Giáo Sư Lê Ngọc Trụ sinh ngày 15/3/1909 tại Chợ Lớn
(Q.6 Tp HCM), trong gia đình nghèo đông anh em. Thời niên thiếu ông theo học trường
tỉnh Chợ Lớn, Phú Lâm (10 năm) – sau đó vào Trường Sư phạm Sài Gòn (4 năm). Đang
học, năm 1926, ông bị bệnh phải mổ xương ở mép tai trái. Dự cuộc bãi khóa ngày
17-5-1929, ông bỏ thi, đi làm cho hãng buôn để có tiền bồi thường học bổng trong
bốn năm. Vì thế, ông không có mảnh bằng nào cả. Giai đoạn 1932 - 1945, ông cai quản tiệm vàng Lê Văn Ngữ (của
cha vợ) ở Chợ Lớn. Bệnh đau đầu ảnh hưởng không nhỏ đến đến đời sống sinh hoạt
hằng ngày. Nhưng với tinh thần hiếu học - lúc rảnh rỗi, ông tự học, tìm mua sách
ngôn ngữ học của Pháp để nghiên cứu tiếng Việt. Ông viết bài đăng rải rác trên
các tạp chí Đông Dương (1939-1941), Đọc (1939), Nghệ thuật (1941), Bút Mới
(1941). Năm 1941, ông gia nhập Hội khuyến học Nam Kỳ, trong Ban trị sự, trông nom
việc ấn loát Kỷ yếu của Hội. Sau năm 1945, ông được mời giúp việc với chức Phó Thủ thư
công nhật (1948-1961) rồi Chủ sự phòng Sưu tầm và thư viện (1961- 1964) - tiếp
đó Giám đốc Viện khảo cổ - biên tập viên của nhóm soạn thảo Từ điển Bách
khoa Việt Nam do Đào Văn Tập chủ biên (1956) - thành viên Ban Điển chế văn
tự năm 1970. Ông giảng dạy môn Chính tả và Ngôn ngữ học tại ĐH Văn khoa và
ĐH Sư phạm Sài Gòn (1956-1975).Năm 1968 ông là một trong bốn vị GS (Nghiêm Toản (tốt
nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông dương), Lê Ngọc Trụ,Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Phúc Bửu
Cầm), không thuộc loại trí thức khoa bảng, nhưng do học vấn uyên thâm và có nhiều
công trình nghiên cứu nên được phong chức danh Giáo sư diễn giảng thuộc Viện Đại
học Sài Gòn . Sau ngày 30/4/1975, cộng tác với Ban Ngôn ngữ - Viện Khoa học
xã hội Tp HCM. Ông về hưu (1977) - tạ thế ngày 11-8-1979 tại Chợ Lớn, thọ 70 tuổi. Về sự nghiệp : Trong gần nửa thế kỷ nghiên cứu ngôn ngữ học
và văn hóa Việt Nam, GS. Lê Ngọc Trụ đã đóng góp cho xã hội 5 cuốn sách, 56 bài
viết về ngôn ngữ, 8 bài về sử học, viết tựa cho 5 cuốn sách, hiệu đính cho 1 bộ
từ điển (Việt Nam Từ điển của Lê Văn Đức, 1970, dày trên 2.000 trang)
và 12 bài báo khác. Với số lượng công trình trên, có thể nói ông là một trong
những nhà ngôn ngữ học viết nhiều nhất ở nước ta vào giữa thế kỷ 20. Trong số các công trình đó, đáng kể nhất là 3 tác phẩm: -Chánh tả Việt ngữ (I,II) - Nxb Nam Việt,1951(tái bản -
Nxb Trường thi,1960) - Việt ngữ chánh tả tự vị - Nxb Thanh tân, 1960, tái bản, 1971 (Giải
thưởng văn chương, bộ môn biên khảo). - Tầm nguyên tự điển Việt Nam - Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1993. Ngoài các chuyên đề về chính tả tiếng Việt ông còn có mấy
công trình khác về cổ văn nhằm chú thích, so sánh về văn bản học các tác phẩm
văn học cổ Việt Nam như: - Nguyễn Cư Trinh và quyển Sãi Vãi (soạn chung với Phạm
Văn Luật, NXB Tân Việt, Sài Gòn 1951). Sách chú thích, hiệu đính, khảo luận về
tác phẩm trên của Nguyễn Cư Trinh, một tác giả hồi thế kỷ XVIII. - Kim Thạch kì duyên (tuồng) - Kim Vân Kiều (tuồng soạn chung với Trần Văn Hương, NXB
Khai Trí, Sài Gòn, 1966). Sách giới thiệu, chú thích, khảo dị tuồng hát bội của
Bùi Hữu Nghĩa và của Nguy Khắc Đản. *Chút kỷ niệm thời Văn Khoa Sàigon (71,72) Tôi phải mất 2 năm mới qua cầu c/c Ngữ học Việt
Nam (hoàn tất Cử nhân Văn Khoa) - nên chi rất ấn tượng về thầy Lê Ngọc Trụ. Nhớ
lắm những buổi học ban trưa tiết trời Saigon nóng bức - phòng học nằm sát tường
đài truyền hình số 9. Thương các bạn Sv nữ siêng năng đến lớp sớm xí ghế ngồi gần
bục giảng để nghe giảng cho rõ. Giọng thầy không được khỏe,âm lượng hơi nhỏ đều
đều, bọn tôi cố gắng tập trung nghe - cũng khá căng - hôm nào “tốc ký” lỗ chỗ
đành phải mượn vở các chị về chép lại - xem thêm cours ronéo bổ sung (do nhóm
XB SV Đi Tới ấn hành) . Môn học “Chính tả và Ngôn ngữ” lít chít khó nhớ nhưng vì là
tiếng mẹ đẻ khiến chúng tôi cố gắng “mài giũa”theo thầy - tháo rời từng đơn vị
cấu thành con chữ để thấu hiểu “ruột gan”bên trong tiếng Việt - chẳng hạn : Phát âm muốn đúng thì phải sửa giọng : -với âm “v”,thay vì nhập hai môi khi phát âm “b” dễ
dàng,phải cho môi dưới sát răng cửa hàm trên -Với âm “gi”phải xịt hơi nhiều để nhấn mạnh giọng
cúa,khó hơn là nói âm “d” -Với âm hoa,huê,huy…phải cho nghe rõ âm “h” khởi đầu -Với âm qua,quê,quy…phải cuốn lưỡi nhiều và túm môi cho
nghe rõ giọng “qu”. Hai âm hoa,qua “khó”nói hơn âm “oa”… Chính tả muốn viết đúng thì lưu ý các mối quan hệ và chuyển đổi
: -Giữa các phụ âm âm môi-môi và môi răng: b-b: bình – bằng, biệt (tăm) - (im) bặt, bắc - (gió) bấc,
bức,… m-m: mãnh - mạnh, mi - mầy, (lông) mi - mày,… v-v: vạn -
(vô) vàn, (công) viên - vườn, (siêu) việt - vượt,… b-m: bồ (côi) - mồ, buồn - muộn, bệu bạo - mếu máo, bùn
- mùn,… v-b: vốn - (tư) bổn, vách - bích, savon - xà bông,… m-v: muôn-vạn, mùa - vụ, mời-vời, mống - (cầu) vồng ,… b-ph: bỏng - phỏng, (góa) bụa- (quả) phụ, buồn-phiền, buồng
– phòng,… -Giữa các nguyên âm hàng sau: u-o: thụ - thọ, vũ - võ, trú - trọ, trung- trong,… u-ô: bồ (nhìn) - bù, chủng - giống, xung (phong) - xông
(lên), Hùng (Ngự) - Hồng (Ngự),… ô-o: khố - kho, cộng - cọng, độc (giả) - đọc, Rạch Ong -
Rạch Ông,… o-uô: phòng - buồng, cục - cuộc, thục - chuộc,… -Giữa các thanh bổng (ngang – sắc – hỏi): a) hỏi-hỏi: bảo - biểu, bảo (vật) - bửu, gửi - gởi,
ngửi - hửi, cảnh - kiểng, ngẩng - ngửng, (khi) dể - (khinh) rẻ, (vận) tải - chở,
(sở) ruộng - thửa, tổ - ổ, mảnh- miểng, dỏm -rởm,… b) ngang-hỏi: can - cản, quăng- quẳng, con con - cỏn
con, mỏng manh, mỏng mảnh, vênh - vểnh (râu), (đen) thui - thủi, (đen) đủi,
dưng - dửng (dưng), tan- tản (cư). c) sắc-hỏi: lén - lẻn, há - hả, thoáng (qua) - thoảng,
gấm - cẩm, ghế - kỷ, kế (mẫu) - (mẹ) ghẻ, (sai) khiến - (điều ) khiển, miếng -
miểng, mảnh, hiếu, háo – hảo,…v.v…. Nghiên cứu sâu Việt ngữ,thầy đã rút ra nguyên tắc: “Vì
là tiếng mẹ đẻ,nói ra hiểu liền, nên chúng ta thường ít để ý đến tánh cách của mỗi
phần tử tạo nên tiếng Việt. Đứng về phương diện ngữ học, tiếng Việt rất tinh vi
khúc chiết có hệ thống rõ rệt như tiếng nói các dân tộc khác trên thế giới. Chỗ
đặc sắc của tinh thần Việt ngữ - là sự kết hợp cấu thức các âm thể - biến hóa
chuyển di phát triển mạch lạc,hợp lý - được tóm lược trong nguyên tắc trụ cốt: “luật tương đồng đối xứng của các âm thể: các âm thể đồng tánh cách
phát âm và đồng chỗ phát âm đi chung nhau và đổi lẫn nhau”. Nhận thức nguyên tắc
này,và vịn theo đó,ta có thể viết đúng chánh tả và truy nguyên tiếng Việt - hiểu
thấu tường tận nghĩa lý của mỗi tiếng - nhất trí chánh tả và điển chế văn tự”. (lược
trích tr.23-24 - Chánh tả Việt ngữ, NXB Trường Thi Saigon - 1960) Bản tính thầy thật thà,hiền lành, không nề hà gánh vác công
việc chung. Học giả, nhà sưu tập đồ cổ Việt Nam Vương Hồng Sển (1902-1996) bạn
thiết thân với thầy Trụ, nhận xét : “Kể về chính-tả, anh (LNT) có chữ sẵn trong bụng, anh nào có cần
như tôi, mỗi lần viết bài là khuấy rầy cuốn Việt-ngữ chính-tả tự-vị của anh đến
nát nhừ cuốn kèn cuốn góc, nhắc lại anh có sẵn chữ trong bụng, thậm chí đối với
một chữ, anh đều có thắc-mắc hỏi vặn lại người chất-vấn, xem chữ ấy có dính líu
gì với chữ Hán và tiếng Việt chính cống mà anh “cháo chan biết thuộc nằm lòng”,
tôi (VHS) nhìn nhận anh là một người bạn tốt và hiền lành như cục bột, trước đây
các bạn đồng-liêu đã từng lợi-dụng lòng không sợ nhọc của Trụ, vừa làm giáo-sư
giảng bài, vừa chấm thi, vừa gác lớp thi, vừa duyệt bài cho điểm thi, bá bạn vạn
sự, mấy cha giáo-sư tân-khoa đều đổ dồn cho anh Trụ gánh.” (nguồn
:https://www.8saigon.xyz) Có thể nói nửa sau thế kỷ XX ,trời phương Nam đã sản sinh Học
giả Lê Ngọc Trụ - một đời cặm cụi “mài chữ”- nối gót “bà đỡ” Trương
Vĩnh Ký (1837-1898) nửa cuối thế kỷ XIX - kẻ trước người sau, góp phần kiện
toàn chữ Quốc ngữ như ngày nay. Tiếng Việt là phương tiện ghi chép, diễn đạt,giao tiếp xã hội
và, hơn thế nữa là công cụ tư duy, gắn kết lòng người - Phải chăng dân tộc ta gặp
nhau ở “mẫu số chung” đó - Công lao là vậy.Tôi đang dùng những hạt ngọc đó để
viết bài này - xin tri ân kính bái tiền nhân. Thủ Đức, 28/3/2023 Phan Văn Thạnh Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét