Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương:
Tài danh từ tuổi hai mươi
Với một người sáng tác, cả đời mà có được chỉ một tác phẩm sống
mãi theo thời gian cũng đã là quý lắm. Có nhiều ca khúc bất hủ, lại có từ khi
còn rất trẻ thì quả là hiếm hoi. Đó là trường hợp Nguyễn Văn Thương - một nhạc
sĩ lớn có bề dày tác phẩm giá trị và sự đóng góp rất đáng kể ở nhiều lĩnh vực
cho nền âm nhạc nước nhà (đào tạo, quản lý, đối ngoại…).
Nguyễn Văn Thương (1919-2002) sinh ở Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên - Huế, trong một gia đình có bố và mẹ đều là những người yêu thích và có
chơi âm nhạc nên thừa hưởng được “zen” di truyền. Năm 16 tuổi, vừa tốt nghiệp
trường phổ thông, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Thương cùng bạn bè rủ nhau gặp mặt
liên hoan chia tay. Rồi họ lướt thuyền trên sông Hương du hý, thưởng ngoạn cảnh
sắc nên thơ của quê hương.Vô cùng cảm xúc trước bức tranh thiên nhiên diễm lệ, đêm ấy,
chàng về lập tức viết nên bài hát Trên sông Hương với âm điệu hết sức
êm dịu, lãng mạn: “Chiều tàn trên bến sông Hương lờ trôi. Bóng chim bay về chân
núi xa vời. Chiều tàn trên bến mang theo hoàng hôn. Dòng sông buồn mơ chiếu áng
mây hồng...”. Bài hát sau đó được rất nhiều ca sĩ thể hiện. Nhiều nghệ sĩ ở hải
ngoại đã không biết tác giả là một cậu học sinh mới 16 tuổi - cái tuổi choai
choai chưa định hình tính cách, thường vẫn còn rất lông bông, lêu lổng. Vậy mà
bài hát lại rất mơ mộng, sâu lắng cứ như của một tác giả đã trưởng thành, chín
chắn.Cố nhạc sĩ Nguyễn Văn ThươngTrên sông Hương đã hay. Nhưng 4 năm sau - lúc 20 tuổi -
Nguyễn Văn Thương còn viết bài thứ hai hay hơn. Đó là bài Đêm đông rất
nổi tiếng, không ca sĩ nào không thuộc nằm lòng và trở thành một trong những
bài “tủ” nhất của họ: “Chiều chưa đi màn đêm buông xuống. Đâu đấy buông lững lờ
tiếng chuông. Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời, cùng mây xám về ngang lưng trời…”.
Tôi cho rằng trong những ca khúc ta vẫn gọi là “tiền chiến”, Đêm
đông nằm trong tốp những bài hay nhất, sống mãi theo thời gian. Bài hát mới
nghe lần đầu đã rất ấn tượng, càng nghe càng thấy hay. Và nếu ai biết hát thì
càng hát càng thấy “đã” với những quãng giai điệu khi “đổ” rất sướng, có thể
khoe được hết vẻ đẹp của giọng. Bởi vậy mà hầu như bạn nào học thanh nhạc trong
các trường nhạc cũng tìm đến bài này để thi phần hát ca khúc Việt Nam.
Khi Nguyễn Văn Thương chưa qua đời, do rất ngưỡng mộ tài năng
của ông mà tôi có nhiều dịp tiếp xúc, trò chuyện với ông. Tôi tỏ sự ngạc nhiên
khi thấy ông viết bài hát này lúc mới 20 tuổi, chỉ sau khi viết Trên sông
Hương có 4 năm. Càng thú vị hơn về Đêm đông khi tôi được tác giả
cho biết đầu đuôi, xuất xứ việc ông cho ra đời bài hát.
Năm 1939, sau khi học xong ở quê (Huế), gia đình cho Nguyễn
Văn Thương ra Hà Nội học tiếp tại trường Thăng Long. Ông say mê âm nhạc, đặc biệt
rất thích cây đàn guitar Hawali. Tại Hà Nội khi đó có hiệu đàn Đông Phát, phố Cầu
Gỗ nổi tiếng. Ông có ý muốn mua nhưng giá những 1,5đ (tiền Đông Dương khi ấy),
phải vét tiền trong túi để đặt “cọc” trước 5 hào và căn cước. Lúc này đã cận kề
Tết Nguyên đán. Thế là Tết năm đó, chàng nhạc sĩ trẻ đã không đủ tiền để đi tàu
về Huế. Đúng đêm giao thừa, tại nơi đất khách quê người, chàng buồn, nhớ nhà da
diết.
Ngay từ chập tối, không hiểu sao đôi chân của chàng cứ tự
nhiên lê bước ra ga Hàng Cỏ (ga Hà Nội bây giờ) mặc dù biết rõ mình không thể
lên tàu về Huế vì đã dốc hết tiền để đặt “cọc” mua đàn. Thế là khi con tàu xuôi
Nam chuyển bánh, chàng cứ thế đi dọc theo con đường song song với đường sắt
(bây giờ là đường Lê Duẩn). Đêm giao thừa thường khiến con người ta nảy ra nhiều
cảm xúc, tâm trạng, nhất là với chàng trai trẻ xa nhà như Nguyễn Văn Thương.
Ông buồn, đến ngã tư Khâm Thiên thì rẽ tay phải chứ không về
nhà trọ ở ngõ Hội Vũ. Ông cứ đi lang thang như thế một hồi lâu. Phố Khâm Thiên
khi ấy là phố cô đầu. Cả trong mọi ngõ, ngách của con phố này đều là những tiệm
hát cô đầu. Khách mày râu vào đây, vừa ngả ngốn bên bàn đèn hút thuốc phiện, vừa
nghe các cô nương hát các bài theo làn điệu ả đào. Khi thấy bóng người đàn ông
đi qua, từ trong căn phòng, một cô mở cửa bước vội ra để đón khách. Cô nương
này thấy khách là một cậu mặt còn non choẹt thì thất vọng bước vào. Nguyễn Văn
Thương nhìn thấy cô uể oải nhìn gương vuốt lại mái tóc. Chi tiết này khiến ông
viết nên câu “Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng”.
Và đêm hôm ấy, sau khi đi lang lang lòng vòng một hồi lâu đến
quá giao thừa thì ông về nhà trọ. Bao nhiêu tâm trạng buồn nhớ quê hương, thấy
mình cô đơn, xa lạ giữa nơi đất khách, ông không thể ngủ, đã ngồi dậy viết một
mạch xong bài Đêm đông, với những lời mở đầu thật buồn thương thống thiết
được chuyển tải bằng một giai điệu viết ở giọng thứ, tiết tấu dàn trải nghe rất
nao lòng: “Chiều chưa đi, màn đêm buông xuống. Đâu đấy buông lững lờ tiếng
chuông. Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời cùng mây xám về ngang lưng trời…”.
Sau đó, khi học xong ở Hà Nội, trở về Huế, Nguyễn Văn Thương
cho nhiều người nghe bài này. Ai cũng rất thích, yêu cầu ông dạy cho họ. Không
ít người hỏi rằng ở Hà Nội có nhiều người đi đạo Thiên Chúa hay sao mà trong
bài có câu: “Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông”. Ông giải thích: Hà
Nội không có nhiều người theo đạo này mà theo đạo Phật nhiều hơn. Tiếng
chuông trong bài là chuông của những người tụng kinh, gõ mõ vào lúc sắp đến
giây phút giao thừa. Đó là những người vừa niệm Phật, vừa tụng kinh, vừa gõ mõ,
thỉnh thoảng lại gõ vào chuông, phát ra tiếng “boong”. Vậy nên mới “lững lờ tiếng
chuông”, tức tiếng nhỏ, thưa thớt, chứ nếu tiếng chuông nhà thờ Thiên Chúa thì
phải dồn dập và to, vang xa hơn chứ không thể “lững lờ”.Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương thời trẻNguyễn Văn Thương viết Đêm đông không chỉ biểu hiện
tâm trạng của mình mà còn nói hộ tất cả những người có chung cảnh ngộ như ông
trong thời khắc giao thừa phải xa quê hương, những người ruột thịt. Câu cuối
cùng trong bài hát này bị không ít người hát sai lời: “Có ai thấu tình cô lữ
đêm đông không nhà” khiến tác giả rất phiền lòng. “Cô lữ” là người đi xa quê (lữ)
sống trong hoàn cảnh cô đơn (cô). Đã bị hát sai là “cô nữ”. Không phải là phát
âm ngọng mà là không hiểu nghĩa từ “cô lữ”. Đương nhiên, nếu hát là “cô nữ” sẽ
không có nghĩa gì.
Đến năm 1942, Nguyễn Văn Thương có thêm bài Bướm hoa cũng
rất lãng mạn. Cùng với hai bài trên, ông được coi như người mở đầu của dòng tân
nhạc Việt Nam. Vậy mà chỉ ít năm sau, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc
ta chống thực dân Pháp bùng nổ, ông đã nhanh chóng chuyển mình, bắt nhịp được với
mạch tình cảm của toàn dân để viết nên bài “Bình Trị Thiên khói lửa” là một
trong những ca khúc kháng chiến hay nhất: “Hướng về Nam, ai từng vô sông
Hương, từng nương Thiên Mụ, từng ngụ Đập Đá, Văn Xá, Truồi Nong…”.
Nếu chỉ mấy năm trước, bài hát của ông lãng mạn, đượm buồn,
bâng khuâng, man mác thì đến năm 1948, bài Bình Trị Thiên khói lửa ra
đời lại là sự tương phản rất rõ bằng việc biểu hiện lòng sục sôi căm thù giặc,
cháy bỏng ý chí chiến đấu của quân dân ta. Đây là một bức tranh bằng âm thanh rất
sinh động về cuộc kháng chiến ở miền Bình Trị Thiên những năm tháng đó.
Sau ngày hòa bình lập lại (1954), Nguyễn Văn Thương tập kết
ra Bắc rồi được tu nghiệp ở CHDC Đức. Sau đó ông tiếp tục phát triển sự nghiệp
sáng tác với việc ra đời hàng loạt ca khúc có giá trị, sống mãi trong tâm khảm
công chúng: Đi gieo những hạt mùa xuân, Bài ca trên núi (trong phim “Vợ chồng
A Phủ”), Dân ta đánh giặc anh hùng, Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ (phổ thơ Tố
Hữu), Bài ca hữu nghị Việt - Lào, Dâng Người tiếng hát mùa xuân, Lá thư gửi mẹ… Ông
cũng là một trong những nhạc sĩ viết khí nhạc (không lời) nổi tiếng và là người
đầu tiên viết nhạc cho múa ở Việt Nam. Nhiều tác phẩm của ông mang tính mẫu mực
và đã nằm trong giáo trình giảng dạy trong các trường nhạc.
Không chỉ sáng tác giỏi với những tác phẩm để đời như ta đã
thấy, Nguyễn Văn Thương còn là nhà quản lý, nhà sư phạm âm nhạc tài ba. Ông đã
có công phát hiện và đào tạo nên nhiều tài năng âm nhạc trong lĩnh vực sáng tác
và ca hát. Ông từng kiêm nhiệm hai vai trò lớn: Vừa là Giám đốc Nhạc viện Hà Nội,
vừa đồng thời là Giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam trong một thời gian dài
trước lúc nghỉ hưu. Với tầm nhìn xa sắc sảo, ông đã quyết định nâng khoa Âm nhạc
Cổ truyền tại Nhạc viện Hà Nội từ trung cấp lên đại học và cho đào tạo nhạc nhẹ
mà trước đó không có. Nhiều thế hệ nhạc sĩ và ca sĩ đã rất biết ơn ông - người
thày, người cha kính yêu của họ. Với nhiều thành tích rất lớn trong sự nghiệp,
ông được phong tặng nhiều danh hiệu cao quý: NSND, NGND, Giáo sư, giải thưởng Hồ
Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.
Năm 2002, Nguyễn Văn Thương qua đời, để lại một khoảng trống
lớn không dễ có thể bù đắp.
27/9/2021 Nguyễn Đình San
27/9/2021
.jpg)


.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét