Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014

Tản Đà: Thi sĩ của hai thế kỷ

Tản Đà: Thi sĩ của hai thế kỷ

 Lê Xuân Kỳ
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (25/5/1889-7/6/1939) qua đời cách nay vừa tròn 60 năm. Sáu thập kỷ với bao vật đổi sao dời, bãi bể nương dâu. Người đời thấy mình thiếu một thi sĩ, một danh nhân văn hóa. Ông ra đi để lại nỗi buồn thời đại và một sự nghiệp đồ sộ. Vào dịp này, tôi và con trai cả của ông, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương, đã cùng nhau tản bộ thăm lại hai nơi ở cuối cùng của Tản Đà trên đất Hà Nội.
Chúng tôi trở lại số nhà 354 phố Bạch Mai. Tản Đà thuê ngôi nhà này để làm nghề xem số tử vi, xem bói. Có lẽ thi nhân chọn chỗ này để thuận tiện cho khách muốn tỏ tường duyên số. Gần nhà Tản Đà bấy giờ là ga cuối cùng của đường xe điện từ Bờ Hồ - Bạch Mai, suốt ngày ồn ã. Nhà thơ những tưởng với nghề xem số sẽ đem lại vận may, có tiền để trang trải nợ nần. Nào ngờ, cái nghề ấy mà cũng lỗ vốn. Không có tiền trả nợ, thi sĩ phải giải nghệ. Hồi đó, trên bức tường ngôi nhà có cái biển "Hà Lạc lý số". Nay thì đã không còn. Mà cả ngôi nhà cũng đã biến dạng.
Ngôi nhà thứ hai, đường Cầu Mới, Ngã Tư Sở. Nguyễn Khắc Xương đi lại ngó ngàng 3 cái nhà mang số 71 đường Cầu Mới, nơi anh đã ở suốt mùa hè nóng nực của năm 1939. Trước nhà Tản Đà ở vẫn là chợ Ngã Tư Sở ồn ã. Ngày ấy, chỗ này có một cái vườn nhỏ, khách thơ thường đến đàm đạo văn chương.
Nguyễn Khắc Xương cười tủm tỉm: "Ông cụ bình sinh chỉ thích có rượu và thơ. Ở thành phố Hồ Chí Minh, phố Tản Đà chỉ toàn nhà in và nhà hàng ăn uống. Còn ở Hà Nội, có đường Nguyễn Khắc Hiếu ở quận Tây Hồ, bên Ngũ Xá". Khi mất, Tản Đà không trối trăng gì, nằm im lặng mấy ngày rồi qua đời. Nguyễn Tuân viết: "Hai môi mím khít lại, ông Tản Đà có nét mặt dăn dúm của một người chết khó khăn. Phải chung thân làm một người bất đắc chí, sống đã chẳng được toại lòng, người nằm sóng dượt đây khó mà đi cho nó nhẹ nhàng được". Ông Nguyễn viết trân trọng: "Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý; trong hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ, mà làng văn, làng báo xứ này ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà".
Nói đến Tản Đà, người đời nhắc đến một thi nhân, một ngôi sao sáng trên văn đàn Việt Nam mà thơ ca bao trùm lên cả những thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Ông cũng là cái vạch nối giữa thi ca cổ điển và hiện đại, bước ngoặt của lịch sử văn học Việt Nam. Nhưng, ông cũng còn là một nhà báo với ý nghĩa đầy đủ là một nhà báo chân chính. Tản Đà được coi như là một ký giả sớm nhất của những năm 1915-1916. Năm 1921, ông làm chủ bút báo Hữu Thanh. Ông giã từ báo này vì "Làm chủ bút mà không được làm chủ cái bút của mình". Tản Đà ra viết cho báo Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân văn, Sông, Sài Gòn, Nam Phong tiểu thuyết thứ bảy, ích Hữu, Thanh Nghệ Tĩnh, Ngày nay, Văn học tạp chí. Ông gắn bó với An Nam tạp chí. An Nam tạp chí "chết đi sống lại" đến 6 lần ở nhiều địa điểm khác nhau. Nguyễn Khắc Xương kể: "Hồi báo ra lần thứ năm, Tản Đà cũng chịu cảnh long đong vì báo. Nhờ có ông bạn làm lang y giúp về tài chính và việc in, nên báo mới ra được. Ông bạn người ở Vinh, Phó Đức Thành, có quen chủ nhà in Châu Tịnh cho in chịu báo. Vì thế, Tản Đà như con thoi Hà Nội - Vinh trên những chuyến tàu tốc hành. Tòa báo ở Hà Nội nhưng lại in ở Vinh. Mỗi tuần hai lần, ông đem bản thảo và giấy bút lên tàu chạy đêm vào Vinh, để hôm sau lại trở ra Hà Nội. Việc sửa bài vở làm ngay trên tàu".

Tờ báo mặc dầu có số phận "ba chìm bảy nổi" như vậy nhưng cũng đã có nhiều đóng góp với làng báo, góp phần xây dựng ngôn ngữ báo chí, nêu cao ý nghĩa chân chính của nghề báo và phẩm chất của người làm báo. Tờ báo đã tập hợp được một đội ngũ viết báo, viết văn trẻ trở thành những cây bút có vị trí: Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Nguyễn Công Hoan, Quách Tấn, Tế Xuyên, Nguyễn Tiến Lãng v.v...
Con sông Đà êm ả xuôi dòng, núi Tản xa xa ẩn hiện sau lũy tre làng. Thi nhân nằm ở đây, đầu gối lên con đê hướng về phía họ hàng thân thuộc, nơi ông sinh ra, lớn lên và yên nghỉ. "Nước non nặng một lời thề/Nước đi, đi mãi, không về cùng non" (Thề non nước). Để kết, xin cùng đọc lại một bài thơ của Tản Đà:
Mấy lời cảm tạ tri âm
Đồng-bang là nghĩa, đồng-tâm là tình
Đường xa rau hãy còn xanh
Tấm lòng thơm thảo, bát canh ngọt ngào
Yêu nhau xa cách càng yêu
Dẫu rằng suông nhạt mà nhiều chứa chan
Nước non khuất nẻo ngư nhàn
Tạ lòng xin mượn "Thế gian" đưa trình 
(1999)
Lãng mạn Tản Đà
 Vũ Quần Phương 
Tản Đà (1889-1939) vào văn chương ở buỗi cũ mới giao nhau. Thơ cũ không còn đủ để chứa tình ý của ông. Còn cái mới, thì ông phải tự tìm lấy. Bỗng nhiên, Tản Đà thành người tự do, không bị khuôn khổ nào câu thúc, cả về hình thức lẫn nội dung. Thơ văn ông lắm lối, lắm loại. Khi thì ông phân biệt chúng bằng hình thức: Hát nói, Hát xẩm, Ca lý, Tứ tuyệt, Bát cú, Yết hậu, Lục bát, Tứ lục, Trường đoản, Từ khúc, Trường thiên... Khi thì bằng nội dung, Tản Đà tập kiều, Tản Đà thù tiếp, Tản Đà thơ họa. Lại có thứ gọi là Tản Đà thơ vặt, Tản Đà xuân sắc. Phân biệt lắm thứ như thế chính vì chưa quan tâm đến sự phân biệt. Tản Đà làm thơ như chỉ vì mình, cho nên thơ ông được nhiều người thích ở sự thành thật, hồn nhiên. Thơ như nói, nói như chơi mà thấm thía nhân tình.
Biên độ thơ Tản Đà rất rộng, hình thức đủ loại đã đành mà nội dung lại còn phong phú: Dân ca liền với triết học, cổ điển đấy mà cũng lãng mạn đấy, trào phúng liền ngay với trữ tình, cụ thể như phóng sự lại điểm xuyết những nét thật tiêu tao trữ tình... Nhiều khi câu, chữ như dùng sẵn của người xưa nhưng cái chất chứa bên trong lại rất Tản Đà, cứ như ông thổi sinh khí vào tượng đất cho nó thành người biết ứa nước mắt.

Cái mới rõ nhất ở Tản Đà là sự hồn nhiên, tự nhiên. Không có hàng rào câu nệ nào ngăn cách giữa điều ông viết ra với điều ông cảm nghĩ. Ông làm thơ như hít thở. Thấy thế thì viết thế. Tản Đà có thể bất đắc chí về danh phận nhưng ông lại đắc ý về tài năng: Tài cao, phận thấp, chí khí uất, đắc ý về cách sống, cách làm thơ: Tuổi chửa bao nhiêu, văn rất hùng. Ông còn kể chuyện được trời mời lên đọc thơ, cả triều đình Nhà Trời đều xuýt xoa mê thơ Tản Đà. Đọc xong mỗi bài đều vỗ tay và Chư tiên ao ước, tranh nhau dặn: Anh gánh lên đây bán chợ Trời. Đúng là buồn ngủ gặp chiếu hoa. Đang lo văn ế, thơ hạ giá ở trần gian.
Bao nhiêu củi nước mới thành văn
Bán được văn ra chết mấy lần
Ông chủ nhà in, in đã đắt
Lại ông hàng sách mấy mươi phân
Bây giờ được trọng dụng ở Xứ Trời, thì "đã" quá. Nhưng rồi cũng đến lúc phải về. Tản Đà tỉnh mộng và ngậm ngùi:
Tiếng gà xao xác tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi 
Chuyện mộng mà ông viết thật quá bởi ông dám nói thật cái mộng của lòng ông. Người đời, văn chương với cuộc sống thường hay cách bức. Tản Đà không thế. Thơ là đời ông, là việc hằng ngày của ông, là nơi trò chuyện của ông. Ông không mỹ lệ hóa đời cũng không thần bí hóa thơ mà cũng chẳng màu mè vờ vĩnh. Đắc ý thì nói đắc ý. Buồn thì nói buồn. Cái gò bó xưa bị phá mà cái gò bó mới chưa hình thành. ở buổi giao thời, nhiều khi văn học lại gặp thế thuận cho những cách tân là vậy. Dám bộc lộ hết mình trong văn chương không phải thời nào cũng có. Không dễ đâu, thời ấy, Phạm Quỳnh đã cảnh cáo Tản Đà: "Người ta, phi người cuồng, không ai dám trần truồng mà đi ngoài phố. Nhà làm sách cũng vậy, không ai đem thân thế mình mà làm chuyện cho người đời xem". Phạm Quỳnh đại diện cho thời cất giấu cá nhân, cá nhân lẫn vào trong bầy đàn. Người ta tả được loài cừu nhưng không ai nhớ được mặt một con cừu. Cái mặt cừu người ta tả là mặt của cả loài cừu. Tản Đà đã dám chiềng cái mặt (của tâm hồn) mình ra giữa cái buổi còn lòa nhòa nhân ảnh ấy nên bị lớp người cũ phản ứng. Có điều mừng là ông đã được xã hội chấp nhận. Xã hội đã phát triển đến giai đoạn chấp nhận được từng cá thể. Bối cảnh xã hội, bối cảnh dân trí thời ấy đã cho phép Tản Đà bộc lộ được hết mình. Điều mà Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chưa có. Các cụ chỉ bộc lộ được từng nét khi tỉnh rượu lúc tàn canh. Các cụ mới có từng yếu tố lãng mạn chứ chưa có chủ nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa lãng mạn lấy cá thể làm nền tảng, quan tâm chăm chút cái tôi, cái mà Phạm Quỳnh kêu là trần truồng ấy. Tản Đà lãng mạn trên "cái tôi ngông", cái tôi đòi quyền tồn tại của mình chưa được thì phải ngông, phải ngạo. Ngông ngạo là lãng mạn trong cái khung của hiện thực. Lãng mạn cao hơn là ra ngoài cõi thực. Tản Đà cũng đã có chất lãng mạn đó. Và đấy là chỗ bộc lộ nhất tinh hoa thơ Tản Đà: Nhớ mộng, Tống biệt, Nói với ảnh, Nói với bóng...

Tản Đà vốn có một cốt cách lãng mạn. Tế Chiêu quân là lãng mạn, là tài tử tài tình gặp nhau dù khác thời khác thế: Tịch cốc để tìm sang cõi khác là lãng mạn. Coi mình như anh xẩm mù để không thấy ai là lãng mạn. Không thấy cả mình nữa, Ngoài trăm tuổi vắng ta trần thế cũng là lãng mạn. Lên tiên, gặp Trời, gửi tình nhân không biết không quen đều là chuyện ngoài cõi thực. Hồn mơ mộng, thơ hiu hắt, tình điệu âm u. Cõi u uẩn của lòng người, cao thấp sang hèn gì, đều dám phơi trên mặt giấy, gợi thương gợi buồn, gợi cảm thông. Bài thơ Tống biệt, từ âm điệu đến hình ảnh đều nói được cái dùng dắng của khách trần lưu luyến động tiên, khát thèm mộng ảo:
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi 
Bài Nhớ mộng mở đầu như một sự giác ngộ: Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi. Nhưng tỉnh lại thấy không bằng mộng:
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời 
Hai câu thơ này còn là cái lãng mạn trong chủ nghĩa cổ điển. Nó mực thước và là tổng kết chung cái cõi đời bức tranh vân cẩu, thế thôi. Cái chỗ hé ra nỗi niềm Tản Đà lại ở câu: "Những lúc canh gà ba cốc rượu và mộng cũ, mê đường biết hỏi ai". Hàn Mặc Tử chênh Tản Đà độ mươi năm sau đã viết: "Nằm gắng cũng không thành mộng được". Tản Đà có lối vào bài thơ thật tự nhiên:
- Ngồi buồn bỗng nhớ chị hàng cau
- Chiều mát ngồi xem đứa thả câu
- Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi
Viết như không mục đích. Viết, nhớ, xem... để khuây khỏa nhu cầu của lòng mình, để có việc mà làm, để khỏi chống chếnh vì nỗi hết thú chơi ở cõi đời:
Trông khắp trần gian hết thú chơi
Thèm trông con hạc nó lên trời 
Thèm trông con hạc, còn thèm trông cả đường bay của nó: Nó lên trời. Tản Đà còn than với chị Hằng: Trần thế em nay chán nửa rồi, muốn chuyển hộ khẩu lên đó: 
Cung quế có ai ngồi đó chửa
Cành đa xin chị nhấc lên chơi. 
Tản Đà có những câu chán đời như thế. Nhưng cốt lõi ông lại ham chơi, ham sống, ham bè bạn, chịu thất thiệt để chơi, để bạn bè:
Quê hương thời có cửa nhà thời không
Nửa đời Nam Bắc Tây Đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly. 
Mỗi lần nói đến cái chết, dù lúc đang đùa, câu thơ Tản Đà vẫn cứ lạng đi, xa vắng lắm. Nói với bóng:
Còn ta bóng nỡ nào đi
Ta đi, bóng có ở chi cõi trần? 
Nói với mùa xuân:
Ngoài trăm tuổi vắng ta trần thế
Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm 
Tản Đà có một hồn thi sĩ thứ thiệt. Có cảm hứng là ông viết. Có khi rất thực thà:
Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm, thơ nghĩ chẳng ra câu nào
Đi ra, rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ.
Tiền nhà nay đã đóng rồi
Ta pha ấm nước ta ngồi ngâm nga
Bây giờ, thơ mới nghĩ ra
Hồn thơ quanh quất bút hoa đêm trường. 
Thân xác bài thơ này đúng là hiện thực. Thực sự kiện, tình huống, mà cũng có vẻ thực cả tâm lý nữa: Trả xong nợ, nó nhẹ người nên lại dạt dào thi hứng, chứ sao? Nhưng cốt cách tâm hồn của người làm bài thơ này lại lãng mạn. Có lãng mạn nên chỉ một việc cỏn con của đời thực đã làm đảo lộn cả tâm trí. Có thế người đời mới trìu mến nhìn ông nhà thơ như nhìn một thứ ngơ ngơ, dở người. Tản Đà hiện thực khi nào cái thực đánh rất đau vào cái mộng, vào tâm trí nhân ái:
Năm hào một đứa trẻ lên sáu
Cha còn sống đó, con bồ côi 
Tiền có 5 mà trẻ lên 6, ấn tượng con số gây nên sự rẻ rúng của phận người năm lụt lội đói kém. Chi tiết như tân văn, chính xác, cụ thể. Và cõi lòng thì bao nhiêu xa xót. Tản Đà còn "hiện thực" đến mức dùng thơ làm quảng cáo, rạch ròi giá cả, khuyến mãi, cổ động, đủ cả:
... Còn như tiền đặt quẻ
Nhiều năm (5đ) ít có ba (3đ)
Nhiều ít tùy ở khách
Hậu bạc kể chi mà.
Kính báo. 
Bài thơ có 18 dòng, nếu kể cả dòng kính báo là 19. Không có câu nào tả tình, tả cảnh cả. Riêng câu cuối có thể là có tình nhưng cũng là cái tình để quảng cáo. Bài thơ này đọc thấy buồn cười, cười mà ứa nước mắt. Cười vì nó thực đến thực dụng, còn ứa nước mắt vì nó cho thấy tình thế ông Tản Đà. Ông như con hải âu có sải cánh dài đủ sức làm ông hoàng ở bầu trời, nhưng khi chưa phải bước chân lên mặt đất thì đôi cánh (lãng mạn) kia càng dài ông càng vướng víu, chuệnh choạng (Chim hải âu - thơ Baudelain). Tâm hồn của Tản Đà không lãng mạn thì không có bài thơ này. Trí tuệ ấy, sự lịch lãm ấy có nhiều cách để kiếm sống no đủ, đâu phải làm nghề mạt: đoán lý số hà lạc. Cho nên đọc Tản Đà thấy hiện thực thì đấy chỉ là đôi nét đời. Còn lãng mạn thì lại là cả cõi lòng. Thơ Tản Đà đồng hành được với mọi thời là vì thế.






1 nhận xét:

  Cảm nhận ngàn đêm – Tản văn Trần Thế Tuyển 12 Tháng Bảy, 2023 MỘT Dân gian nói, hoàng hôn là lúc người dương và người âm có thể gặp ...