Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2025

Nhà thơ Tạ Anh Thư: Vết thương và âm thanh đời sống

Nhà thơ Tạ Anh Thư: Vết thương
và âm thanh đời sống

Tiến sĩ Tạ Anh Thư – nhà thơ, tân Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024 – người con của xứ Thủ Dầu Một, Bình Dương yêu dấu; hiện là giảng viên Ngữ văn của Trường Đại học Thủ Dầu Một. Đọc thơ nữ sĩ họ Tạ, người đọc cảm nhận Tạ Anh Thư xem thơ của riêng nàng như giọt sương neo trên đầu lá đưa chiều vào tối, đưa tối ra sáng ban mai và hồn thơ ấy, thực sự có khả năng quyến rũ tâm hồn bạn đọc bởi những bài thơ đơn sơ giản dị nhưng hàm chứa niềm khát khao mãnh liệt. Những tập thơ đã xuất bản: Người lạ (NXB Thanh Niên, 2017); Người có sẵn lòng mang vết thương? (NXB Văn hóa Văn nghệ, 2018); Thanh âm (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2021),… Nữ sĩ Tạ Anh Thư ngày càng có xu hướng truy vấn vào uyên nguyên tồn tại, một hồn thơ nữ thâm trầm chiêm nghiệm từ những vết thương và âm thanh đời sống.
Vết tình và dấu tích con người
Thơ ca đâm chồi từ vườn đời và giữa vườn đời, vết tình sâu đậm hơn cả. Vết tình là vết thơ tươi thắm nhất nhưng cũng nhiều thương tích nhất. Thương tích ấy, ấn chứng cho vết tích con người. Tạ Anh Thư khiến bạn đọc nhận ra vẻ dung dị, đơn sơ của hồn thuần khiết sáng trong cõi tình yêu. Đó là, linh hồn nữ hun đúc khí chất thủy chung, thương yêu từ đôi dòng sông mẹ Sài Gòn, Đồng Nai nhẹ nhàng nhưng không yếu đuối, cuồng nộ nhưng tha thiết – thiết tha vô cùng. “Em đứng đợi anh, tựa cửa/ Ngoài kia mây trôi em trôi/ Giá mà dửng dưng hơn nữa/ Để đau cho đến hết đời” (NCSLMVT, tr.18). Niềm đau bất chợt khiến người đọc nắm bắt nghĩa lý của sống, của yêu và của đời người. Cũng vậy, niềm đau tình là phước báu cho trải nghiệm con người trên thế gian. Gần nửa thế kỷ trước, niềm tận tuyệt như thế trong tình ái đã được nhà thơ Trần Thị Tuệ Mai nói đến. “Đã thấy mình như kẻ suốt đời/ so le hạnh phúc, trệch đường vui/ trong tà áo gió ươm hồn nắng/ thảng thốt môi xanh ngậm ngải cười/ Biết nghỉ ngơi đâu, biết hỏi đâu/ những tôi mê mải, những tôi sầu/ – trong cơn di chuyển mòn tim óc/ đã thấy mình như tới vực sâu…” [1].
Song, niềm đau của Tuệ Mai xưa biến hồn người thành vực sâu, còn niềm đau của Tạ Anh Thư nay hóa thành khát vọng, không phải cảm giác chống chịu đau thương mà là cảm thức tận hưởng nếm trải đau thương. Vì vậy, linh hồn nữ với những ngón tay màu bạch trà như thân cây khô cằn đã trổ ra những chiếc lá “hình tôi”. Cái tôi trong thơ Tạ Anh Thư dù như thế nào đều đâm chồi nảy lộc, vượt lên trên chấn thương luyến ái cuộc đời. Dù cho sống có là cơn hôn mê đắm đuối, nữ sĩ họ Tạ cũng “xin đừng bước đi nhanh quá”, “để đau cho đến hết đời”. Mọi sự trọn vẹn, đủ đầy hóa ra lại không có nghĩa lý cho bằng nếm trải nghịch cảnh, chia cách, đợi chờ. Niềm đau mới thực sự ấn chứng cho trái tim, mới thực sự ấn chứng cho hiện hữu hồn người trên cõi thế!
Du hành vào vườn đời – vườn tình của Tạ Anh Thư, dường như cái tôi phân mảnh và phân thân. Cặp nhân vật trữ tình (anh-em) nhiều lần xuất hiện. Dù hiện diện trong tình thế phân đôi cái tôi, nhưng kỳ thực vết tích anh – vết tích thành phố – cũng chỉ là vết tích em. Bởi sự chọn lựa và nỗi nhớ của em mới khiến cho “anh” và thành phố trở nên có nghĩa lý. Không có nỗi nhớ của em, anh đã tuyết tích trong hư ảo thời gian. Căn phòng, đồ vật nhỏ, tách cà phê, quyển sách, chiếc gương, … tất cả đều vô nghĩa nhưng tất cả đều có nghĩa vì một nỗi nhớ ký thác về phía anh. “Thành phố này/ những bóng người băng nhanh qua đây/ chẳng có gương mặt nào em quen cả/ mà cứ thấy họ giống anh mới lạ/ Em chọn một gương mặt/ tượng trưng cho một ngày/ Thành phố này/ chỉ còn em và mây” (NCSLMVT, tr.29). Chẳng có anh, chẳng có thành phố, cơ hồ chủ thể trữ tình chỉ sống với nỗi niềm của chính mình thôi! Hết sức bình thản, hết sức nhẹ nhàng; hồn thơ họ Tạ không một chút gắng gượng hay cố phơi bày vết tích “người qua” lặng lẽ để cho niềm thương tưởng chìm sâu trong đáy hồn. Nhưng, trong cái mong manh của tính nữ thể hiện cái mạnh mẽ đầy bản lĩnh của nữ tính: dám yêu, dám sống, “đến hay đi nhẹ nhàng”. Ấy có lẽ là kế hoạch hoàn hảo nhất đời người!
