Âm nhạc của một thời - Phần 2
Y Vân và ảo ảnh cuộc đời
* Gửi Túc Trí, người yêu những con tàu và sân ga. Một con đường sắt/ trăm con tàu
Câu hát ấy nghe được trong bài “Đêm tái ngộ” của Y Vân. Một cô bạn tôi nói rằng cô yêu nhạc Y Vân vì những câu hát nói về “con tàu và sân ga” như thế. Tôi nói như vậy thì cô yêu những… sân ga chứ đâu phải là yêu nhạc Y Vân. Cô bạn cười, nói rằng có nhiều bài nhạc nói về sân ga nhưng cô yêu những bài của Y Vân hơn cả. “Bài ‘Tiễn em’ của Phạm Duy và Cung Trầm Tưởng chẳng hạn,” cô nói, “cũng hay vậy, nhưng có vẻ… Tây quá.” Tôi chắc không phải chỉ có trăm con tàu thôi mà biết bao nhiêu là con tàu đến và đi trong cuộc đời này, không làm sao đếm hết được. Sân ga vẫn nằm đấy, im lìm, hiu quạnh, như cõi lòng trống vắng, quạnh hiu của một người vừa tiễn đưa một người.
Hình ảnh con tàu và sân ga thường vẽ ra cảnh tượng buồn bã của một cuộc chia tay. Chia tay với con tàu, hay chia tay với sân ga, cũng là chia tay với một mối tình. Mối tình nào, tiếng còi tàu nào còn đeo đuổi cô bạn tôi mãi đến tận bây giờ, như đã đeo đuổi người nhạc sĩ đã viết nên những bản tình ca không hạnh phúc về những lứa đôi yêu nhau mà chẳng được gần nhau.
“Vì đời ai biết ta hơn mình!...”
Vắng con tàu sân ga thường héo hắt
Thiếu anh lòng em thấy quạnh hiu
Câu hát ấy ở trong bài “Ảo ảnh” của Y Vân.
Sân ga là “chứng nhân” của bao cuộc hội ngộ và chia phôi, nụ cười và nước mắt, hợp tan và tan hợp.
Một trong những bài phổ thơ hay nhất của Y Vân, “Đêm giã từ”, nói về nỗi buồn sân ga trong giờ phút tiễn đưa của đôi tình nhân.
Mưa buốt lạnh trong đêm/ đứng trên thềm ga vắng
hắt hiu ngọn đèn vàng/ em tiễn anh
Mưa gió lùa qua hiên/ giữa khi mình lưu luyến
thì tiếng còi lạnh lùng xé màn đêm Tiếng còi tàu “lạnh lùng” không chỉ “xé màn đêm” mà còn… “xé đôi lòng” (nói như câu hát trong bài “Biệt ly” của Dzoãn Mẫn, Ôi, còi tầu như xé đôi lòng...).
Anh bước vào toa trong/ mắt không rời ga vắng
Trời mưa chỉ làm buồn chúng mình thêm
Ánh sáng cây đèn úa soi trên thềm
Còn đó chăng/ là bóng em và bóng đêm
Còn nỗi buồn nào sâu hơn, tái tê hơn nỗi buồn sân ga hắt hiu ngọn đèn vàng, khi tiếng còi tàu xa dần, khi bóng con tàu mờ dần trong tiếng mưa đêm, chỉ còn lại bóng em và bóng đêm…
Bài hát đã buồn, qua giọng buồn rã rượi của Thanh Thúy, nghe càng buồn hơn.
Những câu chuyện về “con tàu và sân ga”, về một người ra đi, một người ở lại, thường là những chuyện không mấy… vui, có lẽ vì vậy Y Vân phải viết thêm “Đêm tái ngộ” để cho câu chuyện tình buồn “Đêm giã từ” ấy có một happy ending cho hợp lẽ tuần hoàn của đất trời, hợp rồi tan, tan rồi hợp.
Em đứng đây chờ anh trước thềm ga
hiu hắt cây đèn đêm giã từ xưa
Anh bước xuống tàu/ ngơ ngác vài giây
khi thấy em cười sau nh đèn soi
Nhìn nhau mà nói không nên lời
Nơi cũ lúc xưa tay rời/ thì nay lại tay cầm tay
“Tay cầm tay”, như thế cũng tạm ổn, tuy nhiên sau đó vẫn cảm thấy… chưa đủ, nhạc sĩ bèn phải viết thêm “Nụ cười tái ngộ” để có một kết thúc tròn đầy, có nhân có hậu (như là… tên thật của ông, Trần Tấn Hậu). ài hát được yêu thích qua những giọng Trúc Mai, Lệ Thanh, Carol Kim...
Ôi, nụ cười thắm trên môi
Tủi hờn xưa đã vơi/ những đau thương xa rồi
Nếu hạnh phúc là giấc mơ/ thì đã tròn ý thơ
không còn mong chờ
Sau nước mắt chia phôi là “nụ cười tái ngộ”. Y Vân là thế, là con người nghệ sĩ yêu cái đẹp và đầy lòng nhân bản.
Bài nhạc buồn nhất của Y Vân không phải là “Đêm giã từ”, và cũng không phải là bài… “Buồn”.
Buồn như ly rượu đầy/ không có ai cùng cạn
Buồn như ly rượu cạn/ không còn rượu để say
Bài nhạc buồn nhất là bài có cái tựa cũng chỉ một chữ thôi, bài… “Thôi” (phổ thơ Nguyễn Long). Nhạc điệu và lời hát nghe sướt mướt, sụt sùi không kém gì bài “Sang ngang” của Đỗ Lễ.
Thôi em đừng khóc nữa làm gì
Thôi em đừng tiếc/ em đừng tiếc/ đừng tiếc nữa
đừng để lòng anh trở lại kiếp u buồn
Thôi, thôi bờ vai đừng rung động
đã hết rồi còn khóc nữa chi em
Nghe “Thôi” qua những giọng Thái Thanh, Hùng Cường, Jo Marcel mà nghe tim thắt lại, nghe ruột gan tái tê, héo hắt. Cũng vì bài hát nghe chán đời, các ca, nhạc sĩ khi trình diễn bèn tự động đổi sang tiết tấu, nhịp điệu sôi động hơn (Rumba, ossa Nova, Chachacha) cho vui tai. “Thôi” được yêu chuộng hơn từ khi hóa thành bài hát có nhạc điệu vui mà lời thì… buồn.
Một bài nhạc khác cũng khá buồn là “Chiều mưa công viên”, nghe được qua những giọng Thái Thanh, Lệ Thanh, Mỹ Thể, Lệ Thu… Chiều mưa công viên/ ghế đá buồn tênh
Chiều mưa rét mướt/ cỏ non trăm cánh
Ai thương ai dưới mưa buồn không?
Mưa trong đôi mắt chờ trông
Mưa như mưa đã ngàn năm
Như sợ rằng “Chiều mưa công viên” vẫn chưa đủ buồn, nhạc sĩ dắt ta đi vào chiều mưa… nghĩa trang.
Chiều mưa nghĩa trang/ trời sa xuống thấp
Buồn không tiếng khóc/ nhớ thương hết rồi
Người qua nghĩa trang/ lòng xưa thức giấc
Nghe mưa lạnh lùng/ nhớ nhau vô cùng
(“Chiều mưa nghĩa trang”)
Trong cái sống có chập chờn nỗi chết, trong sum họp có bàng bạc nỗi ly tan. Đôi lúc ta còn nghe ông “triết lý vụn” về cuộc sống bề bộn, về nỗi khát khao tìm đến sự bình an trong tâm hồn sau những miệt mài đeo đuổi, tìm kiếm. Như trong “Đồi thông”, một bài Blues.
Hoài công tìm kiếm/ trên bước đi thăng trầm
còn đâu đẹp hơn bên gốc thông ngàn
Lặng nghe muôn tiếng ca/ quên niềm ưu phiền
vì đời ai biết ta hơn mình
Bài hát nghe được qua những giọng Anh Ngọc, Duy Trác, Lệ Thu, Ban hợp ca Thăng Long, mỗi giọng có những nét đẹp riêng trong cách thể hiện.
Hay như “Hoàng hôn trên bãi biển”, một bài Rumba, nói về những giấc mơ hư ảo của đời người, như những vết chân, những lâu đài trên cát. Nhớ câu xưa rằng, “Đừng làm lầu trên cát vàng
để rồi lầu tan theo sóng”
Bóng ai xa rồi/ mờ dần
Bàn chân gót trần/ còn hình nằm soi trong nắng
Sóng xa vô tư dâng lên
tựa như chiếc khăn/ ai đem xóa đi không còn
một vết chân mềm
Hay như “Ảo ảnh”, một bài oston (sau đổi thành Rumba), nói về những đuổi bắt chiếc bóng tình yêu.
Yêu cho thấy bao lâu đài
chỉ còn vài trang giấy
Kìa phồn hoa còn đó
Những con đường buồn vui lộng gió
Những ân tình chìm trong lòng phố
cũng theo hư không mà đi
Thật khó mà kể ra cho hết được các bài nhạc của Y Vân, và cũng khó mà nói được giọng hát nào là “độc quyền” hoặc thích hợp với nhạc Y Vân, cho dù một vài ca sĩ từng hát nhiều bài của Y Vân như Lệ Thanh, Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Tâm… Tuy nhiên, có thể kể ra những giọng hát được xem là gắn liền với những bài hát phổ biến nhất của Y Vân, như:
Ngọc Cẩm và Nguyễn Hữu Thiết với “Đôi mái chèo trăng”; Thanh Thúy với “Lòng mẹ”, “Đêm giã từ”; Minh Hiếu với “Ngăn cách”; Hồng Phúc với “Tình yêu thủy thủ”; Mai Trường-Trần Ngọc-Hồng Phúc với “Những bước chân âm thầm”; Phương Tâm với “60 năm”, “20 - 40”, “Thần tượng”; The Cat’s Trio (ban nhạc nữ) với “Đêm đô thị”; Ban hợp ca Thăng Long với “Đồi thông”; Duy Trác với “Đừng lừa dối nhau”, “Tôi sẽ đưa em về”; Sĩ Phú với “Người em sầu mộng”; Hà Thanh với “Cánh hoa thời loạn”, “Tưởng vọng”; Thái Thanh với “Thôi”, “Thương về năm Cửa Ô xưa”; Lệ Thanh với “Chiều mưa công viên”, “Hoàng hôn trên bãi biển”; Yến Vỹ với “Sài Gòn”; Trúc Mai với “Về miền Tây”, “Bóng người cùng thôn”; Hoàng Oanh với “Xa vắng”, “Tình chàng ý thiếp”, “Đôi mắt người xưa”; Nhật Trường với “Khi em nhìn anh”; Duy Khánh với “Hãy yêu tôi”; Mỹ Thể với “Thương anh”; Khánh Ly với “U hoài”; Lệ Thu với “Ảo ảnh”; Túy Phượng với “Người yêu lý tưởng”; Connie Kim với “Tình lính”; Carol Kim với “Đêm tái ngộ”; Vy Vân với “Đại lộ hoàng hôn”; Ngọc Long với “Những bước chân trên cao nguyên”; Ban Sao Băng với “Tôi trở về thành phố”; Hùng Cường với “Thúy đã đi rồi”; Mai Lệ Huyền với “Thiên thần mũ đỏ”; Elvis Phương với “Tát nước đầu đình”…
Có thể nói không ca sĩ nào ngày ấy mà không từng hát một bài nào của Y Vân.
“Tưởng lòng là mây theo gió về”
Em yêu gì xa vắng
cho trời mây ướp buồn?
Tôi tin rằng thật khó mà tìm được chữ nào hay hơn và “thơ” hơn chữ “ướp” trong câu hát trên. Câu ấy ở trong bài “Những bước chân âm thầm”, phổ một bài thơ năm chữ của Kim Tuấn. Lạ một điều, câu hát ấy cũng như những câu hát được nhiều người yêu thích trong bài nhạc ấy, không thấy có trong bài thơ được Y Vân phổ nhạc, chẳng hạn:
Anh yêu tình nở muộn
Chiều tím mầu mến thương
Tôi chắc những người yêu thơ sẽ thích hai câu “thơ” ấy. “Tình nở muộn”, nghe không “mới” hay sao!
Mắt biếc sầu lắng đọng
Đèn thắp mờ bóng đêm
Hai câu này cũng được Y Vân thêm vào, làm cho bài thơ nghe “thơ” hơn và làm cho bài nhạc có một khí hậu trầm mặc của những rặng thông già lặng câm, của gió rét về lạnh căm và của từng bước, từng bước thầm, như vẽ lên hình ảnh thật cô đơn của một người lặng lẽ đếm bước trong chiều, tìm về những tháng năm kỷ niệm đã phôi pha. Câu thơ “Tay đan đầy kỷ niệm” của Kim Tuấn được Y Vân đổi khác đi một chữ thành câu hát Tay đan sầu kỷ niệm, nghe “buồn” hơn và lắng đọng hơn.
Đời biết ai thương mình... (câu hát cuối, cũng được Y Vân thêm vào). Bài hát kết thúc như một dấu hỏi lửng lơ, như nỗi buồn vướng vất không trôi đi được, làm khoét sâu thêm nỗi cô đơn của kẻ độc hành. Thường thì khi phổ nhạc một bài thơ, vì những lý do “kỹ thuật”, nhạc sĩ có thể thay đổi chút ít lời thơ, hoặc có khi phải đặt thêm lời cho bài thơ phổ nhạc. Những “sáng tạo” này của Y Vân chảy xuôi chiều với mạch thơ và phù hợp với tổng thể của bài thơ, cho thấy “tay nghề” phổ thơ của người nhạc sĩ. Người ta yêu “Những bước chân âm thầm” là yêu nhạc điệu ấy lẫn những lời hát thật đẹp ấy, và cũng yêu cả những giọng hát trầm ấm của Mai Trường - Trần Ngọc - Hồng Phúc quyện vào nhau (cách thể hiện của Ban hợp ca Thăng Long và Ban Sao Băng sau này nghe cũng hay không kém). Có vẻ như bài hát ấy hát “đơn ca” nghe không được hay, dẫu là những giọng ca xuất sắc.
“Những bước chân âm thầm” của Y Vân và “Anh cho em mùa xuân” của Nguyễn Hiền được xem là hai bài phổ thơ Kim Tuấn hay nhất. Rõ ràng là Y Vân đã làm cho người ta đi tìm bài thơ “Kỷ niệm” của Kim Tuấn, và cũng làm cho nhiều nhạc sĩ tìm đến thơ Kim Tuấn để phổ nhạc, và để mong có được “Những bước chân âm thầm” khác.
Giới yêu nhạc cũng yêu thích những bài nhạc tình của Y Vân phổ từ thơ Lưu Trọng Lư, như “Người em sầu mộng”:
Ai bảo em là giai nhân/ cho lệ đêm xuân tràn
cho tình dâng đầy trước ngõ/ cho mộng tràn gối chăn
Và “U hoài”:
Anh xin/ muốn xin em đừng nói
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay
Hãy như chiếc sao băng/ băng mãi
để lòng buồn/ buồn mãi không thôi
Và những bài phổ thơ Đinh Hùng, như “Hãy yêu tôi”:
Tôi không yêu sao có má em hồng?
Tôi không buồn sao có mắt em trong?
Tôi không yêu sao có phấn hương nồng?
Tôi không mộng sao có lá thư xanh?
Một bài phổ thơ khác là “Dung nhan mùa hạ” (thơ Hoàng Huy), nghe được qua những giọng Duy Trác và Nhật Trường với lời hát khá “lập dị”. Bài hát, có lẽ vì thế ít được phổ biến.
Khi em tắm nắng/ cho tôi xin hai thước mặt trời
Vẻ kiêu sa thần vệ nữ ngàn đời
Xin cho ngây ngất/ bên dung nhan đan trắng hạ này
và cho xanh giấc ba mươi
“Xa vắng” và “Tình chàng ý thiếp” có thể gọi là phóng tác ý thơ “Chinh phụ ngâm khúc”, kể về nỗi lòng chinh phụ của những “cánh hoa thời loạn”, với con tim héo hắt, với âu lo thẫn thờ và nỗi nhớ thương dằng dặc qua bao năm chờ tháng đợi mỏi mòn.
Đợi chàng một hai năm/ hay là cả đời xuân xanh
Ngày nao đầu pha tuyết sương
vẫn mong tái ngộ một lần
Ngày anh xa vắng/ tóc buông giữ vẹn lời thề
Ước mong ngấn lệ ngày về/ thay dòng nước mắt khi đi
Vì trời làm phong ba/ nên đời hội ngộ chia ly
Lệ rơi nhiều hơn nước mưa
dẫu cho bốn biển chẳng vừa
(“Xa vắng”)
Bao nhiêu là nước mắt của bao nhiêu người vợ trẻ tóc buông giữ vẹn lời thề, cam chịu nỗi tàn phai nhan sắc và phòng không chiếc bóng lạnh lùng buổi chinh chiến điêu linh. Lời ca tiếng nhạc nghe mà não lòng.
Ngày ngày ra đứng/ trước thềm nhìn theo lối xưa
Thiếp bên song cửa/ nhìn trăng úa
Chàng ngoài chân mây/ gội mưa bay
Từ chàng xa vắng/ má hồng điểm trang với ai
Nước dâng rồi vơi/ lòng thiếp biết bao giờ nguôi
Thẫn thờ trâm lệch/ buồn thương nhớ
Lỏng vòng lưng eo/ sầu tương tư
Nhạt làn môi son/ hờn duyên lỡ/ những mùa xuân qua
(“Tình chàng ý thiếp”)
Nhiều bài của Y Vân, tuy không phải nhạc phổ thơ, nhưng là những bài nhạc rất thơ, với những lời nhạc đẹp tựa lời thơ.
Như những lời tả tình tả cảnh “Hoàng hôn trên bãi biển”.
Hoàng hôn nắng soi trên biển xanh
Người đi vết chân in cồn cát trắng
Lặng nghe những âm thanh mơ hồ
ngàn con sóng xô ven bờ
tưởng lòng là mây theo gió về
Tôi chắc những người yêu thơ sẽ thích câu “thơ” ấy, “Tưởng lòng là mây theo gió về…”
Trời mây dắt nhau đi vào đêm
mình tôi đứng đây nghe chiều lên tiếng
Chữ “dắt” ấy, tôi chưa thấy ai sử dụng hay hơn.
Có khi là nỗi xót xa và tiếc nuối vì không giữ được tình yêu:
Những neo thuyền yêu đương thường dễ đứt
khiến bao chiều trên bến tịch liêu
(“Ảo ảnh”)
Có khi là những lời tự tình ngọt ngào của những lứa đôi yêu nhau:
Tôi sẽ đưa em về/ miền hoa thơm cỏ biếc
Chiều hôn trên làn tóc/ mùa thu in mầu mắt
Tôi sẽ đưa em về/ tôi sẽ đưa em về
mà không lo thiếu tình yêu
(“Tôi sẽ đưa em về”)
Hay… “sẽ đưa em đi”:
Em là chim Yến nhỏ/ anh khoác áo vân du
Đường xa em có ngại/ áo mây anh ấp ủ
Ta tìm lên núi Tình/ Ta đến suối Yêu Đương
rồi đi thăm bến Mộng/ sẽ qua đồi Ái Ân
(“Khi em nhìn anh”)
Bài nhạc được yêu thích qua giọng hát khá truyền cảm của Nhật Trường, Sĩ Phú. Chữ “Yến” viết hoa trong bản nhạc được cho là… tên cô gái nào đó, mối tình nào đó của Y Vân, thực hư không rõ. Tương tự, có những lời giải thích không giống nhau về bút danh “Y Vân” của ông, với cái họ “Y” nghe tựa như họ của người sắc tộc thiểu số ở cao nguyên Trung phần. Người thì cho rằng nhạc sĩ có mối liên hệ khá mật thiết với “phố núi” nào đó ở cao nguyên (qua những bài “Tiếng trống cao nguyên”, “Những bước chân trên cao nguyên”…). Người thì nói rằng cái tên ấy có nghĩa là… “Yêu” cô gái tên “Vân” nào đó. (Đến “Y Vũ”, tên của người nhạc sĩ là em trai của ông, thì chẳng thấy ai… giải thích chi cả). Những chuyện ấy chỉ là “nghe vậy biết vậy” và cũng chẳng mang ý nghĩa gì đối với sự nghiệp âm nhạc của Y Vân; hơn thế nữa, ông không có khuynh hướng bộc lộ những chuyện riêng tư nên ai muốn nói gì thì nói, ông vẫn lặng thinh, vì… đời ai biết ta hơn mình. “Bao năm nước mắt như suối nguồn”
Một nhạc sĩ tên tuổi thường có ít nhất một, hai bài nhạc nào đó gắn liền với tên mình. Khi nhắc đến tên bài nhạc ấy, người ta nghĩ ngay đến tên nhạc sĩ ấy. Có khi chỉ một bài nhạc thôi cũng đủ làm nên tên tuổi người nhạc sĩ. Nhiều nhạc sĩ sáng tác chỉ mong có được một bài nhạc gắn liền với tên mình, trong lúc ấy Y Vân không chỉ có một mà khá nhiều bài gắn liền tên ông, đến nỗi người ta tự hỏi những bài nào trong số ấy là… “Y Vân” nhất. Nếu phải chọn ra ba bài, theo tôi, đấy là những bài “Lòng mẹ”, “Sài Gòn” và “60 năm” (còn gọi là “60 năm cuộc đời”). Nói đến tên bài nào trong số những bài ấy, người ta lập tức bật ra ngay cái tên Y Vân chứ không nói lầm sang tên một nhạc sĩ nào khác. ài thứ nhất ngợi ca trái tim của người mẹ, làm cho những đứa con yêu mẹ mình hơn. ài thứ hai ngợi ca cuộc sống tươi đẹp, làm cho người ta thêm yêu thành phố từng là thủ đô của miền Nam. Bài thứ ba ngợi ca tình yêu và cuộc sống, làm cho những đôi tình nhân thêm gắn bó nhau.
“Lòng mẹ” đến nay vẫn được xem là bài hát classic về người mẹ tiêu biểu nhất và hay nhất, hiểu theo nghĩa bài hát quen thuộc nhất, được nhiều người nghe, nhiều người hát và nhiều người yêu thích nhất. (“Mẹ tôi” của Nhị Hà và “Quê mẹ” của Thu Hồ cũng là những bài khá cảm động và lấy được nhiều nước mắt của những đứa con mất mẹ). Hầu như không ai… biết hát mà không từng hát một đôi câu bài “Lòng mẹ”. Hầu như không ca sĩ nào mà không từng hát “Lòng mẹ”, và những giọng Thanh Thúy, Lệ Thanh ngày ấy, theo tôi, cho nhiều cảm xúc nhất. Nhạc điệu man mác, lời hát bình dị, đơn sơ nhưng nghe dạt dào tình cảm như là tấm lòng của người mẹ.
Sau những chữ “như” là những cách ví von mang theo nhiều hình ảnh, nhiều ý tưởng thật gần gũi, thân quen.
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào
Tình mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào
Lời mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào
Lòng mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu
Tình mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ
Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ
Và những lời thật cảm động về “lòng mẹ thương con”.
Dù cho mưa gió không quản thân gầy mẹ hiền
Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền
Bao năm nước mắt như suối nguồn
chảy vào tim con/ mái tóc trót đành đẫm sương
Nghe những câu hát ấy không ai mà không nghe lòng chùng xuống, không nghe tim thắt lại và chỉ ước mong ngày nào được… quay về vui vầy dưới bóng mẹ yêu.
“Lòng mẹ” có lẽ là bài hát được sử dụng nhiều nhất trong đám táng người mẹ nào vừa xa lìa thế gian này.
Giống như đề tài về tình yêu, đề tài “người mẹ” là vô tận, và các nhạc sĩ vẫn còn tiếp tục sáng tác về đề tài này trong một cố gắng để vượt qua được “Lòng mẹ” của Y Vân, nhưng trước sau vẫn chỉ là… những cố gắng vô ích.
Khi hát bài “Lòng mẹ” là khi ta nghĩ về, nhớ về người mẹ của mình, là đấng sinh thành, là người đã trao tặng cho ta đời sống này. Người mẹ trong bài hát của Y Vân không chỉ là, không còn là bà mẹ của riêng ông mà là của tất cả những ai có được một người phụ nữ yêu quý trên đời này để gọi là “Mẹ”. Có một cách nói quen thuộc chúng ta vẫn nghe, đại để “Mỗi người trong chúng ta đều mắc nợ (hay đều mang ơn)…”, nhằm ca ngợi người nào đó về những thành tựu hoặc cống hiến có ý nghĩa đặc biệt cho công chúng, tôi cho là sẽ không có gì quá đáng khi nói rằng chúng ta cần cám ơn tác giả bài hát “Lòng mẹ”, cám ơn người nhạc sĩ đã nói thay cho chúng ta những điều ta muốn nói về người mẹ của mình hay những bà mẹ yêu dấu trên thế gian này mà không diễn được ý của một đứa con.
Tôi cũng tin rằng một trong những việc làm mà Y Vân cho là ý nghĩa nhất trong đời mình là ông đã dâng tặng bà mẹ mình bài hát ấy, như dâng tặng bông hoa thơm ngát của lòng biết ơn.
Điều “tệ” nhất là cố tình khoác cho bài hát nói về trái tim của người mẹ ấy tấm áo có… màu sắc chính trị, như là “Nhạc sĩ Y Vân sáng tác bài ấy từ nỗi xót thương bà mẹ mình bị… cảnh sát ‘chế độ cũ’ bắt giam vì vi phạm giờ giới nghiêm, nửa đêm ra máy nước công cộng giặt quần áo cho con…” (trong lúc ai cũng biết bài hát ra đời trong những năm thanh bình hiếm hoi ở miền Nam vào cuối thập niên 1950’s, khi mà mọi sinh hoạt của người dân kéo dài thâu đêm suốt sáng, và chẳng ai biết “giới nghiêm” là… cái gì).
Khác với bài “Lòng mẹ”, “Sài Gòn” với tiết tấu vui tươi nhộn nhịp qua những giọng Yến Vỹ, Trúc Mai, Carol Kim… thời ấy, được xem là bài Chachacha đầu tiên của nhạc Việt. “Sài Gòn” của Y Vân và “Gh bến Sài Gòn” của Văn Phụng được kể là những bài nhạc hay nhất nói về thủ đô miền Nam, về một thành phố trẻ trung, tươi đẹp và tràn đầy sức sống.
“60 năm” còn “kích động” hơn cả “Sài Gòn” nữa với thể điệu Twist và với nhạc điệu náo hức như giục giã những lứa đôi phải gấp gáp “yêu nhau đi, chiều hôm tối rồi”, phải vội vàng lên để mà chạy đua với chiếc kim thời khắc của tình yêu, vì cuộc sống ngắn ngủi. Hãy đến gần nhau hơn, hãy cho nhau những thương yêu ngọt ngào, vì… được bao năm sống mà yêu nhau.
Em ơi, có bao nhiêu
sáu mươi năm cuộc đời!
Khi xa em rồi/ anh biết thương yêu ai
Nên ta yêu nhau/ thì yêu cho trọn đời
Em ơi, ta sống là bao!...
Nếu cần kể thêm bài nhạc nào của Y Vân được yêu thích và phổ biến rộng rãi trong những năm đầu thập niên 1960’s, không thể không nhắc đến “Ngăn cách”, là câu chuyện tình buồn của những lứa đôi yêu nhau mà nào có được gần nhau. Bài hát gắn liền với những giọng Thanh Thúy, Minh Hiếu.
Từ ngày mai ngăn cách
hết rồi là khi đưa đón
Thời của “Ngăn cách” là thời của những Slow, Boston, lues…, thời của tiếng nhạc bềnh bồng trôi đi chầm chậm trong bóng tối mờ mờ của các phòng trà, các vũ trường, trong đó không bao giờ thiếu những bài của Y Vân như “Ngăn cách”, như “Đừng lừa dối nhau”, “Chiều mưa công viên”, “Người em sầu mộng”, “Tôi sẽ đưa em về”, “Đêm giã từ”, “Ảo ảnh”…
Những ân tình em đong bằng nước mắt
khóc cho đầy hai chữ tình yêu
Phấn hương nồng em xem tựa tấm áo
đã thay màu ân ái từ lâu
“Đã có ‘Ngăn cách’ nên tìm thêm ‘Ảo ảnh’; đã có ‘Ảo ảnh’ nên tìm thêm ‘Tưởng vọng’”, câu ấy đọc thấy nơi bìa sau một bản nhạc của Y Vân, như muốn kết hợp thành một “bộ ba” nhạc tình Y Vân. Tuy nhiên “Tưởng vọng”, bài nhạc ngợi ca thiên chức cao quý của người phụ nữ, có vẻ ít được đón nhận như hai bài kia.
Không có em sao có nàng Tô Thị
Không có em sao có Hòn Vọng Phu
Không có em ai biết lòng chinh phụ
Không có em ai nhớ người chinh phu
Tưởng vọng về đôi mi nhìn xuôi xuống
ngày ngày ôm ấp con thơ/ em khẽ ru câu dịu hiền
Bài hát nghe được qua những giọng Hà Thanh, Phương Dung ngày ấy.
Trong số những sáng tác của Y Vân, có những bài ông soạn chung với các nhạc sĩ khác, như “Chiến sĩ của mùa xuân”, “Về dưới mái nhà”, “Đường đi lối về”, “Gió hiền”, “Mây chiều” với Xuân Tiên; “Nhạt nắng”, “Tiếng hát quê hương” với Xuân Lôi; “Tình trăng nước” với Nguyễn Hiền; “Cát biển” với Lê Trọng Nguyễn; “Hình ảnh quê xưa” với Hoàng Trọng; “Chiếc khăn tay”, “Chuyến tàu tiễn biệt” với Minh Kỳ; “Hai chuyến tàu đêm” với Trúc Phương; “Đôi mắt người xưa” với Nghiêm Phú Phi; “Mùa thương tay đợi mắt chờ”, “Vòng tay giữ trọn ân tình” với Đỗ Kim Bảng; “Tìm về”, “Nụ cười tái ngộ” với Lan Đài; “Đò ngang” với Tuấn Khanh; “Nếu anh về” với Huỳnh Anh; “Tình đôi ta” với Hoài Linh; “Đừng đùa với tình yêu” với Phạm Mạnh Cương; “Đời còn ngăn cách nhiều hơn” với Cao Hoàng…
Về nhạc phổ thơ, người yêu nhạc thường nhắc đến những bài “Người em sầu mộng”, “U hoài”, phổ thơ Lưu Trọng Lư; “Một lần cuối”, phổ thơ Nguyễn ính; “Hãy yêu tôi”, “Em tự nghìn xưa chuyển bước về”, phổ thơ Đinh Hùng; “Thương về năm Cửa Ô xưa”, phổ thơ Tạ Tỵ; “Đêm giã từ”, phổ thơ Thể Vân; “Những bước chân âm thầm”, phổ thơ Kim Tuấn; “Tôi trở về thành phố”, phổ thơ Hoàng Huy; “Thôi”, phổ thơ Nguyễn Long; “Về miền Tây”, phổ thơ Văn Thế Bảo; “Đồi thông”, ý thơ Nguyễn Đình Toàn (bài thơ “Không dưng”); “Buồn”, ý thơ Tạ Ký (bài thơ “Buồn như”)… Có thể kể thêm ít bài dân ca và phổ ca dao như “Tát nước đầu đình”, “Lý ngựa ô”, ”Lý con sáo”, “Lý quạ kêu”, “Lý qua đèo”…
Y Vân còn viết nhạc cho các phim truyện, như “Thúy đã đi rồi”, “Xa lộ không đèn”, “Như giọt sương khuya”, “Như hạt mưa sa”…, thường là các bài nhạc chính trong bộ phim cùng tên. Không chỉ sáng tác, ông còn được biết đến như một trong những nhạc sĩ soạn hòa âm tên tuổi thời ấy, bên cạnh các nhạc sĩ Hoàng Trọng, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Lê Văn Thiện…, đồng thời còn là nhạc trưởng của “ an nhạc Y Vân” và có một trung tâm sản xuất băng, dĩa nhạc tên Mây Hồng.
Cây đàn muôn điệu, cuộc sống muôn màu
Gió nhẹ tựa như
hơi thở của người yêu
buồn mà duyên dáng
Câu hát ấy ở trong bài “Tình yêu thủy thủ” (1965) của Y Vân và là câu tôi thích nhất trong bài hát ấy. Buồn mà duyên dáng, tôi chưa hề nghe ai nói thế bao giờ. Làn gió biển mơn man trên da thịt tựa như hơi thở nhẹ nhàng của người mình yêu, buồn mà duyên dáng. Câu hát thật đẹp!
Người khác có thể thích những câu hát khác trong bài ấy, như là:
Anh là thủy thủ/ mang lòng biển cả
trao về tình em
Anh là thủy thủ/ yêu đời biển cả
như người tình chung
“Người tình chung”, cách gọi ấy không mới hay sao!
Tình nào cho em/ Tình nào cho nước
“Nước” ở đây vừa là đất nước, vừa là sông nước, là biển cả.
Không rõ là có bao nhiêu chàng trai khi “lên đường nhập ngũ tòng quân” đã tình nguyện vào binh chủng… hải quân chỉ vì yêu bài “Tình yêu thủy thủ”, chỉ biết rằng bài hát ấy qua giọng hát thật ấm áp của Hồng Phúc và Ban nhạc Y Vân, đã phổ biến rộng rãi và được yêu chuộng đến mức Y Vân phải viết thêm bài “Tình yêu phi công” và “Tình lính” nữa cho… đủ bộ và cho công bằng, để “hải lục không quân” đều vui vẻ cả làng (tuy nhiên “Tình yêu thủy thủ” vẫn được yêu chuộng hơn). Sau “Tình yêu thủy thủ”, có khá nhiều bài nhạc tiếp theo của các nhạc sĩ khác viết về những chàng trai ôm mộng hải hồ, về những bông “hoa biển” và về những “người yêu của lính”… biển (như “Hoa biển” của Anh Thy, “Thủy thủ và biển cả” của Y Vũ, “Một lần xa bến” của Trường Sa, “Tình ca người đi biển” của Trường Hải, “Tâm tình người lính thủy” của Anh Thy và Thanh Viên, “Vùng biển trời và màu áo em” của Nguyễn Vũ… vân vân). Những chàng thủy thủ có một thời được “lên điểm”, một thời… “bao nhiêu bến, bấy nhiêu tình”, cũng là nhờ bài hát ấy, “Tình yêu thủy thủ”.
Người ta yêu “Tình yêu thủy thủ” không phải chỉ ở những câu hát như thế mà còn ở thể điệu Hully Gully trẻ trung, vui nhộn, được xem là bài Hully Gully đầu tiên của nhạc Việt (“Đêm huyền diệu”, “Thần tượng”… là những bài tiếp theo của Y Vân cùng một thể điệu).
“Tình yêu thủy thủ” là một bài “nhạc lính”, nói rộng hơn, một bài “nhạc thời trang” vào thuở ấy. Y Vân vẫn được xem là người nhạc sĩ đi tiên phong trong các thể điệu mới (Chachacha, Twist, Hully Gully, Surf, Soul…); và hơn thế nữa, có khả năng đặc biệt là rất bén nhạy và thích ứng nhanh chóng các trào lưu âm nhạc thế giới để đưa vào dòng nhạc Việt các kiểu mẫu “thời trang âm nhạc” mới nhất, thịnh hành nhất, như người bắt mạch được thị trường tiêu thụ để dọn ra những “món ăn” lạ miệng, hấp dẫn và hợp khẩu vị khách hàng.
Khi mà cơn bão Twist quét ngang vòm trời âm nhạc châu Âu, khi mà đâu đâu cũng nghe Come on, let's twist again, và khi mà mọi người không thể nào… ngồi yên một chỗ được khi điệu nhạc kích động ấy trỗi lên thì một nhà sản xuất băng đĩa nhạc tìm đến Y Vân, “Phải có một Let’s twist again cho nhạc Việt chứ!” Và thế là… “Đêm đô thị” ra đời, vang vang trên khắp các “đô thị” miền Nam. Bài nhạc nghe rất “Saigon By Night”.
Màn đêm xuống dần
muôn ánh đèn đột nhiên như ngời sáng
Kìa bao phố phường/ bao mái lầu chìm trong bóng đêm
Lá lá lá lá la la.../ Lá lá lá lá la la
Đời đẹp quá... áh ah àh áh áh ah bài thơ!
Tiếp đến là những bài Twist mang theo những con số, “60 năm”, “20 - 40”, và tiếp đến là những “Người yêu lý tưởng”, “Tình lính”, “Tình yêu và tuổi trẻ”, “Tình yêu và giông tố”, “Tình yêu dưới ánh mặt trời”… đã lôi cuốn các nhạc sĩ khác nhập cuộc để lại có thêm nhiều bài Twist nữa, tạo nên cơn lốc sôi động, cuồng nhiệt của “kích động nhạc” (tên gọi thuở ấy), đồng thời cũng mang đến cho nền âm nhạc miền Nam giữa thập niên 1960’s một khuôn mặt mới và một phong cách trình diễn mới, “hợp thời trang” hơn và quyến rũ hơn.
Trong lời nhạc của Y Vân, ta “bắt” được những câu hát khá “đặc biệt”, cho thấy những “sáng tạo” của ông không chỉ trong “ý nhạc” mà còn ở “lời ca” nữa.
“20 - 40” chẳng hạn, kể về một chuyện tình trái ngang, lỡ làng.
Năm anh hai mươi/ em mới sinh ra đời
Khi em còn trong nôi/ anh đã lo việc đời
Ôi, hai mươi năm u hoài
Đầu vừa điểm phai/ gặp nhau tưởng duyên may
Ngờ đâu tình duyên đã lỡ rồi/ lỡ tuổi lỡ thời
(Chuyện tình “20 - 40” ấy ngày nay là chuyện… thường tình, chẳng ai thắc mắc, nên cũng chẳng việc gì mà phải Nay ta không xứng đôi/ Thôi thôi chờ kiếp sau, như một câu hát trong bài).
“Thần tượng” chẳng hạn, một bài hát khá “thời thượng”.
Nếu em không cùng anh/ sống chung trong cuộc đời
chỉ là người yêu thôi/ em sẽ là thần tượng
Câu hát cuối lặp đi lặp lại, nhỏ dần… Nếu chỉ là người yêu/ em sẽ là thần tượng… Những lời ấy quả có đúng. Không có “thần tượng” nào bền vững mãi với thời gian. Khi không còn được đặt trên bệ thờ nữa thì thần tượng hóa thành xác phàm. Bài hát không mấy được hoan nghênh có lẽ vì… đúng quá, và vì các “thần tượng” ấy chỉ muốn được làm… “thần tượng của muôn đời”.
“Đừng lừa dối nhau” chẳng hạn, được tác giả ghi bên dưới tựa bài nhạc là “Tặng những mối tình không trọn vẹn”, là những nghi ngại, ngờ vực trong tình yêu.
Đừng lừa dối nhau/ đừng nói yêu khi ta gần nhau
Đừng lừa dối nhau/ vì biết đâu tin nơi tình yêu
“Cánh hoa thời loạn” chẳng hạn, kể về nỗi niềm của những người tình, những người vợ trẻ thời chiến chinh.
Xin anh che chở/ tấm đời nhỏ bé hậu phương
như câu chuyện tình “Người hùng và giai nhân”
Những cánh hoa hồng
bên hàng rào kẽm/ hầm chông
vẫn mong bàn tay/ người đem tưới vun trong vườn
Bài hát qua giọng Hà Thanh, nghe mà xót xa, tội tình.
Trong số những bài nhạc được yêu thích một thời của Y Vân vẫn có những bài về tình yêu thuở ban đầu. Tình đầu là mộng ước, là giấc mơ tươi đẹp nhất của một thời tuổi trẻ.
Nhớ lần đến trường đón em
Ôi, đẹp thay ngày mới quen!
Tờ thư xanh giữ làm tin/ kỷ niệm giây phút đầu tiên
mà nhiều đêm trắng/ dệt bóng hình em yêu
(“Đời còn ngăn cách nhiều hơn”)
Bài hát, qua những giọng nữ mềm mại của Tuyết Mai Kim Tước-Túy Hồng quyện lẫn vào nhau, như khơi dậy cả “một trời kỷ niệm” về trường cũ tình xưa, về những mối tình học trò.
Mỗi người đều cần có một ngôi trường để luyến tiếc, để nhớ về… Nhớ về ngôi trường cũ là nhớ về những người thầy người bạn, những giờ ra chơi và một sân trường phượng vĩ.
Một ngày tôi còn nhớ/ đầy trường hoa phượng vĩ
Tạm xa bao bạn cũ/ nào ai biết ra đi
là sẽ không quay về
(“Từ biệt mái trường xưa”) Y Vân và Y Vũ Nét nhạc Y Vân có dấu ấn riêng và ảnh hưởng ít nhiều đến sáng tác của các nhạc sĩ sau ông. Nhiều người vẫn lầm tưởng “Ai nói yêu em đêm nay”, một bài Slow của Trần Thiện Thanh, hoặc “Kim”, một bài Twist của Y Vũ, là của Y Vân. Trong những bài “Những tâm hồn hoang lạnh” của Y Vũ, “Tôi đưa em sang sông” của Y Vũ và Nhật Ngân… người ta nghe phảng phất nét nhạc (và cả lời ca) của Y Vân, qua những dấu thăng (dièse) hoặc dấu giảm (bémol) ở nốt nhạc cuối trong câu, tạo cảm giác lơ lửng, mênh mang.
Có thể nói được rằng Y Vân là nhạc sĩ của mọi thể loại, mọi thể điệu và mọi đề tài của nhạc Việt những thập niên 50’s, 60’s, 70’s. Từ “Đêm đô thị” đến “Ngoại ô đèn vàng”; từ “Đồi thông” đến “Hoàng hôn trên bãi biển”; từ “Người yêu lý tưởng” đến “Người vợ hiền”; từ “Phận má hồng” đến “Cánh hoa thời loạn”; từ “Thần tượng” đến “Ảo ảnh”… Nghe nhạc Y Vân, người ta nghe thấy có hạnh phúc và khổ đau, có nụ cười và nước mắt, có hội ngộ và chia phôi, có hình ảnh người mẹ, người cha, người vợ hiền, người lính chiến, có tình yêu đôi lứa, có tình tự dân tộc…, tựa như ông muốn ôm hết cuộc sống vào lòng vậy. Nói cách khác, cuộc sống hiện ra muôn màu muôn vẻ trong nhạc Y Vân. Như câu nói của Robert Schumann, nhà soạn nhạc và phê bình âm nhạc nổi tiếng của Đức, “Họa sĩ biến thơ thành tranh; nhạc sĩ biến tranh thành âm nhạc”, Y Vân, ông đã vẽ ra những “bức tranh đời” nhiều màu sắc và sinh động bằng nét cọ thần kỳ là những nét nhạc, những nốt âm thanh tràn đầy cảm xúc.
Cũng do khả năng nhạy bén, đáp ứng mọi khuynh hướng, trào lưu âm nhạc, và thích ứng mọi tình thế nữa, người ta không ngạc nhiên khi biết rằng từ sau cuộc đổi đời năm 1975 ông chuyển sang viết nhạc phim và hòa âm, một chọn lựa khá phù hợp và là điều có thể hiểu được. Những sáng tác hiếm hoi của ông về sau này ít được phổ biến, và điều này cũng… có thể hiểu được.
Dòng suối nhạc của Y Vân biến đổi không ngừng, khi thì êm đềm hiền hòa, khi thì cuồn cuộn xối xả, như dòng chảy của cuộc sống đổi thay từng ngày, từng giờ. Sức sáng tác của Y Vân thật sung mãn và nguồn nhạc hứng trong con người nghệ sĩ ấy vẫn luôn dạt dào, như cuộc sống vẫn lao nhanh về phía trước. Bằng cây đàn muôn điệu và bằng những cung bậc kỳ diệu, ông đã tạo nên ở quanh ông một thế giới âm thanh thật phong phú và biến hóa đa dạng, đôi lúc khá bất ngờ và ngoạn mục như chàng nghệ sĩ đu bay giữa không trung tràn đầy tiếng nhạc, hay như những ngón tay mềm mại thoăn thoắt bay lượn trên những phím đàn.
Âm nhạc của Y Vân đến được với mọi người, mọi tầng lớp, mọi đối tượng. Dường như ai cũng tìm được ở nhạc Y Vân một bài nào mình yêu thích, ai cũng từng hát một đôi bài hay một đôi câu của Y Vân. Nói khác hơn, âm nhạc của Y Vân, bằng mọi ngả đường và bằng những cách riêng của ông, đã tới được và chạm được trái tim người yêu nhạc.
Anh muốn sống riêng trong một thế giới
xa loài người/ xa cuộc đời đầy đắng cay
Nơi đây anh là nghệ sĩ không tên
đem nhạc tình/ ghi tràn đầy cung điệu buồn
Những câu hát ấy ở trong bài “Thúy đã đi rồi”, Y Vân viết chung với Nguyễn Long, là bài nhạc chính trong cuốn phim cùng tên (đạo diễn Nguyễn Long thực hiện cuối năm 1961). Ước muốn được làm “nghệ sĩ không tên” của ông có vẻ không dễ thực hiện chút nào, vì ông đã trót là nhạc sĩ “có tên” tuổi với nhiều bài nhạc gắn liền tên ông; và hơn thế nữa, sau ngày ông lìa đời, ở trong nước, ngoài nước người ta vẫn cứ hát mãi nhạc của ông, vẫn cứ… Sài Gòn đẹp lắm! Sài Gòn ơi Sài Gòn ơi...
Nhiều người vẫn nói rằng vì Y Vân viết bài Twist “60 năm cuộc đời” nên ông cũng từ biệt cuộc đời này vào đúng năm… 60 tuổi, hoặc khi viết bài ấy ông đã tiên tri rằng ông sẽ lìa đời năm 60 tuổi. Đúng ra, ông mất năm 59 tuổi (1933-1992), người ta đã “rộng tay” tính theo… tuổi âm lịch để cho “lời tiên tri” của ông được ứng nghiệm. Gần một năm sau ngày ông mất, bà mẹ ông, người từng là nguồn nhạc hứng cho ông viết nên bài hát nổi tiếng “Lòng mẹ”, cũng lặng lẽ qua đời. (Tôi không nghe nói có ai đi tìm kiếm dấu vết bà mẹ ấy như đi tìm kiếm dấu vết những “Diễm xưa”, những “Hoàng Thị Ngọ”… là nguồn nhạc hứng cho những bài nhạc tình được người đời yêu thích).
Tôi thích một bài Twist khác của ông hơn, nghe vừa vui vui lại vừa buồn buồn.
Tình đời nhiều lúc mỉa mai
Cuộc đời nghìn đắng nghìn cay
Vui đó sầu đây/ Thôi thế là thôi!...
(20 - 40)
Bài hát nghe được với giọng Phương Tâm, cô ca sĩ một thời “chuyên trị” những bài “kích động nhạc” của Y Vân. Thôi thế thì thôi!.../ Thế thôi thì thôi!..., giọng nữ chính đã dứt tiếng, những giọng nam phụ họa vẫn còn lặp đi lặp lại, nhỏ dần, nhỏ dần…
Tôi nghĩ đến những niềm vui và nỗi buồn trong bài hát ấy, trong câu chuyện tình trái ngang, lỡ làng ấy, làm cho hai kẻ yêu nhau không đến với nhau được. Tôi cũng nghĩ đến những nụ cười và nước mắt trong những tấn tuồng vẫn diễn ra giữa cuộc đời vui đó sầu đây này. Tôi cũng nghĩ đến những phút cuối ông lặng lẽ từ biệt thế gian này để đi về một thế giới khác, không rõ trong đầu ông khi ấy có nghe vọng lên câu hát ông đã viết ra như một dấu chấm hết cho bài hát “dở khóc dở cười” ấy. Thôi thế thì thôi!.../ Thế thôi thì thôi!...
Y Vân, ông đã từng làm bao người cùng khóc cùng cười với ông. Ông đã ngợi ca tình yêu, ông đã mang những lứa đôi lại gần nhau hơn và yêu nhau hơn, vì chỉ sợ mất nhau, chỉ sợ không giữ được nhau. Ông đã ngợi ca cuộc sống, ông đã làm cho người người thương yêu cuộc đời hơn, dẫu cho đời sống có lúc không được như ý muốn và không phải là lúc nào cũng đẹp. Ông đã ngợi ca tình người, ông đã làm cho người người thương quý nhau hơn và tử tế với nhau hơn, như tình nghĩa vợ chồng, như tình thân bè bạn, như tình yêu chan chứa của những đứa con dành cho đấng sinh thành… Phía sau những dòng kẻ nhạc của ông người ta nhìn thấy được một trái tim giàu lòng nhân ái, ăm ắp tình người.
Y Vân, ông đã cố làm cho cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn, hay ít ra trông có vẻ tươi đẹp hơn. Dường như ông vẫn muốn tin rằng, dẫu có thế nào đi nữa thì mọi chuyện sau cùng vẫn đi đến một kết thúc tốt đẹp. Điều đó có xảy đến hay không, không ai biết chắc. Nói rằng ông có tài “tiên tri” để thấy trước là ông chỉ góp mặt góp tiếng với thế gian này có 60 năm thôi, tôi không tin lắm, thế nhưng tôi tin rằng ông đã thấy trước là - như ông đã viết ra trong bài “Đồi thông” - suốt một đời hoài công tìm kiếm trên bước đi thăng trầm, ông đã chẳng tìm thấy được gì ở cuối đường, ngoài nỗi… trống không.
Và tôi cũng tin rằng không phải là ngẫu nhiên ông viết nên những câu hát…
Người đi tiếc chi cho thêm buồn
tìm thư thái trong tâm hồn
thì đừng xây mơ trên cát vàng
(“Hoàng hôn trên bãi biển”)
Như những lâu đài bằng giấy, như những dấu chân trên cát sóng biển sẽ xóa nhòa, liệu còn có nghĩa gì, khi mà những phù hoa phù phiếm, những phấn son cuộc đời rồi… cũng theo hư không mà đi.
Liệu còn có nghĩa gì, khi mà ông đã phải chia tay với cuộc sống ông vẫn muốn làm cho tươi đẹp hơn, và khi mà những “muôn màu muôn vẻ” của cuộc sống ấy chung cuộc chỉ như những màu sắc lung linh, óng ánh của những bong bóng xà phòng, thật mỏng manh và tan biến trong thoáng chốc như là… ảo ảnh cuộc đời.
Tuấn Khanh, chiếc vĩ cầm không có tuổi “Không có tuổi nào cho người viết nhạc tình,
vì tình yêu làm gì có tuổi
và vì tuổi nào không là tuổi của tình yêu.”
Xuân vừa về trên bãi cỏ non
Nghe câu hát ấy của Phạm Duy, ta nghe mùa xuân về đâu đó quanh đây, về trên những thảm cỏ xanh mướt, về trên những bông hoa dại đủ sắc mầu dọc theo con đường chúng ta đi.
Mùa xuân như đến gần thêm chút nữa khi ta nghe câu hát của Tuấn Khanh.
Em ơi xuân đến bên thềm rồi
(“Mùa xuân đầu tiên”)
Mùa xuân đến thật gần. Mùa xuân đã đến bên thềm, mùa xuân đã đến bên em.
Nghe câu hát, tưởng chừng như nghe được cả tiếng bước rón rén của mùa xuân, nghe được cả tiếng gió lay động vạt áo dài lướt thướt của “nàng xuân” chạm vào những bậc thềm cửa, nghe được cả tiếng động nhè nhẹ trong câu lục bát Trần Dạ Từ, như là tiếng bước chân người tình khe khẽ đến bên hiên nhà.
“Anh nằm nghe bước em lên
Ngoài song lá động, trên thềm áo bay”
(“Khi nàng đến”)
Mùa xuân đến thật gần. Xuân của đất trời, xuân trong lòng người.
Nỗi buồn ướp men say Nghe những bài nhạc xuân quen thuộc của các nhạc sĩ quen tên, tôi nhận ra một điều, mỗi “nàng xuân” của mỗi chàng nhạc sĩ có vẻ đẹp riêng, những nét quyến rũ riêng.
Mùa xuân trong nhạc Tuấn Khanh là “xuân mộng”, là xuân dắt ta đi vào những giấc mộng êm đềm, đi vào những giấc mơ tràn đầy mùa xuân tình ái của lứa đôi.
Nghe tiếng xuân về tim rộn rã
cho ước mơ thành những vần thơ
(“Mộng đêm xuân”)
Mùa xuân trong nhạc Tuấn Khanh còn là mùa xuân tao ngộ, mùa xuân tương phùng sau những cách ngăn, chia lìa qua bao tháng năm dài biền biệt.
Hết rồi mùa chia ly/ cho tình xuân vừa ý
(“Mùa xuân đầu tiên”)
Mùa xuân trong nhạc Tuấn Khanh rất gần với mùa xuân của thi nhân. “Ai bảo em là giai nhân
cho lệ tràn đêm xuân cho tình tràn trước ngõ
cho mộng tràn gối chăn”
Những “lệ tràn đêm xuân” và những giấc mộng vàng, mộng đẹp ấy không chỉ có trong những câu thơ Lưu Trọng Lư thôi mà ta còn nghe được cả trong những câu hát của Tuấn Khanh nữa.
Mộng về một đêm xuân sang
em thì thầm ngày đó thương anh
Mộng tràn ngập đêm trăng sao
sao đầy trời từng chiếc lấp lánh
Những câu hát ấy ở trong bài “Chiếc lá cuối cùng”, một trong những ca khúc gắn liền với tên tuổi nhạc sĩ Tuấn Khanh, từng được nhiều ca sĩ trình bày nhất, được nhiều trung tâm băng, dĩa nhạc thu âm nhất và tất nhiên, được nhiều người yêu thích nhất.
Tại sao lại là “chiếc lá cuối cùng”? Không rõ là cái tựa của bài hát ấy và câu chuyện Chiếc lá cuối cùng của nhà văn Mỹ nổi tiếng O’Henry có mối liên hệ nào (?). Điểm tương đồng là cả bài hát lẫn câu chuyện đều buồn bã như nhau, và cả người họa sĩ trong câu chuyện ấy lẫn người nhạc sĩ trong bài hát ấy đều có những đêm thức trắng, những đêm dõi mắt trông chờ chiếc lá cuối cùng sẽ lặng lẽ lìa cành trong đêm lạnh vắng. Chiếc lá cuối cùng rụng xuống là thời khắc cô bé trong câu chuyện ấy sẽ phải từ biệt thế gian này để đi về một thế giới khác, cũng là thời khắc hai kẻ yêu nhau trong bài hát ấy sẽ phải nói lời chia tay.
Lá trên cành một chiếc cuối bay xa
Nghe “Chiếc lá cuối cùng”, ta nghe một nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn trăn trở của nửa đêm về sáng, của những đêm không ngủ.
“Chiếc lá cuối cùng” là chuyện tình trái ngang, là mối duyên không thành, là tìm quên trong men rượu, là tiếc nhớ những ngày vui đã xa như dĩ vãng.
Rồi một chiều xuân thơ trinh
cho lòng mình về với dĩ vãng
“Chiếc lá cuối cùng” là nỗi đau tê dại của trái tim rạn vỡ, là nỗi sầu chìm ngập trong men rượu, là nỗi-buồn-ướp-mensay.
Ít ai biết “Chiếc lá cuối cùng” đã không được Bộ Thông Tin thời ấy cấp giấy phép xuất bản vì lời nhạc nghe… buồn quá, cho đến khi tác giả phải thay đổi ít chữ cho bớt sầu thảm:
Đêm chia ly nghẹn ngào sao chẳng nói
Chỉ nghe tim nức nở trở về thôi đổi thành
Đêm chia ly buồn gì sao chẳng nói
Chỉ nghe em nói nhỏ trở về thôi
Mím môi cười mà nước mắt tuôn rơi đổi thành
Mím môi cười mà nhớ thương khôn nguôi
Mộng tàn tạ đêm trăng sao
Sao ngậm ngùi từng chiếc lấp lánh đổi thành
Mộng tràn ngập đêm trăng sao
Sao đầy trời từng chiếc lấp lánh
Đã có bao nhiêu ca sĩ từng hát “Chiếc lá cuối cùng” kể từ khi bài hát ra đời (1962), kể từ khi người ta nghe Thái Thanh hát lên lần đầu tiên, tác giả bài hát không sao nhớ hết, không sao kể ra hết được. Gần đây nhất, các ca sĩ trẻ ở trong nước cũng đã tìm đến bài hát ấy, cũng đã cất giọng Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng?... Bài hát có một đời sống thật là dài và vẫn luôn “mới”, luôn làm rung động những trái tim. Đã có bao nhiêu là giai thoại về những người yêu “Chiếc lá cuối cùng”, như một nhạc sĩ Tuấn Khanh… khác ở trong nước đã đặt tựa cho một sáng tác của mình là… “Chiếc lá đầu tiên”, hoặc như một người làm thơ đã cảm tác “Chiếc lá cuối cùng” để viết nên bài thơ dài đến hơn trăm câu, mỗi câu bắt đầu bằng một hoặc hai chữ của trọn bài hát ấy. “… Mộng về dưới bóng hoàng lan
một đêm trăng ngọt hương tràn môi xinh
xuân sang thắm lối ân tình
em duyên như nụ hoa quỳnh, trao nhau
thì thầm tiếng nhớ ngàn sau…”
Đã có bao nhiêu người tìm gặp được mình, tìm gặp những nỗi niềm “trắng đêm tâm sự” của mình trong bài hát ấy. Bài hát, có phải vì lẽ ấy, đã ở lại về lâu về dài trong lòng người?
Một đàn chim cánh nhỏ chở mùa sang
Ít thấy ai sử dụng chữ “chở” tuyệt vời đến như thế!
Trong những câu hát của Tuấn Khanh ta vẫn nhặt ra được những câu thơ đẹp như thế, những chữ và nghĩa hay đến như thế, như là những chữ “vội vã”, “len lén”, “quấn quýt”, “lẻ loi”…
Sao khi chia ly/ hôn em một lần vội vã…
Đêm đêm heo may len lén vào hồn tìm nhau
Giờ thì đôi tay đan tay quấn quýt
cho đêm không mơ/ cơn mơ lẻ loi
Những câu hát ấy - hay những câu thơ ấy - ở trong bài “Nỗi niềm” của nhạc sĩ Tuấn Khanh.
Từng ngày trôi qua tim em héo úa...
“Nỗi niềm” là nỗi buồn héo hắt đến rã rượi.
Những lời tình ta nghe được trong bài hát ấy như là tiếng thở dài não nuột của một người yêu. Nói “như là” vì lẽ, những lời ấy là “nỗi niềm” tâm sự của người vợ hiền, là nỗi lòng cô phụ của những đêm dài trằn trọc, những đêm vò v một mình một bóng, sau phút chia tay vội vã tiễn chồng và các con lên đường… vượt biên.
Nên em cô đơn những đêm về sáng
Anh ơi, đêm nay em nghe trống vắng buồn tênh
Nghe “Nỗi niềm” mà nghe lòng chùng xuống, mà nghe tim thắt lại.
“Nỗi niềm”, nhạc sĩ Tuấn Khanh cho biết, là “Hoa soan bên thềm cũ” nối dài. Những lời thơ ý nhạc gửi gấm trong hai ca khúc ấy đều như lời hẹn ước gửi đến người bạn đời đầu gối tay ấp của ông.
Em nhé, mình thương nhau muôn đời
(“Hoa soan bên thềm cũ”)
Xin cho đêm đêm tình đầy mộng say
(“Nỗi niềm”)
“Nỗi niềm”, trong một nghĩa nào đó, cũng là “Chiếc lá cuối cùng” nối dài. Cũng là nỗi buồn trăn trở của nửa đêm về sáng, của những đêm không ngủ, cũng là giai điệu chầm chậm, buồn bã đến rã rời ấy. Có khác chăng, nỗi cách chia người yêu đổi thành nỗi chia lìa chồng vợ. “Những chiều buồn mây tím xây thành”
Dường như trong mỗi nhạc sĩ của chúng ta đều có ít nhiều một chàng thi sĩ. Nhờ vậy, chúng ta mới có được những câu hát thật là thơ, thật là đẹp.
Tôi vào vườn xưa
gặp em tóc buông vai gầy
thẹn thùng nhìn tôi ngỡ trong giấc mơ
Nghe những câu hát như thế, ta nghe được cả những ý thơ quyện trong nét nhạc.
Câu hát ấy ở trong bài nhạc có một mầu tím vấn vương của Tuấn Khanh, “Dưới giàn hoa cũ”, được ông sáng tác cách đây đúng năm mươi năm. Nghe lại bài hát ấy, sau nửa thế kỷ, sau bao vật đổi sao dời, vẫn nghe lòng lâng lâng như ngỡ trong giấc mơ, vẫn nghe một nỗi xao xuyến, bâng khuâng như “thuở ban đầu” của bài hát, như mối tình đầu thường khó phai.
Nỗi xao xuyến, bâng khuâng ấy bàng bạc trong các bài hát, trong từng lời ca ý nhạc của Tuấn Khanh.
Một hôm bước lần theo lối cũ tôi về
thầm mơ giàn hoa tím xưa chưa phai
Bài hát như là mẩu tự truyện của người nghệ sĩ ấy. Dường như mỗi bài nhạc của ông là mỗi câu chuyện kể, là câu chuyện thật; nói đúng hơn, là câu chuyện tình.
Lòng tôi vẫn còn ghi mãi phút êm đềm
thềm hoa chia tay lúc trăng đang lên
Hẹn tôi “Đến một mùa se thắm duyên lành
ngắt bông hoa tím trên cành trao anh”
Câu chuyện tình có một mầu tím vấn vương ấy cũng dẫn đến một kết thúc “êm đềm”.
Chiều nay dưới giàn hoa thơm ngát êm đềm
vầng trăng thu soi mắt em long lanh
Nếu ở Hoàng Trọng là Trời buồn đem mây tím về chơi vơi (“Tôi vẫn yêu hoa màu tím”), ở Nguyễn Hiền là Nhớ nhau khi mây vương vương màu tím (“Ngàn năm mây bay”) thì ở Tuấn Khanh là…
Hỏi tôi, “Những chiều buồn mây tím xây thành,
có thương hoa thắm mong chờ không anh?”
Cũng là màu mây tím, cũng là một màu tím vời vợi, cũng là những nét nhạc lâng lâng, êm êm nhưng là những dòng nhạc không lẫn vào nhau được. Nét nhạc Hoàng Trọng nghe man mác như ngọn gió heo may lay động mặt nước hồ thu, nét nhạc Nguyễn Hiền nghe mênh mang, đẹp và buồn như bức tranh thủy mạc, trong lúc nét nhạc Tuấn Khanh nghe xao xuyến, bâng khuâng, nghe có chút e ấp, ngại ngùng như nụ hoa vừa hé, như đôi môi xinh của người em nhỏ bé mộng mơ (“Mùa xuân đầu tiên”).
“E ấp, ngại ngùng” nên chàng trai chỉ thầm mơ giàn hoa tím xưa chưa phai, cô gái chỉ thầm hỏi Có thương hoa thắm mong chờ không anh? Trong những câu hát của Tuấn Khanh, ta vẫn nghe được những lời tỏ tình thầm kín, những tỏ bày nhiều ẩn ý và chan chứa những tình ý yêu đương như thế.
Chàng nhạc sĩ ấy không nói “Có thương người em nhỏ đợi chờ?” như ta vẫn thường nghe, thường gặp, mà nói… Có thương hoa thắm mong chờ không anh?
Chàng nhạc sĩ ấy cũng không nói “tình yêu nhạt phai”, hay “hương sắc phai tàn”, hay “trọn niềm thủy chung” mà nói… giàn hoa tím xưa chưa phai.
Tình yêu ấy thật nhẹ nhàng, thật tha thiết và đẹp như những cánh hoa mầu tím mỏng manh lay động trong nắng sớm, trong gió chiều. Mầu hoa tím bâng khuâng, mầu của nhớ nhung và chia cách.
Hoa nào đợi chờ không phai sắc hương
Ngày tàn không gieo nhớ thương
Dặm trường không gây vấn vương
Mầu tím, mầu của định mệnh. Bài hát ấy đã như một định mệnh.
Đời tôi đã nhiều lần vui bước phong trần
gió lùa xao xuyến tim đơn chiếc thân
Câu hát ấy,” nhạc sĩ Tuấn Khanh nói, “đã ‘ứng nghiệm’ vào đời tôi.” Chàng nghệ sĩ ấy, con người lãng tử ấy đã sống kiếp nổi trôi lang bạt kỳ hồ, kể từ ngày đơn thân độc mã khoác cây đàn lên vai, một mình vượt tuyến vào Nam năm 22 tuổi, hành trang chỉ vài bộ quần áo, vài tập sách nhạc và… chiếc đàn vĩ cầm không lúc nào rời chàng (và rồi gần ba mươi năm sau lại phải bôn ba… “vượt tuyến” thêm lần nữa để đặt chân lên được bến bờ tự do).
Một giai thoại “dở khóc dở cười” về chiếc vĩ cầm được nhạc sĩ Tuấn Khanh kể lại: Sau cuộc “đổi đời” năm 1975, ông phải chơi đàn “chui” cho các ban nhạc để “cải thiện kinh tế gia đình”. Trong một lần bị bố ráp bất ngờ, ông chỉ kịp nhanh chân “bỏ của chạy lấy người”. Cuộc bố ráp thắng lợi vẻ vang, “chiến lợi phẩm” tịch thu được là cây đàn vĩ cầm của người nhạc sĩ “chế độ cũ” bỏ lại. Người thoát, nhưng “người bạn đường thân thiết” là chiếc vĩ cầm bị bắt giữ khiến ông vừa xót thương vừa phải điêu đứng một thời gian vì bị tước đi phương tiện kiếm sống. “Hoa soan bên thềm cũ”, ra đời ít năm trước “Dưới giàn hoa cũ”, cũng là câu chuyện kể, là câu chuyện tình mùa ly loạn mà giới yêu nhạc cuối thập niên 1950’s, đầu thập niên 1960’s hầu như không ai là không biết đến. Như bao lớp trai theo nhau lên đường, chàng trai phải giã biệt làng quê, giã biệt tình đầu, vì tình nước sâu hơn tình lứa đôi. Người đi nói với người ở lại những lời nhắn nhủ, vỗ về thiết tha, ân cần.
Đừng buồn khi xa nhau em nhé!
Thăm em đôi ngày rồi anh đi
Người lính chiến dừng chân phút giây thôi, rồi lại lên đường, lại miệt mài đi khi quê hương còn tiếng súng, khi non nước chưa yên bình. Chuyện tình mùa chinh chiến mang nhiều nỗi vấn vương “như hương hoa soan dâng bên thềm” trong những buổi chiều vàng. Người lính chiến luôn giữ chắc tay súng, không chỉ “giữ gìn biên cương xa vời” mà còn giữ gìn cho tình yêu bền chặt, không nhạt phai theo tháng năm.
Một chi tiết khá thú vị, trong lần ấn hành đầu tiên (nxb An Phú, 1956), một câu hát trong bản nhạc “Hoa soan bên thềm cũ” được in nhầm là Như hương hoa soan vang bên thềm. Một số ca sĩ hát theo như thế (và nhiều ca sĩ đến nay vẫn hát như thế). Một số ca sĩ nhận ra chỗ sai ấy (“hương hoa” thì không thể… “vang” được), bèn đổi chữ “vang” ra “vàng” (vẫn cứ… sai, “hương hoa” thì không thể… xanh đỏ tím vàng được). Một số ca sĩ khác đổi lại là Như hương hoa soan vương bên thềm, nghe được hơn, nhưng vẫn cứ… sai. Câu hát đúng, theo tác giả bài hát, là Như hương hoa soan dâng bên thềm.
Chữ “vương” đã hay, chữ “dâng” lại hay hơn. Thật khó mà nghĩ ra, tìm ra được chữ nào hay hơn thế!
“Người kể chuyện mình”, có thể gọi nhạc sĩ Tuấn Khanh bằng cái tên ấy, qua những bài nhạc gắn liền với tên tuổi ông. Từ “Hoa soan bên thềm cũ” đến “Dưới giàn hoa cũ”, đến “Chiếc lá cuối cùng”, đến “Quán nửa khuya”…, đến cả những bài gần đây như “Nỗi niềm”, “Nhạt nhòa”… Có khi chỉ nghe qua cái tựa của bài nhạc thôi, như “Hai kỷ niệm, một chuyến đi”, “Đêm này nghỉ đỡ chân”… người ta cũng hiểu được đấy là những câu chuyện buồn, vui được ông kể lại bằng lời ca tiếng nhạc.
Những câu chuyện kể trong nhạc Tuấn Khanh thường là “chuyện hai người”, thường là những lời tình thật tha thiết, thật dịu dàng “hai người” nói với nhau.
Em nhé, mình thương nhau muôn đời
Anh giữ gìn biên cương xa vời
(“Hoa soan bên thềm cũ”)
Nhìn nhau khẽ nói câu,
“Thời gian trôi qua mau/ không phai lạt đâu”
(“Một chiều đông”)
Tuấn Khanh, ông đã phơi trải lòng mình qua những dòng kẻ nhạc, đã dẫn dắt người nghe đi vào những câu chuyện lòng qua những giai điệu đằm thắm, ngọt ngào.
Ngồi bên lửa bếp gia đình êm ấm
lặng nghe anh kể cuộc đời buồn vui
(“Chiều biên khu”)
Câu hát ấy rất gần với câu hát của Phạm Duy, một “người kể chuyện mình” khác, kể về những buồn vui đời lính bên bếp lửa hồng trong ngày trở về của người chiến binh.
Ngày trở về/ trong bếp vui
anh nói chuyện nghe/ chuyện đời chiến sĩ
sống say mê/ đường xa lắm khi nương hồn về quê
(“Ngày trở về”, Phạm Duy)
Nghe nhạc Tuấn Khanh, người ta như nghe được những tâm tình, những nỗi niềm từ những rung cảm của trái tim ông. Chính từ những rung cảm của trái tim, chính từ những rung cảm chân thực ấy, những ca khúc của ông đã chạm được tới trái tim người nghe.
“Giờ thì đôi tay đan tay quấn quýt…”
Những người yêu nét đẹp trong nhạc tiền chiến cũng sẽ dễ dàng yêu thích những khúc “nhạc tình muôn thuở” của Tuấn Khanh như là “dòng nhạc tiền chiến nối dài”. Không ngạc nhiên khi tác giả “Hoa soan bên thềm cũ” đã có cuộc hội ngộ kỳ thú với một trong những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc “lãng mạn tiền chiến”, nhạc sĩ Tô Vũ. Cuộc hội ngộ ấy đến từ mối duyên tri ngộ giữa hai tâm hồn đồng điệu.
Sao gọi là “đồng điệu”? Hai chàng nghệ sĩ cùng chia sẻ mối đồng cảm về tính thẩm mỹ trong âm nhạc và nghệ thuật. Hai chàng nghệ sĩ đều là những “người kể chuyện mình” bằng những giai điệu lâng lâng như ướp chút men say của tình yêu và bằng những lời nhạc đẹp tựa lời thơ.
Ở Tô Vũ là:
Ta đi tìm thơ muôn phương
(“Tạ từ”, Tô Vũ)
Ở Tuấn Khanh là:
Chiều nay buồn tôi đi tìm ý
(“Mộng đêm xuân”)
Ở Tô Vũ là kỷ niệm êm đềm về một đôi mắt, một tà áo.
Em đến thăm anh người em gái
tà áo hương nồng/ mắt huyền trìu mến sưởi ấm lòng anh
(“Em đến thăm anh một chiều mưa”, Tô Vũ)
Ở Tuấn Khanh cũng có một đôi mắt như thế…
Vầng trăng thu soi mắt em long lanh
(“Dưới giàn hoa cũ”)
Tại mình còn yêu
tại mình còn thương đôi mắt lạ thường
(“Nhạt nhòa”)
Và một tà áo như thế.
Anh nhìn em bồi hồi trông theo tà áo
(“Từ đó khôn nguôi”)
Ở Tô Vũ cũng có một người “bồi hồi” đứng nhìn theo như thế.
Lòng bồi hồi nhìn theo chân em chìm trong ngàn xanh
(“Em đến thăm anh một chiều mưa”, Tô Vũ)
Trong câu hát của Tuấn Khanh có tiếng chuông chiều ngân nga.
Có một lần tôi về qua nơi đó
Tiếng chuông chùa ngân báo tin đêm về
(“Đêm này nghỉ đỡ chân”)
Trong câu hát của Tô Vũ cũng có tiếng chuông chiều ngân nga như thế.
Lá thu nhẹ rơi rơi
Hồn ta chìm đắm tiếng chuông xa vời
(“Tiếng chuông chiều thu”, Tô Vũ) Tô Vũ và Tuấn Khanh, hai tâm hồn đồng điệu (Tư thất nhạc sĩ Tô Vũ - Saigon, 2008) Chưa hết, trong câu hát của Tuấn Khanh có chữ “dâng” thật là đẹp. Nay qua đau thương yên bình rồi/ tình ta lên hương ngát
như hương hoa soan dâng bên thềm
nhẹ nhàng nhưng ngất say
(“Hoa soan bên thềm cũ”)
Trong câu hát của Tô Vũ cũng có chữ “dâng” thật là đẹp.
Rồi đây khi mùa dứt chiến chinh
gió dâng khúc đàn thanh bình
(“Tạ từ”, Tô Vũ)
Nghe nhạc Tuấn Khanh, ta nghe những thoáng rung động nhẹ nhàng, những xao xuyến, bâng khuâng về một câu chuyện kể, về một bóng hình nào đã đi qua đời mình, để lại những dấu ấn khó phai.
Nghe nhạc Tuấn Khanh là lần theo những lối mòn kỷ niệm, là tìm về những phút giây êm đềm, có khi là cuộc hạnh ngộ kỳ thú, có khi chỉ là cuộc gặp gỡ tình cờ trong một chuyến đi, một đêm này nghỉ đỡ chân. Cơm sắn canh rau/ bên hàng cau xanh ba mái đầu
Mẹ thầm nói câu/ “Chiều nay có con ta thấy vui
Ngày mai đơn người quá”
(“Đêm này nghỉ đỡ chân”)
Nghe nhạc Tuấn Khanh, ta gặp lại những mùa thu “mây tím xây thành”, những buổi chiều vàng khi nắng nhẹ vương trên lưng đồi, và cả những lời hẹn thề dưới bầu trời lấp lánh sao đêm.
Rồi mai anh đưa em
về nơi vui ấm êm/ trăng soi đầy thềm
Nhìn nhau khẽ nói câu
“Thời gian trôi qua mau/ không phai lạt đâu”
(“Một chiều đông”)
Nghe nhạc Tuấn Khanh, ta được nghe lại những nét nhạc lâng lâng “tiền chiến”, những mối tình như gió thoảng, những nhớ nhung và mộng mơ, những khung trời đầy trăng và sao.
Chiều nay dưới giàn hoa thơm ngát êm đềm
vầng trăng thu soi mắt em long lanh
(“Dưới giàn hoa cũ”)
Nghe nhạc Tuấn Khanh, ta còn nghe thấy những cuộc chia tay buồn bã, ngậm ngùi, nghe thấy những hối tiếc vì những lời yêu chưa kịp nói hay chưa nói hết, và không làm sao trút cho cạn, dốc cho vơi những nỗi niềm.
Lúc gặp em lòng định nói rồi lại thôi
(“Từ đó khôn nguôi”)
Sao khi chia ly/ hôn em một lần vội vã
Đêm em xa anh/ em chưa kịp nói
(“Nỗi niềm”)
Đêm chia ly nghẹn ngào sao chẳng nói
chỉ nghe tim nức nở trở về thôi
(“Chiếc lá cuối cùng”)
Những cuộc chia tay nhạt nhòa nước mắt. Những giọt lệ long lanh như là từng hạt sương khuya hoen đôi mắt biếc, và lặng thầm như những giọt sương đêm chảy ràn rụa trên những ô kính ngoài khung cửa sổ. Đôi môi run run/ lệ tuôn khóe mắt
Ngỡ đã xa nhau nên khóc một lần từ giã
(“Nỗi niềm”)
Từ biệt người yêu muốn nói thật nhiều
muốn khóc một chiều/ sao cứ ngại ngùng
Lệ bỗng rưng rưng
Tình nỡ quay lưng trong chiều hấp hối
(“Nhạt nhòa”)
Thật may một điều là, những câu chuyện tình của ông sau cùng vẫn có một kết thúc tròn đầy, vẫn có những phút giây trùng phùng như người lính trở về sau chiến tranh, để tay trong tay đi xây lại chuyện tình và nối lại những giấc mộng đêm xuân.
Nay qua đau thương yên bình rồi/ tình ta lên hương ngát
(“Hoa soan bên thềm cũ”)
Ngày nào trăng khuyết/ nay lại tròn tươi nét môi
Ai ngờ chiều nay chúng mình đẹp đôi
(“Chúng mình đẹp đôi”)
Giờ thì đôi tay đan tay quấn quýt
Xin cho đêm đêm tình đầy mộng say
(“Nỗi niềm”)
Chiếc vĩ cầm không có tuổi
“Những bài nào được anh yêu thích nhất trong số các nhạc phẩm của Tuấn Khanh?” tôi nhớ đã hỏi ông câu ấy. Thường thì với câu hỏi như thế, ít có nhạc sĩ nào trả lời thẳng mà chỉ nói xuôi theo… ý thích của số đông người yêu nhạc mình. Tuấn Khanh thì khác, sau ít giây nghĩ ngợi, ông nhắc đến hai bài “Mộng đêm xuân” và “Một chiều đông”, và nói ông yêu nét lãng mạn, thi vị trong những bài ấy. “‘Hoa soan bên thềm cũ’ và ‘Chiếc lá cuối cùng’,” ông nói, “là hai bài hát của kỷ niệm”. “Kỷ niệm khó quên?” tôi hỏi. Ông lắc đầu, “Không phải ‘khó quên’, mà… chẳng bao giờ quên được.”
Quay sang tôi, ông hỏi tôi… thích bài nào của Tuấn Khanh. “Dưới giàn hoa cũ,” tôi nói, không chút do dự. Ông hỏi vì sao, tôi trả lời, “ ài nhạc ấy nghe… ‘Tuấn Khanh’ hơn cả.” Những câu hát đẹp như thơ ấy, những nét nhạc thật nhẹ nhàng, thật êm đềm ấy đã gieo vào lòng tôi những tình cảm thật xao xuyến, thật bâng khuâng. Hơn thế nữa, câu chuyện trong bài hát ấy có một kết thúc thật đẹp, thật happy ending, nghĩa là rất… “Tuấn Khanh”. Một lý do khác có chút riêng tư (tôi đã không nói với ông), người tôi yêu ngày xưa đã… yêu bài hát ấy, yêu câu hát ấy, Những chiều buồn mây tím xây thành/ có thương hoa thắm mong chờ không anh?… “Dưới giàn hoa cũ”, bài hát đã đưa tôi lại gần với dòng nhạc Tuấn Khanh. Nét nhạc lâng lâng nghe xao xuyến, bâng khuâng ấy chỉ có ở Tuấn Khanh, không lẫn vào đâu được. (Tôi nhớ, lần đầu nghe “Nỗi niềm” qua giọng Ngọc Minh, người bạn hỏi, “Nghe được chứ?” Tôi nói, “Rằng hay thì có hay, nhưng mà nghe có vẻ…‘Tuấn Khanh’ quá!” “Thì Tuấn Khanh chứ còn ai vào đấy nữa!” người bạn nói. Tôi có hơi bất ngờ, vì không nghĩ… ông vẫn còn viết nhạc; hơn thế nữa, vẫn còn viết được những khúc nhạc tình rung cảm đến vậy).
Tôi cũng yêu “Đêm này nghỉ đỡ chân”, yêu chút hạnh phúc đơn sơ trong bài tango hiếm hoi ấy của ông. Ai cũng từng có một đêm nào nghỉ đỡ chân như thế, từng có những thoáng hạnh phúc thật đơn sơ như thế, từng có chút vấn vương như thế về một bóng hình nào đó đã tạt ngang qua đời mình.
Nói như thế cũng để thấy rằng, mỗi người có thể yêu thích những bài nhạc khác nhau của Tuấn Khanh, mỗi người đều tìm thấy một bài nào mình yêu thích, hay giữ trong lòng mình kỷ niệm nào về một bài hát nào của Tuấn Khanh.
Trong số những sáng tác của Tuấn Khanh, có ít bài ông viết chung với những người bạn nhạc sĩ khác, như “Đò ngang” viết chung với Y Vân; “Quán nửa khuya”, “Hai kỷ niệm, một chuyến đi”, “Những ngày xa cách” viết chung với Hoài Linh; “Chiều biên khu”, “Ngày nào con trở về” viết lời chung với Châu Ngân... Không chỉ nhạc tình, cả đến những bài “nhạc lính” của ông như “Chiều biên khu”, như “Quán nửa khuya”… cũng từng được yêu chuộng, từng phổ biến một thời. Nghe “Ngày nào con trở về”, nghe nhạc điệu réo rắt, thiết tha, nghe nỗi niềm thương nhớ đến xót xa ấy, người lính nào mà không khỏi chạnh lòng, mà không muốn được tìm về bên chiếc nôi êm của người mẹ hiền đang ngày đêm mỏi mắt trông chờ đứa con xa nhà.
Ngày nào con trở về con ơi, con ơi
Mẹ ngồi đếm từng hạt mưa rơi
Mẹ thầm nhớ ngày nào ôm con
Mẹ bồng con gọn vào trong tay nâng niu
Mẹ già vẫn đợi chờ héo mòn tháng ngày
Như các bài nhạc làm nên tên tuổi một nhạc sĩ, một ca sĩ, mỗi bài nhạc của Tuấn Khanh cũng phù hợp hoặc gắn liền với giọng hát nào đó. “Hoa soan bên thềm cũ” nghe được vào “thuở ban đầu” qua hai tiếng hát quấn quýt nhau Thái Thanh và Thái Hằng của Ban hợp ca Thăng Long. Tiếp đến là tiếng hát Anh Ngọc, để từ đó trở nên một trong những ca khúc phổ biến nhất, được yêu cầu nhiều nhất trên các làn sóng đài phát thanh, các chương trình đại nhạc hội, các phòng trà ca nhạc một thời nào. “Chiếc lá cuối cùng” được giọng hát… đầu tiên là Thái Thanh gửi đến người yêu nhạc (về sau này giọng nam Sĩ Phú và giọng nữ Lệ Thu vẫn được xem là hai giọng hát gắn liền với bài hát ấy”). “Một chiều đông” được yêu thích qua những giọng Sĩ Phú, Duy Trác, Mai Hương. “Dưới giàn hoa cũ” với Thái Thanh, Lệ Thanh.
“Mộng đêm xuân” với Thái Thanh, Duy Trác, Sĩ Phú, Duy Khánh. “Quán nửa khuya” với Thanh Thúy, Duy Khánh. “Chiều biên khu” với Thái Thanh, Lệ Thanh, Nhật Trường, Elvis Phương. “Đồi sim” với Thái Thanh, Lệ Thanh, Thanh Lan. “Những lời ru cuối” với Thái Thanh, Hoàng Oanh, Quỳnh Giao. “Từ đó khôn nguôi” với Hà Thanh, Quỳnh Giao. “Đêm này nghỉ đỡ chân” với Lệ Thanh. “Gọi buồn” với Sĩ Phú. “Chúng mình đẹp đôi” với Nhật Trường…
Có thể nói được rằng không có ca sĩ tên tuổi nào của miền Nam ngày trước mà không từng hát bài nào đó của Tuấn Khanh.
Tất nhiên, ca sĩ đầu tiên thể hiện mọi ca khúc của Tuấn Khanh vẫn là… Trần Ngọc (tên gọi tắt của Trần Trọng Ngọc, tên thật của ông). Ít ai biết tác giả “Hoa soan bên thềm cũ” từng chiếm giải “thủ khoa” trong cuộc thi “tuyển lựa ca sĩ” của đài phát thanh Hà Nội năm 1953. “Thí sinh” Trần Ngọc, 21 tuổi vào thuở ấy, hát bài “Đôi chim giang hồ” của Ngọc Bích, và “thí sinh” Thanh Hằng, người đoạt giải nhì, hát bài “Đêm xuân” của Phạm Duy. (“Thí sinh” đoạt giải nhất trong cuộc thi tổ chức năm sau, 1954, là Duy Trác). Cánh “chim giang hồ” Trần Ngọc đã bay một vòng bay quá dài trước khi quay về lại chốn cũ (Hà Nội, 2007) để có cuộc hội ngộ kỳ thú và dạt dào cảm xúc với “cố nhân” Thanh Hằng và cùng ngồi ôn lại chuyện xưa, sau khi chiếc bánh xe nặng nề của thời gian đã lăn đi một vòng hơn năm mươi năm.
Những người yêu nhạc cuối thập niên 1950’s và thập niên 1960’s hẳn còn nhớ tới ba viên “Ngọc” quý của làng ca nhạc thuở ấy là Anh Ngọc, Ngọc Long và Trần Ngọc, trong đó giọng hát trầm ấm của Trần Ngọc (trong các ban nhạc tên tuổi của đài phát thanh Saigon và Quân Đội) từng cất lên các bài hát quen thuộc như “Trở về thôn cũ” (Nhị Hà), “Cánh hoa duyên kiếp” (Đoàn Chuẩn), “Mơ hoa” (Hoàng Giác), “Người về” (Phạm Duy)… Chương trình “Nhạc chủ đề” về tiếng hát Trần Ngọc của đài phát thanh Saigon do nhà văn Đào Trường Phúc thực hiện vào giữa năm 1970 đã đánh dấu ngày tiếng hát ấy lặng lẽ rời bỏ sự nghiệp ca hát của mình. Gần đây, rất tình cờ tôi được nghe lại giọng hát “vang bóng một thời” ấy qua các bài “Nhạt nhòa” và “Nợ nhau một chút giận hờn” (những sáng tác của Tuấn Khanh về sau này). Giọng hát “ngẫu hứng” nhưng vẫn nghe nhiều rung cảm, vẫn nghe phảng phất chút dư âm của một mùa kỷ niệm.
Cũng ít ai biết, sáng tác đầu tay của Tuấn Khanh là một bài phổ thơ T.T.KH, “Hai sắc hoa Ti-gôn”, cho thấy ở nơi ông, nơi chàng trai 16 tuổi ngày ấy, một tâm hồn yêu thi ca. Có thể kể ra được những bài phổ thơ của ông được yêu chuộng về sau này như “Tôi mở vòng tay” (thơ Tuệ Mai), “Những lời ru cuối” (thơ Nguyễn Đình Toàn)…, và gần đây nhất, “Chọn màu áo” (thơ Nhất Tuấn), “Chiều thứ Bảy xa rồi” (thơ Hồng Vũ Lan Nhi), “Nợ nhau một chút giận hờn” (thơ Phạm Quang Vịnh).
Cũng ít ai biết, ông từng viết lời cho nhạc phim. “Lá thu” (nhạc Đức Hưng, lời Tuấn Khanh), sau đổi tên thành “Mưa lạnh hoàng hôn”, là bài nhạc chính trong phim ưa Lạnh Hoàng Hôn (1961) của đạo diễn Nguyễn Long (vừa là diễn viên chính, diễn chung với Mai Ly). Bài hát được ca sĩ Mai Trường trình bày lần đầu và khá phổ biến với giọng hát Duy Trác về sau này.
Cũng ít ai ngờ, chỉ một năm sau ngày đến Mỹ (1983), nhạc sĩ Tuấn Khanh đã đặt lời cho hơn một trăm bài thánh ca. Chưa hết, vào đúng năm 70 tuổi (2003), cũng chỉ trong vòng một năm thôi ông đã phổ nhạc đến hơn năm mươi bài thiền ca (được phổ biến qua các CD album “nhạc thiền” với những tiếng hát Hà Thanh, Quỳnh Giao, Ngọc Minh, Như Mai, Vân Quỳnh, Thái Hiền, Duy Quang, Anh Dũng…). Điều gì khiến nguồn nhạc hứng trong ông, vào buổi hoàng hôn của đời người, đã chảy xuôi về dòng nhạc tâm linh? Điều gì khiến nguồn nhạc hứng trong ông đến nay vẫn còn dạt dào, còn sung mãn đến mức ấy? Tất cả như nhuốm một vẻ gì huyền nhiệm khiến ngay đến chính ông cũng khó mà giải thích được.
Có lẽ vẫn còn quá sớm để nói được bài nhạc nào là bài… cuối cùng của Tuấn Khanh. Người ta khó mà biết được, hay chỉ biết được rằng, đấy là bài nhạc mà ông… chưa hề viết ra.
Trước năm 1975, chúng ta có “Hoa soan bên thềm cũ”, có “Chiếc lá cuối cùng”, có “Dưới giàn hoa cũ”, có “Mộng đêm xuân”, có “Một chiều đông”… của Tuấn Khanh. Sau năm 1975, chúng ta có “Nỗi niềm”, có “Nhạt nhòa”, có “Từ đó khôn nguôi”, có “Tháng Chín dòng sông”, có “Nợ nhau một chút giận hờn”… Nguồn nhạc hứng trong tim chàng nghệ sĩ ấy vẫn chưa có lúc nào vơi cạn. Trái tim chàng nghệ sĩ ấy vẫn chưa có lúc nào “già”, và vẫn như những phím đàn nhạy cảm, chỉ cần chạm nhẹ đến là đã rung lên những nốt nhạc thảng thốt. Có như thế hôm nay chúng ta mới được nghe những “Nỗi niềm”, những “Nhạt nhòa”…, và mới nghe lòng rung động vì những khúc nhạc êm đềm, ngọt ngào như thanh âm tiếng vĩ cầm réo rắt của người nhạc sĩ ấy. Không có tuổi nào cho người viết nhạc tình, vì tình yêu làm gì có tuổi, và vì tuổi nào không là tuổi của tình yêu.
“Chiếc vĩ cầm không có tuổi”, Tuấn Khanh, tôi muốn được gọi ông như thế. Chiếc vĩ cầm, nhạc cụ được ông yêu quý nhất, đã dẫn ông bước vào thế giới kỳ diệu và mê hoặc của âm thanh, đã dẫn ông bước vào cuộc hành trình âm nhạc dài đến hơn sáu mươi năm, kể từ bài học đầu tiên về nhạc thuật ông học được từ người anh cả ở Hà Nội.
Chiều nay buồn tôi đi tìm ý, người nhạc sĩ ấy đến nay vẫn còn lững thững bước chân trên những lối đi quen để tìm kiếm những giấc mộng đêm xuân.
Tuấn Khanh, ông đã viết nên những khúc nhạc tình ấy bằng những rung cảm thực sự của trái tim mình. Không yêu, không từng trải qua những hạnh phúc và khổ đau vì tình yêu thì không thể nào viết được những khúc nhạc, những câu hát cảm xúc tràn bờ đến như thế.
Hạnh phúc trong nhạc Tuấn Khanh thật đơn sơ và êm đềm như một giấc mơ thanh bình, có trăng soi đầy thềm, có giàn hoa tím xưa chưa phai.
Tình yêu trong nhạc Tuấn Khanh thật dịu êm và phảng phất tựa hồ như hương hoa soan dâng bên thềm/ nhẹ nhàng nhưng ngất say.
Xao xuyến và bâng khuâng, dịu dàng mà tha thiết, nhẹ nhàng và lâng lâng như nhắp chút men say của tình yêu, như gối đầu lên những giấc mơ yên bình. Nét nhạc Tuấn Khanh là thế, tâm hồn Tuấn Khanh là vậy. Con người nghệ sĩ tài hoa ấy vẫn còn dạo lên những khúc nhạc êm đềm bằng thanh âm réo rắt, du dương từ chiếc vĩ cầm yêu quý của chàng để đem nhạc tình ghi tràn đầy cung điệu buồn. (*)
Chú thích:
(*) Thúy đã đi rồi, nhạc Y Vân và Nguyễn Long
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông
Anh như ngàn gió
ham ngược xuôi theo đường mây
(“Mấy dặm sơn khê”, Nguyễn Văn Ðông) Hôm ấy, tôi còn nhớ, một chiều hè năm 1969, chúng tôi ngồi ở một quán nước quen dọc bờ biển Nha Trang. Bên cạnh tôi là H., người bạn học cũ. Ðã lâu lắm chúng tôi mới gặp lại nhau kể từ ngày rời xa mái trường cũ ở một thị trấn miền cao nguyên đất đỏ. H. cho biết anh sắp sửa nhập ngũ, thì giờ rảnh rỗi như thế này sẽ chẳng còn được bao lâu nữa. Anh có người yêu ở thành phố biển này. Tôi thì vẫn lang thang trên sân trường đại học, tấm giấy chứng chỉ hoãn dịch trong tay vẫn còn hiệu lực.
Trên mặt bàn là những chai bia đã cạn và câu chuyện cũng đến lúc cạn đề tài. Chúng tôi ngồi im lặng, cùng phóng tầm mắt nhìn ra vùng biển bao la trước mặt, chờ mặt trời lặn để ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi biển trong lúc tiếng nhạc bập bùng vọng ra từ một góc quầy.
Người đi giúp núi sông
hàng hàng lớp lớp chưa về
hàng hàng nối tiếp câu thề
giành lấy quê hương
“Bài gì vậy?” H. quay sang tôi, hỏi.
“‘Hàng hàng lớp lớp’,” tôi trả lời.
“Tên gì lạ vậy?”
“Gọi tắt là vậy,” tôi cười, “tên đầy đủ là ‘Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp’.”
H. lặng thinh, có vẻ chăm chú lắng nghe. Lời ca tiếng nhạc khi réo rắt, khi trầm bổng...
Còn đây đêm cuối cùng
nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em
“Giọng Hà Thanh phải không?” H. lại hỏi. “Còn giọng nam?”
“Hùng Cường.”
“Thiệt sao?” giọng hỏi thoáng chút ngờ vực.
Tôi hiểu, anh bạn tôi đâu biết rằng, ngoài những bài “tủ” như “Vọng ngày xanh” (Khánh Băng), “Ông lái đò” (Hiếu Nghĩa), “Sơn nữ ca” (Trần Hoàn)..., ca sĩ Hùng Cường - một nghệ sĩ cải lương khá nổi tiếng thời ấy - với chất giọng ténor khỏe khoắn, còn hát rất “tới” một ít bài tân nhạc khác nữa, đặc biệt là những bài của Nguyễn Văn Ðông.
Bài hát chúng tôi đang nghe là của Nguyễn Văn Ðông.
Anh bạn tôi đã nương theo câu hát ấy mà đi vào cuộc chiến. Anh đã nhập vào hàng hàng lớp lớp những đoàn người nối tiếp câu thề giành lấy quê hương.
Mùa hè năm sau, tôi cũng “lên đường nhập ngũ tòng quân”, nghĩa là chỉ sau anh bạn H. một năm. Bạn bè tôi kẻ trước người sau lục tục vào lính. Chiến cuộc ngày càng leo thang, ngày càng trở nên khốc liệt… H., anh bạn cùng ngồi với tôi buổi chiều ấy, cùng nghe với tôi bài nhạc ấy, cùng ngắm nhìn với tôi cảnh hoàng hôn trên bãi biển ấy, đã không còn nữa. Anh đã nằm sâu dưới lòng đất. H. đã hy sinh trong chiến trận ít năm sau đó, như biết bao người lính khác, như hơn một nửa bạn bè tôi đã nằm xuống trên khắp các mặt trận trong cuộc chiến nghiệt ngã ấy. Chiến tranh như con quái vật khổng lồ đã nuốt chửng bao nhiêu bè bạn tôi, anh em tôi.
Ðã nhiều năm, nhiều năm trôi qua, hình ảnh một chiều nào biển xanh cát trắng và những câu hát của Nguyễn Văn Ðông giữa biển trời mênh mông vẫn còn đậm nét trong ký ức tôi, mặc cho những lớp sóng của thời gian như từng đợt sóng biển cứ hàng hàng lớp lớp xô nhau, xô nhau tràn mãi vào bờ, rồi lại rút xuống trong con nước thủy triều của buổi hoàng hôn.
Người lính Nguyễn Văn Ðông
Anh bạn tôi khi còn sống đã thích bài nhạc ấy vì hai lẽ: thứ nhất, đấy là một bài nhạc lính khá hay, gợi nhiều cảm xúc; thứ hai, nội dung bài hát khá “hợp tình hợp cảnh” đối với anh ta vào lúc ấy.
Chỉ nghe cái tựa thôi, “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, người ta cũng biết được rằng đấy là bài tình ca viết về lính, viết cho lính.
Người đi giúp núi sông, hàng hàng lớp lớp chưa về... Không chỉ là chưa về, trong số hàng hàng lớp lớp những người đi giúp núi sông ấy, đã có biết bao người đi không về, không bao giờ về lại nữa. Trong số những người đi mãi không về ấy có anh bạn của tôi, người “yêu” câu hát ấy của Nguyễn Văn Ðông, trong lúc tôi và những người lính khác, những chiến hữu, những bè bạn của anh, đã may mắn hơn anh, đã sống sót trở về sau cuộc chiến; và hơn thế nữa, đã được định cư trên miền đất tự do này để nhớ về những đồng đội cũ đã hy sinh hay còn ở lại trong nước, kéo dài cuộc sống lây lất, âm thầm của những người lính già trong buổi hoàng hôn của đời người.
Trong số những người lính vẫn còn ở lại trong nước ấy có người lính Nguyễn Văn Ðông, tác giả “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”. Ông hiện sống ở Saigon, và hầu như không còn viết nhạc nữa. Ðiều này không có gì lạ, đối với một nhạc sĩ vốn sở trường và khá nổi tiếng về những bài “nhạc lính”. Không chỉ vì chiến tranh đã đi qua, tình trạng đất nước hiện nay chắc không phải là môi trường thuận lợi giúp ông tìm lại được nguồn cảm hứng để tiếp tục sáng tác.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh trưởng tại Saigon (nguyên quán thuộc tỉnh Tây Ninh). Ngay từ thời niên thiếu, năm 14 tuổi, ông đã có cơ hội học hỏi về âm nhạc từ các giáo sư người Pháp trong thời gian theo học năm năm tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Ðây cũng là nơi ông sáng tác ca khúc đầu tay, “Thiếu Sinh Quân hành khúc”, năm 16 tuổi, được trường chính thức công nhận và sử dụng làm bài “đoàn ca” trong các sinh hoạt tập thể. Ông vừa là thành viên của dàn quân nhạc gồm trên 40 “nhạc sĩ” thiếu niên, từng thi thố tài năng qua nhiều buổi hòa nhạc do một nhạc trưởng người Pháp điều khiển trong các lễ duyệt binh long trọng, vừa là thành viên ban nhạc nhẹ của trường, sử dụng thuần thục nhiều nhạc cụ như kèn, trống, mandolin, guitare hawaïenne.
Ngoài sự nghiệp sáng tác, những nét chính về hoạt động âm nhạc có thể kể ra được của chàng nghệ sĩ “tay súng, tay đàn” Nguyễn Văn Ðông:
Từ năm 1958, là Trưởng Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân (với sự góp mặt của các nghệ sĩ và ca nhạc sĩ tên tuổi, như Kiều Hạnh, Kim Cương, Khánh Ngọc, Minh Diệu, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, Quách Đàm, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Thu Hồ, Hoài Linh, vũ sư Trịnh Toàn...). Cũng từ năm 1958, là Trưởng an Nhạc Tiếng Thời Gian của đài phát thanh Saigon, quy tụ các ca nhạc sĩ quen thuộc thuở ấy như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Tâm Vấn, Minh Diệu, Hà Thanh, Anh Ngọc, Quách Đàm, Mạnh Phát, Thu Hồ, Trần Văn Trạch… (Từ năm 1962, được tăng cường thêm các ca sĩ Thái Thanh, Thanh Thúy, Minh Tuyết, Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Vũ, Hùng Cường... và an nhạc Y Vân).
Từ năm 1960 đến 1975, cùng người bạn là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp ở Saigon, đứng ra thành lập các hãng dĩa và băng nhạc Continental và Sơn Ca (được sự cộng tác của các nhạc sĩ tân và cổ nhạc Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Lê Văn Thiện, Y Vân, Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm...), gửi đến giới yêu nhạc nhiều chương trình âm nhạc chọn lọc. Ðây cũng là trung tâm băng, dĩa nhạc đầu tiên thực hiện một số album nhạc cho các ca sĩ. Một số ca sĩ “thành danh” trong làng ca nhạc trước năm 1975 như Thanh Tuyền, Giao Linh, Phương Dung, Hà Thanh... nhờ vào sự hướng dẫn và giới thiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Giám đốc Nghệ Thuật của các hãng dĩa này.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông còn sử dụng các bút danh Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà... cho các thể loại và chủ đề nhạc khác nhau. Ít người được biết, với các bút danh trên, ngoài những sáng tác về tân nhạc, ông còn viết nhạc nền cho trên 50 vở tuồng cải lương thuộc loại kinh điển ở miền Nam như “Mưa rừng”, “San hậu”, “Nửa đời hương phấn”, “Sân khấu về khuya”, “Tiếng hạc trong trăng”... và hàng trăm chương trình “tân cổ giao duyên”, một hình thức “phối hợp nghệ thuật” giữa tân và cổ nhạc khá phổ biến trong đại chúng vào thời ấy. “Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân” trong một chuyến lưu diễn tại Ðồng Tháp Mười (dưới chân Tháp Mười Tầng, Gò Tháp, một địa danh lịch sử) ngày 11 và 12/4/1959 - Hàng đầu, từ trái sang phải: Trần Ðô (chuyên viên sân khấu); nghệ sĩ Kiều Hạnh (thân mẫu ca sĩ ai Hương); tam ca nhi đồng Phước Vân, Bích Vân, Ngọc Vân (và một em bé tập sự); nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, trưởng đoàn (có dấu “X”); bà kịch sĩ Ba Vân; ca sĩ Khánh Ngọc; ca sĩ Minh Diệu; nghệ sĩ Trần Văn Trạch; vũ sư Trịnh Toàn; ca sĩ Mai Ly; nhạc sĩ Mạnh Phát; diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim; các ca sĩ Kim Lan, Kim Oanh. - Hàng thứ nhì, từ trái sang phải: Anh Việt (chuyên viên ánh sáng); Trần Quang, Trần Thịnh, Trọng Tuyến (các chuyên viên âm thanh); nghệ sĩ Ba Vân; các ca sĩ Ngọc Quang, Thanh Nguyên; nghệ sĩ Bảy Xê; nhạc sĩ Minh Kỳ; nhạc sĩ Thu Hồ; nghệ sĩ Quách Ðàm; nhạc sĩ Hoài Linh. Các hàng sau là tài xế, nhân viên an ninh...
“Là chàng trai trẻ độc thân,” ông nói, trả lời một câu phỏng vấn, “với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến ấy...” (1)
Sau những “bước nhẹ tênh” ấy là cánh cửa mở rộng cho “chàng trai trẻ độc thân” Nguyễn Văn Ðông đặt những bước chân đầu tiên lên “đoạn đường chiến binh”, để từ đó dấn thân vào cuộc sống mới đầy hứng thú, đầy sôi động và cũng đầy ý nghĩa trong những năm dài quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh. Chàng lính trẻ ấy từng phục vụ tại các đơn vị tác chiến, từng đóng quân tại các vị trí được xem là “điểm nóng” của các cuộc giao tranh như chiến khu Ðồng Tháp Mười, vùng Tam Giác Sắt..., từng tham dự những trận chiến khốc liệt tại các địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái (Tân Thành)..., từng được ân thưởng nhiều huy chương về các chiến tích, trong đó có “bảo quốc huân chương” là huân chương cao quý nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hầu như khắp bốn vùng chiến thuật, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính Nguyễn Văn Ðông (đúng như “Mấy dặm sơn khê”, tên một bài nhạc khá nổi tiếng của ông). Ông đã cầm súng chiến đấu vì yêu quê hương này, vì yêu dân tộc này. Ông đã yêu đời lính như yêu mảnh đất này, như yêu những đồng đội, như yêu người mình yêu... Hình ảnh người lính chiến thể hiện qua dòng nhạc của ông xem ra cũng không khác gì lắm với hình ảnh “người lính Nguyễn Văn Ðông”, cũng áo anh mùi thuốc súng, cũng ngược xuôi theo đường mây, cũng tóc tơi bời lộng gió bốn phương. (Ông không phục vụ ở Cục Tâm Lý Chiến như nhiều người vẫn lầm tưởng)... Mặc dầu không hề tơ vương khanh tướng vì người đi giúp nước nào màng danh chi, nhưng do lòng “tận trung báo quốc” qua các thành tích chiến đấu và phục vụ, ông cũng đã leo dần lên mãi những nấc thang binh nghiệp với chức vụ sau cùng là sĩ quan tham mưu cao cấp Bộ Tổng Tham Mưu. Có lẽ Ðại tá Trần Văn Trọng (nhạc sĩ Anh Việt, tác giả “Bến cũ”, “Thơ ngây”...) và ông được kể là những người lính có cấp bậc cao nhất trong số các nhạc sĩ phục vụ trong quân ngũ.
Sau “ngày tàn chiến cuộc” năm 1975, như số phận của hàng hàng lớp lớp sĩ quan kẹt lại ở trong nước, ông đã phải lầm lũi đi vào những trại tập trung, những lò cải tạo (Suối Máu, Chí Hòa) để trả giá cho các thành tích trong quân ngũ và trong hoạt động âm nhạc.
Không rõ ông đã “học tập” được những gì, có điều là cơ thể ông đã “tiếp thu” đủ thứ mầm bệnh trong những năm “cải tạo” ấy khiến sức khỏe ông có lúc suy kiệt đến trầm trọng. Chứng phong thấp, căn bệnh quái ác, đã khiến các đốt xương ngón tay của ông sưng tấy lên, các ngón tay co quắp đến gần như không còn cử động được nữa.
“Anh xem này,” ông nói với người bạn “tù cải tạo” ở cùng trại Suối Máu, giọng bùi ngùi. “Bàn tay tôi như thế này là coi như ‘phế bỏ võ công’ rồi, làm sao còn chơi đàn được nữa!”
Tay đã thế, chân lại càng tệ hơn, các khớp xương đầu gối biến dạng và đau nhức đến mức ông phải nằm điều trị nhiều năm trong các bệnh viện ở Saigon trước khi rời bỏ đôi nạng gỗ để được đi đứng bình thường trở lại.
Về đây ngơ ngác chim bay tìm đàn
Về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn
Như là câu hát trong bài “Về mái nhà xưa” của ông, sau đúng mười năm “học tập cải tạo” (ông được thả về đầu năm 1985), tác giả bài nhạc ấy đã về lại sau cuộc chiến, về lại sau những năm đọa đầy, về lại với một thân xác đầy tật bệnh, với một tâm hồn đầy thương tích. Xa lạ trước cuộc sống mới, trước một xã hội có lắm đổi thay sau cuộc bể dâu, ông bày tỏ lòng hối tiếc về những năm dài lãng phí, không tìm lại được nguồn cảm hứng nào cho hoạt động âm nhạc cũng như không đóng góp được chút gì có ý nghĩa cho đời. Ðối với con người nghệ sĩ tài hoa, đầy sức sáng tạo, và có thói quen làm việc không ngưng nghỉ, không mệt mỏi như ông thì, nói như ông, đấy quả là một sự “hối tiếc vô bờ”.
“Tại sao ông không xin định cư ở nước ngoài trong lúc có đủ điều kiện của người tù cải tạo?” Trả lời câu hỏi này, ông cho biết, “Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa’ và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đã nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Vì thế, tôi chẳng còn thiết tha bất cứ chuyện gì, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời.”
Vậy mà, nhờ “thần dược” hay nhờ... phép lạ, ông vẫn sống sót được đến ngày hôm nay. Vợ chồng ông có một cửa hàng tạp hóa nhỏ (nơi gia đình ông cư ngụ), là nguồn thu nhập chính cho “kinh tế gia đình”. Tuy sức khỏe có sa sút, tuy cuộc sống có chật vật, “người lính Nguyễn Văn Ðông” vẫn có lúc quên đi nỗi đau của riêng mình, vẫn có lúc để lòng mình nghiêng xuống những số phận rủi ro, những số kiếp hẩm hiu của bao người kém may mắn hơn mình. Những bản tin tôi đọc được ở trong, ngoài nước nói về các công tác cứu trợ những mảnh đời rách nát, những kiếp người lầm than, vẫn nhắc đến bàn tay nhân ái, trái tim nhân hậu của người lính, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông. “Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân” và “Ðoàn Việt Nam” 1961, Sài Gòn (Trưởng Đoàn: NS Hoàng Thi Thơ)
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông (đứng ngoài cùng, bên phải) và các ca nhạc sĩ, nghệ sĩ tên tuổi thời ấy: Hoàng Thi Thơ, Lê Thương, Lê Mộng Bảo, Thu Hồ, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Út Trà Ôn, Trần Văn Trạch, Trịnh Toàn, Ngọc Phu, Bảy Xê, Ba Vân, Tùng Lâm, Phi Thoàn, Anh Sơn, Anh Lân, Quách Ðàm, Thúy Nga, Bạch Yến, Túy Hoa, Tuý Phượng, Minh Diệu, Thẩm Thúy Hằng... (Nhạc sĩ Lê Thương, nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, Giám đốc Nhà xuất bản “Tinh hoa miền Nam”, và nghệ sĩ Út Trà Ôn là khách mời, không ở trong Ðoàn Vì Dân hay Ðoàn Việt Nam)
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông
Nhạc lính, nói sao đi nữa cũng từng là “nhạc thời trang” ở miền Nam Việt Nam một thời nào. Loại nhạc thời trang “đặc biệt” này khá phổ biến và có tuổi thọ đo được bằng chiều dài của cuộc chiến tranh hai miền Nam Bắc, nghĩa là kéo dài hơn bất cứ loại nhạc thời trang nào khác. Còn chiến tranh là còn nhạc lính, và nhạc này có lúc trở thành cực thịnh, là thời kỳ cường độ cuộc chiến gia tăng đến mức khốc liệt nhất.
Trong những năm dài chinh chiến ấy, có rất nhiều ca khúc khá hay viết về người lính và đời lính của một số tác giả ở trong và ngoài quân ngũ, ngợi ca tinh thần chiến đấu anh dũng, sự hy sinh cao cả và thầm lặng của người lính chiến. “Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông” là một trong số ấy. Hơn thế nữa, nhạc lính của ông có những nét rất “riêng”, mang sắc thái đặc biệt, được rất nhiều người yêu nhạc (lính hoặc không phải lính) yêu thích.
Trong phạm vi nói về “nhạc lính” của Nguyễn Văn Ðông, những ca khúc quen thuộc của ông nhưng không kể là “nhạc lính” (đôi lúc được ông ký dưới những tên khác) sẽ không đề cập trong bài này hoặc chỉ nói sơ qua.
Những năm trước ngày chiến tranh kết thúc, ngoài những bài “chiến đấu ca” trong quân đội và những bài hát cộng đồng, có vẻ những bài nhạc đề cao lý tưởng, chính nghĩa, tinh thần chiến đấu và hy sinh của người lính ngày càng ít đi (trừ ít bài ngợi ca những tên tuổi cá biệt của người lính đã đền nợ nước, như “Huyền sử ca một người mang tên Quốc” của Phạm Duy, “Anh không chết đâu em”, “Người ở lại Charlie” của Trần Thiện Thanh...). Không còn nghe thấy nữa những bài nhạc một thời làm nức lòng chiến đấu của người lính vì nước quên mình: Khi nước nhà phút ngả nghiêng
em mơ người trai anh dũng
mang thân thế hiến giang san
chí quật cường hiên ngang
(“Chiến sĩ của lòng em”, Trịnh Văn Ngân)
Em chúc cho chàng lập chiến công
oai hùng vang vang lời chiến thắng
muôn thu danh chàng lừng lẫy với núi sông
(“Chàng đi theo nước”, Hiếu Nghĩa)
Anh đi mai về chiến thắng
khi súng quân thù thôi vang trên non sông
tươi thắm màu cờ/ vui reo trên kinh thành
(“Anh đi mai về”, Hoàng Nguyên)
Anh đi xây chiến thắng/ dưới màu cờ quật cường
cho loài người hòa bình
(“Dặn dò”, Thanh Châu)
Anh sẽ là anh đàn em nhỏ/ là con của mẹ giữ quê hương
(“Tình quê hương”, Ðan Thọ và Phan Lạc Tuyên)
Không quên lời xưa đã ước thề
dâng cả đời trai với sa trường
(“Anh đi chiến dịch”, Phạm Ðình Chương)
Và ít bài nhạc khác như “Lá thư người chiến sĩ” (Phạm Ðình Chương), “Lá thư gửi mẹ” (Nguyễn Hiền và Thái Thủy), “Bức tâm thư” (Lam Phương), “Anh về thủ đô” (Y Vân), “Biệt kinh kỳ” (Minh Kỳ và Hoài Linh), “Chiều biên khu” (Tuấn Khanh và Châu Ngân), “Trên bốn vùng chiến thuật” (Trúc Phương), “Mười sáu trăng tròn” (Trần Thiện Thanh)...
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, trong lúc ấy, trước sau vẫn dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, vẫn ngợi ca người lính chiến, vẫn đề cao lý tưởng và chính nghĩa cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam (mà không phải... “tuyên truyền tâm lý chiến”).
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông không có những “tô son điểm phấn” cho đời lính kiểu “anh tiền tuyến, em hậu phương”, “người yêu của lính”... Trong những lời nhạc của ông không có những mộng mơ, lãng mạn kiểu Anh là lính đa tình (“Tình lính”, Y Vân), hay Ba-lô thay người tình yêu dấu... (“Ai nói với em”, Minh Kỳ và Huy Cường), hay Những đóm mắt hỏa châu là hoa đăng ngày cưới... (“Những đóm mắt hỏa châu”, Hàn Châu), cũng không có những lời thở than hoặc cay đắng như Nhiều đông lắm hạ nối tiếp đi qua/ thiếu bóng đàn bà... hay Đến với tôi/ hãy đến với tôi/ đừng yêu lính bằng lời... (“Kẻ ở miền xa”, Trúc Phương) vân vân... (Người viết chỉ nêu những khác biệt, không có ý bình phẩm).
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, như đời lính của ông, là cuộc chiến đấu gian khổ, là những lần xông pha trận mạc, là những cuộc hành quân không giống như là đi... picnic để đem cánh hoa rừng về tặng em (“Người yêu của lính”, Anh Chương), mà luôn kề cận những bất trắc, những hiểm nguy...
Ở một đôi bài Nguyễn Văn Ðông, giai điệu có lúc gần gũi với nét nhạc phóng khoáng, mênh mang của nhạc sĩ Lâm Tuyền, tác giả “Tiếng thời gian”, “Khúc nhạc ly hương”, “Hình ảnh một buổi chiều”, “Nhớ người viễn xứ” (Nguyễn Văn Đông và Lâm Tuyền)... Lời nhạc Nguyễn Văn Ðông như có “khẩu khí” riêng, đôi lúc phảng phất cái khẩu khí đầy vẻ thi vị trong thơ Quang Dũng, Thâm Tâm hoặc trong... “Chinh phụ ngâm khúc”, tạo nên sắc thái đặc biệt tiêu biểu cho dòng nhạc lính của ông. Có thể nói, Nguyễn Văn Ðông là một trong những nhạc sĩ sử dụng sớm nhất những từ ngữ “đường mây”, “sơn khê”, “giang đầu”, “khanh tướng”, “sa trường”, “biên thùy”, “khu chiến”, “tang bồng”, “hội trùng dương”... Những từ ngữ khá cổ điển nhưng qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thích ứng, lại đặc biệt có vẻ phù hợp với chất “lính tráng”, làm dậy lên những cảm xúc rất “lính”, khiến nhạc lính Nguyễn Văn Ðông như có một “khí hậu” riêng, mang mang thi vị của hơi thơ cổ, nhuốm vẻ hùng tráng và lãng mạn như bức họa đẹp và buồn của một “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. (2)
Anh như ngàn gió/ ham ngược xuôi theo đường mây
(“Mấy dặm sơn khê”)
Ngoài mưa khuya lê thê/ qua ngàn chốn sơn khê
(“Mấy dặm sơn khê”)
Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?
(“Chiều mưa biên giới”)
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
(“Chiều mưa biên giới”)
Thương mầu áo gửi ra sa trường
(“Chiều mưa biên giới”)
Chốn biên thùy này xuân tới chi?
(“Phiên gác đêm xuân”)
Xưa từ khu chiến về thăm xóm
(“Sắc hoa màu nhớ”)
Lòng này thách với tang bồng
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Hội trùng dương hát câu sum vầy
(“Hải ngoại thương ca”)
“Đường mây” chẳng hạn (đường mây chân núi xa..., ngược xuôi theo đường mây...) là từ ngữ rất cũ, từ thuở... “Chinh phụ ngâm khúc” (“Sứ trời sớm giục đường mây”…), được đưa vào lời nhạc Nguyễn Văn Ðông, lại như có vẻ “mới” và nghe rất “lính”.
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí trước năm 1975, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho biết ông chịu ảnh hưởng ít nhiều nền văn hóa Pháp trong các sáng tác âm nhạc và nhắc đến tên vài bài nhạc cũ của những thập niên 1940’s, 1950’s như “J’attendrai”, “Ma Normandie”, “La vie en rose”...
“Lòng này thách với tang bồng…”
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông là lính trận, là lính tác chiến, những người lính áo anh mùi thuốc súng, những người lính vừa trở về từ chiến trường lửa đạn.
Hơn bất cứ một nhạc sĩ nào khác viết về lính, nhạc Nguyễn Văn Ðông làm nổi bật lý tưởng của người quân nhân cầm súng chiến đấu. Mặc “ai công hầu, ai khanh tướng”, người đi vì lý tưởng đã vẽ lên những hình tượng đẹp, lãng mạn và đầy hào khí của những chàng Kinh Kha thời đại.
Người đi giúp núi sông
hàng hàng lớp lớp chưa về/ hàng hàng nối tiếp câu thề
giành lấy quê hương
Người đi giúp nước nào màng danh chi
cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
thì đường trần mưa bay gió cuốn/ còn nhiều anh ơi
(“Chiều mưa biên giới”)
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, (3) những chàng trai đất Việt nặng một lời thề, mang tổ quốc trên vai, mang tình yêu nước trong tim, hàng hàng lớp lớp theo nhau lên đường. Từng đoàn người tiếp bước những đoàn người đi viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc Việt.
Đời tôi quân nhân/ chút tình gửi cho núi sông
(“Sắc hoa màu nhớ”)
Nước non còn đó một tấc lòng
không mờ xóa cùng năm tháng
(“Mấy dặm sơn khê”)
Đời dâng cho núi sông
Dù ngàn nắng lửa mưa dầu
lòng người nhất quyết không đầu/ giành lấy mai sau
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Khi lòng đã nhất quyết không đầu, khi đời đã dâng cho núi sông thì… “Mẹ thà coi như chiếc lá bay” (4)
Mẹ hiền ơi chớ buồn vì con/ nước non chưa tròn
(“Lá thư người lính chiến”)
Chút tình riêng đành gác lại, vì tình nước sâu hơn tình lứa đôi.
Đường đi biên giới xa/ Lòng này thách với tang bồng
Đừng sầu má ấy phai hồng/ buồn lắm em ơi...
Hỡi người anh thương/ chưa trọn thề ước
Nhưng tình đất nước/ ôi, lớn lao không đành lòng
dệt mối thắm riêng tư
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Vầng trăng xẻ đôi/ vẫn in hình bóng một người
(“Chiều mưa biên giới”)
“Chiều mưa biên giới” (1956, sáng tác tại Đồng Tháp Mười, biên giới Việt-Miên), một trong những bài nhạc lính quen thuộc của Nguyễn Văn Ðông, là trường hợp khá đặc biệt, nổi tiếng do hai sự kiện: thứ nhất, nhờ sự trình diễn thành công của nghệ sĩ Trần Văn Trạch qua các làn sóng phát thanh và truyền hình Paris, dẫn đến một hợp đồng thu thanh bài hát bằng hai thứ tiếng Việt, Pháp với một hãng dĩa lớn của Pháp (việc chưa từng có trong lịch sử tân nhạc Việt thời bấy giờ); thứ hai, nhờ quyết định... cấm phổ biến của Bộ Thông Tin thời ấy, lý do là lời nhạc không thích hợp.
Tại sao cấm phổ biến? Tại sao “lời nhạc không thích hợp”? Nghe lại “Chiều mưa biên giới”, tôi không thấy có “vấn đề” gì đáng gọi là cấm kỵ. Có thể là những lời lẽ như thế này:
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu
sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...
Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay?...
Người lính chiến... mất phương hướng, không biết sẽ đi đâu, về đâu! Hoặc những câu hát:
Kìa rừng chiều âm u rét mướt...
Một vùng mây nước cho lòng ai thương nhớ ai...
Cờ về chiều tung bay phất phới
gợi lòng này thương thương nhớ nhớ...
Người đi khu chiến thương người hậu phương...
Người lính chiến “nhìn trời hiu quạnh”, lòng còn vương vấn chút tình... riêng.
Nếu không phải vì những lời nhạc kể trên, có thể là do giai điệu u uẩn, man mác của bài nhạc làm... nản lòng binh sĩ, làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội (!).
Dù với bất cứ lý do gì, những câu hát này thực sự chẳng thấm tháp vào đâu so với những bài bản “phản chiến” ít năm sau đó, phổ biến tràn lan một thời mà chẳng ai cấm nổi, chẳng hạn Tôi có người yêu chết trận Pleime... (“Tình ca người mất trí”, Trịnh Công Sơn), Quyết chối từ chém giết anh em... (“Chính chúng ta phải nói”, Trịnh Công Sơn), hoặc Anh trở về bại tướng cụt chân... (“Kỷ vật cho em”, Phạm Duy và Linh Phương), Ngày mai đi nhận xác chồng.../ Anh lên lon giữa hai hàng nến chong... (“Tưởng như còn người yêu”, Phạm Duy và Lê Thị Ý)... Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, nghệ sĩ Trần Văn Trạch và nhạc sĩ Lê Thương “Chiều mưa biên giới” bị cấm phổ biến chỉ vì ra đời... sớm vài năm, trở thành một trong những bài nhạc đầu tiên được khoác cho cái tên gọi là “phản chiến”.
“Chiều mưa biên giới” trở thành bài nhạc lính tiêu biểu của Nguyễn Văn Ðông, gắn liền với tên tuổi của ông, gắn liền với giọng ca Trần Văn Trạch, gắn liền với câu hát Lòng trần còn tơ vương khanh tướng/ thì đường trần mưa bay gió cuốn/ còn nhiều anh ơi... vừa mang tính “triết lý” về đời lính, vừa đượm vẻ... “lãng mạn Nguyễn Văn Ðông”.
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông
“Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
xếp bút nghiên theo việc đao cung” (2)
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc luôn có những năm thái bình thịnh trị và những năm chinh chiến điêu linh. Khi vận nước ngả nghiêng, những chàng trai thời loạn đã hiến dâng tuổi trẻ, lên đường theo tiếng gọi của non sông, bỏ lại sau lưng những mộng ước chưa tròn... Hình tượng người lính chiến qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, ngoài lý tưởng, lòng yêu nước thương dân, tinh thần hy sinh và chiến đấu, vẫn không thiếu n t lãng mạn của “chí lớn chưa về bàn tay không, thì không bao giờ nói trở lại...” (4)
Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Mấy ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên
(“Mấy dặm sơn khê”)
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông đẹp tựa câu thơ cũ, “Chàng từ đi vào nơi gió cát...”, (2) câu thơ về những chàng trai, những chàng lính chiến ôm mộng hải hồ, bạn cùng sương gió. Trên khắp các nẻo đường đất nước, từ miền địa đầu giới tuyến đến những nơi đầu sóng ngọn gió, từ những tuyến đầu lửa đạn đến những tiền đồn heo hút xa xăm, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính.
Anh như ngàn gió/ ham ngược xuôi theo đường mây
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương
(“Mấy dặm sơn khê”)
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông đẹp tựa huyền thoại “trăng treo đầu súng” trong một “phiên gác đêm xuân” giữa vùng hành quân đồi núi chập chùng.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
ngỡ rằng pháo tung bay/ ngờ đâu hoa lá rơi
(“Phiên gác đêm xuân”)
Đêm nằm gối súng/ chung ánh trăng
cho người này gợi nhớ thương người kia
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Câu hát gợi nhớ câu lục bát Nguyễn Du, “Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường...”
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông không chỉ ở những bản tình ca gợi nhớ những mùa xuân thanh bình một thuở, như là Chiều nay hoa xuân bay nhiều quá hay là Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người (“Nhớ một chiều xuân”), mà còn ở trong những câu hát của một mùa chinh chiến.
Trong khói lửa chiến tranh, bên cạnh những nỗi bất trắc, tình yêu vẫn nở hoa, như những đóa hồng vẫn nở bên những hầm hố và hàng rào kẽm gai. Vẫn có chút tình yêu làm quà tặng cho những người lính cầm súng chiến đấu, vẫn có những ánh mắt, nụ cười xinh tươi trong câu chuyện tình thời chiến, câu chuyện tình “người hùng và giai nhân”. Còn đây giây phút này
còn nghe tiếng hát/ nụ cười xinh tươi
còn trông ánh mắt/ còn cầm tay nhau
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Tình yêu thường xen lẫn thân phận người lính xa nhà, xa người mình thương yêu. “Chàng thì đi cõi xa mưa gió/ Thiếp lại về buồng cũ gối chăn”. (2) Một người đi, một người ở lại và những năm chờ tháng đợi mỏi mòn.
Một người gối chiếc cô phòng
còn người góc núi ven rừng/ chân mây đầu gió
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Con đường đấu tranh gian khổ còn dài, những chuyến về thăm, những lần về phép, người lính chiến dừng chân trong chốc lát, rồi lại lên đường, lại miệt mài đi khi quê hương còn tiếng súng, khi máu xương còn rơi...
Anh đến thăm/ áo anh mùi thuốc súng...
Anh đến đây/ rồi anh như bóng mây...
Anh hỡi anh/ đường xa vui đấu tranh
(“Mấy dặm sơn khê”)
Tôi lại đi giữa trời sương gió
Mầu hoa thắm vẫn sống trong tôi
(“Sắc hoa mầu nhớ”)
Người nghe đôi lúc bắt gặp đâu đó trong lời nhạc Nguyễn Văn Ðông những câu hát thật là đẹp.
Cầm tay nhau đi anh
Tơ trời quá mong manh
(“Mấy dặm sơn khê”)
“Tơ trời”?... Là sợi nắng lung linh hay sợi mưa phùn giăng mắc? Tơ trời mong manh hay những phút giây gần nhau cũng mong manh như những sợi... tơ trời?
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông vẫn có những phút để hồn mình lắng xuống, để lòng mình bâng khuâng vì một sắc hoa, một mầu áo...
Chiều hành quân nay qua lối xưa
giữa một chiều gió mưa/ xác hoa hồng mênh mông...
Nhìn mầu hoa vừa tan tác rơi
nhớ muôn vàn nhớ ơi/ hát trong mầu hoa nhớ
(“Sắc hoa mầu nhớ”)
Cuộc đời lính chiến, nhờ vậy, cũng sẽ đẹp thêm lên một chút.
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông không phải là không có trái tim đắm say mộng mơ (“Ai nói với em”, Minh Kỳ và Huy Cường). Những ước mơ của người lính thật đơn sơ và trắng như mây chiều. Ước mong nhiều đời không (cho) bấy nhiêu
vì mơ ước trắng như mây chiều
(“Phiên gác đêm xuân”)
“Mơ ước” gì vậy? Nếu không phải là nỗi ước mơ của những người đi đấu tranh để mang về mùa xuân mới cho quê hương.
Mong sao nước Việt đời đời
anh dũng oai hùng chen chân thế giới...
Người về đây giữa non sông này
Hội trùng dương hát câu sum vầy
Về cho thấy con thuyền nước Nam
đi vào mùa xuân mới sang
xa rồi ngày ấy ly tan
(“Hải ngoại thương ca”)
“Người lính già không bao giờ chết”
“Hải ngoại thương ca” cũng là trường hợp đặc biệt khác, sau “Chiều mưa biên giới”. Không rõ động lực nào, hoàn cảnh nào đã khiến nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho ra đời ca khúc ấy. Trước và sau ông hầu như chưa có nhạc sĩ nào viết về đề tài tương tự. Ðiều thú vị, các “cán bộ” văn hóa văn nghệ ở trong nước đã lầm tưởng “Hải ngoại thương ca” là “sáng tác mới” của Nguyễn Văn Ðông, đến lúc hiểu ra rằng đấy là bài nhạc cũ (1963), đã phải thốt lên, “Làm sao mà ở miền Nam ngày trước lại có bài nhạc hay đến như thế, lại phù hợp với hiện tình đất nước đến như thế!”
Cái “hay” trong lời ngợi khen ấy có thể hiểu là cái hay của nội dung bài nhạc được diễn dịch theo chiều hướng có lợi và phù hợp với chính sách kiều vận, với chủ trương “hòa hợp và hòa giải dân tộc” của “nhà nước ta” đối với “khúc ruột ngàn dặm” là cộng đồng người Việt ở nước ngoài, một “bộ phận không thể tách rời” của dân tộc. Cái “hay” ấy là cái hay của những câu hát được xem là thể hiện tâm tư tình cảm của “bà con Việt kiều yêu nước” trong những chuyến về thăm quê nhà.
Một mùa thương kết muôn hoa lòng
Người về đây nối câu tâm đồng...
Tôi đi giữa trời bồi hồi
Cờ bay phất phới quên chuyện ngày xưa...
Người về đây giữa non sông này
Hội trùng dương hát câu sum vầy
Không có gì ngạc nhiên khi các báo trong nước đưa tin “Hải ngoại thương ca” là một trong những bài đầu tiên được Cục Nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ Văn hóa Thông tin nhanh chóng duyệt qua, trong số 18 ca khúc của Nguyễn Văn Ðông được ph p lưu hành trong nước kể từ năm 2003. (Trong số, có vài ca khúc quen thuộc như “Nhớ một chiều xuân”, “Về mái nhà xưa”, “Thầm kín”, “Khúc xuân ca”, “Núi và gió”, “Trái tim Việt Nam”... Tất nhiên là không có những bài... nhạc lính). Trong lúc “Hải ngoại thương ca” được viết với nhạc điệu Slow Rock khá thịnh hành giữa thập niên 1960’s, thể hiện tình cảm phấn chấn như những bước chân đi tới, như niềm tin phơi phới về một vận hội mới, “Mấy dặm sơn khê” có tiết tấu chậm rãi hơn, tình cảm sâu lắng hơn, phác họa nét đẹp của người lính ngược xuôi trên khắp các nẻo đường đất nước. Một bài nhạc lính khác, “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, là bức tranh hoành tráng về đời lính được vẽ bằng những giai điệu, những khúc hát dạt dào tình nước, khi réo rắt, khi trầm bổng, khi lãng mạn như một khúc tình ca, khi hùng tráng như một khúc quân hành.
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông từng được thể hiện qua những giọng ca khác nhau, từ Thái Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Khánh Ngọc, Lệ Thu... đến Trần Văn Trạch, Hùng Cường, Thanh Hùng, Duy Trác, Elvis Phương, Anh Khoa... và cả những ca sĩ “học trò” của ông. “Chiều mưa biên giới” phù hợp với chất giọng “Nam bộ” và làn hơi ấm áp của nghệ sĩ Trần Văn Trạch, trong lúc “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp” lại phù hợp với chất giọng mềm mại, ngọt ngào của Hà Thanh quyện với giọng ténor vang lộng của Hùng Cường. Người nghe “Mấy dặm sơn khê” qua giọng hát Thái Thanh và Hà Thanh đều nhận ra mỗi giọng có cái hay riêng, có nét đẹp riêng trong cách thể hiện.
Hình tượng người lính chiến, khắc họa qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, như được “nâng” lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lý tưởng của những người trai anh dũng hiến thân vì tổ quốc như được tô đậm hơn, chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền Nam như được soi sáng hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến và gần gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục những hy sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh vì nước quên mình. Không thể nào không cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đã gieo vào lòng người những mối cảm xúc sâu đậm, những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời lính.
Chiến tranh đã đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay ít còn được nghe hát, thế nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và hình tượng hào hùng của người lính chiến quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đọng lại mãi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh tướng Hoa Kỳ, “Những người lính già không bao giờ chết; họ chỉ nhạt mờ đi thôi.” (“Old soldiers never die; they just fade away.” - Douglas MacArthur).
Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, “người lính già” Nguyễn Văn Ðông, ở độ tuổi 75, vẫn một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông núi, vẫn chưa mất niềm tin vào vận mệnh đất nước, vẫn còn nguyên vẹn trái tim chàng lính trẻ Nguyễn Văn Ðông-nặng trĩu tình quê, tình nước của những ngày đầu bước chân vào đời quân ngũ.
Non nước ơi
Hồn thiêng của núi sông/ kết trong lòng thế hệ
nghìn sau nối nghìn xưa
(“Mấy dặm sơn khê”)
Nghìn sau nối nghìn xưa, những thế hệ tiếp nối những thế hệ, những bàn chân tiếp nối những bàn chân, rộn ràng theo nhau lên đường đi xây lại những ước mơ chưa thành tựu của những người đã nằm xuống cho một vận hội mới về trên quê hương.
“Mai sau dù có bao giờ”, (5) nghe lại những khúc hát về người lính và đời lính, những khúc hát của một mùa nào ly loạn, hẳn người đời vẫn còn nhớ tới những người hùng tên tuổi hay những chiến sĩ vô danh, những người con yêu của tổ quốc, những người “nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây”, (2) những người đã hy sinh cả máu xương, đã hiến dâng cả tuổi trẻ, cả những năm tháng tươi đẹp nhất của đời người cho tình yêu đất nước.
Chinh chiến đã qua một thì, (6) thế nhưng những bài hát về người lính anh dũng cầm súng chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất quê hương, như những bài nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, mỗi lần nghe lại là mỗi lần nghe dậy lên một niềm kiêu hãnh, một nỗi tự hào về một thiên anh hùng ca của dân tộc.
Cám ơn anh, người lính già, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.
Chú thích:
(1) Trả lời phỏng vấn, Hoàng Lan Chi (đài phát thanh “Việt Nam hải ngoại”, WA. DC, 19/5/2007) (2) Chinh phụ ngâm khúc, Ðặng Trần Côn/ Ðoàn Thị Ðiểm (3) Tây tiến, thơ Quang Dũng (4) Tống biệt hành, thơ Thâm Tâm (5) Kiều, thơ Nguyễn Du (6) Người về, nhạc Phạm Duy
Phạm Duy, tôi còn yêu, tôi cứ yêu
Con đường thảnh thơi nằm
nghe chuyện tình quanh năm
(“Con đường tình ta đi”, Phạm Duy)“Ông yêu thích chủ đề nào hơn hết trong toàn bộ sáng tác âm nhạc của ông, bao gồm những dân ca, tình ca, tâm ca, đạo ca, rong ca, kháng chiến ca, quê hương ca... vân vân?” người dẫn chương trình văn nghệ Phạm Duy, Người Tình đặt câu hỏi. “Tình ca,” câu trả lời thẳng thắn, dứt khoát, không chút lưỡng lự. Nói thẳng, nói rõ, không ngại ngùng, không quanh co, đó là tính cách, là con người Phạm Duy. Câu hỏi ấy tôi nghĩ, nếu không phải đặt ra cho Phạm Duy mà cho đối tượng đông đảo người yêu nhạc của ông, chắc cũng sẽ nhận được câu trả lời tương tự.
Tình ca và tình ca đôi lứa
“Tình khúc”, “tình ca”..., những cách gọi này lâu nay đã trở thành phổ biến, và dễ được hiểu theo nghĩa những bài nhạc tình, cũng tựa như thơ tình, truyện tình… vậy. Điều này có đúng, nhưng không hẳn lúc nào cũng đúng, nhất là đối với trường hợp Phạm Duy.
Người dẫn chương trình đêm ấy không hỏi thêm, nên Phạm Duy cũng không giải thích thêm về câu trả lời ngắn, gọn của ông; tuy nhiên, trong một lần tiếp xúc, khi đề cập đến những “Đêm nhạc tình Phạm Duy” do những người yêu ông, yêu nhạc của ông thực hiện ở nơi này nơi nọ dạo gần đây, tôi được ông cho biết: “Nhạc tình yêu của tôi xưa nay không chỉ thu hẹp trong phạm vi và chủ đề tình yêu nam nữ, tình yêu trong âm nhạc còn được hiểu là: yêu tiếng nói, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu đến cả những vật thể nhỏ bé, vô tri vô giác như hòn đá, mảng rêu...” Qua cách nói ấy, ta hiểu rằng chủ đề tình yêu trong âm nhạc Phạm Duy rộng khắp, đa dạng. “Tình yêu”, hai chữ ấy nghe vậy mà rộng lớn quá, mênh mông quá: tình yêu đất nước, thiên nhiên, con người, lứa đôi... Biết nói sao cho vừa! Có thể nêu một ví dụ, “Tình ca”, một trong những ca khúc quen thuộc của ông được nhiều người yêu thích, lại không phải là một... “tình khúc”. Bài nhạc tên là vậy, thế nhưng không phải chỉ yêu cô gái bên nhà/ miệng xinh ăn nói mặn mà... (mà) có duyên, ta thấy ông còn yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời..., yêu câu hát Truyện Kiều..., yêu đất nước tôi/ nằm phơi phới bên bờ biển xanh..., yêu những sông trường..., yêu bác nông phu/ đội sương nắng bên bờ ruộng sâu..., nghĩa là, đúng như ông nói, bất kể thứ gì yêu được là ông “yêu” thôi. Thử hỏi, làm sao không khỏi nghe lòng dấy lên nỗi kiêu hãnh, niềm tự hào dân tộc khi nghe đến những câu hát: Tôi yêu biết bao người
Lý, Lê, Trần... và còn ai nữa
Những anh hùng của thời xa xưa
Những anh hùng của một ngày mai
Nghe ông yêu nhiều, yêu hết mức đến như vậy, ta cũng muốn “yêu” theo ông.
“Tình ca” là một trong những bài nhạc ta gặp nhiều “chất Phạm Duy” nhất.
Với “Tình ca” ông mở lòng ra phơi phới. Ở “Tình ca” là tình yêu thật rộng lớn, thoát ra ngoài, vượt lên trên mọi thứ tình yêu khác, kể cả tình yêu đôi lứa. “Tình ca” là một “tình yêu tổng hợp”, là bản tình ca lớn nhất: bản tình ca của đất nước. Đất nước nơi ông đã lọt lòng, nơi ông đã được nghe câu hát đầu tiên trong đời mình, là lời mẹ hiền ru những câu xa vời... Lời mẹ ru ấy, bản tình ca của đất nước ấy, là mối tình đầu đời, là cuộc tình lớn nhất của ông. Cuộc tình ấy có khi vui, khi buồn (bốn ngàn năm ròng rã buồn vui...), có lúc khóc, lúc cười (khóc cười theo mệnh nước nổi trôi...).
Ta hiểu vì sao hình tượng “chiếc nôi” vẫn luôn được Phạm Duy nhắc tới, vẫn luôn theo ông đi vào trong những lời nhạc, khi thì Tiếng nước tôi/ tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi (“Tình ca”), khi thì Việt Nam/ hai câu nói bên vành nôi (“Việt Nam, Việt Nam”), khi thì đặt tên cho người/ đặt tình yêu nước vào nôi (“Huyền sử ca một người mang tên Quốc”)... Đâu phải chỉ “Tình ca”, ta còn gặp những “Tình hoài hương”, “Xin tình yêu giáng sinh”, “Tình nhân loại, nghĩa đồng bào”... Những bài nhạc có cái tựa mang theo chữ “tình” ấy đều không phải là những ca khúc viết riêng cho tình yêu nam nữ.
Nhạc tình Phạm Duy, hệt như tính cách của ông, đã không hề tự đặt cho mình một giới hạn, một ràng buộc trong khuôn khổ nhất định nào mà luôn luôn muốn đi tới tận cùng những bến bờ.
Nhạc tình yêu nói chung của Phạm Duy là như vậy. Thế còn nhạc tình yêu… nói riêng, dành cho đôi lứa, thì sao? Câu hỏi nhiều người muốn biết. Như chuẩn bị sẵn cho câu trả lời, nhạc sĩ Phạm Duy có tạm đưa ra một “Bảng phân loại” khái quát dành cho những bản tình ca mà đối tượng, ông cho biết, “chỉ thu hẹp trong phạm vi và chủ đề tình yêu nam nữ”. Đường tình trăm vạn lối, biết đâu là đâu; tuy nhiên, cũng xin thử làm công việc hệ thống hóa, qua các tiểu đề bên dưới, những nẻo đường tình từng in dấu chân người nhạc sĩ trong suốt cuộc “hành trình âm nhạc Phạm Duy”, khởi đi từ “tuổi bâng khuâng” (1) cho đến khi là “người tình già trên đầu non”, (1) chỉ mong phần nào giúp người yêu nhạc Phạm Duy vừa có được cái nhìn tổng thể, vừa hình dung được những khuôn mặt khác nhau của tình yêu thể hiện qua dòng nhạc của ông.
Công việc này thực ra không đơn giản chút nào vì thật khó mà đạt được sự chính xác tuyệt đối trong lúc sắp xếp, phân loại theo từng đề mục. Một bài nhạc có khi không biết nên sắp vào “cột” nào cho phù hợp, hoặc vừa có thể cho vào “cột” này, lại vừa có thể cho vào “cột” khác, chưa nói là “Con đường tình ta đi” (1) của Phạm Duy có lúc thênh thang, có lúc ngoằn ngoèo, nhiều ng ngách, lắm ngã ba ngã tư đường tình, đặt chân vào dễ mơ mơ màng màng, có khi lạc lối, chẳng biết đường nào ra...
“Tình ca” trong bài này, từ đây trở đi, xin được hiểu theo nghĩa nhiều người vẫn quen hiểu: tình ca đôi lứa.
A. Con đường tình ta đi (1)
Sáng tác đầu tay, năm 1942, “Cô hái mơ” (phổ thơ Nguyễn Bính), khởi đầu cuộc hành trình âm nhạc dài hơn nửa thế kỷ của Phạm Duy, từ khi ông khoác cây đàn lên vai, là một bài tình ca, và có thể được xem như “mối tình đầu” của Phạm Duy với nền tân nhạc Việt nam.
1. Tình Đầu
“Con đường tình” của Phạm Duy, như bao nhiêu con đường tình của bất cứ ai khác, cũng đã khởi đi từ những mối tình đầu. Tình yêu là những nụ hoa vừa chớm nở, hay nói như Phạm Duy, là trái táo thơm, chỉ đến khi ghé răng cắn vào thì... giấc mơ não nùng vội tan (“Bao giờ biết tương tư”).
Tình đầu thường là những mối tình e ấp, hoặc ngu ngơ, vụng dại (Phạm Duy vẫn gọi đùa là “tình ấp úng”) và vẫn được xem là mối tình đẹp nhất, khó quên nhất. Từ những mối tình “lãng mạn tiền chiến”: Hôm xưa tôi đến nhà em
ra về mới nhớ rằng quên cây đàn...
Hôm sau tôi đến nhà em
cây đàn còn đó nhưng em đâu rồi?...
Tôi nâng niu cây đàn/ tình tang...
Yêu tôi hay yêu đàn?
(“Cây đàn bỏ quên”)
Đến những mối tình thầm lặng, khép kín, chỉ mình ta biết với riêng ta: Cô hái mơ ơi Không trả lời tôi lấy một lời
Cứ lặng mà đi/ rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi
(“Cô hái mơ”, theo thơ Nguyễn Bính)
Hay nỗi niềm bâng khuâng của “người em sầu mộng” tuổi đôi mươi, tuổi cuống quýt, dạt dào/ em biết yêu lần đầu. (2)
Ngày em hai mươi tuổi/ mới chớm biết yêu người
đã buồn vì duyên mới/ rồi đây sẽ nhạt phai
(“Ngày em hai mươi tuổi”)
Tình đầu là mộng ước, là giấc mơ tươi đẹp nhất của một thời tuổi trẻ: Tôi đang mơ giấc mộng dài
đừng lay tôi nhé cuộc đời chung quanh...
Đừng lay tôi nhé cuộc đời
tôi còn trẻ dại/ cho tôi mơ mộng
(“Tôi đang mơ giấc mộng dài”)
Đừng lay tôi nhé cuộc đời, đừng đánh thức những giấc mộng đầu, hãy cứ để yên cho tuổi trẻ mơ giấc mộng dài với con đường dài phía trước, con đường cỏ cây hoa lá xanh tươi.
Con đường của đôi mình
Ôi, chuyện tình thư sinh
(“Con đường tình ta đi”)
2. Tình Thư Sinh
“Một hôm trận gió tình yêu lại
đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư”
Nỗi niềm tâm sự của chàng Huy Cận thuở xưa cũng đâu có khác chi những xuyến xao rung động của những cô cậu học trò thời nay, được Phạm Duy đưa vào nhạc.
Em tan trường về/ đường mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở/ tóc dài tà áo vờn bay/ vờn bay...
Anh trao vội vàng/ ch m hoa mới nở/ ép vào cuốn vở...
Mai vào lớp học/ anh còn ngẩn ngơ/ ngẩn ngơ
(“Ngày xưa Hoàng Thị”, theo thơ Phạm Thiên Thư)
Có chàng trai nào thuở ấy lại chẳng có một đôi lần đứng ngẩn ngơ trước cổng trường vì tương tư một mầu áo nữ sinh.
Ngày nào biết mong chờ
biết rộn rã buồn vui/ đợi em dưới mưa
(“Bao giờ biết tương tư”, với Ngọc Chánh) hoặc:
Ngoài đường em bước chậm
quán chiều anh nôn nao
(“Hai năm tình lận đận”, theo thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Đó cũng là những mối tình luýnh quýnh giữa sân trường trao thư...
(“Hai năm tình lận đận”), hoặc nỗi “đau khổ” vì... thất tình, Ta hỏng tú tài/ ta hụt tình yêu... (“Thà như giọt mưa”).
Đó cũng là những mối tình của những háo hức, rạo rực ôi tìm làn môi ngon/ nhưng còn thẹn th ng... (“Con đường tình ta đi”) và của những say sưa, ngất ngây vì vị ngọt tình yêu, Uống ly chanh đường/ uống môi em ngọt (“Trả lại em yêu”).
Con đường tình của tuổi học trò trải dài suốt những năm tháng còn ngồi ghế nhà trường, từ thuở học sinh qua hết thời sinh viên. Những chuyện tình vẫn gắn liền những ngôi trường, có thể là những ngôi trường có tên như ngôi trường của những người tình Trưng Vương, người tình Gia Long, người tình Văn Khoa... (“Con đường tình ta đi”), hoặc bất kỳ ngôi trường nào không tên như ngôi trường thân yêu/ bạn bè cũ mới... (“Trả lại em yêu”). Những chuyện tình vẫn gắn liền những con đường, có thể là những con đường có tên như con đường Duy Tân, cây dài bóng mát, hoặc bất kỳ con đường nào không tên như con đường trời mưa êm/ chiếc dù che mầu tím... (“Con đường tình ta đi”), con đường của những ngọn đèn hiu hiu/ nỗi buồn cư xá (“Trả lại em yêu”), con đường của những hàng me, hàng phượng.
Con đường tình của tuổi học trò cứ thế trải dài, trải dài mãi, cho đến lúc bỏ trường bỏ lớp, cho đến lúc em vừa thôi kẹp tóc.../ anh vừa thôi học xong (“Tóc mai sợi vắn sợi dài”).
Bao nhiêu là con đường, những con đường mộng mơ, những con đường xanh thắm của một mùa nào lãng mạn. Tất cả, đều là những… Con đường thảnh thơi nằm
nghe chuyện tình quanh năm
(“Con đường tình ta đi”)
3. Tình Quê
Chàng là thanh niên/ mạch sống khơi trên luống cày
nói năng hiền lành như thóc với khoai
Nàng là con gái nết na trong xóm
nước da đen ròn với nụ cười son
(“Vợ chồng quê”)
Hiền lành như thóc với khoai, hiền như không thể hiền hơn. Tôi thích lối ví von rất “quê” ấy. Những lời lẽ như thế, mộc mạc đơn sơ, chân chất bình dị, nhưng đầy những ý, tình, được tìm thấy khá nhiều ở những câu hát của Phạm Duy trong những bài dân ca, tình ca quê hương..., và cả những bài về tình yêu trai làng, gái quê.
Ngoan như cơn gió đêm hè...
Yêu nhau khi lúa chưa mòng
thương nhau khi nắng khô đồng
Ôm nhau nghe nước mưa ròng
chảy vào lòng cặp tình nhân
(“Lúa Mẹ”) hoặc:
Miếng trầu cau nên đôi vợ chồng
(“Tình nghèo”, thơ Hồng Nam) hoặc:
Ai về/ về có nhớ/ nhớ cô mình chăng?
Tôi về/ về tôi nhớ/ nhớ hàm răng cô mình cười
(“Tình hoài hương”) hoặc:
Yêu em đôi mắt hạt huyền
Yêu làn tóc rối/ yêu liền nước da...
Yêu tấm áo thô sơ/ dãi dầu mưa nắng
vẫn chưa phai mối tình
(“Hò lơ”) hoặc:
Em ở lại nhà/ em ơi em ở lại nhà
vườn dâu em đốn/ mẹ già em thương
(“Dặn dò”)
“Tình quê” luôn gắn liền tình yêu quê hương đất nước, gắn liền với giấc mơ thanh bình của những làng quê nghèo chìm trong lửa khói chiến tranh.
Nằm mơ/ mơ thấy trăm họ tốt tươi
mơ thấy bên lề cuộc đời/ áo dài đùa trong tiếng cười
(“Quê nghèo”)
Trong những giấc mơ ấy không thiếu giấc mơ của những đóa hoa thấm thoát mười năm nhớ anh vắng xa về một ngày trở về của người chiến binh...
Ôi, ngày trở về
có đôi uyên ương sống đời mặn nồng
(“Ngày trở về”)
Phạm Duy được biết đến nhiều nhất và trước hết như là người nhạc sĩ “dân ca”, hơn là “tâm ca”, “tình ca”... Tình quê chan chứa trong làn điệu dân ca và những câu ca dao ngọt ngào được phổ nhạc.
Đố ai nằm ngủ không mơ?
Biết em nằm ngủ hay mơ
Nửa đêm trăng xuống đứng chờ ngoài hiên
Nửa đêm anh đến bến bờ... yêu đương
(“Đố ai”)
Những chuỗi nốt nhạc uốn lượn, luyến láy rập rờn. Câu ca dao tình tứ lại càng thêm tình tứ.
Tình quê, như bức tranh quê, vẫn một màu trời xanh thắm, trong vắt. 4. Tình Một Thuở
Đấy là những chuyện tình ngày đó chúng mình, những chuyện tình của Ngày đó có em đi nhẹ vào đời/ và đem theo trăng sao đến với lời thơ nuối..., của Ngày đôi môi, đôi môi đã quyết trói đời rồi/ Ôi, những cánh tay đan vòng tình ái!..., và của xe tơ kết tóc giam em vào lòng thôi... Những lời ấy ghi lại được từ một trong những bản tình ca hay nhất, đẹp nhất của Phạm Duy. Nhịp điệu chậm rãi, dìu dặt sánh đôi với giai điệu mềm mại, dịu dàng, như bước chân ai khe khẽ, rón rén “đi nhẹ vào đời”. “Ngày đó chúng mình” chắc phải là bản tình ca của một thời để yêu, một thời để... soạn nhạc.
Có rất nhiều những lời nhạc, lời thơ như vậy trên “con đường tình Phạm Duy”.
Đường em có đi/ hằng đêm gót hoa
nở những đóa thơ/ ôi, dị kỳ
(“Đường em đi”)
Nhưng không phải con đường ấy lúc nào cũng là trăng là sao, là “những đóa thơ”, là “xe tơ kết tóc”, là “những cánh tay đan vòng tình ái”... mà còn có cả những đêm “rách rưới”, những cơn mơ “lẻ loi”.
Ngày đó có anh mê mải tìm lời
tìm trong đêm rách rưới/ cơn mơ nào lẻ loi
(“Ngày đó chúng mình”)
Hạnh phúc hay khổ đau, tình vui hay tình buồn, cũng mang đến những nguồn cảm hứng và chất liệu âm thanh cho người nhạc sĩ sáng tác để, nói như nhạc sĩ Y Vân, “đem nhạc tình ghi tràn đầy cung điệu buồn”. Nỗi tiếc nhớ, nỗi cô đơn chẳng hạn:
Tôi đi vào thương nhớ/ tôi xây lại mộng mơ năm nào...
Đêm xưa biển này/ người yêu trong cánh tay
Đó là “Nha Trang ngày về”, là một mình một bóng đi tìm lại dấu tích kỷ niệm. Ca khúc ấy, cùng với những bài tình ca lẻ loi như “Giết người trong mộng”, “Mùa thu chết” (theo thơ Apollinaire), “Thu ca điệu ru đơn” (theo thơ Verlaine), “Nước mắt mùa thu”, “Còn gì nữa đâu”, “Đừng bỏ em một mình” (theo thơ Minh Đức Hoài Trinh)... được Phạm Duy gọi chung là những bài “tình ca một mình”.
Nỗi chia cách người đầu sông, kẻ cuối sông chẳng hạn:
Một người ngồi bên kia sông/ im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây
trông hoa trôi theo nước chảy phương nào
(“Hẹn hò”)
Và cả những nỗi vất vả, lao đao lận đận trên con đường tình gập ghềnh:
Ta yêu em lầm lỡ/ Bây giờ đường nào đi...
Ta yêu em vất vả/ Ôi, lần cuối/ lần đầu
(“Ta yêu em lầm lỡ”, theo thơ Đào Văn Trương)
Hai năm tình lận đận/ hai đứa cùng xanh xao
(“Hai năm tình lận đận”, theo thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Hai năm, năm năm, mười năm..., không chỉ những khoảng cách thời gian, những đổi thay của khí hậu, của mùa màng, của xuân hạ thu đông cũng theo nhau đi vào nhạc Phạm Duy. Có khi là “Xuân nồng”, là “Đêm xuân”.
Đêm qua say tiếng đàn
đôi chim uyên đến giường
Có khi là “Hạ hồng”, là “Phượng yêu”.
Yêu người/ yêu Phượng/ yêu hoa đầu mùa
Yêu mầu rực rỡ/ yêu em mù lòa...
Yêu người yêu cả cơn mơ rụt rè
Có khi là “Tình thu”, là “Chiều đông”..., tất cả góp lại thành bản “tình ca bốn mùa”. Với bản tình ca ấy, chắc hẳn con người nghệ sĩ Phạm Duy cũng đã muốn bày tỏ nỗi ước mơ của riêng mình: những mùa màng của đất trời cũng sẽ là những mùa màng của tình yêu, để những cặp tình nhân trên đời này có đủ “bốn mùa yêu nhau.”
5. Tình Muôn Thuở
Tìm nhau trong muôn thuở
Tìm nhau như Thiên Cổ tìm Ngàn Thu
(“Tìm nhau”)
Tình muôn thuở, đấy là chuyện tình của những “ngàn thu”, “ngàn trùng”..., của những “muôn đời”, “muôn kiếp”..., những mối tình bất tử, bất diệt, dẫu có “nghìn trùng xa cách”. (1)
Còn theo nhau tới muôn đời sau
(“Đừng xa nhau”)
Kiếp nào có yêu nhau/ thì xin tìm đến mai sau
(“Kiếp nào có yêu nhau”, theo thơ Minh Đức Hoài Trinh)
Nếu một mai/ không còn ai đứng bên kia đời
trông vòi või
(“Nếu một mai em sẽ qua đời”)
Nghìn thu/ anh là suối trên ngàn
Nghìn thu/ em là sóng xô bờ...
Cuộc tình đi vào cõi thiên thu
(“Nghìn thu”)
Đừng cho trăng tan dưới gót
Đừng cho không gian đụng thời gian
(“Thương tình ca”)
“‘Không gian đụng thời gian’ thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra?” tôi nhớ từng hỏi nhạc sĩ Phạm Duy câu ấy. Ông có giải thích, có viện dẫn những nguyên tắc vật lý, và cả siêu hình nữa: “Là đời sống sẽ tan biến, là tận thế của tình yêu.” Và ông kết luận, “Yêu như thế là đẩy tình yêu đến tận cùng hai cõi sống, chết”.
Tình muôn thuở, đấy cũng là những chuyện tình muốn quên mà không sao quên được.
Làm sao giết được người trong mộng
để trả thù duyên kiếp phũ phàng
(“Giết người trong mộng”, theo thơ Hàn Mặc Tử)
Phải yêu như thế nào mới tính chuyện giết người trong mộng đã bội thề, mới hiểu vì sao nhưng người trong mộng vẫn hiện về. Phải yêu đến mức nào mới tính chuyện “trả thù”, mới hiểu vì sao “tình hận” lại là khuôn mặt khác của tình yêu.
Muôn thuở hay ngàn thu, trăm năm hay nghìn năm, chỉ là cách nói, thực ra mỗi người chỉ có một đời để sống, một thời để yêu thôi, và khi đã yêu thực tâm thực lòng thì:
Trăm năm dù lỗi hẹn
nghìn năm vẫn không quên
(“Nghìn năm vẫn chưa quên”)
Lại còn phải kể đến những duyên và số nữa. Nếu chẳng phải duyên, phải số thì dẫu có đi hết một đời cũng chẳng ai gặp được ai.
Trăm năm dầu lỗi hẹn hò
chứ cây đa bến cũ con đò khác đưa
(“Trăm năm hò hẹn”, theo thơ Lưu Trọng Văn)
Tình muôn thuở, nói như Phạm Duy: phải yêu, phải đi đến tận cùng của tình yêu mới hiểu được vì sao đừng cho không gian đụng thời gian, mới hiểu được thế nào là đưa nhau vào cõi vô biên, đưa nhau vào chốn không tên, và dìu nhau, đưa nhau vào ngàn thu...
6. Tình Sử
Tình sử có thể là những câu chuyện tình có thật và không có thật, đôi lúc huyền hoặc như truyền thuyết, có thể bắt đầu bằng:
Một đàn chim tóc trắng/ bay về qua trần gian
báo tin rằng “Có nàng Giáng Hương...”
Và kết thúc bằng:
Trời đày cô tiên nữ/ xuống đầu thai thành hoa
giữa đêm mờ/ hoa nở chóng phai
(“Cành hoa trắng”)
Tình sử cũng có thể là những truyện tích tự ngàn xưa về những cuộc tình duyên (thường là o le, ngang trái hay bi thảm) vẫn được người đời truyền tụng, bắt đầu bằng:
Đêm năm xưa/ khi cung đàn lên tơ
hoa lá quên giờ tàn/ mây trắng bay tìm đàn
hồn người thổn thức trong phòng loan
Và kết thúc bằng:
Ôm ấp bao mộng vàng/ cho đến khi gặp chàng
thì đành tan vỡ câu chờ mong...
Duyên kiếp trong cuộc đời/ đem xuống nơi tuyền đài
để thành ngọc đá mong chờ ai
(“Khối tình Trương Chi)
Hoặc cũng có thể là những câu chuyện tình xưa và nay, lồng trong bối cảnh thời chiến chinh, những chuyện tình thường là đẹp và buồn.
Từ chàng ra đi/ lưng khoác chiến y
và hồn nương bóng quốc kỳ...
Chàng ngồi trên yên/ mơ bóng dáng em
mịt mù sau đám khói tên
Bâng khuâng mắt nhìn tay kiếm
không sao giấu đôi lệ hiền
(“Chinh phụ ca”)
Bài hát chất chứa mối sầu dằng dặc và một “khí hậu” mang mang thi vị của hơi thơ cổ, bằng nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thích ứng (những “phòng loan”, “tơ đàn”, “khúc hoan”, “ngày vàng”, “tiếng diều trong”, “làn du phong”, “mây ráng hồng”, “tiếng rừng xao xuyến”, “lệ thắm tơ vàng”...), tái tạo bức họa đẹp và buồn của “người chinh phụ” mòn mỏi đợi chồng buổi chinh chiến điêu linh, gợi nhiều cảm xúc, đưa người nghe về lại khoảng không gian xa thẳm “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, nhuốm vẻ bi tráng, hào hùng và lãng mạn.
Có khác chăng, vì thương cảm nỗi niềm chinh phụ, thay vì “Ngựa hồng đã đến bên yên/ Chị ơi trên ngựa chiếc yên... vắng người” (“Mòn mỏi”, thơ Thanh Tịnh), Phạm Duy đã chuyển sang một kết thúc đẹp của “người chinh phu về”, để người cô phụ không phải chôn vùi tuổi xuân chốn khuê phòng lạnh lẽo.
Rồi nhìn qua song/ em thấy trước sân
ngựa hồng âu yếm bước sang
Trên lưng có chàng trai tráng
mang theo biết bao nhiêu ngày vàng
Và những câu chuyện tình thời nay, như chuyện tình mùa chinh chiến “Màu tím hoa sim”, dẫu cho thời gian có phôi pha vẫn không xóa nhòa, vẫn còn đọng lại trong từng câu thơ, nét nhạc.
Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chết sớm/ mẹ già chưa khâu
(“Áo anh sứt chỉ đường tà”, theo thơ Hữu Loan)
Huyền thoại, huyền sử, hay truyền thuyết, hay những truyện tích được dân gian truyền tụng, hay chỉ là những câu chuyện kể không rõ tính xác thực, tất cả những chuyện tình ái đi vào trong thơ, trong nhạc vẫn luôn có một chỗ đứng nhất định trong thi ca và trong lòng người.
7. Tình Phiêu Lãng
Đêm nay đôi người khách giang hồ
gặp nhau tình trăng nước
(“Tình kỹ nữ”)
“Tình trăng nước” trong câu hát ấy có thể hiểu được như mối tình qua đường, không hẹn mà gặp, có chút duyên tri ngộ. Phạm Duy, chàng phiêu lãng ôm đàn tới giữa đời (4), ôm đàn đi trên những cuộc tình, hẳn đã có không ít những mối tình trăng nước như vậy.
10/4/2011Lê Hữu















Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét