Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2025

Tiểu luận của hội viên mới Nguyễn Thị Thiện ở Hà Nội

Tiểu luận của hội viên
mới Nguyễn Thị Thiện ở Hà Nội

Tác giả Nguyễn Thị Thiện còn có bút danh Nguyễn Thiện, Thái Dũng, sinh ngày 28.01.1957, Thạc sĩ văn học, giảng dạy tại Trường THPT Thạch Thất, Hà Nội.
Tác phẩm của Nguyễn Thị Thiện đã xuất bản: Bài học đắt giá – tập truyện ngắn – 2018; Một số tác phẩm tuyển và bình thơ: Thơ dâng Mẹ – 2020, Tình Cha con – 2021, Quê hương Việt Nam – 2021, Nơi biên cương Tổ quốc – 2022, Tiếng lòng nơi đầu sóng – 2023, Thơm hương lục bát – 2023…; Một số tập tiểu luận phê bình: Hái dọc đường Văn (tập 1) – 2022, Hái dọc đường Văn (tập 2) – 2024; Từ những trang Văn – 2024.
Bà đã được nhận: Giải Khuyến khích báo Hà Tây 2001, Báo Văn học Tuổi trẻ – 2003; Giải Nhì Cuộc thi 60 năm Ngành giáo dục Thủ đô – 2014; Giải Ba báo Phụ nữ Thủ đô – 2020; Giải Khuyến khích báo Phụ nữ Thủ đô – 2022.
Suy nghĩ về văn chương, Nguyễn Thị Thiện cho rằng: “Văn thơ là tiếng nói của tâm hồn. cảm hứng dâng lên dào dạt, nhà văn sẽ cầm bút. Viết văn cũng là một cách bày tỏ niềm tri ân với cuộc đời. Sứ mệnh của nhà phê bình VHNT là nhịp cầu nối giữa tác phẩm – tác giả và bạn đọc, giúp người tiếp nhận cảm thụ và “chiếm lĩnh” tác phẩm thuận lợi hơn, lan tỏa giá trị nổi bật của tác phẩm cũng như nét riêng trong phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn, nhà thơ, góp phần nâng cao văn hóa đọc.”
CÙNG TỎA HƯƠNG QUA
NHỮNG NGƯỜI GÁNH SÔNG TRĂNG
Tôi có vinh dự là quen biết cả 6 chị và trên tay tôi là cuốn sách rất đẹp “Những người gánh sông trăng”, tập Thơ – Ký chân dung mới được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, ra mắt với bạn đọc trung tuần tháng 12/ 2024 rất thành công với sự hiện diện đông đảo các văn nghệ sĩ, người thân và bạn đọc. Đây là đứa con tinh thần chung của sáu nữ tác giả tài hoa, xinh đẹp, đã thành danh –  những cây bút thơ văn quen thuộc với bạn đọc cả nước.
Ấn phẩm trên 300 trang (khổ 16 x 24 cm), độc đáo và hấp dẫn của sáu chị em. Gương mặt “mỗi người một vẻ”, nhưng đúng là “mười phân vẹn mười”, tuy tuổi tác, nghề nghiệp, dung mạo, cá tính riêng nhưng đều có chung niềm đam mê sáng tạo văn chương và đều “phải lòng nhau”. Giữa họ nảy sinh tình cảm yêu thương, quý mến và duy trì được một tình bạn thắm thiết từ nhiều năm nay. Chị em tâm đầu ý hợp và cùng sánh bước trên những nẻo đường sáng tạo văn chương, khiến bạn đọc vô cùng mến mộ.
1– Nhan đề “Những người gánh sông trăng”. Trong các chị, qua giao lưu tâm sự, được biết nhà thơ Lam Luyến nghĩ ra cái tên rất ấn tượng này và ngay lập tức nhận được hưởng ứng tán thành của cả nhóm. Đây quả là một cái tên tuyệt hay. Nhan đề ấy vừa có ý nghĩa thể hiện được ấn phẩm – gương mặt chung của nhóm, vừa nói lên được chủ nhân sáng tác trong đó là những người đàn bà từng trải, lăn lộn với cuộc đời nhưng rất giàu khát khao, mơ mộng, cả trong tình yêu và trong cuộc sống nói chung.
2 – Sáu bông hoa cùng tỏa hương khoe sắc. Điều hấp dẫn đáng ghi nhận khác là ấn phẩm có sự tuyển chọn kỹ càng, đã lựa được và in các sáng tác tiêu biểu nhất của từng tác giả, trong đó: Đoàn Thị Lam Luyến 20 bài, Phan Thị Thanh Nhàn 21 bài, Nguyễn Thị Hồng Ngát 23 bài, Kim Nhũ 20 bài, Phạm Thị Thu Yến 23 bài; tổng số 107 bài thơ. Việc sắp xếp thứ thự để in thơ cũng là xếp theo danh tính theo bảng chữ cái Tiếng Việt.
Có thể công tâm đánh giá: mỗi sáng tác trong tuyển thơ và ký đều hay,  mang đậm nữ tính cùng dấu ấn cá nhân và tài năng của mỗi tác giả. Tập thơ có thể coi là sự kết tinh của thơ –  cái đẹp đã được chưng cất qua bao thăng trầm cuộc đời các nữ sĩ – những nhà thơ – nhà văn mà tôi cũng như rất nhiều bạn đọc yêu quý. Sáng tác mỗi người đều mang hồn cốt, phong cách sáng tác riêng  nhưng lại có mẫu số chung là tình yêu lứa đôi, tình yêu gia đình, yêu mẹ cha, yêu cái đẹp, yêu những con người không may mắn, yêu cuộc đời nói chung. Có thể mượn cách nói của nhà thơ Hữu Thỉnh (Năm anh em trên một chiếc xe tăng) ở đây là sáu chị em trong một tập thơ chung, như sáu bông hoa cùng tỏa hương khoe sắc.
3. Khát vọng tình yêu và tính minh triết là dấu ấn nổi bật.
Thơ Đoàn Thị Lam Luyến (1953 – Hưng Yên)   được nhiều người đón nhận bởi đã bộc lộ tiếng lòng của giới nữ. “Gửi tình yêu” là sáng tác tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của chị. Như nhiều phụ nữ tài sắc, năng động khác, Lam Luyến hy vọng một tình yêu chung thủy, hạnh phúc vẹn tròn: “Nếu ta gửi tình yêu/ Vào một nơi chân thật/ Thì tình yêu của ta/ Sẽ thành hương thành mật“. Lời thơ hàm súc được chắt lọc  từ tâm can người phụ nữ đa cảm và chan chứa tin yêu. Nhà thơ đúc rút những vấn đề mang tính khái quát về tình yêu và cuộc sống: “Gửi tình yêu vào đất/ Được hoa trái đầy cành/ Gửi lên trời cao rộng/ Sẽ được ngọn gió xanh”. Gieo nhân nào gặt quả ấy, đó là lẽ đời. Ước vọng  gửi tình yêu trao đi rất tha thiết, dâng hiến trọn vẹn trong tình yêu cũng là khao khát của biết bao phụ nữ và con người nói chung.
Đọc Phan Thị Thanh Nhàn (1943 – Hà Nội), tôi thích nhất mảng thơ tình yêu bởi hàm chứa hầu như đủ mọi cung bậc cảm xúc. Nữ sĩ tái hiện rất sinh động những rung động đầu đời ở những cô gái, chàng trai khi con tim mới biết bối rối đến những tình yêu nồng nàn để suốt hơn nửa thế kỷ qua hương thầm vẫn còn ngát mãi. Thơ chị giàu tính minh triết, “Trời và đất” là một ví dụ tiêu biểu. Với giọng điệu đằm thắm, tinh tế, bài thơ có phát hiện riêng với những liên tưởng so sánh mới lạ. Trời, đất là những thực thể thiên nhiên kỳ vĩ. Trời thay đổi rất nhanh về màu sắc, thời tiết thất thường, đại diện cho anh, phái mạnh. Còn đất ngược lại luôn “trầm tư”, nhẫn nại, “khiêm nhường” là hiện thân của em. Trời đất khác nhau bề ngoài, tính cũng chẳng giống nhau: “Vâng, trời đất chẳng hề thân thiết/ Và tính tình có giống nhau đâu/ Trời vui buồn ồn ào lộ liễu/ Đất trầm tư suy nghĩ trước sau”. Đất chấp nhận, đón chờ tất cả những gì rơi vào, gieo cấy lên nó và “thẳm sâu lặng lẽ sinh sôi”. Từ đó, nhà thơ khái quát lên một quy luật tất yếu của sống: anh và em sống không thể thiếu nhau. Bởi chỉ khi cộng hưởng, bù trừ, đắp đổi, cả hai mới tạo thành vũ trụ để thế giới này trở nên hài hòa, đẹp đẽ.
Đọc thơ Kim Nhũ (1954 – Hưng Yên), tôi thích nhất bài thơ “Dặn con” viết theo thể ngũ ngôn: “Mẹ là cây cổ thụ/ Xòe bóng mát bình an/ Để cho con về trú/ Khi giông nổi bão tràn/ Mẹ là bếp lửa nhỏ/ Trong những ngày giá đông…/ Cuộc đời là bể khổ/ Mọi sự đều vô thường/ Biết buông tay để sống/ Con gặp lại yêu thương”. Lời thơ tâm tình, dung dị mà sâu sắc với chan chứa suối nguồn của tình mẫu tử thiêng liêng và yêu thương. bao dung không bao giờ cạn được thể hiện qua những hình ảnh gần gũi, dễ neo đậu vào lòng người.
Đọc Nguyễn Thị Hồng Ngát (1950 – Hưng Yên), tôi thích nhất bài Biển đêm. Trước mênh mông biển, thi nhân thấy mình nhỏ bé, lẻ loi: “Em cô đơn trước biển ngàn lần/ Khi thiếu vắng anh của em ở cạnh”. Nhưng điều trân quý nhất ở “em” là tấm lòng thủy chung hướng về anh: “Và ánh trăng trên biển vàng sóng sánh/ Muôn năm một mình thắp sáng một tình yêu”. Hình ảnh trong câu thơ đẹp đến kỳ ảo: Ánh trăng như dát vàng trên muôn ngàn con sóng khiến không gian biển sóng sánh ánh vàng trải vô tận. Trăng sáng minh chứng cho tình em dành cho anh: “Biển tuyệt vời lộng gió giữa trời đêm/ Thuyền áp mái tựa đầu tin cậy ngủ”. Trước trăng vàng và biển rộng khiến “Em thèm có anh ở bên” biết bao. Khép lại toàn bài là những lời tâm tình cùng “anh”, vừa sâu lắng vừa dạt dào: “Nơi xa vời anh có biết không?/ Em gọi  anh thì thầm cùng tiếng sóng/ Nếu nơi ấy anh thấy lòng xao động/ Là tình em vang vọng ngóng anh về”. Tác giả đã nói hộ tiếng lòng dào dạt rung ngân của bao trái tim phụ nữ khi xa cách người yêu.
Trong thơ Phạm Thu Yến (1954, Nam Định) tôi thích nhất bài“Người đàn ông của em”. Từng câu, từng chữ chân thành, tha thiết khi nói về người bạn đời. Bài thơ thấm đẫm những yêu thương: “Đã bao mùa thu ta ở trong nhau/ Anh thân thuộc như khí trời em thở/ Mỗi ban mai chim gù bên cửa sổ/ Vẫn thấy rưng rưng huyền diệu cuộc đời…Ta nắm tay nhau qua những thác ghềnh/ Những vất vả nhọc nhằn không kể hết…Điều thiêng liêng ta trao gửi cho nhau/ Hoa ngày cưới tươi trong bình gốm sẫm… Anh rạng rỡ nghe tiếng em thầm lặng/ Người đàn ông của em”. Tiếng nói dịu dàng từ trái tim yêu và được yêu đã nên thơ, nên nhạc. Tình yêu lứa đôi cộng hưởng với niềm tự hào về người trụ cột của gia đình gần nửa thể kỷ sống chung nhà, cùng sẻ chia biết bao hạnh phúc và những khó khăn cuộc sống gia đình. Đúng là nhà thơ đã nói lên tiếng lòng của nhiều người vợ khác về người đàn ông yêu quý nhất của đời mình.
Nhà văn – họa sĩ Trần Thị Trường (1950 – Hà Nội), tác giả của những bức tranh tuyệt đẹp và các bài ký. Ấn phẩm thơ in 24 phụ bản tranh hoa hồng, mỗi tranh: màu hoa, loại bình cắm, số lượng bông khác nhau, bức nào ngắm cũng rất mê. Cuối mỗi phụ bản tranh là những câu thơ hay của chính các tác giả tập sách khiến tranh và hoa, họa và thơ đan kết, cộng hưởng cùng lan tỏa vẻ đẹp. Sách in 5 bài ký chân dung viết về 5 tác giả thơ của cuốn sách. Bằng cái nhìn gần gũi và chan chứa yêu thương, mỗi bài giúp bạn đọc hiểu thêm một phần cuộc đời cùng cái duyên văn chương và tài năng của từng nữ sĩ. Tập sách cũng in bài ký chân dung nhà thơ – nhà biên kịch tài năng Nguyễn Thị Hồng Ngát viết về nhà văn – họa sĩ Trần Thị Trường
Bài viết nhỏ này mới chỉ là một lát cắt, chưa thể nói được nhiều giá trị của “Những người gánh sông trăng”. Với tài năng sáng tạo và sức mạnh của cả sáu chị em, các nữ sĩ sẽ còn sáng tạo và cống hiến nhiều sáng tác hay cho nền văn học nghệ thuật nước nhà.
NHÀ THƠ NGUYỄN THỊ MAI
VÀ TIẾNG LÒNG CHAN CHỨA YÊU THƯƠNG
Trong bài thơ “Con đường” của Nguyễn Thị Mai có những câu: “Con đường có tuổi tôi đau/ Là khi cha mẹ chia nhau tháng ngày/ Bờ vai run bím tóc gầy/ Mắt tôi nhòe ướt hàng cây cuối chiều”. Cứ ngỡ rằng hoàn cảnh đầy xa xót qua những vần thơ đẫm nước mắt như thế sẽ khiến người ta buồn, mặc cảm, dễ đầu hàng trước búa rìu của số phận. Nhưng chủ thể trữ tình đây lại hoàn toàn khác. Tuổi ấu thơ vất vả đã tôi rèn nghị lực và ý chí khiến chị tự lập, biết vượt lên nghịch cảnh để sống vững vàng, sống tốt, chị trở thành thần tượng của nhiều người bởi nhan sắc đằm thắm dịu hiền và tài hoa hiếm ai bì kịp.
Tấm gương nhà giáo, nhà báo không ngừng cống hiến 
Cô giáo Nguyễn Thị Mai sinh năm 1955, quê cha ở Phú Thọ nhưng chị chào đời và lớn lên tại quê mẹ là Phố Ái Mộ thị trấn Gia Lâm – Huyện Gia Lâm. Học xong phổ thông, chị vào và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, về giảng dạy tại trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình. Sau năm năm gắn bó với Tây Bắc, muốn hợp lý hóa gia đình, chị xin chuyển về dạy tại trường Cao đẳng Sư phạm Thường Tín hơn mười năm. Với kinh nghiệm của một nhà giáo có gần hai mươi năm đứng lớp, cùng với bằng Thạc sĩ Văn chuyên ngành Lý luận và phê bình văn học, chị chuyển về công tác tại Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ, là giảng viên chính Học viện tới khi nghỉ hưu.
Bản thân khi còn là sinh viên Đại học sư phạm, năm 1976 tôi đã yêu thích và chép vào “Sổ tay người yêu thơ” bài“Tâm sự cô giáo trẻ” của Nguyễn Thị Mai. Trong đó, tôi thích nhất đoạn: “…Mơ ước ngày xưa thơm mát trong lành/ Theo suốt tháng năm, suốt mùa phượng nở/ Anh đã đi xa, anh vẫn nhớ/ Mỗi bức thư về vẫn nhắc chuyện ước mơ…” Đây là tiếng nói từ trái tim của một cô giáo trẻ dạt dào tình yêu nghề và yêu thương học sinh. Chị gọi nghề mình là “nghề chăm hoa” bởi mỗi học trò là một bông hoa cần đến bàn tay của người thầy tưới chăm vun bón để mai ngày hoa kia tỏa sắc  hương giúp ích cho đời. Dạy học ở trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình và sau này ở trường Cao đăẻng Sư phạm Thường Tín, suốt những tháng năm đứng lớp, cô giáo  Nguyễn Thị Mai đã góp phần đào tạo cho đất nước nhiều thế hệ thầy giáo, cô giáo, những “kỹ sư tâm hồn” trong sáng, lại tiếp tục trao truyền kiến thức, góp phần nâng cao dân trí dựng xây đất nước phát triển.
Nguyễn Thị Mai còn là nhà báo có nghề. Ngoài dạy học, chị viết báo, làm thơ. Người yêu thơ dường như ai cũng biết chị. Là người đọc báo, tôi biết chị qua những bút danh  được người đọc trân quý là Hạnh Hoa, Hạnh My. Bài của chị xuất hiện trên  nhiều tờ báo báo cả địa phương và trung ương: Người Hà Nội, Văn nghệ, Thời báo Văn học nghệ thuật, Quân đội Nhân dân…  Tôi rất thích đọc các bài chị viết bởi lượng thông tin phong phú và kiến văn sâu rộng, giọng thơ riêng đậm thiên tính nữ.
Say mê hình thức tuyệt vời để biểu đạt cảm xúc là thơ, chị Mai chia sẻ: “Tôi rất thích thơ và tập làm thơ từ hồi học lớp 5. Lớn lên thi vào Trường Đại học Sư phạm tôi cũng chọn Khoa Văn để có cơ hội tiếp cận với văn chương… tôi đã được đọc nhiều thơ của các nhà thơ nổi tiếng và viết được nhiều bài thơ cho mình. Tôi nghĩ giáo viên dạy Văn mà làm thơ sẽ có rất nhiều thuận lợi. Đó là dễ đồng cảm với tâm hồn tác giả khi giảng văn. Biết cách nắm bắt ý tưởng sâu kín ẩn trong hình tượng của tác phẩm, sẽ tinh tế hơn trong cách cảm, cách nghĩ về những tứ thơ và vì thế mà yêu văn chương, say mê nghề nghiệp, hết mình với giờ giảng”. Suy nghĩ của chị vừa đúng, vừa sâu sắc. Điều đáng quý là chị nói và nghĩ luôn đi đôi với việc làm trong thực tế, chẳng như ai đó nói một đàng, làm một nẻo.
Nhà thơ tài danh có duyên với nhiều giải thưởng danh giá.    
Thơ là tiếng lòng của người cầm bút. Chỉ khi nào trái tim người viết rung động sâu sắc trước hiện thực cuộc sống vì một nguyên cớ nào đó sẽ bật lên thành thơ. Chị có thơ đăng báo từ 1976, ở nhiều thể loại. Từ đó đến nay, tác phẩm chị viết được đăng thường xuyên trên nhiều báo chí Trung ương và địa phương, đồng thời được đọc nhiều lần trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Thơ chị in thành tập từ năm 1995, đến nay đã có 14 tập thơ và truyện vui. Gồm: Thời hoa gạo cháy  – thơ – NXB Phụ nữ – 1995. Nón trắng sang đò –  thơ – NXB Văn hoá thông tin- 1997. Một khúc sông trăng thơ – NXB Văn học- 2001. Vầng trăng trước nhà – thơ thiêu nhi – NXB Phụ nữ – 2003. Tảo tần gót khuya – thơ – NXB Văn học- 2005. Đừng yêu em như mặt trời – thơ – NXB QĐND – 2006. Bàn tay ấm giọt sương đông – thơ – NXB Hội NV – 2010. Lục bát anh và em – thơ – NXB Quân đội – 2010. Người yêu là lính – tập truyện ngắn – NXBQĐ – 2000. Chuyện tình của Trưởng Bản Pà Khia – tập truyện ngắn NXB Văn hóa dân tộc – 2006. Không xóa nổi lời hoa – thơ – NXB văn học – 2014. Tầm xuân mắt biếc – Tập thơ lục bát – NXB Văn học – 2014. Mang quê ra đảo: Tập thơ NXB Hội Nhà văn – 2015. Vẻ đẹp buốt trời – tập thơ (NXB Hội nhà văn 2018). Hà Nội còn lời yêu bỏ ngỏ – tập thơ  (NXB Hội nhà văn 2019) – tập hợp các bài thơ về Hà Nội.  Thơ từ tin nhắn – tập thơ vui – 2020 (Tự in để tặng bạn bè). Gần đây nhất chị in tập tiểu luận dày dặn “Cái đẹp ẩn chìm phí sau mặt chữ” (NXB Hội Nhà văn – 2023). Điều đó cho thấy cảm hứng sáng tạo  và sức viết của chị thật đáng nể.
Càng phục hơn nữa vì nhiều bài hoặc tập thơ của chị đạt giải cao. Cụ thể như sau:Năm 1995, giải B tập thơ “Thời hoa gạo cháy”, và giải A tập thơ “Nón trắng sang đò” Năm 1997 (tập thơ) do Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam trao tặng.     Giải thưởng văn học Nguyễn Trãi (Hội Văn học NT Hà Tây trao tặng) 2 lần. Giải Nhất (chùm thơ 2 bài: bài Nhà không có bố và Giờ văn) sáng tác văn học cho trẻ em  do Hội Nhà văn VN và UB Chăm sóc thiếu niên nhi đồng VN tổ chức năm 1992. Giải Nhì cuộc thi thơ chủ đề về gia đình do Báo Văn nghệ và Báo Phụ nữ Việt Nam tổ chức năm 1994 (Không có giải nhất) với bài Nói với con chồng. Giải C cuộc thi thơ tình của Báo Văn nghệ trẻ năm 2007. Giải Nhất cuộc thi thơ  đề tài Ma túy năm 2006  Bộ Văn hóa – Thông tin với bài  Ru mẹ. Giải Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi thơ Ngàn năm Thăng Long do Báo Văn nghệ và 5 báo khác đồng tổ chức năm 2010 với bài Chợ đêm Long Biên. Giải Nhì – Giải thưởng Cuộc vận động sáng tác Văn học về đề tài Biên giới – Hải đảo của Hội Nhà văn Việt Nam với tập “Mang quê ra đảo” và một số giải thưởng thơ do Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Báo Giao thông vận tải và một số ngành khác tổ chức.
Tìm hiểu kỹ hơn, tôi được biết: hầu như tất cả những bài thơ, tập thơ chị được giải thường là lục bát, viết về những đề tài bình dị. Như vậy, thể lục bát là thế mạnh nhất của thơ Nguyễn Thị Mai. Ở chị có sự hội tụ và thống nhất cả ba con người: một nhà giáo gương mẫu, nhà báo tận tụy, nhà thơ tài năng. Vai nào chị cũng nỗ lực và thành công xuất sắc trong cuộc sống và nhất là trong thơ.
Đứa con hiếu thảo yêu mẹ kính cha.
Chị thấu hiểu sâu sắc vai trò của người cha – trụ cột trong mỗi gia đình. Khi song thân về với miền mây trắng, không ít lần chị nghẹn ngào trong thơ. Bài “Lời thầm thì với cha” là tiếng lòng thổn thức của người con gái đi xa trở về với cha. Thơ chị chưa bao giờ oán thán hay trách giận cha như thói thường ai đó rơi vào cảnh ngộ ấy. Thương kính nên ngày giỗ chị về thắp hương tưởng nhớ cha:“Con về với gió vườn cha / Căn nhà lợp cọ, chuối na xanh rì / Sông giờ bờ bến thiên di/ Cha giờ tên tuổi khắc ghi ngoài đồng…” Bao nỗi niềm nhớ thương cha ẩn trong từng câu chữ ấy. Bạn đọc gặp nhiều hình ảnh người mẹ trong thơ chị: đủ cả mẹ đẻ, mẹ chồng, mẹ kế, mẹ của những đứa trẻ thiệt thòi khác nữa. Những người phụ nữ ấy rất bình dị nhưng đáng kính. Cùng là phụ nữ, lại đã từng làm mẹ, làm bà nữa, nên tất cả được chị thể hiện  dễ hiểu, dễ nhớ. Thơ chị dễ chạm tới trái tim bạn đọc. Khi mẹ chồng mất, chị viết những câu thơ xót thương như với chính mẹ ruột của mình: “Một nhà trắng những khăn xô/ Dải khăn em út bấy giờ chấm chân/ Bấy giờ đang cuối mùa xuân/ Hoa xoan lã chã từ sân ra vườn”. Hình ảnh hoa xoan rơi rụng nhiều không dứt và từ láy lã chã được chị dùng rất đắc địa. Dường như hoa cũng xót đau và đang khóc thương người mẹ vừa quy tiên. Nếu không thương mẹ chồng thật lòng, chị không thể viết được những lời thơ gan ruột như thế.
Cha mẹ đều đã đi xa, tình thương yêu đùm bọc anh chị em trong thơ chị càng nhận được sự đồng cảm, trân quý của bạn đọc. Tình cảnh một chốn đôi quê cùng bao công việc lớn nhỏ phải lo toan, chị làm mọi việc luôn cố gắng cho thật nhanh nên mọi người đặt biệt danh, gọi chị là “Nguyễn Thị Tất Bật”. Sự từng trải vì sớm phải lăn lộn với đời khiến thơ chị chan chứa tình thương  quê hương, thương mẹ đi xa, thương người chị gái tảo tần khuya sớm. Điều ấy hiển hiện qua những câu thơ chị viết :“Đất đồng Phương Xá quê ta/ Thấm lời con xuống sâu xa mạch nguồn/ Sau rồi chẳng thể về luôn/ Hồn con vẫn ngược vui buồn với sông/ Với người chị gái đợi trông/ Tiễn em ra tận bến sông dặn dò…/ Gia tài lúc mẹ đi xa/ Đôi quang đứt dải, căn nhà dột mưa” (Nỗi niềm ngày giỗ mẹ). Nói đến gia tài là nói tới số của cải người quá cố để lại cho con cháu. Đắng đót làm sao khi gia tài lúc mẹ ra đi chỉ là “Đôi quang đứt dải, căn nhà dột mưa”. Nếu không giàu nghị lực và quyết tâm phấn đấu, làm sao con gái mẹ vượt qua được đói nghèo để học hành lập thân lập nghiệp?
Nhưng thơ Nguyễn Thị Mai viết về mẹ chiếm được nhiều tình cảm ở bài“Qua hàng trầu nhớ mẹ”. Bài thơ là tấm lòng thương nhớ và biết ơn mẹ sâu nặng với người mẹ đã khuất bóng. Lời thơ bồi hồi nhớ lại kỷ niệm về mẹ và hàng trầu vỏ. Hồi mẹ còn sống, người con tuy nghèo nhưng khi đi chợ luôn dành “dăm đồng vặt” mua trầu cau biếu mẹ. Người con ấy hiện đã trưởng thành và cuộc sống “Bây giờ đã hết gieo neo/ Lại không còn mẹ để chiều. Khổ không”. Câu thơ với dấu chấm giữa dòng thành hai câu  cùng với kiểu câu đặc biệt chỉ là một thán từ “Khổ không” đầy xót đau, nỗi lòng cứ nghẹn ngào khó nói nên lời. Bài thơ tỏ rõ tấm lòng con gái càng nhớ thương mẹ hơn và niềm tiếc thương cố kìm nén lại:“Từ ngày đưa mẹ ra đồng / Qua hàng trầu vỏ con không dám nhìn”. Người đọc dễ đồng cảm và trân quý tấm lòng của người con gái thương mẹ. Đạo lý người Việt xếp lòng hiếu thảo với cha mẹ luôn đứng hàng đầu trong đức hạnh của con người.
Trái tim người mẹ giàu yêu thương và đức hy sinh 
Không chỉ tròn chức phận của người con hiếu nghĩa, người vợ đảm của gia đình, Nguyễn Thị Mai còn là người mẹ giàu tình thương và đức hy sinh. Thơ chị thể hiện rất rõ điều ấy. Thương và chăm lo cho con gái không ai bằng mẹ. Nuôi con từ thuở còn bào thai, khi nằm nôi đến lúc lớn lên, phải trải qua thật nhiều khó nhọc và lòng mẹ có biết bao nỗi niềm. Nhưng ngổn ngang trăm mối nhất, thương lo nhiều nhất cho con là khi con gái sắp về nhà chồng. Chị Mai đã nói thật đúng và rất hay về điều đó qua bài “Lòng mẹ ngày con đi lấy chồng”. Thi phẩm thiên về hướng nội, nhà thơ tự nói, tự an ủi mình trước sự kiện con gái sắp ra đi gánh vác giang sơn nhà chồng. Những câu thơ mở đầu đậm tính triết lý: “Biết rằng nụ phải thành hoa / Quả rồi chín ngọt người ta vin cành”. Hình ảnh ẩn dụ giới thiệu thật khéo cô con gái vừa bước vào tuổi thanh xuân được “người ta vin cành”, nhà trai hỏi cưới. Chỉ còn đêm nay, mai là con đã về nhà chồng. Dẫu biết nơi ấy là “chốn no, lành” nhưng tâm trạng mẹ vẫn buồn vui muôn nỗi. Mẹ mừng vì con có người thương yêu, có nơi có chốn và thực sự trưởng thành. Nhưng với tình yêu dạt dào, lòng mẹ vẫn thương lo. Sự kiện con sắp đi làm dâu nhà người đã khơi lại miền ký ức tuổi hoa niên của mẹ. Mai con về nhà chồng, mẹ vui bởi gia đình bên đó ăn ở phúc đức, hiền lành  là điều rất quan trọng khiến mẹ yên lòng. Song vì yêu thương con gái thiết tha, người mẹ tưởng tượng cảnh: “Lặng buồn mẹ nghĩ từ mai/ Tiếng con líu ríu bên tai vắng rồi/ Nấu cơm vơi một phần nồi / Dọn mâm hụt bát, ghế ngồi thừa ra / Có đâu lúc mẹ về nhà / Sau lời gọi cửa con ra đỡ đần…”. Nghệ thuật liệt kê rất khéo trong thơ như nhân lên cấp số sự trống vắng của căn nhà và lòng mẹ khi không còn con gái ở bên. Điều đáng nói là tuy có buồn nhưng bài thơ kết thúc không hề bi quan: “Thôi thì hoa đúng độ xuân/ Mẹ mong hạnh phúc ngàn lần cho con!”. Câu thơ thật đắt giá và cô đọng bởi điều mong ước lớn nhất của cha mẹ là con sẽ có cuộc sống an vui. Hạnh phúc của con là mong ước của đời mẹ. Trên thi đàn Việt, có lẽ đây là bài thơ hay nhất về nỗi lòng người mẹ khi con gái đi lấy chồng. Bài thơ chạm tới trái tim bạn đọc bởi nhà thơ đã nói hộ bao nỗi niềm trăn trở của những người mẹ, người cha khác.
Đâu chỉ thương con ruột, chị Mai còn đặt mình vào vị thế của người mẹ kế, đồng cảm với họ và yêu những đứa trẻ phải sống trong cảnh mẹ vịt con ngan. Tấm lòng nhân hậu khiến nhà thơ “Nói với con chồng” những lời ấm áp, chan chứa yêu thương. Đây là tiếng lòng của người mẹ nói với con chồng những lời vừa thiết tha đắng đót vừa thấm đẫm yêu thương . Vận dụng sáng tạo tục ngữ ca dao, người viết chỉ lẩy ra một vài từ làm thi liệu, có khi mượn ý, khi lại hoán cải câu chữ cho hợp với sự biểu đạt, nhờ đó ý thơ đạt tới sự sâu sắc, thấm thía vô cùng. Ca dao Việt có câu nghiệt ngã:“Mấy đời bánh đúc có xương / Mấy đời dì ghẻ có thương con chồng” được tác giả chắt lọc để thể hiện ý thơ: “Dì không mang nặng đẻ đau/ Đứt dây mà xót thương bầu bí ơi! Kệ cho bánh đúc mấy đời / Người ăn người lại nói lời nghiệt cay”. Tình thương và tấm chân tình của người dì trong bài vươn tới sự cao cả, vượt qua tình cảm thói thường của người đời. Lời thơ đã khép lại nhưng tình thương con của người mẹ kế trong bài thơ còn lan tỏa mãi những giá trị nhân văn sâu sắc.
Tiếng thơ chan chứa cảm thương, bênh vực những phận người không may mắn
Thơ Nguyễn Thị Mai  là tiếng lòng đồng cảm, thương xót những người con, người vợ rơi vào cảnh ngộ kém may mắn. Bài thơ“Nhà không có bố” tôi biết đến và thuộc nằm lòng từ gần ba mươi năm trước,Năm 2002, trong buổi Đại hội Công đoàn của trường THPT Thạch Thất Hà Nội, tôi trình bày bài thơ, cả hội trường im phăng phắc trong niềm xúc động, có cô giáo đã khóc đến nghẹ ngào vì bài thơ đã chạm đến cõi lòng sâu kín trong cô bởi tình cảm chân thành trong thơ có sức cảm hóa, lay động trái tim người đọc, người nghe.
Nội dung bài thơ thật dung dị, khai thác ở phương diện thiếu vắng người cha trong cuộc sống thường ngày. Nhà không có bố quạnh vắng vô cùng, vật dụng trong nhà cũng thiếu nhiều thứ: “Cái đinh cũng thiếu, con dao thì cùn / Bơm xe chẳng hiểu cái jun / Rát tay bật lửa, đá cùn, xăng khô”. Thương nhất là khi mái nhà cũ bị dột khi:“Mùa đông gió bấc mưa dầm / Đậy che mái dột âm thầm mẹ con”. Giữa không gian mưa gió, lạnh lẽo, hình ảnh thiếu phụ và đứa con đội mưa trèo lên mái nhà đậy che chỗ giột khiến lòng người đọc xót xa, thương cảm. Trong bài, điều nhà thơ quan tâm nhất là: không có bố, đối tượng chịu thiệt thòi và đáng thương nhất là những đứa trẻ. Cuộc sống đủ hay thiếu, giàu hay nghèo nhưng đôi bờ dòng sông gia đình nếu thiếu đi một bên, nước chảy không thể êm dòng. Nhà thơ nhắn nhủ tới bạn đọc: người lớn chúng ta hãy làm tất cả cho con trẻ được sống hạnh phúc trong vòng tay yêu thương cả mẹ cùng cha, được hưởng niềm vui trọn vẹn của tuổi thơ. Giá trị nhân văn vừa giản dị gần gũi, vừa sâu sắc thiết thực đã làm trái tim người đọc rưng rưng.
Đâu chỉ yêu  thương con trẻ, tấm lòng nhà thơ thương xót đến những phận người vất vả, khổ cực. Bài Chợ đêm Long Biên là tiếng lòng đồng cảm, thương quý, xót xa dành cho người làm nghề cửu vạn, nhất là những phụ nữ yêu đuối phải làm nghề khuân vác khó nhọc vì sinh kế và nuôi con. Trong bài, ám ảnh nhất là những câu: “…Mồ hôi, sương muối ố hoen/ Buốt lưng cửu vạn đã quen với nghề/ Đồng công năm bảy xẻ chia/ Nẻo cơm quán trọ, nẻo về nuôi con…”. Nỗi niềm trong bài này không phải là thứ tình cảm của người bề trên nhìn xuống mà là tình thương chân thật, là tiếng nói từ tấm lòng gửi đến tấm lòng giữa những người lao động chân chính.
Cũng  xuất phát từ trái tim yêu thương, luôn quan tâm những phận người bất hạnh nên vào năm 2017, chị có bài “Thương binh ngoài chính sách” dành tặng anh Nguyễn Văn Mừng thôn Bãi Cá, xã Bình Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Anh Mừng nguyên là chiến sĩ Trung đoàn 866, quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào, bị thương năm 1971 tại Xiêng Khoảng.  Cũng như nhiều đồng đội khác, anh: “Ra đi giữ trọn lời thề / Hồ sơ đời lính ngày về lại rơi/  Để rồi tập tễnh muôn nơi/  Xin người chứng nhận, xin lời xác minh/ Vết thương đủ lý, đủ tình/ Mà không chứng nổi cho mình nỗi đau”. Bài thơ có tứ rất lạ và độc đáo. Tựa đề đã cuốn hút người đọc, nội dung và ảnh hưởng của thi phẩm lại càng bất ngờ, thú vị. Sau hơn 40 năm gõ cửa nhiều cơ quan  mong được  giải quyết chế độ, chính sách nhưng anh Mừng và mấy đồng đội không đạt được.
Phải đến năm 2019, chị Mai nhờ nhà báo Đặng Vương Hưng đi lại nhiều nơi, gặp gỡ tìm hiểu kết nối, nắm chân xác, tường tận sự việc. Sau đó, nhà báo Hưng đăng bài thơ này trên trang Facebook “Trái tim người lính”. Lập tức, bài“Thương binh ngoài chính sách” tạo nên cơn địa chấn trên mạng xã hội với hàng ngàn lượt chia sẻ, bình luận. Và Báo công an Nhân dân đã thấu hiểu  cho người trong cuộc. Phóng viên báo đưa tin và bảo vệ quyền lợi cho người thực việc thực, tham mưu cho cơ quan chức năng cách giải quyết. Điều kỳ diệu đã đến: dịp  27/ 7/ 2020, không chỉ riêng anh Nguyễn Văn Mừng mà cả hai đồng đội của anh quê ở Lục Nam, Bắc Giang cùng cảnh ngộ là Nguyễn Văn Khái, Nguyễn Văn Rộn đã được công nhận là thương binh. Vậy là thơ ca đã làm được điều tuyệt vời: giúp cho các thương binh được hưởng quyền lợi. Bài thơ đã củng cố cho mọi người có niềm tin vào công bằng trong xã hội. Đây là minh chứng rõ nhất về hiện thực đời sống đi vào thơ ca và thơ ca đã giúp ích cho đời, cho con người vô cùng hiệu quả.
Có đọc các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Thị Mai mới càng thêm trân quý, cảm phục chị bởi tiếng thơ chị đa dạng, giàu nữ tính, gần gũi với cuộc sống, là tiếng lòng chan chứa tin yêu với con người và cuộc đời. Được mọi người yêu quý và tín nhiệm, hiện nay chị là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên BCH Hội Nhà văn Hà Nội, Trưởng Ban Công tác Nhà văn nữ, Trưởng Ban Công tác Hội viên của Hội Nhà văn Hà Nội. Dù bận nhiều việc, đảm trách nhiều chức danh nhưng chị vai nào chị cũng làm tròn ở mức độ  xuất sắc.Chị luôn dành sự quan tâm và tình cảm ấm áp tới mọi người và tất cả  mọi người ai cũng rất yêu quý chị.
Hà Nội, 28/1/2025
Nguyễn Thị Thiện
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lại nói về chữ "Lễ"

Lại nói về chữ "Lễ" Trước khi khoác bất cứ chiếc áo xã hội nào,ở bất kỳ vai trò nào, điều trước tiên bạn phải là “Người” cái đã...