Và, trong sự lặng chìm bình thản đó, bạn đọc sẽ chiêm nghiệm triết lý về tình yêu của nữ sĩ Tạ Anh Thư. “Chúng mình đã không còn ở đấy nữa / em không thấy sao/ những tán cây rì rào nuôi ta lớn/ bây giờ/ gió ru lá cành trong tưởng tượng/ nhìn nhau qua cao ốc gương soi/ Chúng mình đã không còn ở con đường/ hiền như con ngựa thắng yên cương/ chỉ xóc tim anh/ mỗi lần em giận hờn vô cớ/ giờ anh lạc/ ở góc quen một thuở/ như trẻ con lạc chợ/ nhớ nhà” (NCSLMVT, tr.32). Tình còn vì mất mát, tình tan tác bởi trái tim lưu lạc. Cõi nhân gian mờ mịt, những cánh chim yêu dễ lạc lối quên đường về. Tại sao hầu như mọi bài thơ tình của Tạ Anh Thư đều như gặp gỡ để ly biệt, như cánh hoa nở chỉ để rồi tàn phai. Phải chăng nhà thơ quan niệm “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”; nhưng còn hơn thế, nhà thơ đã nhận ra “mật nhiệm” nào đó giữa niềm luyến ái của con người trên cõi thế. Luyến ái cũng như mọi cuộc tương phùng đều dự phóng cuộc chia lìa. Vì thế, thơ Tạ Anh Thư luôn gieo vào lòng người đọc một niềm bâng khuâng khôn tả, man mác một nỗi buồn từ thẳm thẳm xa xôi.
Như Đỗ Anh Vũ có nhận xét: “Thơ tình Tạ Anh Thư dễ gieo vào lòng người ta một nỗi bâng khuâng mơ hồ, khói sương bảng lảng, người viết thật khéo biết tạo dư âm và một chiều sâu cho tác phẩm bởi khi đã đọc xong dòng cuối, người đọc vẫn cảm thấy như còn chút gì ẩn khuất, kín nhiệm, chưa dễ thấu tỏ” [2]. Phần dư thiên cổ lụy của văn chương! Phần dư đó ấn chứng vết tích con người trải nghiệm. Qua trải nghiệm, vườn thơ vườn tình đầy những vết gai đâm. Những vết gai đâm cõi người và cõi tình tạo nên những nụ hồng cuộc đời. Những vết tình như vậy kết dệt thành vườn hồng. Những nụ hồng nào? Là những giọt nước mắt ngời! “Nàng nói rằng đã hết yêu tôi/ quay đi/ nàng mỉm cười/ nhưng sao có giọt nước mắt ngời/ từ mắt nàng/ rơi chạm tim tôi” (2018, tr.51). Nụ hồng ngời lên khi tan vỡ, lỡ làng, bẽ bàng, … bấy giờ tình ái mới ngời lên nước mắt, mới ngời thêm thương yêu. Hóa ra, đến cuối cùng, mộng không thành mới làm tình ái thành ra có nghĩa lý.
Trong cái vô thường có cái vĩnh cửu, tình yêu của thi sĩ đối với hoa cũng là tình yêu thi sĩ dành cho đời sống nói chung; chính tình yêu này khiến cho cái tạm bợ vô thường thoáng qua trở nên đẹp và trở nên bất diệt. “Và hoa / nếu cái đẹp ngọc ngà/ của hương thơm và cánh nhung tươi nõn/ ngàn buổi sáng vẫn còn/ có ai màng chào đón? / Nàng cứ buồn/ nỗi buồn đẹp nhất trần gian/ vì nỗi buồn sẽ tan/ ta yêu hoa vì hoa sẽ tàn” (NCSLMVT, tr.8). Thi nhân với tâm thế bình thản nhìn thấy lẽ sinh diệt thường tình của trời đất. Trong đó, nhà thơ tìm thấy mỹ cảm, nhận ra vẻ đẹp thoáng chốc của thế gian. Bởi vì thoáng chốc, thế gian khởi hiện biến đổi liên tục trở nên đẹp đẽ, kỳ diệu. Đẹp phù thế, đó là phạm trù thẩm mỹ!
Phù thế gợi luyến tiếc, có khi như vết gai đâm, cũng có khi như vết dao cứa. Đọc thơ Tạ Anh Thư, người đọc cảm nhận như có vết cắt cứa vào linh hồn. Tạ Anh Thư thường có xu hướng nắm bắt những gì trong khoảnh khắc và trong lặng lẽ. Đó là lát cắt thời gian đủ cứa vào tim độc giả. “Nàng đặt một bông hồng vàng lên cửa sổ/chiều lặn dần sau những hàng cây/ nàng đặt một bông hồng lên cửa sổ/ có một người/ chân đã bước từ đây” (NCSLMVT, tr.55). Thế nên, mỗi bài thơ của Tạ Anh Thư như gai nhọn trên đóa hoa rực rỡ sức sống. Vẻ đẹp phù thế càng rũ rượi trong nỗi phai tàn sắp sửa. Cái gì tạm bợ, vô thường, thoáng chốc, … cơ hồ đẹp một cách luyến tiếc. Dường như dàn trải suốt hai tập Người có sẵn lòng mang vết thương? và Thanh âm là niềm luyến tiếc mơ hồ.
Có lẽ, đó cũng là thế mạnh của nhà thơ Tạ Anh Thư. Nhạy bén trong cảm thức, nhà thơ nhận ra được cảm giác siêu nào đó trong không gian. Phải chăng, đó cũng là giác quan trời phú của linh hồn nữ. Những nhà thơ nữ trước 1975 đã lộ diện ưu thế như vậy. Nhã Ca từng biểu đạt tấm linh hồn thống thiết và đắm đuối: “Chiều đỏ xẫm lăn lộn cùng mặt trời/ Biển nhọc nhằn co dãn/ Và bầy chim xưa trên núi cao/ Lại trở về trong tiếng kêu hốt hoảng/ Biển sâu thấy gì không?/ Núi cao thấy gì không?/ Và chàng có thấy gì không?/ Tình yêu nào đã bốc cháy nàng?/ Hạnh phúc nào đã vùi dập nàng?/ Hồn nào đã tối tăm nàng?/ Và đợi chờ nào đã đánh thức nàng tỉnh dậy?/ Có nghe thấy gì không, và nhìn thấy gì không?/ Hỡi mặt trời đang lộn lộn cùng máu?/ Với tiếng chim xưa cùng giọt lệ trên má/ Tiếng chim khan, giọt lệ khô/ Nàng trăn trở và biến thành bụi mù/ Trong máu lửa, chiến tranh và mùa hạ” [3].
Thế nhưng, cảm thức mùa của Nhã Ca bị thúc đẩy bởi hoàn cảnh ngợp thở của máu lửa chiến tranh, buộc hồn thơ phải trăn trở trước niềm khát sống khát yêu mãnh liệt. Còn với Tạ Anh Thư, cảm thức mùa trong sự cảm nhận tinh tế của thi nhân như được thúc đẩy bởi khả lực siêu hình của vũ trụ. Nữ sĩ họ Tạ mang cảm thức con người vũ trụ. “Ánh mắt em có đang mời gọi/ Khi tôi lẩn tránh vào trang sách trên tay/ Mặt trời thiêu tôi như mặt trời thiêu ngày/ Thời gian cháy trên từng đóm nắng/ Thời khắc nào/ Chúng ta im lặng/ nên mùa hè đi qua” (Thanh âm, tr.63). Thơ Tạ Anh Thư cơ hồ đều kết thúc như đóm tàn chìm trôi vào hư không – vào hư không tĩnh lặng thời gian: cõi thơ ca thanh vắng, tĩnh lặng riêng có!
Và, trong ấy, dấu tích con người cũng dần mờ phai, chỉ còn lại những ước hẹn, hoặc chỉ còn lại những ký ức mơ hồ. Thế nhưng, đó là những dấu tích và ký ức đầy ám ảnh. Dấu tích con người “như đêm/sinh ra để xóa đi/ lời hẹn” (Thanh âm, tr.47). Nhưng trong khoảng trăm năm, nhà thơ tin còn dấu vết, nếp hằn từ trong tàng thức. Mà dấu vết sâu đậm nhất: vết tình. Chính vậy xưa có Canh Mệnh Bà, chẳng phải là cách để tạo hóa bôi xóa vết tình luyến nhớ đó sao! Thế nhưng, vết tình như ấn chứng cho khoảng đời xuất hiện trên cõi trần không dễ gì bôi xóa. “Mấy trăm năm/ Người nhớ lời hẹn từ tiền kiếp/ Vườn xưa nếp lá nằm/ Bần thần từ nẻo về thăm” (Thanh âm, tr.44). Một khi đã tương phùng, trong khoảng trời đất mênh mông hẳn có đường tái ngộ. Thơ Tạ Anh Thư, cơ hồ, đều vọng ra từ tiềm thức. Như có thi linh nào đó hiển hiện trong ngòi bút họ Tạ. Hoặc là những dấu tích tiền kiếp nào đó của họ Tạ vọng lại từ khoảng trăm năm trước đến khoảng trăm năm này! “Trên bãi cát dịu êm/ anh có nhận ra em/ phục sinh/ từ nỗi buồn triệu kiếp” (Thanh âm, tr.111).
Thơ Tạ Anh Thư, người đọc bâng khuâng mường tượng một linh hồn nữ lặng lẽ – rất lặng lẽ giữa không gian yên ắng. Như đang lắng nghe thanh âm hư không, hồn thơ lặng vào suy tưởng. Không phải những thống thiết quay cuồng, không phải niềm khát khao cháy bỏng, thơ Tạ Anh Thư như mặt nước hồ tĩnh lặng mùa đông: trong veo, nhưng cái trong veo ấy làm người đọc tê cõi lòng, buốt tâm can!
 Vết đời và khu vườn nhân gian
Thanh âm nhân gian vọng thành tiếng thơ! Nữ sĩ Tạ Anh Thư đã lắng nghe và chưng cất những thanh âm của nhân gian. Thơ là tiếng lòng của linh hồn nữ nhạy cảm phả lại, như sự cộng hưởng với thanh âm đời sống. Mỗi bài thơ khác gì mỗi bước nữ sĩ căng trải trên đường đời. Theo dấu chân thơ, khu vườn nhân gian mở ra. Trải nghiệm đời sống của mỗi cá nhân hẳn khác nhau. Thế nhưng, người đọc hẳn nhận diện điểm chung nào đó trong sự chiêm nghiệm đời sống đã trải qua. Khu vườn nhân gian của Tạ Anh Thư chính là tiếng lòng cộng hưởng với đời sống và có thể, cộng hưởng với tiếng lòng của người trong nhân gian.
Mỗi người nhìn thấy cuộc đời khác nhau và như vậy, liệu có phải vì có nhiều cuộc đời, nhiều cõi nhân gian? Muôn vàn nhân gian khác nhau chỉ là có nhiều cách nhìn nhân gian khác nhau, chứ không phải có nhiều nhân gian. Trước 1975, đã có hồn thơ nữa trầy xước những vết đời và nhìn thấy nhân gian hiện lên như tù ngục. “Có phải chúng ta/ công việc bắt đầu là/ dựng xây nhà ngục/ Ngục mỗi người đều gắng thật to/ tống giam mình vào đó/ suốt đời không cho ra/ Bằng sức lực thanh xuân, tôi dựng lên những bức tường cao ngất/ bằng trái tim tuổi trẻ, tôi đốt lên những vòng lửa rực trời/ bằng bước chân kiêu hãnh, tôi hăm hở đẩy thân tôi/ bằng bàn tay khéo léo, tôi ra sức đóng cài mọi cửa/ Và tôi rất tự do/ đi lại trong nhà ngục/ và ngục rất tự do/ xoay cùng tôi đây đó/ tôi trang trí ngục tôi/ bằng những hình ngộ nhận/ đang thể hiện nơi nơi/ bằng những hình xung đột/ trong tranh chấp đời đời/ Bằng muôn vàn khắc khoải/ trong tình ái tuyệt vời/ bằng não tâm dã thú/ trong bộ áo con người/ bằng rất nhiều tráo trở/ trong nhân loại là tôi/ Như thiêu thân tự do lao vào đêm/ tôi tự do xây nhà ngục cao thêm/ Tháng ngày leo miết quanh chòi sắt/ để thấy mình đương sống hiển nhiên” [4]. Nhưng, nếu cuộc du hành đến nhân thế chỉ là lao vào khám lớn, gông xiềng cùng hơi thở trong tù ngục thân xác và tha nhân, tha nhân chỉ là nấm mồ của ta, vậy nhân gian thật phi lý. Nhưng, nếu nhân gian phi lý, vì sao phải nghiêm túc và cố chấp vào những tình thế nhị nguyên?
Tạ Anh Thư đã trưng ra những cặp nhị nguyên phạm trù và cho thấy: sự phi lý của nhân gian phi lý. “Không cần phải đánh thức/ Một ý niệm hay một nỗi hoài nghi/ Tất cả đều phi lý/ Không có thắng và thua/ Mọi thứ đều là trò đùa/ Xóa đi và xây lại/ Và tình yêu không là mãi mãi/ Trong niềm thao thức nhớ-quên/ Em chỉ cần soạn một nụ cười/ Chào ngày lên” (Thanh âm, tr.9-10). Chỉ cần soạn một nụ cười chào đón mỗi ngày được hiện diện, được có mặt trong cõi người. Bởi, được đến cuộc đời này, nếm trải sự phi lý của nó, như người diễn viên hết lòng với vai diễn trên sân khấu, đến lúc hạ màn, trở lại tỉnh thức luôn luôn. Biết rằng đích thực cái tôi của mình chẳng phải những tao loạn đời sống kia, mà cái tôi đích thực vốn dĩ yên lặng và thanh thản. Bằng cách đó, hồn thơ gạt phăng đi những rỗng tuếch nhị nguyên, gạt bỏ đi câu kéo hơn thua, được mất, yêu ghét. Thanh thản!
Khác với nữ sĩ Tuệ Mai, Tạ Anh Thư không hẳn không nói đến nhân gian như tù ngục; nhưng đáng nói là nhà thơ luôn mang tâm thế ra đi ra đi làm kẻ du hành trên chuyến tàu nhân gian. Như, nhà thơ thổ lộ, tất cả đều không phải “tôi”; “tôi” đang trên chuyến tàu. Nhiều bài thơ khác trong tập Thanh âm cũng mang tâm thế ra đi. Ví dụ bài thơ Cuộc đời ta chưa sống. “Rời xa nơi đây cùng với em/ Trên những con tàu buồn như đốm mắt đêm/ Lẫn vào những kiếp người vụt qua cùng/ ruộng đồng phố xá/ Cuộc đời ta chưa sống/ Ôi ta còn đợi đến bao giờ/ Tiếng còi tàu thúc giục trong mơ/ Em sẽ nhìn thấy trong anh tuổi trẻ/ Như anh thấy em/ Mà không phải nói gì thêm/ mà không phải nói gì thêm/ Cuộc đời ta chưa sống/ Những giao lộ chẳng cần phân vân/ Những câu chuyện chẳng cần đầu cuối/ Em sẽ là em của hôm nay/ Đích đáng một lần hiện diện/ như cây lau trên nương/ Uốn mình khi gió đến/ Cuộc đời ta chưa từng sống/ Ta sẽ đến và ở lại/ Sẵn sàng trả giá đến kiệt cùng/ Cuộc đời ta chưa sống/ Mai này khi đám than thân ta rực sáng một lần/ Liệu có nghĩa gì cho những phân vân” (Thanh âm, tr.101-103). Chuyến tàu nhân gian – hồn thơ dự phần, không phải phương tiện để nhà thơ chạy trốn đời sống. Ngược lại, trên chuyến tàu, nhà thơ du ngoạn nhân gian. Nhìn thấy những tình trạng, hoàn cảnh cuộc đời, lòng người cộng hưởng để “em sẽ là em của hôm nay”. Nếm trải nhân gian, đám than thân ta rực sáng một lần; phân vân sẽ khiến cho nghĩa lý lụi tàn. Hãy tận lực trọn lòng với nhân gian một lần mỹ mãn.
Bên cạnh hình tượng người nhân tình hư ảo, có hình tượng đáng nói đến trong thơ Tạ Anh Thư: hình tượng kẻ sĩ. Kẻ sĩ với nỗ lực vô vọng, muốn khẳng định đời sống vượt ngoài những hạn định, truy cầu nghĩa lý, và cũng để kháng cưỡng lại nỗi phi lý của đời. Nhưng rốt cuộc “Cánh cung đời đã lắp mũi tên/ Phóng một lần cho biết mình đã sống/ Phóng một lần cho đến kiệt cùng/ Rồi gục xuống thềm đời vô vọng” (Thanh âm, tr.16). Và cuối cùng, nhà thơ viết “Ai đã thấy trời xanh mãi mãi/ Ở ngoài kia mấy trắng bay về” (Thanh âm, tr.16). Nhà thơ không đưa ra nhận thức về đời sống mà chỉ là sự truy tìm. Chính trong sự truy tìm ý nghĩa khả dĩ hiện ra. Chỉ khả dĩ! Và, trong áng mây đó, người đọc bất chợt thấy phảng phất dư hương Lão Trang, dư vị Thiền tông.
Với tâm thế như vậy, khu vườn nhân gian và con người trong thơ Tạ Anh Thư cứ trở đi trở lại nhiều lần. Cõi này, ta đến rồi đi và rồi ta trở lại. Nietzsche gọi là quy hồi vĩnh cửu hay sự biến hình tối thượng của Dionysos [5]. Ý thơ Tạ Anh Thư cho rằng có thể có những hình hài, trong những tấm áo khác nhau, nhờ đó ta hiện diện giữa đời. Có những vần xoay miên viễn mãi hoài mà ta không thể nào biết rõ; nhưng chắc chắn còn trở đi trở lại cuộc đời này. “Trở lại/ Nhiều lần nữa/ Như là ngọn gió hoang/ Như là con sóng tràn/ Trở lại/ Khi em thức dậy/ Em có thấy một tinh cầu đang cháy? / Ta sẽ trở lại nhiều lần nữa/ Nhưng không chắc với chiếc này” (Thanh âm, tr.39-40). Mỗi lần, ta sẽ gặp lại em, trong những vận hội khác nhau; Cùng nhau, ta làm nên sự đời, mở ra cõi người, ghi khắc những vết tích yêu thương đẹp đẽ trong khu vườn nhân gian. Nhân gian tái lai trong những vòng lặp bất tận.
Trong khoảng trời đất ở khoảnh khắc nào, tương phùng mở ra, những vết đời vết tình phục sinh! “Khi những rặng cây tan đi trong hoàng hôn/ khi những thủy triều lên trong bão tố/ những con sóng ra sức vỗ vờ/ gió thổi những cánh chim rạn vỡ/ Khi những vì sao cúi đầu im lặng/ khi ánh trăng chảy thành sông bạc trắng/ những lâu đài biến mất trong đêm/ Trên bãi cát dịu êm/ anh có nhận ra em/ phục sinh/ từ nỗi buồn triệu kiếp” (Thanh âm, tr.111). Cũng nói về “Phục sinh”, Thanh Tâm Tuyền cho thấy nỗi buồn vây khốn trong những thúc bách hiện sinh. “tôi buồn khóc như buồn nôn/ ngoài phố/ nắng thủy tinh/ tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ/ thanh tâm tuyền/ buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường/ tôi xin một chỗ quỳ thầm kín/ cho đứa nhỏ linh hồn/ sợ chó dữ/ con chó đói không màu”. Còn nỗi buồn của Tạ Anh Thư là nỗi buồn phục sinh của tái lai vĩnh cửu, mang cảm thức con người vũ trụ. Khu vườn nhân gian với Tạ Anh Thư là sân khấu cuộc đời. Mỗi người mỗi vai diễn, như cái đà sống một khi đã thoát thai liền vận động theo mệnh phần siêu hình nào đó. “Màn nhung hạ rồi/ chiếc bục lẻ loi/ sân khấu/ Vua đã ngồi/ Chú hề đã ngồi/ Chiếc bục gỗ sồi/ vừa vặn/ Một đoàn quân/ vừa kéo qua/ tiếng bước chân/ dậy đất/ Một cuộc tình vừa mới xa/ nỗi buồn/ rất thật/ Chiếc bục/ quên mất/ vai diễn/ chính mình” (Thanh âm, tr.42-43). Dù nhà vua hay chàng hề, dù chiến thắng hay chiến bại, dù tranh giật hay dâng cho,… tất cả đều những bào ảnh trên sâu khấu.
Có đó rồi mất đó, cười đó rồi khóc đó, thắng đó rồi thua đó,… vở tuồng hạ màn, sâu khấu cuộc đời nín lặng. Nói như Honoré de Balzac: Tấn Trò Đời; nói như William Makepeace Thackeray: Hội Chợ Phù Hoa; nói như Albert Camus: Phi Lý!
Vết thương và ân điển tạo hóa
Với cảm hứng tâm linh, thơ Tạ Anh Thư thường quay vào nội tại để quán chiếu. Từ đó, bóng hình Người hay Tạo Hóa Siêu Hình mơ hồ khải thị. Có thể liên hệ bóng hình này với Brahman – Đấng Tối Thượng – trong triết lý Vệ Đà Ấn Độ. Những vần thơ dung dị nhưng chất chứa cảm thức thâm trầm về uyên ủy của tạo vật. “Xuyên qua tôi/ Qua anh/ Qua những ngọn đồi/ Là vũ trụ/ Người hát bài ca của Người/ Bài ca muôn đời/ Mà chúng ta chỉ là tấm gương soi” (NCSLMVT, tr.5). Trong khúc hát của Tạo Hóa, không có ta không có người, không có mình với cái khác, mà tất cả chỉ là sự thị hiện thiêng liêng của Tạo Hóa Vô Biên. Không có ta cũng chẳng có tha nhân mà chỉ có khúc hát dâng đời bất tận của Người. Mọi tạo vật chỉ là nơi trú ngụ của Tạo Hóa.
Với tâm thế như vậy, nỗi khổ niềm đau đời sống cũng là dư vị khiến cho cuộc tồn sinh này trở nên có nghĩa lý. Nữ sĩ họ Tạ với lời lẽ thủ thỉ, ân cần nhắn gửi bạn đọc “người có sẵn lòng mang vết thương” dù bao nhát roi đời quất vào tâm hồn để lại những vết sẹo trần gian. “Người biết đấy đời mong manh sinh tử/ nên mai đây ly biệt chuyện bình thường/ Người yếu đuối chỉ mong níu giữ/ Liệu có sẵn lòng mang vết thương? / Người biết đấy ta thương người lắm/ Nên trước khi người khăn gói lên đường/ Ta muốn biết liệu tim người đủ ấm/ Để sẵn lòng mà mang vết thương” (NCSLMVT, tr.10). Trong cuộc sinh hiện này, những vết sẹo như vậy tạo nên dáng điệu, đặc điểm riêng của con người trong cõi người. Những vết sẹo như vậy không chỉ ấn chứng cuộc hiện hữu của ta trên đời sống mà nó còn khiến cho cuộc hiện hữu của ta thành ra có ý nghĩa. Cuộc du hành của ta vào cõi người vì thế thật ý nhị, nhiệm mầu.
Đi vào chiều kích tâm linh, ngôn ngữ thơ Tạ Anh Thư mang nhịp điệu ý thức thâm trầm. Không chỉ vần nhịp trên bề nổi ngôn từ mà còn nhịp điệu của ý thức du dương ngã lòng theo những dòng chảy đời sống. Đó là, những mạch suy tư, tiết điệu của mạch suy tư khiến tạo chất nhạc của chiều sâu. Dưới địa tầng tư tưởng, lời thơ vang ra thanh âm của Vô Biên, phảng phất hương thời gian. Trong cái hữu hạn có cái vô hạn, trong đau thương có hỷ lạc an nhiên, người đọc tiếp nhận thơ Tạ Anh Thư mang hơi hướng thi ca tâm linh xứ Ấn.
Và, đọc thơ Tạ Anh Thư, người đọc cảm thấy một linh hồn già đã luân lưu qua nhiều tiền kiếp. Ấy là tấm linh hồn phủ đầy sương giá, trên đó có cả trái đắng lẫn mật ngọt, đã mê mải du hành trong cõi người qua thời gian. Cuộc đối thoại – nhà thơ gợi ra cuộc đối thoại của “cái tôi” bây giờ và “cái tôi” mai sau. Sự phân thân này là ý thức phản từ, nhà thơ theo đó quay lại quán chiếu tự thân. “Một hôm tôi sẽ bạc đầu/ dẫu tha thiết mấy cũng đâu nghĩa gì/ tao phùng rồi lại phân ly/ trên đầu mây trắng có gì của tôi/ Người nghe tôi nói chỉ cười/ Thoắt rồi còn lại bóng người xa xôi/ Ở trên sườn núi tôi ngồi/ hát xong bài hát rong chơi tôi về” (NCSLMVT, tr.24). “Có gì của tôi”, câu truy vấn này phản chiếu ý thức sở hữu của con người. Phàm cái gì mà con người muốn chiếm giữ thì chính điều đó sẽ cầm tù hồn người; ngược lại, con người không sở hữu tất cả, con người thuộc về tất cả thì con người có tất cả. Ở chỗ không có gì cả, lại là được tất cả. Câu thơ quả thực gợi nhắc quan niệm của Osho – bậc thầy tâm linh của thế kỷ XX. Cuộc đời này, người đến rong chơi, tàn cuộc rồi đi… Rồi đi thong dong tự tại!
Nhưng, để có được sự bình tâm, tự tại như vậy hẳn hồn thơ nữ sĩ họ Tạ cũng trải qua không ít đau thương và trong đau người ngộ ra được lẽ thương. Đau thương chuyển hóa thành tình thương. Cảm thức sống chết cũng cho thấy sự chuyển hóa. Cũng chính ở chiêm nghiệm này, nhà thơ họ Tạ làm bộc lộ ra bản chất cái chết. Và người đọc hiểu được vì sao nỗi chết thèm khát sự sống. “Bên đồi cỏ khô/ cái chết/ đợi đến ngày được chôn vào huyệt mộ/ Ta mang đến mọi điều thay đổi/ sao riêng ta chẳng được đổi thay? / Nào có ai hay/ Cái chết muốn một lần/ được chết đi/ để trở thành sự sống” (Thanh âm, tr.50). Sự đổi thay, biến chuyển, tạm bợ kia lại chính là nỗi thèm khát của cái chết. Trong cái biến chuyển luôn luôn, cái chết cảm nghiệm được mỹ vị của đời sống. Quả là minh triết của Yama – người quyền quản cõi chết – minh triết Áo Nghĩa Thư qua cảm nghiệm của thần chết Yama thấu suốt mọi lẽ huyền bí của cái chết, tức thấu suốt nhiệm màu của sự sống.
Không chỉ vậy, nhà thơ Tạ Anh Thư còn chuyển hóa bằng cách mang tình thương dâng hiến tha nhân, cuộc đời; và dâng Người – Tạo Hóa Tối Thượng. “À em / khi mà mình thương/ tình sẽ biến mình thành giọt lành trong mát/ bằng cách này hay cách khác/ dâng người” (NCSLMVT, tr.14). Nhà thơ nhìn thấy giọt lệ như giọt sương trong mắt “Ngài” – chính ở chỗ đời sống tuyết băng vô tận xứ với những đau thương, nhà thơ nhận biết ân điển vô vàn. Giọt sương ấy là cam lồ của bậc toàn giác, là nước thiêng của chân đạo sư, là hồng ân của Đấng Tối Thượng.
Tạo Hóa Tối Thượng, có khi siêu hình cảm thức, có khi thị hiện trong hình người, có khi thị hiện như bé thơ. Như ký thác cho hình tượng thơ bé siêu hình, nhà thơ Tạ Anh Thư biểu thị khát vọng: giữ nguyên hiện trái tim mình. Phải chăng, nhà thơ Tạ Anh Thư muốn chuyển tải đến bạn đọc giá trị của hạnh anh nhi! “Cứ thơ như em thơ”. “Ta xin em/ cứ giữ nguyên hiện trạng trái tim mình/ mà thơ như em thơ/ để ta còn được bất ngờ/ đời vốn dĩ/ đã có quá nhiều kế hoạch” (NCSLMVT, tr.15). Sự gặp gỡ thế gian đều như sự gặp gỡ lần đầu tiên. Mãi mãi còn nguyên vẹn vẻ hồn nhiên và bất ngờ với tất cả dáng vẻ thế gian. Hạnh anh nhi quý giá vô ngần. Thế nhưng, dấn thân vào cõi người “mờ nhân ảnh”, hạnh anh nhi cứ lần hồi tiêu biến, khiến con người từ chỗ bé thơ trở thành người lớn, đánh mất thuần khiết của tuệ giác. Hãy quy hồi hạnh anh nhi để bước vào cõi sống của người lớn, chữa chạy những vết thương lòng. Hạnh anh nhi, như nhà thơ Tạ Anh Thư gợi mở, cũng rất có thể là bài thuốc cho tâm hồn con người lầm than. Cũng như Tagore từng trở về hạnh anh nhi để chạy chữa đau thương mất mác. Bằng cách chạy chữa chính mình, hồn anh nhi có thể chạy chữa cuộc đời.
“Thiên hạ kêu la và tranh giật, họ hoài nghi và tuyệt vọng, họ không biết chấm dứt những tranh cãi của mình.
Này con ơi, con hãy mang đời con đến giữa bọn họ như ánh lửa sáng ngời, trong trẻo, thuần khiết, và ban cho họ niềm hỷ lạc vui thích trong tịch nhiên.
Họ độc ác vì tham lam và đố kỵ, lời lẽ họ cũng giống như những lưỡi dao khát máu che đậy.
Này con ơi, con hãy đến và đứng giữa trái tim sưng sỉa cáu giận của họ, và hãy đặt ánh mắt dịu dàng trìu mến của con nhìn vào họ thể như lòng từ ái bình yên của buổi tối bao phủ những xung đột thường ngày.
Và hãy để họ nhìn thấy khuôn mặt con, hỡi con yêu, để nhờ đó họ biết được nghĩa lý [màu nhiệm] của vạn hữu; khiến họ yêu thương con và nhờ đó họ biết yêu thương lẫn nhau.
Hỡi con ơi, hãy đến và ngồi vào cõi lòng vô hạn. Khi hừng đông, hãy mở rộng tâm hồn con như bông hoa đang nở rộ, và lúc tà dương, cúi đầu xuống trong tĩnh lặng, con trọn lòng ca tụng thường ngày”.
(Tagore, Trăng Non, 1913, Võ Quốc Việt dịch)[6].
Thơ Tạ Anh Thư (những bài như Trú ngụ, Người có sẵn lòng mang vết thương, Và trong vườn xuân tôi ngủ mơ, Cứ thơ như em thơ, …) khiến ta liên tưởng đến đại thi hào xứ Ấn – Rabindranath Tagore (1861-1941). Sở dĩ liên tưởng bởi người đọc nhận ra có điểm tương đồng, cơ hồ Tạ Anh Thư cũng sử dụng thi ca để chạy chữa tâm hồn. Đó là, những buồn vui khổ lụy của nhân gian, răng ai đã dấn thân vào đều ít nhiều bị chấn thương. Bằng thi ca, niềm đau được chạy chữa. Trong câu thơ “người biết đấy đời mong manh sinh tử” của Tạ Anh Thư, ta liên tưởng đến nhận xét về Tagore: “sự chết không phải là một điều khổ, mà là một sứ mạng của vô cùng!” [7]. Thơ Tạ Anh Thư là sự hài hòa giữa lời lẽ dung dị và suy tư uyên áo. Tạo hóa thực hiện mọi thứ thông qua tôi. Tôi chỉ là cây đàn mà Tạo Hóa gảy lên khúc nhạc đời sống; tôi chỉ là cây viết mà Tạo Hóa dùng lấy để viết nên cõi người. Cảm hứng thi ca như thế trong bài “Tôi chẳng viết điều gì cả” của Tạ Anh Thư gần với triết lý Vệ Đà; gần gũi với truyền thống sùng bái trong Hindu giáo. Khi con người nhận ra đích thực con người không thực hiện điều gì cả. Mọi thứ được cuộc tạo hóa diễn hiện. “Tôi chẳng viết điều gì cả/ Những câu thơ đã chọn tôi/ Bông hoa trôi vào lời/ Đời tôi kể về những làn hương nõn/ Tôi không nhớ gì về ngôi sao lạc/ Tự nó đến tìm tôi/ Tự nhiên, nó kéo ghế ngồi/ Kể tôi nghe về hành trình ban tối/ Tôi chưa bao giờ biết về dòng suối/ Tự nó chảy đến bên tôi/ Này ngươi, có một cuộc đời/ Trôi giữa những miền đất lạ/ Tôi chẳng viết điều gì cả” (Thanh âm, tr.37). Việc này không có nghĩa con người không có khả năng làm chủ và lựa chọn vận mệnh. Ngược lại, đây là nhận thức cho thấy con người đã thấu suốt và hiểu rõ vận mệnh. Có những cái bất khả tri, bất khả thuyết, bất khả luận giải. Đời người hữu hạn, tạo hóa vô biên; ý thức nhỏ bé, siêu thức vô cùng. Thế nên, Tạ Anh Thư nhận ra sự thực: mình chẳng viết gì, chỉ là ngòi bút của Tạo Hóa. Như Mẹ Terasa đã từng nói: “Tôi chỉ là cây viết chì nhỏ bé trong bàn tay của Thiên Chúa. Chúa suy nghĩ, Chúa viết ra, cây viết chì chỉ để yên cho Chúa hành động”.
Ngày càng đi sâu hơn vào cảm thức siêu hình, thơ Tạ Anh Tư ít nhiều vén mở cho ta cảm nghiệm biệt ngã và chân ngã, cảm nghiệm cái tôi cá nhân và Tự Ngã Tối Thượng. “Gọi tôi là gì cũng được/ Tất cả đều như nhau/ Đều chẳng phải tôi đâu/ Tôi vẫn đang trên những chuyến tàu” (Thanh âm, tr.51). Nhà thơ như đang quán chiếu bản diện sự sống chính mình. Cái gì thực là tôi? Cái gì không phải là tôi? Tất cả chỉ là hành trình, nghĩa lý nằm ở trải nghiệm. Cần trải để nghiệm, dịch biến luôn luôn, không thể võ đoán gánh định tôi vào cái gì? Bất khả! Nhận thức được bất khả đó mới khả dĩ ngộ ra Tự Ngã như nhiên bất diệt. Thơ ca có siêu năng lực mà lời lẽ luận lý thông thường không thể khai mở. Chỉ có thơ ca mới đủ sức khai mở thần thông thấu thị tối thượng; còn lời lẽ luận lý càng nói tới, càng soi chiếu, càng luận giải lại càng rời xa tối thượng.
Đôi lời tạm kết
Tựu trung, rất có thể người đọc thơ Tạ Anh Thư đồng cảm bước tiến trong tư duy nghệ thuật và thủ pháp nghệ thuật Người có sẵn lòng mang vết thương? (2018) tới Thanh âm (2021), cũng là sự chuyển dịch cảm hứng tình yêu dâng hiến bắt nhịp cảm hứng triết lý đời sống. Từ cảm thức, Tạ Anh Thư đi sâu vào chiêm nghiệm. Có lẽ, những bước thăng trầm cuộc đời đã khiến cho thi nhân có cái nhìn đời theo chiều sâu. Qua những vần thơ của tập Thanh âm, nhà thơ muốn bóc tách và làm biểu hiện ra bản chất của đời người. Khu vườn nhân gian con người dấn thân vào trong khoảng thời không nào đó, rốt cuộc có nghĩa lý là gì? Cuối cùng, thơ Tạ Anh Thư là những khúc ca dâng đời. Lời của gió và cuộc đối thoại hoa hồng là hình ảnh ẩn dụ cho những trắc vấn về nỗi buồn vui, hạnh phúc, vô thường, tạm bợ cùng sự hiện hữu của con người trong cõi thế gian. Nữ sĩ Tạ Anh Thư không đại ngôn nói về những nghĩa lý hiện hữu, ngược lại nữ sĩ đất Thủ Dầu Một phát hiện những nghĩa lý uyên ủy của đời sống trong cuộc tiếp chạm thường tình của đời sống.
Tạ Anh Thư – một hồn thơ nữ tính, đằm thắm, chân thành và có khả năng hàm chứa triết lý sâu xa. Những điều dung dị, tưởng như nhỏ nhặt được nhà thơ họ Tạ xây dựng thành những tín hiệu nghệ thuật. Tiếng lòng rung và ngân lên khi bắt gặp những tạo vật trần gian. Trong cuộc du hành này đến nhân gian, con người đã có cơ hội hạn hữu và quý giá vô ngần để trải nghiệm tất cả cung bậc và hoàn cảnh đời sống; đồng thời nếm dư vị nhân gian, mảnh hồn tục lụy trong cõi người phút chốc trở nên đẹp đẽ, kỳ diệu.
Thơ Tạ Anh Thư, người đọc có thể nhận định rằng ít nhiều vén mở triền cái trong tâm trí tao loạn nhân gian, khai mở hình bóng lẩn khuất của Tạo Hóa Nhiệm Mầu!.
Chú thích:
[1] Trần Thị Tuệ Mai, Trong cơn di chuyển, Tạp chí Văn số 183 ra ngày 01 tháng 8 năm 1971, tr.3.
[2] Đỗ Anh Vũ (2017). Thơ của người tôi chưa từng gặp…. Trang thông tin Khoa Văn học – ĐHKHXH&NV TPHCM. Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/.
[3] Nhã Ca, Mùa hạ, Tuần báo Nghệ Thuật – Số 1 (1/10-7/10/1965), tr.22.
[4] Trần Thị Tuệ Mai, Khu vườn nhà ngục tôi, Tạp chí Văn – Số 180 ra ngày 15 tháng 6 năm 1971, tr.2-3.
[5] Gilles Deleuze (2010). Nietzsche và Triết học (người dịch Nguyễn Thị Từ Huy, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính). Hà Nội: NXB. Tri thức, tr.96.
[6] Võ Quốc Việt (2023). Hạnh anh nhi trong tập thơ “Trăng Non” của Rabindranath Tagore. Trang thông tin Văn hóa Phật giáo. Nguồn: https://tapchivanhoaphatgiao.com/.
[7] Võ Quốc Việt (2023). Hạnh anh nhi trong tập thơ “Trăng Non” của Rabindranath Tagore. Trang thông tin Văn hóa Phật giáo. Nguồn: https://tapchivanhoaphatgiao.com/.
Tài liệu tham khảo:
1. Nhã Ca (1965). Mùa hạ. Tuần báo Nghệ Thuật– Số 1 (1/10-7/10/1965), tr.22.
2. Gilles Deleuze (2010). Nietzsche và Triết học(người dịch Nguyễn Thị Từ Huy, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính). Hà Nội: NXB. Tri thức.
3. Trần Thị Tuệ Mai (1971). Khu vườn nhà ngục tôi. Tạp chí Văn– Số 180 ra ngày 15 tháng 6 năm 1971, tr.2-3.
4. Trần Thị Tuệ Mai (1971). Trong cơn di chuyển. Tạp chí Văn– Số 183 ra ngày 01 tháng 8 năm 1971, tr.3.
5. Tạ Anh Thư (2018). Người có sẵn lòng mang vết thương? (thơ). TPHCM: NXB Văn hóa Văn nghệ.
6. Tạ Anh Thư (2021). Thanh âm(thơ). Hà Nội: NXB Phụ Nữ Việt Nam.
7. Võ Quốc Việt (2023). Hạnh anh nhi trong tập thơ “Trăng Non” của Rabindranath Tagore. Trang thông tin Văn hóa Phật giáo. Nguồn: https://tapchivanhoaphatgiao.com/.
8. Đỗ Anh Vũ (2017). Thơ của người tôi chưa từng gặp…. Trang thông tin Khoa Văn học – ĐHKHXH&NV TPHCM. Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/.
29/1/2025
Trần Bảo Định
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lại nói về chữ "Lễ"

Lại nói về chữ "Lễ" Trước khi khoác bất cứ chiếc áo xã hội nào,ở bất kỳ vai trò nào, điều trước tiên bạn phải là “Người” cái đã...