Lần theo ký ức của nhân vật trữ tình, người đọc cảm nhận được
tiếng vọng của tình yêu, của hồn người gắn với tiếng vọng của lịch sử từ thời
kháng chiến chống Mỹ. Đất nước như con tàu bị cắt làm đôi, em và anh cũng đi về
hai phía:
nhưng chúng ta đã đi ngược chiều nhau
em từ Nam ra Bắc
anh từ Bắc vào Nam
hai tinh cầu nhỏ bé trượt qua nhau lặng lẽ
chỉ không trung nghe được tiếng vọng thầm
(Tiếng vọng)
Trong bài thơ Em yêu anh, Khánh Mai thể hiện những
cung bậc tình yêu qua hình ảnh cảm giác về sự vật, âm thanh và ánh sáng và người
đọc mặc sức liên tưởng “hương vị” của những tia nắng ban mai, tiếng chim
hót, mưa thu dịu lành, sóng tự ghềnh xa, phím đàn tuôn đổ âm ba, phía chói loà
ngời sáng. Từ đó, chị ước nguyện một tình yêu vĩnh hằng:
em yêu anh
như tình yêu đầu tiên, như tình yêu cuối cùng
ta bên nhau hành trình không về đích, không giới hạn
chỉ ý nghĩ vươn về nhau bất tận
chỉ thơ nhạc cất lời cho khoảng lặng rung lên
em yêu anh và anh yêu em
(Em yêu anh)
Với người phụ nữ, tình yêu vốn đặc biệt nhạy cảm với những biến
động của đời sống nên nhiều trắc trở và lắm âu lo, vì thế ngay cả trong phút
giây tình tự hạnh phúc, Thúy Kiều đã linh cảm về những bất trắc: Bây giờ
rõ mặt đôi ta/ Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao (Truyện Kiều). Khánh
Mai thể hiện những linh cảm của mình bằng những liên tưởng nhuốm màu siêu thực,
những hình ảnh ảo giác, tiếng gọi của giấc mơ:
chiếc cầu gỗ chao đảo
em đứng bên này
anh phía bên kia
dưới chân ta dòng sông cuộn trào, chảy xiết
phải chăng ẩn mật thiên cơ chỉ mình em được biết?
(Linh cảm nghiệt ngã)
Và linh cảm đã thành hiện thực, dù là khát vọng tình yêu
chung thuỷ, cuộn xiết nhau cùng nốt nhạc vần thơ, nhưng định mệnh tàn nhẫn,
duyên phận phủ phàng đã đẩy lứa đôi cách xa về hai thế giới. Niềm đau của thi
nhân đã gợi lên bao nỗi xót xa thương cảm:
nơi đường biên bầu trời trái đất
ta chia tay nhau
anh hoá thành mây trắng
em đơn độc cánh cò
áo tang trắng màu mây
(Mây trắng)
Bài thơ Người đàn bà đi tìm tiếng chuông có chuỗi
hình ảnh ẩn dụ sắc nét và giàu ý nghĩa. Sự kết hợp giữa thực và ảo với những
hình ảnh quả chuông câm, con nhện góa, chiếc lá vàng, vốn là những thực tại
xa nhau nhưng đã được đặt trong cùng quan hệ với hình ảnh tiếng nói thầm phía
sâu lồng ngực. Tất cả tập trung thể hiện tiếng chuông, cũng là hình
tượng trái tim, tiếng chuông ấy phải chăng là tiếng lòng của người đàn bà,
hồn thơ của nữ sĩ, một thời ngân nga trong thinh không rồi trôi đi vô
tích, vùi sâu lòng đất, chìm đáy đại dương và im bặt giữa tầng mây trắng. Cảm
nhận được cái phi lý của cuộc đời, day dứt vì sự tàn tạ, phôi pha theo năm
tháng, đồng thời thể hiện niềm khát khao sống, khát khao giao cảm tâm hồn, thể
xác và giấc mơ xuân trẻ, tiếng chuông ấy đã chuyển hóa thành những hình ảnh với
nỗi buồn thương không dứt:
con nhện góa miệt mài giăng tơ
đan tấm lưới chiều buồn bã bâng quơ
vớt những âm thanh vọng tưởng
(Người đàn bà đi tìm tiếng chuông)
Đọc thơ Khánh Mai, thấy chênh vênh giữa hai bờ hư - thực, cái
thực là một “cái tôi” đầy cá tính được thể hiện qua những hình ảnh vật thể và sự
việc như được nhìn thấy trong giấc mơ, được xây dựng bằng những liên tưởng dựa
trên những nghịch lý, bất ngờ, đập mạnh vào trí tưởng tượng:
em
từng đêm, từng đêm
hồn đi hoang, thoát khỏi căn phòng đơn lạnh
bức rèm hoa dây leo lay động
bầy côn trùng rầu rĩ giao hoan
mưa thu tí tách gọi tình
hạt sương quyên sinh trong niềm đau dâng hiến
gió thì thào lời yêu bất tận
lá reo mừng quấn quýt những bước chân
bầu trời đêm rất xanh
trăng sao thắp đèn quanh ngôi nhà mây trắng
(Mật ngôn của tình yêu)
Tác giả đã sử dụng những hình ảnh từ đặc điểm về hình thể, âm
thanh của sự vật, hiện tượng: bầy côn trùng, mưa thu, hạt sương, gió, lá,
bầu trời, trăng sao để bộc lộ niềm khát khao hạnh phúc của nhân vật trữ
tình. Hàng loạt hình ảnh mộng mị, mê sảng được được gợi lên với nhịp điệu dồn dập,
hối hả, làm liên tưởng một cuộc giao hoan đầy cảm giác ái ân trong đêm hoa
đăng, không phải trong căn phòng chật chội mà giữa vũ trụ vô cùng vô tận, để trăng
sao thắp đèn quanh ngôi nhà mây trắng. Đoạn thơ tiếp theo là sự cảm nhận hạnh
phúc ái ân bằng những giác quan tinh nhạy và niềm đam mê đắm đuối:
đêm
căn phòng trống trải
bỗng ngập tràn mùi hương ân ái
cái mùi hương đi vắng đã mười năm
trở về
ướp lên mái tóc em
ủ thơm chăn gối
mơn man da thịt hồi sinh
nồng nàn hơi thở thương quen
riết róng vòng tay êm ấm
thảng thốt nụ hôn muộn mằn sau quên lãng…
(Mật ngôn của tình yêu)
Nhưng tất cả chỉ là ảo giác - ảo giác về một tình yêu hạnh
phúc đã trở thành kỷ niệm, trở thành nỗi đau quặn lòng, vì giờ đây, người tình
đã khuất xa, tất cả chỉ còn em đắm đuối ngắm hình bóng anh qua làn khói mỏng.
Niềm khát khao ân ái, khát vọng hạnh phúc, chung tình trong hoàn cảnh mất mát
đau thương, phải chăng là vùng ẩn mật của bản thể, là Mật ngôn của tình
yêu mà nhà thơ muốn gửi gắm. Nhà thơ vận dụng những yếu tố siêu thực, kết
hợp thực và ảo, diễn tả tiềm thức bằng cách trình bày các sự vật như được thấy
trong giấc mơ với những hình ảnh thiên về cảm giác mơn man da thịt.
Khi đã ở tuổi xế chiều, cũng là lúc nhìn lại mình đời đã
xanh rêu (Trịnh Công Sơn), người ta thường hồi tưởng về quá khứ, chiêm
nghiệm về những được mất trong cuộc đời dâu bể với một nỗi niềm ngùi ngùi
thương cảm, đó cũng là cảm hứng của Lê Khánh Mai trong bài Khi người ta
già. Cùng với tháng năm, người ta càng già dặn, chín chắn chứ không còn bồng bột,
nhiệt thành đến mức nóng nảy, động đến là xù lông như chú chim ngày
xưa - thời trẻ trung sôi nổi:
những chiếc gai nhọn trên hình hài tù dần đi và rụng hẳn
đâu rồi chú chim bé nhỏ ngày xưa, động đến là xù lông
chiếc lưỡi mềm đã thấm mệt, chịu nằm ngoan
trong khoang miệng…
(Khi người ta già)
Hình ảnh ẩn dụ chú chim bé con ngày xưa là biểu tượng
thể hiện một “cái tôi” đã hư hao qua năm tháng, qua những biến đổi thăng trầm
trong cõi nhân sinh. Đó là sự tự ý thức về những được mất của một thời xuân trẻ.
Con người đó đã ngấm đòn vì cái giá phải trả cho sự nhiệt thành và cả vô
tâm, muốn kêu những tiếng đớn đau, uất hận, đòi rạch ròi đúng sai, phải
trái và muốn nói lời xin lỗi những ai bị nó làm tổn thương. Ba
câu thơ như một lời tự bạch, đã khái quát những nét bản chất rất đời, rất người
của chú chim bé con với khát vọng và sự nuối tiếc vì tất cả đều
quá muộn. Khi đã “tri thiên mệnh”, biết phận người sắp đặt bởi duyên cơ,
thi nhân không muốn những nếp nhăn hằn sâu thêm nữa, vì thế mà buông bỏ,
mặc cho sự đời trôi đi theo quy luật thời gian, để lòng cất lên tiếng hát.
Nói thế thôi, tưởng là buông, là bỏ để vui sống, mà trong miền sâu thẳm của tâm
hồn vẫn thổn thức nỗi ưu tư chợt nhói đau nơi ngực trái rưng rưng. Bài thơ
có những ẩn dụ khá độc đáo, gợi ra nhiều liên tưởng và có sức ám ảnh.
Trong nỗi cô đơn, mất mát và đau thương, khi người tình
đã hoá thành mây trắng, nhà thơ vọng về thế giới bên kia, hồn theo mây trắng
bay về phía anh, đến với cuộc tình vô cùng vô tận:
em đi về phía mưa nguồn chớp bể
cuộn vào anh thác xiết
hát ca lời biển khơi
cùng bay lên bầu trời
mây trắng.
Người đọc thương cảm sâu sắc với nỗi niềm của nhà thơ thể hiện
qua những ấn tượng mơ hồ, huyền hoặc, những ảo ảnh chơi vơi, mong manh lướt qua
tâm trí. Phải là một khát vọng tình yêu mãnh liệt, nồng thắm, chung thuỷ, cháy
hết mình thì mới có cái ý nghĩ vĩnh hằng hoá tình yêu một cách lạ lùng đến như
vậy. Hình ảnh mây trắng hư ảo cứ chập chờn, ẩn hiện trong hồn thơ thi
sĩ, trở thành một ám ảnh trong lòng người đọc. Là người phụ nữ ở thế kỷ XXI,
thi nhân không ngần ngại bộc lộ những miền sâu kín nhất của tâm hồn, cả ý thức
lẫn vô thức, và người đọc ngày nay dễ đồng cảm với những rung động của trái tim
người goá phụ, một con người nhạy cảm, tinh tế, yêu thương gắn bó, chung tình.
Qua những bài thơ Mật ngôn, tác giả đã thể hiện cảm hứng về thân phận con người,
thân phận tình yêu, một “cái tôi” với tâm thức cô đơn buồn thương, có khi “bị
chặt đứt bởi mọi gốc rễ”, rơi từ sợ hãi này đến sợ hãi khác trong hành trình
tìm kiếm chính mình (Trạng thái).
Phải chăng Cái cô đơn là đặc trưng cuối cùng của thân phận
con người? Vì thế, “cái tôi” trữ tình đào sâu vào bản thể, cô đơn trong
cõi người và đi tìm tri kỷ trong thế giới nội tâm (Tri kỷ). Nỗi cô đơn như thường
trực trong tâm hồn thi sĩ, người đọc gặp nhiều bài/ câu thơ gợi trạng thái cô
đơn trong ý thức và cả trong tiềm thức. Ngay cả lúc hai người tình còn bên
nhau, nhà thơ vẫn cảm thấy: như hai vũ trụ cô đơn/ gần nhau mà xa lạ (Linh
cảm nghiệt ngã); khi lại cảm nhận cô đơn ở một không gian: con đường nay bỗng
rộng rinh/ bơ vơ còn lại một mình mình đi (Miền hoang tưởng); Có khi là một
suy niệm: đi mải miết bên lằn ranh định mệnh/ Hạnh phúc cô đơn đi về phía
vô cùng (Bên lề đời nhau), một sự bừng ngộ: triền miên những cơn mơ
ái ân dang dở/ Cơn mơ bỏ đi rồi, trơ trọi một niềm riêng (Hành trình mùa
xuân) và một khái quát có ý nghĩa triết luận: mỗi phận người một vũ trụ
đơn côi (Vũ trụ đơn côi) v.v…
Tập thơ Mật ngôn của tình yêu có những bài thơ hay
được viết theo bút pháp hiện thực - lãng mạn truyền thống với những nét tả thực
như Tiếng vọng, Ký ức ga Hàng Cỏ, Ba mươi tháng tư, Hành trình mùa
xuân, nhưng chủ yếu là những bài thơ có sự vận dụng kết hợp biện pháp nghệ
thuật thơ siêu thực ở chừng mực có thể chấp nhận được, tạo nên sự đa dạng trong
phương thức thể hiện. Có thể thấy rõ điều đó trong các bài: Khi người ta
đã già, Người đàn bà đi tìm tiếng chuông, Mật ngôn của tình yêu, Gió, Linh cảm
nghiệt ngã, v.v… Khánh Mai đã có những tứ thơ mới mẻ, nhiều sáng tạo trong việc
xây dựng hình tượng thơ, những ẩn dụ khá độc đáo, những hình ảnh có ý nghĩa tượng
trưng để miêu tả nội tâm ẩn mật của con người với vùng mờ vô thức, gợi nhiều
liên tưởng bất ngờ và thú vị nơi người đọc. Tuy nhiên, một số bài có những suy
tưởng trừu tượng, những liên tưởng quá xa làm người đọc khó khăn trong việc tiếp
nhận (Khởi đầu, Khoảng trống, Miền hoang tưởng). Lê Khánh Mai không mấy lệ thuộc
những hình thức thơ truyền thống như thể thơ, kết cấu, vần điệu. Chị viết thơ tự
do, thường phá vỡ trật tự thời gian, không gian tuyến tính, ngắt giọng theo nhịp
rung động của cảm xúc, sự mời gọi của tâm tưởng, bởi vì Chỉ có vần luật bên
trong hòa hợp với nhịp đập con tim là có ý nghĩa [*]. Một số bài được cấu
tạo như một chùm thơ ngắn (Hát một mình trong sương mù, Những mảnh vỡ của ngọc,
Miền hoang tưởng), lại có những bài thơ văn xuôi, câu dài miên man tưởng không
dứt (Chuyển dịch, Bản thể, Khoảng trống) và một bài lục bát lạc lối giữa vườn
thơ hiện đại (Xa xăm). Phần lớn là những bài thơ không vần hoặc ít vần nhưng vẫn
giàu nhịp điệu, rất ít dùng dấu câu (chỉ dùng dấu phẩy và dấu chấm kết thức
bài). Lời thơ phóng khoáng, không cầu kỳ, trau chuốt, bóng bẩy nhưng giàu sáng
tạo, có sức gợi hình gợi cảm, thể hiện bản lĩnh của một cây bút thơ đang ở độ
chín.
Chú thích:
[*] Dẫn theo M. Amaudov. Tâm lý học sáng tạo văn học, Nxb Văn
học, 1978, tr. 535.
19/9/2021
Nguyễn Phương Hà
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét