Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014

Nguyễn Bính: Cây đàn độc huyền trong dàn thi ca 1930 - 1945

Nguyễn Bính: Cây đàn độc huyền trong dàn thi ca 1930 - 1945
Trần Đăng Thao 
Có lẽ ở vào thời điểm của 60 năm trước đây có rất ít, rất rất ít những nhà thơ có sự tiếp nối truyền thống văn hoá dân gian đến mức nhuần nhuỵ sống động, mộc mạc đến thế... 
Nguyễn Bính là một hiện tượng đặc biệt và độc đáo trên thi đàn nước ta giai đoạn 1930-1945. Ông như cây đàn độc huyền cất lên lảnh lót một giai điệu riêng không thể nào pha trộn trong làng thơ ca thuở ấy. Thơ ông mới mẻ, đầy sức lôi cuốn song lại thuần khiết đến độ tinh khiết, khồng hề biết đến sự lai tạp. Và có lẽ, ông cũng là thi nhân đứng đầu về phổ cập thơ sâu rộng trong quần chúng mến mộ đón chào với tất cả sự yêu thương, nồng nhiệt, chân tình và đằm thắm của giai đoạn này.
Sinh thời, Nguyễn Bính là người có thiên phú về thơ. Những bài thơ thuộc loại đầu tay như "Mưa xuân", "Cô hái mơ", "Lỡ bước sang ngang"... của ông đã được dư luận hết sức chú ý. Khi tập thơ "Tâm hồn tôi" được Tự lực văn đoàn trao giải năm 1937, (lúc ông 19 tuổi), tên tuổi của ông bắt đầu toả sáng bên cạnh một vài cây bút đặc sắc khác của phong trào Thơ mới: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận... Có điều, cây bút ấy đi theo một bè riêng, cần cù, nhẫn nại cầy xới và tiếp nối dòng thơ truyền thống. Ông là một trong số không nhiều các nhà thơ lầm lũi ngược dòng trở về nguồn cội, đôn hậu, hồn nhiên đến mộc mạc, thuỷ chung và là điển hình nhất của chất quê thuần phác, lắng đọng và tinh kết lại, toả sáng nơi đầu ngọn bút.
Cũng chính bởi lẽ này mà đương thời có một lượng độc giả, đặc biệt là những trí thức Tây học không "mê" thơ Nguyễn Bính, điều đó cũng dễ hiểu. Kênh giao tiếp của thơ Nguyễn Bính không mở hướng tiếp cận với cái gọi là Âu hoá thời thượng của lúc bấy giờ. Cũng bởi lẽ này, cái lẽ "đồng thanh tương ứng" mà Nguyễn Bính gần gũi với tác giả "Chợ Tết", "Đường về quê mẹ" (Đoàn Văn Cừ), "Bức tranh quê" (Anh Thơ) thậm chí theo dõi hồi ức nhiều thi hữu thân thiết với Nguyễn Bính lúc ấy "tiết lộ" thì Nguyễn Bính còn say mê đến mức si mê, mộng mơ đeo đuổi nữ sĩ Anh Thơ nữa.
Không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính chiếm toàn bộ mảng nông thôn. Đó là cuộc sống làng quê Việt Nam, dẫu đã chịu sự tác động của nền văn minh công nghiệp, có bị phôi pha chút ít, trên đại thể vẫn còn giữ được cơ bản cái sắc hương còn "đào hoa phong nhuỵ" của vùng đồng bằng Bắc Bộ những thập kỷ 30, đầu 40.
Cảnh làng quê Việt Nam vào xuân được phác hoạ qua một đôi nét đơn sơ, song thân thuộc, gần gũi và rất điển hình:
Bữa ấy mùa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ... 
Trên cái nền ấy hiện ra cô gái quê bình dị, trong trắng và an phận với chuyện tằm tang, canh cửi:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa. 
Còn nữa những dậu mồng tơi, những ao bèo, vườn chanh, giếng thơi, giàn trầu, hàng cau, ao rau cần, giàn đỗ ván, những vườn chè, những thôn Đoài, thôn Đông với đầy ắp, với ngồn ngộn sức sống chân quê. Có lẽ ở vào thời điểm của 60 năm trước đây có rất ít, rất rất ít những nhà thơ có sự tiếp nối truyền thống văn hoá dân gian đến mức nhuần nhuỵ sống động, mộc mạc đến thế. Nào là những sáng giăng, dàn giầu, bệnh của giời - những ngôn từ ấy hôm nay đã đi vào lịch sử như một chứng nhân cho sự hiện đại hoá của tiếng Việt. Xét trên phương diện âm hưởng dân gian của thi ca, thì Nguyễn Bính là người gần gũi đến mức chung một mã số với bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương hơn cả. Hai tâm hồn thơ dào dạt ấy, cách nhau một không - thời gian khoảng hai thế kỷ song lại rất tương đồng, tương hợp; và cũng là hai ca độc đáo hiếm hoi trong suốt chặng đường dài vận động và phát triển của hồn thơ dân tộc 10 thế kỷ.
Song sức sống, sự trường tồn của thơ đâu phải chỉ thuần tuý hiển hiện trên cái vỏ của ngôn từ, của âm hưởng? Điều quan trọng hơn, và là căn bản nhất làm nên tầm vóc của một tác gia chính là chiều sâu tư tưởng, ở tầm khái quát hiện thực với những khái quát hiện thực với những khát vọng thẩm mỹ mang đậm dấu ấn nhân bản, khiến những dòng được viết ra dưới ngòi bút của nhà thơ, phải là những dòng sáng lấp lánh, đủ sức hội nhập được trong lòng nó hai sức mạnh dân tộc và thời đại. Nguyễn Bính chính là nhà thơ như thế. Kiên nhẫn, bền bỉ, thuỷ chung thâm canh trên vùng thẩm mỹ nông thôn, thực chất thơ ông đã tiếp cận với dân tộc. Điều đó thật dễ hiểu. Một đất nước nông nghiệp lạc hậu, khá tiêu biểu cho phương Đông như Việt Nam hồi ấy có tới 90% dân số là nông dân. Nguyễn Bính viết về nông thôn, tạo dựng một bộ mặt nông thôn tương đối toàn diện trong thơ, khiến thơ ông gần như là cuốn bách khoa toàn thư, đồng thời hướng tới lượng độc giả đông đảo tuyệt đối của dân tộc. Đó là mảnh đất màu mỡ bậc nhất của văn chương Việt Nam thuở ấy và vẫn còn tiếp tục là mảnh đất màu mỡ bậc nhất của văn chương hôm nay.
Điều thứ hai và cũng là điều quan trọng hơn nữa là ở tính nhân bản - nhân loại sâu xa, mạnh mẽ trong thơ ông. Dù viết về đề tài cụ thể nào, bao giờ Nguyễn Bính cũng trở về với nhân bản. Thơ ông không chỉ bộc lộ cái tôi thân phận, số phận nhỏ bé, mỏng manh đơn chiếc của một con người, một cá thể, mà luôn vươn tới một sự khái quát cao, rất cao về một tầng lớp, một thế hệ, một giai cấp, đặt chúng vận động trong mối quan hệ đa chiều, khăng khít, liên thông của dòng chảy cuộc đời. Cái gì khiến bài thơ "Lỡ bước sang ngang" đạt tới sự phổ cập sâu rộng trong làng dân tộc ở những năm 1930-1940? Phải chăng tiếng thét sẽ lòng của người chị - người con gái bạc mệnh, một lần lên xe hoa trong bài thơ ấy cũng chính là cái nét điển hình nhất, khái quát nhất cho cái bi kịch, đại bi kịch của những người con gái nông thôn bị ép buộc, bị gả bán, bị phong tục và lễ giáo tước đoạt mất hạnh phúc, và nhân phẩm, quyền sống quyền làm người? Thế hệ các bà mẹ, các chị ngày xưa, dù người biết chữ, hay người không biết chữ, đều thuộc đến nhập tâm bài thơ "Lỡ bước sang ngang". Họ khóc thương người con gái trong thơ, hay khóc thương cho cuộc đời bạc mệnh, bạc thân của chính mình: 
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã ngang sông đắm đò 
Ở nước ta, có lẽ sau truyện Kiều, đến lượt "Lỡ bước sang ngang" là một thi phẩm được phổ biến sâu rộng.
Nói Nguyễn Bính là nhà thơ của chân quê, song thực chất phải nói ông là nhà thơ của tình yêu chân quê mới thật chính xác. Tình yêu là đề tài đậm nét nhất trong thơ ông, đến nỗi toàn bộ 7 tập thơ ông viết trước 1945 như: "Lỡ bước sang ngang" (1940); Tâm hồn tôi (1940); "Hương cố nhân" (1941); "Một nghìn cửa sổ" (1941); "Người con gái ở lầu hoa" (1942); "Mây tần" (1942); "Mười hai bến nước" (1942), rút cuộc lại đều có thể thu gọn trong một chữ Yêu. Con người thơ đa tài và đa tình ấy, luôn mang trong trái tim mình một tình yêu cháy bỏng. Vì thế, có người đã nhận xét "thơ Nguyễn Bính đầy những tương tư". Đề tài vĩnh cửu có tầm nhân loại này, chiếm một khối lượng áp đảo trong thơ ông, làm nên vẻ đẹp lung linh riêng, đằm thắm, đắm đuối, nồng nàn, là phần đóng góp quan trọng bậc nhất của ông với làng thơ, đến mức nếu thiếu vắng nó, thơ ông sẽ trở nên nhợt nhạt và không còn sinh khí nữa, thậm chí chúng ta sẽ không còn một nhà thơ tài hoa cự phách Nguyễn Bính nữa. Nghiên cứu thơ Nguyễn Bính giai đoạn 1930-1945 về cơ bản là phải rất chú trọng đến cái sự dan díu, giăng mắc này của nhà thơ.
Cái hay, có thể là rất hay đến mức đặc sắc và độc đáo của thơ Nguyễn Bính là thơ ông không chỉ dừng lại ở sự mô tả hiện thực của ngoại vật, của tâm tưởng mà bao giờ cũng gắng vươn tới cái siêu thực-một cái siêu vừa tỉnh táo lại vừa hư ảo song lại có tính khái quát hiện thực, nâng hiện thực hướng tới một tầm cao của nhận thức tâm linh. Thơ ông là sự đan quyện, hoà hợp tài hoa của hai yếu tố thực và siêu. Trong bài "Chân quê", anh chàng tình nhân, sau khi đã ra đến "mãi con đê đầu làng" để đón người yêu đi tỉnh trở về, đã thực sự khổ sở, day dứt trước cái ma lực thị thành đang từng bước làm biến đổi cô gái quê, chí ít là ở ngoại hình: 
Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi 
Xót xa đến bàng hoàng, đến ngỡ ngàng, chàng trai chỉ còn biết hạ mình, đau đớn. 
Nói ra sợ mất lòng em
Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa. 
Tương tự, cũng tâm thái ấy, trong bài "Đêm cuối cùng", anh con trai si tình nọ lại thảng thốt khi thấy người yêu mình xem diễn Nhị Độ Mai một cách quá hồn nhiên vô tư giữa các chàng trai lạ, đến nỗi không kìm nén được, chàng trai đành trách:
Sao em lại đứng với người đi xem?
Trách đấy, mà cũng là yêu quá đấy thôi, là ghen quá đấy thôi! 
Khi bài "Chân quê" kết thúc bằng hai câu thơ:
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều 
Thực chất đã vươn tới cái siêu, đã khái quát lên thành một nhận xét có tính quy luật. Sự không cưỡng lại được của nông thôn trước sức tấn công và cám dỗ của nền văn minh công nghiệp thành thị. Mọi vẻ dường như bình yên, tĩnh lặng, êm đềm nơi thôn dã đang từng giờ từng phút tích tụ trong lòng nó những mâu thuẫn nội tại. Nhất định cái thời điểm bùng nổ để biến đổi ấy sẽ đến.
Trước Nguyễn Bính chừng 30 năm, thi hào Tú Xương cũng đã từng chứng kiến cảnh đời dâu bể như thế, cũng đành thở dài bất lực như thế. Dẫu không là người cùng thời song trên bình diện cảm hứng tâm trạng, thơ của hai ông có phần giống nhau. Điều khác nhau căn bản là ở chỗ: Tú Xương là nhà thơ của thành thị, còn Nguyễn Bính là thi sĩ của chân quê.

Biết thêm về Nguyễn Bính
 Thuần Hoa 
Nguyễn Bính và Trúc Đường là anh em ruột vốn quê thôn Thiện Vịnh, xã Cộng Hoà, huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam. Cụ Nguyễn Đạo Bình, thân sinh các anh, làm nghề dạy học, tính tình điềm đạm, hiền lành, thường dạy các con: "Nhà ta coi chữ hơn vàng. Coi tài hơn cả giàu sang ở đời" Cụ bà thân mẫu Bùi Thị Miện, nết na xinh đẹp, con gái một gia đình khá giả, có truyền thống yêu nước - Bà sinh được ba người con trai: Nguyễn Mạnh Phát - Trúc Đường, Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính ra đời vào năm Mậu Ngọ (1918).

Gia đình có vườn cây, ao cá, thuộc loại "Cơm ăn đủ bữa, áo lành đủ thay"
Một buổi tối, mẹ xuống ao rửa chân bị rắn độc cắn, mất lúc 24 tuổi, để lại ba con thơ dại. Trúc Đường sáu tuổi, Thụ ba tuổi, Bính chưa đầy một tuổi, phải dựa vào sự giúp đỡ của bên ngoại. Mấy năm sau vì cảnh nhà neo người, cụ ông cưới bà Phạm Thị Duyên là kế mẫu. Bà sinh được bốn người con (hai trai, hai gái).
Chị ruột của mẹ, bà cả Giần giàu có, và ông Bùi Trình Khiêm cậu ruột (thân sinh nhà văn Bùi Hạnh Cẩn), một nhà nho yêu nước, đón ba cháu về nuôi cho ăn học, ở một làng đồng chiêm hẻo lánh ven đô, đẹp như một bức tranh:
Thôn Vân có biếc có hồng,
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều 
Ông Khiêm dạy chữ Hán cho ba anh em, Bính học được nhiều hơn. Trúc Đường vào trường tiểu học, Bính vào lớp sơ học. Sau đó Trúc Đường vào trường trung học và làm gia sư, tự nuôi được mình, Bính và trường tiểu học
Học trò trường huyện ngày năm ấy
Anh tuổi bằng em, lớp tuổi thơ 
Bính làm thơ từ thuở bé, có bài được cậu Khiêm khen hay, nên được cưng. Trúc Đường thi đỗ thành chung (điplôm) vào loại giỏi ở Hà Nội, năm 1932, 1933 vào Hà Đông dạy học ở một trường tư thục, bắt đầu viết văn và làm thơ. Anh đưa Bính đi theo dạy thêm tiếng Pháp, truyền đạt văn học Pháp cho Bính. Bính có vốn thơ Đường, nay hiểu thêm thơ Pháp. Trúc Đường thay mẹ chăm sóc em. Suốt cuộc đời của Bính gắn bó với Trúc Đường về văn chương và cả đời sống. Trúc Đường hay đưa Bính về quê để Bính giữ được mạch thơ dung dị vùng Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Phủ Lý hoặc đi tới các miền khác như Hà Đông, Sơn Tây, Hoà Bình, vào động Hương Tích. Những năm ấy bài "Cô hái mơ" đã xuất hiện trên thi đàn.
Trúc Đường rủ Bính đi chơi thuyền trên sông Nhuệ ở Hà Đông. Cảm hứng, Bính làm hai bài thơ dài: "Mười hai bến nước" và "Lỡ bước sang ngang" năm 1939.
... Dừng chân trên bến sông buồn
Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang... 

Ở với Trúc Đường, Bính không phải lao động nặng nhọc, nên không biết quý trọng đồng tiền, nếu có là tiêu phung phí. Bính thông minh nhưng không chăm học, có hôm vờ ốm, nghỉ ở nhà làm thơ, có lần biến đi đâu mấy ngày liền, Trúc Đường lo quá, Bính lại về, cùng mấy bài thơ khoe Trúc Đường. Vừa mừng, vừa thương, mến, giận, hai anh em lại ngồi đàm đạo văn thơ. Không phải khi nào cũng suôn sẻ, có bài Trúc Đường chê dở phải sửa chữa nhiều lần. Bính nể Trúc Đường, sợ cậu Khiêm và bác Cả Giần. Nhưng cá tính thì không sửa được. Đôi lúc sống bạt tử, nhất là khi đã tự lực kiếm sống bằng ngòi bút của mình. Xong tiểu học lên trung học, Trúc Đường đành để Bính theo đuổi nghiệp thơ. Bính thích đi Hà Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Thanh Hoá, đến đâu cũng sáng tác được thơ. Mấy năm sau làm ra tiền lại càng hay đi. Nếu cạn túi tiền, lại về với Trúc Đường.

Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày, đề tài phong phú, thơ tình chiếm vị trí cao hơn.
Sau ngày Bính mất, Trúc Đường nói rằng: "Bính như người khát nước mùa hè. Yêu nhiều, thất bại không ít, có lúc thất tình nhưng chỉ trong thơ thôi. Vì người trong mộng, trong thơ, đến người ngoài đời là một khoảng cách khó khăn. Do đó thơ tình yêu của Bính có đôi bài đượm chua chát, đắng cay và nuối tiếc: Tiếc làm chi giấc chiêm bao một mình".
Năm 1940, Trúc Đường chuyển ra Hà Nội ở, viết truyện dài "Nhan sắc", Bính tỏ ý muốn đi Huế tìm đề tài sáng tác. Trúc Đường tán thành nhưng không có tiền, bèn cho Bính chiếc máy ảnh, rồi về quê bán dãy thềm đá xanh, vật báu duy nhất còn lại của gia đình, đưa tất cả số tiền cho Bính và giao ước; Anh sẽ viết xong "Nhan sắc" vào năm 1941. Vào Huế, Bính gửi thơ ra anh đọc trước, rồi đăng báo sau. Đúng hẹn cuối năm 1941, đầu năm 1942, Trúc Đường nhận nhiều bài thơ của Bính trong đó có: "Xuân tha Hương" và "Oan Nghiệt". Trúc Đường rất thích. Đồng thời đầu năm 1942, "Nhan sắc" cũng ra mắt bạn đọc.
Bính trở lại Hà Nội, về thăm quê rồi lại đi làm thơ. Lần chia tay cuối cùng với Trúc Đường vào năm 1943, đến năm 1945 tin tức thưa dần. Năm 1946 mất liên lạc hẳn.
Nỗi nhớ thương, khắc khoải của Trúc Đường đối với Bính càng dội lên vào mỗi dịp giáp Tết, đọc lại "Xuân tha hương" rồi "Xuân vẫn tha hương" của em.
Hoà bình lập lại, tập kết ra Hà Nội, Bính lại về ở với gia đình Trúc Đường. Hai anh em lại bàn bạc, chuyển đề tài viết. Bính làm thơ: "Gửi người vợ miền Nam", "Đêm sao sáng", "Bức thư nhà"...
Trúc Đường, sau khi thi đỗ đại học văn sử loại ưu, anh chuyển sang lĩnh vực kịch lịch sử. Từ năm 1959 - 1983 Trúc Đường sáng tác 4 vở kịch ngắn, 14 vở kịch dài về các đề tài lịch sử.
Sự nghiệp văn chương tác động, hỗ trợ lẫn nhau của hai anh, đã để lại cho người đời nhiều tác phẩm tốt, có giá trị.
Tiếc rằng Bính đã ra đi trước Trúc Đường quá sớm.
Kỷ niệm 25 năm ngày mất của Nguyễn Bính, 80 năm ngày sinh của Trúc Đường (1911 - 1991), bài viết này chỉ nói lên được một phần thôi. Có thể còn nhiều điều chưa biết hết, mong được bổ khuyết.



1 nhận xét:

Cảm nhận ngàn đêm

Cảm nhận ngàn đêm MỘT Dân gian nói, hoàng hôn là lúc người dương và người âm có thể gặp nhau. Trong bộ phim nổi tiếng “Bao giờ cho đến Thá...