Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2019

Biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương - Phần 1

Biểu tượng nước và đá 
trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương - Phần 1
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Trong lịch sử văn học dân tộc, có một nhà thơ nữ mà nhà thơ Xuân Diệu rất ái mộ tài năng cũng như thơ ca của bà và trân trọng tôn xưng là “Bà chúa thơ Nôm”, kể về độc đáo thì đứng vào bậc nhất. Tên người ấy là Hồ Xuân Hương. Một cái tên kỳ diệu, sừng sững trong làng thơ Việt Nam xưa nay. Thơ Hồ Xuân Hương chứa đựng đầy những cảm xúc trữ tình, lãng mạn, đó là những vần thơ giàu thế giới nội tâm, những rung cảm của một tâm hồn lớn và một trái tim đa cảm của một nữ sĩ tài hoa độc đáo - đầy cá tính. Hồ Xuân Hương đã tự tìm cho mình một con đường riêng, với những phong cách rất riêng đã đạt tới đỉnh cao sáng tạo. 
Đời Hồ Xuân Hương chưa đến mức là một “tấm gương oan khổ” cho bi kịch người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhưng cuộc đời của nữ sĩ là điển hình cho những đau khổ riêng của người phụ nữ: tình duyên trắc trở, thân phận lẽ mọn. Chính vì vậy, Hồ Xuân Hương viết về mình mà tiếng nói của bà lại trở thành lời phát ngôn chung cho giới phụ nữ, khi Hồ Xuân Hương nói về nỗi đau chung của giới thì người đọc nhận ra ngay những dấu ấn riêng của chính cuộc đời nhà thơ. Bà đã dám chống lại những truyền thống của thời phong kiến là gia trưởng, nam tôn nữ ti, xem nhẹ thân phận người phụ nữ. Với tài năng và sự nhạy cảm sâu sắc của mình, nên tâm hồn nhà thơ luôn nhạy cảm với những nỗi đau sâu lắng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Đọc những bài thơ của bà viết về thân phận người phụ nữ, chúng ta cảm nhận được nỗi cảm thông thấm qua từng câu chữ. Nhà thơ mở rộng lòng mình để cảm nhận một cách đầy đủ nhất những tâm tư, những khao khát cũng như khẳng định vẻ đẹp trong trắng, thanh tân, tươi nguyên của người con gái qua hàng loạt những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng mà theo Đỗ Lai Thúy cho rằng “Những biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương là những biểu tượng văn hóa- tôn giáo. Chúng là hiện thân của những siêu mẫu được hình thành và tồn tại từ thời con người chưa có chữ viết.”(Đỗ Lai Thúy,1999, Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb văn học, tr.111).  
Biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương rất phong phú, đa dạng và nó mang nhiều tầng nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, liên quan đến các bộ sinh sản của người phụ nữ như hang thì có “Hang Cắc Cớ”, “Hang Thánh Hóa”, động thì có “Động Hương Tích”, nước thì có “Giếng thơi”,….Những biểu tượng gốc nói theo Cao Bá Quát là “kho trời chung” của tất cả mọi người, nhưng cũng không của riêng ai. Hồ Xuân Hương đã biết chiếm giữ lấy cho riêng mình, “vô tận của riêng mình”, mà không làm thiệt hại đến ai, thậm chí còn làm phong phú cho người khác. Với hàng loạt những biểu tượng được coi là sự sáng tạo của riêng Hồ Xuân Hương qua những bài thơ Nôm, thì biểu tượng nước và đá được bà thể hiện một cách rất độc đáo qua tài năng của mình. Hồ Xuân Hương chỉ có cảm hứng với những nước trong hang, hẻm, khe, kẽ, lách, vũng,… nghĩa là những hình thái nước tù đọng, quy mô nhỏ hẹp, ở vị trí khuất nẻo, hóc hiểm. Còn đá thì đôi lúc có quy mô rộng lớn hơn, bí ẩn hơn như động, đèo, non,… được nhà thơ sử dụng rất tài tình, độc đáo và đầy sức hấp dẫn. Chính vì thế, người viết luôn khao khát tìm hiểu, khám phá cái đẹp, cái hay, cái lung linh huyền ảo qua những bài thơ Nôm của bà nên chọn đề tài “Biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương”. Có thể nói, thơ Hồ xuân Hương tìm hiểu mãi còn bí ẩn mãi, tìm mãi còn mãi. Bởi bà đã tìm cho mình một phong cách riêng, những sáng tạo riêng qua tài năng sử dụng những biểu tượng. 
2. Mục đích nghiên cứu 
Rất nhiều nhà khoa học trong nước lẫn ngoài nước với rất nhiều những công trình nghiên cứu, đã khám phá những điều mới mẻ, những điều diệu kỳ qua những bài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương thể hiện sự độc đáo của riêng nhà thơ. Đó là sự dí dỏm, tinh nghịch, đôi lúc thật mạnh mẽ, táo bạo, nhưng rất hồn nhiên và đầy nữ tính. Ngôn ngữ tài hoa đã khéo léo mở ra trường nghĩa hàm ẩn, gợi cho người đọc sự suy ngẫm và liên tưởng đến những vấn đề nhạy cảm qua hàng loạt những biểu tượng liên quan đến các bộ phận của người phụ nữ, cũng như biểu đạt sức sống và cái đẹp của cơ thể, của tấm thân và trái tim rất trẻ. Đó là sự hồn nhiên, tươi nguyên, thanh tân của những cô gái đến tuổi dậy thì. Bài nghiên cứu này, người viết không xét những vấn đề đó là dâm hay tục, mà chỉ nghĩ đó là vẻ đẹp, sự trong trắng trinh nguyên mà chúng ta cần phải trân trọng và ngợi khen. Đó là vẻ đẹp mang tính tạo hóa, nó mang tính văn hóa, mĩ học. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu muốn làm rõ tại sao người phụ nữ thời phong kiến đẹp như vậy, đẹp cả ngoại hình lẫn tâm hồn mà cuộc đời, tình duyên lại lận đận. có phải “Hồng nhan đa truân” chăng? (“Bánh trôi nước”, “Tự tình II”,…). Phải chăng đó là dòng đời của họ? Phải chăng nữ sĩ tài năng đã mượn những hình ảnh này để đề cao quyền sống chính đáng của người phụ nữ. Đó là quyền tự do yêu đương, quyền được tự khẳng định vẻ đẹp của mình mà thời đại của bà bị chôn vùi, dập tắt. Từ đó mới thấy được một Hồ Xuân Hương, ngoài một nữ sĩ tài năng, còn là một Hồ Xuân Hương đầy cá tính và nhân đạo, một Hồ Xuân Hương với một trái tim luôn biết yêu thương, quan tâm, coi trọng quyền sống, quyền tự do con người được thể hiện qua những bài thơ Nôm với những biểu tượng mang nhiều ý nghĩa. Đặc biệt là bà sử dụng khá nhiều biểu tượng nước và đá để nói lên điều đó. 
Người viết muốn tìm hiểu, khám phá và làm rõ những ý nghĩa của biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương để thấy được cái hay, cái đẹp, cái độc đáo, cái lung linh trong thơ của bà. 
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát 
Như tên đề tài của luận văn “Biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương”. Bài nghiên cứu chủ yếu đi sâu tìm hiểu những bài thơ có chứa yếu tố nước và đá trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Theo tài liệu Thơ Hồ Xuân Hương của Giáo sư Nguyễn Lộc (Nhà xuất bản văn học, 1982), xác định trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương có khoảng bốn mươi bài. Theo tài liệu Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của Giáo sư Lê Trí Viễn (Nxb Sở Giáo dục Nghĩa Bình, 1987), tác giả cũng cho rằng thơ Nôm xác định tương đối chính xác là của Xuân Hương thì có độ khoảng bốn mươi bài. Trong khoảng bốn mươi bài thơ nói trên, người viết thống kê có khoảng hai mươi bài có chứa yếu tố nước( sương, suối, mưa, dòng, sông, sóng, thạch nhũ…), và khoảng mười tám bài có chứa yếu tố đá( hang, động, đèo, thạch nhũ, non, sơn, ghềnh,…). 
Luận văn sẽ không xét những bài thơ Nôm có chứa yếu tố nước và đá trong tập thơ “Lưu hương ký” của tác giả vì có phong cách khác, không liên quan nhiều đến đề tài. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, người viết có thể trích dẫn một vài câu ở một vài bài để so sánh làm rõ hơn, nỗi bật hơn cho bài nghiên cứu. 
Ngoài ra, luận văn còn khảo sát một số bài thơ, bài ca dao có hình ảnh nước và đá trong văn hoc Việt Nam để so sánh đối chiếu làm phong phú thêm cho đề tài. Bên cạnh đó, người viết xin mạn phép được tham khảo một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phê bình từ trước đến nay có nhắc đến hình ảnh nước và đá trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương. 
4. Lịch sử vấn đề 
Nữ sĩ tài năng độc đáo Hồ Xuân Hương, một cái tên kì diệu ấy vượt qua mọi không gian và thời gian, vượt qua mọi cuộc tranh luận xưa nay, tự mình sừng sững chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong làng thơ Việt Nam. Bởi thơ Nôm của bà có sự thành công rực rỡ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Hồ Huân Hương đã có những vần thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. 
Với giọng điệu dí dỏm, hồn nhiên, mạnh mẽ, táo bạo chưa từng có trên thi đàn, thơ của bà như những lời thách đố với những ai thích tìm tòi, khám phá cái hay, cái đẹp, cái thanh khiết ẩn đằng sau ngôn từ của nữ sĩ. Tuy nhiên, việc tìm hiểu nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương gặp không ít những vấn đề khó khăn. Hầu hết các vấn đề từ cuộc đời đến sự nghiệp thơ ca, cũng như phong cách thơ của nữ sĩ chưa có ý kiến thống nhất, có những đánh giá, những nhận định khác nhau, thậm chí có những ý kiến tranh luận đối lập nhau gay gắt. Song, khi tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương, nhìn chung các nhà chuyên môn, các nhà nghiên cứu đều ngợi khen, đều khẳng định vai trò và vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Có thể nói, Hồ Xuân Hương là tác giả huyền ảo nhất, lạ lùng nhất, bí ẩn nhất từ trước đến nay. 
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một mảng đề tài rất phong phú cho các nhà chuyên môn nghiên cứu, khảo sát. Và đến nay có rất nhiều nhà khoa học, nhà chuyên môn đã nghiên cứu nhiều công trình có giá trị. Tuy nhiên, người viết chưa thấy có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu chuyên biệt biểu tượng nước, đặc biệt là biểu tượng đá trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, mà chỉ có những công trình khi nghiên cứu có nói sơ qua những hình ảnh của nước và đá trong thơ Nôm của bà. 
Theo tìm hiểu, có những công trình khoa học khi nghiên cứu có nói qua yếu tố nước trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương như: 
Đỗ Lai Thúy có công trình nghiên cứu “Hồ Xuân Hương- hoài niệm phồn thực” (Nxb văn hóa thông tin, 1999) đã nhận xét “Những biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương đều là những biểu tượng văn hóa - tôn giáo”. Biểu tượng đáng lưu ý đến âm vật trong thơ Hồ Xuân Hương là giếng (Giếng thơi). Đây là cái giếng thanh tân ở thời điểm dậy thì của người con gái. Đá cũng vậy, nếu dựa vào tư duy liên tưởng theo dạng hình dáng thì hang, động cũng là âm vật. Theo Xuân Diệu, trong cuốn sách “Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam” (Nxb trẻ, 2006), có bình về bài thơ “Tát nước” của Hồ Xuân Hương. Tác giả cho rằng đến câu thứ năm thì lại có sự rất lạ: “Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa” 
Đó là “Gàu nước đổ xuống ruộng, nước kêu xì xòm, gàu không lại thả xuống khe vực nước lên, nước cũng xì xòm, trong khoảng giữa hai lần vực gàu, nước tạm thời lắng lại, in hình người đàn bà tát nước dốc ngược dưới đáy khe, rồi nước lại đổ, gàu lại vực, lại xì xòm mãi như thế”. 
Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Thu Yến qua công trình nghiên cứu “Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương”(Nxb văn học Hà Nội, 2008), có nói qua hình ảnh chứa nước và đá. Theo tác giả, nước trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương có nhiều tầng nghĩa khác nhau “Nước là nguồn sống gắn chặt với đời sống con người. Nước tượng trưng cho sự thanh khiết, trong trẻo, mầu nhiệm. Nhưng ở phương diện khác nước mang tính âm và động…”. Còn đá trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ đơn thuần là đá “Đá còn thể hiện ở sức nặng, sự cứng cỏi, sự rắn chắc… thể hiện cái cao, cái sâu, cái tinh nghịch, cái bí hiểm trong tâm tưởng của mình.”. 
Giáo sư Nguyễn Lộc qua bài viết “Hồ Xuân Hương, nhà thơ trữ tình yêu đời” trong cuốn sách Hồ Xuân Hương - tác phẩm và lời bình (Nhiều tác giả, 2011, Nxb văn học), có nói đến một khía cạnh về hình ảnh nước qua bài Tự tình I và Tự tình III. Đó là dòng đời của người phụ nữ, mà đó là chính tác giả “Xuân Hương ví mình như chiếc bách nổi lênh đênh giữa dòng nước cả”. 
Nhà nghiên cứu Hoàng Thị Bích Ngọc có bài viết “Một phong cách thơ Hồ Xuân Hương” qua cuốn sách Đến với thơ Hồ Xuân Hương( Nhiều tác giả, 1997, Nxb Thanh Niên Hà Nội), có bình về bài thơ Giếng thơi. Tác giả cho rằng “Bài thơ như vẽ ra cảnh một Động Tiên. Động Tiên này được bao quanh bởi một dòng nước trong ngày đêm không ngừng chảy. Động Tiên ấy chính là “nơi ơ” của nhà thơ”. Bên cạnh đó, tác giả còn cho rằng “Giếng ở đây chính là Hồ Xuân Hương, và Hồ Xuân hương chỉ còn đề cập tới khía cạnh thanh tân của cái giếng. Sự thanh tao, tươi tắn và lành mạnh của tâm hồn nàng và của chính con người nàng, ai có thể làm vẩn đục đươc chăng?”. Cũng trong tài liệu này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền có bình “Động Hương Tích”. Ông cho rằng, “con thuyền vô trạo”( thuyền không có giầm của Xuân Hương) bồng bềnh rơi vào “cõi Phật”. 
Nguyễn Thị Thanh Xuân qua Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn chương Việt Nam có nói về hình ảnh nước trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương: “Hồ Xuân Hương có hai bài thơ viết về hang, trong không gian ấy, nước ở trạng thái giọt, rỉ: Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn, Luồng gió thông reo vỗ phập phòm. Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm. Con đường vô ngạn tối om om (Hang Cắc Cớ); Lách khe nước rỉ, mó lam nham (Hang Thánh Hóa). Dù vậy, nước vẫn gây ấn tượng, bởi cái thế chủ động của nó. Đặt cổ mẫu nước trong hang, Hồ Xuân Hương đã chồng cổ mẫu lên cổ mẫu. Và cổ mẫu hang là hình thái đất núi, khá đặc biệt trong tâm thức nhân loại: “Mẫu gốc của hình ảnh tử cung người mẹ”; hình ảnh cõi trần”; “biểu tượng hoàn hảo về cái vô thức”, “Hang biểu trưng cho sự thám hiểm cái tôi bên trong, đặc biệt hơn là cái tôi thô sơ, bị nén ẩn dưới những tầng sâu vô thức”, “túi chứa đựng năng lượng của cõi người, Hang “quá trình nội hoá tâm lý, để con người trở thành chính mình và đạt được sự trưởng thành…”, “cái chủ quan trong cuộc đối đầu với những vấn đề của sự phân hóa”. Giọt nước trong hang chính là yếu tố động của sức sống hiền minh, nhỏ nhoi, nép mình như trực giác, nối kết giữa vô thức và ý thức”.  
Ngoài ra, còn rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu khi bàn đến đời và thơ Hồ Xuân Hương có nói sơ qua những hình ảnh có chứa yếu tố nước và đá như Giáo sư Lê Trí Viễn qua Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương (1987, Nxb Sở Giáo dục Nghĩa Bình), nhà nghiên cứu DZuy- DZao qua Sự thật thơ và đời Hồ Xuân Hương(2000, Nxb văn hoc Hà Nội), 
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chỉ có nhắc đến yếu tố nước, chứ chưa có công trình nghiên cứu sâu, nghiên cứu riêng biệt. Người viết trên cơ sở học tập, tiếp thu những ý kiến của những người đi trước, cộng với sự nỗ lực tìm tòi, khám phá, sáng tạo của bản thân. Người viết sẽ cố gắng hoàn thành tốt bài nghiên cứu. Tuy nhiên, đây là thử nghiệm đầu tiên, một dò dẫm tìm tòi bước đầu mà chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn và không tránh khỏi sự sơ suất, thiếu sót. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
Do yêu cầu của đề tài luận văn, người viết sẽ vận dụng một số phương pháp chủ yếu như sau: 
5.1. Phương pháp lịch sử 
Luận văn khảo sát “Biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương” là muốn làm rõ những yếu tố chứa nước và đá trong những bài thơ Nôm của tác giả. Muốn vậy phải đề cập đến đời và thơ của tác giả. Đặt tác giả và tác phẩm vào một hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể để xem xét, đánh giá là một hướng nghiên cứu tích cực và đạt hiệu quả. Phương pháp lịch sử hướng đến việc tìm hiểu hoàn cảnh chính trị xã hội, văn hóa, tư tưởng, thời đại mà tác phẩm ra đời. Từ đó có cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn hơn về cái hay, cái mới lạ, cái lung linh của tác phẩm. 
5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp 
Đây là phương pháp quan trọng được dùng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. Vì phải phân tích, chia nhỏ các vấn đề ra để làm sáng tỏ, sau đó tổng hợp lại những kết quả nghiên cứu để có cái nhìn tổng thể. 
5.3. Phương pháp thống kê phân loại 
Thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng phong phú và đầy phức tạp bởi tính đa nghĩa của nó. Đặc biệt là thơ Nôm truyền tụng. Người viết sẽ thống kê trong khoảng bốn mươi bài thơ Nôm của bà thì có bao nhiêu bài có chứa yếu tố nước và đá. Sau đó, phân loại ra những tác phẩm nào mang ý nghĩa biểu tượng để làm rõ. 
5.4. Phương pháp so sánh 
Với phương pháp này người viết sẽ so sánh thơ Nôm Hồ Xuân Hương có chứa biểu tượng nước với các tác phẩm khác có chứa yếu tố nước để tìm ra những nét tương đồng, dị biệt ở một số khía cạnh về nội dung và nghệ thuật. Từ đó, thấy được sự ảnh hưởng qua lại giữa các nhà thơ. Đồng thời, thấy được cái hay riêng, cái độc đáo của riêng tác giả. Bên cạnh đó, người viết sẽ so sánh một số tác phẩm với nhau của chính tác giả để thấy được tài năng, sự đa dạng, sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương. 
6. Đóng góp của luận văn 
6.1. Ý nghĩa khoa học 
Người viết rất trân trọng tiếp thu những công trình nghiên cứu có giá trị về Hồ Xuân Hương từ trước đến nay. Bên cạnh đó, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu về một phương diện trong phong cách thơ độc đáo của nữ sĩ: “Biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương”. 
6.2. Ý nghĩa thực tiễn 
Luận văn sẽ góp phần làm rõ hơn tại sao trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương bà thường sử dụng yếu tố nước và đá. Vậy nó mang những ý nghĩa biểu tượng gì? Từ đó khẳng định được tài năng của nữ sĩ. Bên cạnh đó, luận văn sẽ trang bị cho bản thân người viết một vốn kiến thức về nhà thơ mà mình yêu thích, nhằm phục vụ, hỗ trợ tốt cho công tác giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường. Đồng thời, sẽ trao đổi. thảo luận về chuyên môn với các đồng môn, đồng nghiệp với mục đích cùng tiến bộ. 
7. Cấu trúc luận văn 
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: 
Chương 1: Những vấn đề chung 
Ở chương này sẽ trình bày về thời đại lúc Hồ Xuân Hương sinh sống để thấy được tình hình lịch sử của đất nước lúc bấy giờ sẽ ảnh hưởng đến sáng tác thơ ca của tác giả. Bên cạnh đó cũng tìm hiểu về tiểu sử của tác giả, tìm hiểu về số lượng bài thơ Nôm, trong các bài thơ đó thì bao nhiêu bài có chứa các yếu tố nước và đá để phân tích, lý giải. Ngoài ra ở chương I còn trình bày khái niệm biểu tượng và biểu tượng nước và đá nhìn từ góc độ văn hóa, để thấy rõ tầm quan trọng của nước và đá đối với con người. 
Chương 2: Ý nghĩa của biểu tượng nước trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. 
Ở chương 2, người viết sẽ thống kê có bao nhiêu bài thơ Nôm của tác giả có nước và các yếu tố chứa nước và, rồi phân loại ra mỗi bài sẽ mang ý nghĩa biểu tượng về nội dung gì, rồi đưa dẫn chứng phân tích. 
Chương 3: Ý nghĩa của biểu tượng đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. 
Ở chương 3, người viết cũng thống kê có bao nhiêu bài có hình ảnh đá và các hình thức của đá, rồi phân loại ra mỗi bài sẽ mang ý nghĩa biểu tượng về nội dung gì, rồi đưa dẫn chứng phân tích.  
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 
1.1. Thời đại của Hồ Xuân Hương 
Hồ Xuân Hương sống trong một thời đại có nhiều biến thiên dữ dội và mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt cực độ. Bà sinh ra vào cuối triều Lê (1592-1788), một thời kỳ đầy những biến loạn xã hội bởi nội chiến phong kiến và bão táp của phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Chế độ phong kiến đi từ khủng hoảng đến suy thoái. Cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã cùng một lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến Đàng Trong (chúa Nguyễn), Đàng ngoài (vua Lê, chúa Trịnh), đánh tan các cuộc xâm lược của quân Xiêm ở phía nam, quân Thanh ở phía bắc, khởi đầu một triều đại ngắn ngủi của mình (1788- 1802) rồi cũng sớm bị mất vào tay nhà Nguyễn. 
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn suy sụp của chế độ phong kiến, có thể nói đây là giai đoạn đen tối nhất của lịch sử dân tộc ta. Văn học phản ánh cuộc sống với bối cảnh lịch sử đầy biến động, hẳn nhiên có sự tác động, ảnh hưởng lớn đến quá trình sáng tác thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. 
Một điểm lưu ý là trước đây nho giáo giữ vai trò độc tôn với biết bao cái gọi là lễ giáo, đạo đức, luân lý mà bọn phong kiến đặt ra cho người bình dân và nhất là với phụ nữ như đạo tam tòng, tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, hoặc khuôn mẫu tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh. Điều đáng nói là Nho giáo suy thịnh theo bước thăng trầm của triều đình phong kiến. Giờ đây giai cấp phong kiến vào thời tàn lụi thì hẳn nhiên Nho giáo cũng không còn giữ được vị trí độc tôn như trước nữa. Trước đây dưới sức ép khắt khe của lễ giáo, con người không dám nói theo cách suy nghĩ của mình, nhưng giờ đây họ dám đả kích cái giả dối, họ có điều kiện trút bỏ cái giả tạo của chính mình, họ dám nói thẳng những điều mà trước đây họ không dám nói. Chính Hồ Xuân Hương đã chịu ảnh hưởng của cách nói đó từ nhân dân và tự ngay cá tính của bà cũng đã dám nói lên sự thật một cách mạnh mẽ, khẳng khái. Cho nên yếu tố thời đại đã ảnh hưởng lớn đến sáng tác thơ Nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Cùng với sự suy tàn của chế độ phong kiến là sự trỗi dậy mãnh liệt của phong trào khởi nghĩa nông dân. Bởi vì trước sự áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến, nhân dân đã nổi dậy khởi nghĩa chống lại, từ đây ý thức về quyền sống của con người bắt đầu được khẳng định, sự kiện này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của Hồ Xuân Hương trong việc lên tiếng đòi quyền sống, quyền tự do cho người phụ nữ, và điều đó được thể hiện ở chỗ bà đã nêu bật được những nỗi bất hạnh mà những người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ phải chịu đựng và bằng thơ của mình bà tin tưởng đấu tranh để bảo vệ bênh vực quyền lợi cho người phụ nữ. 
Thêm nữa, lúc bấy giờ đồng tiền bắt đầu xuất hiện với vai trò làm vật trung gian trao đổi, là một hiện tượng mới mẽ trong xã hội. Mối liên hệ giữa nhà nước và nhân dân mất đi sự hài hòa cân đối. Chính trong bối cảnh xuất hiện đồng tiền với nền kinh tế hàng hóa, có sự giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia lân cận, mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài từ khá sớm. Khi chính quyền Tây Sơn làm chủ hầu hết khu vực Đàng Trong, Nguyễn Nhạc đã tạo điều kiện cho các thương gia người Anh buôn bán trong vùng đất mà ông quản lý. Thể theo nguyện vọng của thương nhân Anh, Nguyễn Nhạc cho họ buôn bán cả vụ, chỉ cần trả một khoản thuế nhất định. Ngoài Bắc, trung tâm buôn bán là Thăng Long, phía nam là kinh đô Phú Xuân. Phú Xuân trở thành nơi nhiều người dân đến tụ họp buôn bán, sầm uất hơn những nơi khác trong nước. Do chính sách cởi mở của Nguyễn Nhạc, nền kinh tế hàng hóa được kích thích phát triển, thương nhân các nước đến kinh doanh dễ dàng. Từ đó, ý thức cá nhân của con người cũng càng được nảy sinh, con người dần dần ý thức được giá trị của mình và từ đó nhận thức về quyền sống, quyền làm chủ mạnh mẽ hơn. Hồ Xuân Hương đã bắt kịp với mạch sống đó. 
Thời đại Hồ Xuân Hương đang sống chính là thời đại phục hưng lại những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc. Nó đã làm xuất hiện những hình ảnh mang tính chất kỳ vĩ, những con người ngang tầm vũ trụ, qua đó thể hiện tư tưởng nhân văn cao cả. Cho nên sự gặp gỡ của Hồ Xuân Hương với nhiều tác giả đương thời là ở cảm hứng giải phóng tình cảm, giải phóng đời sống tình cảm, và chính chỗ gặp gỡ này, điểm tương đồng này là một trong những yếu tố tạo nên tinh thần phục hưng trong văn học đương thời. Đó là tiếng nói khao khát tình cảm, là bênh vực người phụ nữ bất hạnh và đòi quyền bình đẳng cho người phụ nữ. Tất cả tinh thần nhân văn đó đã đi sâu vào sáng tác thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Nhưng với cách diễn đạt của bà nó rất riêng và gần gũi với phong cách dân gian. 
Sở dĩ, con người và thời đại là hai yếu tố góp phần làm cho thơ Nôm Hồ Xuân Hương ảnh hưởng dòng văn hóa dân gian vì về mặt chủ quan: bà có cá tính mạnh mẽ, sự tự ý thức về cái tôi trong quá trình giao du và gần gũi với con người và thiên nhiên. Đồng thời nhà thơ cảm nhận được sâu sắc nỗi đau khổ của giai cấp mình. Còn về mặt khách quan, đó là thời đại Hồ Xuân Hương sống có nhiều biến thiên dữ dội và truyền thống văn học, văn hóa dân gian đã tác động mạnh mẽ đến quá trình sáng tác thơ nôm của bà. 
1.2. Cuộc đời 
Theo tài liệu nghiên cứu Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của GS. Lê Trí Viễn thì Hồ Xuân Hương là người xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Họ Hồ ở Quỳnh Lưu là một họ nổi tiếng, từng có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to như Hồ Sĩ Đống, anh Xuân Hương, đỗ hoàng giáp, chức đô ngự sử. Xuân Hương sinh ra ở đâu, năm nào, chưa rõ. Chỉ truyền ngôn là gia đình một thời ở Thăng Long, lúc ở phường Khán Xuân, lúc ở thôn Tiên Thị, và tuổi trưởng thành Xuân Hương lại dựng một ngôi nhà gần Hồ Tây, đặt tên là Cổ Nguyệt Đường, bạn bè lai tới nhiều là ở ngôi nhà này. 
Hồ Xuân Hương theo nề nếp gia đình có được đi học nhưng không nhiều. Cứ thơ ca thì ứng với bạn bè cả nôm lẫn Hán, không kể tài thơ. Về kiến thức cũng làm các bậc mày râu kính nể. Xuân Hương sinh sống như thế nào, không đâu chép. Chỉ thấy ghi nhà nghèo và có mẹ già. Có thời gian Xuân Hương giao thiệp với nhiều bạn bè. Được Xuân Hương tặng thơ và cùng xướng họa đều là trí thức, quan lại. Xưa kể Chiêu Hổ (Chiêu Hổ không chắc, hoặc không phải là Phạm Đình Hổ). Lưu hương ký cho thấy thêm khá nhiều: Sơn Phủ, Cư Đình, Tốn Phong Thị, Thạch Đình, Chí Hiên, hiệp trấn Sơn Nam hạ, hiệp trấn Trần hầu(tức Trần Phúc Hiển)... kể cả một “người cũ” là ông Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu, người Tiên Điền, Nghi Xuân là Nguyễn Du. Khách khứa ngâm vịnh như vậy, muốn tao nhã, chủ nhân trong nhà không phong lưu cũng đủ chi dùng, và cũng đủ nhàn nhã để nghe thơ và xướng họa. Mùa xuân năm Giáp Tuất(1814), ông bạn Tốn Phong Thị đến thăm. Trước đó Xuân Hương đã có những 10 bài tám câu bảy chữ đưa tặng và 21 bài họa lại. 
Đường chồng con chắc nhiều long đong. Đến nay mới rõ tên một người chồng là Trần Phúc Hiển, vào những năm 10 thế kỳ XIX làm tri phủ Tam Đái về sau là Vĩnh Tường, rồi tiếp theo giữ chức tham hiệp An Quảng và mất năm 1819. Còn ông Phủ Vĩnh Tường có phải là Trần Phúc Hiển hay một người khác? Tổng Cóc là ai? Có phải là Nguyễn Bình Kình ở phủ Lâm Thao hay là người nào? Trong ba hay hai người đó Xuân Hương lấy ai trước? Trong mấy mươi bài xướng họa giữa Xuân Hương và Tốn Phong Thị được sáng tác quãng 1807-1814, mà giọng chân thực không có gì đáng nghi ngờ, lại cho thấy Xuân Hương không còn mười tám đôi mươi, mà trong tâm tư đã cho mình thuộc số má đào phận bạc và lấy làm xấu hổ khi nghĩ đến chuyện chồng còn. 
Một điều thường được ghi nhận là Xuân Hương đi đây đi đó nhiều nơi, lên tận Tuyên Quang, vào tới Thanh Hóa, ra đến An Quảng, sang cả Ninh Bình, còn Vĩnh Yên, Sơn Tây, Hà Đông đều có vết chân của nữ sĩ. Thời xưa, với phụ nữ, chu du như vậy rất khó. Có người không dám tin, nhưng thơ Xuân Hương lại là bằng chứng. Xuân Hương lãng du như thế vào thời gian nào? Khó mà xác định, nhưng bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình là chỗ từng trải của Xuân Hương. 
Xuân Hương mất năm nào? Chưa đâu đáng tin bằng lời thơ của Miên Thẩm: trước 1842. Như vậy, Xuân Hương thuộc vào thế hệ các nhà thơ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và nhỏ tuổi hơn Nguyễn Du. 
1.3. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Xuân Hương 
Về sáng tác của Hồ Xuân Hương, theo tài liệu Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của Giáo sư Lê Trí Viễn, 1987, Nxb Sở Giáo dục Nghĩa Bình, thì xem như có hai mảng: mảng thơ Nôm theo truyền tụng và Lưu Hương Ký. 
