Nhà thơ Thế Lữ (1907-1989) nổi tiếng trong cả văn chương lẫn
sân khấu. Thế nhưng, nhắc đến nhà thơ Thế Lữ là công chúng nghĩ ngay đến bài
thơ “Nhớ rừng”. Nhà thơ Thế Lữ đã gửi gắm điều gì vào “lời con hổ ở vườn bách
thú” mà bao nhiêu thập niên trôi qua, vẫn còn dư âm trong lòng nhiều thế hệ?
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thâm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cay xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! Thời oanh liệt này còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Dăm vầng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Nơi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cánh rừng ghê gớm của ta ơi”.
“Nhớ rừng” chính là lời con hổ ở vườn bách thú của Thế Lữ.
Chính vì có ý ấy, mà mở đầu “Nhớ rừng”, Thế Lữ mới dùng “Lời con hổ ở
vườn bách thú” làm đề từ, làm lời dẫn cho bài thơ của mình.
Đây là bài thơ hay vào bậc nhất của Thế Lữ và là bài mở đầu của
một thời đại trong thi ca trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh- Hoài
Chân. Và sau rất nhiều năm, năm 2005, Nhà xuất bản Giáo dục lại chọn “Nhớ rừng”
vào Tuyển thơ Việt Nam thế kỷ 20.
Trong phần giới thiệu về Thế Lữ, Hoài Thanh viết: “Chính tên
là Nguyễn Thứ Lễ. Sinh tháng 10 năm Đinh Mùi (1907). Nơi sinh Thế Lữ lấy làm lạ
thấy người nói là Thái Hà Ấp Hà Nội, còn thi sĩ thì cứ tưởng là Lạng Sơn, nơi
đã ở từ khi còn bé đến năm 11 tuổi. 11 tuổi xuống Hải Phòng. Học đến năm thứ ba
ban thành chung thì bỏ để theo sở thích riêng. Sau đó lên Hà Nội học trường mỹ
thuật, nhưng lại thôi ngay. Bắt đầu viết từ hồi này. Được ít lâu bị đau lại về
Hải Phòng tĩnh dưỡng. Những ý thơ và đôi bài thơ đầu tiên, như bài Lựa tiếng
đàn, nẩy ra trong lúc này. Có chân trong Tự lực văn đoàn và trong tòa soạn các
báo: Phong hóa, Ngày nay, Tinh hoa. Đã xuất bản: Mấy vần thơ (1935, Đời
nay, Hà Nội, 1941)”.
Cũng trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh – Hoài Chân đánh
giá rất cao Thế Lữ: “Độ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vừng sao đột hiện ánh
sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Dầu sau này danh vọng Thế Lữ có mờ đi ít
nhiều nhưng người ta không thể không nhìn nhận cái công Thế Lữ đã dựng thành nền
thơ mới ở xứ sở này…Bởi không có gì khiến người ta tin thơ mới hơn là đọc những
bài thơ mới hay. Mà thơ Thế Lữ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số
câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tấu âm thanh…Thơ Thế Lữ là nơi hẹn hò của
hai nguồn thi cảm. Thế Lữ đã băn khoăn trước hai nẻo đường: Nẻo về quá khứ với
mơ mòng, nẻo tới tương lai và thực tế”.
Không ngần ngại, Hoài Thanh đã chọn 6 câu trong nhớ rừng: “Nhớ
cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già/ Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét
núi/ Với khi thét khúc trường ca dữ dội/ Ta bước chân lên, dõng dạc, đường
hoàng/ Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng/ Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc” để
viết “không ai còn có quyền bĩu môi trước cuộc cách mệnh về thi ca đương nổi dậy.”
Nhiều năm sau, nhà thơ Vũ Quần Phương đã bình “Nhớ rừng” khá
tâm đắc: “Bài thơ mượn lời một con hổ ở vườn bách thú. Đề tài đầy kịch tính. Cảnh
ngộ là một thân hèn mọn, bất lực, hồn vía là một chúa sơn lâm. Ông chúa này đã
hết thời đạp phá hưng dữ, đòi tự do. Ông đã thấm thía sự bất lực và ý thức được
tình thế của mình, cam chịu cảnh gặm nhấm một khối căm hờn, nằm dài trông chờ
ngày tháng qua, mặc cho thân thế bị tụt xuông ngang hàng với các loài hèn kém.
Nhìn bề ngoài, người ta có thể nói: Con hổ này đã được thuần hóa: “Chịu ngang bầy
cùng bọn gấu dở hơi/ Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”. Nhưng đấy chỉ là bề
ngoài, còn thế giới bên trong của mãnh thú, tội nghiệp thay, vẫn ngùn ngụt lửa.
Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ có dịp tung hoành, có dịp chứng tỏ sức diễn đạt
phong phú của thơ mới khi dựng lại khung cảnh kì vĩ trong mộng tưởng của chúa
sơn lâm…”
Đấy là nghĩa đen, nghĩa hẹp. Còn về nghĩa bóng, nghĩa rộng… Nhớ
rừng chính là bi kịch của những kẻ có sức mạnh, có chí lớn nhưng bị mất tự
do, bị giam hãm trong một không gian nhỏ hẹp, không gian nô lệ. Đó cũng là bi kịch
của nhiều người dưới thời Pháp thuộc. Nhưng dường như trong cái không gian nô lệ
ấy, chúa sơn lâm vẫn không hoàn toàn chịu khuất phục, chính vì thế mà phần cuối
của “Nhớ rừng” mới có mấy câu: “Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn/ Để hồn ta
phảng phất được gần ngươi/ Hỡi cánh rừng ghê gớm của ta ơi”.
Điều đặc biệt là dù có thể quên 46 câu của tác phẩm này, thì
người đời sau, cũng không thể quên một câu, ấy là “Than ôi, thời oanh liệt
nay còn đâu?”. Câu thơ sẽ trở thành câu cửa miệng cho những ai rơi vào bi kịch
hết thời. Câu thơ này cũng có giá trị tương tự như câu “Cơm áo không đùa với
khách thơ” của Xuân Diệu, câu “Mờ trong bóng chiều một đoàn quân thấp thoáng” của
Phạm Duy nếu áp dụng vào một tình huống cụ thể khác.
Và nếu trong văn xuôi, Nam Cao để lại trong văn học sử một
Chí Phèo ăn vạ, Vũ Trọng Phụng để lại một Xuân tóc đỏ cơ hội, luôn biết xuất hiện
đúng nơi, đúng lúc… thì Thế Lữ, Xuân Diệu, Phạm Duy, cũng đã làm được những điều
tương tự trong thơ.
Nêu thế để thấy: Thơ để nhớ được một câu, một bài, lại mang
giá trị lâu dài trong đời sống, không phải là việc đơn giản.
Đi cùng thời gian, tính đến mùa xuân Nhâm Dần 2022, ít nhất “Nhớ
rừng” cũng đã có tuổi thọ gần 90 năm rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét