hay ỷ lại, làm biếng, và thích đùa vui hơn, nên cầm cương được
chúng tôi, quả không có được mấy người.
Thời đó, mỗi khi chúng tôi tập họp nhau lại dù để làm việc,
cũng là một dịp để phá làng, phá xóm. Một đứa thì không sao. Dính lại một chùm
thì chẳng mấy ai chịu nổi. Ðùa vui. Phá cho vui thôi nhưng cũng đủ làm nhức đầu
các ông thầy mà trong đó có anh Ngô Mạnh Thu. Thật sự ra, ngoài những bài hát
thu băng, thu dĩa Billy Trung tập cho tôi, số còn lại, của ai sáng tác người đó
tập cho ca sĩ hát. Ông Trầm Tử Thiêng. Ông Ngô Thụy Miên. Ông Nguyễn Ðức Quang.
Ông Vũ Thành An. Ông Từ Công Phụng và nhiều hơn cả là ông Trịnh Công Sơn. Cứ đến
100 bài thì có đến 99 bài chính ông Sơn tập cho tôi. Chỉ có 2 bài do Hoàng Thi
Thao dạy tôi vì lúc đó ông Sơn ở Huế, đó là bài Tình Nhớ và Tình Xa.
Từ 1969 đến 1975 đó là khoảng thời gian cực thịnh của những
bài tình ca lãng mạn, trữ tình. Tác giả thương yêu tác phẩm của họ, do đó sự
liên lạc với ca sĩ rất thường xuyên và gắn bó mà từ đó, nẩy sinh ra thêm tình
thầy trò, anh em kéo dài mãi cho đến sau này. Tiếc là sau năm 75, đến bây giờ
và có thể mãi về sau, điều tốt đẹp đó sẽ chẳng còn bao giờ trở lại nữa. Ðời sống
văn minh tự do đến độ tàn nhẫn, đã đập dập tan tành tất cả. May ra còn lại cái
“trí”. Nhưng nhiều người lại xử dụng nó vào những việc khác, cũng không kém phần
tàn nhẫn, bất nhân, dùng nó để lợi cho mình, hại cho người. Người có “Trí”
không thiếu, nhưng nếu chỉ có thế vẫn không đủ.
Tôi vẫn thường cảm thấy rất hạnh phúc khi gặp lại những khuôn
mặt thân thiết ngày xưa mặc dù sau 20 năm, chẳng phải ai cũng nguyên vẹn cái
tình xưa, nghĩa cũ. Tôi đã từng lãnh những cú..tát trái, tát phải, những cú đấm
ngàn cân, những nắm bùn vứt vào mặt tôi ở đằng sau những nụ cười. Nhưng có sao
đâu. Thế mới là đời. Thế mới là người. 20 năm đã qua, còn 20 năm sắp tới nữa chứ.
Ðâu có phải đến đây là chấm dứt. Ðâu đã phải là ngày của trận Ðại Hồng Thủy. Cứ
bình thản trước mọi việc và câu trả lời đúng nhất. Im lặng cũng là một cách sống.
Nếu ai không tin, xin cứ tìm nhà làm luật Trầm Tử Thiêng mà hỏi.
Thầy Thiêng cười rạng rỡ. Bên cạnh thầy vừa xuất hiện người
Chưởng Môn Phái… huề vốn Lâm Tường Dũ. Ông này nói chuyện rất tếu, rất ngây thơ
và dĩ nhiên rất huề vốn khác hẳn lối viết… Share cái này, Share cái kia. Những
tô phở được bưng ra, thơm lừng , nghi ngút khói. Tôi ngồi cạnh ông Ngô Mạnh
Thu, đối diện với nhà tôi, ngồi cạnh thầy Thiêng. Ðây là phở Công Lý, phở
Pasteur, phở ở đường Lý Thái Tổ Saigon và ngày hôm nay cũng có thể là một ngày
nào đó của năm 1970… “Bỗng nhiên gặp lại nơi này. Những khuôn mặt cũ một thời
có nhau. Ngày xưa phố cổ ngọt ngào. Ngày nay xứ lạ điệu chào ngẫu nhiên… TCS”
Thầy Thiêng hỏi ngày 27-11 tôi có thể đến tham dự đêm hội ngộ
chào mừng nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu tổ chức tại Ritz không… Ðến được là em đến ngay,
cần gì vé mời nhưng thầy phải để em về coi lại cái sổ… bộ đời của em đã. Ngày
đó chắc chắn là em về nhưng về tới lúc nào, mấy giờ thì em chưa biết. Hễ về trước
9 giờ đêm là tụi em… bay tới… Tôi nói rất mạnh miệng và rất thật dù biết rằng
tuần lễ đó chúng tôi chạy show như những con khùng, chạy sì khói. Chạy cháy thắng.
Chạy sôi nước. Về đến nhà là quay cu lơ, thở dốc. Vác được cái mặt đến Ritz có
nghĩa là chúng tôi thuộc loại Super, loại Bionic Women. Cũng phải cố thôi.
Ăn xong là chia tay. Thôi nhé, đường ai nấy đi. Việc ai nấy
làm. Chia tay không bịn rịn vì sức mấy mà không gặp lại. Phải gặp chứ, gặp tại
nhà tôi làm một đêm nhạc Du Ca với nhau như ngày xưa cho nhau nghe. Nhà tôi đề
nghị. Bún măng vịt đi em. Lần đâu tiên tôi lắc đầu. Cho em khất lại vài ngày nữa.
Hôm nay em mệt. Nhà tôi rất khảnh ăn. Khi nào anh đề nghị một món gì đó có
nghĩa là anh… rất thích. Thường thì tôi OK ngay. Nhưng chẳng hiểu sao từ mấy
tháng nay, tôi cứ đau ốm hoài. Khỏe được vài ngày lại muốn lăn đùng ra. Lờ đờ lửng
đửng như cá mắc cạn, đêm cứ trằn trọc hoài không ngủ 3, 4 giờ sáng còn đi ra,
đi vào… như ma. Ðọc truyện cho mỏi mắt mà đầu óc cứ sáng như giữa Ngọ. Tôi chẳng
muốn làm phiền ông bác sĩ TQLC tốt bụng nữa, vớ được thuốc gì uống đại cho
xong. Không khỏi bệnh này cũng khỏi bệnh kia. Rốt cuộc ba hồn chín vía đi mẹ nó
mất tiêu, chỉ còn có mệt.
Tôi trùm mềm nằm một đống như người chết chưa chôn. Việc gì
cũng đẩy qua cho chồng. Nhà tôi thì dư biết tính con vợ khùng điên, khi muốn
làm Trời cản cũng không nổi mà khi đã không muốn, dát vàng nó cũng không thèm
nhúc nhích, nên để tôi yên một mình. Bà Nội Cu phone thăm dâu mỗi ngày – con
dâu kiểu tôi, không khá được – mấy cô em nhà tôi, cô thì gửi hoa, cô thì mua
thuốc bổ, thuốc bịnh, cô thì kêu mỗi ngày, đến độ… tôi bỗng ngượng… không muốn
bịnh thêm nữa. Chính vì vậy mà tôi gượng dậy đi ăn phở Hồng Long, phở Nhật Thụy
và mới gặp lại ông Ngô Mạnh Thu để trả nợ cho Thời Báo kẻo mợ Hà Khánh Hội lại
giận, không để dành hồng dòn cho thì thật là mất ăn.
21. Cũng một ngày như ngày hôm nay, nhưng vào Ðông, hình như nó
dài hơn, chậm hơn, lê thê hơn và đương nhiên là buồn hơn. Mùa Ðông cuối cùng.
Mùa Ðông 1975. Giá mà lúc đó có ai bảo tôi rằng… Mày sắp bị bứt lìa ra khỏi nơi
chốn này, mãi mãi và mãi mãi..Sức mấy mà tôi tin. Làm sao có chuyện đó xẩy ra
cho được. Nhiều năm sau đó, tôi vẫn khư khư mãi cái ý nghĩa đó. Chỉ là một cơn
mộng. Ðêm sẽ qua và khi ngày đến, tôi vẫn mở cánh cửa nhà tôi, căn phố số 12-14
đường Tự Do.
Tôi sẽ đi xuống nhà từ phòng tôi, bằng cái cầu thang xoáy
trôn ốc bằng sắt sơn đen. Ngay đầu cầu thang là nơi mỗi đêm tôi ngồi trong bóng
tối nói chuyện điên thoại. Quảng Trị. Hương Ðiền. Sài Gòn. Ở mỗi đầu nỗi nhớ,
có một người. Xuống hết cái thang ấy là căn phòng nhỏ tôi thường dùng để ăn
cơm. Căn phòng nhỏ lắm mà tôi vẫn cảm thấy nó mênh mông bởi tôi chỉ có một mình
bên mâm cơm… Chỉ một lần, gió tây, Ðông phong thổi qua Saigon. Bữa cơm có rau dền
luột chấm tương và hai người ngồi đối mặt nhau mà chưa dám nhìn thẳng mắt nhau.
Hình như tất cả bắt đầu vào những ngày Ðông rét mướt bên
giòng sông loang trắng ánh trăng. Ðốt hai ngọn nến, Sơn dạo một khúc nhạc và
tôi bắt đầu hát. Chai Hennessy cổ đen..chia đôi nhé..Tôi đến thành phố đó những
ngày mưa gió rét mướt để tìm cho mình một chút ấm. Ngày Ðông, đêm xuống nhanh.
Tôi từ giã. Sơn đứng trên lan can nhìn theo chiếc xe xích lô chở tôi giữa đường
phố vắng lặng, giữa hai hàng cây Sơn ngắm mỗi ngày. Hai hàng cây thắp nến để
anh nhìn thấy… Mầu nắng bây giờ trong mắt em… Mỗi khi từ giã, Sơn không bao giờ
cản, tôi không bao giờ nhìn lại. Như thế, lâu thành thói quen. Lẽ ra tôi không
nên về như thế. Lẽ ra tôi nên ở lại nhà Sơn với Thúy, Tâm, Ngân, Diệu và Trinh.
Năm cô em gái xinh đẹp, vui tươi như một bầy chim. Phải, lẽ ra tôi nên ở lại
nhưng tôi lại đi. Một mình trở về căn phòng trọ bên cạnh bờ sông.
Lữ Quán có vẻ vắng. Ai tới đây giữa ngày Ðông tháng giá. Người
receptionist có lẽ đã đi ngủ. Lobby quạnh quẽ một mình tôi ngồi đó. Ðiếu thuốc
cuối cùng cầm trên tay. Tôi không châm vì không có lửa. Những điểm sáng chợt nổi
rõ dần trong bóng tối, từ từ tiến lại gần tôi. Ánh lửa lóe lên. Hai con mắt
lóng lánh ẩn dấu một niềm vui ngời ngợi. Nụ cười thật tươi, thật rạng rỡ phô
hàm răng trắng bóng đều tắp như những hạt bắp. Mấy năm rồi không gặp, cả hai
cùng ngượng ngập, không biết phải nói gì. Những bàn tay đan vào nhau bối rối.
Làm sao dám nắm lấy tay nhau? Chỉ gặp rất tình cờ như đã tình cờ gặp hai năm
trước, chào hỏi nhau bình thường và rất… lễ độ. Thế thôi. Khuôn mặt đó có nhìn
lại mới nhớ rằng mình đã có gặp, có chuyện trò quen biết. Cái tên gọi hình như
đã nhạt trong trí nhớ tôi. Gọi nhau bằng gì bây giờ… Ông… Hơi xa lạ quá… Anh…
Hơi thân mật quá… Cấp bậc… Hơi khách sáo quá… Sau cùng hai bàn tay cũng nắm lấy
tay nhau như hai người bạn. Và anh nói trước. Cũng chỉ là một câu thăm hỏi thường
tình, tôi bỗng cảm thấy yên tâm.
Chiếc xe Jeep lùn có ăng-ten, có máy truyền tin thỉnh thoảng
lại kêu ồm ồm làm tôi giựt mình. Có phải chiếc xe này chúng tôi đã từng ngồi một
lần sau mùa mưa 72 cũng tại thành phố này. Tôi không dám hỏi nhiều bởi không hiểu
vì sao tôi bỗng cảm thấy lúng túng, tay chân như thừa thãi, chẳng biết để vào
đâu. Anh đưa Mai qua phố kiếm thuốc lá. Mai có thể mua thêm vài tờ báo hay mượn
mấy cuốn truyện mà đọc… Tôi vẫn chỉ im lặng. Cái im lặng bằng lòng. Xe chạy qua
cầu. Mưa vẫn rả rích rơi, không lớn lắm nhưng gió từ giòng sông thổi hắt lên,
mưa vỡ thành từng mảnh nước li ti bám vào mặt tôi. Xe qua cầu, dẫy phố nhỏ với
những ánh đèn điện yếu ớt hiện ra trước mắt. Cả một con phố dài nằm im dưới
mưa, tôi chợt hình dung ra cái ấm áp của một đôi vợ chồng trẻ, ấm áp ngồi bên
nhau, ấm áp kể cho nhau nghe một câu chuyện gì đó rất vui rồi cùng cười hồn
nhiên. Tôi có cái hình ảnh đó trong đầu là bởi vì tôi đang một mình, tôi đang
tưởng là hai bỗng thoắt cái, chỉ còn lại có một mình. Xe lại qua cầu trả tôi về
Lữ Quán. Anh đưa tôi đến tận cửa phòng, chờ tôi mở cửa, bước hẳn vào trong
phòng. Tôi đưa tay cho anh nắm như một lời từ giã. Cánh cửa ngăn đôi. Những bước
chân anh đang xa dần và tôi… Mưa không lớn mà nhỏ hột như vậy chắc kéo dài đến
ngày mai.
Không một tia nắng nào chiếu xuống thành phố vốn luôn luôn âm
u đó. Ðứng bên này sông nhìn qua bên kia, chẳng có gì rõ nét trong làn mưa lạnh
căm. Ôi tôi đang buồn, đang khổ, ai khiến xui tôi đưa chân đến cái chốn âm u
này. Nếu bảo là tôi chủ đích ra đây thăm Sơn, điều đó rất đúng nhưng sao tôi
không tá túc ở nhà anh. Muốn tìm đến một an ủi nơi gia đình Sơn thì cái lý phải
như thế. Sơn và gia đình có bao giờ từ chối một chỗ cho tôi dung thân đâu? Ðây
đâu phải là lần đầu tiên tôi đến nơi này. Trong căn gác nhỏ đường Nguyễn Trường
Tộ tôi đã nhiều lần tìm đến, sống rất thoải mái hồn nhiên cùng với năm cô em
gái của Sơn. Như một người em, một người chị, một người con trong gia đình luôn
luôn quây quần che chở lẫn nhau. Ai cũng sẵn sàng mở rộng vòng tay đón tôi.
Thật tình, tôi không dám. Tôi không dám hé môi về bất cứ điều
gì bởi tất cả những điều tôi làm, dưới mắt Sơn, đều là những lỗi lầm lớn. Anh
không hề nói gì nhưng tôi biết, tôi đã làm anh thất vọng nhiều vì những quyết định
sai lầm của mình. Chính tôi, tôi cũng biết là mình sai nhưng lại không thể nào
sửa chữa lại những sai lạc của mình. Tôi đã chọn một khúc sông nhiều sóng gió để
vượt qua. Nửa đường rồi, sức đã đuối quá rồi, tôi biết là tôi phải bỏ cuộc thôi
nhưng bỏ cuộc ngay giữa dòng bởi tôi không đủ sức lội tiếp hay trở lại.
Sơn và gia đình đón tôi rất thản nhiên. Không ai nhắc nhở gì
về cái sai lầm không may mắn của tôi. Mặc nhiên coi như không có chuyện gì cả,
như lần thăm viếng này là một điều như thế. Sơn vẫn im lặng đàn và tôi vẫn hát
những tình khúc mới. Mùa Ðông 1974, Sơn tập cho tôi bài “ Một Cõi Ði Về” trong
cái im lặng bình an đó, sét đã nổ trên đầu tôi, vào cái lúc tôi nhìn thấy cặp mắt
long lánh trong đêm tối, ánh lên tia vui mừng và nụ cười rất trẻ thơ. Thủy chung
Sơn vẫn không nói gì và tôi cũng vẫn im lặng.
Ðấy, cái lênh đênh cơ khổ của tôi nó bắt đầu ở thành phố đó
giữa những ngày cuối Ðông. Ôi một cuộc hội ngộ rất tình cờ lại bầy ra một thảm
cảnh mà hậu quả tôi không lường trước được. Tuy nhiên, nếu lúc đó tôi biết trước
được, có gì bảo đảm là tôi sẽ tránh né. Chắc là không bởi cho tới bây giờ, mùa
Ðông này nữa là mùa Ðông thứ 20 của lần gặp lại đó, tôi vẫn nghĩ rằng nếu bây
giờ sự việc cũ tái diễn, tôi cũng sẽ lại là tôi của 20 năm về trước. Ngưng làm
sao còn tái diễn được nữa khi âm, dương đã đôi ngã. Tôi đã phụ người mất rồi.
Tôi gọi người ấy là Ðông Phong. Ngọn gió Ðông lạnh buốt nhưng
lại làm lòng tôi ấm lại. Nếu tôi bảo rằng đó là tình yêu thứ nhất của đời tôi,
điều đó cũng đúng bởi chưa bao giờ tôi biết yêu ai như thế. Cho đến lúc gặp
Ðông Phong tôi mới biết thế nào là tình yêu. Chúng tôi đến với nhau bằng những
oan nghiệt từ cả hai phía. Ðến với nhau rất muộn màng và ngắn ngủi. Một năm
tròn, ngồi bên nhau chưa đếm đủ đầu mười đầu ngón tay. Chỉ nghe tiếng nhau, chỉ
nhìn thấy nhau trên những lá thư hoen mờ mực tím. Chúng tôi mới đúng là những
người ở hai đầu nỗi nhớ. Có lẽ vì thế mà ngay khi nghe bài hát… “Ở hai đầu nỗi
nhớ… Nguyễn Văn Tý” tôi đã thích ngay – Tôi mường tượng thấy mình đứng trong
mưa Ðông “…Ðếm mấy triệu hạt rồi mà chưa vơi nỗi nhớ…”
Tất cả đã nhốn nháo lắm rồi, nhất là ở những nơi hoang vu hẻo
lánh, những thành phố nhỏ vùng cao nguyên, nơi mà sự xuất hiện của những người
lạ mặt dễ bị nhận diện. Tôi vẫn đi. Từ Sư Ðoàn 5 chúng tôi nói với nhau. Từ Cần
Thơ, từ Mỹ Tho, chúng tôi vẫn như có ở bên nhau trong tiếng bom đạn gầm thét, dẫu
biết rằng chẳng có thể làm được gì cho nhau. Qua tiếng nói lúc được, lúc mất,
chúng tôi vui cùng vui, buồn cùng buồn. Cả hai đều cùng gầy guộc, hư hao trong
niềm tin son sắt. Rồi có một lúc nào đó…
Mùa Ðông 1974, tôi trở lại thành phố nhỏ bé đáng yêu có dòng
sông Hương thơ mộng chia hai thành phố. Tay ôm hộp bánh sinh nhật đặt mua tại
La Pagode, tôi leo lên chiếc máy nay C-130 tới Ðà Nẵng. Rời tàu, len xe Jeep,
tôi vượt đèo Hải Vân… “Xe qua đèo, em nhớ cột tóc cẩn thận kẻo gió bay…” Lá thư
màu mực tím của Ðông Phong nằm im trong túi áo lạnh, tôi cười một mình khi xe
qua đèo. Xe vào đến Huế, trời mù mịt ảm đạm xám ngoẹt và lạnh căm căm. Mưa như
trút nước, mưa tối trời, tối đất. Mưa không thấy đường đất là đâu. Xe chạy giữa
một vùng nước mênh mông, thấp thoáng xa xa lẫn trong mưa là những mái lá nhô
lên trên mặt nước, những chiếc cầu cũ kỹ long hết cả đinh, có thể đổ xụm xuống
bất cứ lúc nào cũng chìm dưới mưa, được nhận dạng từ những vòm gỗ, sắt đen ngòm
ló lên mặt nước. Xe cứ chầm chậm bò từ từ đến Mỹ Chánh.
Hai người ngồi hai đầu bàn lặng nhìn nhau. Cái bánh sinh nhật
còn nguyên vẹn. Toàn thân tôi lạnh ngắt, tôi tưởng mình biến thành người đá mất
rồi. Sau cùng, Ðông Phong ủ hai bàn tay tôi bằng hai bàn tay cũng lạnh như đá của
anh. Lúc đó, nước mắt tôi mới ứa ra và tôi khóc còn hơn mưa lũ bên ngoài. Ðông
Phong giữ chặt hai bàn tay tôi, anh không nói gì nhưng mắt anh buồn vô hạn. Anh
thương tôi. Anh thương anh. Anh thương cho hai đứa. Ðông Phong thì cứ nhìn còn
tôi thì cứ khóc, không nói được lời nào. Lâu lắm anh mới nói..Em gầy quá… Tôi
nhìn anh. Ôi, làm sao tôi quên được cái nhìn buồn bã xót xa của anh… Anh đâu có
hơn gì tôi. Tôi làm khổ anh rồi, tôi đã mang lại cho anh không phải là hạnh
phúc mà chỉ là những nỗi đau, những muộn phiền. Tổ quốc. Danh Dự. Trách Nhiệm.
Ngần ấy thứ đủ làm anh điêu đứng rồi, giờ thêm tôi, anh cũng phải gầy yếu hư
hao thôi.
Nghĩ đến Ðông Phong, nhìn thấy Ðông Phong, tôi thù ghét chiến
tranh, tôi nguyền rủa chiến tranh. Tôi không chấp nhận bất cứ lý do gì khiến
cho những người yêu thương nhau phải mất nhau, trong đó có tôi. Song tôi chẳng
làm được gì và tôi chỉ biết khóc. Thời gian gặp nhau bao giờ cũng ngắn ngủi, cả
hai chẳng nói được hết với nhau những gì muốn nói. Một hai tiếng đồng hồ ở phi
trường, rồi người lên tàu, người lên xe, mỗi người một hướng kéo dài thêm nỗi
niềm. Vài chục phút im lặng bên nhau trong nhà thờ La Vang đổ nát, bên tượng
đài Ðức Mẹ Fatima, bên mâm cơm có rau dền luộc, chỉ nhìn mà không ăn, cả hai
không thể nuốt trôi được dù chỉ một hột cơm.
Ðêm mừng chúa ra đời ở Hương Ðiền có những ai? Ai làm gì, nói
gì. Chúng tôi không biết. Tôi đứng hát, và chỉ thấy một đôi mắt đang nhìn tôi.
Giáng sinh 1974 như thế đó. Chúng tôi chưa kịp nói với nhau một điều gì đã lìa
xa, Tức khắc. Kẻ về lại thành phố tiếp nối những ngày tháng vật vờ. Người trở lại
chiến trường ngày một khốc liệt. Chiếc bánh sinh nhật được cắt ra sau lời cầu
nguyện xin được bình yên trong đêm Thiên Chúa ra đời. Nhưng hình như tất cả mọi
người đều buồn trong giây phút thiêng liêng ấy với chút bình an ngắn ngủi được
tính bằng giờ.
Chưa kịp mừng nhau chúng tôi đã lại chia tay. Nhưng không thể
ngờ được rằng đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Mở ra vào những ngày đầu
tháng 3-74. Nở giữa mùa Ðông và tàn trong mùa Ðông. 20 mùa Ðông đã qua không đủ
để xóa nhòa ký ức tang thương. Nhà tôi bảo… Em nhớ là phải. Em nhớ cũng đúng.
Chẳng phải ai cũng có một ký ức đẹp đẽ như thế đâu… Cả hai đều rất xứng đáng
cho nhau, với nhau. Anh muốn dựng lại… “Chuyện tình của em và Ðông Phong bởi
anh cũng là người biết yêu cái đẹp dù cái đẹp của em cũng là anh đôi khi… nhức
nhối đôi chút…” Và nhà tôi làm thật, anh đưa hình ảnh Ðông Phong vào cuốn video
“Một Ðời Ở Lại”. Cuộn vidéo kỷ niệm 50 năm Khánh Ly tuổi đời. 35 năm Khánh Ly
trên sân khấu và 20 năm Khánh Ly trôi nổi xứ người.
Tôi để tất cả công việc cho nhà tôi lo, với một valise nhỏ,
tôi lên đường đi đến xứ xa. Từ đó, tôi lại có dịp nhìn lại đoạn đường mình đã
đi, nơi chốn mình đang ở, những việc mình sắp làm trước khi… từ giã. Trong lòng
tôi giờ phút này rực rỡ nhất vẫn là hình ảnh Trịnh Công Sơn, hình ảnh Ðoan và
các con nhưng phảng phất đâu đó, tôi vẫn thấy một đôi mắt nào đó lóng lánh và rất
hiền, đang nhìn chúng tôi và mỉm cười. Ðôi mắt và nụ cười trẻ thơ của Ðông
Phong.
22. Sự hờ hững lạnh nhạt của người, gây cho ta những nỗi buồn bã
muộn phiền có thể sẽ phai nhạt dần cùng ngày tháng. Nhưng sự chu đáo ân cần của
người, nhất là sự chu đáo ân cần đó lại rất… im lặng, không cho thấy dấu hiệu
đòi hỏi mình phải trả lễ lại, thì điều đó làm cho chúng ta áy náy không yên. Áy
náy, ray rứt ta ngay cả trong giấc ngủ, và đến lúc mình cảm thấy xấu hổ. Tôi
thường trông mong vào những điều tử tế nhưng đồng thời tôi cũng… sợ hãi nó
luôn. Vì sự tử tế đối với tôi là những món nợ khó trả. Và phải trả cho đúng
lúc.
Các cụ ngày xưa thường dạy bảo rằng… Này, của cho không bằng
cách cho… Khổ thế cơ đấy, nhưng gẫm lại thì quả tình thật là đúng, như chưa bao
giờ đúng thế. Trong tôi, có những món nợ ân tình, giữ làm “của” chơi để mỗi lúc
nghĩ đến lại thấy thêm chút ngậm ngùi. Ngày hôm qua không phải là hôm nay, lại
càng không phải là ngày mai. Thời gian trôi nhanh, nghiệt ngã, tàn nhẫn và rất
vô tình với những đổi thay không làm sao khác hơn được. Nhưng mà ai dám trách
trời trách đất. Nó như thế từ ngàn năm trước, từ lúc loài người chưa được tạo dựng.
Ðời đưa ta đến đâu? Làm sao ta biết. Trời cho ta đến đâu? Làm
sao ta biết. Hạnh phúc hay lẻ loi. Ngày vui hay nỗi sầu cứ thản nhiên cuốn ta
đi, mặc dù lòng luôn nhủ với lòng rằng… chân đi xa, trái tim ở lại… Bởi tôi có
trong tôi những ngày tháng đẹp đẽ, tử tế. Khuôn mặt kỷ niệm ngày cũ là tất cả
những gì tôi còn giữ được trong cuộc sống mỗi ngày tôi mỗi cảm thấy ghê sợ. Ghê
sợ mà vẫn phải có mặt. Tôi thương yêu mọi người vì mọi người thương yêu tôi nhiều
lắm, nhưng tôi sợ sự sống… À mình còn sống sao… Ý nghĩ thoáng qua rất nhanh
trong đầu.
Ngạc nhiên. Không mừng rỡ. Những buổi sáng thấy mình mở mắt
và còn thở.
Tôi không dứt bỏ được tấm áo kỷ niệm. Tôi không dứt bỏ được
cái gông xiềng kỷ niệm. Không ai làm được dùm tôi điều đó. Chỉ có tôi nhưng khổ
thay đó chính là đời sống của tôi. Nó làm nên đời sống của tôi. Kỷ niệm đẹp quá
nhưng kỷ niệm cũng có nhiều mặt. Nó cho tôi hạnh phúc và xót xa. Hạnh phúc bởi
tôi đã nắm được niềm vui trong tay ở một lúc nào đó, tôi đã sống với niềm vui
đó, cũng có thể nói chính những niềm vui đó cho tôi được sống. Tại sao lại xót
xa? Bởi đã là kỷ niệm cũng có nghĩa là đã qua, đã mất cho dù những người đã
cùng tôi chia xẻ những khoảnh khắc êm ấm xưa vẫn còn đó nhưng hỡi ơi… ngày hôm
qua không phải là ngày hôm nay nữa rồi.
Tôi gắng giữ gìn những điều đẹp đẽ, tử tế ngày xưa, xem đó
như là những báu vật, lâu lâu lôi ra lau chùi nhìn ngắm. Nhưng đồng thời tôi
cũng tìm được cho mình những niềm vui nhỏ bé. Mình tìm đến thì đúng hơn, chẳng
phải để cho mình lấp đầy cái khoảng trống vắng trong tâm hồn nhưng để thấy rằng
dù gì đi nữa, vẫn có người hiểu và thương quý mình. Người mà mình có thể nói ra
hết được những điều mà có lúc mình nghĩ là nên dấu kín. Với khán thính giả, tôi
chỉ có thể nhắn gửi nỗi niềm của mình qua những bài hát, trong khi thực sự, tôi
muốn có một tình bạn sâu đậm hơn, như hai người bạn bình thường.
Tình bạn và cũng là tình chị em chung thủy nhất tôi có được từ
15 năm nay ở một người đàn bà là chị Lâu. Chị thương tôi, quý tôi ở vào cái lúc
tôi nghèo nhất. Năm đó là năm 1979. Chị thương tôi bởi những trái ngược giữa
hai cuộc sống. Chị Lâu là người đàn bà của gia đình. Chị sống căn cơ ngăn nắp.
Việc gì ra việc ấy. Giờ nào ra giờ nấy. Và người nào ra người đó. Chị không lẫn
lộn bao giờ. Gia đình của chị Lâu là một gia đình có trên, có dưới, có giáo dục
và có học. Bởi là dân học trường Pháp nên chị không đến nỗi không chấp nhận một
người có nếp sống kỳ quái như tôi.
Tôi rất gần chị Lâu. Bất cứ một vấn đề gì dù có rắc rối khó
khăn đến cỡ nào tôi cũng có thể nói thẳng, nói hết cho chị nghe. Từ chuyện chồng,
chuyện làm ăn, chuyện con cái đến chuyện chạy tiền để trả tiền nhà, tiền bill.
Chị Lâu bao giờ cũng là người đầu tiên và duy nhất để tôi tâm sự. Ngược lại, chị
cũng chẳng dấu tôi điều gì. Nhà tôi hay nhà chị. Chúng tôi đều biết rõ. Tôi biết
chị thích món ăn gì thì nhất định không thể thiếu chị lúc tôi làm món ăn đó dù
chị phải chạy mấy chục quãng đồng để đến nhà tôi. Ðến không phải vì món ăn chị thích
vì chị ăn không bao nhiêu nhưng còn để nhìn thấy nhau bình yên, nói dăm ba câu
chuyện rồi chia tay. Cũng có khi cả tháng chúng tôi không thấy nhau, không
phone cho nhau. Tuy nhiên muốn gặp, là gặp ngay. Trong lúc xa, vẫn thấy gần thì
một tuần hay một tháng chẳng có nghĩa gì. Chẳng thay đổi gì ở chúng tôi. Những
trái táo Tầu chị hái để dành cho tôi. Mấy trái măng cụt, trái na, bịch nhãn tôi
dấu diếm qua mặt quan thuế, để dành cho chị và anh Lâu gọi là có chút quà mang
mùi vị quê nhà. Lần đi Úc vừa rồi, tôi lén mang về cho chị Lâu 2 trái vú sữa.
Hú vía. Quan thuế Mỹ mà nó bắt được thì đúng là… đổ nợ. Lên nhà tôi, bao giờ chị
cũng xách cho tôi khi thì túi nho, khi thì túi đậu. Tôi cản thì chị cười… Ô,
cái bà này, tôi đâu có cho bà, tôi cho Misa và Cu ăn mà… tôi đành thua và không
cản nữa.
Tôi sống mơ mộng, không thực tế. Bừa bãi, không ngăn nắp. Ăn
uống ngủ ngáy chẳng bao giờ đúng bữa, đúng giờ. Thuốc ngủ độc hại mà uống như
ăn kẹo. Thuốc lá phun như ống khói tầu. Ðói cũng không dám ăn. Sợ mập mất cái
eo mặc áo dài không đẹp. Tôi nhịn ăn triền miên. Nấu và nhìn mọi người ăn. Thật
ra thì tôi cũng ham ăn lắm chứ, nhất là những món do chính mình nấu, bởi có
thích mới nấu. Nhưng tôi không ăn là không ăn. Tôi đâu có phải là thánh mà nhịn
đói giỏi đến như thế. Tôi xài thuốc “diet” nên chả bao giờ cảm thấy đói. Chị
Lâu gặp là cằn nhằn… Bà đâu có mập gì đâu, cứ “diet” mãi cho mà chết à… Tôi chỉ
cười. Nếu mình được chết mà hình ảnh của mình trong lòng người yêu mình còn…
tương đối được được thì đó mới đúng là mình không phụ lòng yêu của người. Tôi
chỉ nghĩ mà không dám nói ra điều đó. Bởi vì với chị Lâu, đó không phải là một
điều hợp lý.
Chính tôi, tôi cũng tự biết mình có những điều không hợp lý lắm.
Không hợp lý với người khác nhưng lại rất hợp với cái ý của mình. Tôi không thể
sống khác với cái đời tôi muốn sống. Tôi đã dâng hiến tất cả tuổi xuân của mình
cho nghiệp dĩ thì những ngày tháng ngắn ngủi còn lại, tại làm sao tôi lại phải
thay đổi. Dù trong sự dâng hiến có phần hủy diệt chính mình. Ðời tôi. Sự sống
tôi đâu còn là của tôi nữa. Nó ở trên sân khấu, ở dưới ánh đèn, trong câu hát,
tiếng đàn, trong tình bạn, tình vợ chồng, tình mẹ yêu con. Tôi yêu nghiệp dĩ của
mình như Chúa yêu Ðức Mẹ.
Tôi là người có đức tin mạnh mẽ dù không được xem là ngoan đạo
lắm (nếu không thường xuyên đi xem lễ). Chị Lâu đột nhiên xin rửa tội, trở lại
đạo và chẳng cần phải nói, ai cũng biết một người có nếp sống ngăn nắp, chừng mực
như chị thì dù không ngoan đạo hơn ai, cũng hơn tôi. Chúng tôi lại gặp nhau
thêm ở điểm cả hai đều có đức tin. Luôn luôn tin rằng tất cả mọi chuyện, mọi điều
đều có ý Chúa. Tin trong lúc vui, lúc buồn, lúc khó khăn, lúc thảnh thơi. Tin
trong giấc ngủ, tin cả lúc ăn. Tin qua tình vợ chồng. Tin qua lòng thương yêu
con cái. Chúa định sao, chúng mình vâng chịu. Nhờ có đức tin, chúng tôi sống
bình lặng và sẽ mãi mãi như thế.
Tôi đặc biệt quý mến vợ chồng anh chị Lâu bởi anh chị coi tôi
như một người em. Tôi làm phải thì nói phải. Tôi làm trái thì nói trái, không hề
vì tôi là một ca sĩ, là Khánh Ly. Tôi rất đông anh chị em nhưng lại không ở gần
ai, không được ai ưa, vì trái tính, trái nết, chẳng giống ai trong nhà, thế nên
ngoảnh đi ngoảnh lại từ mấy chục năm nay, tôi chỉ có một mình. Trơ trọi một
mình. Có lẻ vì thế mà tôi rất cần đến gần với mọi người để không cảm thấy mình
cô lẻ. Chồng con là một lẽ. Có nhiều điều mình không nói được với bất cứ ai
trong gia đình. Chỉ có bạn mà thôi. Huống gì chị Lâu coi tôi hơn cả một người bạn.
Năm 1985, tôi dành dụm được gần trăm ngàn, tôi đưa chị giữ hết.
Nếu cứ để yên như thế, tôi đã không phải có lúc mượn Elvis Phương tiền để trả
tiền nhà. Nhưng tôi lấy ra làm băng nhạc và… đi đời nhà ma công lao nước mắt.
Ðó là lần “mất tiền” thứ ba kể từ năm 1978. Chị Lâu không hề cằn nhằn, chỉ tiếc
cho tôi và hơn ai hết, chị biết rõ vì sao tôi mất tiền, vì sao cho đến bây giờ
tôi xách valise đi như con khùng mà vẫn có lúc phải mượn tiền bạn bè, mượn chị
để trả tiền nhà, để lấy băng. Dĩ nhiên chị Lâu cũng không phải là người giàu có
dư tiề, dư bạc mà cho chúng tôi mượn. Tiền này tôi gọi là “tiền nóng”, mượn tạm
dăm ba bữa, một hai tuần thôi. Chuyện này nói ra ai mà tin. Nhưng tin cũng tốt
không tin cũng chẳng sao.
Cái điều chị không bằng lòng nhất ở tôi là thuốc ngủ, sau cái
khoản “đai-ét”. Nhưng chị phải thua vì tôi là loại… thiết đầu đà. Ðầu bằng sắt,
bằng đá cho nên không có thể lay chuyển được. Cũng có thể đôi lúc chị thấy tôi
có lý. Ca sĩ. Muốn trở thành ca sĩ ngày xưa là điều khó nhưng bây giờ thì quá dễ.
Song có được lâu dài hay không, lại là chuyện khác. Tôi không được quyền… mập.
Không được quyền thiếu ngủ trước khi hát..Tôi không được quyền nói rằng… hôm
nay tôi đau bụng, hôm nay tôi thiếu ngủ, hôm nay tôi lỡ… ăn nhiều quá.. v.v. và
v.v… Người ca sĩ khi lên sân khấu để hát ví như mũi tên đã lắp vào cung, đã
dương lên rồi. Mũi tên phải bung đi. Như hai người lính trên trận địa. Phải bắn
mà thôi. Như hai người yêu nhau. Phải có nhau mới được. Như hai người ghét
nhau. Phải bỏ nhau cho được. Tất cả ở vào cái thế… phải… như thế. Không thể
khác được.
Ðiều thứ hai, chị Lâu ưa..phàn nàn cho tôi… Ðáng lẽ ra “bà”
phải sướng mới là đúng..Thôi chị à, em được như thế này, được đến ngày nay,
cũng là sướng quá rồi, hạnh phúc lắm rồi, chứ sướng hơn nữa, chị không sợ
em..hóa rồ à… Hiền lành, chơn chất như bà Lâu thì làm sao nói lại “cái mỏ” tôi.
Chị lại chỉ biết lắc đầu cười. 15 năm hai gia đình quen biết nhau chưa bao giờ
có một điều gì không vui xãy ra. Cần phải gặp nhau thì gặp. Cũng có khi cả
tháng không phôn phiếc gì cả, chúng tôi đã quen tính nết của nhau nên xếp nó
vào loại… tự nhiên.
Chẳng riêng gì tôi quý chị mà tất cả bạn tôi cũng đều quý chị.
Linh mục Nam Hải cứ mỗi mùa cà, đều gửi cho tôi và luôn luôn Cha kèm theo một
câu… nhờ Mai Ðoan chia lại cho anh chị Lâu… Ngược lại, chị Lâu và các bạn tôi
cũng không bao giờ quên gửi thiệp Giáng Sinh và Tết Nguyên Ðán đến cha. Ðoan
còn thân ái tặng chị danh hiệu… “Bà Tùng Long” vì bất cứ ai có việc gì nan giải,
khó khăn, đều gọi đến nhờ chị… gỡ dùm. Từ lúc chúng tôi được biết Bà Tùng Long
là Thân Mẫu của ông Nguyễn Ðức Lập, tụi tui không dám nữa vì sợ ông rầy rà sao
dám mang tên của Thân Mẫu ông đặt cho người khác, nhưng dù thế chị Lâu vẫn tiếp
tục công việc… gỡ dùm người khác mặc dù trong thâm tâm, tôi hiểu ai cũng có những
vấn đề cần phải… gỡ, kể cả chị Lâu, thế mà tôi chẳng nghe chị thở than bao giờ.
Chị Lâu không giầu, không làm… “bi-di-nét”, không nổi tiếng
như ca sĩ, không lộng lẫy như hoa hậu để tôi phải khen ngợi ké chút hơi, kiếm
chút cháo. Nhưng bởi chị Lâu là người đầu tiên tôi nghĩ đến, dĩ nhiên là sau chồng
tôi và các con tôi, khi năm cũ vừa qua, năm mới vừa tới. Nghĩ đến chị ở một nơi
rất xa khi khi chạnh nhớ đến quãng đời chìm nổi của mình từ 20 năm qua. Tự
nhiên tôi cảm thấy lòng mình ấm lại. Tàu vẫn lao vào trong đêm tối đang vây phủ
vạn vật, tôi cười một mình và nước mắt ứa ra.
Trên đường đến Ba Lan.
23. Ngày xửa ngày xưa, có lẽ từ thời vua Hùng Vương hay trước đó
nữa. Tôi nghĩ cái chữ mà người Việt ta hay dùng nhất là… nhà tôi. Thật dễ hiểu
vì nhà là chỗ để ở và ai cũng có, cũng phải có. Giầu thì vi-la, biệt thự. Trung
trung thì nhà hai ba từng lầu. Kém hơn chút thì nhà trệt (tôi không hiểu vì sao
gọi là nhà trệt). Một mái che ở dưới chân tường cũng gọi là nhà. Thành thị đã
thế mái tranh vách lá. Ngay cả hang động, nơi trú ngụ của con người thời tiền sử.
Nhà anh hoặc nhà chị ở đâu? Mời anh hoặc chị ghé lại nhà tôi
chơi. Tôi ít nghe ai nói về… cái biệt thự của tôi hay cái chòi của tôi, ngoại
trừ bạn bè thân. Thường hay vẫn cứ là… cái nhà. Và người dân sống trong một đất
nước chiến tranh triền miên không biết mệt thì ở bất cứ nơi nào họ dừng chân,
dù là giữa rừng, trên núi, ven biển, cũng vẫn gọi là nơi trú chân, là nhà. Miễn
là ở đó khói lửa, đạn pháo không ghé qua chơi hoặc là bỏ quên càng tốt. Có nhiều
người cả đời gần như long đong vất vả chạy và chạy hết nơi này đến nơi khác mà
vẫn chẳng có lấy một mái lá che thân vì súng đạn chưa bao giờ biết mệt cứ đuổi
mãi sau lưng.
Trong lòng Saigon, thành phố về đêm lúc nào cũng choáng ngợp
ánh sáng, tiếng nhạc và những trận cười thâu đêm, vẫn có những căn nhà vá víu bằng
tôn, ván ép các-tông nằm chênh vênh men theo sông, các bờ kênh lạch nhỏ. Chiều
chiều khi nước rút đi còn trơ lại những thân cây khẳng khiu chống đỡ cái nhà
sàn trên mặt bùn đen đặc quánh. Trong những biệt thự, những căn nhà ba bốn từng,
người ta phải dùng đến máy lạnh hoặc ít ra phải là quạt máy, quạt đặt bàn hay
quạt trần đã được xài thời Tây bởi nhà gạch hay nhà tôn thì cái nóng Saigon
cũng chẳng phân chia giai cấp.
Thế cho nên ở nhà sàn cho dù có tồi tàn dưới mắt những người
giàu có, vẫn có quyền hưởng luồng gió mát của thiên nhiên. Mát lắm, mát đến lạnh
cả người. Tôi đã ở đó cái thuở hàn vi nên tôi rõ hơn ai hết và có lúc thương những
người sống chen chúc, chật hẹp trong những bức tường dày bưng bít, ngột ngạt.
Lúc đó, tôi cũng gọi nơi tôi ở, một căn buồng nhỏ xíu, vuông vức, nấu nướng
trong nhà, ngay cạnh cái cầu tiêu chung, là nhà tôi.
Trước đó, tôi ở với bà nội trong một ngôi nhà rộng rãi ngõ 20
đường Phan Thanh Giản. Hai bà cháu ở trên lầu, dưới nhà cho thuê. Bếp và buồng
tắm cạnh nhau. Bà tôi thường nấu cao Hổ Cốt, cao Ban Long và xà bông bán cho những
người quen và cả người quanh xóm. Buồng tắm không có bồn tắm, không có bông
sen, nền xi măng có mở lỗ thoát nước, một lu nước lạnh lúc nào cũng đầy, bốn
vách và cửa được chấp vá bằng những miếng gỗ, ván ép đầu thừa đuôi thẹo. Nhà
không có máy lạnh. Chiếc quạt máy duy nhất chỉ thỉnh thoảng mới mở. Tôi ngủ dưới
chân giường của bà trong tiếng kinh đều đều mỗi đêm. Bây giờ căn nhà đó đã bán
lại cho người thuê cũ. Tôi yêu căn nhà đó vô cùng. Dù sau này tôi ở trong những
căn nhà đầy đủ tiện nghi hơn.
Đó là nói về nhà. Nhà của mọi người và của tôi. Qua một Đại
Dương, chữ… nhà được phân chia và xài cho nhiều người, nhiều giới khác nhau.
Trước hết là… Nhà Thờ và Nhà Chùa. Hai nhà này trong trại tỵ nạn vẫn là những
nơi bất khả xâm phạm và được nhiều người thăm viếng nhất. Giới chức cao cấp ở đảo,
Cao Uỷ hay gì gì đi nữa cũng không dám hó hé bởi đụng tới tôn giáo là điều cấm
kỵ. Giữa trại tỵ nạn, nơi thiếu thốn đủ mọi thứ, Nhà Thờ, Nhà Chùa được các
giáo dân, phật tử góp công sức dựng lên. Dĩ nhiên là cũng rất sơ sài. Cây trên
núi cứ việc chặt xuống, cũng ván ép, gỗ thừa, tôn móp méo, với niềm tin sắt son
với Đạo. Dân chúng vẫn có nơi cầu nguyện, thờ cúng. Nếu ở trại tỵ nạn cái gì
cũng thiếu thì Nhà Thờ và Nhà Chùa là nơi duy nhất cho mọi người niềm tin, hy vọng
và tình thương.
Thứ hai đến Nhà Binh (tôi cũng không hiểu vì sao gọi Nhà
Binh). Nhà Binh đây tức là các quân nhân thuộc mọi binh chủng của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hoà. Ai thuộc Nhà Binh coi như được ưu tiên định cư tại các quốc gia
khác. Với điều kiện là phải khai đúng ngành, chức vụ của đơn vị gốc. Thí dụ
Trung Úy thì cứ khai là Trung Úy, chứ nếu khai là Trung Tá thì có hơi kẹt bởi
“ông người Mỹ” có đầy đủ hồ sơ của Quân Đội Việt Nam. Chỉ cần bấm nút là ra
ngay. Những sĩ quan vượt biên sau khi học tập cải tạo, dù chẳng được hưởng quy
chế đặc biệt gì trên đảo ngoại trừ cái vụ ưu tiên đi các nước thứ ba, rất được
dân chúng trên đảo chào đón, kính nể và hay bầu những người này làm trưởng trại
để đối phó với đám “cai tù” cũng dã man không kém hải tặc, trong trại.
Cạnh Nhà Binh có Nhà Giáo. “Nhà” này thì chẳng được ưu tiên
gì, coi như cũng “phó thường dân” như mọi người. Nhưng được cái người có ăn có
học bao giờ cũng hơn, nhất là Nhà Giáo Việt Nam. Đạo mạo. Từ tốn. Tư cách. Trật
tự. Đâu ra đó, khỏi lộn xộn. Dù không “Oai như Nhà Binh” nhưng nghiêm túc trong
mọi vấn đề. Và tấm lòng, lương tâm Nhà Giáo rất gần với Nhà Tu. Bà con trên đảo
cũng quý trọng vô cùng. Khi có việc cần ăn nói, nếu không muốn khuấy động đến
các Linh Mục và các Thầy, thì còn ai hơn nữa.
Nhiều chuyến vượt biên, đi chung với Nhà Binh, Nhà Giáo là
Nhà Báo. Ấy cái “Nhà” này có phần hơi rắc rối đây. Nhà báo cũng được dân tỵ nạn
thập phần quý trọng vì các ngài là tiếng nói của mọi người. Nhờ các ngài mà những
người Việt ở đất liền thông suốt được mọi sự việc cũng như nguyện vọng của người
tỵ nạn chưa biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu. Không có một quy chế nào dành
riêng cho các Nhà Báo dù tiếng nói của Báo Chí được gọi là Đệ Tứ Quyền, nghĩa
là lớn lắm, oai lắm. Một bài báo có thể làm tan vỡ… nhiều gia đình. Một bài báo
có thể đưa người này lên, người kia xuống. Một bài báo, ghê gớm hơn nữa là có
thể đưa một ông Tổng Thống Mỹ… đi chơi mát. Thế cho nên dưới mắt những người
dân khốn khổ ở… khắp mọi nơi chứ không riêng gì ở đảo tỵ nạn, ông Nhà Báo rất
là uy quyền.
Nếu Nhà Báo có đôi khi làm người ta ké né thì nhà… Văn lại được
mọi người thương. Hồi ở nhà, tôi quen miệng gọi chung là Nhà Văn, không phân biệt
nam nữ gì với tôi, điều đó không cần thiết bằng những gì viết ra. Nhà Văn là giới
phong lưu nức tiếng. Bốn món ăn chơi chẳng món nào họ không từng thử qua một lần
cho biết. Nhà Văn Việt Nam dĩ nhiên không thể so sánh với Nhà Văn ngọai quốc về
đời sống vật chất bởi người Việt ta cho đến bây giờ vẫn không mấy người trọng vọng
những giá trị tinh thần. Tuy vậy Nhà Văn Việt Nam vẫn sống hùng sống mạnh viết
hăng.
Có một điều tôi thắc mắc là không biết vì sao gọi là Nhà Văn
nữ. Tôi không thích cái chữ đó. Nếu tác giả tên là Nguyễn thị… cái này, Nguyễn
thị … cái kia thì nhất định họ là đàn bà. Mà nếu đã chia ra nam nữ như vậy thì
phải thêm Nhà Văn nam mới cân bằng. Hoặc giả cho đến bây giờ nữ vẫn thua nam dù
là trong văn giới sự đóng góp của đàn bà có phần hơi trội hơn phía đàn ông, cả
về phẩm lẫn lượng (ngoại trừ một vài Nhà Văn nam rất ăn khách bây giờ như Hồ
Trường An, Trần Vũ, Kiệt Tấn, Nguyễn Đức Lập, …). Tôi không biết ai chia nam nữ
như thế, tuy nhiên tôi xin lỗi bởi đây chỉ là ý kiến của riêng tôi thôi. Thế
nhưng nếu tôi nhớ… không lầm thì ngày xưa mọi người gọi người đàn bà viết văn
là… Nữ Văn Sĩ, để phân biệt. Đôi khi các ông viết truyện nhưng lại ký tên đàn
bà. Có lẽ vì tên của một người đàn bà… đẹp hơn chăng? Và đàn bà dễ được sự chú
ý chăng?
Có nhiều câu hỏi mà không bao giờ cần sự giải đáp.Tôi thích đọc
sách của đàn bà viết hơn đàn ông, ngoại trừ mấy ông Nhà Văn nam kể trên. Đã có
Nữ Văn Sĩ phải có Nhà Thơ Nữ mà cũng ngày xưa gọi là Nữ Thi Sĩ hay gọn hơn là Nữ
Sĩ. Thơ thì tự nhiên đã hay rồi. Nhưng nếu nói về thơ, tôi thích thơ của các
Thi Sĩ Nam hơn. Chẳng hiểu tại sao. Không phải nói nịnh hay vì quen biết mà dựa
hơi. Tôi thích thơ ông Mai Thảo, ông Du Tử Lê như tôi đã thích Nguyễn Bính,
Xuân Diệu, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Thanh Tâm Huyền. Về phía đàn bà, tôi thích
thơ Trần Mộng Tú và một bài thơ của Nhã Ca làm cách đây mấy chục năm rồi, trong
bài thơ đó, tôi ưa nhất câu: “Cơm Áo Dậy Đời Ăn Lơ Nói Láo”. Đó là câu nói thật
thà nhất. Và tôi yêu những gì thật thà.
Trên đường Hai Bà Trưng có một căn nhà rất nổi tiếng. Đó là
Nhà Hòm Tobia. Nhà Hòm thì dĩ nhiên chỉ có bán áo quan nhưng Nhà Hòm Tobia chẳng
phải ai chết cũng được một cái hòm ở nhà này. Chỉ có những người giàu có mới đủ
tiền mua hòm tại đó và bên cạnh là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cũng là nơi yên nghỉ
của những người có tiền. Có Nhà Hòm thì phải có Nhà Quàn. Ở Việt Nam thường thì
chết được quàn ngay tại nhà. Mỹ sang hơn, tốn tiền hơn là người chết được những
giờ phút cuối cùng tại… Nhà Quàn, được trang điểm kỹ lưỡng để mọi người thấy mặt
lần cuối trước khi vùi sâu trong lòng đất.
Nhà Hàng ở đây thì quá nhiều. Đếm không hết. Đồ ngon không cần
thiết. Cứ nơi nào bán đồ ăn thì gọi đó là Nhà Hàng cho tiện. Lại còn mọc thêm
những nhà mới là Nhà Sản Xuất mà nhiều nhất là sản xuất băng nhạc, dù băng thật
hay băng giả cũng gọi thế cho sang. Đã có Nhà Sản Xuất băng nhạc, người ta chế
thêm Nhà Phát Hành. Nhà này thật ra có từ Việt Nam mà một trong những tay cự
phách trong ngành này là ông Tỷ Phú Thành chúng tôi thường gọi là Thành Hiện Đại.
Riêng cái nhà này, tôi thấy chữ Cơ Sở Phát Hành có vẻ lớn và hay hơn. Tôi lại
còn nghe ở đây có Nhà Chơi Hụi, chỉ người chuyên môn đứng ra dựng những hụi lớn,
hụi nhỏ. Nhà này có phần nguy hiểm vì có khi tiền mất tật mang mà có… Đáo tụng
đình thì ông Toà sẽ phán rằng “Nhà” này không hợp pháp, không có môn bài. Mỹ
không có Nhà này nên chẳng biết xử ra làm sao.
Khi ghét nhau, người ta dại mồm chê bai… Đồ cái Nhà Quê. Chửi
tình địch của mình, các bà Bắc Kỳ hay vén váy lên… cái đồ Nhà Thổ. Ngụ ý mỉa
mai những người lắm mồm hay ngồi lê mách lẻo, cũng nặng nề lắm… Mồm như cái Nhà
Chồ. Thời Tây còn ngự trị xứ ta, nơi bắt giữ những cô gái không may lạc bước chốn
giang hồ là… Nhà Lục Xì (cái này tôi cũng không biết từ đâu mà có).
Năm 75, lúc còn ở trại tỵ nạn Fort Chaffee tiểu bang
Arkansas, tôi nghe các đấng đàn ông con trai ở cùng Barrack thường thầm thì… ở
đó có… Nhà Chứa. Tôi biết đó là nhà gì, chỉ hơi ngạc nhiên vì sao mà sớm thế và
hai chữ Nhà Chứa nghe không mấy thanh tao. Người Tàu gọi Lầu Xanh, Lầu Hồng
nghe tao nhã văn vẻ biết bao. Và còn một “Nhà” nữa. Cái “Nhà” này rất quan trọng,
ai cũng cần. Từ Vua chí dân, từ đẹp tới xấu, từ giàu tới nghèo, từ già chí trẻ.
Không ai mà không cần. Không có nó là không xong dù nó xấu xí hôi hám. Đó là…
Nhà Cầu. Cái Nhà này ly kỳ ở chỗ cùng một công dụng nhưng được gọi nhiều tên.
Người Bắc gọi là Nhà Chồ, Nhà Xí, Nhà ỉa nam, Nhà ỉa nữ. Người Nam gọi đẹp hơn…
Nhà Cầu hay Cầu Tiêu. Tây Ta gọi tắt là WC. Mỹ văn minh hơn gọi là… Phòng nghỉ
Restroom.
Thật ra còn nhiều thứ Nhà lắm nhưng ông Chủ Nhiệm Thời Báo
năm nay khó hơn năm ngoái, không cho phép tôi dành sân lấn đất. Đành phải ngưng
tại đây. Nếu có dịp, tôi sẽ trở lại vấn đề này với sự… nhắc tuồng của quý độc
giả. Có thể là số sai. Cuối cùng, nếu trong bài này có một vài điều không đẹp lắm
dù đó là sự thật. Xin quý vị bỏ lỗi cho.
24. Thầy Trầm Tử Thiêng ưa nhắc tuồng cho tôi nhưng ngàn lần như
một, thầy vừa quay lưng là tôi quên mất tiêu. Thầy này chữ nghĩa, điển tích rất
nhiều nhưng lại quá ham chơi. Người ta thường nói trẻ mới ham chơi, có ai ngờ
già còn ham chơi (đây là tôi nói riêng về ông thầy này). Thì ông là nhà Giáo mà
lỵ. Nhà Giáo mà chơi bời quá mạng thì còn dạy được ai bây giờ. Có lẽ thế mà
ông… nhịn thèm. Mà cũng đáng tội, nói không phải nói chứ bạn bè của ông, chơi với
ông, chẳng có đến một nửa bóng hồng nào chen vào. Nó cứ khô không khô khốc như…
ông mới chết chứ.
Thế là các nhà khác chơi thả ga trừ Nhà Giáo và Nhà Tu (yêu cầu
nhà báo đánh cẩn thận kẻo nhà tu hoá ra Nhà Tù thì có lội đến 85 con sông cũng
không hết tội đấy nhé.) Nhà tù ở Việt Nam là chỗ ít ai ưa, ít ai thích đến
chơi. Ăn cướp, giết người, hiếp dâm, giật hụi, buôn thuốc phiện, ma túy thường
hay chọn nơi này… làm quê hương. Tù ở Việt Nam là thập phần khổ chứ không như ở
Mỹ, được vợ vào thăm nom, được gặp gỡ trong phòng riêng và được ở lại. Ôi đi tù
ăn cơm có người lo, nhà không phải trả tiền mà vẫn enjoy đều chi, hoá nên có
người thích ra lại muốn vào. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại coi bộ mất
linh rồi đó.
Phó thường dân thì chẳng ai muốn vào nhà này chơi, nhưng các
nhà chính trị lại không chê. Người đi làm chuyện Chính trị, tôi gọi là Chính trị
gia, nhưng có người kêu là Nhà chính trị này, Nhà chính trị kia. Chính trị là
gì, chính khách là sao? Tôi không biết nhưng cái nghề này hình như dễ đưa đến
Nhà Tù mà càng đến Nhà Tù, tên tuổi càng sáng chói, sự nghiệp có đường đi lên.
Vậy thì làm Chính trị cũng sướng, chả trách nhiều người ham, dù cái nghề này
cũng rất dễ đưa đến… Nhà quàn.
Trước khi được hân hạnh đưa đến Nhà Quàn, người ta phải ghé
thăm viếng Nhà Thương. Ghen tuông, nhậu nhẹt đã rồi lái xe. Giựt tiền, giựt
đào, giựt kép. Tranh luận chính trị, văn nghệ, kẻ ưa người ghét, kẻ chê, người
khen. Thế là rủ nhau vào Nhà Thương. Bơm vú, bơm tay, hút mỡ bụng, mỡ đùi. Nhà
Thương. Cắt. Cột. Nhà Thương. Đẻ, phá thai cũng Nhà Thương. Đái không được. Ỉa
không ra cũng Nhà Thương. Rồi ét, lậu, tiêm la, cùi đinh thiên pháo, cũng chi mộ
đường mà thôi. Ngày trước ở đường Hồ Xuân Hương có Nhà Thương Bạc Hà chuyên trị
những bịnh vừa kể. Cái vô duyên là ngay con đường mang tên một nhà thơ nữ quá nổi
tiếng cho cái nhà thương đó.
Nhà Thương chữa bịnh riêng. Nhà Thương điên lại khác. Nơi này
dành cho những người tâm trí rất ngây thơ, trong sáng (điên thì còn biết gì nữa
cho nên với tôi, đây là những người dễ thương nhất). Hai Nhà Thương điên mà tôi
biết được là Nhà Thương Chợ Quán và Nhà Thương Biên Hoà. Tôi ở rất gần Nhà
Thương Chợ Quán nên được tiếng… dễ thương cũng không lạ gì. Ở Mỹ, lịch sự hơn.
Không ai gọi người điên là…điên. Những người bị bệnh tâm thần, những người
không bình thường, những người thần kinh yếu. Và được chữa trị đàng hoàng hơn ở
Việt Nam. Chỉ có một điều tôi rất lấy làm khó chịu là có rất nhiều người mang tội
giết người, giết rất dã man rồi khai là người đó giống Việt Cộng. Quan toà xử
đã đời, tuyên bố thủ phạm có thể bị mắc bệnh tâm thần. Đưa vào bệnh viện chữa
trị khoảng 1, 2 năm bèn được tự do như chưa hề bao giờ hạ sát một người nào. Vậy
thì Điên ở xứ này cũng là một điều không phải là dở.
Khoảng năm 74. không hiểu xuất xứ bởi ai hai chữ Nhà Táng mà
lại đi đôi với hai chữ Minh Tinh. Minh Tinh Nhà Táng (hình như tôi nghe mợ Ngọc
Minh nói đầu tiên). Tôi hoàn toàn không hiểu ý nghĩa những từ này, hỏi mợ Minh,
mợ Minh chỉ cười ruồi. Vì có loáng thoáng dính tới Minh Tinh nên muốn hiểu rõ,
tôi bèn đi tìm mấy Nhà Đạo Diễn hỏi cho ra lẽ thì mấy bố cũng lắc đầu, do đó
cho đến bây giờ 20 năm rồi, Minh Tinh Nhà Táng là cái gì, tôi vẫn không biết.
Có ai biết, xin cho hay.
Tôi đang gõ lóc cóc thì ông nội Cò Dzu bước vào, người đi theo
điệu Tango. Thầy nhắc tôi một tỉ Nhà. Như Nhà Tù còn gọi là Nhà Lao, Nhà Giam.
Nhà Chứa, Nhà Thổ còn gọi là Nhà Săm (lấy từ chữ Chambre của Tây. Hải nhắc Nhà
Hút. Ông Cò báo Động Hút thì có chứ Nhà Hút thì chưa. Nhà Chứa Bạc hay ở gần
Nhà Chứa và Nhà Hút. 3 Nhà này oái oăm thay hay ở gần Nhà Chức Trách mà cái Nhà
Thổ Tả này hay để ý dòm hành, dòm tỏi 3 Nhà trên, gây nên nhiều cảnh cười đau
khóc hận. Tôi gọi Nhà Thổ Tả cũng không oan uổng gì vì tôi vốn không ưa cái nghề
cầm dùi cui gõ đầu, còng tay người, không cần oan hay ưng. Ôi Nhà Chức Trách,
các ông làm gì người dân thấp cổ bé miệng trong thời các ông vừa có Chức vừa có
Trách Nhiệm còng tay người khác. Chỉ có hai ông Cò tôi được biết, suốt trong những
năm tháng làm Cò, chưa hề còng tay ai mà ngược lại, chỉ bị đàn bà con gái… còng
cả tay lẫn đầu. Đó là ông Cò Dzu và ông Cò Ly.
Từ ngày trôi dạt qua đây, đàn ông cũng như đàn bà, mắc nhiều
bệnh lạ. Không phải đau đầu, sổ mũi, trúng gió mà là những bệnh nằm trong đầu,
không hề gây đau đớn thân xác. Bèn tìm đến các Nhà Tâm Lý học để phân trần phải
quấy, mong những lời khuyên ở vị bác sĩ chuyên môn. Đây là một nghề hái ra bạc
vì bệnh nhân ngày một nhiều bởi nhiều lý do, kể cả lý do rất lẩm cẩm, đôi khi
khó nói vì nó thuộc phạm vi phòng the. Ngày xưa, vợ chồng có chuyện gì bất hoà,
ráng mà giải quyết cho xong, cùng lắm là đưa nhau đến trước mặt bố mẹ hai bên
cùng phân xử. Chẳng đặng đừng thì đưa vấn đề ra Toà Hoà Giải trên đường Nguyễn
Huệ. Không xong nữa thì nhà ai nấy ở.
Giờ cha mẹ họ hàng hai bên ở quá xa. Bạn bè nói ra thì ngại
mà cũng chẳng đi đến cái thế giới nào, phần thì nhập gia tùy… thủ tục. Ai sao
mình vậy. Mang nhau đến phòng mạch các bác sĩ chuyên về tâm lý gọi là các Nhà
Tâm Lý Học để hai bên cùng điều trần sự việc. Đôi khi kết quả tốt. Thường là với
những đứa nhỏ bố mẹ xem là bất trị, nói không nổi, hiểu không nổi mà hỏi thì nó
không nói vì tụi nhỏ luôn luôn cho rằng bố mẹ không hiểu nổi những điều chúng
nó suy nghĩ. Giải quyết con xong rồi đến vợ chồng. Tốn tiền lắm chứ chẳng chơi,
nhưng tốn mấy cũng phải chịu, chỉ mong đừng tiền mất mà tật vẫn còn nguyên.
Nhà May ở đây có 2 nhà nổi tiếng là Trang và Thiết Lập Bolsa.
Tôi chỉ biết hai Nhà này là vì tôi may áo ở đấy, chứ chắc còn nhiều nữa. Nhà
chuyên môn cho thuê quần áo cưới số một ở quận Cam là Nhật Thuỵ, còn gọi là Nhà
Áo Cưới. Các đấng đàn ông độc thân dài hạn thích thăm thú Nhà Tắm Hơi đầy dẫy ở
San Francisco. Ở đây thì dưới dạng Nhà Châm Cứu, vào đó tha hồ châm, châm mệt
nghỉ, chờ khoẻ, châm tiếp.
Có một số Nhà đi trước một cách không cần thiết. Thí dụ Nhà
Nghệ Sĩ, Nhà Ký Giả, Nhà Kiến Trúc, Nhà Nhiếp Ảnh,… Những “Nhà” này có lẽ tăng
thêm giá trị của nghề nghiệp song hơi nặng nề. Hai chữ Nghệ Sĩ là đủ rồi. Kiến
Trúc Sư, Nhiếp Ảnh Gia, Chính Trị Gia… Tôi vẫn thấy hay hơn. Còn lại một số Nhà
như Nhà Băng thì mình chịu vì nó như thể từ thuở nào, nó lại là chủ nợ của mình
nữa. Nhà Cầm Đồ cũng quan trọng không kém, gặp lúc gạo châu củi quế, kẹt tiền,
vơ vét trong nhà còn cái quần, cái áo lành lặn mang tới Nhà Cầm Đồ, cũng có được
một bữa ăn. Thật ra lúc trước nó được gọi là “tiệm”, nhưng sau này, có lẽ thấy
được tầm quan trọng của nó, mọi người mới thân ái nâng nó lên thành Nhà cho có
vẻ bề thế.
Nhưng dù Nhà hay không Nhà, tất cả đều có liên quan ít nhiều
đến đời sống của chúng ta. Số trước có nhắc đến Nhà Cầu vậy phải có thêm Nhà Tắm
và Nhà Bếp mới đủ cho nhu cầu của chúng ta dù Nhà, cái Nhà mà chúng ta còn là của
Nhà Băng, nó làm tôi nhớ đến những câu hát thời còn nhỏ… “cái nhà là nhà của
ta. Công khó ông cha lập ra. Cháu con phải giữ gìn lấy…” Dạ thưa, chúng tôi dù ở
đâu cũng muốn gìn giữ cái Nhà của mình, nhưng để đủ sức hay không, cái đó còn
phải hỏi lại ông Clinton. Chắc ăn hơn là hỏi bà Hillary.
25. Chúng tôi đã cùng nhau sum họp dưới một mái nhà trong mùa lễ
Tạ Ơn. Ðây là lần thứ nhất kể từ năm 75. Một không khí hoàn toàn gia đình. Rất
bình yên và hạnh phúc. Tôi cảm thấy điều đó thật rõ ràng trong tiếng cười thoải
mái của các con cháu, trên những khuôn mặt giãn ra nhẹ nhõm không in hằn dấu vết
của lo âu. Có những đời sống khác đang rất mạnh mẽ vươn lên bên cạnh đời sống của
tôi. Những búp măng xinh đẹp và khỏe mạnh.
Chẳng cần phải đợi tới mùa lễ Tạ Ơn tôi mới dâng lời cầu nguyện
cảm tạ Thượng Ðế đã cho chúng tôi một đời sống đã có và những sự sống tiếp nối.
Mỗi đêm, trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi tạ ơn Chúa đã cho tôi một ngày bình
an và lương thực dùng đủ. Lời cảm ơn của tôi cũng giản dị như thức ăn, nước uống
trong ngày. Sự giản dị bao giờ cũng đẹp.
Con gái chúng tôi cũng có một đời sống và những ý niệm về đời
sống thật bình dị. Dù tuổi đời không bao nhiêu, nó đã sớm nhìn ra những phức tạp,
phiền toái của đời sống nhiều tham vọng. Không, cuộc đời không có bao nhiêu, tại
sao có người phải tự thiêu hủy đi niềm vui, hạnh phúc của mình vì những tham vọng.
Cả hai đứa con gái đều mơ ước một đời sống bình thường, và có lẽ như vậy, cả
hai quấn quít tôi hơn.
… Mẹ ơi, người mẹ bây giờ nó có “co” lại rồi đó… Không phải
đâu con, tại bây giờ con lớn hơn nên con thấy mẹ nhỏ lại đó thôi… Misa, rửa
chén đi. Sao để mẹ làm vậy. Thôi, mẹ để con làm cho… Không sao đâu con, có vài
cái chén, tiện tay mẹ làm luôn cho rồi… Ba mẹ con cuộn lấy nhau. Cùng nói. Cùng
nghe. Cùng cười. Cùng ăn vào lúc 7 giờ sáng. Con gái tôi đã lớn. Trái tim và
cái nhìn cũng lớn rộng hơn. Có nhiều điều, tôi không cần phải cắt nghĩa nữa. Tôi
đã không phải làm điều tôi không thích.
Kathy Huệ cười, bảo… Ðầu chị cứng thấy mồ. Chị muốn gật thì gật
chứ ai mà bắt được… Em cũng thế. Tưởng gì. Các mợ thì thế cả. Chả có mợ nào… hiền.
Biết điều thì có, hiền thì không. Ai được diễm phúc làm chồng mấy mợ nầy, chắc
chắn phải là người có võ, có học gồng vì dù không ngắt, không nhéo, không đấm
đá, chỉ nói thôi cũng đủ… trầy da, tróc vẩy rồi. Nhưng mà hoa thơm thường hay
có gai, ai cũng biết nhưng chẳng ai tránh khỏi chảy máu, đó là chưa kể đến những
người xin được tình nguyện chảy máu.
Kể ra, làm đàn bà cũng… đã thật đấy chứ. Vừa được ăn, được
nói, lại được gói mang về. Trong gia đình, ngoài xã hội, phần thắng bao giờ
cũng nằm trong tay… phe ta. Chuyện kể rằng… Có một bà nọ, không hiểu vì sao tự
dưng nhảy tới đánh một ông kia rồi la bài hãi lên rằng… nó làm hỗn nơi ngực bà.
Không cần biết ất giáp, đinh thìn gì cả, cảnh sát thộp cổ ông kia về bót sau đó
đưa ra tòa. Oan hay ưng, tính sau. Thà bắt lầm còn hơn tha lầm. Ấy, cớm ở đây học
một sách, một trường với Tào Tháo, có thua gì đâu.
Các mợ nghe tôi ví, nhao nhao lên phản đối… Ôi, đó là chuyện
kể, chuyện bịa của mấy người dư thì giờ, ác miệng chứ đâu phải chuyện thật. Mà
cho dù có đi chăng nữa thì mình cũng chỉ sử dụng… đòn đó với người ngoại quốc
thôi, ai lại làm thế với đồng hương của mình. Ác chết đi được… Ác chứ. Ác đứt
đuôi đi ấy chứ, nhưng vẫn có người làm. Có lẽ vì họ cho là đàn bà nói, ai cũng
phải tin… Nói vậy là chị binh các ông à?… Không phải là binh. Không binh ai mà
cũng không bỏ ai. Cái gì cũng phải công bằng mới được. Ðời sống phải được xây dựng
trên sự công bằng.
Câu chuyện xoay quanh đề tài đàn ông và đàn bà. Nồi mắm kho tỏa
khói thơm điếc mũi. Hai con cá catfish béo mập trắng phau nằm bên nhau trong rổ.
Một núi rau sống ngồn ngộn được chia ra ba dĩa lớn, đặt ba góc bàn, tránh cái cảnh…
đánh lộn dành ăn. Các bạn tôi cãi hăng mà ăn cũng không kém. Một tuần gặp nhau
một lần, mỗi người một món đưa lên. Tôi chỉ tốn công đứng và chút ít củi lửa, mắm
muối là có ngay một bữa nóng sốt ngon lành và vui vẻ với những đề tài “trông mặt
đặt tên” ngay tại chỗ.
Cãi trên bàn chưa đã, kéo nhau ngồi xuống sàn nhà cãi tiếp.
Bác Lê Nguyễn luôn luôn đóng vai trọng tài. Ðoan, sau vài chai bia trở thành thầy
bói. Các mợ cứ là tin như chết. Tôi phải la lên… Này, tôi không muốn lấy một
tên thầy bói làm chồng nghe không?. Thánh Heineken vẫn phán khi các mợ xúm lại
hỏi thăm sức khỏe… Ôi, bói ra ma, quét nhà ra rác. Thế kỷ này, thời buổi này mà
còn tin thầy bói, hèn gì mà… chạy.
Bỏ chuyện này qua chuyện khác cho thêm phần hào hứng… Chuyện
gì? Cả chục cái miệng tru ra. Cả chục cặp mắt giương lên chờ đợi. Với các mợ
này cứ mang vấn đề quần nọ, áo kia ra mà bàn là phải chết thôi. Ðàn bà mà, ai lại
không thích đẹp, nhất là ở đây sau những ngày lễ, tất cả… hàng họ bầy ra ê hề,
dưới ánh sáng lung linh muôn màu sắc của những dàn đèn, trắng cũng như đen. Phải
thế mới moi tiền của mọi người chứ, nhất là các mợ đang ngồi kia. Kiều Nga, Sơn
Tuyền chưa con cái, chân son mình rỗi, bao nhiêu tiền kiếm được chạy vào các kiểu
thời trang. Ðến nỗi, tôi phải can… Ấy, từ từ làm gì mà sắm quần áo dữ vậy, toàn
đồ mắc tiền không, phải để tiền trả bill nữa chứ, ba cái quần áo nầy có mang ra
trả tiền nhà được đâu, có ăn được đâu.
Khi tôi cản các người đẹp, tôi đứng ở vị trí của một người
đàn bà không còn trẻ dại. Nhưng tự thâm tâm, tôi hiểu tuổi trẻ chỉ đến với mọi
người một lần trong đời. Ở đây không còn những đêm dài nằm chờ tiếng đại bác,
tiếng bom rơi. Không chờ đợi tin dữ đưa về từ chiến trường. Những chờ đợi dằng
dặc, buồn bã lo âu làm héo úa cả một thời xuân sắc. Không còn những ngày tháng
chạy gạo nuôi mình, chạy sữa nuôi con. Tôi nghĩ là chẳng có bao nhiêu người thầm
tiếc là đã không trải qua những ngày tháng tăm tối đó. Trong hoàn cảnh đó, hạnh
phúc thật khó nói.
Thoát được mạng nào hay mạng nấy, đừng vì mình đã trải qua mà
mong cho người khác phải như mình, nói rõ hơn là đừng vì mình khổ mà muốn người
khác cũng phải khốn nạn mới… công bằng. Khi tôi ngồi cùng bàn với các mợ tuổi
trẻ, tài cao, tôi cảm thấy lây cái yêu đời, cảm thấy mình lùi lại được ít nhất
mười, mười lăm năm. Lời chán. Thế nên, tôi muốn các mợ thật tươi đẹp. Ðừng màu
mè quá. Ðừng hoang phí quá. Ðừng “đồng cô, bóng cậu” quá. Mà muốn tươi là phải
diền diện đôi chút, chứ quê mùa lu câm như tôi thì cũng không nên. Và bao giờ
cũng vậy, kể cả khi giải nguy cho các ông khỏi những cơn ghen chẳng bởi vì đâu,
tôi hay lái qua các kiểu thời trang dù đôi lúc chỉ là những lời bàn. Có hao tốn
cũng chỉ hao tốn nước miếng. Mợ nào cũng cười toe, làm như chính mình đã mua,
đã mặc những bộ quần áo “hót” nhất trong mùa. Người khó tính sẽ cho là đàn bà dễ
dụ. Giận mấy, ghen mấy mà cho bộ đồ là cười ngay. Không hẳn như thế đâu nhé, đó
chẳng qua là vì họ có những trái tim bao dung, độ lượng. Yêu mình và yêu người,
chuyện gì nhỏ, không đáng thì bỏ qua và chắc chắn họ còn biết rõ hơn là những
sinh vật đẹp đẽ nhất mà Chúa đã tạo ra vào ngày thứ 7.
… A, bây giờ thì chị Mai lại bênh vực cho phụ nữ chúng ta.
Băng Châu cười cười, lém lỉnh. Sơn Tuyền, Kiều Nga chăm chú ăn hồng mềm mợ Hà
mua, tai vẫn lắng nghe. Bác Lê Nguyễn phì phèo điếu thuốc, mặt trông rất muốn
đánh, nhìn Kathy Huệ phát biểu ý kiến… Mình đâu có binh ai, bỏ ai. Cái gì phải
thì nói. Mai Lệ Huyền cười khà biểu đồng tình. Không muốn mọi người đi quá xa
cái khu vực mua bán. Hà Khánh Hội lái mọi người trở lại những món hàng lộng lẫy
mắc hơn vàng mà mợ đã đăng trong báo mục thời trang của Thời Báo. Nào… LV, nào…
Channel… Bác Lâu gái bây giờ mới lên tiếng… Khiếp, mua làm gì ba cái đồ đó, mắc
như quỷ lại quá nhiều người xài, hàng giả nhiều quá, nhìn muốn chóng cả mặt. Ý
kiến của người này bao giờ cũng đưa ra sau và bao giờ cũng có lý. Có lý vì bác
Lâu luôn luôn nghĩ đến chồng con trước khi nghĩ đến mình, cho mình. Ôi, mẹ Việt
Nam.
Tụi tôi cười òa lên… Bàn chơi cho vui vậy thôi chị Lâu ơi, chứ
thời buổi này, ai dại gì mà mua sắm thứ mắc tiền. Muốn cũng còn không được nữa
mà. Chị Lâu cười… Gớm, mấy bà này. Nói cứ như thật. Tôi can… Hơi sức nào chị
nghe. Các mợ chọc chị đó, cứ vững tâm ăn mắm kho cho no vì thứ này lâu lâu em mới
nấu một lần, đừng để cho cái thời trang nó làm mình ăn mất ngon. Ðây toàn là
mua bán… nước miếng không hà. Ôi, tiếng cười của những… ác phụ thời đại lại tóe
lên, ngồi trước mặt phải cẩn thận né, kẻo… rỗ mặt ráng chịu nhé.
Lễ Tạ Ơn rồi cũng qua. Mọi người ai về việc nấy. Chúng tôi lo
áo quần cho Giáng Sinh và tết Tây. Không quá đáng nhưng cũng không thể thiếu được.
Ước gì chúng ta có thể sống lại cái thời mà bà Eva chưa cho ông Adong ăn trái cấm.
Chả tốn kém gì cả. Có bao giờ rừng lại thiếu lá.
Con gái tôi đưa tờ giấy… Bác Ðoan mua cho con mấy thứ này. Chỗ
con ở không có chợ VN… Chiều nay con muốn ăn cơm gì… Mẹ cho con canh mồng tơi
mướp, để con ăn với cà, rau muống xào mắm tôm, chả trứng. Mẹ kho cho con một nồi
thịt con để dành ăn dần… Con ăn gì thì khó chứ ba cái thức ăn này, lẹ mà. Ăn
cho no, lát nữa lên tầu ráng mà ngủ một giấc vì tới nơi phải đi làm liền. Misa
hẹn về sớm. Chris bỏ bạn vui với chị trước khi chị đi. Một năm mấy mẹ con, chị
em chỉ gặp nhau một lần.
Chúng tôi trở lại không khí êm ả bình thường như mọi ngày. Lễ,
tết, công việc thấy mà ngộp. Không biết phải trả cái bill nào trước. Tiếng cười
và những giây phút thoải mái của chúng tôi ví như dấu chân trên cát. Ðời sống
là những đợt sóng rất vô tình. Những đợt sóng vô tình, lớp lớp. Sóng sau đè
sóng trước. Dấu chân trên cát rất hiếm hoi. Bởi vậy khi có dịp, có thì giờ,
chúng tôi tụ lại. Vui cùng vui, buồn cùng buồn. Mùa Ðông đã lâu lắm, chúng tôi
không cảm thấy lạnh. Phải dưới mái nhà này không có mùa Ðông bao giờ.
26. Sau cùng thì tôi cũng có một chỗ cho riêng mình tôi ngồi làm
việc. Việc đây có nghĩa là đánh máy, liên lạc đại lý và nói chuyện tào lao với
bạn bè với cái điện thoại ngay bên cạnh. Người văn vẻ thì gọi đó là “Cõi Ta”.
Cõi ta của người ta đẹp đẽ và thơ mộng biết dường nào. Nào là liễu rủ bên hồ.
Nào là Mai, Lan, Cúc, Trúc bốn mùa. Ðây hòn non bộ. Kia chiếc cầu xinh. Cái
“cõi” của tôi thì ngược lại, tội nghiệp vô cùng… ngổn ngang gò đống chung
quanh, bước tới đạp chiếc giày, bước lui đụng cái máy Cross Walk. Dù vậy, tôi vẫn
hài lòng khi được ngồi một mình trong phòng.
Nhà nấu ăn liên chi hồ điệp nên tường đã bắt đầu ám khói chỗ
trắng, chỗ vàng, chỗ đậm, chỗ lợt trông như người bị lang ben. Chưa gì đã thấy
tiền ra đi trước mắt. Nói đến tiền, cũng ngượng miệng lắm nhưng đời là một chữ
tiền. Ngày xưa các cụ răn con… Không thầy đố mày làm nên. Bây giờ có nên đổi lại
chăng? Không tiền đố mày làm nên. Chưa bao giờ đúng thế. Chưa bao giờ cảm thấy
não lòng như thế.
Hoa cỏ đi ngắm mãi mỏi cả chân. Hẹn đã năm lần bảy lượt. Bao
nhiêu gốc hồng còi cọt đã nhổ liệng đi hết, cây nào không thích cũng đã cho đi
chơi chỗ khác, lấy chỗ trồng cây mới. Nhưng mà cây nhổ đi rồi, đất bỏ không. Bộ
khơi khơi vào vườn người ta bưng cây về rồi cười trừ được sao. Khoảng đất nhỏ còn
trơ trụi lại bụi Dạ Lý và hai gốc hồng gầy gò như người thiếu ăn năm Ất Dậu, chỉ
thấy lá, mỗi cây ở một đầu nỗi nhớ. Trông cứ như… râu mọc không đều.
Tôi mạng Thủy. Trồng người không được chứ trồng cây gì lên
cây đó. Nhiều nhất là… ớt và dấp cá. Cả hai tôi đều không mặn mà lắm. Ớt, khả
dĩ còn nhấm nháp chút đỉnh, chứ dấp cá thì hơi hãi. Chỉ mới liều ăn thử hai lần.
Cứ bỏ vào mồm, nhai rồi nuốt rồi sẽ quen thôi, cũng như ghét hay thương đều do
thói quen cả. Ðược thêm cây chanh năm nay sao mà nhiều trái thế. Bộ mình chua lắm
sao mà cây chanh chỉ thấy quả. Mỗi lần gội đầu, ra vườn hái một trái. Cũng thú
vị ra phết.
Lúc này tôi không còn ườn xác trên giường đến 12 giờ, 1 giờ
trưa nữa. Tôi dậy sớm lắm. 8 giờ đã nhong nhong ra khỏi nhà. Kể ra, so với những
người đi làm, đã thấm thía vào đâu, nhưng với tôi, đây là cả một cuộc cách mạng
vĩ đại. Trước kia, vừa mở mắt ra đã thấy… chiều hôm tối rồi, ngày bỗng trở nên
ngắn, chưa kịp làm gì, đã tối ập. Không những ngày ngắn mà đơi sống cũng ngắn
theo.
Từ khi theo vợ chồng Phương dậy sớm, tôi bỗng tiếc vì sao lúc
trước mình cà chớn thế, rồi đến lúc ngủ luôn chẳng bao giờ dậy nữa, chắc sẽ tiếc.
Thật ra dù ăn nói ngang như cua, cái tâm của tôi vẫn là tâm của một người đàn
bà. Dù có dạn dày đi nữa thì trái tim của họ cũng còn nhỏ máu. Những người
không có tuổi thơ hoặc mất quá sớm, nỗi đau lúc nào cũng canh cánh bên lòng. Nỗi
tiếc nhớ không phút nào nguôi. Ðời người ngắn quá. Ngày tháng vun vút qua đi. Một
nửa thế kỷ rồi. Nghĩ đến, bàng hoàng cả người. Tự hẹn sẽ dậy sớm hơn cho đời
dài hơn.
Mới ngày nào, như ngày hôm qua… Hình như đó là câu nói của đa
số khi gặp lại bạn bè cũ. Tóc đã bạc, da đã nhăn, lưng đã còng, chân đã chậm.
Chỉ còn trái tim vì tiếc nuối mãi ngày xanh, nên trái tim còn trẻ, còn nguyên vẹn
niềm yêu. Nếu được yêu lại như lần đầu biết yêu, tôi chắc không ai ngoảnh mặt.
“Nếu” thôi. Chữ “Nếu” và “Nhưng” hai chữ tôi ghét nhất. Nó là một cái gì không
thành. Một sự tàn nhẫn hồn nhiên. Hơn thế nữa, nó cũng mang lại sự tuyệt vọng
không cùng. Tại sao lại… Nếu? Tại sao lại… Nhưng? Không hiểu được. Chữ nghĩa gì
ly kỳ và độc ác.
Bên cõi đời hiu quạnh này, phải ngồi lại với nhau. Ngồi thật
gần. Gần lại với nhau. Ðể ngậm ngùi chia sẻ với nhau. Ðể ngậm ngùi chia sẻ với
nhau những điều dấu kín trong trái tim của mỗi người chúng ta. Hát lại một mình
tình khúc của 25-30 năm trước. Lòng phải ấm lại chứ. Gặp lại bạn cũ mà đời cơm
áo cho chúng ta cái cảm giác rất xa, rất nhạt nhòa. Trái tim cằn cỗi mấy cũng
phải tươi lại. Sự đau đớn, đôi khi cũng còn cần thiết cho đời sống của chúng ta
huống chi những giây phút ngắn ngủi, bất chợt tìm gặp lại chính mình trong một
bài hát. Hạnh phúc biết chừng nào.
Tôi, thực sự cảm thấy điều đó. Thấy mình trẻ lại như ngày mới
đôi mươi. Thấy rõ nỗi lo sợ của lần đầu tiên đứng hát trước mọi người. Cầm
micro, tay tôi run thấy rõ và ướt đẫm mồ hôi, người tôi căng ra như trái bong
bóng có thể nổ tung bất cứ lúc nào và nước mắt tôi chỉ chực trào ra. Những giây
phút được đứng hát trước mọi người đối với tôi mới thực sự là hạnh phúc bởi đó
là lúc tôi..tìm lại được chính tôi. Ðối với Minh, Nga, Tuyền, Phương và tất cả.
Cám ơn không đủ.
Nói như thế không có nghĩa là tôi chỉ có hạnh phúc khi được
hát. Hạnh phúc đối với tôi có nhiều loại. Ðược chia ra nhiều loại. Có thể nặng,
nhẹ khác nhau nhưng tất cả đều mang lại cho tôi điều tôi muốn, kể cả sự đau khổ.
Khổ đau cũng là hạnh phúc. Cũng được kể là hạnh phúc bởi không vì như thế, tôi
đâu còn ngày hôm nay. Bảo là khoái cái Thú thương đau, thì tôi không khoái.
Không ai thích trừ những người ưa sì-tin, thích đau khổ như một cách làm dáng.
Tôi chỉ thấy sự đau khổ có cái gì… hay hay mà không có nó, tôi cảm thấy thiếu
thiếu, nhớ nhung. Tuy vậy, nếu có khổ có đau, cũng một vừa hai phải thôi, chứ
khổ quá lắm thì sống sao cho nổi. Ðừng đến nỗi… từ lê tới lết, từ chết tới bị thương…
là OK lắm lắm.
Những lúc buồn, bất cứ vì lý do gì – ngoại trừ lý do không tiền
– là lúc hát… đã nhất. Tôi không thể cắt nghĩa được điều này. Cứ hỏi tất cả ca
sĩ, quí vị sẽ thấy tôi nói đúng. Có lẽ vì thế mà người đời cho chúng tôi là những
kẻ chuyên thương vay khóc mướn (khóc mướn là nghề có thật ở ngoài Bắc, chứ ở
đây có ai trả cho chúng tôi đồng xu cắc bạc nào đâu và cũng không ai mướn cả).
Có lẽ vì thế, chúng tôi, phần đông không mấy bình thường. Vui đấy. Buồn đấy. Vừa
khóc xong, nước mắt chưa kịp khô đã cười rũ rượi như những mụ điên. Ôi cái đời
ca sĩ… thập phần ly kỳ, quái đản.
Khi nói ra như vậy, một phần suy bụng ta ra bụng người. Hình
như chỉ có mình tôi không được bình thường. Nhiều người, nhất là bạn tôi, rất
muốn..bình thường hóa tôi nhưng đành chịu vì từ hồi nhỏ, tôi đã được gọi là Thạch
Ðầu Ðà. Nghĩa là có cái đầu như đá. Cứng như đá. Tưởng già sẽ thay đổi, mà thật
ra cũng có nhưng lại là cứng hơn. Con người của tôi, lẽ ra nên lên rừng, vào
núi mà ở với khỉ, với voi. Có người còn bảo. Tôi là linh hồn của cái nhà này.
Người đó cũng điên không kém tôi. Một linh hồn tăm tối.
Cách đây 10 năm, có người từ Việt Nam qua đọc cho tôi nghe một
câu thơ được làm trong trại cải tạo: “Ðứng không yên. Ngồi không yên. Mà nằm
thì sợ triền miên nỗi buồn…”. Câu thơ này nằm trong đầu tôi từ đó. Không phải
là chúng ta cũng đã và đang ở trong một nhà tù sao? Nhà tù do chính mình dựng
lên. Tự mình bước vào đó để rồi đứng, ngồi, nằm không yên. Ngay cả những lúc cắm
cúi đi một mình, gió mát, nắng đẹp, vẫn không sao xua đuổi những suy nghĩ vẩn
vơ trong đầu. Mình phải làm gì bây giờ? Con đường còn lại trước mặt, tuy không
còn dài nhưng sẽ đưa mình về đâu?
Câu trả lời luôn luôn có sẵn. Ði đâu loanh quanh cho đời mỏi
mệt. Hỏi. Tự hỏi và tự trả lời, tự thấy mình khỉ khỉ thế nào ấy. Mỗi người
trong chúng ta đều có một cái gông ở cổ (như mình tự làm nhà tù nhốt mình trong
đó). Ðeo vào cũng mình, mà cởi ra cũng chỉ mình cởi được. Khổ nỗi đeo vào thì dễ,
cởi ra mới khó. Muốn không? Làm cách nào? Không biết.
Con gái tôi bảo: “ Mẹ ly kỳ quá, sao bạn mẹ gọi mẹ là..bà
khùng?” Tôi cười. “Không phải khùng mà là bà điên”. Nói hỏi khùng và điên khác
nhau như thế nào. Tôi nói. Giống nhau.
Vắng bóng con, tôi chết luôn cái nửa hồn còn lại dù nó chỉ ở
cách tôi có 25 phút lái xe. “Misa lớn rồi. Misa muốn tự lập… any way Misa về
nhà mỗi ngày mà, mẹ sao cái gì cũng lo”. Làm sao tôi nói để con tôi hiểu rằng
trong lòng tôi, từ Ly Cơ đến Bảo Linh, đến Misa, đến Quý Nam, lúc nào chúng
cũng nhỏ bé như ngày còn bồng ẳm? Làm sao tôi có thể nói cho các con tôi biết rằng
cái gia tài lớn nhất, duy nhất còn lại của đời tôi là chúng nó. “Cái đó là
Vietnamese way mẹ”. Cái đó tôi cũng đã biết từ lâu rồi. Nhưng… Ôi, chữ “nhưng”
đáng ghét biết bao nhiêu.
Hơn 2 tháng nay, vật vờ với cơn đau. Cả thể xác, cả tinh thần.
Chỉ có đêm tối mới chia xẻ được với tôi. Chỉ có mặt gối mới lau khô những giọt
nước mắt của tôi. Chỉ có thuốc ngủ mới làm tôi quên đi nỗi muộn phiền. “Hay con
có boyfriend”. Misa cười sằng sặc. “No, mẹ biết Misa mà”. Tôi biết và tin Misa
vì nó không bao giờ dấu diếm bất cứ điều gì. Mỹ con mà. Nhưng dù xem tôi như một
người bạn, Misa lại chỉ tâm sự với Bố Ðoan của nó. “Nói chuyện với mẹ khó quá”.
Thế đấy, đứa con gái mới ngày nào tôi cột nó trên lưng, leo lên tàu Miller, bây
giờ đã 21 tuổi rồi. Yêu mẹ thì còn vẫn yêu, nhưng còn đời con trước mặt nữa.
Nếu, lại nếu. Vâng, nếu tôi biết trước cuộc sống ở đây chỉ
làm vơi chứ không làm đầy. Tôi đã ở lại Việt Nam. Cái chết nào cũng là chết.
Cũng giống nhau. Do đó, trong đêm Duy Tường, tôi mới cầu mong được thay thế. Một
người sống nửa thế kỷ, đã là nhiều rồi, lại không làm nên vương tướng gì, tại
sao không… xéo đi cho thoáng, nhường chỗ cho người trẻ tuổi. Biết đâu chừng đó
là một nhân tài. Tiếc lắm thay.
Thương con, buồn mà nói vậy, chứ ngay như mình ngày xưa, mới
16 tuổi đã lăn lóc với đời rồi. Có chết thằng Tây nào đâu, mà nếu không như vậy,
tôi sẽ làm được gì? Chắc chắn là chả ra cái giống gì. Thôi thì có phước có phần.
Chúa sắp đặt tất cả. Các con tôi sống lành sẽ được gặp lành. Còn bây giờ là cái
đời của mình đây này. Ráng mà đứng vững một, hai năm nữa. Ráng mà sống cho ra sống
những ngày còn lại. Ráng mà “đi” cho “ngọt” lúc phải đi.
Còn một trự nữa đang học lớp 10. Hết trung học là lại thêm một
phen ôm mặt khóc rưng rức. Thằng cu Trí đấy, mới ngày nào còn bám áo bác
Thiêng, vài ngày nữa, nó cũng bỏ ông bác già cu ky một mình vào dom ở. Anh chị
nào khi thoát khỏi vòng kiềm tỏa của cha mẹ, chú bác cũng vui như Tết. Lúc đứa
con cưng duy nhất của Ngọc Minh ra ở riêng, mợ cũng khóc đứng khóc ngồi, than
trời trách đất. Nhưng rồi cũng quen. Rồi các anh chị thấy sống riêng coi bộ hao
tốn quá, sẽ lại bò về mà thôi. Như Elvis Phương, như Tùng Giang… Tụi tôi cứ là
trơ mắt ếch ra nhìn từng đứa và từng đứa con ra đi.
Bạn bè thấy tôi buồn, mang chuyện sắp bỏ cấm vận ra nói “Ôi
mai mốt về Việt Nam ở cho hết cái tuổi già, để khỏi đau lòng vì những điều
trông thấy…”.
“Không, ai muốn về thì cứ về, tôi là không”. “Vì sao?” Tôi
nhún vai như đầm rau muống. Sự đời đâu có giản dị như…bố nằm với mẹ. Ði đã đau.
Về còn đau hơn. Cái nào cũng đau thì mình nên chọn cái gì ít. Ðồng ý không. Ðấy,
có phải lúc nào tôi cũng điên đâu? Cũng khôn ra phết.
27. Tết Nguyên Ðán năm nay, chúng tôi không cảm thấy vui nhiều dù
cũng sắm sửa đủ mọi thứ cho 3 ngày Tết. Ðêm Giao Thừa, chúng tôi dặn các con phải
có mặt ở nhà. Sự sum họp đầu năm. Và đây cũng là một trong 3 cái Tết, chúng tôi
cùng nhau đón Giao Thừa trong 20 năm ở đây. Bàn thờ Ðức Mẹ thì bao giờ cũng có
hoa tươi đèn nến 24 trên 24. Một bình hoa tươi. Một chậu Mai Vàng bằng lụa
Kathy tặng. Một mân trái cây gồm năm loại và bó nhang thơm thắp lên cúng lễ Tổ
Tiên Trời Ðất. Qua 12 giờ, tôi một mình đi hướng Nam tìm hái lộc. Một cành Ngọc
Thạch, một cụm cúc nhỏ bông trắng nhụy vàng và một nụ hồng nhỏ xíu. Trở vào nhà
tự xông đất lấy, lì xì cho 2 con, vợ chồng chúc Tết nhau xong là vừa cảm thấy..hết
Tết.
Tôi nghe người ta nói cái loại cây có tên gọi là Ngọc Thạch
vì lá nó xanh mầu ngọc và là loại cây chẳng cần phải tưới bón nâng niu, tự nó
đâm chồi rễ con và sống dễ như cỏ dại. Ngày tôi mới dọn về đây, Ðoan lượm được
một cành nhỏ bị bỏ lại vì gẫy, nằm lăn lóc ngay lối vào nhà. Anh mang nó trồng
trong chậu một cách rất vô tình, không hề chăm lo hay ngó tới, vậy mà mười mấy
năm qua, cây Ngọc Thạch cứ sởn sơ lớn mạnh, xanh mơn mởn và đã cho hoa mấy mùa.
Từ đó Ðoan gọi nó là cây… Lệ Mai, ý là cây cũng như người nên không cần… tưới
bón chăm sóc mà vẫn lớn. Ðoan cũng đặt thêm tên cho cây là Lệ Mát vì nó… điên
giống tôi, người điên không cần ăn cũng sống, mưa gió bão bùng hay nắng cháy da
nung xương vẫn thản nhiên sống. Tôi không hề than vãn và cây không bao giờ lên
tiếng nhưng tôi và cây rất gần gũi với nhau.
Nụ hồng bé tí tôi cắt đại trong đêm. Nó còn bé quá, bác Lê
Nguyễn phán ngày mồng 1 Tết, không biết nó có nở được không. Tuy không bao giờ
tin dị đoan xong thường người cắt hoa dâng bàn thờ Ðức Mẹ là Ðoan bởi nếu là
tôi, hoa ít khi nở trọn vẹn. Vậy mà nụ hồng từ từ lớn cùng với cây Mai Vàng tôi
xin được của ông Nguyễn Ðức Lập. Trong 5 ngày đầu năm, tất cả hoa trong nhà tôi
nở thật đẹp, cho đến hôm nay chưa thấy dấu hiệu… sắp tàn. Bên cạnh là hai chậu
Ðại Ðóa màu vàng của chị Lâu cho như mọi năm, cặp bánh chưng của Hoan Vân.
Chúng tôi có một cái Tết không huy hoàng ầm ĩ mà giản dị gói ghém thân mật
Tôi không cảm thấy vui trong những ngày xuân là bởi sức khỏe
không khá lắm và một nỗi buồn không biết bao giờ tôi có thể nói ra được, tôi đã
chợt bắt gặp trong mùa Giáng Sinh vừa qua. Nỗi buồn này cũng sẽ có thể đè nặng
mãi trong tôi cho tới ngày tôi nhắm mắt. Thêm vào đó là nỗi lo, những âu lo thoạt
nghe qua, ai cũng cho là quá đáng. Lo cho cái Ðêm Sinh Nhật 50 của mình. Chỉ có
người thực sự ở trong bóng tối mới biết cái mênh mông sâu thẳm, cái buồn bã bất
tật, cái lạnh lùng, cô lẻ, cái ngậm ngùi trăn trở của đêm dài, của bóng tối. Mấy
ai có thể thực sự hiểu được, nhìn thấu được nỗi bi thương luôn luôn được dấu
kín đằng sau nụ cười.
Bây giờ, chúng ta đang ở vào những ngày tháng rất mới của một
năm mới vừa bước tới. Có thể nào cùng nhau tâm sự được chăng? Dĩ nhiên cái tâm
sự, tự nó đã không hứa hẹn những niềm vui, như người đời thường dấu kín hạnh
phúc của mình nhưng lại luôn luôn mong được sự chia sớt của mọi người về một nỗi
buồn, về một niềm đau. Có nên như thế ở những ngày đầu năm không? Ngày tháng của
Ðất Trời nên ngày nào cũng thế, cũng giống nhau. Mới hay cũ là do ta mà thôi.
Thế thì xin cho tôi được giải bày tâm sự riêng của mình hôm nay. Chẳng lẽ không
còn có thể có được một người hiểu mình, trong những trái tim còn đập quanh đây.
Tôi 50 tuổi. Ðiều này cũng không có gì là lạ lắm nếu chỉ nói
suông như thế. Nhưng 50 năm với tôi còn có nghĩa là… nửa Thế Kỷ. Chúa ơi, nửa
thế kỷ đối với một người đàn bà nào cũng có nghĩa là đã bắt đầu đi vào bóng tối
của cuộc đời. Cũng có nghĩa là… thôi nhé, những mơ ước kể từ nay chỉ là ước mơ.
Buồn chứ. Nếu nói rằng mình không thật, nhiều, ít và tùy theo hoàn cảnh của mỗi
người. Trên nguyên tắc, tôi cũng chỉ là một người bình thường như bao người. Khổ
một nỗi là chăng hiểu may mắn hay bất hạnh, tôi lại được hưởng một khoảng thời gian
tuyệt vời. Nó đến với tôi như Trời xuống và nó đã trở thành máu xương tôi, hơi
thở tôi, đòi sống tôi. “Nó” là gia tài của tôi. Một thứ gia tài mang theo cả hạnh
phúc lẫn bi thương.
“Phải làm một cái gì trong ngày sinh nhật 50 đi chứ”. Các bạn
bảo thế. Làm gì bây giờ? Thì chắc cũng lại một nồi mắm, một nồi giả cầy, gỏi
tôm thịt hay cá nướng như mọi năm thôi chứ còn làm gì khác… Ðâu được, nếu sinh
nhật 50 của bạn mà chỉ làm như thế, chúng tôi e rằng bạn hơi có vẻ tự… bạc đãi
lấy mình đấy. Thế tôi phải làm cái gì bây giờ, chả lẽ xuống Bolsa đứng giữa đường
mà la lên rằng, này bà con ơi, hôm nay sinh nhật tôi đấy nhé, hôm nay tôi 50 đấy
nhé… Em nhà quê quá, trong suốt 35 năm dài tận tụy với nghiệp dĩ, chẳng lẽ
không còn gì trong em để nói lên cùng những người đã thương yêu mình trong bấy
nhiêu năm và có thể là cả về sau nữa sao? Nhất là ở cái thời điểm 50 cùng với ý
định tạm biệt của em, sao không thử một lần cuối làm sống lại từ đầu những điều
em đã có và đã cùng một số khán thính giả chia sẻ với nhau từ cái thời sân cỏ
cho đến bây giờ…
Các bạn muốn thì tôi sẽ làm, Ðoan đã chọn địa điểm ở ngay
Cerrtitos là thành phố mình đang ở… Nhưng sân khấu này có vẻ… sì tin quá đối với
em, với một ngày sinh nhật. Sân khấu này chỉ dành cho những người lắm bạc nhiều
tiền, cổ cồn, ca vát. Nó không thích hợp với loại người bình dân như em. Nó có
vẻ xa cách, lạnh lẽo quá. Nó không cho em cái cảm giác ấm áp khi đứng trên sân
khấu mênh mông nhìn xuống. Nếu muốn, hãy tìm cho em một chỗ nào nho nhỏ vừa phải
nhưng ấm cúng và để gần gủi với người nghe. Ðó mới thích hợp với bản chất của một
người như em từ bao nhiêu năm nay. Hát dưới mưa, hát trên thảm cỏ, đứng trên xe
G.M.C. vùng biên giới Việt Miên. Ðặt em vào những nơi sang trọng quá em sẽ đánh
rơi mất con người thật của em bởi ở những nơi đó, người ta phải… Biểu Diễn nhiều
hơn cái người ta có. Ðiều đó em không làm được.
Ðịa điểm được thay đổi. Chương trình phải sắp xếp lại. Ðừng
hình thức quá để trở thành nặng nề. Rườm rà màu mè quá dễ làm người nghe mệt mà
người hát thì bị… phân tâm… học. Càng giản dị bao nhiêu tốt bấy nhiêu, nếu em
phải bắt đầu lại cái thuở chân đất hát Diễm Xưa, Tuổi Ðá Buồn, Còn Tuổi Nào Cho
Em… bắt đầu lại từ những tiền đồn heo hút giừa rừng núi bạt ngàn với Ðại Bác Ru
Ðêm, với Xin Cho Tôi, với Cho Một Người Vừa Nằm Xuống, với Huế Sàigòn Hà Nội,
Người Di Tản Buồn, Ðêm Nhớ Về Sàigòn… thì rõ ràng là những chia sẻ với nhau những
nhỏ nhoi nhưng sâu kín nhất trong trái tim mình… Lại gần, ngồi lại với nhau. Ðừng
bỏ tôi đi, 20 mươi năm rồi còn gì đâu anh, còn gì đâu em. Thôi đừng buồn. Thôi
đừng hờn, tủi lòng núi sông…
Tôi không muốn đứng từ xa, từ trên cao trong ánh đèn rực rỡ
muôn màu, hát với xuống. Tôi muốn được cất tiếng hát từ giữa những người yêu
thương, đến với tôi. Ðể sống còn, tôi biết lúc nào mình cần phải “chết”. Nhưng
trong đêm 5 tháng 3 sắp tới đây, khi đồng hồ điểm 12 giờ, đó là lúc tôi chính
thức bước chân vào tuổi 50, thì tôi lại rất muốn “Sống”. Sống rất thật với những
gì mình có, những bài hát, những điều cần được cùng nhau chia sẻ. Tôi yêu thích
sự đơn giản nên tôi đã chọn sân khấu Majestic. Nơi đó, đêm đó, tôi có thể đi
chân không mà hát, có thể ngồi xuống bục gỗ mà tâm sự, có thể đến với từng người
để nhìn nhau cho rõ hơn, để chứng thực thêm một lần nữa là tôi không phải là một
người cô đơn. Ðể nắm giữ thêm một chút hạnh phúc trước khi Tạm Biệt.
Ðịnh dừng lại thật sao. Thật chứ. Từ từ. Xa từ từ ánh đèn. Xa
từ từ sân khấu. Có một lúc nào trở lại không. Có thể. Thỉng thoảng vui chơi với
bạn bè, gặp lại mọi người. Tu hay sao. Tu lâu rồi đó chứ, tại mọi người không
chú ý đấy thôi. Tu và Tù cùng một nghĩa như nhau. Ðúng. Chính vì mình muốn như
vậy. Bí mật, xin được dấu kín, xin được dấu một mình, cũng thú vị lắm lắm.
Những đòi hỏi quyết định của tôi làm mọi người nhức đầu. Tôi
quay bạn tôi như chong chóng. Làm lại. Làm lại tất cả theo ý tôi bởi đây là
sinh nhật tôi, bởi vì đây là… lần đầu tiên… 50 tuổi. Và tôi tự cho tôi cái quyền
đòi hỏi. Ðòi hỏi sự giản dị, gói ghém tối đa cho thoải mái cái đầu và đôi chân.
Thế nhưng sự thoải mái đó lại làm tôi lo âu suốt mấy tháng nay. 35 năm trên sân
khấu, sự âu lo trước khi cất tiếng hát vẫn là một thói quen, một cố tật. Tôi
không thể thản nhiên, dửng dưng trước khi bước ra sân khấu. Một đêm hát như
muôn ngàn đêm đã hát vẫn làm tôi xao xuyến, xúc động đến không ngủ được. Tôi giữ
nỗi lo âu cho riêng mình đến hôm nay mới dám tâm sự.
Tôi thường hay làm dấu cầu nguyện trước khi bước ra sân khấu
nhưng trong đêm sinh nhật 50 sắp tới đây, tôi sẽ cầu nguyện lâu hơn, xin Chúa Mẹ
giúp sức cho tôi để cho dù sau đêm nay, tôi sẽ không bao giờ đứng dưới ánh đèn
nữa, mọi người cũng sẽ không nỡ quên tôi. Nếu biết chắc đi có nghĩa là ở lại,
tôi sẽ sẵn sàng. Các bạn quý của tôi, kể cả những người tri kỷ tuy chưa hề bao
giờ có một lần gặp gỡ, chắc cũng không nỡ từ chối góp lời cầu nguyện cho tôi
làm được công việc tốt đẹp bằng hết sức mình. Tôi cũng hy vọng là ngọn nến trước
khi tắt thường bùng sáng hơn. Hy vọng bao giờ cũng hơn tuyệt vọng.
Có vẻ buồn đấy nhỉ. Không, tôi không có gì buồn cả, chỉ lo lắng
thôi… Em không lo mới lạ. Hát bao nhiêu năm rồi mà cái tật không bỏ… Ờ há, tôi
lo đến nỗi không dám nhận show, tôi lo đến nỗi… bệnh luôn, thế thì càng lo, tôi
càng tự hại tôi. Phải bình tỉnh lại. Bây giờ tôi trở lại bình thường chỉ vì
trong cơn lo âu chợt tôi nghĩ đến cái lúc có thể tháo chiếc giày ra, có thể ngồi
xuống bất cứ chỗ nào trên cái bục gỗ Majestic mà hát… Trong những tiếng kêu gào
ai oán đó, người ta có chỗ nào để yêu nhau… N. Ð.T. đã viết như thế. Thời lửa đạn
đã qua, dù dấu vết của tàn phá vẫn còn đó, nhưng trong đêm 5 tháng 3 tới đây,
trong những bản tình ca kỷ niệm, những người ngày xưa… đã không còn có chỗ nào
để yêu nhau, sẽ tìm lại được chính mình và từ sự tìm lại được đó, chúng ta sẽ
biết rằng trên cõi đời này, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta vẫn còn những
nơi chốn để yêu thương nhau.
Trong suốt quãng đường dài tôi vừa đi qua, tôi đi bên cạnh những
cuộc vui. Nhưng tôi được ở trong lòng mọi người. Tôi may mắn hơn rất nhiều người.
Nhưng tôi cũng rất một mình như số mệnh đã định sẵn cho mình, và chính vì lúc
nào cũng đơn lẻ một mình, tôi không có gì để mất. Tôi không đánh rơi mất chính
tôi. Ngày xưa tôi vào đời như thế nào, bây giờ tôi vẫn thế bởi cái quan trọng
nhất của một con người, tôi vẫn còn giữ được, và trong đó, có trái tim của tôi,
một trái tim dù đã quá nhiều bầm dập, tang thương vẫn thèm khát khao một nơi chốn
bình yên riêng cho mình, dù nhỏ nhoi giữa cuộc sống. Nhưng khát vọng hồn nhiên
từ một trái tim không còn nguyên vẹn ở lứa tuổi 50, thật lắm ngậm ngùi, có phải
thế không?
28. Tôi có nhiều, rất nhiều chuyện vui để kể lại trong mục Bên Ðời
Hiu Quạnh trên Thời Báo kỳ này. Ðiều thứ nhất là tôi đã thành công sau hai tuần
kiêng khem cực khổ để… được mất đi hơn 10 pounds vừa thịt, vừa mỡ mà cái mặt
không bị ảnh hưởng gì. Chả là tôi nhờ được cái mặt nhỏ, cái mặt mà ngày xưa mẹ
tôi thường chì chiết… Mặt như hai ngón tay tréo. Ngộ hơn nữa là dù béo, gầy, buồn,
vui, đau ốm, mệt mỏi… cái mặt tôi vẫn thế. Bây giờ thì tôi nhất định không bao
giờ để cho mình lên cân nữa. Bằng mọi giá tôi chỉ được quyền giữ 110 pounds, xuống
thêm chút nữa lại càng tốt hơn.
Chúng tôi gần 20 chục mạng gặp nhau ở phi trường trực chỉ
Montréal bắt đầu cái vui thứ hai của tôi. Trên 5 tiếng đồng hồ bay, chúng tôi
cười nói, chạy tới chạy lui như chỗ không người, coi tất cả Tây, Mỹ như người
ngoại quốc. Phi hành đoàn và đám hành khách cứ trố mắt nhìn, lắng tai nghe…
không biết cái tụi da vàng mũi tẹt này ở đâu lạc loài tới đây, mà chúng nó nói
gì mà nói lắm thế. Nói cười không ngừng nghỉ, trầm bổng như chim ấy. Rồi cơm
tàu bay chúng nó cũng chê. Ðứa bánh mì chả lụa. Ðứa xôi vò. Ðứa bì cuốn. Ðứa
cơm tấm. Ðứa mì ly, mời mọc trao đổi đồ ăn ồn ào như một bầy ong vỡ tổ và cứ
như thế cho đến khi tàu đáp xuống phi trường Dorval.
Tới hotel, buổi chợ lại tiếp tục họp. Ðại, cơn ác mộng của
chúng tôi, tay cầm cuốn sổ đứng cạnh một đống chìa khóa để trên front desk… Chị…
ở chung với chị… Anh… ở chung với anh… Chàng phân chia chìa khóa, mặt nghiêm và
buồn mặc dù không ai có lời phản đối hay thay đổi vào phút chót. Asia làm việc
có tổ chức đàng hoàng. Người nào việc nấy, chia ra mà làm. Công việc nặng nề nhất
dù chỉ ngồi một chỗ có lẽ là Trúc Hồ. Tôi cho là nặng nề bởi làm việc bằng cái
đầu và chắc vì thế, nụ cười trên môi Trúc Hồ thật hiếm hoi. Chỉ có thể thấy anh
cười sau khi chương trình đã hoàn thành nghĩa là lo trước mọi người và cười sau
mọi người. Tôi gọi cái cười này là coup de grace, cười ân huệ.
Anh chàng Ðại, cơn ác mộng của chúng tôi lãnh công việc phức
tạp nhất. Nhắc tuồng. Tuồng đây không phải là tuồng cổ nhạc hay kịch. Nhắc tuồng
của Ðại là luôn luôn theo sát ca nhạc sĩ nhắc nhở về giờ giấc, thứ tự của từng
người theo đúng chương trình. Ðại luôn miệng nói… Xin các anh chị đúng giờ có mặt
tại lobby… Giờ đến phiên chị… làm mặt… làm tóc… Xin anh, chị vui lòng đến phòng
chờ, hai bài nữa là tới bài của anh, chị. Ðại kiêm luôn cả việc… giám sát mọi
người. Không ai đi đâu cả. Không có việc riêng tư nào trong thời gian làm việc.
Tất cả có mặt một lúc. Ăn một lúc. Xong, tất cả cùng về… Lúc đó, ai muốn đi đâu
thì đi và tới giờ rời hotel để ra phi trường, công việc của Ðại lại tiếp tục nhắc
từng group phải có mặt tại lobby để cùng đi. Tôi nghĩ sau khi… tống khứ hết cái
đám giặc Cờ Ðen này, Ðại sẽ thở ra một hơi thật dài để chờ… chuyến đi tới.
Trúc Quyên, tôi gọi như thế vì Quyên là nội tướng của Trúc Hồ
cũng cầm trên tay một cuốn sổ… Xin các anh chị chú ý. Ðây là nữ vũ sư… cô này sẽ
hướng dẫn các anh chị trong bài hát chung cuối cùng. Các anh chị… sẽ đứng hàng
đầu. Các anh chị… hàng thứ hai. Các anh chị… hàng thứ ba. Anh Trịnh Nam Sơn, chị
Khánh Ly, chị Sơn Tuyền và Mạnh Ðình sẽ đứng trên cao cùng chỗ với ban nhạc.
Các anh chị chú ý và ráng nhớ khúc nào của mình cùng nhũng động tác mà vũ sư… sẽ
hướng dẫn. Bây giờ phần em mở nhạc, nhóm nào đứng vào nhóm đó, chúng ta làm như
thật nhé… Bài hát được mở lên và chúng tôi bắt đầu hát. Nhờ sự sắp xếp theo thứ
tự ngay từ khi thâu băng và sự hướng dẫn của người nữ vũ công trẻ và nhất là nhờ
bài hát, một sáng tác mới của Trúc Hồ và nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng. Một bài hát
quá hay, quá cảm động, chúng tôi dù chỉ đang tập dượt cũng hát một cách hào hứng
như đang đứng trước khán giả.
Người nhàn nhã nhất, có vẻ là như thế, trong đoàn, là anh
chàng bảnh trai Ðặng Trần Hiếu. Ðặng công tử là người ít nói, ít xuất hiện vì Ðặng
ngồi trong phòng máy cùng Vân và Trúc Hồ. Tôi gọi Ðặng công tử là… thợ vịn. Bởi
tôi có thấy người làm cái gì đâu ngoài cái việc thỉnh thoảng vào phòng ăn lấy
café.
Ai cũng trầm trồ khen rằng tôi… khéo nhịn, giữ eo. Ðặng công
tử thì không… “Việc gì mà chị phải khó thế, cứ việc ăn đi chứ, ăn như tôi đây
này, có sao đâu”. Cái anh chàng thợ vịn nói chuyện huề vốn. Anh liền ông, anh lại
không phải leo lên sân khấu để mọi người đánh giá từ chân lên tới sợi tóc, anh
có nuốt nguyên cả một con voi cũng chẳng sao, chẳng ai phàn nàn gì. Anh có đưa
nguyên một cái trống chầu, một cái ba lô ngược trước bụng cũng không ai chê bai
phiền hà gì. Elvis Phương đấy, ăn như thầy tu, tập thể dục liên tục mất cả 20
pounds vậy mà Phương vẫn chưa hài lòng vẫn giữ régime như thường. Như Quỳnh
cũng bắt đầu… thắt lưng buộc bụng vì nàng cũng thuộc loại mát da mát thịt. Nàng
nào nàng nấy đều mình hạc xương mai, chỉ có mình Lê Uyên là ăn uống một cách
thoải mái, nói cười một cách sảng khoái. Bé Tuyền theo tôi tu tiên, hai chị em
dòm chừng nhau, nhắc chừng nhau… đừng ăn.
Tôi cảm thấy thật thoải mái trong mấy ngày sống chung, làm việc
chung ở thành phố Montréal. Già trẻ, lớn bé, mới cũ đều như nhau, bằng nhau.
Cùng ở một nơi, cùng ăn một mâm, một giờ, cùng uống một thứ nước. Làm tóc, làm
mặt cũng theo thứ tự được ghi trên giấy dán ở tất cả mọi nơi cho mọi người cùng
thấy. Vậy mà Ðại công tử vẫn không tha, vẫn bám sát nhắc nhở, nhắc nhở rất nhẹ
nhàng mà rất công hiệu. Quanh tôi ai cũng vui tươi hớn hở. Tha thiết, yêu mến
công việc mình đang làm bởi lòng yêu thích hơn là yêu tiền. Những người sản xuất
và các ca sĩ rõ ràng có sự tương kính. Giữa các ca sĩ lại có sự thân ái như một
gia đình có anh, có chị, có em. Hai ngày làm việc liên tục dĩ nhiên là phải mệt
nhưng mọi người chỉ cảm thấy cái mệt rõ ràng nhất sau khi công việc hoàn tất về
đến phòng nằm xuống.
Lê Uyên qua phòng tôi nói chuyện tới lúc Trịnh Nam Sơn kêu
lên. 5 giờ sáng rồi. Ðêm qua rất nhanh. Nhưng kỷ niệm của một thời Ðà Lạt khói
sương. Lục Huyền Cầm với những đóa hồng Tường Vi bên con dốc nhỏ. Thời đó, tôi
còn trẻ, Lê Uyên còn trẻ hơn, chưa có gì để chia sẻ. Bây giờ, đêm nay, hơn 20
năm sau trên xứ người, có lẽ đây là lần đầu tiên chúng tôi nói với nhau những
điều nên nói ra. Ðúng, nên nói ra một lần rồi thôi. Lê Uyên nghĩ gì về tôi? Ðiều
đó Lê Uyên biết. Ngày xưa tôi đã đến với Lục Huyền Cầm và đêm nay tôi nghĩ là
Lê Uyên sẽ không bao giờ còn những thắc mắc về tôi nữa.
Tôi trở về với một tâm trạng rất thoải mái. Nội dung của bài
hát kết thúc chương trình Asia 9 làm tất cả mọi người có mặt trong đêm đó rưng
rưng ngậm ngùi. Khán giả đứng lên vỗ tay. Ca sĩ hát với tất cả sự xúc động thật
thà nhất. Bài hát dứt. Chương trình kết thúc, khán giả và ca sĩ ôm nhau, nắm
tay nhau thăm hỏi. Bài được cho chạy thêm lần nữa. “Khắp nơi trên địa cầu. Giờ
in dấu bước chân Việt Nam”. Những vòng tay siết chặt không muốn rời. Ôi, chưa
bao giờ kể từ cái mùa Xuân đau thương đó, chúng tôi được khán thính giả bầy tỏ
lòng yêu thương chân thành như vậy. Thành phố Montréal là nơi cho tôi cùng một
lúc cả cay đắng lẫn yêu thương nhưng dù có thế nào đi chăng nữa, tôi cũng xin
ghi nhớ mãi như tôi vẫn thường thương nhớ những nơi tôi đã đi qua. Bởi có những
nơi, tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa.
Khánh Ly






































Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét