Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

Tiểu luận của hội viên mới Trần Lê Hoa Tranh ở TP Hồ Chí Minh

Tiểu luận của hội viên mới Trần Lê
Hoa Tranh ở TP Hồ Chí Minh

Tác giả Trần Lê Hoa Tranh sinh năm 1972 ở Quảng Ngãi, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

Trần Lê Hoa Tranh chuyên nghiên cứu: Văn học phương Đông, văn học nữ, văn học di dân. Chị đã xuất bản riêng 3 tác phẩm nghiên cứu, phê bình và nhiều đầu sách đứng tên chung; có gần 50 bài nghiên cứu, nhiều bài báo phê bình đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành và báo chí trong nước; tham gia một số chương trình trao đổi giảng viên, trao đổi học giả tại Hoa Kỳ; khách mời một số chương trình truyền hình như Chào ngày mới, Trong sáng cùng tiếng Việt; tác giả soạn sách giáo khoa Ngữ văn cấp THPT bộ Chân trời sáng tạo.

Nhà lý luận phê bình Trần Lê Hoa Tranh đã được kếp nạp Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC CẢM XÚC TRONG MÔN NGỮ VĂN QUA MỘT SỐ NGỮ LIỆU CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM CHO CẤP PHỔ THÔNG

Giáo dục cảm xúc là một trong những mục tiêu cần thiết của nền giáo dục tiên tiến. Cảm xúc đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục và hòa nhập xã hội của một cá nhân. Việc phát hiện ra những văn bản và ngữ cảnh của văn bản có tác dụng giáo dục cảm xúc là điều các nhà soạn sách giáo khoa và các thầy cô giáo cần quan tâm. Môn Ngữ văn là môn học quan trọng bậc nhất trong việc giúp người học đắp bồi những cảm xúc tích cực, hòa giải những cảm xúc tiêu cực, hình thành những cảm xúc nhân văn, nhân ái như sự chia sẻ, lòng yêu thương, niềm trắc ẩn, tinh thần trách nhiệm,…

Bài viết tập trung giới thiệu những nét chính về giáo dục cảm xúc trong môn Ngữ văn. Đưa ra môt số ngữ liệu tiêu biểu trong chương trình ngữ văn phổ thông để làm ví dụ minh họa. Từ đó thầy cô giáo có cơ sở chọn lựa các ngữ liệu khác phù hợp.

1. Lý thuyết về giáo dục cảm xúc thông qua tác phẩm văn chương

Chỉ cần tra từ khóa “giáo dục cảm xúc” (emotional education/emotional learning), chúng ta sẽ thấy thế giới nghiên cứu vấn đề này từ lâu, và ở Việt Nam không phải là không có người quan tâm. Giáo dục cảm xúc đi liền với giáo dục xã hội (social and emotional learning – SEL). Từ xưa đến nay, người ta thường chỉ chú ý đến IQ (chỉ số thông minh) và xem nó như là thước đo quan trọng. Còn Howard Gardner trong Frame of Mind: The Theory of Multiple Intelligences đã chỉ ra tầm quan trọng của giáo dục toàn diện. Là một nhà tâm lý học, ông cho rằng trí tuệ có rất nhiều loại, và trong giáo dục hiện đại, cần giúp trẻ em tiếp cận một cách đa dạng nhiều loại trí tuệ. Ông đưa ra nhiều loại trí tuệ khác nhau: trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ toán logic, trí tuệ âm nhạc, trí tuệ không gian, trí tuệ cơ thể, trí tuệ cá nhân (với hai dạng, một là hướng nội, hai là hướng ngoại), v. v. Trong đó trí tuệ cá nhân có liên quan chặt chẽ đến cảm xúc.Việc giáo dục cảm xúc trong giáo dục xã hội thậm chí còn trở thành một kỹ năng quan trọng của thế kỷ 21, khi mà trong báo cáo của WHO (tổ chức y tế thế giới) năm 2015 cho rằng những vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần của giới trẻ đang gia tăng nhanh chóng.

Giáo dục cảm xúc được chú ý từ cấp mẫu giáo cho đến hết trung học, và các lý thuyết chung được giới thiệu trong một cuốn sách căn bản là Emotional Intelligence Why It Can Matter More Than IQ của Daniel Goleman. Tác giả lý giải tại sao trí thông minh về mặt cảm xúc lại còn quan trọng hơn cả trí tuệ (IQ), và từ đó, việc dạy về cảm xúc trong nhà trường là rất quan trọng (emotional learning). Ví dụ, ở Hoa Kỳ việc giáo dục cảm xúc ở những năm đầu tiểu học, học sinh học cách nhận biết và gọi tên chính xác cảm xúc của họ và điều khiển chúng như thế nào. Năm cuối tiểu học là những bài học về sự cảm thông với cảm xúc người khác. Ở trung học cơ sở, học sinh sẽ học cách phân tích nguyên nhân gây ra stress (căng thẳng) và cách thức vượt qua. Ở trung học phổ thông, việc dạy kỹ năng cảm xúc sẽ bao gồm việc lắng nghe và nói chuyện về cách thức giải quyết xung đột thay vì để nó leo thang và ảnh hưởng, cách thức thương thuyết để ra một giải pháp hai bên cùng có lợi.

Trên thế giới, Singapore là quốc gia đã có những đột phá trong việc giảng dạy về cảm xúc. Một số trường học tại Malaysia, HongKong, Nhật và Hàn Quốc cũng vậy. Đó là chưa kể sự phát triển của giáo dục cảm xúc tại Anh, New Zealand và Úc. Năm 2002, UNESCO bắt đầu một chiến dịch toàn cầu để phát triển việc giáo dục cảm xúc, một tuyên bố gồm 10 điều căn bản cho giáo dục cảm xúc đến 140 nước trên thế giới.

Giáo dục cảm xúc thông qua văn học nghệ thuật cũng được chú trọng từ rất sớm. Văn học, hội họa, âm nhạc, điện ảnh thường được sử dụng như những liệu pháp điều trị các triệu chứng tâm lý, tâm thần. Ví dụ theo một khảo sát của sinh viên Y khoa, họ đã thử áp dụng cho các bệnh nhân tâm thần xem phim, đọc thơ trong hai giờ, các triệu chứng bất ổn và bạo lực giảm mạnh[1]. Hay ở cấp tiểu học, cha mẹ và giáo viên có thể sử dụng sách hình (picture books-phân biệt với truyện tranh, comic books) để giáo dục cảm xúc xã hội cho trẻ, ví dụ như sự cảm thông, tình bạn, giải quyết xung đột, đối diện với sự mất mát, sự sợ hãi, dạy về lòng dũng cảm, lòng tự trọng, v.v.[2]Trong nhà trường phổ thông, việc giảng dạy văn học nhằm mục đích giáo dục cảm xúc được áp dụng rất nhiều. Vì các nhà nghiên cứu cho rằng cảm xúc trong các tác phẩm truyện, thơ luôn đầy ắp[3]. Willie van Peer cũng chỉ ra rằng, trong tác phẩm văn học, nhân vật văn học cũng là những hình mẫu để giáo dục cảm xúc cho học sinh (tác giả lấy ví dụ Tội ác và trừng phạt của Dostoievsky). Thông qua những câu chuyện văn học, việc giáo dục cảm xúc và xã hội sẽ gia tăng sức khỏe tinh thần, giảm áp lực, giảm sự lo lắng, giảm trầm cảm cho học sinh, cải thiện năng lực học và hành vi trong lớp. Bằng ngôn ngữ, tác phẩm văn học cũng có khả năng miêu tả và diễn tả cảm xúc. Khi một học sinh phân tích cảm xúc của nhân vật văn học mà họ đọc, họ không chỉ hiểu sâu hơn về tác phẩm và còn có thể hiểu cảm xúc của chính họ tốt hơn, phong phú hơn, vì cảm xúc là đa dạng và khác nhau giữa mọi người.

Vì thế, khi dạy một tác phẩm văn học theo hướng giáo dục cảm xúc- xã hội, không nên đặt những câu hỏi theo kiểu truyền thống. Hãy quan tâm đến những câu hỏi tập trung vào cảm xúc. Ví dụ: những động từ như “em cảm thấy nhân vật X như thế nào, làm cách nào nhân vật kiểm soát được hành vi của mình, nhân vật cảm thấy thế nào về sự kiện A, B, C, nhân vật đã thể hiện cảm xúc ra sao? v.v.

Tác giả Tom McSheehy trong bài “Developing Social-Emotional Skills Through Literature” đã chỉ ra quá trình dạy một tiết học văn học hướng tới giáo dục cảm xúc như sau:

Trước khi đọc:

Sau khi học sinh chọn một tiểu thuyết hay truyện ngắn, hãy để học sinh xem trước văn bản bằng cách đọc lướt qua vài trang đầu tiên. Tập trung vài câu hỏi vào cảm xúc và khuyến khích học sinh trích dẫn dẫn chứng cho mỗi câu trả lời. Dưới đây là một số ví dụ:

– Dựa trên trang bìa, cảm xúc nào của nhân vật sẽ là mạnh mẽ nhất trong suốt câu chuyện? Hạnh phúc? Nỗi buồn? Lo sợ? Đau đớn? Yêu thương? Phẫn nộ?

– Bạn học được gì về trạng thái cảm xúc của các nhân vật bằng cách lướt qua vài trang đầu tiên?

Trong khi đọc:

Cứ đọc một đoạn, nên định kỳ tạm dừng và để học sinh nói hoặc viết về cảm xúc của các nhân vật.

– Bạn có thể xác định (các) cảm xúc mà nhân vật chính đang cảm nhận không?

– Sự kiện/nhiều sự kiện nào khiến anh ấy/cô ấy cảm thấy theo cách này?

– Cảm xúc này giống hoặc khác với cảm xúc trước đó của nhân vật chính trong câu chuyện không?

– Làm cách nào mà nhân vật chính bộc lộ cảm xúc của mình?

– Những cảm xúc này có được bộc lộ theo một cách lành mạnh và tích cực không?

Sau một vài buổi tập trung vào cảm xúc của nhân vật, hãy yêu cầu học sinh suy nghĩ về cảm xúc của chính họ.

Tạm dừng việc đọc của học sinh và hỏi:

– Bạn cảm thấy thế nào về những gì đang xảy ra trong câu chuyện? Tại sao bạn nghĩ bạn đang cảm thấy cảm xúc đó?

– Bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu ở trong hoàn cảnh giống như nhân vật chính? Tại sao?

– Cảm xúc bạn đã thay đổi như thế nào trong suốt quá trình của câu chuyện?

Nếu đang đọc lớn câu chuyện cho cả lớp nghe, cũng có thể biểu hiện nhanh một cách trực tiếp về 6 cảm xúc chính: giơ tay nếu thấy hạnh phúc. Sau đó, giơ tay nếu thấy đang buồn. Và tiếp tục với những cảm xúc khác như giận dữ, sợ hãi, tổn thương, yêu thương, v.v. Sau đó, dành thời gian để học sinh giải thích những cảm xúc mà họ cảm thấy.

Sau khi đọc:

Sau khi học sinh kết thúc câu chuyện, hãy viết ra những gợi ý để học sinh suy ngẫm về sự phát triển cảm xúc của nhân vật cũng như của chính họ. Ví dụ như:

– Cảm xúc của nhân vật chính thay đổi như thế nào trong suốt câu chuyện? Dẫn chứng để chỉ ra sự phát triển đó.

– Những cảm xúc nào rõ nhất mà bạn thấy được sau khi đọc xong truyện? Tại sao lại cảm thấy như vậy?

– Bạn có nghĩ những độc giả khác sẽ cảm thấy những cảm xúc khác về kết thúc của câu chuyện không? Tại sao vậy?

Đặt những câu hỏi liên quan đến giáo dục cảm xúc-xã hội trong quá trình đọc sẽ làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hành động và cảm xúc trong đời thực và tác phẩm văn học. Các tác phẩm văn học chắc chắn mở ra cánh cửa cho việc giáo dục cảm xúc xã hội sâu sắc hơn. Dĩ nhiên cách ứng dụng của mỗi giáo viên trong lớp học của mình sẽ khác nhau. Quá trình trên chỉ là một gợi ý.

Sau đây là những gợi ý của chúng tôi khi dạy hai văn bản văn học Việt Nam hướng tới việc giáo dục cảm xúc.

2. Trường hợp Cuộc chia tay của những con búp bê cho chương trình ngữ văn cấp hai

Cuộc chia tay của những con búp bê là tác phẩm đã được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 7. Chúng tôi cho rằng đưa vào cấp lớp này là phù hợp nhưng nên ở lớp 8 hoặc lớp 9, vì với độ tuổi cấp hai, mục tiêu của giáo dục cảm xúc là giúp trẻ tìm hiểu những cảm xúc tiêu cực của bản thân và cách thức vượt qua trở ngại đó. Đừng lo ngại là câu chuyện quá buồn, không phù hợp với trẻ cấp hai.

Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài được đưa vào đầu chương trình lớp 7. Mở đầu câu chuyện là việc phân chia đồ chơi của Thành và Thủy, hai đứa trẻ. Tình cảm anh em của Thành và Thủy rất khắng khít, khi bố mẹ chia tay nhau, hai đứa trẻ cảm thấy bàng hoàng, đau đớn, không thiết một thứ gì, nhưng khi chia đồ chơi, chúng nhất quyết không chịu để cho hai con búp bê là Vệ sĩ và Em nhỏ xa nhau.

Câu chuyện dành cho trẻ lớp 7 nên khá đơn giản, tác giả không tập trung vào những chi tiết như: tại sao bố mẹ Thành và Thủy chia tay? Tại sao hai anh em lại không cùng theo mẹ hoặc theo bố? Rồi sau này hai anh em sẽ ra sao? Mạch truyện bám sát vào trọng tâm: cảm xúc của những đứa trẻ khi rơi vào tình trạng bố mẹ chia tay.

Khi dạy Cuộc chia tay của những con búp bê, người dạy cần chú ý những điểm gì?

– Nên bắt đầu bằng nhan đề của truyện. Và đây phải là câu hỏi đầu tiên (như trong chỉ dẫn mà chúng tôi đã dịch ở phía trên bài viết). Búp bê gắn với ký ức của tuổi thơ, là món đồ không thể thiếu của trẻ em, khi nói đến búp bê là nói đến niềm vui, hạnh phúc. Vậy khi nói cuộc chia tay của những con búp bê, có thể hiểu tình huống và dụng ý của tác giả.

– Các câu hỏi trong sách giáo khoa hiện nay chưa tập trung vào quá trình phát triển cảm xúc, chủ yếu vẫn là mô tả, diễn lại câu chuyện, ví dụ như: tóm tắt câu chuyện, hai anh em thân thiết nhau như thế nào? Câu chuyện được kể theo ngôi kể của ai? Ý nghĩa tên truyện? Chi tiết nào trong câu chuyện làm em cảm động nhất? Điều mà tác giả muốn nhắn nhủ là gì? Những câu hỏi này chưa bộc lộ thế mạnh của câu chuyện dưới góc độ giáo dục cảm xúc.

– Người dạy cần bám sát vào việc phân tích quá trình phát triển cảm xúc của hai đứa trẻ: Thành và Thủy gắn bó nhau như thế nào? Những chi tiết nào thể hiện điều đó? Khi biết tin bố mẹ chia tay, anh em mỗi người mỗi ngả thì phản ứng của hai anh em ra sao? Trong hai anh em, ai là người biểu hiện cảm xúc rõ nhất, những chi tiết nào? Và cuối cùng, hai anh em đã hành động như thế nào?

– Sau khi phân tích quá trình phát triển cảm xúc của hai đứa trẻ trong một cảnh ngộ đặc biệt, hướng học sinh quay về tìm hiểu cảm xúc của chính mình trong những cảm ngộ không như ý khác, không nhất thiết phải là cha mẹ chia tay, mà là bất cứ tình huống, cảm xúc nào học sinh thấy buồn bã, thất vọng, tuyệt vọng, đau khổ. Học sinh phân tích cảm xúc của chính mình, đồng thời người dạy cần giúp học sinh tìm ra cách giải quyết trong những tình huống gặp phải cảm xúc tiêu cực đó. Khi dạy truyện này, không nên xoáy vào nội dung câu chuyện và tình huống buồn bã mà câu chuyện chỉ ra, mà tình huống này chỉ là cái cớ để giáo viên triển khai ý đồ giáo dục cảm xúc cho học sinh, từ đó, học sinh nên làm gì, nên có thái độ như thế nào. Nói cho cùng, câu chuyện này được viết ra là để cho người lớn đọc.

– Vì thế, chúng tôi cho rằng, thông điệp mà câu chuyện đem lại không nên là: tổ ấm gia đình là thứ vô cùng quý giá, quan trọng, cha mẹ hay con cái không nên làm tổn thương đến tình cảm thiêng liêng và trong sáng đó. Đừng bao giờ để gia đình đổ vỡ, kéo theo sự chia tay đau đớn của trẻ em. Kết luận này không sai, nhưng không nên, trong tình huống giáo dục cảm xúc.

Khi phân tích quá trình phát triển cảm xúc của hai đứa trẻ, đừng quên phân tích cảm xúc của người mẹ trong câu chuyện (người bố được nhắc đến chỉ một dòng duy nhất). Người mẹ cũng đau khổ, cũng không mong muốn kết thúc này (giọng người mẹ khản đặc, cách thức giải quyết mất bình tĩnh). Phân tích như vậy để trẻ học cách quan sát cảm xúc người khác và thông cảm với hoàn cảnh người khác, nhất là người thân của mình.

– Cho trẻ học cách đóng vai (play role): nếu trẻ là một trong hai anh em, cảm xúc của trẻ sẽ như thế nào? Cách giải quyết ra sao? Việc học cách chấp nhận tình huống và tìm ra giải pháp tốt nhất trong hoàn cảnh bất lợi là một kỹ năng cần thiết để trẻ trưởng thành. Ví dụ: hai anh em bắt buộc phải xa nhau thì các em sẽ làm có cách nào để gặp nhau, để giữ liên lạc, để giúp người kia trong cuộc sống và học tập?…

-Đừng quên một câu quan trọng trong truyện: “mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật”. “Mặt trời vẫn mọc” là một quy luật, bài học mà chúng ta cần rút ra là học cách chấp nhận và làm cách nào sống tốt nhất có thể trong tình huống đó. Vì cuộc sống không phải màu hồng, cuộc chia tay không phải chỉ là của những con búp bê, mà còn là chia tay với tuổi thơ để trưởng thành, để sống cuộc sống với tất cả hương vị buồn, vui, hạnh phúc và đau khổ.

Trên đây là một số gợi ý khi dạy Cuộc chia tay của những con búp bê dưới góc độ giáo dục cảm xúc.

3. Trường hợp Hai đứa trẻ trong chương trình ngữ văn cấp ba

Hai đứa trẻ được dạy trong chương trình Ngữ văn 11. Truyện ngắn này không khó dạy, nhưng dạy cho hay, gắn với mục tiêu giáo dục cảm xúc, cho học sinh “thấu cảm” tác phẩm thì không dễ.

Như đã nói trên, mục tiêu của giáo dục cảm xúc cho học sinh lứa tuổi trung học phổ thông là biết lắng nghe, chia sẻ, thấu hiểu, học cách thương thuyết, giải quyết xung đột. Vì thế, cần phải tìm những ngữ liệu văn học đáp ứng mục tiêu trên. Hai đứa trẻ theo tôi là một ngữ liệu tốt và tiêu biểu.

Tôi từng hỏi học sinh có thích Hai đứa trẻ không, rất ít em nói thích, vì sao vậy? Vì Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, giọng văn đều đều, khó lôi cuốn, chậm rãi, nội dung xa lạ, không liên quan với học trò thành phố,… Thầy cô có khả năng bám sát vào hai đặc điểm hiện thực và lãng mạn của truyện ngắn mà phân tích, nhất là nói đến số phận nghèo khổ và ước mơ đổi đời mơ hồ của hai đứa trẻ. Những điều này không sai, nhưng có lẽ còn thiếu, còn ít và còn đơn giản hóa khi nhìn Thạch Lam.

Khi đọc và khi phân tích cho học sinh, người dạy nên xoáy vào một số ý chính quan trọng mà mình phát hiện ra khi đọc tác phẩm. Nên khuyên học sinh phải “đọc” tác phẩm, đừng đọc các lời bình, các ghi nhớ. Sau khi đọc, các bạn ghi ra giấy những gì mình cảm nhận đã, rồi nếu cần, mới đọc các bài giảng, bài bình luận. Hãy tôn trọng và đi theo cảm xúc của chính mình khi đọc tác phẩm, đó mới là những gì quan trọng nhất trong quá trình đọc văn.

Dạy và đọc Hai đứa trẻ dưới góc độ giáo dục cảm xúc thì như thế nào?

Những luận điểm sau đây có thể phát triển cảm xúc của học sinh khi dạy Hai đứa trẻ:

1. Thạch Lam là người Hà Nội, có tấm lòng yêu mến Hà Nội một cách đặc biệt. Người dạy cần nhắc đến một số tác phẩm khác của Thạch Lam viết về Hà Nội đẹp, thơ, với những trầm tích văn hóa như Hà Nội 36 phố phường. Như vậy, mới hiểu hết khát khao của hai chị em Liên – An khi chờ đợi chuyến tàu “họ ở Hà Nội về!”. Hà Nội như một địa danh vừa thực, vừa ảo trong tâm trí của Liên – An, đó là ánh sáng của tuổi thơ, của khát khao tuổi trẻ, của cái đẹp đã mất, của ước vọng tương lai,… Từ đó, giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh về những kỷ niệm của các em về một vùng đất nào đó trong quá khứ đối với các em là vùng đất lý tưởng, vùng đất các em yêu mến. Cảm xúc tích cực về quê hương (nếu địa danh đó ở trong nước), về thế giới (nếu địa danh đó ở nước ngoài) sẽ giúp học sinh định hình thái độ và thế giới quan trong tương lai- điều cần thiết cho học sinh trung học phổ thông. Điều này quả đúng khi tôi hỏi một học sinh: các con muốn cô dạy gì khi học Hai đứa trẻ? Một em đã nói rằng: con muốn cô hỏi về một vùng đất nào đó mà tụi con đã từng đi qua để lại ấn tượng nhất?

2. Đoàn tàu là một nhân vật. Nhân vật quan trọng trong truyện ngắn không kém các nhân vật khác. Giữa câu chuyện không có cốt truyện, văn phong chậm rãi, hình ảnh đoàn tàu đi ngang vào giữa đêm chính là dấu mốc khơi gợi tất cả những cảm xúc của hai đứa trẻ. Từ việc chờ tàu, tàu đến, tàu đi, giáo viên để học sinh của mình ghi lại những biến chuyển cảm xúc của Liên (và An, nếu cần), ghi lại cả những miêu tả tinh tế của Thạch Lam về thời gian, từ buổi chiều tà đến đêm tối. Hướng dẫn học sinh học cách quan sát thiên nhiên, quan sát nội tâm của chính mình. Một trong những yêu cầu của việc kiểm soát cảm xúc bản thân là cần soi rọi và nhìn rõ bản thân.

3. Song song với một số bài văn trong chương trình giai đoạn này, học sinh còn được học thao tác lập luận so sánh. Với Hai đứa trẻ, chúng ta có thể so sánh với Ôi, Hương tuyết của nhà văn Thiết Ngưng. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc không thể không biết đến Thiết Ngưng và truyện ngắn khá giống với Hai đứa trẻ. Cũng là miêu tả thân phận những em bé ở các phố huyện xa xôi, khao khát ánh sáng văn minh. Hoặc, có thể so sánh với bút pháp của Nam Cao, cùng hướng đến những người cùng khổ, nhưng ngòi bút Nam Cao sắc lạnh, cay độc, có chút gì đó nhẫn tâm, trong khi Thạch Lam thì lại xót xa, khẽ khàng, thông cảm. Nam Cao hướng đến sự tha hóa, hoàn cảnh làm bần cùng hóa con người, còn Thạch Lam thì tìm kiếm những nét đẹp ẩn khuất trong tâm hồn con người. Thạch Lam khá giống với Thẩm Tòng Văn của Trung Quốc. Nếu ai đã đọc Biên thành của Thẩm Tòng Văn sẽ thấy điều này.

4. Câu hỏi cuối cùng mà người dạy có thể đặt ra cho học sinh khi học bài này là: nếu các em đã từng đi du lịch bằng tàu hỏa hay xe hơi, đi ngang qua những vùng quê hẻo lánh, xa xôi, nhìn những đứa trẻ ngơ ngác, lam lũ ở những vùng quê đó, cảm giác các em thế nào? Có phải những truyện ngắn như Hai đứa trẻ giúp các em hình dung rõ hơn về tâm trạng và cảnh đời của những trẻ em ở vùng sâu, vùng xa không? Các em sẽ hiểu những khao khát đổi đời, động lực vươn lên của các em ấy. Các em sẽ hiểu mỗi con người đều có những mơ ước thầm kín mà mãnh liệt muốn vươn tới thế giới văn minh (có thể sau này họ sẽ vỡ mộng đấy, biết đâu!), nhưng thế giới đó là động lực để họ tồn tại và tiếp tục sống, phấn đấu. Câu chuyện sẽ đem lại một tác dụng xa hơn là sự thấu hiểu và thông cảm với người khác.

Từng đó điều cũng khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một ví dụ thật xứng đáng cho chương trình Ngữ văn trong việc hình thành và phát triển những cảm xúc tích cực đối với học sinh: sự cảm thông, lòng trắc ẩn, ý thức soi chiếu nội tâm chính mình, và trên hết, là lòng nhân ái giữa người và người.

Và những gợi ý về giáo dục cảm xúc thông qua hai ngữ liệu trên đây chắc cũng giúp các giáo viên tìm kiếm thêm nhiều ngữ liệu khác.

Tài liệu tham khảo:

8. Susan Elswick. (2018). Using Picture Books to Enhance Children’s Social and Emotional Literacy, Jessica Kingsley Publishers, London and Philadelphia.

9. Howard Gardner. Frame of Mind: The Theory of Multiple Intelligences, Basic Books, New York. Library of Congress Cataloging-in- Publication Data.

10. Christina Gil. “Teach Empathy with Literature”: https://www.edutopia.org/discussion/teach-empathy-literature

11. Daniel Goleman. (2005). Emotional Intelligence Why It Can Matter More Than IQ, Bantam Books.

12. Phạm Phương Hoài. “Giáo dục trí tuệ cảm xúc trong giờ dạy học văn như thế nào?”, Báo Giáo dục & Thời đại 25/8/2018

13. Tom McSheehy. “Developing Social-Emotional Skills Through Literature”: https://k12.thoughtfullearning.com/blogpost/developing-social-emotional-skills-through-literature

14. Lenahan Patracia, Shapiro Johanna. “Facilitating the emotional education of medical students: using literature and film in training about intimate partner violence”: https://cloudfront.escholarship.org/dist/prd/content/qt4q22x6wf/qt4q22x6wf.pdf

15. Willie van Peer. (1994) “Emotional Functions of Reading Literature”, trong cuốn Literature and the New Interdisciplinarity: Poetics, Linguistics, History, Roger D.Sell và Peter Verdonk biên tập, Rodopi, Amsterdam, Atlanta, GA.

16. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1. NXB Giáo dục Việt Nam 2014.

17. Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2014.

TỪ THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG NGHĨ VỀ CUỘC VƯỢT THOÁT KHÔNG GIAN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM

Hồ Xuân Hương là hiện tượng văn học nữ nổi bật nhất của văn học Việt Nam trung đại vốn hiếm hoi các gương mặt nữ. Với số lượng thơ còn lại nhiều nhất trong các nhà thơ nữ, giá trị nội dung và nghệ thuật vượt trội, bà là đối tượng nghiên cứu suốt thời gian qua với nhiều phương diện khác nhau như nữ quyền, tiếp thu vốn quý văn học dân gian, sử dụng nhuần nhuyễn chữ Nôm,…Và thơ của bà cũng chu du thế giới sánh ngang với các nhà thơ nữ phương Đông như  Lý Thanh Chiếu (Trung Quốc), Hoàng Chân Y (Hàn Quốc),…

Bài viết đưa ra cái nhìn toàn cảnh về việc dịch văn học Việt Nam sang tiếng nước ngoài nói chung, tìm hiểu những công trình dịch thuật Hồ Xuân Hương ra tiếng nước ngoài nói riêng, trong đó chủ yếu là tiếng Anh; các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương ở nước ngoài; một phần nào đó việc giảng dạy Hồ Xuân Hương cho sinh viên nước ngoài qua kinh nghiệm đã từng giảng dạy của chúng tôi như một gợi ý nhỏ cho việc giới thiệu các nhà thơ cổ điển Việt Nam ra nước ngoài. Đồng thời từ đó nhìn thấy sự cấp thiết của việc giới thiệu văn học Việt Nam ra thế giới.

Trong một bài viết về Không gian trong một số tác phẩm của các nhà văn nữ Việt Nam, chúng tôi đã từng nhận định nhà thơ nữ  ngang tàng, phóng khoáng Hồ Xuân Hương đã đi hầu hết các địa danh vùng miền đất nước, làm thơ về các nơi chốn đó. Thơ nàng, ngoài những nội dung xưa nay thường nói đến như nữ quyền, chống đối lễ giáo phong kiến… còn là thơ kỷ hành, là văn học du ký đúng nghĩa. Từ kinh thành Thăng Long, đến chùa Hương, chùa Quán Sứ, Đền Trấn quốc, hang Cắc Cớ, hang Thanh Hóa, đèo Ba Dội, đền thái thú Sầm Nghi Đống….Hầu hết những bài thơ kể trên đều mang phong vị lữ hành, đều là những cuộc vượt thoát không gian.

Từ đó, nhà nghiên cứu Ngô Thanh Nhàn cũng đã gọi hành trình đưa thơ Hồ Xuân Hương ra ngoài biên giới Việt Nam là “theo gót chân bà Hồ Xuân Hương”, còn chúng tôi thì gọi đó là những cuộc “vượt thoát không gian”, mà ở đây, chúng tôi quan tâm đến những dịch phẩm Hồ Xuân Hương sang tiếng Anh và những nghiên cứu về bà ở nước ngoài.

Trước hết, chúng ta có cái nhìn toàn cảnh về việc dịch văn học Việt Nam sang tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh như sau:

1. Việc dịch các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam sang tiếng Anh

Trong quá trình giảng dạy môn Văn học Việt Nam cho sinh viên nước ngoài và phải sử dụng hoàn toàn các tác phẩm văn học đã dịch sang tiếng Anh, chúng tôi phát hiện thì ra nhiều tác giả Việt Nam đã được dịch ra tiếng Anh với các dịch giả là người nước ngoài hoặc người gốc Việt.

Ngoài những nhà nghiên cứu nước ngoài có hứng thú và tấm lòng với văn học Việt Nam như John Balaban (dịch ca dao Việt Nam, thơ Hồ Xuân Hương[5],…), Peter Zinoman (dịch Số Đỏ, nghiên cứu về Nhân Văn Giai Phẩm,…), Martin Secker (dịch Bảo Ninh: The Sorrow of War: Nỗi buồn chiến tranh), Wayne Karlin, George Evans,…là những dịch giả yêu Việt Nam với rất nhiều dịch phẩm dịch chung với các cộng sự khác. …thì từ giữa những năm 1980, khi luồng gió Đổi Mới xuất hiện, giao lưu văn hóa, văn học giữa các nhà văn Việt Nam trong nước và hải ngoại bắt đầu khởi sắc, các nhà văn gốc Việt bắt đầu dịch sang tiếng Anh những tác phẩm của các nhà văn Việt Nam. Những dịch giả thường là thế hệ một rưỡi hoặc hai, họ cảm thấy việc giới thiệu văn học Việt Nam quá thiếu hụt ở Hoa Kỳ và ở châu Âu. Họ muốn thay đổi cái nhìn của các nước về Việt Nam. Ví dụ như Nguyen Quy Duc, cùng với John Balaban, đã dịch truyện của Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Thân, Lê Minh Khuê,… trong tập truyện Vietnam: A Traveler’s Literary Companion năm 1996; cùng với Wayne Karlin và Trần Hoài Bắc, dịch truyện của Hồ Anh Thái: Behind the Red Mist: Short Fictions by Ho Anh Thai năm 1998; cùng với George Evans dịch thơ Hữu Thỉnh. Trần Hoài Bắc, cùng với Wayne Karlin và Dana Sachs, dịch Lê Minh Khuê: The Stars, the Earth, the River: Short Stories by Le Minh Khue năm 1997. Phan Thanh Hao cùng Wayne Karlin dịch Ma Văn Kháng: Against the Flood, dịch Nguyễn Khải: Past Continuous. Ông còn cùng với Rosemary Nguyen dịch An Insignificant Family (Gia đình bé mọn) của Dạ Ngân. Ngo Vinh Hai, Nguyen Ba Chung, Kevin Bowen và David Hunt dịch Thời Xa vắng của Lê Lựu: A Time Far Past năm 1997. Duong Van Mai Elliott dịch hồi ký Nguyễn Thị Định: No Other Road to Take: Memoir of Mrs. Nguyen Thi Dinh,…Nguyễn Nguyệt Cầm cùng với Dana Sachs dịch: Two Cakes Fish for a King: Folktales from Vietnam (tuyển truyện dân gian Việt Nam), Crossing the River: Short Fiction by Nguyen Huy Thiep (truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp), cùng với chồng là giáo sư sử học Peter Zinoman dịch Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng,…

Sau khi Hoa Kỳ phá bỏ lệnh cấm vận Việt Nam năm 1994, việc “hợp lưu” giữa những nhà văn gốc Việt và nhà văn Việt Nam ngày càng chặt chẽ hơn, nhất là khi thế hệ trẻ du lịch về Việt Nam càng nhiều, gặp gỡ với các nhà văn ở Việt Nam cũng dễ dàng. Năm 1995, tuyển tập truyện ngắn dịch sang tiếng Anh do Truong Vu, cùng với Wayne Karlin được xuất bản: The Other Side of Heaven: Post War Fiction by Vietnam and American Writers. Tuyển tập bao gồm nhiều truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam và Mỹ viết sau chiến tranh như của Nguyễn Mộng Giác, Andrew Lam, Lai Thanh Ha…. Năm 1996, Dinh Linh, cũng là một nhà văn thế hệ một rưỡi thông thạo tiếng Việt và tiếng Anh, tổ chức dịch tuyển tập truyện ngắn Việt Nam đương đại có tên: Night, Again, trong đó, anh dịch khoảng một nửa tuyển tập. Cũng giống như Nguyen Quy Duc, mục đích của Dinh Linh là giới thiệu những hạt giống văn học tốt nhất, hay nhất của Việt Nam cho độc giả Mỹ, với lòng tự hào văn hóa và tự hào dân tộc. Đinh Từ Bích Thúy cùng với Martha Collins dịch hợp tuyển thơ Cốm Non (Green Rice) của Lâm Thị Mỹ Dạ. Năm 2008, Nguyễn Đỗ và nhà thơ Paul Hoover cũng dịch tuyển tập thơ ca Việt Nam sau 1956 có tên: Black Dog, Black Night. Cùng năm đó, Andrew X. Pham, với sự giúp sức của cha mình, dịch Nhật ký Đặng Thùy Trâm sang tiếng Anh với tên gọi: Last Night I Dream of Peace,…

Ngoài ra, thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, các nhà Thơ mới, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều,…đều đã được dịch sang tiếng Anh. Về văn xuôi, thì tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) được dịch từ rất sớm, ngay cả những nhà văn cách mạng như Nguyễn Quang Sáng cũng có truyện ngắn Chiếc lược ngà, Bình Nguyên Lộc có Rừng mắm được dịch. Những nhà văn di dân cũng được dịch khá nhiều như Phạm Thị Hoài, Thuận, Dương Thu Hương, Trần Vũ,…  Một số nhà văn giỏi ngoại ngữ tự dịch tác phẩm của mình để truyền bá tốt hơn như Lý Lan.

Khái quát bức tranh trên đây để thấy văn học hiện đại được quan tâm dịch nhiều hơn. Trong khi đó, văn học cổ điển thì lại rất đìu hiu. Điều này cũng dễ hiểu thì văn phong của văn học cổ điển quá khó, lại viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, việc dịch sang tiếng Anh sẽ phải gặp nhiều trở ngại. Vì thế chỉ có một số tác phẩm sau đây được dịch sang tiếng nước ngoài và tiếng Anh:

Đứng đầu bảng đương nhiên là Truyện Kiều với các bản dịch sang các thứ tiếng sau:

Sớm nhất là tiếng Pháp, có 13 bản dịch;

Sau đó là tiếng Nhật (5 bản dịch, bản đầu tiên do Komatsu Kiyoshi dịch năm 1942);

Tiếng Đức (do dịch giả Franz Faber xuất bản 1964);

Tiếng Nga (do nhóm dịch giả Việt -Nga, phụ trách dự án là Nguyễn Huy Hoàng, vừa tổ chức công bố bản dịch nhân Hội thảo kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du tại Hà Tĩnh);

Tiếng Trung Quốc (Theo Cao Việt Dũng, có 3 bản dịch, bản dịch đầu tiên năm 1959 do Hoàng Dật Cầu dịch, tuy nhiên bản này bị đánh giá là không chính xác và không hay, sau đó có thêm bản dịch của La Trường Sơn và Triệu Ngọc Lan), tuy vậy, theo bài Dịch Văn học Việt Nam: Những người dịch Truyện Kiều (Nguyễn Du) và những người dịch Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh) của Hoàng Thúy Toàn thì có đến 6 bản dịch sang tiếng Trung Quốc, sớm nhất xuất bản năm 1915.

Tiếng Tiệp (Do Jan Komárak dịch);

Tiếng Hàn (do Kyong Hwan Ahn năm 2004);

Tiếng Hungari (do Trương Đăng Dung và Tandore Dodue xuất bản năm 1984);

Tiếng Mông Cổ; tiếng Rumani; tiếng Ý; tiếng Cuba; tiếng Tây Ban Nha;… thậm chí Truyện Kiều còn được dịch ra Quốc tế ngữ, và có đến 2 bản dịch, một của Đặng Đình Đàm, một của Lê Cao Phan.

Tổng cộng Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng với khoảng trên 60 bản dịch khác nhau. Con số này hiện nay chưa phải là cuối cùng[6]

Sau Truyện Kiều đương nhiên là Hồ Xuân Hương (sẽ nói tới ở phần hai). Chinh phụ ngâm cũng đã được dịch với tên gọi Lament of The Soldier’s Wife do Rawi Alley dịch. Bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan cũng đã được dịch. Nguyen Do và Paul Hoover cũng dịch thơ Nguyễn Trãi với hơn 150 bài tên gọi Beyone the Court Gate in tại Mỹ (2010). Đối với văn học cổ điển thì việc dịch thơ có lẽ được ưu tiên hơn văn xuôi. Chúng tôi chưa tìm thấy một tác phẩm văn xuôi cổ điển nào được dịch sang tiếng Anh.

2. Việc dịch và nghiên cứu Hồ Xuân Hương bằng tiếng Anh

Cách đây vài năm chúng tôi có thực hiện một đề tài cấp ĐHQG về việc tìm hiểu tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc ở Hoa Kỳ, và đã choáng ngợp trước lực lượng các nhà Hán học chuyên nghiên cứu văn học Trung Quốc, khá nhiều trong số đó, là lực lượng đáng kể các nhà nghiên cứu gốc Trung Quốc, họ đã đóng góp rất nhiều vào việc thúc đẩy nghiên cứu Trung Quốc tại Hoa Kỳ bằng các công trình viết bằng tiếng Anh của họ. Chúng ta chưa có nhiều công trình giới thiệu và nghiên cứu văn học Việt Nam cổ điển bằng tiếng Anh, trừ một vài trường hợp cá biệt như Huỳnh Sanh Thông dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh, hay nhà nghiên cứu Nguyễn Nguyệt Cầm làm luận án tiến sĩ về Truyện Kiều,… Nổi tiếng nhất có lẽ là Huỳnh Sanh Thông (1926-2008), người đã có những đóng góp không mệt mỏi cho việc giảng dạy tiếng Việt, văn hóa và văn học Việt Nam cho người Mỹ. Ví dụ như các sách dạy tiếng Việt, sáng lập tạp chí Vietnam Review,…Đóng góp quan trọng nhất của ông là dịch những tác phẩm văn học Việt Nam sang tiếng Anh như Lục súc tranh công, đặc biệt là Truyện Kiều sang tiếng Anh, bản dịch của ông được sử dụng nhiều nhất tại các trường đại học ở Hoa Kỳ. Ông cũng là người dịch một tuyển tập thơ Việt Nam từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 20: An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentieth Centuries gồm hơn 300 bài giới thiệu 150 nhà thơ trong đó có thơ Hồ Xuân Hương (22 bài).

Về thơ Hồ Xuân Hương dịch sang tiếng nước ngoài, chúng tôi tìm thấy các bản dịch sau:

Từ năm 1968, Durant, Maurice đã dịch thơ Hồ Xuân Hương sang tiếng Pháp. Đó là công trình 208 trang mang tên L’oeuvre de la poétesse vietnamienne Hô Xuân Huong (Thơ của nữ thi sĩ Việt Nam Hồ Xuân Hương). École française d’Extrême-Orient. Paris: AdrienMaisonneuve. Sau đó, dịch giả Jean Sary có thêm một bản dịch nữa[7].

Cũng từ năm 1968, Hồ Xuân Hương đã được dịch sang tiếng Nga qua bản dịch của Genadi Jaroslavtsev, N.I. Nikulin biên soạn và chú giải[8].

Hồ Xuân Hương đã được Koyumi dịch sang tiếng Nhật, La Trường Sơn dịch sang tiếng Hoa, Petr Komers dịch sang tiếng Tiệp (2007), Blaga Dimitrova dịch sang tiếng Bun. Chúng tôi còn tìm thấy thông tin thơ bà được dịch sang tiếng Rumani bởi dịch giả Constantine Lupeanu từng là đại sứ quán Rumani tại Việt Nam, ông đã dịch 64 bài thơ của bà thành một tập thơ song ngữ hai thứ tiếng Việt – Rumani năm 2007[9]. Nguyễn Ngọc Bích còn đưa thêm một dữ liệu Hồ Xuân Hương dịch ra tiếng Slovak do bà Eva Antoshchenko Múčková dịch với 80 bài in cả chữ Nôm (2010)[10].

Hồ Xuân Hương dịch ra tiếng Anh có rất nhiều bản dịch: có lẽ sớm nhất là Nguyễn Ngọc Bích dịch chung với Burton Raffel và Robin Morgan, 15 bài (đăng trong A Thousand Years of Vietnamese Poetry in ra từ năm 1975 do nhà xuất bản Alfred A. Knopf, New York xuất bản); Võ Đình (9 bài trong Vietnam Culture Journal của Nguyễn Quỳnh, 1983-84); David Cevet (dịch 46 bài từ bản dịch tiếng Pháp của Maurice Durand, in trong All She Wants, 1987), và cuối cùng là John Balaban, một dịch giả và nhà thơ Mỹ, dịch 49 bài trong tuyển-tập Spring Essence: The Poetry of Hồ Xuân Hương do nhà Copper Canyon Press xuất bản năm 2000.  Năm 1997, Hoài Nam Tử ở Dallas, Texas, đã dịch 45 bài thơ Nôm quen thuộc, 5 bài thơ chữ Hán về Vịnh Hạ Long, cộng thêm 10 bài thơ Nôm và 5 bài thơ chữ Hán rút từ tập Lưu Hương Ký mới tìm ra được cách đây hơn nửa thế kỷ, tổng cộng thành 65 bài (in trong tập Poetic English Version of Ho Xuan Huong’s Poems, tác giả tự xuất bản). Nhà thơ Đinh Linh cũng dịch nhiều thơ Hồ Xuân Hương đăng tải trên website của chính mình.

Như vậy về dịch phẩm, thiết nghĩ thơ Hồ Xuân Hương cũng đã chạm đến nhiều quốc gia. Tuy nhiên, đa số các dịch giả cũng tự nhận, và các nhà nghiên cứu cũng khẳng định việc dịch thơ Hồ Xuân Hương nói riêng, và thơ cổ điển Việt Nam nói chung, còn rất nhiều hạn chế, chưa thành công. Đặc biệt là với trường hợp Hồ Xuân Hương, thơ bà rất khó dịch vì tính đa nghĩa, sắc thái “thanh – tục” đòi hỏi phải có hệ thống từ vựng tương ứng trong tiếng nước ngoài, mà điều này là rất khó. Trần Mỹ Vân đã cho rằng “Thơ Hồ Xuân Hương có giai điệu, nhịp điệu, đối, và tính nước đôi  (nghĩa kép), điều này là một cơn ác mộng khi dịch sang tiếng Anh. Một điểm khó khi dịch thơ bà nữa là việc nói lái và những từ ngữ mang hình ảnh về giới, ví dụ như những từ “lộn lèo”, “đếm lại đeo”,…vừa là nói lái, vừa là những từ liên quan đến tính dục”[11], Nhiều bài viết của N.Sao Mai, Vuong Vu, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Ngọc Bích đều nhất trí cao như vậy.

Nhưng còn nghiên cứu về thơ bà trên thế giới, chúng tôi cho rằng so với những nghiên cứu trong nước, có lẽ còn rất ít ỏi.

Một trong những bài nghiên cứu được biết đến và khá phổ biến là bài của Trần Mỹ Vân: “Come on, Girls, Let’s Go Bail Water”: Eroticism in Hồ Xuân Hương’s Vietnamese Poetry” nói về tính khiêu dâm trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong bài viết, Trần đã khẳng định những bài thơ của bà có giá trị độc đáo và bà có một vị trí đặc biệt trong văn học sử Việt Nam. Thậm chí thơ bà gợi lên những cuộc chiến về giới, sức mạnh của cơ thể phụ nữ chống lại nam quyền, dục vọng và điểm yếu của con người, đem lại những tranh cãi khác nhau về tôn giáo, công bằng xã hội và cả tự do tính dục. Bài viết đã trích dẫn cụ thể rất nhiều bài thơ cả tiếng Việt và tiếng Anh với nhiều luận điểm phong phú như chống lại tư tưởng nam quyền, chỉ trích sư sãi, phơi bày vẻ đẹp hình thể, tiếng nói sâu lắng của nội tâm,…

Phạm Tú Châu có bài viết nêu nhận xét và đánh giá của các nhà nghiên cứu Trung Quốc về Hồ Xuân Hương: “Đọc hai bài viết của học giả Trung Quốc về Hồ Xuân Hương”, đó là đánh giá của nhà nghiên cứu Tạ Na Phi và Hoàng Hiểu Quyên. Tạ Na Phi nhận xét về ảnh hưởng của Nho, Phật, Đạo trong thơ Hồ Xuân Hương theo hướng tích cực. Còn Hoàng Hiểu Quyên so sánh bà với một nhà thơ nữ dân tộc Tráng đời Thanh tên là Lục Viên, chú ý đến những điểm chung trong cuộc đời, tính phản kháng trong thơ cả hai nhà thơ[12].

Trong bản dịch và nghiên cứu Hồ Xuân Hương bằng tiếng Nga, Niculin cũng có gợi ra những so sánh Hồ Xuân Hương với cái nhìn trào tiếu dân gian của Rabelais, rồi Jaroslavtsev so sánh với Doistoievsky và Villon. Như thế có thể thấy tầm vóc của Hồ Xuân Hương lớn thêm.

Từ việc dịch Hồ Xuân Hương rất khó đạt, chúng tôi tìm thấy nhiều nhà nghiên cứu đã so sánh các bản dịch với nhau để tìm bản dịch tốt nhất. Có thể thấy, “Bánh trôi nước” là dịch phẩm được đem ra làm ví dụ nhiều nhất. Có người so sánh bản dịch của Balaban, Huỳnh Sanh Thông và Đinh Linh như Nguyễn Văn Huy[13]. Nhiều nhà nghiên cứu đã phê bình và chỉ ra những lỗi sai trong bản dịch của Balaban như N. Sao Mai, Hoang Van Van[14], trong khi New York Times thì khen ngợi hết lời[15].

John Balaban là một nhà thơ, dịch giả tâm huyết với Việt Nam. Ngoài tập thơ dịch Hồ Xuân Hương, ông đã có 13 tập thơ và văn xuôi. Ông đã bỏ hơn mười năm nghiên cứu thơ bà, nghiền ngẫm, chiêm nghiệm, dịch đi dịch lại, vì thế công trình của ông có lẽ là tuyển tập thơ Hồ Xuân Hương công phu nhất hiện nay ở nước ngoài.

3. Giới thiệu mô hình dạy Hồ Xuân Hương cho sinh viên nước ngoài

Đã từ lâu, trong chương trình dạy tiếng Việt cho SV nước ngoài, các GV đều đưa một vài trích đoạn Truyện Kiều và một số bài thơ Hồ Xuân Hương vào lớp học. Trong một số đợt nghiên cứu ở Hoa Kỳ, chúng tôi đã từng dự lớp và quan sát các buổi học tiếng Việt của những trường đại học lớn. Các lớp tiếng Việt của họ có nhiều cấp độ, và thường cấp độ cao nhất sẽ có học các tác phẩm văn học, đặc biệt là văn học cổ Việt Nam. SV đăng ký các lớp này không chỉ là gốc Việt (gia đình người Việt, họ sinh ra ở Mỹ nhưng tiếng Việt không giỏi), mà còn có nhiều SV Mỹ cũng tham gia để học thêm một ngoại ngữ, hoặc có định hướng nghiên cứu về Việt Nam. Tiếng Việt hiện là ngoại ngữ rất mạnh tại Hoa Kỳ.

Cụ thể các lớp học tiếng Việt ở UCLA (University of California, Los Angeles) và UCB (University of California, Berkeley) đều dạy thơ Hồ Xuân Hương bằng tiếng Việt cho SV ở lớp cấp độ cao. Những bài thơ được dạy là “Vịnh cái quạt”, “Bánh trôi nước”,…Các GV đều công nhận thơ Hồ Xuân Hương khó giảng vì tính đa nghĩa. “Vịnh cái quạt” tương đối dễ giảng hơn vì có thể đem cái quạt vào lớp và giảng bài thơ song song với việc mô tả, SV có thể hiểu được nghĩa ẩn của nó. Những bài thơ khác sẽ khó hơn rất nhiều như “Quả mít”, “Ốc nhồi”, “Đánh cờ người”,…”Thiếu nữ ngủ ngày” cũng có thể hiểu nhưng từ ngữ Hán Việt khó quá, ví dụ như những “gò bồng đảo sương còn ngậm”, “nương long”, “lạch đào nguyên suối chửa thông”,… mặc dù đây là một bức tranh tuyệt đẹp.

Chúng tôi có hai năm được mời dạy bằng tiếng Anh cho SV các trường đại học Mỹ sang Việt Nam học một học kỳ trao đổi môn Văn học Việt Nam. Khi dạy Hồ Xuân Hương, chúng tôi giới thiệu hai bài thơ đã được dịch sang tiếng Anh của bà (vì các bạn SV không biết tiếng Việt) là bài “Bánh trôi nước” và bài “Thiếu nữ ngủ ngày”.

Bài “Bánh trôi nước”

“The Floating Cake”

Thân em thì trắng, phận em tròn,
Bảy nổi ba chìm mấy nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

My body is white; my fate, softly rounded,
rising and sinking like mountains in streams.
Whatever way hands may shape me,
at center my heart is red and true.(bản dịch của John Balaban[16])

Cũng nói thêm là bài “Bánh trôi nước” có rất nhiều bản dịch sang tiếng Anh. Vuong Vu đã đưa ra ba bản dịch bài thơ này của John Balaban, Huỳnh Sanh Thông và Marilyn Chin và chỉ ra những khó khăn khi dịch[17]. Chúng tôi chọn bản dịch của Balaban khi dạy SV nước ngoài vì tôi cho rằng đây là một bản dịch súc tích, nêu được cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Ví dụ, “thân em” trong tiếng Việt được dịch là “body” và “fate” là rất hay, rất đạt. Tuy nhiên cụm từ “nước non” thì cả ba bản dịch đều không đạt. Balaban dịch là “mountains in streams”, Chin dịch là “mountain in a pound” để chỉ sự vận động, còn Huỳnh dịch là “water” đều không thể hiện được nghĩa bóng của từ “nước non”. Cụm từ “tấm lòng son” cả ba bản dịch đều dịch “true-red heart” theo chúng tôi đều chấp nhận được.

Bài “Thiếu nữ ngủ ngày”:

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên nước chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.

Với bản dịch này, chúng tôi cho rằng những từ Hán Việt đã được dịch sang tiếng Anh thành các cụm từ cụ thể, mang tính trực quan. Ví dụ “nương long” được dịch là “waist”, “gò bồng đảo” được dịch là “Elysian mounds” cũng lấy từ một điển tích trong văn học Hy Lạp nói về cánh đồng Elysian như một biểu tượng cho thiên đàng. Đây cũng là một cách dịch khá sáng tạo. “lạch đào nguyên” được dịch là “Fairy rivulet” có nghĩa là lạch cổ tích, thần tiên – tương đối ổn.

Vì sao chúng tôi chọn hai bài này?

Thứ nhất, đây là hai bài thơ có bản dịch tiếng Anh khá tốt, không có những phép chơi chữ như nói lái, đố tục giảng thanh mà chỉ có các từ Hán Việt (bài “Thiếu nữ ngủ ngày”), bài “Bánh trôi nước” chỉ có thủ pháp ẩn dụ bánh trôi nước là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận người phụ nữ.

Thứ hai, khi dạy bài “Bánh trôi nước”, một bài thơ ngắn có bốn câu, chúng tôi dễ dàng mô tả và cho SV một ví dụ trực quan là mời SV thưởng thức món bánh trôi nước của Việt Nam để giảng (tương tự như việc giảng bài “Vịnh cái quạt” GV đem cái quạt ra để vừa miêu tả vừa giảng), như vậy việc so sánh, giảng bài sẽ dễ hơn nhiều, đồng thời có thể giới thiệu nét đặc sắc của văn hóa ẩm thực Việt Nam cho SV nước ngoài biết.

Còn khi dạy “Thiếu nữ ngủ ngày”, một bức tranh minh họa hình thiếu nữ đang ngủ rất gợi cảm cũng giúp cho việc giảng bài dễ dàng hơn. Thông qua đó, những thông điệp của bài thơ như ca ngợi hình thể người phụ nữ, đả phá tính hình thức và sự giả dối của đàn ông, tự hào về vẻ đẹp gợi cảm của giới nữ,…cũng được truyền tải không hề khó khăn. Bản dịch tiếng Anh cũng dịch rất cụ thể và không xa nguyên tác.

Thứ ba, hai bài thơ trên có thể là một cặp được đem ra so sánh với nhau khi cùng nói về người phụ nữ trong xã hội phong kiến, một bên là tuyên ngôn tự hào và khẳng định nhưng một bên là lời than về thân phận bấp bênh và đầy sóng gió. Điều đó cũng cho thấy những mâu thuẫn và nghịch lý trong lòng xã hội phong kiến và trong bản thân nhà thơ.

Tất cả những thông điệp này chỉ được truyền tải khi SV hiểu được hai bài thơ. Đó là lý do chúng tôi chọn hai bài thơ này. Và phản hồi của SV cũng rất tốt, họ yêu thích và thậm chí có bạn còn nói học thơ Hồ Xuân Hương thích hơn học trích đoạn Truyện Kiều vì là những bài thơ ngắn, nội dung đơn giản, thông điệp thú vị.

4. Kết luận

Nhận xét một cách nghiêm khắc, chúng tôi cho rằng việc tìm hiểu Hồ Xuân Hương đã được giới thiệu, dịch, nghiên cứu, so sánh như thế nào trên thế giới là một nhiệm vụ và trách nhiệm vô cùng cấp bách của giới dịch thuật và phê bình Việt Nam. Không nhiều nhà thơ nữ trên thế giới có số lượng thơ, nội dung và nghệ thuật mang tính cách tân, mới mẻ như Hồ Xuân Hương. Vậy nhiệm vụ của chúng ta là làm sao đưa bà ra thế giới để xứng tầm là một nhà thơ nữ cổ điển lớn của thế giới.

Bài viết của chúng tôi chỉ mới khái quát hành trình ra thế giới của thơ Hồ Xuân Hương qua các bản dịch, nghiên cứu và dạy Hồ Xuân Hương ở nước ngoài, chỉ mới chạm qua một cách rất sơ sài (phải tự nhận như vậy) giá trị và tầm vóc của Hồ Xuân Hương trong lòng văn học nữ Việt Nam và thế giới. Những tính chất như giải thiêng, đả phá đại tự sự, giễu nhại, trào tiếu dân gian, trò chơi,… trong thơ bà là những tiềm năng gợi mở cho các hướng nghiên cứu theo chủ nghĩa hậu hiện đại ngày nay, chẳng hạn. Và việc giới thiệu Hồ Xuân Hương nói riêng, văn học cổ điển Việt Nam nói chung ra thế giới rất cần một tầm nhìn xa, một chiến lược quy mô và khoa học từ phía nhà nước và các đơn vị nghiên cứu.

Chú thích:

[1] “Facilitating the emotional education of medical students: using literature and film in training about intimate partner violence”:

https://cloudfront.escholarship.org/.

[2] Susan Elswick, Using Picture Books to Enhance Children’s Social and Emotional Literacy, Jessica Kingsley Publishers, London and Philadelphia 2018

[3] Willie van Peer, “Emotional Functions of Reading Literature”, trong cuốn Literature and the New Interdisciplinarity: Poetics, Linguistics, History, Roger D.Sell và Peter Verdonk biên tập, Rodopi, Amsterdam, Atlanta, GA 1994, tr.213

[4] PGS,TS, Khoa Văn học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG TP.HCM

[5] Chúng tôi sẽ nói về John Balaban ở phần hai của bài viết.

[6] Xem thêm bài: Trần Lê Hoa Tranh, “Tìm hiểu các bản dịch truyện Kiều sang tiếng Anh”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 01.2016, tr.39-50.

[7] Ngô Tự Lập, “Hồ Xuân Hương qua bản dịch của nhà thơ Pháp Jean Sary”: https://amp.cand.com.vn/.

[8] Vương Trí Nhàn, “Hồ Xuân Hương với Rabelais, Villon và Dostoievski”: https://vuongtrinhan.blogspot.com/.

[9]  “Xuất bản thơ Hồ Xuân Hương bằng tiếng Rumani”: https://tuoitre.vn/.

[10] Nguyễn Ngọc Bích, “Hồ Xuân Hương tiếp tục ra với thế giới”: https://www.vietthuc.org/.

[11] Trần Mỹ Vân, “Come on, Girls, Let’s Go Bail Water”: Eroticism in Hồ Xuân Hương’s Vietnamese Poetry”, Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 33, No. 3 (Oct., 2002), tr.474.

[12] Phạm Tú Châu, “Đọc hai bài viết của học giả Trung Quốc về Hồ Xuân Hương”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 5/2011, tr.76-81.

[13] Nguyễn Văn Huy, “So sánh và đối chiếu các bản dịch thơ Hồ Xuân Hương của một số dịch giả trong và ngoài nước trên bình diện ngữ âm ngữ nghĩa”, Hồ Xuân Hương, thơ và đời, Nxb Văn học 2021, tr.117-129.

[14] Xin xem thêm các bài viết: N. SAOMAI, “Reads SPRING ESSENCE: The Poetry of Hồ Xuân Hương, Translated by John Balaban”: http://www.gio-o.com/.

Hoang Van Van, “Bánh trôi nước and three English versions of translation: a systemic functional comparision”, VNU Journal of Foreign Studies, Vol.34, No.4 (2018) tr. 1-35

[15] Sam Howe Verhovek, “From Woodcuts to Bytes for a Vietnamese Poet; Preserving a Dying Ideographic Script Via Computer, for a Book”: https://www.nytimes.com/.

[16] Balaban, John. Ed. and tr. 2000. Spring Essence: The poetry of Hồ Xuân Hương Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press, tr.180.

[17] Vuong Vu, “A Tale of Three Translations in Vietnamese Poetry”: https://www.chopsticksalley.com/.

TP Hồ Chí Minh, 6/9/2022

Trần Lê Hoa Tranh

Nguồn: Văn Nghệ Ninh Bình
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

"Lời tình buồn" - Bài thơ an trú trong lòng một ca khúc XXXXX

"Lời tình buồn" - Bài thơ an trú trong lòng một ca khúc Bao giờ cũng thế, muôn đời vẫn vậy cái thời xuân trẻ, giữa hai mê mải m...