1.3.1. Tập thơ Lưu Hương Ký 
Lưu Hương Ký không chắc còn đầy đủ. Gom tất cả lại thì có được 31 bài thơ và văn chữ Hán, 28 bài thơ chữ Nôm, bao gồm thơ năm chữ, bảy chữ, ca, từ, phú. Trong bản chép tay còn giữ được lẫn lộn cả thơ người khác xướng họa với Xuân Hương. Hồi mới phát hiện tài liệu quý báu này, Trần Thanh Mại có bài giới thiệu tương đối kỹ. Từ đó đến nay không mấy ai bàn tới. Gần đây, Nguyễn Lộc hai lần đề cập trở lại nhưng để chỉ nhận xét nó không cùng phong cách với mảng thơ Nôm quen biết và chờ đợi tài liệu tin cậy dứt khoát hãy coi nó cùng tác giả với các bài thơ truyền tụng kia. 
Lưu Hương Ký với mấy mươi tác phẩm như đã được tập hợp, chủ yếu là một tập thơ tình yêu. Dù là miêu tả ngoại cảnh hay đối thoại với bạn bè cũng đều là một giọng trữ tình. Có buồn vui, có nhớ thương, trách móc, tủi phận, có thề sâu, có tiễn đưa, dặn dò, có tin và có sợ… Nhưng tất cả chỉ là những cung bậc của một tiếng lòng chân thực, cởi mở, tha thiết muốn yêu và được yêu, tha thiết với một mối tình chung thủy, bền lâu, ước mong cháy bỏng mà đáp lại chỉ thoảng qua. Cho nên, chủ âm của tập thơ là một niềm khắc khoải khôn nguôi. 
1.3.2. Tập thơ Xuân Hương thi tập (thơ Nôm truyền tụng) 
Cũng theo tài liệu nói trên của Giáo sư Lê Trí Viễn thì thơ Nôm truyền tụng được ghi lại và xuất bản lần đầu tiên với nhan đề Xuân Hương thi tập năm 1913 thì có quãng 40 bài. Nhưng cũng trong tài liệu này, tác giả cũng cho rằng có nhiều kiến giải trước nay: Bất chấp, coi như tất thảy là của Hồ Xuân Hương. Nhưng khảo sát theo tiêu chuẩn phong cách rồi thận trọng coi như chỉ có khoảng 30 bài có nhiều khả năng là của Xuân Hương, còn 10 bài kia, nét này, nét nọ giống giống nhưng không phải là thơ Xuân Hương. Chính vì thế mà có ý kiến cho rằng thơ Xuân Hương là hiện tượng văn học dân gian xâm nhập vào văn học viết. Bởi tập thơ thể hiện phong cách đa dạng và độc đáo, lời thơ diễn đạt rất gần gũi với văn học dân gian. Theo tài liệu nghiên cứu Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương của Phó Giáo sư tiến sĩ Lê Thu Yến, 2008, Nxb Văn học, thì thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương có năm đề tài chính. 
1.3.2.1. Đề tài về hang động, đồi núi trong thơ nôm Hồ Xuân Hương Hình ảnh hang động, đồi núi trong thơ nôm Hồ Xuân Hương thật độc đáo và đầy ấn tượng đối với người đọc. Với những hang động mà Hồ Xuân Hương mô tả đều có chung đặc điểm là tròn, sâu và đầy những huyền bí. Ở Hang Cắc Cớ và Động Hương Tích đều là những hang động có cái lỗ hỏm hòm hom. Với cái lỗ hỏm hòm hom làm hiện lên cái hang tròn, sâu mà nhỏ, ở đó có con thuyền vô trạo (không có bơi chèo), con đường vô ngạn (không có thành bờ tay vịn), có giọt nước rơi từ thạch nhũ, có gió thổi vào hang nghe phập phòm. Với cách mô tả như vậy, làm cho người đọc có sự hấp dẫn, kích thích sự tò mò để khám phá, chinh phục. 
Ở Hang Thánh Hóa thì có những ngoàm đá với các hõm to, nhỏ, với lườn đá có cỏ leo rậm rạp, có nước rỉ lách khe mó lam nham. Với sự cấu tạo của hang động tự nhiên đầy sự bí ẩn, nguy hiểm như vậy nhưng mọi người vẫn muốn tò mò tìm hiểu, vẫn ham muốn được trèo. 
Ở Kẽm Trống, Đá Ông Chồng Bà Chồng, Quán Khánh, Đèo Ba Dội là những hang động, đồi núi có những đặc điểm chung là cảnh thiên nhiên đẹp, sống động, đầy màu sắc và tràn đầy sức sống. Ở đó có Gió giật sườn non, Sóng dồn mặt nước, Ở trong hang núi, Ra khỏi đầu non, có Cửa son đỏ loét, Hòn đá xanh rì, Tầng trên phơ đầu bạc, Thớt dưới đượm má hồng, Gan nghĩa giãi ra, Khối tình cọ mãi, Đường đi thiên thẹo... Qua đó, cho ta thấy được Hồ Xuân Hương đã mô tả thế giới hang động, đồi núi thật phong phú và đa dạng bởi tác giả đã đến tận nơi và nhìn thực tế những cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước nên hình ảnh rất thực tế và sống động. 
Trong tài liệu nghiên cứu Sức hấp dẫn của thơ nôm Hồ Xuân Hương của PGS.TS Lê Thu Yến thì cho rằng: “Thế giới hang động là thế giới của khám phá, tinh nghịch, hồn nhiên, bỡn cợt, đùa vui… vì thế nó không thể có chuẩn mực, khuôn thước nào, rất thoáng. Thế giới thực (nghĩa thứ nhất) của hang động cũng đầy ắp sức sống mà thế giới ảo (nghĩa thứ hai) cũng làm cho người ta rạo rực, háo hức đi tìm một bến bờ hạnh phúc. Hang động và phòng the tuy khác nhau nhưng cùng có chung đặc điểm: tối xám, vắng vẻ, âm u, tự do... không bị ai kiểm soát, để ý. Đúng vậy, hang động do trời đất tự nhiên sinh ra cũng như trong chốn phòng the bốn vách bưng bít chỉ có người trong cuộc mới tỏ tường thì làm sao có thể đưa vào những quy định khắt khe, ngặt nghèo để ràng buộc con người. Thế giới này vì vậy tự do, thoải mái. Sự tự do, thoải mái này đem lại cái hồn nhiên vô tư, đem lại nụ cười tươi trẻ cho con người...”. 
1.3.2.2. Đề tài về đồ vật, con vật, bánh trái trong thơ nôm Hồ Xuân Hương 
Mít là loại trái cây có ở khắp vùng người Việt sinh sống. Con ốc ở bất cứ vùng quê nào cũng có. Bánh trôi là món chè ngọt người dân thường ăn. Cái đu ở các vùng phía Bắc thường dựng lên trong suốt 3 tháng mùa xuân để khi tổ chức lễ hội, người dân có dịp giao lưu với nhau. Giếng nước đầu làng quen thuộc như cây đa, mái đình, sinh hoạt thường nhật của người dân. Chiếc quạt giấy không hề xa lạ với người dân xứ nóng. Khung cửi là hoạt động lao động phần lớn của người dân ở nông thôn. Khung tranh ngày Tết vẫn thường được treo trong nhà như tranh làng Hồ, tranh Hàng Trống... Chiếc trống của lễ hội, của đình đền ở làng nào chả có. Đồng tiền là phương tiện giao dịch mua bán không ai là không có. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Mời nhau ăn trầu, bửa cau, têm trầu, quệt vôi là việc làm thường xuyên của mỗi gia đình có người lớn tuổi. Trẻ con thường được sai ngoáy trầu. Sân vườn mỗi nhà ít nhiều cũng có một vài cây cau, thả vài dây trầu quấn quanh vừa là cây cảnh đẹp vừa để dùng quanh năm. Kể cả rêu, cỏ yếu ớt thậm chí không có giá trị gì cũng luôn có mặt trong thơ Xuân Hương... Điều quan trọng là Xuân Hương tả những hình ảnh quen thuộc này theo nguyên lý động. Chất sống của sự vật rất quan trọng trong thơ Xuân Hương. Chưa bao giờ Xuân Hương nhìn sự vật ở trạng thái tĩnh. 
Bản thân cái quạt cũng rất năng động: chành ra, khép lại, phì phạch... cùng với vẻ đẹp của nó: hồng hồng, má phấn, mỏng, dày, rộng, hẹp... để cho người dùng nó phải quyến luyến chẳng rời tay, nâng niu, yêu dấu. yêu đêm, yêu ngày. Chẳng những thế nó còn có những công dụng khác, không chỉ có mát mặt anh hùng, nó còn có thể che đầu che mưa cho người quân tử. Ở độ nóng cao, lúc tắt gió, quạt càng mát. Nâng niu ban đêm chưa phỉ, lại thêm yêu dấu lúc ban ngày. Người đọc chóng mặt vì độ quay của chiếc quạt, nó hoạt động không ngừng nghỉ trên tay hết vua đến chúa, hết anh hùng tới người quân tử... 
Giếng nước là hình ảnh thân thương của người trong một làng. Giếng là nơi tập trung sinh hoạt mỗi ngày, giếng cũng là nơi bày tỏ tình cảm, thông báo tin tức, cũng là nơi quang gánh đi về tình tự bên nhau... Vì thế đi xa ai cũng nhớ. Cùng với gốc đa đầu làng, ngõ trúc quanh co, giếng nước còn là nơi sinh hoạt tinh thần đậm nét truyền thống của dân tộc ta. Xuân Hương đã chọn hình ảnh quen thuộc này như cột mốc quan trọng trong đời sống tinh thần người Việt để dẫn giải một nét đẹp mà bình thường khôn dễ gì nhận ra. 
Đá là vật thể quen thuộc ở vùng núi nước ta. Nhưng đá trong thơ Xuân Hương không chỉ đơn thuần là đá. Đá còn thể hiện ở sức nặng, sự cứng cỏi, sự rắn chắc... và đá bao giờ cũng có hình thẳng đứng vươn lên chín tầng cao. Và nếu vậy, nó rất thích hợp để Xuân Hương diễn tả những điều khó nói, nó là một ẩn dụ trung thành nhất để Xuân Hương thể hiện cái cao, cái sâu, cái tinh nghịch, cái bí hiểm trong tâm tưởng của mình. Những lườn đá bậc đá, hòn đá, chòm đá, đẽo đá, đeo đá, đá ông chồng bà chồng, cả thạch nhũ nữa... hết sức sinh động, ngộ nghĩnh, đa dạng. Có đá bên mình Xuân Hương còn sợ gì búa rìu dư luận? 
1.3.2.3. Đề tài về thầy tu và chùa chiền trong thơ nôm Hồ Xuân Hương 
Hình ảnh chùa chiền và thầy tu rất quen thuộc và được tôn kính ở đất nước ta. Nhưng trong xã hội rối ren lúc bấy giờ, nhà chùa không còn là nơi tu hành tôn nghiêm nữa. Nhiều kẻ lợi dụng chùa chiền để làm điều bậy bạ. Hồ Xuân Hương chỉ trích thậm tệ sự sa đọa của các nhà sư, bà mỉa mai hạng tu hành không giữ vững được đạo vì bị vật dụng ám ảnh nên phải hoàn tục. Nhà thơ phác họa vài nét nhưng qua đó người đọc phần nào nhận ra giọng điệu châm biếm, thâm thúy, sâu cay của tác giả về những cảnh “chướng tai gai mắt” ở nơi tôn nghiêm. 
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo, 
Vị gì một chút tẻo tèo teo. 
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc, 
Trái gió cho nên phải lộn lèo. 
(Cái kiếp tu hành) 
Hay: 
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm, 
Đi đâu chúng đội để ong châm. 
Đầu sư há phải gì ... bà cốt, 
Bá ngọ con ong bé cái nhầm. 
(Sư bị ong châm) 
Hồ Xuân Hương còn vạch ra cho chúng ta thấy cảnh chướng tai gai mắt của hạng nhà sư chỉ có đạo đức ở bộ áo cà sa, còn lòng dạ thì vấn vương trần tục “miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”... 
Chẳng phải là Ngô, chẳng phải ta, 
Đầu thì trọc lốc, áo không tà. 
Oản dâng trước mặt, dăm ba phẩm, 
Vãi núp sau lưng, bảy tám bà. 
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe, 
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha. 
Tu lâu có lẽ nên Sư cụ, 
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà. 
(Sư hổ mang) 
Qua những hình ảnh sinh động với lối thơ châm biếm, Hồ Xuân Hương vẽ lên không phải là cảnh tôn nghiêm của nhà chùa mà là nơi một bọn đội lốt tu hành ngày đêm đú đởn, chè chén, hát hổng… Người quen cõi Phật chen chân xọc, 
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm. 
Với bài Chùa Quán Sứ cho ta thấy cảnh sinh hoạt ở chùa thật lười biếng và vô nghĩa. Sư cụ thì đáo nơi neo, chú tiểu thì bỏ kinh kệ, bỏ cả Chày Kình. Giọng thơ châm biếm khá chua cay. 
Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo, 
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo? 
Chày Kình, tiểu để suông không đấm, 
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo. 
Sáng banh không kẻ khua tang mít, 
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu. 
Cha kiếp đường tu sao lắt léo, 
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo! 
1.3.2.4. Đề tài về vua chúa, quan lại, hiền nhân quân tử, học trò trong thơ nôm Hồ Xuân Hương 
Hồ Xuân Hương là nhà thơ trào phúng, vì bà dám nói lên những điều mà mọi người không dám nói, bà thẳng tay tát vào mặt cả bọn phong kiến từ trên xuống dưới vạch trần bộ mặt giả dối trong xã hội. Trước hết, Hồ Xuân Hương đánh vào giai cấp thống trị mà đại diện là vua chúa, quan lại, hiền nhân quân tử… với vũ khí tiếng cười của bà, bà đã đánh vào bọn thống trị một cách đau đớn, có thế thấy đối tượng đả kích trong thơ bà rất rộng. Qua bài Vịnh cái quạt(I) phần nào cho ta hiểu rõ hơn: 
Mười bảy hay mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay. 
Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc, 
Rộng hẹp dường nào, cắm một cay. 
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát, 
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày. 
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy, 
Chúa dấu vua yêu một cái này. 
Mượn cớ tả cái quạt mà thật ra là để chỉ cái khác, nói đến thói mê hoa, hám sắc của bọn quan lại, vua chúa. Vua chỉ yêu “cái này” thôi và không yêu cái khác! Nói cái quạt để ám chỉ người con gái “mười bảy hay mười tám” số nan quạt giấy cũng đồng thời nói lên tuổi của thiếu nữ. Đương thời chỉ có ca dao với Trạng Quỳnh mới dám đả kích như vậy. Còn đối với bọn “hiền nhân quân tử”: 
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, 
Thiếu nữ nằm chơi qúa giấc nồng. 
Lược trúc chải cài trên mái tóc, 
Yếm đào trễ xuống dưới nương long. 
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm. 
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông. 
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt, 
Đi thì cũng dở, ở không xong. 
“Hiền nhân quân tử” là mẫu hình lý tưởng của xã hội nhưng thực ra họ cũng lắm khát khao phàm tục. Thấy cô gái ngủ hớ hênh thì quân tử cũng “dùng dằng đi chẳng dứt”. Nhà thơ vạch ra tính chất khôi hài của nội dung rất phàm tục lại được che đậy bằng một lớp vỏ đạo đức giả hoặc qua bài Đèo Ba Dội cũng vậy: 
Một đèo, một đèo, lại một đèo, 
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo. 
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, 
Hòn đá xanh rì lún phún rêu. 
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc, 
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo. 
Hiền nhân quân tử ai là chẳng, 
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo. 
Trong những bài thơ Quả mít, Ốc nhồi, bà cũng đã vạch ra những việc xấu xa ấy của bọn quân tử. 
Đó còn là đám sĩ nho quân tử con nhà quan dốt nát mà hênh hoang. Không tự lượng tài sức non nớt, hễ đến thăm chùa chiền nào là làm thơ đề vịnh ngay lên vách đó là chuyện lố lăng, bà chửi thẳng mặt: Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ? 
Lại đây cho chị dạy làm thơ. 
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, 
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa. 
(Lũ ngẩn ngơ) 
Hay: 
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền, 
Cũng đòi học nói, nói không nên. 
Ai về hắn bảo phường lòi tói, 
Muôn sống đem vôi quét trả đền! 
(Phường lòi tói) 
1.3.2.5. Đề tài về người phụ nữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương 
Hồ Xuân Hương là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà luôn quan tâm đến thân phận người phụ nữ, luôn đồng cảm, chia sẻ với họ. Ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, thân phận của những người phụ nữ lại vô cùng nhỏ bé, cuộc đời của họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội. Họ là những người phụ nữ có tài có sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, bé nhỏ trong xã hội lúc bấy giờ. 
Thân em vừa trắng lại vừa tròn, 
Bảy nổi ba chìm với nước non… 
(Bánh trôi nước) 
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh, 
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh… 
(Tự tình I) 
Trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm (dịch) cũng có nói đến cái khổ của người chinh phụ. Còn với Hồ Xuân Hương không chỉ than cho người đàn bà dưới chế độ phong kiến mà bản thân mình bị cái lễ giáo khắc nghiệt ấy cuốn chặt lấy. Hồ Xuân Hương đã nói một cách trần trụi nhất, với cái mạnh mẽ của sự phản kháng và gắn chặt đời mình cùng với số phận của những người phụ nữ nói chung trong xã hội cũ: 
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,  
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung. 
Năm thì mười họa chăng hay chớ, 
Một tháng đôi lần có cũng không. 
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm, 
Cầm bằng làm mướn, mướn không công. 
Thân này ví biết dường này nhỉ, 
Thà trước thôi đành ở ấy xong. 
(Làm lẽ) 
Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương nói riêng và trong xã hội phong kiến nói chung đều là những con người với số phận bi đát. Do sống trong xã hội phong kiến, một xã hội coi thường phụ nữ và luôn bị lễ giáo trói buộc. Chính vì vậy, người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường tình duyên. Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên với hai lần làm lẽ nhưng cả hai lần đều ngắn ngủi, không trọn vẹn nên Hồ Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với phận của những người phụ nữ không may mắn trong đường tình duyên. Đó là nỗi khố của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa, người phụ nữ chết chồng... Điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến thối nát mà không ai dám lên tiếng. Hồ Xuân Hương vạch cho mọi người thấy thân phận khổ nhục của người làm lẽ, năm thì mười họa mới được gần chồng. Họ là thứ làm mướn không công và để thỏa ham muốn nhục dục của bọn nhà giàu. Nhà thơ vạch trân bản chất xấu xa của chế độ đa thê thời phong kiến. 
Không chỉ cảm thông với thân phận của người làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa mà Hồ Xuân Hương còn muốn dỗ họ, muốn an ủi họ, muốn dịu dàng đùa với họ, để cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường của những người phụ nữ chồng chết. 
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng, 
Níu đi kéo thẹn với non sông... 
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)  
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì, 
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti .. 
(Bỡn bà lang khóc chồng) 
1.4. Khái niệm biểu tượng 
Biểu tượng theo Petit Larousse (1993) là “một dấu hiệu hình ảnh, con vật hay đồ vật, biểu thị một điều trừu tượng; nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó”.Theo nhà phân tâm học Thụy Sĩ C.G.Jung thì “Biểu tượng là một danh từ, một tên gọi hay một đồ vật tuy đã quen thuộc với ta hàng ngày, nhưng còn gợi thêm những ý nghĩa khác bổ sung vào ý nghĩa ước định, hiển nhiên và trực tiếp của nó”. (“Thăm dò tiềm thức”, An Tiêm, SG, 1970). Như vậy, ở đây, biểu tượng được hiểu theo nghĩa hẹp, như lá cờ là biểu tượng của Tổ Quốc, Rồng là biểu tượng của uy vũ và quyền lực thiêng liêng tối cao. Còn theo nghĩa rộng, biểu tượng là một thứ xác định toàn bộ hiện thực trừu tượng, nằm ngoài tầm với của các giác quan trong hình thức một hình ảnh hay một vật thể. 
Sự hiểu biết các biểu tượng gắn liền với lĩnh vực rộng lớn hơn của lịch sử các tôn giáo. Người ta có thể nghiên cứu tôn giáo xuất phát từ biểu tượng. Ngược lại, nhờ các biểu tượng, người ta cũng có thể thấy những chỉ dẫn có lợi về bản chất thật trong các tài liệu về văn học, triết học. Những quy chiếu về ngôn ngữ, vào sự tuần hoàn mặt trời, vào nghi lễ phồn thực, vào nội dung tính dục, vào luật vũ trụ… đều dựa vào tính hiện thực của biểu tượng. 
Trong các loại biểu tượng thì biểu tượng văn hóa, tôn giáo là khó hiểu hơn cả, nếu muốn đi tìm một đường dây nào đó giữa hình tượng - cái biểu đạt và ý nghĩa - cái được biểu đạt. Bởi vì, các đường dây ấy xuyên qua thời gian lịch sử đã bị xóa mờ hoặc bị chìm khuất dưới những lớp trầm tích văn hóa mỗi ngày một dày hơn. Tức là những biểu tượng ấy đã được mã hóa mà muốn giải mã được đòi hỏi phải có kinh nghiệm văn hóa - tôn giáo, nhất là phải có tri thức và phương pháp khoa học. Hơn nữa, biểu tượng văn hóa - tôn giáo thường đa nghĩa và chấp nhận những cách lý giải khác nhau.  
1.5. Biểu tượng nước và đá nhìn từ góc độ văn hóa 
1.5.1. Biểu tượng nước và đá trong văn chương Việt Nam 
1.5.1.1. Biểu tượng nước và đá trong văn học dân gian 
Nước là cội nguồn, là tổ tiên của nhân loại thể hiện qua những tác phẩm sử thi, cổ tích, ca dao tục ngữ - như sử thi Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường; cổ tích Sự tích hồ Ba Bể; truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh; sông trong Chữ Đồng Tử, nước phép thuật trong Lọ nước Thần. Truyện Tra tấn hòn đá thì hòn đá như có linh hồn. 
Ở truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, Thủy tinh là vị thần của sông nước, của biển khơi, còn Sơn Tinh là vị thần của núi rừng. Cả hai đều có những năng lực siêu nhiên, Thủy tinh dâng nước đánh Sơn Tinh để giành vợ, thì Sơn Tinh lại nâng núi rừng càng cao hơn để Thủy Tinh thất vọng. Vì thế cứ hàng năm nước ta có những trận bão lụt thì theo dân gian, đó là sự nổi giận của Thủy Tinh đánh Sơn Tinh. Truyện thần thoại Thần Trụ Trời, có một vị thần thừa lệnh Thượng Đế, đã ra sức đào đất đá để làm cây trụ to lớn chống trời lên cao như ngày nay vì ngày xưa trời rất thấp. Khi hoàn thành nhiệm vụ, vị thần mới xô ngã cây trụ đi thì phần đổ trở thành đồi núi, còn phần đào trở thành sông thành biển như ngày nay.
Trong truyện cổ tích Chử Đồng Tử, dòng sông là biểu tượng của người chứng ân cần, sông là điểm hạnh ngộ giữa Chử Đồng Tử và Tiên Dung. 
Đọc thơ ca dân gian của các dân tộc ít người Việt Nam, chúng ta càng thấm thía sức ám ảnh của biểu tượng nước trong tâm thức dân gian. Những con người miền núi quen sống giữa thiên nhiên, quen tư duy qua lăng kính tự nhiên đã dễ dàng gửi gắm những suy tưởng, những tình cảm vào biểu tượng nước. Dù là ở dân tộc nào, Tày hay Mường,… nước cũng là biểu trưng cho một giá trị, một quyền năng trong đời sống con người. Sự đồng điệu trong cách cảm, cách nghĩ này cho thấy nước là biểu tượng lớn của văn hoá dân gian các dân tộc ít người. 
Những câu ca dao dân gian của người Tày thường mượn biểu tượng nước mà định giá tình cảm:
Thương nhau đựng sọt nước vơi 
Không thương nước đựng cong rồi cũng khô. 
Thương nhau nước đựng vào sàng 
Không thương nước đựng trong cang còn rò. 
(Ca dao tình yêu, Tày, tr.652)
Nước được xem như là một giá trị đã định hình, là cái hiển nhiên, mặc định. Nó là cái cớ của sự khẳng định tình cảm vững bền của đôi lứa yêu nhau. 
Nước không chảy ngược lên trời 
Bắc thang thượng giới mấy người được nao 
Thang lên trời thấy đâu nào 
Hai ta nghĩa nặng khắc vào nhất tâm. 
(Ca dao tình yêu, Tày, tr.652) 
Nếu các câu ca dao trên nhấn mạnh vào tính thuần nhất của nước để biểu thị sự chung thủy, vĩnh hằng thì câu ca dao này lại nhấn mạnh vào khả năng biến chất của nước để nói lên sức mạnh chuyển dời của tình cảm. 
Từ một góc độ khác, biểu tượng nước lại được thiêng liêng hóa, trở thành một mạch nguồn linh diệu của tình yêu: 
Thương thiết, thương nồng! 
Anh một lòng ước ao, ao ước 
Ước sao anh biến nên mỏ nước lành 
Cho em mái nhân tình rẽ chân về uống. 
(Phát đường, Mường, tr.238) 
Người đàn ông trong câu ca dao một lòng ước ao, ao ước, biến nên mỏ nước lành cho người tình rẽ chân về uống hay anh ta đang tự thiêng hóa con người mình, tâm hồn mình, thiêng hóa nguồn tình nóng bỏng trong mình để quyến rũ người yêu. Trong thẳm sâu tâm thức mỗi con người, nước là nguồn cội, nước là những gì thanh khiết, trong sáng. Hẳn là tác giả dân gian cũng đã lựa chọn những giá trị vĩnh hằng ấy của biểu tượng nước để thể hiện nỗi khát khao yêu đương của một trái tim đang thổn thức. 
Bên cạnh những dòng nước hiền lành, hữu ích với con người. Nước đôi lúc có sự giận dữ, sự hung bạo. Nó sẽ nhấn chìm cả nhân loại trong biển nước như trong truyện Sự tích Hồ Ba Bể, nước như một vị thần nổi giậ n lôi đình, đã dâng nước lên cao, tạo ra một trận lũ lụt nhấn chìm tất cả, chỉ có những người tốt bụng, nhân từ như mẹ con bà góa phụ mới được cứu sống mà thôi. 
Truyện Tra tấn hòn đá, thì hòn đá như có linh hồn, hòn đá là một nhân chứng để vị quan tìm ra được tội phạm, trả lại công bằng cho người bị hại. 
Từ ngàn xưa, nước và đá được nhân dân coi trọng và kính nể, được ông cha ta đưa vào cả trong văn học dân gian để ngợi ca, xem đó như là những vị thần không thể thiếu trong đời sống tinh thần cũng như trong thực tiễn cuộc sống. 
1.5.1.2. Biểu tượng nước và đá trong văn học trung đại 
Vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt với đã từng khẳng định chủ quyền của đất nước ta từ ngàn xưa qua tác phẩm Nam quốc sơn hà. Nước biểu tượng cho sự thiêng liêng, cao cả của dân tộc. Đó là sự thật buộc kẻ thù xâm lược phải thừa nhận qua những lời thơ đanh thép. Đó là một bản tuyên ngôn về chủ quyền đất nước. 
Nam quốc sơn hà nam đế cư, 
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư. 
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, 
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. 
Trong Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, nước của dòng sông biểu trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng cho con người: Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều, 
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều. 
Bát ngát sóng Kình muôn dặm, 
Thướt tha đuôi trĩ một màu. 
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu…  
Dòng sông trong tác phẩm còn là một nhân chứng của hàng loạt tội ác của giặc Mông - Nguyên. Cũng như đã chứng giám ghi dấu nhiều chiến trong trong lịch sử giữ nước của dân tộc. 
Anh minh hai vị thánh quân, 
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh. 
Giặc tan muôn thuở thăng bình, 
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao. 
Với Người thiếu phụ Nam Xương trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, dòng sông đã giúp người thiếu phụ Nam Xương giải oan cho mình và giúp người thiếu phụ tái sinh trong thế giới Huyền. Trong văn học trung đại Việt Nam, Người sử dụng biểu tượng nước và đá rất độc đáo và đa dạng, không ai khác đó là Hồ Xuân Hương. Bà cho rằng nước và đá mang những đặc tính của con người, đặc biệt là của người phụ nữ mà tác giả thể hiện ở nhiều tác phẩm như Giếng thơi, Hang Cắc Cớ… Nội dung này người viết sẽ nói rõ, nói chi tiết hơn ở phần nội dung sau. 
1.5.1.3. Biểu tượng nước và đá trong văn học hiện đại 
Rất nhiều nhà văn nhà thơ sử dụng biểu tượng nước và đá với nhiều ý nghĩa như: Tản Đà Thề non nước. Với Tản Đà nước non ở đây có 3 nghĩa biểu tượng. Đó là vẻ đẹp thiên nhiên, là tổ quốc giang sơn và là tình yêu đôi lứa. Hình ảnh nước tượng trưng cho người nam nhi đi đi mãi, còn non tương trưng cho người con gái ngóng trông, chờ đợi. 
Nước non nặng một lời thề, 
Nước đi đi mãi không về cùng non. 
Nhớ lời nguyện nước thề non, 
Nước đi chưa lại non còn đứng không. 
Non cao những ngóng cùng trông, 
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày… 
Với Nguyễn Huy Thiệp trong Chảy đi sông ơi!, sông là một cổ mẫu đa sắc. Lúc thì gần gũi và dung dị mang tâm hồn người. Sông là biểu tượng của thử thách, của một nơi mà con người đi qua với biết bao kỉ niệm và phơi bày bản ngã của mình. 
Với Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng). Theo tác giả, nước là một phần của Tổ quốc, là sự thiêng liêng cao cả và cũng là sự gần gũi, bình dị và thân thiết với con người và là cội nguồn của sự sống:
... Đất là nơi anh đến trường 
Nước là nơi em tắm 
Đất nước là nơi ta hò hẹn 
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm... 
Bên cạnh hình ảnh nước, thì hình ảnh đá cũng rất quan trọng trong cuộc sống con người cũng được tác giả thể hiện qua đoạn trích. Theo tác giả, đó là những ngọn núi như có mang linh hồn của con người, biểu tượng của sự sống, làm nên một nét văn hóa nhân văn của dân tộc. 
... Người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ Nhựng chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái. 
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại, 
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương. 
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm, 
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên… Trong bài thơ Sóng của nữ sĩ Xuân Quỳnh, tác giả cho rằng sóng là tượng trưng cho tâm trạng của cô gái đang yêu, sóng được thể hiện ở những trạng thái thật trái ngược: 
Dữ dội >< dịu êm 
Ồn ào >< lặng lẽ 
Điều đó thể hiện được tâm hồn đang yêu của cô gái có những biến động rất khác thường và luôn khát khao vượt qua những giới hạn chật hẹp, tìm đến nhựng miền bao la vô tận như con sóng phải tìm ra bể. 
Sông không hiểu nổi mình 
Sóng tìm ra tận bể 
Trong bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao, tác giả nhìn hai ngọn núi như đứng song song mang ý nghĩa biểu trưng về hai con người. Đó là cặp tình nhân, là đôi vợ chồng trẻ ở bên nhau rất hạnh phúc... 
Lối ta đi giữa hai đồi núi, 
Đôi ngọn nên làng gọi Núi Đôi. 
Em vẫn đùa anh sao khéo thế, 
Núi chồng núi vợ đứng song đôi… 
Phan Hoàng Phương
Theo http://lib.hcmup.edu.vn:8080/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Dấu chấm thang – Chùm thơ của Trần Hương Giang 4 Tháng Sáu, 2023 Biết thương cuộc sống ta bà/ Đổi thay, tôi lại thiết tha yêu đời/ Dù ...