Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Không ai có thể một mình

Không ai có thể một mình

Như tin đã đưa, nhà thơ Trịnh Công Lộc sinh ngày 5.6.1952 ở Thái Bình đã qua đời lúc 15h15 ngày 15.02.2025 (nhằm ngày 18 tháng giêng năm Ất Tỵ) tại Hà Nội, hưởng thọ 74 tuổi. Tưởng nhớ nhà thơ Trịnh Công Lộc, xin trân trọng giới thiệu bài viết về ông của nhà thơ Đặng Huy Giang.
Tôi có may mắn được đọc “Lại về với cỏ” của Trịnh Công Lộc trước khi ông xuất bản nó trong tập thơ “Mặt trời cỏ”. Bài thơ có kết cấu chặt. Bốn câu mở đầu và bốn câu kết rất lôgic về hình thức và nội dung, có liên quan chặt chẽ và hữu cơ với nhau, tựa như không có cái này thì không có cái kia. Và ngược lại. Tứ của bài thơ này được manh nha và hình thành rất rõ ngay từ bốn câu đầu:
“Bệnh có thể qua đi
Nhưng làm sao qua mệnh
Mệnh có hỏi câu gì
Cũng sẽ về với cỏ”…
Và vấn đề được nêu ra cũng bắt đầu từ đây.
Theo cách nói của dân gian thì bốn câu này có thể diễn xuôi: Ở một con người, có thể chữa được bệnh, không chữa được mệnh và nếu mệnh bắt phải thế, thì trước sau “cũng sẽ về với cỏ”.
Và cỏ cùng với biểu tượng cỏ là một phần phần quan trọng của tứ thơ. Chúng vừa có giá trị dẫn dắt, đưa đẩy, thực chứng, vừa có giá trị diễn giải để quy nạp, quy nạp nhờ diễn giải, tựa như không có hai thao tác này, nhờ vào hai thao tác này thì tứ thơ không bật ra và mạch thơ khó mà hanh thông cho được.
Theo tác giả, cỏ “thân tuy mảnh mai thôi” nhưng nhờ “tay vòng tay bè bạn” mà “xanh lên ngời ngời” và nhờ cỏ có “bàn tay bám đất” mà “thêm lộc biếc sinh sôi”. Khi “lơ lửng giữa đỉnh trời” “có mặt trời lửa đỏ” thì còn dưới “mặt đất” có “mặt trời cỏ” vẫn “xanh như màu biển khơi”. “Mặt đất – mặt trời cỏ” là một phát hiện, là một bất ngờ, làm nên một giá trị biểu tượng mang tính sáng tạo rất riêng và sở hữu thuộc về người viết. Nên nhớ trong thơ, sự phát hiện luôn được coi trọng nếu không muốn nói là được coi trọng bậc nhất.
Rồi sự ghìm nén đã được giải thoát, giống như người đang mang một vật nặng trên người được trút gánh vậy. Bốn câu thơ mang chức năng trút gánh thuộc về: “Mặt trời xanh của đất/ Mặt trời đỏ của trời/ Hai mặt trời chiếu rọi/ Nên huyền diệu con người.
Bốn câu thơ này cũng là điểm nhấn quan trọng của tứ thơ. Chúng là những khoảnh khắc bừng rộ của người viết. Bốn câu thơ này rất đáng được đánh dấu khuyên vào đó.
Đó cũng là kết quả kéo theo, mang vai trò dẫn dắt của những câu: “Cỏ lên xanh ngời ngời”, “Xanh như màu biển khơi”, “Thêm lộc biếc sinh sôi” trong các khổ thơ trước, được hình thành trước đó. Những câu thơ này cùng với bốn câu thơ kể trên, là tín hiệu lạc quan làm nên hồn vía của tứ thơ và bản lĩnh lẫn khí chất của người viết.
Riêng khổ kết: “Còn mình khi mệnh đến/ Lại về với cỏ thôi/ Tựa lưng mền đất cỏ/ Mơ tít tắp lên trời” như để lấy lại sự cân bằng của tâm trạng đã được đặt ra từ khổ thơ đầu: “Bệnh có thể qua đi/ Nhưng làm sao qua mệnh/ Mệnh có hỏi câu gì/ Cũng sẽ về với cỏ”. Dường như tác giả đã ngộ ra cái tất yếu. Và nhận thức được cái tất yếu tức là tự do và tìm được đường về tự do.
Trong làng thơ Việt Nam có một số bài thơ chỉ hay ở cách nói. Nhưng “Lại về với cỏ” hay ở cách nghĩ, cách tư duy. Chính cách nghĩ, cách tư duy đã tạo nên sự khác biệt.
Nhà thơ Trịnh Công Lộc nổi tiếng từ “Mộ gió” và làm nên “hội chứng mộ gió” trong thơ. Không chỉ có “Mộ gió”, Trịnh Công Lộc còn nhiều bài thơ ấn tượng khác như “Đỉnh núi”, “Thác gọi”… và một vệt thơ viết về đề tài biển. Thơ ông gan ruột và máu thịt đến từng chi tiết. Tình thơ của ông chân tình, thắm thiết, không phải nhà thơ nào cũng có được.
Đến “Lại về với cỏ”, Trịnh Công Lộc như trở về mình và trả lại ý nghĩa hoàn nguyên cho những gì vốn có, như là quy luật của muôn đời, thông qua biểu tượng cỏ. Và người “Mơ tít tắp lên trời”, hẳn phải là một người bước qua được hiện thực và cao hơn hiện thực!
Đó là điểm nhấn thứ nhất trong “Mặt trời cỏ”.
Hai điểm nhấn tiếp theo, phải kể đến “Vết sờn Cổ Nhuế” và “Bài thơ chưa đặt tên”.
Phải là người có con mắt mỹ cảm khác biệt, lại nhìn sâu vào bên trong như thế nào, Trịnh Công Lộc mới viết những câu thơ đậm đặc kỷ niệm và máu thịt như thế này: “Gạch sờn vai đình cổ/ Vẹt mòn cả lối đi/ Gồ ghề đường Cổ Nhuế/ Còn quanh co những gì…/Lớp học nơi sơ tán/ Tường hào đắp vòng quanh/ Hầm chữ A chạm tóc…/ Cơm ngày nào cũng nguội/ Đeo đẳng bữa bo bo…/ Cả lớp ôm nhau khóc/ Tiễn bạn ra chiến trường/ Áo sờn vai như gạch…”. Rồi qua “năm mươi năm quăng quật”, nhà thơ mới ngộ ra: “Cái vết sờn Cổ Nhuế/ Thành vết son trong đời”. Như vậy, từ Cổ Nhuế xa xưa đến Cổ Nhuế hồi ức tuy dài, nhưng không dài bằng từ “vết sờn” đến “vết son”. Và “vết sờn” trở thành “vết son” ấy, đương nhiên là rất độc đáo, không phải ai cũng dễ dàng có được, trải nghiệm ra được.
Còn “Bài thơ chưa đặt tên”, cũng vậy! Bài thơ có cái tứ hình thành ngay ở khổ đầu tiên: “Có ngờ đâu, trận đòn roi cha dạy/ Ngày bé thơ đã thành của để dành/ Của để dành từ chiếc roi cha đánh/ Con mang theo cho cả nhà mình”. Tất nhiên, đi kèm với “trận đòn roi cha đánh” là những lời dạy để đời về “cách đứng, cách đi, cách ăn, cách nói” cùng với “mỗi bước đi gần, mỗi bước đi xa”. Ở đây, chiếc roi và trận đòn roi không còn đơn thuần là chiếc roi và những trận đòn roi nữa. Và khi đã nhiều tuổi, tác giả mới nhìn lên di ảnh cha và khấn lầm rầm với những lời thật thấm thía: “Cha sẽ yên lòng thấy con đã lớn/ Của để dành từ cha, con dạy các con mình”.
Trịnh Công Lộc cho rằng: “Không ai có thể một mình” (“Cuộc chiến – những ngày bão dịch”). Bởi thế ông luôn hướng đến người khác, mà cụ thể hơn là hướng tới bè bạn. Với ông, một cuộc gặp gỡ thôi, cũng đã là hạnh ngộ: “Ngỡ  như đến trăm năm/ mới có lần gặp mặt/ tay biết ấm trong tay/ mắt biết bừng trong mắt (“Gặp nhau và nghĩ”), “Chúng mình đang đứng đây/ Năm cuộc đời bện lại/ Kết thành một sợi dây/ Nối vào trăm bè bạn (“Năm người đang ở đây”)…Ông là người luôn hướng tới sự đồng cảm, sẻ chia với những mất mát của đồng bào mình: “Không chỉ Chà Leng, Trà Vân, Phước Thành, Phước Lộc…/ Còn bao nhiêu dằng dặc miền Trung/ Nỗi xót đắng mỗi nhành cây, nắm đất/ Còn ngổn ngang, khắc nghiệt khôn cùng (“Tưởng nhớ Trà Leng”).
Trịnh Công Lộc coi sự thanh thản là báu vật của cuộc đời mình. Ông coi lòng tốt làm cho ông nhẹ lòng hơn. Ông coi sức khoẻ, tình cảm và những gì xảy ra quanh ông là bình thường, dù sự bình thường ấy rất “gần chảo lửa”. Những thứ ấy như đổ vào sự im lặng của ông những dằn vặt khó hình dung ra nổi. Chính vì thế mà ông có tứ thơ lạ mang tên “Bất thường”. Ông cũng muốn sống chậm, sống thật chậm để nhận chân ra tất cả. Có lúc, ông như nương tựa vào tre và dùng ngôn ngữ tre để trở về mình qua “Tre làng”:
“Thẳng lưng bên bờ tre mọc
Xanh xanh giăng khắp đường quê
Ai đi lạc miền xa lắc
Tre xanh sẽ gọi người về.”
Thơ Trịnh Công Lộc nhiều tâm sự, nhiều nỗi niềm, tri âm, tri kỷ. Được vậy là nhờ tâm của ông trong, tình của ông nặng. “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài – đại thi hào Nguyễn Du chẳng từng dạy hậu thế như vậy sao?.
16/2/2025
Đặng Huy Giang
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...