Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

Đi tìm đường bay ưu việt của thi ca

Đi tìm đường bay ưu việt của thi ca 
Qua những nguồn tài liệu sưu tập tham khảo từ những quyển sách Thi Nhân Việt Nam của Hoài Chân Hoài Thanh_Thi Ca Việt Nam Hiện Đại của Trần Tuấn Kiệt-Tổng Quan Văn Học Miền Nam của nhà văn Võ Phiến-Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến do Trần Hoài Thư chủ trương...Những bài viết của các nhà văn, nhà thơ, trên các tạp chí Văn học trong nước và hải ngoại. Tác Giả Việt Nam, sưu tập của Luân Hoán. Chúng ta chỉ tính từ thời điểm khi bài thơ Tình Già của Phan Khôi được xem như một tuyên ngôn khai sinh thơ mới hiện đại Việt Nam xuất hiện đầu tiên trên Phụ Nữ Tân Văn Số 132 vào ngày 10 tháng 3 năm 1932_Saigon.
Trong khoảng thời gian gần nửa thế kỷ nếu tính từ năm 1932 đến năm 1975 căn cứ theo những nguồn tài liệu nêu trên chúng ta có thể ước tính số lượng thi sỹ có những bài thơ được tuyển chọn lên đến vài trăm người được đánh giá "trăm hoa đua nở" vì thế với thời lượng quy định của ban tổ chức yêu cầu quả thật khó khăn để chọn một số bài thơ hay của ba miền đất nước thân yêu. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng nêu lên vài nhà thơ tiêu biểu qua hai điều kiện đã được đãi lọc thử thách qua thời gian cũng như sự thẩm định yêu thích của đa số quần chúng một cách khách quan và tương đối. Trước khi bước vào sự việc thẩm định thế nào là một bài thơ hay? Và địa vị của thơ trong Văn Học Việt Nam. Chúng tôi xin đan cử một vài kinh nghiệm về thơ của nhà giáo Nguyễn Sỹ Tế: "Thơ là một ngành nghệ thuật ngôn ngữ khó khăn vào bậc nhất. Thơ dễ vào mà khó ra. Làm thơ thật là dễ, nhưng làm thơ cho hay lại là thật khó. Thơ là một siêu nghệ thuật về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một cái thiên tài sáng tạo của một dân tộc. Ngôn ngữ của thi ca là một thứ ngôn ngữ siêu đẳng xôn xao âm hưởng và ấm áp sâu đậm sắc màu. Nắm được con ngựa thần bất kham chúng ta đã có điều kiện căn bản để trở thành một bài thơ hay rồi vậy!".
Trong tiến trình văn học Việt Nam chưa bao giờ dân tộc lại sản sinh ra nhiều nhà thơ như trong thời điểm vài ba thập niên vừa qua cũng như hiện nay từ trong nước đến hải ngoại. Chúng ta bị ảnh hưởng sâu xa về phát biểu của Ngô Thời Nhậm: "Việt Nam đáng hãnh diện là một nước thơ. Và mỗi người Việt nam là một thi sĩ...". Chỉ có thể đúng một phần qua nhận định ở lớp bình dân sáng tạo những giòng văn học mang tính nhân gian trong sinh hoạt của đời sống thường nhật. Hay vì tâm lý muốn được người đời gọi mình là thi sỹ. Chính từ những tư duy thiếu khiêm tốn nên rất khó đồng thuận hợp nhất tiêu chuẩn đi tìm đường bay tuyệt đỉnh của thi ca. Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Chân_Hoài Thanh cũng chưa phải là một nhà phê bình hoàn hảo đáng tin cậy mặc dù hai ông được giới trí thức đánh giá nhiều ưu điểm giới thiệu trên 40 nhà thơ với mấy trăm bài thơ đính kèm. Tuy nhiên Hoài Chân_Hoài Thanh vẫn không thoát ra những thành kiến khắt khe đối với thi sĩ Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Vũ Hân, một số nhà thơ khác và nhóm Xuân Thu Nhã Tập....mặc dù cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ qua ở hải ngoại vẫn có nhiều người còn thuộc thơ Nguyễn Bính yêu thơ Đinh Hùng...Từ suy nghiệm này chúng tôi đề cập đến trường hợp vua Tự Đức sáng tác rất nhiều thi phẩm nhưng chỉ được nhân gian nhắc đến bài thơ "Khóc Bằng Phi" với hai câu cuối cùng: "Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/Xếp tàn y lại để dành hơi...".
Quá tuyệt vời và tôn vinh ông là một nhà thơ lẫy lừng trong thi đàn Việt Nam. Một trường hợp điển hình khác chúng tôi muốn đan cử đến bài thơ "Cáo Tật Thị Chúng" của thiền sư Mãn Giác với hai câu cuối bài: 
"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/Đình tiền tạc dạ nhất chi mai/... Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.../Đêm qua sân trước một cành mai..."
Hai câu cuối đã vượt trội xuất sắc, mang tư tưởng nhân sinh quan hiện thực, tăng giá trị bài thơ và được thẩm định là một bài thơ hay vượt qua thời gian. Cũng như trường hợp chỉ mấy câu thơ của dũng tướng Lý Thường Kiệt trước quân nhà Tống phương Bắc cũng đủ nói lên ý chí của người quân tử nước Nam:"Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/Như Hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhử đẳng hành khan thủ bại hư....Sông Núi nước Nam vua Nam ở/Rành rành định phận tại sách Trời/Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.." đã trở thành một bài thơ tuyệt tác lưu truyền cả ngàn năm trong lịch sử. Những nhà phê bình thi ca chưa hẳn có một thần trí siêu việt dễ thấu triệt những ẩn ý sâu xa bài thơ của mỗi thi sĩ như sự nhạy cảm tuyệt vời giữa Bá Nha với Chung Tử Kỳ nên đôi khi cảm nhận bài thơ có thể lạc hướng về cái nhìn chủ quan. Qua tài liệu của Hoàng Duy Từ "Đường Thi Tuyển Dịch" chúng tôi khám phá câu chuyện lý thú về thi ca. Nhân vật tiêu biểu đại thi hào Tô Đông Pha đã dám cậy tài làm thơ sửa thơ Tể Tướng Vương An Thạch cũng là một nhà thơ lừng lẫy vào đời nhà Tống bên Trung Hoa. Có một ngày đẹp trời Tô Đông Pha ghé đến thư phòng của Vương An Thạch nhìn lên vách thấy có hai câu thơ: 
"Minh Nguyệt sơn đầu khiếu/Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm" 
Tô Đông Pha chê là vô lý bởi vì:
"Trăng sáng sao lại hót ở đầu núi?/Chó vàng sao lại nằm giữa lòng hoa?" 
nên lấy bút sửa lại:
"Minh nguyệt sơn đầu chiếu/Hoàng khuyển ngọa hoa âm" 
với ý nghĩa: "Trăng chiếu ở đầu núi"/ "Chó vàng nằm dưới hoa".
Sửa xong Tô Đông Pha cảm thấy đắc ý và cảm nghĩ cho dù Vương An Thạch tuy là tể tướng nhưng chưa chắc tài làm thơ hơn mình. Sau đó một thời gian Tô Đông Pha có tội với triều đình nên bị đày ải đến nơi rừng thiêng nước độc. Một hôm vào mùa xuân dạo trong rừng nghe tiếng chim hót rất hay mới hỏi dân địa phương cho biết "Tiếng chim hót hay đó có tên là Minh Nguyệt và loài sâu chuyên tìm ăn ngụy hoa có tên là Hoàng Khuyển..." Tô Đông Pha giật mình tỉnh ngộ và ân hận về sự thiếu hiểu biết và sự ngạo mạn lố bịch của mình.
Xuyên qua sự kiện vừa dẫn chứng chúng ta nên suy ngẫm về sự thẩm định đánh giá một bài thơ hay có tính cách chủ quan không hiểu sâu nghĩa lý là một sự lầm lỡ đáng tiếc.
TIÊU CHUẨN VỀ MỘT BÀI THƠ HAY
Bởi vậy, chúng ta rất khó phân biệt để cùng đồng ý MỘT BÀI THƠ NHƯ THẾ NÀO CHO LÀ HAY và MỨC ĐỘ HAY CỦA MỘT BÀI THƠ? Chúng tôi xin trích dẫn qua một số nhà thơ, phát biểu chân thật về nguyên nhân sáng tạo nên những tác phẩm thi ca của họ. Đó cũng là ý niệm tốt để giúp cho chúng ta thẩm định giá trị một bài thơ hay. 
1. Nhà thơ Nguyên Sa 
...Làm thơ, với tôi, bao giờ cũng cần có cảm hứng, có cảm hứng mới làm được bài thơ đắc ý, không có cảm hứng thì chịu thua. Cảm hứng đưa tôi vào thơ, thời gian này, cũng như hơn bốn thập niên, luôn luôn đến từ sự xúc động chân thực. Có rung động thực và rung động giả, cho nên có cảm hứng thực vả cảm hứng giả. Lúc hai mươi tuổi, đam mê tình ái mang thơ lại cho tôi. Tôi nghĩ thơ tình thời học trò mà tôi nói chuyện suy tư về hữu thể và hư vô là xúc động giả, sâu xa giả, thơ làm dáng không phải thơ. Khi tuổi già đã tới, không còn đam mê tình ái, cánh cửa của tuổi đời sắp khép lại. Những xúc động của những ngày tháng đối diện với sự thật của kiếp người, một cuộc tình hồi tưởng lại, một cuộc tình mơ ước, giọt sương mai mong manh, cơn mưa đến muộn, buổi hoàng hôi, người bạn thâm niên ...là nguồn cảm hứng thật hôm nay của tôi.
2. Nhà thơ Đỗ Quý Toàn 
Nếu phải xếp hạng thứ thơ nào tôi thích hơn, thì tôi sẽ xếp theo thứ tự như sau:
1/Thơ hay tự nhiên là thứ nhất
2/Thơ hay và khéo cũng tốt 
3/Thơ hay mà không khéo thì dễ thương 
4/Thơ khéo không thôi thì hơi thường 
5/Thơ khéo mà không hay xin miễn
Nói xếp hạng cho vui, chứ mỗi người sẽ nhận diện cái khéo và cái hay một cách khác nhau. Có những câu thơ nghe rất tự nhiên nhưng chỉ người làm thơ mới biết đã mất bao lần gọt giũa mới thành. Độc giả không cùng một kinh nghiệm thẩm mỹ, không được đào luyện trong các lò ngôn ngữ như nhau, thì cách thưởng thức sẽ khác nhau. Có những lời tự nhiên thanh thoát ở đời này, sang đời khác lại có vẻ cầu kỳ, không thích hợp. 
Tôi đề nghị chúng ta nên đọc thơ như thể mình đang sáng tạo. Vừa đọc vừa mở ra một thế giới, trong đó lời và cảm thọ do lời gây ra được tự do phát triển. Ta đọc lại như đọc lần đầu, khám phá bài thơ một lần nữa để tìm cảm xúc mới. 
3. Nhà Thơ Luân Hoán 
Thơ hay chính là thơ mới. Theo tôi nghĩ nên làm mới thi ca, nhưng làm mới như thế nào, ra sao thì tôi đang dọ dẫm thí nghiệm, chưa đạt được kết quả nào. Điều cần thiết là phải làm cách nào để cho cái mới đó có hồn, có vía đàng hoàng, phổ biến được đón nhận rộng rãi. Tuy nhiên kỹ thuật và hình thức là những điểm tất yếu phải có của một bài thơ. Nhưng nếu chú trọng quá đáng, có lẽ loãng bớt nội dung, đó là chưa kể nếu quá màu mè, bài thơ lại dễ biến ra một họa phẩm siêu thực...
4. Nhà thơ Tô Thùy Yên 
Đối với tôi thực sự làm thơ không khó, làm thơ hay mới là chuyện khó, rất khó. Khó đến độ nhiều khi từ cái ý muốn khởi đầu cho đến khi hoàn tất bài thơ, không tưởng tượng mình có thể đạt tới được ngoài trí lực của mình. Nói chung làm bất cứ việc gì trong bất cứ lĩnh vực nào mà làm cho tốt làm cho hay thật là khó, rất khó, chớ làm lơ mơ, bất kể, được chăng hay chớ thì ai làm chẳng được. Một bài thơ có hồn mới chuyển đạt xúc cảm đến người khác...
5. Nhà thơ Yên Thao 
Tác giả bài thơ "Nhà Tôi" nổi tiếng.
Hiện nay rất nhiều người làm thơ nhưng thơ hay thì hiếm. Thơ tình yêu lạm phát. Không nên nghĩ tình yêu là tất cả của thơ và thơ chỉ viết về tình yêu lứa đôi.
Thơ là tinh hoa của tiếng nói, tiếc có những bài thơ từ ngữ quá trần truồng, thô kệch, song lại được các báo chí đăng tải như một cái gì mới mẻ, dám nghĩ dám viết(?!!). 
Gom từng hạt bụi phấn
góp từng phân tử đường
con ong làm nên mật 
cho cuộc đời lên hương
người làm thơ chúng ta
hơn con ong cần mẫn 
càng phải biết chọn hoa
đừng làm ra mật đắng!
6. Nhà thơ Hoàng Hương Trang 
Thơ hiện nay nhiều người làm, số lượng thi sĩ đông đảo hơn bao giờ hết, số lượng thơ cũng rất nhiều. Nhưng những bài thơ đi sâu vào lòng người, gây ấn tượng mạnh, làm người đọc yêu và nhớ thì quả thật rất ít, không bằng được những bài thơ gọi là "thơ tiền chiến". Vì sao? Theo tôi, thơ bây giờ dùng ngôn ngữ quá xa lạ với người đọc, làm cho người đọc không thể hiểu nổi tác giả nói gì, có nhiều bài đọc lên tôi cứ tưởng không phải thơ Việt! Bí hiểm, khổ độc, ẩn dụ, làm dáng thời thượng, khoe chữ, đánh đố...đó là những yếu tố làm thơ xa người đọc, có đọc cũng chẳng nhớ lâu nổi. Tôi thích loại thơ "để nhớ suốt đời" như "Chiều" của Hồ Dzếnh, "Hai Sắc Hoa Ti Gôn" của T.T. Kh, như "Lỡ Bước Sang Ngang" của Nguyễn Bính, như "Nhớ Rừng" của Thế Lữ, như "Đây Thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử v.v.. hay xa hơn nữa, như thơ Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm. Ước mong thế hệ chúng ta sẽ để lại nhiều bài thơ "nhớ suốt đời" cho thế hệ sau như chính chúng ta đã được thừa hưởng những áng thơ tuyệt tác của các thế hệ trước.
Chính nhờ vào bản chất truyền thống văn hóa dân tộc hiền hòa nhân ái nên ngay trong thời gian hai miền Nam Bắc đối nghịch nhau về ý thức hệ, nhưng trong giới sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật, trí thức, sinh viên học sinh ở Miền Nam đều có thiện cảm say mê những tác phẩm thi ca của các thi sĩ Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Anh Thơ, Vũ Đình Liên, Thâm Tâm...của thời tiền chiến trữ tình lãng mạn, khởi sắc thăng hoa, dĩ nhiên có nhiều bài thơ hay đến bây giờ vẫn còn được yêu thích. Đại khái như: Lưu Trọng Lư: "Em không nghe mùa thu/Lá thu kêu xào xạc/Con nai vàng ngơ ngác/Đạp trên lá vàng khô...". Hay Hồ Dzếnh: "Tình chỉ đẹp khi còn là dang dở/Đời mất vui khi đã vẹn câu thề/Thơ viết đừng xong thuyền trôi chớ đỗ/Cho nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa." Xuân Diệu với câu thơ ai cũng nhớ:"Yêu là chết trong lòng một ít/Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?/Cho thật nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu." Với bài thơ Ngậm Ngùi nhẹ nhàng quyến rũ mãnh liệt của Huy Cận:
Nắng chia nửa bãi; chiều rồi... 
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giang mau;
Em ơi hãy ngủ...anh hầu quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ.. 
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ... 
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
Theo thiển ý và kinh nghiệm riêng của chúng tôi khi một bài thơ đạt những tiêu chuẩn như sau: 
1. Cảm hứng xuất thần khi sáng tác (hồn thơ)
2. Thể hiện sự chân thật và tự nhiên 
3. Tư tưởng chuyển đạt cảm xúc 
4. Cấu trúc ngôn ngữ để tạo sự dễ nhớ
Hy vọng sẽ được đa số quần chúng và giới phê bình văn học đánh giá là một bài thơ hay. 
Với tiêu chuẩn vừa nêu trên, chúng tôi xin mạn phép đóng vai trò người phu già vực lên trong tro than của quá khứ để tìm những viên ngọc quý không bị hủy hoại của lửa phần thư và không bị thời gian làm phai mờ trong tiềm thức của chúng ta. Đó là những tác phẩm Văn Học dân tộc tuyệt vời trân quý của một thời rạng rỡ tinh hoa của những tên tuổi được yêu thích như Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Trần Dạ Từ, Lê huy Oanh, Du Tử Lê, Hoàng Trúc Ly, Hoài Khanh, Viên Linh, Cao Tiêu, Thanh Nam, Tô Thùy Yên, Trần Hoài Thư, Hoàng Anh Tuấn, Tuệ Nga, Kim Tuấn, Nguyễn Tất Nhiên, Vũ Hữu Định, Huy Phương, Diên Nghị, Cao Mỵ Nhân, Song Nhị, Hà Thượng Nhân, Nguyễn Bắc Sơn, Hoàng Lộc, Hà Thúc Sinh, Thành Tôn, Tạ Ký, Lâm Hảo Dũng, Lữ Quỳnh..v.v.. 
Trong thời lượng ngắn ngủi này, chúng tôi chỉ mạo muội đan cử một vài tác phẩm thi ca tâm đắc theo sở thích riêng tư, kính mong quý vị niệm tình thông cảm. Đó là những bài Tình Già của Phan Khôi, Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Chào Nguyên Xuân của Bùi Giáng, Áo Lụa Hà Đông của Nguyên Sa, Tiếng Chuông Thiên Mụ của Nhã Ca, Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng và Nguyện Cầu của Vũ Hoàng Chương. 
TÌNH GIÀ
Phan Khôi.
"Hai mươi bốn năm xưa,
Một đêm vừa gió lại vừa mưa.
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
Hai mái đầu xanh kề nhau than thở.
"Ôi! đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng, 
Mà lấy nhau hẳn là không đặng.
Để đến rồi tình trước phụ sau;
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!" 
Hay! nói mới bạc làm sao chớ!
Buông nhau làm sao cho nỡ? 
Thương được chừng nào hay chừng nấy, 
Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung? 
Hai mươi bốn năm sau,
Tình cờ nơi đất khách gặp nhau!
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. 
Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mắt có đuôi". 
TỐNG BIỆT HÀNH 
Thâm Tâm
Đưa người ta không đưa sang sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt, 
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
-Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ.
Chí lớn chưa về bàn tay không 
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong. 
Ta biết người buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt, 
Một chị, hai chị cùng như sen 
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay: 
Trời chưa mùa thu, tươi thắm thay,
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc
Gói tròn thương nhớ chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực! 
Mẹ thà coi như chiếc lá bay.
Chị thà coi như là hạt bụi 
Em thà coi như hơi rượu say. 
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Hàn Mặc Tử. 
Sao anh không về chơi thôn Vĩ,
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây 
Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra 
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 
Ai biết tình ai có đậm đà.
CHÀO NGUYÊN XUÂN
Bùi Giáng. 
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này 
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la 
Bên bờ nước có bóng ta bên người 
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi 
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham 
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây 
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu 
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà 
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài 
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau 
Thưa rằng: ly biệt mai sau 
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.
ÁO LỤA HÀ ĐÔNG
Nguyên Sa.
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng 
Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung 
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa 
Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non 
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu 
Em không nói đã nghe lừng giai điệu 
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh 
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại 
Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại 
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn 
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông 
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng 
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng 
TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ 
Nhã Ca. 
Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ 
Cây trái Kim Long, sắt thép cầu
Bạch Hổ Cửa từ bi vồn vã bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng 
Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn
Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn
Những sáng chim chiều dế canh gà 
Tiếng chuông buồn vui dợn thấu trong da
Người với chuông như chiều với tối 
Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy 
Tiếng chuông đến và đi chỉ mình tôi thấy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan 
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em 
Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền
Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố 
Tiếng chuông tan dài như đêm không ngủ 
Tiếng chuông tan tành như tiếng vỡ trong tôi 
Từ dạo xa chuông khôn lớn giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn làm báo 
Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo 
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư 
Tháp cổ chuông xưa, sông nhỏ sương mù
Dòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục
Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc 
Chuông cũ giờ đây bằn bặt trong da 
Tuổi hồng sa chân chết đuối bao giờ
Ngày tháng cũ cầm bằng như nước lũ 
Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi 
Tiếng chuông xưa kìa tuổi dại ta ơi 
Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói 
Những mảnh đồng đen như da đêm tối 
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình 
Những mảnh đồng đen như máu phục sinh 
Những mảnh đồng đen kề nhau bước tới 
Tôi thức dậy rồi đây chuông ơi chuông hỡi
Tôi thức dậy đây tôi thức dậy rồi
Thức dậy thực sự rồi 
Thức dậy cùng dông bão, thức dậy cùng tan vỡ 
Thức dậy cùng lịch sử
Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay
Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay 
Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ 
Cho con trở về đừng mê sảng ngó.
ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
Quang Dũng.
Em ở thành Sơn chạy giặc về 
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi 
Cách biệt bao ngày quê Bất bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương 
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương.
Từ độ thu về hoang bóng giặc 
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn 
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan?
Mẹ tôi em có gặp đâu không?
Những xác già nua ngập cách đồng 
Tôi cũng có thằng con bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc 
Buồn viễn xứ khôn khuây... 
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương 
Đường hoa khô ráo lệ 
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn 
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng 
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ quốc 
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa 
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa 
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Em có bao giờ nhớ đến ta. 
NGUYỆN CẦU 
Vũ Hoàng Chương. 
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi...
Lang thang từ độ luân hồi,
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về.
Trông ra bến Hoặc bờ Mê,
Ngàn thu nửa chớp, bốn bề một phương. 
Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót này.
Để ta tròn một kiếp say, 
Cao xanh liều một cánh tay níu trời. 
Thơ ta chẳng viết cho đời, 
Không vang nhịp khóc dây cười nào đâu! 
Tâm hương đốt nén linh sầu 
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi,
Đêm nào ta trở về ngôi 
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn,
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm. 
(Hà Nội 1950) 
Chúng ta ai cũng hiểu, thời gian rồi sẽ qua đi, tất cả mọi hiện tượng vật chất rồi sẽ tan biến vào cõi vô thường. Chúng ta hãy nhận thức vai trò và bổn phận cao quý hơn nữa là phải quyết tâm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa cội nguồn của Dân Tộc, chuyển đạt đến các thế hệ mai sau niềm tự hào là người Việt Nam chúng ta cũng có một nền Văn Hóa đầy Tình Tự Quê Hương, Nhân Bản và Sáng Tạo bằng trái tim từ ái ưu viễn tôn vinh tình người, thăng hoa hướng tới Chân Thiện Mỹ của nhân loại. 
THÁI TÚ HẠP
Theo http://www.ptgdn.com/

1 nhận xét:

Cảm nhận ngàn đêm

Cảm nhận ngàn đêm MỘT Dân gian nói, hoàng hôn là lúc người dương và người âm có thể gặp nhau. Trong bộ phim nổi tiếng “Bao giờ cho đến Thá...