Trong hành trình lịch sử của dân tộc, có ba nền văn hóa khảo
cổ được coi là ba cái nôi của văn minh cổ xưa trên lãnh thổ Việt Nam. Đó là Văn
hóa Đông Sơn (thế kỷ VII trước CN - thế kỷ I sau CN), Văn hóa Sa Huỳnh (thế kỷ
X trước CN - cuối thế kỷ II sau CN) và Văn hóa Óc Eo (thế kỷ I - cuối thế kỷ
VII sau CN). Ba nền văn hóa khảo cổ này đã hình thành nên “tam giác văn hóa”
trong buổi đầu lịch sử của dân tộc Việt Nam. Chủ nhân của ba nền văn hóa này đã
sáng tạo nên những thành tựu rực rỡ trong các lĩnh vực: trồng trọt, đánh cá,
làm muối, đúc đồng, làm đồ gốm, chế tác thủy tinh, làm đồ trang sức, cùng với
những tập tục, tín ngưỡng độc đáo và bí ẩn, thu hút giới khảo cổ học trong và
ngoài nước nghiên cứu và khám phá trong hơn một thế kỷ qua.
Trong hành trình lịch sử của dân tộc, có ba nền văn hóa khảo
cổ được coi là ba cái nôi của văn minh cổ xưa trên lãnh thổ Việt Nam. Đó
là Văn hóa Đông Sơn (thế kỷ VII trước CN - thế kỷ I sau CN), Văn
hóa Sa Huỳnh (thế kỷ X trước CN - cuối thế kỷ II sau CN) và Văn hóa
Óc Eo (thế kỷ I - cuối thế kỷ VII sau CN). Ba nền văn hóa khảo cổ này đã
hình thành nên “tam giác văn hóa” trong buổi đầu lịch sử của dân
tộc Việt Nam. Chủ nhân của ba nền văn hóa này đã sáng tạo nên những thành tựu rực
rỡ trong các lĩnh vực: trồng trọt, đánh cá, làm muối, đúc đồng, làm đồ gốm, chế
tác thủy tinh, làm đồ trang sức, cùng với những tập tục, tín ngưỡng độc đáo và
bí ẩn, thu hút giới khảo cổ học trong và ngoài nước nghiên cứu và khám phá
trong hơn một thế kỷ qua.
Một trong những thành tựu đáng chú ý là kỹ nghệ chế tác đồ
trang sức và lối phục sức của chủ nhân các nền văn hóa này. Người xưa sử dụng
trang sức vì nhiều lý do: làm đẹp, thể hiện sự giàu có, thể hiện địa vị xã
hội, tuân theo tập tục và tín ngưỡng. Vì thế, họ đã kỳ công sáng tạo ra những
món trang sức rất tinh xảo, kỹ thuật cao và giàu tính nghệ thuật.
Người Đông Sơn thường chế tác các loại trang sức bằng đồng
thau. Đó là các loại vòng tay, vòng ống ghép, nhẫn, hoa tai, móc đai lưng, bao
tay, bao chân… Những di vật này được phát hiện rất nhiều trong các di chỉ khảo
cổ thuộc văn hóa Đông Sơn ở Làng Vạc (Nghệ An), Đông Sơn (Thanh Hóa), Việt Khê
(Hải Phòng)… Quan sát hình người trang trí trên chuôi của một chiếc cán dao găm
Đông Sơn, thấy hình người này có đeo một chiếc khuyên tai 3 lớp ở đuôi tai trái.
Đó là loại khuyên tai hình vành khăn có xẻ rảnh, thường được làm bằng các loại
đá quý. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội hiện đang lưu giữ 3 khuyên tai kiểu
này: 1 chiếc làm bằng đá phiến, đường kính (đk) 9,3 cm; 1 chiếc làm bằng thủy
tinh (đk: 4,8 cm) và chiếc kia làm bằng nephrite (đk: 2,8 cm). Ba khuyên tai
này được khai quật được tại một di tích ở Đông Sơn (Thanh Hóa), niên đại vào
khoảng thế kỷ thứ 2 trước CN.
Ba khuyên tai hình vành khăn làm bằng đá phiến,
thủy tinh và
nephrite khai quật ở Thanh Hóa.
Văn hóa Đông Sơn
Khác với người Đông Sơn, chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh ít
dùng đồ trang sức chế tác bằng đồng. Vật liệu ưa thích để chế tác trang sức của
họ là các loại đá quý tự nhiên như: mã não, thạch anh tím, carnelian, nephrit,
pha lê, vàng và cả thủy tinh do họ tự chế tác. Cuộc khai quật di chỉ Lai Nghi
(Quảng Nam) trong các năm 2003 - 2004 đã phát ra hai mộ chum có chứa nhiều hiện
vật tùy táng là đồ trang sức rất độc đáo: hơn 8.600 hạt cườm bằng thủy tinh màu
xanh, vàng hoặc nâu có đường kính 1 - 3 mm; khoảng 1.500 hạt chuỗi làm bằng đá
mã não, carnelian, nephrit...; đặc biệt, còn có bốn chiếc khuyên tai bằng vàng,
được coi là những món trang sức bằng vàng cổ nhất Việt Nam.
Đồ trang sức tùy táng trong hai ngôi mộ chum Sa Huỳnh khai quật
ở di tích Lai Nghi (tỉnh Quảng Nam), gồm những chiếc khuyên ta bằng vàng cổ nhất
Việt Nam và những hạt chuỗi làm bằng thủy tinh và mã não có niên đại thế kỷ II
đến thế kỷ I trước CN. Nguyên liệu thô như vàng, carnelian, nephrit, đá pha lê,
mã não có thể được nhập khẩu vào lưu vực sông Thu Bồn, nhưng một vài kiểu trang
sức Sa Huỳnh có lẽ cũng được làm bởi các thợ làm khuyên tai và hạt chuỗi bản địa
Đồ trang sức tùy táng trong một ngôi mộ Sa Huỳnh khai quật ở
di tích Lai Nghi làm bằng thủy tinh, mã não, carnelian, nephrit, đá pha lê, mã
não… Đây là những hiện vật đầu tiên của thời sơ sử được chế tác bằng phương
pháp ăn mòn, được tìm thấy ở miền Trung Việt Nam
Hạt chuỗi bằng mã não tìm thấy trong nhiều di chỉ khảo cổ
thuộc
văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực miền Trung Việt Nam
Đồ trang sức làm bằng mã não còn được phát hiện ở nhiều di chỉ
thuộc văn hóa Sa Huỳnh trên địa bàn các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa.
Hạt chuỗi bằng mã não tìm thấy trong nhiều di chỉ khảo cổ
thuộc
văn hóa Sa Huỳnh lưu vực sông Thu Bồn (Quảng Nam)
Chuỗi trang sức bằng mã não của văn hóa Sa Huỳnh
Theo thống kê của các nhà khảo cổ, có hơn 15 kiểu hình dáng hạt
chuỗi khác nhau trong văn hóa Sa Huỳnh được làm từ các loại chất liệu như: mã
não, carnelian, nephrit, thạch anh, pha lê. Các loại chất liệu này có lẽ được
“nhập khẩu” từ Myanmar, Ấn Độ... Trong số các hạt chuỗi bằng đá mã não tìm thấy
ở di chỉ Lai Nghi có 3 chiếc rất đặc biệt: chiếc thứ nhất có hình con sư tử,
chiếc thứ hai có hình con chim và chiếc thứ ba là hạt chuỗi được chế tác bằng
phương pháp khắc axít. Phương pháp này được đánh giá là “tiên tiến” nhất trong
kỹ thuật chế tác đồ thủ công ở Đông Nam Á lúc bấy giờ. Những hạt chuỗi mã não
hình động vật tìm thấy trong văn hóa Sa Huỳnh gợi mối liên hệ với những hạt chuỗi
hình động vật được các nhà khảo cổ học Trung Quốc tìm thấy ở di chỉ Phong Môn
Lĩnh và ở di chỉ Đường Bạch, đều thuộc huyện Hà Phố (Quảng Tây, Trung Quốc).
Những hạt chuỗi bằng mã não hình động vật. Hình 1 và 2 khai
quật được ở Lai Nghi (Điện Bàn, Quảng Nam, Việt Nam); hình 3 khai quật được ở
Phong Môn Lĩnh (Hà Phố, Quảng Tây, Trung Quốc); hình 4 và 5 khai quật ở Đường Bạch
(Hà Phố, Quảng Tây, Trung Quốc)
Ngoài mã não, người Sa Huỳnh còn sử dụng carnelian để chế tác
đồ trang sức, như chuỗi hạt dài 93 cm ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, là kết quả
thu thập được từ nhiều di chỉ Sa Huỳnh khác nhau ở miền Trung Việt Nam.
Chuỗi trang sức bằng mã não. Văn hóa Sa Huỳnh
Ngoài ra, người Sa Huỳnh còn thành công trong việc chế tác thủy
tinh để phục vụ các nhu cầu phục sức của mình. Văn hóa Sa Huỳnh được coi là một
trong cái nôi sáng tạo ra thủy tinh trên thế giới. Thủy tinh nhân tạo của người
Sa Huỳnh không chỉ đa dạng về kiểu dáng, mà còn phong phú về màu sắc, với các sắc
màu điển hình: xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu. Người Sa Huỳnh
đã biết chế tác các hạt cương, khuyên tai, nhẫn bằng thủy tinh màu để làm đồ
trang sức, như hạt cườm, khuyên tai, nhẫn... Sử Trung Hoa từng ghi chép về một
chén thủy tinh xuất phát từ văn hóa Sa Huỳnh mà họ gọi là “chén lưu ly” với một
sự trân trọng và khâm phục.
Chuỗi trang sức bằng thủy tinh xanh. Văn hóa Sa Huỳnh
Đồ trang sức tiêu biểu nhất của người Sa Huỳnh chính là những
chiếc khuyên tai ba mấu của nữ giới và khuyên tai hai đầu thú của nam giới. Khi
khai quật di chỉ Giồng Cá Vồ thuộc văn hóa Sa Huỳnh, ở Cần Giờ (TP. Hồ Chí
Minh), các nhà khảo cổ học đã phát hiện 1 chiếc sọ người còn mang 1 chiếc
khuyên tai 2 đầu thú bằng đá nephrite ở mang tai.
Khuyên tai 2 đầu thú bằng đá nephrite khai quật ở
di chỉ Giồng
Cá Cồ (Long Hòa, Cần Giờ,
TP Hồ Chí Minh). Văn hóa Sa Huỳnh
Theo TS. Andreas Reinecker, nhà khảo cổ học người Đức đã có
nhiều năm nghiên cứu về văn hóa Sa Huỳnh, thì hình đầu thú 2 sừng trên các chiếc
khuyên tai 2 đầu thú của văn hóa Sa Huỳnh có một mối liên hệ nhất định với sao
la, loài động vật được phát hiện lần đầu, mà theo TS. Andreas Reinecker là “tái
phát hiện”, ở Việt Nam vào năm 1992, vốn sống tập trung ở khu vực đồi núi phía
tây của miền Trung Việt Nam.
Sao la
Đây cũng là địa bàn cư trú chính của chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh.
Các nhà khảo cổ học cũng nhận xét rằng: “Nếu khuyên tai 3 mấu dịu
dàng, tinh tế và khá duyên dáng thì khuyên tai 2 đầu thú lại thể hiện
chất dũng mãnh, kiêu hãnh và cường tráng của nam giới”. Những vật trang sức của
người Sa Huỳnh, chế tác từ đá quý, mã não và thủy tinh chính là những tinh hoa
đặc sắc nhất mà nền văn hóa này sáng tạo ra và được phổ biến khắp vùng Đông
Nam Á. Người ta đã tìm thấy khuyên tai 3 mấu và khuyên tai 2 đầu thú ở Thái
Lan, Malaysia, Philippines và Đài Loan.
Trong khi đó, trang sức của chủ nhân văn hóa Óc Eo ở đồng bằng
sông Cửu Long lại theo một “phong cách” khác. Nền văn hóa này có phạm vi phân bố
chủ yếu ở vùng trũng miền Tây sông Hậu, gồm điạ bàn các tỉnh An Giang, Kiên
Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu… và một phần đất đông nam Campuchia. Người
Óc Eo đã để lại cho đời sau dấu vết chứng tỏ những thành tựu rực rỡ trong lĩnh
vực thủ công - mỹ nghệ như nghề gốm, nghề luyện đồng, luyện sắt, luyện thiếc,
nghề kim hoàn, chế tác trang sức… Người Óc Eo đã chế tác ra những món trang sức
bằng thạch anh tím, như chuỗi trang sức gồm một 1 hạt chuỗi bằng thạch anh tím
và 33 hạt chuỗi bằng pha lê (dài 41 cm) được tìm thấy trong di chỉ Gò Hàng
(Long An), có niên đại vào khoảng thế kỷ I trước CN - thế kỷ III sau CN hiện
đang lưu giữ tại Bảo tàng Long An.
Chuỗi trang sức gồm 1 hạt chuỗi bằng thạch anh tím
và 33 hạt
chuỗi bằng pha lê; khai quật ở di chỉ
Gò Hàng (Long An). Văn hóa Óc Eo
Ngoài ra còn có những vật trang sức phẳng, làm bằng mã não và
carnelian trên đó có khắc chìm hình sư tử và hình người ngồi, được khai quật ở
di chỉ Óc Eo (An Giang), niên đại vào khoảng thế kỷ VI, hiện đang lưu giữ tại Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam TP. Hồ Chí Minh.
Vật trang sức làm bằng mã não và pha lê có
khắc chìm hình sư
tử và hình người ngồi; khai quật
ở di chỉ Óc Eo (An Giang). Văn hóa Óc Eo
Đồ trang sức bằng vàng cũng được người Óc Eo ưa chuộng với những
sản phẩm tinh xảo, kỹ thuật chế tác rất cao. Điển hình là chuỗi trang sức gồm
14 hạt chuỗi bằng vàng (trái) và một hạt chuỗi bằng pha lê (dài 8,4 cm, đk 4
cm), hay chiếc nhẫn gắn hình bò thần Nandin bằng vàng (đk 1,9 cm) và chiếc
khuyên tai làm bằng đồng mạ vàng (cao 3,5 cm, rộng 3,3 cm), đều có niên đại vào
khoảng thế kỷ VI, khai quật ở di chỉ Óc Eo (An Giang), hiện đang bảo quản tại Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam TP. Hồ Chí Minh. Người Óc Eo cũng đã biết đến kỹ thuật khảm
đá quý lên các món đồ trang sức bằng vàng. Tại di chỉ Gò Xoài (Long An), các
nhà khảo cổ học đã phát hiện 3 món trang sức rất đặc biệt của người Óc Eo, gồm
một mặt dây chuyền bằng vàng nạm thạch anh tím (cao 2,6 cm, rộng 1,9 cm; dày
0,2 cm); một chiếc nhẫn vàng nạm ngọc xanh (đk 2,2 cm) và một nhẫn vàng nạm ngọc
ruby (đk 1,8 cm).
Chuỗi trang sức gồm 14 hạt chuỗi bằng vàng (trái)
và hạt chuỗi
bằng pha lê, khai quật ở di chỉ
Óc Eo (An Giang). Văn hóa Óc Eo
Nhẫn gắn hình bò thần Nandin bằng vàng (phía trên)
và khuyên
tai làm bằng đồng mạ vàng; khai quật
ở di chỉ Óc Eo (An Giang). Văn hóa Óc Eo
Ba hiện vật này được coi là những đại diện tiêu biểu cho đồ
trang sức của văn hóa Óc Eo. Không chỉ phát hiện các món trang sức, các nhà khảo
cổ học cũng đã phát hiện cả khuôn đúc đồ trang sức bằng đá trong di chỉ Óc Eo
(An Giang). Điều này đã chứng minh tính bản địa của các món đồ trang sức Óc Eo,
cho dù Óc Eo nằm trên con đường giao lưu thương mại nổi tiếng, liên kết các nền
văn minh cổ đại là Trung Hoa và Ấn Độ ở phương Đông với La Mã ở phương Tây.
Mặt dây chuyền bằng vàng nạm thạch anh tím (phía trên); nhẫn
vàng nạm ngọc xanh (phía dưới, trái) và nhẫn vàng nạm ngọc ruby (phía dưới, phải);
khai quật ở di chỉ Gò Xoài (Long An). Văn hóa Óc Eo
Khuôn đúc nữ trang và tiền chinh; khai quật
ở di chỉ Óc Eo
(An Giang). Văn hóa Óc Eo
Không chỉ chế tác vàng làm thành đồ trang sức, người Óc Eo
còn tạo ra các sản phẩm bằng vàng lá, với kỹ thuật khắc miết tạo hình và chữ
trên lá vàng, để trang trí và để hiến tặng thần linh, mà chiếc hoa sen bằng
vàng (đk 7,1 cm), khai quật ở di chỉ Gò Xoài (Long An) là một hiện vật điển
hình.
Hoa sen bằng vàng; khai quật ở di chỉ
Gò Xoài (Long An). Văn
hóa Óc Eo
Có thể nói rằng, nghệ thuật chế tác đồ trang sức trong các nền
văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo là những thành tựu rực rỡ, phản ánh trình độ
văn hóa, thẩm mỹ, kỹ thuật điêu luyện của người xưa trên lãnh thổ Việt Nam. Nhiều
món đồ trang sức của người xưa không chỉ có giá trị lịch sử, giá trị văn hóa và
giá trị kinh tế, mà còn xứng đáng là hình mẫu cho các bộ sưu tập trang sức hiện
đại, nhất là trong bối cảnh xu hướng “hoài cổ” đang là thời thượng trong giới
thiết kế đồ trang sức ở Việt Nam hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét