Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2025

Bùa yêu, từ huyền thuật dân gian đến thơ ca

Bùa yêu, từ huyền thuật
dân gian đến thơ ca

Lâu nay, người dân nơi miền sơn cước truyền tụng nhiều câu chuyện huyền hoặc về bùa yêu. Người sử dụng bùa yêu như một loại phép màu lôi cuốn người mình yêu, kẻ dùng nó để sở hữu đối tượng mang tính cưỡng ép. Cũng có trường hợp nàng và chàng “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”, tìm cách thả bùa cho nhau để tăng hương vị của tình yêu, hạnh phúc. Hoặc, anh và chị lấy nhau qua hôn ước giữa hai dòng họ, ông bà đã yểm bùa yêu trong lễ cưới để buộc đôi trẻ phải gắn bó, không thể xa lìa.
Năm ấy, có anh người Kinh ở dưới xuôi lên chơi, vừa mắt cô gái ở bản nọ. Cô đã bỏ bùa yêu để anh quyến luyến không rời. Nếu anh một đi không trở lại, cả đời anh sống kiếp “nhặt lá vàng rơi” là cái chắc!
Như vậy, bùa yêu là một phép màu tình ái mang tính huyền bí, li kỳ và hấp dẫn từ thuở xa xưa lưu truyền đến ngày nay. Huyền thuật dân gian ấy đã trang trọng bước vào thơ ca với những biến thể qua nhiều cách nhìn và thể hiện khác nhau.
Nhà thơ Dương Thuấn, ở thế hệ trước viết:
Bỏ bùa xuống chén nước
Tay đưa mời tận tay
Uống xong rồi lại khát
Khát lại nhớ nhau ngay
Bùa hết “xuống chén nước” đến “xuống nồi cơm” sang “xuống chiếc dép”, đâu có thể bỏ bùa được là bỏ, cho: “Bùa thấm vào hơi thở/ Bùa thấm vào nhịp tim”. Ở đó, “người kia” bị bỏ bùa một cách toàn diện! Dẫu sao tất tần tật là:
Bùa yêu không bùa ghét
Bùa để cho yêu thêm…
Bài thơ không thông báo cho ta biết người bỏ bùa là nam hay nữ, qua các hành vi hết sức ân cần, tinh tế, người đọc có thể nhận ra ngay người nữ là bên chủ động bỏ bùa. Hẳn nàng phải là một “cao thủ”. Đầu tiên nàng bỏ bùa vào dạ dày chàng, để khi đói, khi khát chàng lập tức nhớ đến nàng. Cơm và nước là hai thức không thể thiếu cho sự sống của con người, mà người nam nào chả nhanh đói chứ! Tiếp đến, nàng bỏ bùa vào chiếc dép, là một “tính toán” kỹ lưỡng. Đàn ông mấy ai không có “hoa chân”, vậy nên nàng phải bỏ bùa vào vật dụng ấy, để buộc chàng phải “Dù đã xa bao núi/ Nhớ nhau lại quay về”.
Chuyện tình cảm của hai người được đưa đẩy đến là khéo. Bạn đọc có thể đoán già đoán non rằng, nàng bỏ bùa vào chén nước mời chàng, đây có thể là lần gặp gỡ đầu tiên, tại đâu đó. Lần sau nàng bỏ bùa vào nồi cơm, chứ không phải bát cơm, phải chăng “gạo đã thổi thành cơm” rồi, nàng và chàng đã chung một nhà. Rồi đến bỏ bùa vào chiếc dép, cho thấy nàng “phòng” từ trong ra ngoài. Để qua ba khổ thơ, chàng chỉ biết nhớ thương, thể hiện qua từ “nhớ” được điệp lại tới ba lần. Đến độ “Bùa thấm vào hơi thở/ Bùa thấm vào nhịp tim”. Đến lúc này, bùa yêu đã quá đỗi thân thuộc, nàng và chàng thực sự đã là một. Tình cảm của hai bên ngày càng sâu sắc, từ “nhớ” đã chuyển thành “yêu”. Chàng cam tâm tình nguyện để cho nàng bỏ bùa: “Bùa yêu không bùa ghét/ Bùa để cho yêu thêm…”
Nhà thơ sử dụng thể thơ bốn chữ, kéo nhịp thơ đi nhanh, diễn tiến tình cảm của cặp đôi cũng thật nhanh. Nhanh mà không vội, nhanh mà đậm sâu, bền chặt. Bốn khổ thơ trong một bài thơ dựng nên một chuyện tình hoàn hảo, kết thúc có hậu, mà ở đây, trong không gian rừng núi, bùa yêu là chất xúc tác khiến câu chuyện tình của cặp đôi thêm phần lãng mạn, nên thơ.
Bỏ bùa của Dương Thuấn, dường như một bên chủ động bỏ bùa, một bên bị động nhận bùa thì qua bài thơ Theo bùa của tác giả Bùi Thị Mai Anh, anh chàng nhân vật trữ tình của bài thơ lại là kẻ sẵn sàng, cam tâm tình nguyện theo bùa để được yêu:
Chắc là em có bùa yêu
Nên anh mới phải đánh liều lên đây
Giữa trời nước, giữa ngàn cây
Em mang bùa cất nơi này, nơi nao?
Phải vượt tận chốn non cao
Phải băng thác hiểm, phải lao dốc đèo
Đi đâu anh cũng xin theo
Để ăn măng đắng, thịt treo, rau rừng
Để theo phảng phất mùi hương
Sương giăng kín lối biết đường tìm em
Để lần theo dấu sao đêm
Tìm ai thấp thoáng giữa miền chiều loang
Cũng là không gian miền núi thân thuộc, chàng đã phải lòng nàng. Dường như nàng vẫn còn “kiêu”, nên quyết tâm của anh thật lớn, thể hiện qua những động từ mạnh mẽ, dứt khoát: “đánh liều lên đây”, “vượt tận chốn non cao”, “băng thác hiểm”, “lao đốc đèo”. Yêu nàng, chàng nghiện cả “măng đắng, thịt treo, rau rừng” là những món ẩm thực quen thuộc của quê nàng. Say nàng, chàng nhớ cả mùi hương phảng phất của nàng, dù là buổi ban mai “sương giăng kín lối” chàng vẫn không thể lạc nàng. Nhớ bóng hình thân thuộc của nàng, chàng “lần theo dấu sao đêm” và nhận ra ngay người thương dù chỉ nhìn thấy bóng nàng “thấp thoáng giữa miền chiều loang”.
Đối với anh chàng si tình, trái tim cô nàng chính là bùa yêu, chàng van nài được nàng bỏ bùa. Yêu quá, mê quá, chàng không thể chờ đợi được nữa:
Để anh thưa với quan làng
Cho anh được nhận họ hàng sớm hơn
Theo bùa, uống rượu thay cơm
Hồn bay theo những chập chờn cọi, sli
Em mang bùa cất làm gì
Đưa anh giữ hộ kẻo thì lạc nhau…
Một cái kết ngỏ, không biết nàng có chịu mở lá bùa cất trong tim ra không, còn anh chàng thì tự đồng hoá mình với văn hoá của dân tộc nàng bằng cách “ăn măng đắng, thịt treo, rau rừng”, “uống rượu thay cơm”, “hồn bay theo những chập chờn cọi, sli”…
Muốn được nàng bỏ bùa – đâu dễ thế!
Bỏ bùa của Dương Thuấn là một chuyện tình viên mãn, Theo bùa của Bùi Thị Mai Anh là câu chuyện tình có cái kết ngỏ, thì qua Bỏ lại lời thương của Hà Sương Thu, bạn đọc lại bắt gặp một chuyện tình day dứt, đớn đau:
Ngày bước qua nương lúa
Cởi lại câu thương cho người
Những si mê bùa ngải
Người ơi…
Chàng đã nói yêu nàng, nhưng chàng lại cưới người khác. Nàng thấy đời mình vô dụng “như con dao không mài/ như cái rìu không đẽo nổi cây cột”. Nàng giận: “Giận anh mười ngày, một tháng/ Giận anh một năm hay hết đời này”. Giận rồi đau khổ, nàng tự hành hạ mình: “Em sống như con ma núi/ Hao mòn gầy rộc/ Em khóc lời đỏ mắt/ Như không còn sự sống người ơi”. Giận rồi lại thương, rồi lại bao dung bởi tình yêu của nàng dành cho chàng quá lớn:  “Nếu được gặp anh mỗi chiều trên nương trên rẫy/ Em nguyện làm con đường/ Nếu được chở che cho người ngọn gió/ Em nguyện làm đỉnh núi Phja Đuông”. Nàng mơ vậy thôi, chứ kết cục nào khác được! Bởi:
Người ơi ngày anh đón dâu qua trước sàn nhà em
Ang nước chàm đành đổ
Con rẫy không ai châm lửa
Mà ngùn ngụt cháy trời
Em xó buồng
Nước mắt em chảy xuống sàn, chảy tràn ruộng lúa
Chắc anh hạnh phúc?
Giận chàng, như lửa cháy trời. Nước mắt “chảy xuống sàn, chảy tràn ruộng lúa”. Nàng có bùa yêu, nhưng ngay từ đầu nàng đã không dùng. Biết chàng quên lời thề nguyện, nàng đã chủ động“cởi lại câu thương cho người/ những si mê bùa ngải”. Nàng cam tâm tình nguyện tự chịu đựng đau khổ, dằn vặt vì muốn người mình yêu được hạnh phúc. Hà Sương Thu rất tài tình khi sử dụng những hình ảnh thân thuộc với cô gái vùng cao như con dao, cái rìu, cây cột, nương rẫy, đỉnh núi, nhà sàn, ang nước chàm… thi ảnh cuồn cuộn quyện vào tâm trạng, làm nổi bật lên những cung bậc cảm xúc của người con gái bị bội ước: yêu, giận, bao dung, và cuối cùng là sự hy sinh:
Hỡi người ơi! Em sẽ lấy chồng xứ khác
Nơi lên nương không còn chạm mặt
Không thấy anh cùng vợ ấm êm giặt tã, khăn bên sông bên suối
Không thấy anh tay bế tay bồng
Nàng không vì giận chàng mà đi lấy chồng xứ khác, đó là một sự hy sinh. Nếu nàng không chịu ở trong xó buồng ngày chàng cưới, nàng không chịu cởi bỏ lời thương, si mê bùa ngải, hoặc nàng lấy chồng cùng bản – ra vào chạm mặt, liệu chàng có được hạnh phúc trọn vẹn không?
Hỡi người ơi!
Lớn lên cùng một bản
Uống cùng nguồn nước máng
Anh đã nói yêu em
Nhưng bây giờ lại đuổi em thành dâu bản khác.
Đằm thắm, sâu sắc, suy nghĩ chu toàn… dù câu kết của bài thơ mang chứa nỗi ai oán, trách móc, ở sâu thẳm con tim cô gái vẫn bật lên một tình yêu cao thượng. Quyết cởi bỏ bùa yêu vì người mình yêu, cô gái đã đẩy tình yêu và nhân cách của mình vụt lớn. Bài thơ cũng vì thế mà đẹp và nhân văn thêm bội phần.
Bùa yêu, nó khiến cho người sử dụng hạnh phúc và khổ đau, hy vọng và tuyệt vọng. Vậy hình dạng của nó ra sao? Chúng ta thử đọc Lá bùa yêu của Phùng Thị Hải Yến:
Em tìm thấy chiếc lá yểm bùa
trong lồng ngực trái người trai em nhận lời yêu hôm qua
Loại lá mọc giữa thung,
hình trái tim
nhỏ xíu.
Thật thú vị! chiếc lá có hình trái tim được yểm lời yêu. Nữ thi sĩ còn cụ thể hơn nữa:
Loại lá tỏa mùi thơm dọc lối mòn,
sông suối
Loại lá neo hai bàn tay
chụm thành
lời thương.
Loại lá này, nàng biết quá rõ. Đó không giống như loài cỏ tiên ở mãi đỉnh núi cao, phải gian nan, vất vả chưa chắc đã tìm được mà là loại lá quen thuộc mọc ở nơi dễ tìm. Lá nhỏ xíu, hình trái tim và toả mùi thơm. Nàng vừa tự đặt câu hỏi, vừa tự thú nhận lòng mình đã yêu chàng nhiều quá:
Lẽ nào anh dùng lá bỏ bùa để yêu em?
Khi mọi ngăn trái tim em đã chật ắp bóng hình anh
đâu thể đầy hơn nữa!
Có được tình yêu của nàng rồi, chàng vẫn phải dùng đến loại lá này. Có lẽ chàng phòng xa, chàng sợ tình yêu mong manh vuột mất, vậy nên cần thêm chiếc lá này để yểm bùa yêu, như một sức mạnh huyền bí che chở cho tình yêu. Và chính nàng cũng thừa nhận sự yếu lòng: “Gam màu nhớ giăng em yếu đuối/ Giữa trời môi – mắt anh”. Để rồi nàng quyết định sử dụng đến chiếc lá này cho chàng:
Cẩn thận gói tình yêu trong lần khăn thổ cẩm mới thêu,
Em một lần tin hoài nghi,
ngược ngàn
men thung
tìm lá
Yểm lời yêu cuối cùng
vào cuộc đời người con trai
em đã nhận lời
hôm qua.
Tình yêu của nàng dành cho chàng lớn quá, và vốn đa cảm và yếu đuối, nàng không thể không hoài nghi. Thế nên nàng quyết định tặng chàng chiếc khăn thổ cẩm làm tín vật, nhưng không quên yểm lời yêu vào chiếc lá cho chàng. Nàng xác quyết “yểm lời yêu cuối cùng”, nghĩa là trái tim nàng chỉ có chàng thôi, cuộc đời này nàng chỉ có chàng, dù mới nhận lời yêu ngày hôm qua. Một hành động cho thấy tình cảm chín đầy của người con gái.
Sử dụng thể thơ tự do không vần, cùng ngôn từ dung dị, Phùng Thị Hải Yến dệt nên một câu chuyện tình trong trẻo mà huyền ảo như ban mai giữa núi rừng. Ở đây chàng và nàng sử dụng “lá bùa yêu” như là sự chứng giám cho tình yêu của mình với nửa kia. Hơn nữa, “lá bùa yêu” cũng là một sức mạnh ngầm bảo vệ cho tình yêu của đôi trẻ. Quả là một chuyện tình lãng mạn, một cặp đôi thú vị!
Nhân vật trong thơ Phùng Thị Hải Yến có bùa yêu là chiếc lá hình trái tim nhỏ xíu thì nhân vật trong bài thơ mang tên Bùa yêu của tác giả Thèn Hương, đó lại là câu thần chú bằng tiếng Tày do bà ngoại dạy cho cháu gái:
Cằm câu pấu mác phung pền khoắn
cằm câu pấu mác mặn pền ăn
cằm câu tức báo ón lừm me
báo ké lừm lườn
bố hăn câu le háy
đáy hăn câu le khua
Dịch nghĩa:
Lời em thổi mơ kia thành hình
lời em thoảng mận kia thành quả
lời đường mật trai tơ quên mẹ
trai xế quên nhà
xa em thì khóc
gần em thì cười
Câu thần chú ngoại dạy để “phòng khi/ cháu gái cưng dậy thì thất bại”. Rõ ràng đây là câu thần chú đầy oai lực, linh nghiệm để cháu gái có xấu xí tới đâu cũng chẳng thể thất bại trong việc kén chồng. Ngoại đã đi xa, cháu gái vụt lớn thành cô thiếu nữ xinh đẹp, duyên dáng (hẳn là vậy) bởi:
Ngoại đi xa rồi
tôi thành thiếu nữ
tôi biết ngoài kia
bao ánh mắt thầm thương trộm nhớ
bao tiếng sáo khát khao
Nàng đẹp, nàng có nhiều người theo đuổi, lại biết bùa yêu. Nàng hiểu rõ thực lực, sức mạnh của mình. Ấy vậy mà cho đến hết bài thơ, nàng vẫn chẳng sử dụng tới bùa yêu, bởi bao nhiêu là câu hỏi về người được chọn:
sẽ ra sao   
khi trái tim tôi
cuộc đời tôi thuộc về người khác? […]
ôi
bùa yêu
ai người được tôi trao?!
Bùa yêu nàng vẫn chưa trao cho ai, nàng biết tình yêu đích thực rất khó kiếm tìm. Bùa yêu thiêng liêng là thế, là trái tim, là cuộc đời mình, nàng không thể tuỳ tiện trao đi.
Tác giả Hoàng Thị Hiền và Phùng Thị Hương Ly cũng đều cùng có bài thơ mang tên Bùa yêu. Nếu trong thơ Thèn Hương, người con gái nắm trong tay bùa yêu mà chưa biết trao ai, thì với Hoàng Thị Hiền, nàng biết đến sự linh nghiệm của bùa yêu, nhưng:
miền xa ơi,
bùa yêu em chưa học
ép uổng người ta chẳng thể bền lâu
lời anh nói em tin và em đợi
đêm không dài bằng ánh mắt nhìn nhau.
Chàng và nàng ở đây đã gặp gỡ, cùng bật chế độ hẹn hò, bởi:
tình như đào nụ trong sương lạnh
trót hẹn một lời, nhớ không nguôi.
Chàng ở vùng khác, miền xuôi (có lẽ) nên nàng mới dặn dò kỹ càng:
[…]
anh đừng mang giày da leo núi
không theo kịp em trên đá tai mèo
anh đừng ham mùi nước hoa nồng nặc
bởi hương rừng ong mật mới ưng thôi.
người già hỏi, anh cần nói thật
đừng có cười bên nét mặt không vui
nhà em nhỏ xin anh đừng chê chật
mời một câu, hàng xóm sẽ sang chơi
Cái bụng ưng chàng là thế, nụ cười, ánh mắt đã trao đi rồi. Nàng lo cho từng bước đi, cử chỉ của chàng, sao cho xuôi thuận nhất vì cuộc gặp mặt lần thứ hai rất quan trọng, định đoạt cuộc tình của họ trong tương lai. Nàng lo lắng, nàng băn khoăn mà đầy kiêu hãnh. Nàng sẽ không vì muốn chiếm hữu chàng, một người “thân cô thế cô” từ nơi xa đến bằng bùa yêu. Nàng tin tưởng và đợi chờ. Nàng muốn một tình yêu phải thực sự từ hai phía mới bền lâu được!
Với tác giả Phùng Thị Hương Ly, dân tộc Tày, nhân vật trữ tình trong bài thơ của cô lại rất khác:
Bắc thang lên núi
Đi tìm bùa yêu
Ta mình lỡ hẹn
Chợ phiên cuối chiều […]
Lội từng khe suối
Nhặt lá bùa rơi
Mải miết đi tìm bùa yêu mà nàng lỡ hẹn với chàng. Bài thơ có ba khổ mà bùa yêu được nhắc đến hai lần, chứng tỏ nó rất cần cho nàng. Nàng đã thương chàng mà không đủ tự tin, hay nàng lo lắng cho tương lai phía trước? Có phải nàng đề cao bùa yêu hơn cả tình yêu?
Khổ thơ thứ hai, tác giả dựng nên một không gian với những thi ảnh rất đẹp:
Người thương ta hỡi
Trăng lệch đầu non
Tiếng khèn xa quá
Mắt chiều chon von
Cặp đôi gặp nhau trong khung cảnh ấy thì nên thơ biết mấy. Ấy vậy mà cảnh đẹp cũng chỉ làm tăng thêm sự tiếc nuối khôn nguôi, bởi:
Nắng chiều cạn mất
Người thương đâu rồi”
Hơi thơ kéo dài trong niềm day dứt!
Tác giả Trịnh Thị Thứ lại có góc nhìn về bùa yêu rất khác, qua bài thơ Vía bản: […]                  
Anh vờ hỏi nhỏ: Em biết làm bùa chứ?
Nhà em nấu rượu à mà anh nhìn đã say?
Nếu có bùa và rượu,
Anh muốn cả hai và cô gái anh thương nữa.
Anh ơi,
Bùa em là bùa duyên của núi
Duyên bởi mộc mạc, chân thành
Duyên bởi lời then biết nhớ, biết yêu
Duyên bởi câu sli, câu lượn biết cười
Để lòng anh say trong mắt núi tinh khôi.
Anh ơi, anh có nâng chén rượu đầy
Về bên bếp lửa thưa chuyện trầu cau
Về xin vía em buộc cổ tay ngày cưới
Để em về một nhà cùng anh.
Nhận được lời tỏ tình của chàng, nàng dõng dạc trả lời: Em chính là bùa yêu, em chính là vía bản, đó là khẳng định đĩnh đạc của cô gái trẻ. Bùa này được kết tinh từ duyên của núi, từ lời then, câu sli, câu lượn – là những tinh hoa văn hóa ngàn đời. Nàng nhận thức rõ và tự hào về giá trị của mình, từ đó tự tin vào bản thân. Nàng kiêu hãnh mà không tự cao: nếu anh đã có lòng, vía em sẽ thuộc về anh.
Chẳng cần có bùa yêu, bởi cô gái đã là lá bùa huyền diệu.
Thơ về bùa yêu còn mênh mông, có mặt qua nhiều thế hệ thơ của các dân tộc thiểu số phía Bắc. Ở đây tạm nêu tám sắc thái qua tám bài thơ với góc nhìn riêng biệt không kém độc đáo. Có người sử dụng bùa yêu như gia vị của tình yêu, có người mải miết đi tìm, người quyết không học, người học rồi mà chẳng dùng. Dân gian đồn đại ai cũng sợ bị bỏ bùa, chứ trong thơ, có kẻ tha thiết được bỏ bùa, có người dùng rồi lại tự cởi bỏ. Người chưa tìm được bùa yêu thì chưa dám tới nơi hò hẹn, kẻ thì tuyên bố mình chính là bùa yêu, vía bản.
Bùa yêu mãi mãi là huyền thuật dân gian, là giấc mơ về tình yêu lứa đôi hạnh phúc tròn vẹn, đến thành huyền thoại trong thơ ca.
25/1/2025
Thèn Hương
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lại nói về chữ "Lễ"

Lại nói về chữ "Lễ" Trước khi khoác bất cứ chiếc áo xã hội nào,ở bất kỳ vai trò nào, điều trước tiên bạn phải là “Người” cái đã...