Thứ Tư, 29 tháng 5, 2019

Thơ lục bát từ truyền thống đến hiện đại

Thơ lục bát từ truyền thống đến hiện đại
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nếu như người Trung Quốc có Đường thi, người Nhật có thơ Haikư, người Anh và người Italia tự hào vì có thơ Sonnet..., thì chúng ta cũng có quyền tự hào vì có thơ lục bát. Đó là một trong những thể thơ đã có từ lâu đời, tồn tại và phát triển thông qua lời ăn, tiếng nói của cha ông ta truyền lại cho con cháu, qua tục ngữ, ca dao và qua các làn điệu dân ca ở khắp mọi miền đất nước. Thơ lục bát đã luôn được các thế hệ nhà thơ Việt Nam yêu mến và dành nhiều cảm xúc để làm mới, hấp dẫn thông qua các ngôn từ, lời lẽ trong thơ.
1.2. Thơ lục bát không dễ làm vì nó có quy luật chặt chẽ. Cùng với sự vận động của đời sống xã hội, lục bát cũng có thêm sự phát triển mới. Thơ lục bát không những là thể thơ truyền thống đặc thù cho thi ca cổ truyền, mà đã trở thành một thể thơ giàu cảm xúc, có sức truyền cảm trong trào lưu thi ca hiện đại. Từ Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn,... đến một số cây bút trẻ sau này, lục bát đã trở thành những tác phẩm mang phong cách hiện đại, là những tác phẩm “đóng đinh” trong sự nghiệp văn chương của họ.
1.3. Được hình thành từ điều kiện văn hóa - lịch sử của dân tộc, vượt qua mọi khoảng cách thời gian, không gian, sự sàng lọc trong văn hóa, văn học, lục bát như thứ “vàng mười” vẫn tồn tại để minh chứng cho sự bất diệt, trường tồn của tiếng Việt, tâm hồn Việt, văn hóa Việt. Từ những câu ca dao mộc mạc, ngọt ngào, tha thiết cho đến thơ hiện đại và đương đại, lục bát vẫn tồn tại và khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học luôn vận động và biến đổi không ngừng để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của con người.
Nghiên cứu và tìm hiểu thơ lục bát một cách toàn diện, hệ thống để thấy được những cái hay, cái đẹp truyền thống và thấy cả những sáng tạo mang màu sắc hiện đại của nó là một nhu cầu cấp thiết của tiến trình văn học Việt Nam, của đời sống dân tộc Việt Nam.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án là thể thơ lục bát với các phương diện biểu hiện từ khi mới hình thành, qua các giai đoạn phát triển, cho đến hôm nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án là các sáng tác tiêu biểu trong tiến trình vận động lịch sử của thơ lục bát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Đề tài hướng tới mục tiêu là phát hiện và khẳng định giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mỹ của thơ lục bát truyền thống, sự tiếp biến của thơ lục bát hiện đại, các hiện tượng thơ, các nhà thơ, các phong cách thơ lục bát tiêu biểu.
3.2. Nhiệm vụ: Luận án làm sáng rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thể loại và thể lục bát, nét độc đáo của thể lục bát trong các thể thơ, đồng thời phân tích, đánh giá các xu hướng nghiên cứu thơ lục bát trên các vấn đề chung, đặc biệt là vấn đề truyền thống và hiện đại. Luận án đưa ra một cái nhìn khái quát về nguồn gốc, sự hình thành, các giai đoạn phát triển của thể lục bát, đi sâu phân tích đặc trưng thể loại: cấu trúc hình thức và biến thể lục bát. Từ việc tìm hiểu khái niệm truyền thống và những giá trị truyền thống trong thơ, luận án chỉ ra những giá trị cốt lõi, những trường hợp điển hình của thơ lục bát truyền thống. Qua khái luận về hiện đại, tính hiện đại, sự tiếp biến truyền thống và hiện đại trong thơ, luận án làm sáng tỏ mối quan hệ truyền thống và cách tân, những hiện tượng tiêu biểu của thơ lục bát hiện đại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính: phương pháp lịch sử - xã hội; phương pháp loại hình; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp tiếp cận thi pháp học.  
Luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn học với văn hóa, tâm lý học, ngôn ngữ học), phương pháp cấu trúc, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê… và các thao tác nghiên cứu khác.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện, có hệ thống thơ lục bát với cấu trúc, đặc trưng thể loại, những giá trị bền vững, những hiện tượng tiêu biểu trong diễn trình vận động lịch sử từ truyền thống đến hiện đại.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định vị thế và đóng góp to lớn của thơ lục bát cho thi ca, văn nghệ, văn hoá dân tộc, cho cuộc sống đất nước từ xa xưa đến hôm nay.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầuKết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thơ lục bát - lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại
Chương 3: Giá trị của thơ lục bát truyền thống
Chương 4: Tiếp biến của thơ lục bát hiện đại
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vấn đề thể loại và thể lục bát
1.1.1. Thể loại nói chung và thơ nói riêng
Thể loại mang tính lịch sử và dân tộc, tính kế thừa và sáng tạo. Mỗi thể loại cũng thường xuyên tự điều chỉnh để hoàn thiện chính mình. Nó song song hai quá trình kế thừa truyền thống quá khứ và cách tân, sáng tạo cái mới. Ranh giới giữa các thể loại mang tính chất tương đối, không phải là sự ngăn cách và phân chia tuyệt đối. Giữa các thể loại luôn luôn có hiện tượng giao thoa, sự chuyển hoá, thâm nhập, vay mượn lẫn nhau và từ đó sản sinh ra những thể như cầu nối giữa các thể loại khác nhau.
Thơ là một thể loại trong văn học. Chia theo phương thức biểu hiện, khả năng phản ánh hiện thực và khả năng vận dụng ngôn ngữ, thơ - loại hình trữ tình, đặt ngang hàng với loại tự sự, loại kịch. Trong thơ lại có những thể nhỏ hơn, từ thể bi ca, tụng ca, thơ đồng quê,… cho đến các thể thơ trữ tình trong thời kỳ hiện đại. Mỗi thể thơ lại mang trong nó những đặc trưng riêng và thích hợp cho việc bộc lộ những xúc cảm, tình cảm khác nhau.    
1.1.2. Các thể thơ và thể lục bát
Thông qua giao lưu giữa các nền văn hóa, các thể thơ được tăng dần, từ những cấu trúc đơn giản đến những cấu trúc phức tạp. Trong các thể thơ ở Việt Nam ta có thể kể đến lục bát, song thất lục bát, các thể thơ Đường luật như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú rồi đến các thể thơ mớithơ tự do. Mỗi thể thơ có những quy luật kiến tạo riêng về âm, thanh, vần, điệu; tuy nhiên, trong một số trường hợp vẫn chấp nhận sự phá cách.
Lục bát là thể thơ một câu sáu chữ rồi đến một câu tám chữ cứ thế nối liền nhau. Bài thơ lục bát thông thường được bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát; đôi khi cũng có trường hợp kết thúc bằng câu lục để đạt một dụng ý tư tưởng nghệ thuật nhất định. Trong bài thơ, chữ thứ sáu của câu lục vần với chữ thứ sáu của câu bát, chữ thứ tám của câu bát vần với chữ thứ sáu của câu lục kế tiếp và cứ theo quy luật đó cho đến hết bài thơ. Lục bát là thể thơ dân tộc mang đậm bản sắc và phong vị quê hương.
Ba thể thơ lục bát, tuyệt cú và haikư đều là thể thơ cách luật ngắn nhất trong văn học dân tộc của Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản. Ba thể thơ này có nhiều điểm giống hoặc gần gũi nhau. Mặt khác, ba thể thơ này cũng có nhiều điểm khác nhau, trong đó có sự khác nhau ngay trong những điểm tương đồng. Có lẽ cách luật của thơ lục bát là chặt chẽ nhất, cách gieo vần cũng phức tạp hơn. Lục bát còn có khả năng “lắp ghép” để thành một bài thơ trường thiên; đặc biệt, người ta có thể viết truyện thơ bằng cách lắp ghép hàng ngàn (hoặc vô số) cặp câu lục bát lại. Khả năng “sinh nở”, lắp ghép này không thấy có ở tuyệt cú và haikư.
1.2. Tình hình nghiên cứu thơ lục bát
1.2.1. Nghiên cứu các vấn đề chung của thơ lục bát
1.2.1.1. Khuynh hướng nhận xét, đánh giá tổng quan về thơ lục bát
Lục bát có từ ngàn đời, có sức sống mãnh liệt. Rất nhiều thi nhân tài danh và biết bao “thi sĩ thảo dân” đã sáng tác thơ lục bát. Trên các báo, tạp chí mỗi năm đăng tải hàng trăm, hàng ngàn bài thơ viết theo thể lục bát. Đồng thời cũng có không ít đầu sách thơ lục bát của các nhà thơ được xuất bản, càng khẳng định lục bát luôn được duy trì, ngày càng phát triển. Năm 1998, sau cuộc thi thơ lục bát, báo Giáo dục và thời đại phát hành ấn phẩm Những tác phẩm vào chung khảo cuộc thi thơ lục bát. Năm 2000, Nxb Văn hoá Thông tin in Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam. Với sự kiện kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, nhiều báo, tạp chí đã phát động cuộc thi làm thơ theo thể lục bát với chủ đề “Ngàn năm thương nhớ”, thu hút đông đảo người yêu thơ tham gia. Có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khẳng định giá trị, sức sống của thơ lục bát.
1.2.1.2. Khuynh hướng nghiên cứu nguồn gốc, lịch sử, đặc trưng thể loại của thơ lục bát
Chu Xuân Diên trong Tục ngữ Việt Nam khẳng định sự ra đời của lục bát có chịu ảnh hưởng và khả năng nhiều bắt nguồn từ trong tục ngữ. Bửu Cầm, trong bài Ca dao, nền tảng văn học dân tộc khẳng định: “Lục bát sinh thành từ ca dao”. Khi viết bài Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều, Nguyễn Văn Hoàn đã ngầm thừa nhận rằng lục bát bắt nguồn từ ca dao. Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Xuân Đức, Phan Diễm Phương cũng đã đặt ra vấn đề trên một phương pháp luận khoa học. Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức khẳng định lục bát là thể thơ dân tộc (Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại). Các nhà nghiên cứu Hoa Bằng, Nguyễn Đổng Chi cũng có ý kiến tương tự.
Về diễn trình lịch sử của thơ lục bát, Phan Ngọc viết Thể thơ lục bát - một vài suy nghĩ, Nguyễn Duy Bắc viết Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại, Mã Giang Lân viết Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Ngô Văn Phú viết Thơ lục bát sẽ đi tới đâu. Các nhà nghiên cứu tập trung sự chú ý để phân tích làm rõ khả năng phát triển cũng như sự biến đổi linh hoạt, tài tình của thể thơ lục bát. Trong bài viết Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều, Nguyễn Văn Hoàn đã có những khẳng định về sự tiến triển đi lên và đổi thay của lục bát Việt Nam. Phạm Quốc Ca trong Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 - 2000 cũng phác hoạ sự vận động của thể thơ lục bát qua các giai đoạn của thế kỷ XX. 
Nói về cách làm thơ lục bát và phân tích những đặc trưng nghệ thuật của thơ lục bát có Cách làm thơ lục bát (Nguyễn Bính), Khảo luận luật thơ (Lam Giang), Chung quanh mấy quan niệm về luật bằng trắc trong thơ lục bát (Hồng Diệu), Tiếng Việt và thể thơ lục bát (Nguyễn Thái Hòa), Giới thiệu các thể thơ, luật thơ và cách làm thơ (Hoàng Xuân Soạn) v.v… Các bài viết của Võ Bình, Mai Ngọc Chừ, Hồ Văn Hải đã nghiên cứu thể thơ lục bát dưới góc độ của chuyên ngành ngôn ngữ, cho thấy thơ lục bát kết tinh tinh hoa văn hóa - ngôn ngữ dân tộc.
1.2.1.3. Khuynh hướng nghiên cứu các hiện tượng, tác giả, tác phẩm, phong cách tiêu biểu của thơ lục bát
Trong tiến trình vận động, phát triển, thơ lục bát để lại dấu ấn đậm nét ở những hiện tượng tiêu biểu, điển hình. Trước hết, các nhà nghiên cứu tập trung chú ý vào lục bát ca dao: Sơn Tùng viết Thử tìm cái đẹp trong ca dao; trong Tục ngữ - ca dao - dân ca Việt Nam, Vũ Ngọc Phan tường giải khả năng phản ánh hiện thực và biểu hiện tâm hồn người Việt của ca dao; Nguyễn Tài Cẩn và Võ Bình viết Thử bàn thêm về thể thơ lục bát văn hóa dân gian; Nguyễn Xuân Đức viết Về thể lục bát trong ca dao. Sau ca dao, một lĩnh vực mà nội dung tự sự và trữ tình được truyền tải bằng lục bát là truyện Nôm. Nghiên cứu hiện tượng đó, Lại Nguyên Ân viết Nhu cầu diễn Nôm - diễn ca và khả năng của thơ lục bát, Nguyễn Văn Hoàn viết Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều, Nguyễn Văn Bon viết Vài suy nghĩ về nền đạo lý nhân bản nhân đọc lại truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Bông Tràm khảo sát thơ lục bát ở Nam Bộ qua bài viết Thơ lục bát - một cõi trời mênh mông. Đặng Diệu Trang viết Về sự khác nhau giữa lục bát trong ca dao và lục bát trong Thơ mới.
Nhiều nhất là các bài viết, các công trình nghiên cứu các tác giả, tác phẩm, các phong cách thơ lục bát tiêu biểu: Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn v.v…
1.2.2. Nghiên cứu về truyền thống và hiện đại trong thơ lục bát
Vấn đề truyền thống và hiện đại trong thơ lục bát đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu. Hà Quảng chú ý tới Một số cách tân thể thơ lục bát hiện đại. Vũ Duy Thông viết Về sự phá vỡ truyền thống trong thể lục bát. Phan Diễm Phương viết về những nhà thơ thời nay có bản lĩnh, giàu khát vọng, mạnh dạn tìm tòi, đổi mới để thơ lục bát phản ánh sự kiện cuộc sống, nói lên tình ý con người đương thời (Thể lục bát ở một thế hệ nhà thơ hiện đại). Cùng chung cảm thức với Phan Diễm Phương, Nguyễn Hoà Bình viết Về sự đổi mới của thơ lục bát, v.v…
Có thể thấy, những công trình nghiên cứu trên đều đi sâu vào những phương diện, những vấn đề cụ thể, thực sự chưa có một cái nhìn xuyên suốt, mang tính hệ thống về thơ lục bát từ truyền thống đến hiện đại.
Tiểu kết chương 1
So với các thể thơ khác như song thất lục bát, thể thơ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, thơ tự do,… thì lục bát không chỉ là một trong những thể thơ dễ nhận diện nhất mà còn là thể thơ đã tạo nên cho dân tộc vô số tác phẩm văn chương, trong đó nhiều tác phẩm đã trở thành cổ điển. Các công trình nghiên cứu về thơ lục bát, từ những vấn đề chung đến vấn đề chuyên biệt là truyền thống và hiện đại, đều tập trung khẳng định giá trị của thể thơ này, sự tiếp biến mạnh mẽ, mới mẻ của nó trong tiến trình văn học, trong diễn trình lịch sử dân tộc Việt Nam.
Chương 2
THƠ LỤC BÁT - LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN,
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI 
2.1. Lịch sử hình thành, phát triển thể lục bát
2.1.1. Nguồn gốc, sự hình thành thể lục bát
Có hai hướng tiếp cận chủ yếu về nguồn gốc thể loại: lục bát có dấu vết của tục ngữ, ca dao, tức là có ngọn nguồn từ văn học dân gian; lục bát xuất phát, hình thành từ đặc trưng, sự vận động nội tại của tiếng Việt, văn hóa Việt.
Một cách khái quát và khách quan có thể nói dòng chảy lục bát là hợp lưu của cả hai ngọn nguồn trên, nó được hình thành từ tiến trình vận động của văn học dân gian, từ chính đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt và xu hướng thẩm mỹ mang tính chất tâm lý xã hội riêng của dân tộc Việt trong việc xây dựng âm luật thơ ca, nhất là sở thích sử dụng vần và nhịp. Bài lục bát sớm nhất còn được lưu trữ là một bài hát cửa đình của Lê Đức Mao (1462-1529), đó là bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào.
2.1.2. Các giai đoạn phát triển của thể lục bát    
Thơ lục bát bắt nguồn từ trong ca dao Việt Nam, thể hiện thành công cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng trong văn học dân gian.
Thời gian định hình của lục bát khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ XV. Thơ lục bát ở giai đoạn cuối thế kỷ XV đến trước Truyện Kiều còn trong tình trạng chưa hoàn chỉnh, hình hài chưa cụ thể, còn xô bồ, tự do và có đôi chút lỏng lẻo.
Trong dòng văn chương bác học, đến cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, địa vị thơ lục bát đã trở nên vững vàng với sự xuất hiện của khá nhiều tác phẩm giá trị như Lâm Tuyền văn của Phùng Khắc Khoan, và Ngọa Long Cương văn cùng Tư Dung văn của Đào Duy Từ. Sang thế kỷ thứ XVIII và XIX, lục bát đã trải qua thời kỳ cực thịnh với những tác phẩm danh tiếng như Nhị độ mai, Bích Câu kỳ ngộ, Hoa Tiên truyện. Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, Trần Danh Án đã sưu tập và biên soạn Quốc phong giải tràoNam phong nữ ngạn thi. Một số soạn giả đã ghi chép tục ngữ, ca dao bằng chữ Nôm, rồi dịch ra chữ Nho và chú thích.
Kế thừa truyện thơ lục bát của thế kỷ XVIII, giữa thế kỷ XIX đã xuất hiện hàng loạt truyện thơ lục bát, như: truyện Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, truyện Phan Trần
Truyện Kiều đã đánh dấu son cho sự mẫu mực, cổ điển của thể loại lục bát. Hai yếu tố gieo vần và phối điệu đã đạt tới sự thống nhất, ổn định. Câu thơ đã xuất hiện hình thức đối. Mặt khác, so với lục bát ca dao, sự sáng tạo ở Truyện Kiều còn thể hiện trong việc đưa vào tác phẩm những từ láy, điệp từ, thành ngữ và cả những lời nói trong sinh hoạt hàng ngày của quần chúng lao động. Câu thơ của Nguyễn Du càng về sau càng uyển chuyển, đầy nhạc tính, nâng nghệ thuật thơ lục bát đến một giá trị độc đáo. So với Truyện Kiều, yếu tố ca dao - dân ca trong Lục Vân Tiên được khai thác và sử dụng với tần số lớn hơn, âm điệu câu thơ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn. Bên cạnh đó, những cách xưng tên trong lối bạch, lối tuồng, những bài học nhân quả, triết lý sống không màng danh lợi là những dấu ấn mà lục bát ca dao đã để lại trong tác phẩm.
Lục bát thời kỳ nửa sau thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX đều đi theo hướng mẫu mực đã được khẳng định chắc chắn từ trong Truyện Kiều. Cuối thế kỷ XIX, lục bát không kể chuyện được nữa mà chuyển sang nhận chức năng trữ tình làm chức năng chủ yếu. Trong số những nhà thơ hồi đầu thế kỷ XX nổi lên tên tuổi Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) với những vần điệu quả thực đã làm rung động lòng người.
Sau Tản Đà, giai đoạn 1932-1945, Thơ mới xuất hiện với hầu hết những bài thơ mang tâm trạng u buồn man mác của số đông công chúng lúc bấy giờ. Thơ lục bát của những nhà thơ lãng mạn mới mẻ ở “cái tôi” tiểu tư sản. Ngôn ngữ thơ trau chuốt, đạt đến sự tinh tế hiếm có trong nghệ thuật diễn tả những rung cảm của tâm hồn. Có thể nhặt ra nhiều hạt châu ngọc như Ngậm ngùi, Buồn đêm mưa (Huy Cận), Chiều (Xuân Diệu), Thơ sầu rụng (Lưu Trọng Lư), Lũy tre xanh, Rằm tháng giêng (Hồ Dzếnh), v.v… Trong bầu trời lục bát Thơ mới, người ta biết đến Nguyễn Bính với một hồn thơ lai láng nét đẹp chân quê. Thơ lục bát của Nguyễn Bính được sáng tạo trên cái nền của ca dao xưa và phát triển thêm để nâng nó lên tầm cao mới. 
Đến giai đoạn kháng chiến chống Pháp, lục bát phát triển theo định hướng tư tưởng của thời đại: văn hoá văn nghệ phục vụ công nông binh. Lục bát gần với kể chuyện, ít chất thơ. Thời này, đa số các nhà thơ làm thơ tự do, rồi chen vào ít câu lục bát, như Bài ca vỡ đất, Bao giờ trở lại (Hoàng Trung Thông); Bầm ơi, Sáng tháng Năm (Tố Hữu) v.v… Lục bát của Tố Hữu giai đoạn này (tập thơ Việt Bắc) và cả giai đoạn sau (các tập Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, bài thơ dài Nước non ngàn dặm) có nét chung: Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ biểu cảm của ca dao, ông đưa vào thơ hình ảnh quần chúng, nói cái giọng quần chúng, nói cái tình kháng chiến, tình công dân.
Lục bát sau năm 1954 được thừa hưởng những thành tựu nghệ thuật giai đoạn trước, nó mới mẻ ở cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Lục bát những năm này phát triển theo hai hướng: tiếp tục khai thác chất liệu ca dao, thể hiện những tình tự dân tộc theo hướng Nguyễn Bính, hoặc phản ánh đời sống, hướng về quần chúng, nói tiếng quần chúng, nói tình ý công dân, theo hướng của Tố Hữu. Ở miền Nam, Phạm Thiên Thư tiếp bước Nguyễn Du bằng lục bát sang trọng, ngôn ngữ trong veo. Bùi Giáng làm mới lục bát bằng chữ nghĩa trùng trùng điệp điệp, bằng tài hoa rất mực trong những lời cợt đùa như con trẻ, nói chuyện không đâu mà thành tư tưởng.
Từ sau năm 1975, thơ lục bát ngày càng khẳng định sức sống mãnh liệt của mình. Có nhiều tập thơ lục bát chiếm được sự yêu mến của đông đảo công chúng như Sáu và tám (Nguyễn Duy), Thơ lục bát (Nguyễn Trọng Tạo), Ngàn xưa (Nguyễn Thanh Mừng), Thơ lục bát (Kim Chuông), v.v… Ở một số tập thơ (của một tác giả hoặc một nhóm tác giả), số lượng bài làm theo thể lục bát thường chiếm tỉ lệ khá cao.
Trong tiến trình phát triển của thơ hiện đại, lục bát tuy không phải là thể loại chủ đạo nhưng nó vẫn duy trì được sức sống và tạo được diện mạo mới mẻ cho mình. Những cuộc thi hay những trang thơ chỉ dành riêng cho lục bát đã phần nào chứng tỏ điều đó như cuộc thi của báo Văn nghệ, báo Văn nghệ trẻ, báo Giáo dục và thời đại, … Có nhiều nhà thơ viết nhiều, viết hay và khẳng định được mình ở thể lục bát như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Trương Nam Hương, Đinh Nam Khương v.v… Lục bát Nguyễn Duy đã tạo ấn tượng bởi lối suy nghĩ táo bạo, sắc sảo, tinh tế. Tình cảm đậm đà được thể hiện trong hình thức thơ dân tộc giản dị, tự nhiên rất gần các mô týp ca dao. Đồng Đức Bốn có gần 200 bài lục bát với cảm hứng mạnh mẽ bắt nguồn từ quê hương, cuộc sống, đời tư, từ hình ảnh thơ quen thuộc nhưng đầy ấn tượng.
Gần đây, Trần Ngọc Tuấn viết lục bát tứ tuyệt với tư tưởng Thiền. Qua dốc sương mù là một thành công bước đầu. Những nhà thơ trẻ như Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Thế Hoàng Linh có chạm đến lục bát, nhưng hồn thơ chưa định hình.
2.2. Đặc trưng thể loại của thơ lục bát
2.2.1. Cấu trúc hình thức thể lục bát
2.2.1.1.  Đặc điểm của thanh, âm và vần trong tiếng Việt
Thanh là cách phát âm cao hay thấp, bổng hay trầm của mỗi âm. Chữ quốc ngữ dùng để viết tiếng Việt chỉ có năm dấu ‘sắc’, ‘huyền’,‘ hỏi’, ‘ngã’, ‘nặng’, và chữ ‘không đánh dấu’, tương ứng với 6 thanh.
Sáu thanh nêu trên có thể cô đọng thành 2 loại âm ‘bằng’ ‘trắc’. Bằng (nghĩa đen là bằng phẳng) gồm những tiếng lúc phát ra nghe đều đều. Trắc (nghĩa đen là nghiêng, lệch) gồm những tiếng phát ra mang âm từ thấp lên cao, hoặc từ cao xuống thấp.
Những tiếng có vần với nhau là những tiếng không những cùng một thanh (bằng hoặc trắc) mà còn phải có âm hoặc hoàn toàn hợp nhau, hoặc tương tự nhau. Có hai loại vần là ‘vần chính’ và ‘vần thông’. 
2.2.1.2. Khuôn khổ của thơ lục bát
‘Lục bát’ ‘sáu tám’ vì theo thể thức, lối thơ này bao gồm cứ một câu sáu chữ rồi đến một câu tám chữ. Có thể xem cặp 6 tiếng + 8 tiếng là đơn vị tế bào, một chỉnh thể tối thiểu của thơ lục bát, bởi vì nó hoàn chỉnh về mặt ngữ nghĩa và nhất là hoàn chỉnh về mặt cấu âm theo chiết đoạn trong quy luật hòa thanh của âm nhạc.
2.2.1.3. Luật bằng trắc trong thể lục bát
Một bài thơ lục bát bao gồm một hoặc nhiều cặp các câu thơ lục bát mà trong đó, mỗi cặp thơ tuân theo quy luật: Câu lục: b B t T b B; Câu bát: b B t T b B t B. Hai câu đều ở giữa dòng. Câu bát tiến ra ngoài khoảng hai chữ so với câu lục. Những chữ viết hoa bắt buộc phải theo đúng quy luật bằng trắc.
2.2.1.4. Cách gieo vần
Vần (hay vận) là tiếng đồng thanh với nhau. Cách gieo vần phổ biến là vần bằng, vừa gieo vần chân, vừa gieo vần lưng. Tiếng cuối của câu lục hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu bát, tiếng thứ 8 của câu bát lại hiệp vần với tiếng 6 của câu lục tiếp theo.
2.2.1.5. Luật phối thanh
Các tiếng chẵn 2 và 6 là thanh bằng, đối nhau qua thanh trắc (4), câu bát có thêm một nhịp bằng nhưng bằng (6) và bằng (8) phải đối nhau về âm vực trầm (thanh huyền), bổng (thanh ngang). Trong câu bát, tuy hai chữ thứ sáu và thứ tám đều là tiếng ‘bằng’, nhưng không được cùng một ‘thanh’.
2.2.1.6. Nhịp thơ
Thường thì thể lục bát có một loại nhịp cơ bản, trực tiếp tạo nên âm luật cho nó là nhịp gồm hai tiếng (gọi tắt là nhịp hai). Nhưng thực tế, không phải lúc nào, câu thơ lục bát cũng chia một cách máy móc thành từng nhịp hai một như thế, thật ra nhịp điệu dù tính theo đơn vị nào cũng gắn chặt với cảm xúc và tư duy được diễn đạt qua lời thơ.
2.2.1.7. Đối
Thơ lục bát không quy định nhất thiết phải có đối. Tuy vậy, đặc trưng phổ biến của lục bát lại là tiểu đối và là đối thanh trong hai tiếng thứ tư hoặc thứ sáu của câu bát với tiếng thứ tám của câu đó. Có khi đối ý, có khi lại đối cả ý và thanh.
2.2.2. Biến thể lục bát
2.2.2.1. Tăng giảm số lượng âm tiết
Giảm số lượng âm tiết là một nét khả dĩ của biến thể lục bát. Nhưng gia tăng số lượng âm tiết mới là quy luật đích thực của nguyên lý tạo sinh. Gia tăng nhiều hay ít số lượng âm tiết sẽ kéo theo sự biến đổi về giai điệu, tiết tấu. Những dòng lục bát biến thể đã sinh sôi liên tục, trước tiên nó nằm sẵn trong các loại hò, hát dân gian, rồi “chui” vào thơ các nhà thơ bác học thời trung - cận đại, và tái sinh trong thơ hiện đại.
2.2.2.2. Biến tấu thanh điệu, tiết điệu 
Biến thể lục bát không nhất thiết phải giảm thiểu hay gia tăng âm tiết mà chỉ cần biến tấu thanh điệu, tiết điệu. Có nghĩa là nó có thể quy chuẩn ở hình thái chung nhưng lại biến tấu ở những đơn vị cấu trúc khác.
2.2.2.3. Biến đổi ở cách gieo vần
Với biến thể vần bằng, có thể thay đổi cách gieo vần ở câu bát: chữ cuối của câu lục cùng vần với chữ thứ tư của câu bát chứ không phải với chữ thứ sáu như luật thông thường. Với biến thể vần trắc, chữ cuối của câu lục và chữ thứ sáu của câu bát cùng là âm trắc và hiệp vần với nhau.
2.2.2.4. Ngắt nhịp, ngắt câu
Ở thơ lục bát còn có lối ngắt nhịp linh hoạt và rất đa dạng. Lục bát biến thể ngắt câu là một dạng lục bát mới xuất hiện khoảng 30 năm gần đây, và thường được coi như một trong các dạng thơ tự do. Thể loại này khá hay, đặc biệt là diễn tả được tiết tấu nhanh chậm, hối thúc, hoặc ngập ngừng, chậm rãi của mạch thơ.
Tiểu kết chương 2
Thơ lục bát đi từ lục bát ca dao qua lục bát trung đại đến lục bát hiện đại, từ xô bồ, lỏng lẻo đến chỗ tương đối hoàn chỉnh và có thể coi là khuôn mẫu cho nhiều sáng tác ở những giai đoạn tiếp theo. Thể loại lục bát có chính thể cổ điển, tuy nhiên trong thực tiễn tồn tại, nó lại có nhiều biến thể linh hoạt và sinh động. Chính sự uyển chuyển của câu thơ lục bát tạo cho nó khả năng biểu hiện được nhiều lĩnh vực của cuộc sống, nhiều sắc thái, cung bậc của tình cảm con người.
Chương 3
GIÁ TRỊ CỦA THƠ LỤC BÁT TRUYỀN THỐNG 
3.1. Khái luận về truyền thống và giá trị truyền thống trong thơ
3.1.1. Khái niệm truyền thống và truyền thống văn học
Truyền thống” là một danh từ chỉ thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ được truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác, hoặc là một tính từ chỉ các tính chất, phẩm chất được truyền lại từ các đời trước. Khái niệm truyền thống được áp dụng cho nhiều trường hợp khác nhau để chỉ những đặc trưng cơ bản về một vấn đề nào đó trong đời sống xã hội, trong phẩm chất của một cộng đồng… khi những phẩm chất hoặc hạt nhân của vấn đề đó được duy trì, tô đậm, khẳng định để tạo thành nền tảng, cơ sở cho sự tồn tại và phát triển.
Khái niệm “truyền thống văn học” chỉ những thành tựu chung, đặc sắc, tương đối bền vững, ổn định trên cả hai phương diện nội dung, hình thức của văn học được lưu chuyển, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nội hàm của khái niệm truyền thống văn học còn được mở rộng, nó chỉ nét đặc sắc của một bộ phận văn học đã trở thành bản chất, thành nét đặc trưng của một nền văn học, hoặc những mảng đề tài, những loại hình nghệ thuật đặc sắc được duy trì ở nội dung và hình thức của nền văn học dân tộc trong quá trình văn học.
3.1.2. Truyền thống trong thơ và những giá trị truyền thống trong thơ Việt Nam
Truyền thống gắn với dân tộc, tính truyền thống có điểm tương đồng với tính dân tộc, biểu hiện được màu sắc, âm thanh, lối sống, tính cách, tinh thần của dân tộc tức là đã biểu hiện được bề mặt truyền thống. Thơ lưu giữ những nội dung ấy bằng những hình thức truyền thống - hình thức mà những tác giả từ buổi sơ khai của thơ đã sử dụng và được vun đắp trong một quá trình tồn tại và phát triển. Truyền thống trong thơ biểu hiện trên cả nội dung và hình thức, nhưng không phải những gì dễ dãi, giản đơn, mà là cái đã được khẳng định, là “thành tựu chung”, “bền vững”.
Tinh thần yêu nước là khí chất mạnh mẽ nhất tạo thành sức sống, phần tinh anh khỏe khoắn trong nhiều sáng tác văn học. Tình yêu ấy kết thành những bài thơ ca ngợi thiên nhiên đẹp và giàu, ca ngợi những con người thông minh, cần cù lao động. Đặc biệt, tình yêu ấy bộc lộ sâu sắc, mạnh mẽ nhất khi vận mệnh sống còn của dân tộc đặt ra một cách cấp thiết. Cùng với tinh thần yêu nước, tinh thần nhân đạo cũng là một nét chính trong nội dung thơ ca. Cốt lõi của tinh thần này là tình tương thân tương ái; người Việt sống với nhau bằng cái nghĩa cao cả, bằng sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng. Ngôn ngữ thi ca Việt Nam giàu nhạc điệu, dễ hiệp vần đã tạo cơ sở để hình thành nhiều thể loại thơ ca giàu năng lực biểu hiện phù hợp với tiếng nói yêu thương nhân đạo, với tâm hồn giàu tính chất trữ tình của người Việt Nam.
3.2. Thơ lục bát truyền thống - những giá trị cốt lõi
3.2.1. Giá trị hiện thực, tinh thần yêu nước, nhân đạo và bản sắc văn hóa dân tộc
Thơ lục bát truyền thống như tấm gương soi in bóng cuộc sống hiện thực của đất nước và con người Việt Nam. Vẻ đẹp của phong cảnh thiên nhiên thấm sâu tình yêu mến thiết tha của con người với quê hương xứ sở. Hình ảnh làng quê, phố thị mang vẻ đẹp hài hòa của đời thường, cư dân đông đúc và nét trữ tình của khung cảnh nên thơ. Từ thuở ca dao, thơ lục bát đã trực tiếp phản ánh đời sống lao động của người Việt, những người chăm chỉ, cần cù luôn phải mưu sinh trong hoàn cảnh đầy khó khăn, vất vả. Cùng với cuộc sống lao động là cuộc sống đấu tranh với “kẻ thù hai chân và bốn chân” để tồn tại, chiến thắng và vươn lên trên dải đất này.
Tinh thần yêu nước là một giá trị truyền thống của thơ ca Việt Nam. Khi đất nước bị xâm lăng, Đại Nam quốc sử diễn ca đã trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu quý, xót thương của người Việt với Tổ quốc của mình, đồng thời ngợi ca những tấm gương xả thân vì nước suốt dọc dài lịch sử. Có bài thơ thể hiện tâm sự yêu nước thầm kín qua nỗi niềm u uẩn, hoài nhớ về một thời đã xa (Sông lấp - Trần Tế Xương). Ngư tiều y thuật vấn đáp (Nguyễn Đình Chiểu) cho thấy vẻ đẹp của một tư thế sống giữa cuộc đời đau thương của đất nước - đó là ý chí kiên quyết giữ vững nhân cách, khí tiết, giữ vững đạo lý của nước nhà, của dân tộc, của gia đình, không chung sống, không hợp tác với kẻ thù.
Cũng như thơ ca nói chung, thơ lục bát thấm sâu chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của người Việt: thương người, trân trọng tình người, ca ngợi phẩm giá, nhân cách cao đẹp, hướng tới cuộc sống hạnh phúc của con người. Ca dao bày tỏ quan điểm, thái độ, tình cảm của người xưa đối với các mối quan hệ trong xã hội. Truyện Kiều là niềm cảm thương sâu sắc với thân phận con người trong xã hội phong kiến đen tối xa xưa. Trong Sơ kính tân trang, qua việc miêu tả một mối tình tự do, thơ mộng, có phần kỳ ảo, Phạm Thái khẳng định khát vọng mạnh mẽ về tình yêu lứa đôi, cũng có nghĩa là khẳng định quyền được sống hạnh phúc của con người.
Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện trước hết ở vẻ đẹp của con người theo quan niệm truyền thống. Thơ lục bát thường biểu đạt một cách trực tiếp, giản dị, tự nhiên những ý nghĩ tâm tư tình cảm của các nhân vật trữ tình. Ở dạng này, nội dung của lời ca hướng vào một ý lớn với ngôn ngữ mang tính tự sự thường được sử dụng trong sinh hoạt dân ca nghi lễ phong tục và dân ca lao động. Ở các nhân vật trữ tình trong ca dao, cái tâm thức văn hóa vùng miền cũng biểu hiện khá rõ. Đặc biệt, một giá trị cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, xứ sở trồng lúa nước, là chất đồng quê, là văn hóa làng quê, mang ý nghĩa khái quát, biểu trưng cho những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc.  
3.2.2. Nghệ thuật biểu hiện đậm chất dân gian
Ngôn ngữ thơ ca dân gian có nguồn gốc dân dã, thể hiện bản chất bình dị, chất phác, hồn nhiên của người dân lao động. Lời kể giàu khẩu ngữ, như lời ăn tiếng nói  trong cuộc sống thường ngày đi thẳng vào câu thơ lục bát ca dao. Một số thi phẩm lục bát đã vận dụng thành công những thành ngữ, tục ngữ, khẩu ngữ quen thuộc trong dân gian (Phạm Công Cúc Hoa, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên) v.v… Giọng điệu chủ yếu trong thơ ca dân gian là điệu than. Biện pháp tu từ so sánh cũng được sử dụng sáng tạo theo hướng cụ thể hoá để gợi nỗi buồn thương, chua xót trong lời than vãn. Thơ thầy Thông Chánh (Nam Bộ) dùng lối nói quá của dân gian để gợi sâu nỗi đau trong lời than ai oán.
Cấu trúc câu thơ lục bát nhiều khi cũng biến đổi theo cách nói, cách suy cảm của dân gian trong đời thường. Vần và nhịp có những thay đổi khá tự do, táo bạo, phá vỡ sự nhàm chán của cấu trúc âm luật lục bát thông thường. Nhịp điệu câu thơ phối hợp chẵn lẻ, dồn nén hơn, góp phần bộc lộ các cung bậc tình cảm khác nhau. Tiểu đối xuất hiện trong thơ lục bát là kết quả của một quá trình phát triển theo hướng dân gian hoá, nó làm cho ý thơ trở nên súc tích, cô đọng hơn, đem lại cái đẹp cân đối, nhịp nhàng.
Không gian trong thơ lục bát truyền thống thường có tính chất phiếm chỉ, những không gian này không có tính xác định, cụ thể hoá trong sự miêu tả bởi mục đích chính của lời thơ là bộc lộ tâm tư, tình cảm của chủ thể trữ tình. Thời gian thường có tính chất ước lệ, những con số, những đại lượng thời gian cụ thể lại không phải là những đại lượng chính xác mà thực sự là “đại lượng trữ tình”.
3.3. Thơ lục bát truyền thống - những trường hợp điển hình
3.3.1. Lục bát ca dao, dân ca
Thể lục bát truyền thống trong ca dao bộc lộ trực tiếp những tâm tình nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống; thể hiện từ những bức tranh lao động đến những suy nghĩ về cuộc đời, từ khoảnh khắc hồn nhiên vô tư của con người đến những diễn biến tình cảm trữ tình phong phú... Ngôn ngữ mộc mạc giản dị khiến những lời thơ trong ca dao dường như trở nên lung linh, đằm thắm hơn thể hiện đậm nét những giá trị nghệ thuật truyền thống.
Các tác phẩm ca dao theo thể lục bát được vận dụng linh hoạt và nhiều vẻ nhất trong dân ca, trong những giai điệu ngâm ngợi, ca xướng uyển chuyển. Sở dĩ như vậy là do kết cấu đặc trưng riêng biệt về âm luật của thể loại thơ này.
Phương thức ngắt nhịp hai ở thể lục bát cũng là loại nhịp được vận dụng phổ biến và bao trùm trong dân ca, thích nghi với sinh hoạt lao động, sinh hoạt nghi lễ và các sinh hoạt khác trong đời sống xã hội. Sự phân chia đều đặn của nhịp câu thơ là cơ sở trực tiếp cho nhịp điệu âm nhạc để rồi từ đó hình thành nên những giai điệu thích ứng với từng thể loại. Dấu ấn đối thoại thể hiện không chỉ ở những bài ca được kết cấu hai vế đối đáp mà ngay cả ở những bài ca mang tính độc thoại vẫn là sự thể hiện của lối trò chuyện giãi bày trực tiếp được sử dụng linh hoạt trong các cuộc hát lẻ và hát cuộc của sinh hoạt dân ca.
Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại. Ngôn ngữ diễn tả không gian là ngôn ngữ miêu tả và bộc lộ cảm xúc. Đó là lối diễn tả hình ảnh, màu sắc sống động mang âm điệu của hình thức diễn xướng đậm đà chất dân gian.
Tính phiếm chỉ, xu hướng không cá thể hóa nhân vật là đặc điểm của thơ ca dân gian Việt Nam mà lối sử dụng đại từ nhân xưng là một trong những thủ pháp nghệ thuật nổi bật làm tăng thêm giá trị diễn xướng của lời ca.
3.3.2. Lục bát truyện thơ Nôm
Trong tiến trình văn học Việt Nam, các tác giả truyện thơ Nôm thế kỷ XVIII - XIX không thể sáng tạo những trường ca, sử thi. Họ sử dụng thể thơ để sáng tác loại truyện, khá gần gũi với truyện hiện đại. Họ chọn thể thơ lục bát, qua những thể nghiệm sàng lọc, có tính văn hóa. Họ chấp nhận thể thơ này vì sự hòa quyện đều đặn và liên tục, có khả năng bất tận, rất phù hợp với mạch thời gian của truyện. Đây còn là thể thơ có biểu hiện kết gắn với truyền thống văn hóa của cộng đồng cư dân bản địa, có biểu hiện phần đề kháng với văn hóa ngoại lai. Về mặt giải pháp tình thế văn hóa, việc sáng tạo truyện bằng thơ ca, vốn có từ cổ đại, còn tạm thời đáp ứng yêu cầu ghi nhớ - lưu truyền, khi mà đại bộ phận nhân dân không sử dụng thông thạo các thứ chữ viết, đang được bộ phận sĩ phu trí thức xem đó là một công cụ, hoặc hơn thế, là một vũ khí văn hóa dân tộc.
Thể loại truyện thơ Nôm, sau bước dò dẫm sáng tạo diễn ca lịch sử với Thiên Nam ngữ lục, yếu tố tự sự đã bước đầu vận động tự thân để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của cộng đồng. Mặt khác, do hoàn cảnh đặc thù của văn hóa Việt, thể thơ lục bát dễ dàng chuyển hóa trở thành một thể văn phương tiện - đa chức năng biểu đạt.
Thể lục bát đã từ bỏ một phần chức năng trữ tình cao cả, quan trọng của thể loại Thi, để đảm nhận phần lớn chức năng giải trình bình dị, thiết thực và phổ cập thay thế cho thể văn xuôi dân tộc, ở vào một giai đoạn đặc thù của đời sống xã hội - văn hóa Việt; đồng thời vẫn vừa phát huy hiệu quả gợi nhớ của thể văn vần dân tộc, vừa đa dạng hóa giá trị mỹ học sinh động của nó.
3.3.3. Lục bát kinh sách Phật giáo
Kinh sách của Phật giáo được chia làm ba tạng (Tam tạng kinh điển): Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng. Giáo lý của đạo Phật xuất phát từ thực tế cuộc sống, không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc mà hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tùy điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để đạt đến mục đích sống yên vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội. Đối với người Việt, lục bát là một thể thơ quen thuộc đến bình dị, tự nhiên, một thứ hơi thở của đời sống tâm hồn - nơi gửi gắm tất cả tâm sự thiết tha về cuộc sống thăng trầm, khắc khổ, mà khỏe khoắn đến hồn hậu của người lao động bình dân chiếm tuyệt đại đa số cộng đồng Việt suốt chiều dài lịch sử. Điều thú vị mà ít bất ngờ nhất là khả năng khế hợp rất tự nhiên và thấm thía của thể thơ này, từ truyền thống đến hiện đại với tinh thần Phật giáo. Khi hòa mình vào sắc điệu văn hóa bản địa của người Việt, kiến tạo đáng kể chiều sâu tư duy cho dân Việt cổ và trở thành quốc giáo từ thời đại Đinh, Lý, Trần, trong những thời kỳ được lịch sử thượng tôn, Phật giáo có những chi phối mạnh mẽ tới các di sản vật chất và tinh thần, trong đó có thi ca nghệ thuật. Nếu thơ lục bát được ví là cây đàn muôn điệu biểu trưng sự phong phú, phức điệu của tâm hồn dân gian, thì với văn học Phật giáo, đó cũng là phương tiện thiện xảo để chuyển tải nội dung giáo lý qua Kinh, Luật, Luận cũng như các trạng thái tinh thần tu chứng, để các cốt lõi tinh hoa của Phật giáo dễ dàng được truyền thông trực tiếp vào đời sống của quảng đại dân chúng.
Qua trường hợp thơ lục bát về Kinh - Luật - Luận Phật giáo, ta thấy Phật tính luôn biểu lộ sâu sắc và tràn đầy trong tinh thần nguyên ủy của tâm hồn Việt. Điều ấy góp phần lý giải bởi đâu mà Phật giáo ở Việt Nam luôn trường tồn bền bỉ và rực rỡ như vậy trong cuộc đồng hành dài lâu cùng dân tộc.
3.3.4. Lục bát Truyện Kiều
Trước Nguyễn Du đã có người dùng bát cú Đường luật để kể chuyện và không thành công. Nhiều người khác cũng đã dùng thơ lục bát để diễn nôm lại các truyện cổ nhưng cũng rất ít thành công về mặt nghệ thuật văn chương. Nhưng khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du vẫn lựa chọn thể lục bát. Có lẽ là vì ông đã nhìn thấy những ưu việt hơn hẳn của thể thơ lục bát so với các thể thơ khác; chỉ nói riêng về phép gieo vần của thơ lục bát dường như cũng nó cũng đã tổng hợp được mọi phép gieo vần của các thể thơ.
Còn trường hợp Truyện Kiều có độ dài hàng ngàn câu lục bát mà vẫn được người Việt yêu thích, một mặt bởi tác phẩm đã hàm chứa tính nhân văn cao cả, nhưng quan trọng hơn lại bởi chính tài năng sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du qua cách xây dựng nhân vật, nhất là cách sử dụng tài tình ngôn ngữ nghệ thuật dân tộc.
So với lục bát dân gian thì lục bát Truyện Kiều không còn các dạng biến thể nữa. Có thể xem lục bát Truyện Kiều là một thứ lục bát thuần khiết. Với 3.254 câu lục bát, Nguyễn Du đã huy động hầu hết các bộ vần trong tiếng Việt vào tác phẩm. Tính đa năng của lục bát Truyện Kiều còn được tăng cường thêm ở cách ngắt nhịp. Nhạc của lục bát Truyện Kiều là nhạc của hình tượng, không phải nhạc của kỹ thuật.
Với Nguyễn Du, thể lục bát đã được làm mới, với một cơ cấu chặt chẽ và một hình thức diễm lệ chưa từng có từ 3 thế kỷ trước. Nguyễn Du đã đưa thể thơ dân tộc lên đến mức phát triển cùng độ. Chính thể lục bát, với khả năng biến chế tinh vi của Nguyễn Du, đã nâng cao tầm vóc của Truyện Kiều.
3.3.5. Lục bát Lục Vân Tiên
Truyện Lục Vân Tiên là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa. Truyện được viết bằng thể lục bát, vì được in nhiều lần nên có nhiều văn bản khác nhau, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ.
Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, một truyện thơ nôm mang tính chất là truyện để kể nhiều hơn là truyện để đọc và để xem. Truyện có kết cấu ước lệ gần như đã thành khuôn mẫu. Tác phẩm khắc họa thành công những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Cho đến bây giờ, truyện Lục Vân Tiên vẫn giữ được vị trí của nó trong nền văn học Việt Nam. Với ngôn ngữ bình dân gần gũi nên mọi tầng lớp trong xã hội đều nhớ thuộc lòng có khi cả bài thơ. Ảnh hưởng của nó còn lan rộng ra cả toàn quốc, được lưu truyền dưới hình thức sinh hoạt văn hóa như “kể thơ”, “nói thơ Vân Tiên”, “hát Vân Tiên” ở Nam Kỳ và Nam Trung Kỳ.
Qua sự biểu hiện bằng thể thơ lục bát, Lục Vân Tiên quả là tác phẩm đáng dành làm bài ca hát ru con trẻ, làm lời ngâm tặng vợ chồng son, làm lời nghiêm răn những kẻ ăn ở hai lòng... Âm điệu du dương trầm bổng; chuyện lương duyên kỳ lạ, éo le; lắm thủy chung mà cũng nhiều phản trắc... đó là sức lay động, sức xuyên thấm mãnh liệt của khúc ca này.
Tiểu kết chương 3
Truyền thống trong thơ là những giá trị đã được khẳng định, và những giá trị đó là đại diện xứng đáng nhất của một cộng đồng dân tộc, là “gương mặt điển hình” cho tâm hồn con người của cộng đồng dân tộc ấy, được thể hiện bằng thơ. Với nghệ thuật biểu hiện đậm chất dân gian, thơ lục bát đã truyền tải giá trị hiện thực, tinh thần yêu nước, nhân đạo, bản sắc văn hóa của dân tộc. Lục bát ca dao, dân ca, lục bát truyện thơ Nôm, lục bát kinh sách Phật giáo, lục bát Truyện Kiều, lục bát Lục Vân Tiên là những hiện tượng tiêu biểu thể hiện sâu sắc những giá trị cốt lõi của thơ lục bát truyền thống.  
Chương 4
TIẾP BIẾN CỦA THƠ LỤC BÁT HIỆN ĐẠI
4.1. Khái luận về hiện đại, tiếp biến truyền thống và hiện đại
4.1.1. Khái niệm hiện đại và tính hiện đại
Hiện đại không phải là một sản phẩm của một giai đoạn lịch sử tách biệt, cũng không phải là biểu hiện của một nền văn hóa cá biệt, mà bắt nguồn từ một mạng lưới phức hợp của mọi hoạt động con người. Chính những hoạt động này mới duy trì, phát triển và hoàn thiện cuộc sống của chúng ta. Do đó, hiện đại bao gồm cả tính lịch sử và động lực biến đổi lịch sử. Lẽ tất nhiên, hiện đại thường được coi như là biểu hiện của giai đoạn lịch sử hiện thời, nhưng nếu xét cho kỹ từ gốc rễ, nó là tinh thần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Hiện đại hoá nói lên cuộc sống nhân bản tốt hơn, được xây dựng dựa trên cơ sở lý trí cao, nơi phát minh kỹ thuật và sự ứng dụng các phát minh đó.
Tính hiện đại thực chất cũng là tính dân tộc hình thành từ truyền thống, mang đặc điểm và giá trị văn hóa truyền thống với những bản sắc độc đáo của mỗi dân tộc, nhưng nó đã được phát triển, hiện đại hóa cho phù hợp với nhu cầu xã hội mới. Tính hiện đại trong văn hóa văn nghệ thể hiện với sự đổi thay về chất lượng và có ảnh hưởng rộng, chịu được thử thách bởi thời gian.
4.1.2. Tiếp biến truyền thống và hiện đại
Truyền thống và hiện đại không hoàn toàn ngăn cách, tách biệt nhau, mà chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Điều này được thể hiện tập trung ở mấy điểm cơ bản sau: 
Thứ nhất, truyền thống là điểm xuất phát của hiện đại, hiện đại là sự tiếp nối của truyền thống ở một trình độ cao hơn. 
Thứ hai, loại bỏ những cái lạc hậu, không còn phù hợp, đồng thời cũng kế thừa, thâu nhận có chọn lọc những giá trị hiện đại. 
Thứ ba, truyền thống là cơ sở để tiếp thu hiện đại. 
Thứ tư, cả truyền thống và hiện đại đều thống nhất chặt chẽ với nhau trong mục tiêu tạo lập sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước, dân tộc.
Chính nghệ thuật giữ được ngọn lửa truyền thống văn hóa đem đến ý nghĩa sinh động cho khái niệm truyền thống như Thomas Morus nhận chân: “Truyền thống không có nghĩa gìn giữ đống tro, mà là chuyển tiếp ngọn lửa”. Giữ “lửa” và tiếp “lửa” là thổi sinh khí truyền thống văn hóa vào hiện đại, mang sức ấm mùa xuân vào ngày hôm nay, đó là công việc đồng thời của nhà văn hóa và của cả một thế hệ thức tỉnh và sáng tạo.
4.2. Thơ lục bát hiện đại - truyền thống và cách tân
4.2.1. Truyền thống và hiện đại trong nội dung phản ánh
Thơ lục bát hiện đại đã tiếp nối những giá trị cốt lõi của thơ lục bát truyền thống, trước hết ở nội dung phản ánh, thể hiện. Tình cảm đất nước, quê hương đằm sâu trong những câu thơ hướng về quá khứ, nói chuyện người xưa để gợi nhắc đời nay. Nhiều nhà thơ khơi nguồn lục bát từ cảm hứng đó: Bùi Văn Trọng Cường viết Truyền thuyết Loa Thành, Nguyễn Thanh Mừng viết Đám cưới Huyền Trân, Vương Trọng viết Bên mộ cụ Nguyễn Du v.v… Gợi hồn quê hương là những khúc dân ca mang bản sắc văn hoá độc đáo của dân tộc. Quê hương cũng được khắc hoạ với những nét đẹp cổ truyền, những hình ảnh gợi hồn xưa của đất nước. Những địa danh cụ thể gắn với những nét gây ấn tượng sâu sắc bởi ở đó có những con người mang tinh thần yêu nước nồng nàn góp sức mình vào cuộc kháng chiến cứu nước.
Hướng về quê hương là hướng về cội nguồn. Hình ảnh cha mẹ và những người thân yêu trong gia đình luôn là những hình ảnh sâu đậm và quá đỗi thiêng liêng trong tâm hồn mọi người cũng như các thi nhân lục bát. Nguyễn Duy viết về cha không nhiều, chỉ thoáng qua thôi, nhưng mang dáng hình của bao người cha trên khắp nẻo đường đất nước, một người cha bước ra từ truyền thống văn hoá dân tộc, và đó cũng là một nét khá đắt giá cho hình ảnh Tổ quốc, quê hương trong những trang thơ lục bát.
Tiếp nối truyền thống nhưng mang tâm thức thời đại, thơ lục bát hiện đại phản ánh, thể hiện những nét hiện thực của thời đại. Những năm đầu thế kỷ XX, đất nước rên xiết dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, những vần thơ lục bát đau đớn, nghẹn ngào trước tình cảnh khốn cùng của phu làm đường ở Lào Cai,Yên Bái. Nỗi đau thời thế ở một người sống tận cùng với đời như Trần Huyền Trân thì câu thơ có một sức nặng khác thường (Với Tản Đà). Hình ảnh những người chiến sĩ anh dũng đấu tranh, sẵn sàng xả thân cho đất nước trong những năm cách mạng và kháng chiến được khắc hoạ sâu đậm trong lục bát Nguyễn Bính (Đồng Tháp Mười). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giữa chiến trường Quảng Trị, những người lính trẻ vẫn hồn nhiên Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt (Hoàng Nhuận Cầm). Lục bát trong vùng tạm chiếm miền Nam những năm tháng đó lại mang nỗi buồn sầu u uất của cả một thế hệ (Kiếp sau - Cung Trầm Tưởng).
Thời hậu chiến, trở về cái đời thường, cảm hứng thơ ca bắt nguồn từ cái hàng ngày, dù nhỏ bé. Trong thơ hình thành một dòng thơ thế sự với cảm hứng sự thật, nội dung thành thật và thái độ của người viết cũng hết sức thành thật. Con người khẳng định mình, trải lòng mình, vừa thành thực vừa xót xa (Thiếu khoảng trời xanh - Nguyễn Thị Thu Hồng). Trước cuộc sống đầy biến động, có thi nhân đưa ra những trăn trở của mình, những câu hỏi day dứt, ám ảnh (Ai? - Phạm Đông Hưng). Những suy tư về nhân tình thế thái còn mở rộng chiều không gian (Tình cờ gặp người quen trên tàu tốc hành Xêvaxtôpôn-Matxcơva - Trần Nhuận Minh). Có thể nói, thơ lục bát hiện đại đã hướng tới cuộc sống đa diện, nhiều chiều với cái nhìn trung thực và nỗi trăn trở, ưu tư sâu sắc.                                      
4.2.2. Những cách tân về nghệ thuật biểu hiện
Trước hết là cách tân về ngôn ngữ thơ. Nhiều tác giả lục bát thời kỳ này sử dụng ngôn ngữ mang tính hiện đại và táo bạo. Có nhiều cách tạo lập từ ngữ mới, cách sử dụng từ láy mang giá trị biểu cảm cao, gợi tả và sinh động. Có cách nói quen thuộc, dùng nhiều khẩu ngữ, những từ “bụi”, dân dã; lại có cách nói rất lạ, ám ảnh, giàu liên tưởng. Những câu thơ lục bát thời này không hướng tới việc xác lập sự hoàn chỉnh ngay ở một dòng thơ mà thường để cho những câu liên tiếp nhau có mối quan hệ mật thiết, có cảm giác cả đoạn thơ dài mới diễn tả hết ý của một câu nói trọn vẹn.
Với những cái tôi bản ngã đầy cá tính, thơ lục bát hiện đại mang phong cách phức âm, đa giọng điệu. Đầu thế kỷ XX, người ta “nghe” rõ giọng tráng khí, bi phẫn, bi hùng trong thơ Trần Huyền Trân (Say ca). Những năm kháng chiến, lục bát Tố Hữu mang giọng điệu tâm tình thương mến (Việt Bắc). Trong cuộc sống đời thường nhiều biến động, lục bát lại càng nhiều giọng điệu: giọng trầm tư, độc thoại tự ý thức (Về làng - Nguyễn Long); giọng điệu dửng dưng, có chút bất cần (Quát thơ - Hồ Tăng Ấn); giọng điệu tưởng như tưng tửng, thản nhiên mà ngậm ngùi, xót xa (Bùa lá - Nguyễn Thị Đạo Tĩnh); nhiều nhà thơ không chỉ viết bằng giọng điệu dửng dưng, giọng đùa cợt, … mà có khi còn mạnh mẽ đến quyết liệt (Lục bát lỡ nhịp - Nguyễn Thái Sơn).
Về cấu trúc hình thức, để diễn tả những tình ý mới của con người hiện đại, câu thơ có hình dáng rất khác lạ so với lục bát truyền thống. Xếp các chữ trong câu thơ theo kiểu bậc thang tạo những điểm nhấn cho lời thơ (Hoa lúa - Hữu Loan). Chia tách hai dòng lục bát thành nhiều câu thơ nhỏ (Không đề - Đào Phong Lan). Cách chấm câu giữa dòng tạo nhịp ngắn như nhấn mạnh cảm xúc (Sài Gòn - Lê Huy Quang). Có cách gieo vần rất độc đáo (Không còn bức tranh ngày cũ - Hoàng Ngân). Có những câu thơ hầu như không ngắt nhịp (Sự tích cột thu lôi - Bùi Chí Vinh); lại có những câu thơ ngắt nhịp rất linh hoạt, một câu được ngắt thành 5 hoặc 6 tiết tấu (Xem ảo thuật - Thúc Hà) v.v…
4.3. Thơ lục bát hiện đại tiêu biểu
4.3.1. Lục bát Tản Đà
Trong toàn bộ sáng tác thơ của Tản Đà, thơ lục bát có 35 bài chiếm tỉ lệ 13% nhưng lại khắc hoạ khá rõ nét thần thái thi ca của ông, đó là cách nhìn nhận và đánh giá dưới góc nhìn của ca dao.
Tình yêu quê hương, đất nước của Tản Đà được biểu hiện một cách kín đáo, nhẹ nhàng trong bài thơ Thề non nước và một số bài thơ khác. Trong thơ Tản Đà ta còn bắt gặp những dòng thơ ca thán cho thân phận phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ trong tình yêu, hôn nhân. Cảm thương thân phận người phụ nữ là đề tài được nhắc đến nhiều trong văn học từ xưa đến nay và cả trong văn học dân gian (ca dao). Nhưng Tản Đà đã khéo léo biến thể lục bát để biểu trưng hiện thực thời đại và tiếc thương cho phận người con gái lấy chồng không xứng với mình (Cô tây đen). Ngay trong lúc dịch thơ Đường, Tản Đà cũng khiến thơ dịch của ông thấm nhuần phong vị trữ tình cổ xưa mà vẫn mới mẻ (Hoàng Hạc lâu, Kinh Thi). Cũng như thơ ca bình dân, bên cạnh tính chất trữ tình, thơ ca Tản Đà còn luôn ánh lên nụ cười trào phúng ý nhị, đôi khi là tiếng cười phúng thích khá cay độc nhằm vào những đối tượng đáng phải phê phán, đả kích đương thời.
Thơ lục bát Tản Đà tràn đầy những kỹ xảo mỹ từ pháp và thủ pháp tu từ. Đó là các phép dùng định ngữ, ẩn dụ, nhân cách hóa, phúng dụ, điệp ngữ, đảo ngữ…những biện pháp này cũng vô cùng quen thuộc trong ca dao, dân ca. Ngôn ngữ thơ Tản Đà có tính chất bóng bẩy, tình cảm thể hiện tinh tế, có tác dụng gợi lên được tinh thần của sự kiện, đối tượng mà nhà thơ muốn diễn tả.
4.3.2. Lục bát Thơ mới và Nguyễn Bính
Khảo sát hệ thống thể loại Thơ mới được thống kê từ 1.083 tác phẩm của 89 nhà thơ được tuyển chọn trong cuốn Thơ mới 1932 - 1945, tác giả và tác phẩm do Lại Nguyên Ân tập hợp và biên tập có thể thấy về số lượng, thể lục bát có 147 tác phẩm, chiếm 13,6%. Lục bát Thơ mới đã khai thác triệt để, đa dạng các chức năng và nội dung thể loại. Trong đó nổi bật nhất là chức năng trữ tình với nội dung bày tỏ tư tưởng, tình cảm của cái tôi cá nhân cá thể. Về cơ bản, các bài thơ lục bát của Thơ mới 1932-1945 vẫn hướng tới mô hình cấu trúc đã trở thành chuẩn mực, điển phạm của lục bát cổ điển, đồng thời có những sáng tạo mới về gieo vần, ngắt nhịp, giọng điệu, sử dụng từ ngữ, cấu trúc dòng thơ v.v…
Điển hình cho lục bát Thơ mới là lục bát Nguyễn Bính. Nếu lục bát ca dao mang vẻ tươi thắm của chất trữ tình đồng quê, nếu lục bát Truyện Kiều rất mềm mại, uyển chuyển thì những bài thơ lục bát của Nguyễn Bính như Lỡ bước sang ngang, Chân quê, Người hàng xóm, Tương tư, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, v.v… vừa thanh thoát, gợi cảm, vừa trau chuốt, điêu luyện. Trong những sáng tác thi ca của Nguyễn Bính trước Cách mạng, thể lục bát chiếm số lượng tới 45 phần trăm. Cũng như nhiều nhà thơ tài năng khác của dân tộc, Nguyễn Bính biết cách làm giàu cho sáng tác của mình trên mảnh đất văn hóa dân gian, từ đó khai thác và khơi nguồn cảm hứng để tạo nên những thi phẩm mới. Cũng như thơ lục bát dân gian, âm điệu chung của thơ Nguyễn Bính là buồn. Đặc biệt, Nguyễn Bính đã phát huy cao độ sự phù hợp giữa đặc trưng của thể lục bát là uyển chuyển, mềm mại, giàu nhạc điệu với phong cách thơ của mình là mộc mạc, đằm thắm, dịu dàng.
4.3.3. Lục bát Tố Hữu
Tố Hữu để lại cho đời sau một di sản thơ đồ sộ với 286 bài thơ, trong đó thơ lục bát hoàn toàn là 75 bài, thơ lục bát phối xen là 25 bài, chứng tỏ thơ lục bát là thành tựu nổi bật trong sáng tác thơ của Tố Hữu.
Đọc thơ lục bát Tố Hữu, ta thường thấy tiếng hát ru của ca dao, dân ca, nó làm cho cái cao xa trở thành gần gũi, cái riêng hòa vào cái chung, tư tưởng cách mạng dễ hóa ra một nếp nghĩ hồn nhiên (Tiếng ru). Tố Hữu đã học tập ca dao, dân ca để xây dựng từng nhân vật cụ thể và dùng cách miêu tả cụ thể để nói về những con người trong đời sống hiện đại. Đó là những nhân vật vừa kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa mang những đặc điểm của thời đại. Một chị phụ nữ phá đường, một anh vệ quốc quân, một bà mẹ Suốt… là sự khái quát những đức tính tốt đẹp xưa nay của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
Lục bát Tố Hữu có những bài cực dài, nhưng cũng có bài ngắn. Các kiểu cấu trúc câu thơ lục bát của Tố Hữu bị chi phối bởi dụng ý sáng tạo nghệ thuật, nó phù hợp với việc biểu lộ tâm trạng, cảm xúc của con người hiện đại. Đọc Tiếng hát sông Hương, Trường tôi, Phá đường, Việt Bắc của Tố Hữu ta nhận ra lối kết cấu mang hình thức đối đáp của ca dao, dân ca. Ngôn ngữ thơ lục bát Tố Hữu mang tính đại chúng mà không hề dễ dãi, nói lên được những tư tưởng lớn của thời đại, những cái rất mới trong đời sống và con người Việt Nam. Ông khéo léo kết hợp truyền thống với hiện đại, nội dung và hình thức, dân tộc và đại chúng. Vì thế, thơ lục bát của ông dễ cảm, dễ hiểu, dễ gần, nhận được sự yêu mến của nhiều người Việt Nam.         
4.3.4. Lục bát Bùi Giáng
Thể lục bát chiếm một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp thơ Bùi Giáng. Trong tập thơ đầu tay (Mưa nguồn) với 139 bài thơ thì đã có tới 57 bài lục bát, chiếm tỷ lệ 40%. Càng về sau này, Bùi Giáng làm lục bát càng nhiều: tập Rong rêu (1995) có 83 bài thì 42 bài là lục bát, tập Mười hai con mắt (2001) có 113 bài thì 93 bài là lục bát. Trong Từ điển văn học (bộ mới), Bùi Giáng được đánh giá là người đã “tái dựng lục bát trong bối cảnh mới của thời đại hiện sinh”.
Với Bùi Giáng, lục bát biến thể được ông “tuôn ra” một cách tự nhiên giống như khi ông làm lục bát nguyên thể, gắn liền với biến động bão giông trong lòng ông và có một tần suất lặp đi lặp lại rất cao. Bùi Giáng biến thể, nhưng cái sự biến thể này khiến người đọc cảm thấy hứng thú bởi ông đã thổi vào một làn gió lạ, làm dậy sóng cái vần điệu tĩnh tại bấy lâu như mặt nước hồ thu của lục bát nguyên thể. Với sức sống mạnh mẽ tự nhiên, chỉ cần chuồi theo dòng chảy của âm thanh theo cơ chế tự động, Bùi Giáng đã làm nên những vần thơ bất chấp mọi quy tắc kết hợp ngữ nghĩa (Ngẫu hứng). Với thơ thì chuyển tải là ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo ra cảm giác, cảm giác dẫn tới đam mê. Vì thế tìm kiếm lớn nhất của Bùi Giáng là tìm kiếm ngôn ngữ, tạo ra một ngôn ngữ lục bát khác với các thể thơ khác (Mắt buồn).
4.3.5. Lục bát Nguyễn Duy
Ngay từ sớm, Nguyễn Duy đã tỏ ra khá có duyên với thể lục bát và ông tiếp tục phát triển cảm hứng với thể loại này trong hơn 10 tập thơ công bố từ năm 1973 tới 2002. Trong tuyển tập Thơ Nguyễn Duy gồm 381 bài thơ thì đã có tới 151 bài là lục bát, chiếm tỷ lệ 40% toàn tập.
Nguyễn Duy sử dụng ca dao nhưng không phải sử dụng một cách hững hờ làm duyên mà thường đẩy đến tận cùng ý tứ, buộc người đọc phải hiểu sâu sắc thêm, chú ý thêm đến một góc hiểu mới. Nguyễn Duy có những đột phá, những bước tiến mới, đó là khi tác giả viết thường ở đầu câu, chia câu lục thành nhiều dòng (Tre Việt Nam). Vào thơ Nguyễn Duy, ca dao như được “nhuận sắc” - hiện đại và độc đáo, hơn nữa lại trở thành một công cụ diễn đạt nhuần nhị những thông điệp, những chân lý có vẻ như giản đơn nhưng lại tận cùng sâu sắc (Khúc dân ca). Nguyễn Duy không chỉ tận dụng những chất liệu nội dung của ca dao mà còn tận dụng những chất liệu hình thức để chỉnh trang cho câu thơ lục bát của mình.
Dung hòa được chất truyền thống và hiện đại, tạo ra cái mới mà không xung đột với cái cũ, Nguyễn Duy phần nào đã khẳng định được phong cách nghệ thuật riêng của mình qua những thể nghiệm trên. Thơ lục bát Nguyễn Duy ngầm chứa cái hồn dân gian bình dị trong vẻ ngoài hiện đại, khoẻ khoắn. Chúng hoàn toàn phù hợp với cá tính ưa suy ngẫm và thích mô tả chi tiết những “việc lớn việc nhỏ” đang ngày ngày diễn ra trong cuộc sống ở nhà thơ, “thi sĩ thảo dân”.
4.3.6. Lục bát Đồng Đức Bốn
Khảo sát tổng thể thi phẩm của Đồng Đức Bốn, có thể thấy xấp xỉ 80% (gần 200 bài) là thơ lục bát. Trên con đường nghệ thuật của mình, Đồng Đức Bốn có những tìm tòi nhất định, tuy nhiên khuynh hướng dân gian được thi sĩ khai thác triệt để. Ta bắt gặp nhiều hình ảnh dân dã trong đời sống hàng ngày và cả những hình ảnh quen thuộc trong ca dao ở thơ lục bát Đồng Đức Bốn. Tất cả không chỉ là những hình ảnh có tính chất cụ thể, hay mang phong vị ca dao mà còn thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về con người và cuộc sống (Đêm sông Cầu, Thức với Côn Sơn). Có những hình ảnh đã trở thành biểu tượng trong ca dao, dân ca lại mang tính đa chiều hơn trong lục bát Đồng Đức Bốn (Nhà quê).
Ngôn ngữ thơ lục bát Đồng Đức Bốn đậm chất dân gian, mang hơi thở đời thường. Đồng Đức Bốn còn học tập lối nói ưa dùng của người Việt với những kiểu ví von, so sánh, ẩn dụ thật tinh tế, ý nhị khi giãi bày cảm xúc cá nhân. Nhưng đây là dân gian hiện đại; tác giả lại làm cho câu thơ lung linh, đa nghĩa bởi những từ ngữ, hình ảnh được lạ hóa, mờ hóa, ảo hóa (Nhà quê, Tình tôi tình em).
Về hình thức thể loại, Đồng Đức Bốn khá trung thành với những niêm, luật thơ lục bát có từ thuở ca dao. Tuy nhiên, trong hành trình sáng tạo, ông cũng có những phá cách nhất định trong cấu trúc thơ. Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn rõ ràng là một tiếng nói mới, nổi lên vắt giữa hai bờ thế kỷ XX và XXI của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Tiểu kết chương 4
Lục bát hiện đại có sự đổi mới khá toàn diện, nó thỏa mãn những đòi hỏi về tư tưởng, tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ của con người Việt Nam ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Nội dung mở rộng, phong phú, bám sát thực tế, lịch sử. Hình thức cách tân ở nhiều mặt: cấu trúc câu thơ, dòng thơ, ngôn ngữ, giọng điệu, nhịp điệu v.v… Sự tiếp biến truyền thống và hiện đại thể hiện rõ ở những trường hợp điển hình: lục bát Tản Đà, lục bát Thơ mới và Nguyễn Bính, lục bát Tố Hữu, lục bát Bùi Giáng, lục bát Nguyễn Duy, lục bát Đồng Đức Bốn. Các tác giả có ý thức tìm về với lục bát như một sự trân trọng truyền thống dân tộc, đồng thời góp phần làm cho lục bát có một gương mặt mới mẻ hơn trong nhịp sống hiện đại.
KẾT LUẬN 
Thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay luôn là phương tiện hữu hiệu truyền đạt nội dung tư tưởng qua nghệ thuật biểu hiện độc đáo, đem lại những giá trị Chân - Thiện - Mỹ tinh tế, sâu sắc cho con người. Trong hàng ngàn năm tồn tại và phát triển của thơ ca dân tộc, chúng ta đã chứng kiến sự vinh quang cũng như sự mai một của rất nhiều thể thơ. Có những thể loại khẳng định được sự trường tồn của mình theo thời gian, nhưng cũng có những thể loại dần bị lãng quên và được thay thế. Lục bát là thể thơ cổ truyền của Việt Nam, dù ra đời từ rất sớm và đạt được thành tựu đỉnh cao nhưng nó vẫn tồn tại, phát triển và ngày càng được khẳng định trong thời hiện đại.
1. Thơ lục bát là một trong những thể thơ mang đậm tính dân gian, tính dân tộc, tính truyền thống. Kể từ khi ra đời vào khoảng thế kỷ XV, thể lục bát vẫn luôn khẳng định vai trò là thể thơ có nhiều ưu thế trong việc thể hiện điệu tâm hồn dân tộc. Trải qua bao biến cố thăng trầm, thể thơ này ngày càng trở nên hoàn thiện hơn và được nhiều người yêu thơ Việt trân trọng. Tùy từng thời kỳ mà lục bát phát triển nhiều hay ít. Trải qua thời gian có thể nhận thấy lục bát có mặt ở hầu hết các giai đoạn quan trọng, chứng tỏ sức sống bền bỉ, mãnh liệt của mình. Trong thể thơ lục bát, thường thì các tác giả sử dụng thi pháp ca dao làm nền tảng; tuy nhiên, ở mỗi bài thơ, lục bát có thêm “bộ cánh” mới, hợp thời, hợp với thị hiếu và tư duy người đọc. Lục bát ca dao có nhiều đặc sắc, nó là những khuôn mẫu cho lục bát giai đoạn sau phát triển. Lục bát trung đại là sự kế thừa lục bát ca dao đồng thời sáng tạo thêm những phương cách biểu hiện mới, nâng lục bát lên thêm một bậc với những âm điệu, ngôn từ, hình tượng phong phú, góp thêm cho dòng thơ Việt Nam nhiều thi phẩm có giá trị cao, được người đọc hôm nay và mãi mai sau yêu thích và mến mộ.
Có được những thành tựu đó là do lục bát mang những nét đặc sắc nghệ thuật riêng: gần gũi với ca dao, dân ca, ngôn ngữ lời nói đọc lên như là câu hát, lời ru, làm cho đời sống tinh thần của người Việt thêm sinh động và sảng khoái. Khó có một thể thơ nào có được những điểm riêng độc đáo như lục bát. Cái âm hưởng lục bát từ bao đời dường như trở thành một âm hưởng ít nhiều mang tính chất tượng trưng cho xóm làng dân dã, cho đồng quê, cho tâm tình người dân quê Việt Nam. Câu thơ sáu - tám mượt mà, êm ái như lời ru cùng với niêm luật chặt chẽ, phối thanh hài hoà, vần điệu nhịp nhàng… là tất cả những nét riêng, độc đáo mà qua lao động, qua sáng tác, người Việt Nam đã tạo dựng được. Bên cạnh đó, thơ lục bát là thơ cách luật, nhưng nó lại cho phép chấp nhận mọi sự tìm tòi, sáng tạo về âm luật trong hoạt động sáng tạo nên các bài thơ cụ thể. Mặt khác, khả năng biểu đạt nội dung của nó khá linh hoạt, vừa trung tính vừa có thể chuyên biệt hóa tùy thuộc vào những trường hợp vận dụng cụ thể. Lục bát Việt Nam xứng đáng với danh xưng thể thơ truyền thống của dân tộc là vì thế.
2. Lục bát có thể tự hào đã khẳng định vị trí lâu bền và sức sống mạnh mẽ nhất bên cạnh hàng loạt những thể thơ cùng giữ những vị trí đỉnh cao trong thời kỳ trước như thơ Đường luật, song thất lục bát. Sở dĩ như vậy bởi lục bát mang trong nó những yếu tố nhạy bén đáp ứng nhu cầu của con người và cuộc sống trong thời kỳ hiện đại. Thơ Đường luật đã được khai thác đến tận cùng, thơ song thất lục bát thì hướng quá mạnh vào cái truyền thống, giữ tính quy phạm nghiêm ngặt, nên đã dần bị mai một. Lục bát chứa đựng trong nó những yếu tố mới, linh hoạt, những biến thể, biến dạng phong phú, có khả năng kích thích sáng tạo, tìm tòi, để tạo nên diện mạo ngày càng mới mẻ hơn.
Lục bát hiện đại vừa kế thừa truyền thống vừa có những cách tân, đổi mới, sáng tạo. Nó mang trong mình những yếu tố mới, nội dung cảm hứng vẫn thiên về tinh thần yêu nước, tình cảm nhân đạo thiết tha, sâu lắng, nhưng quan trọng hơn hết là cái tôi cá tính được bộc bạch chân tình, thành thật đến tận cùng, trước chính mình và trước cuộc đời. Giống như các hình thái văn hóa nói chung, hình thức thơ ca cũng có tính xã hội và tính thời đại của nó. Lục bát có quá trình biến đổi riêng, tiếp thu có chọn lọc các yếu tố mới, để hiện đại mà vẫn không xa rời truyền thống, để có thể khẳng định rằng dù cách tân nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
Hiện thực cuộc sống chi phối, nhu cầu sáng tạo trong mỗi nghệ sĩ đã tạo nên những đổi thay đáng kể của lục bát hiện đại. Một nguyên nhân cũng cần phải đề cập đến đó là sự đổi mới do nhu cầu nội tại và bắt buộc của thơ lục bát. Các nhà thơ có ý thức tìm tòi và làm mới cho những gì đã trở nên cũ mòn, không đủ sức biểu hiện tình cảm của con người trong đời sống hiện đại. Thể lục bát cũng tự du nhập thêm nhiều yếu tố để làm mới mình. Nó cách tân bởi một ý thức rằng sự mới mẻ và độc đáo sẽ làm nên sức sống của mọi thể loại, không riêng bất cứ thể loại nào, ở thời kỳ nào. Đổi mới là một cách duy trì sức sống cho lục bát trong thời kỳ mới. Lặp lại là một cách tự xóa bỏ mình và bởi “cái bình thường là cái chết của nghệ thuật” (Victor Hugo). Đặc biệt với thể lục bát, nó ra đời từ rất sớm, đạt được những thành công tưởng chừng khó vượt qua, nếu không tìm tòi sẽ khó có được một chỗ đứng trên thi đàn dân tộc hiện đại.
Đổi mới như một nhu cầu tất yếu, quan trọng, cần thiết để lục bát ngày càng xác lập và chứng tỏ vai trò một thể thơ cổ truyền của dân tộc. Dung hoà, tiếp biến yếu tố truyền thống và hiện đại, cổ điển và cách tân là một “ứng xử”, một lựa chọn  khôn ngoan của lục bát trong hành trình vừa tự khẳng định vừa đổi mới mình để làm nên một diện mạo riêng trong vườn hoa thi ca dân tộc. 
3. Trong thời buổi hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, dường như đang có hai thái độ trái ngược đối với lục bát. Có người thờ ơ, hoài nghi khả năng của lục bát. Họ thành kiến rằng lục bát là thể thơ quá gò bó về vần luật, về thanh luật, về tiết tấu; nó đơn điệu, nó bằng phẳng, quê mùa. Họ vội cho rằng lục bát chỉ biểu hiện được những cảm xúc quen thuộc của người Việt truyền thống. Còn tâm sự đầy những suy cảm tinh vi phức tạp của người hiện đại thì lục bát khó chuyển tải. Họ lầm tưởng rằng lục bát sẽ khó theo kịp nhịp biến hóa đầy bấn loạn của tư duy thơ hiện đại. Thậm chí, có người còn coi lục bát như một rào cản đối với những lối tư duy nghệ thuật tân kỳ. Và, họ từ chối lục bát để một mực chạy theo những thể khác. Thực ra, mọi vẻ đẹp cùng biến thái mơ hồ nhất của thiên nhiên, mọi biến động phức tạp khôn lường của đời sống, mọi tầng sống sâu xa huyền diệu nhất của tinh thần cá thể, mọi khuynh hướng tư duy nghệ thuật, dù truyền thống hay tối tân, đều không xa lạ với lục bát. Vấn đề là người viết có đủ tài để làm chủ được lục bát hay không.
Vì thế mà có xu hướng ngược lại, nhiều người đã nhận thấy ở lục bát những ưu thế không thể thơ nào có được. Họ đã tìm về lục bát. Họ ý thức rõ, từ xưa đến nay, lục bát luôn là thể thơ đầy thách thức. Sự gò bó có thể là một khó khăn bất khả vượt đối với ai đó, nhưng lại là một thách thức đầy hấp dẫn đối với những tài năng thơ thiết tha với tiếng Việt, thiết tha với điệu tâm hồn Việt. Họ nâng niu, chăm chút. Họ làm mới, họ cách tân, để gửi gắm tấc lòng của con người hôm nay vào thể thơ hương hỏa của cha ông. Họ dùng lục bát như một phương tiện tâm tình gần gũi, để nói những gì sâu sắc nhất của tâm tư. Trong thực tế, lục bát với người này là sở trường, với người kia là sở đoản. Nhưng, về thái độ, thì sẽ là không quá lời khi bảo rằng: trân trọng lục bát cũng là một thước đo về văn hoá thơ với một người thơ Việt. Nhờ những tấm lòng và tài năng ấy mà thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI vẫn chứng kiến một cuộc chạy tiếp sức hào hứng không biết đến mệt mỏi của lục bát. Có thể thấy rõ rệt, càng về sau, dáng điệu lục bát càng trẻ trung, hơi thở lục bát càng hiện đại hơn so với hồi đầu. Điều đó là bằng chứng khẳng định lục bát vẫn trường tồn, lục bát vẫn gắn bó máu thịt với tâm hồn Việt trên con đường hiện đại.
Với bản lĩnh truyền thống mà hiện đại, thơ lục bát bước ra với thế giới rộng lớn, cho thấy tầm vóc của văn hóa Việt, nhân cách Việt, tầm vóc của đất nước và con người Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Văn Trọng (2014), “Quê hương Việt Nam trong thơ lục bát Nguyễn Bính”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam (231), tr.26 - 29. 
2. Trần Văn Trọng (2014), “Thơ lục bát Nguyễn Bính - truyền thống và cách tân”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (796 - 797), tr.183 - 186. 
3. Trần Văn Trọng (2016), “Phương pháp tiếp cận văn hóa học với nghiên cứu thơ Nguyễn Bính”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam (258), tr.3 - 7.
4. Trần Văn Trọng (2016), “Thơ lục bát với kinh sách Phật giáo”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (390), tr.68 - 70.
 Trần Văn Trọng
Theo http://ussh.vnu.edu.vn/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Dấu chấm thang – Chùm thơ của Trần Hương Giang 4 Tháng Sáu, 2023 Biết thương cuộc sống ta bà/ Đổi thay, tôi lại thiết tha yêu đời/ Dù ...