Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Chữ Nhân trong thơ Lê Chí

Chữ Nhân trong thơ Lê Chí

“Giống như nụ cười và giọt nước mắt, bản chất của thơ phản ánh điều gì đó hoàn hảo từ bên trong” – R.Tagore
Năng lực giao cảm của nhà thơ từ ngàn xưa đã là một loại năng lực đặc biệt, khác xa mọi năng lực của mọi khoa học khác. Sự tinh nhạy trước những diễn biến của đời sống, sự rung cảm trước bước đi của thời gian, tạo vật và sự nhạy bén trước thời cuộc, thế sự. Cùng với đó, là khả năng biến hoá câu từ sắc sảo và tinh tế, họ lồng ghép tâm tư mình vào những vần thơ trác tuyệt, rung lên những xúc cảm chân thành, mãnh liệt, để rồi bật lên những suy tưởng, triết lý mang giá trị biểu tượng đầy tính thẩm mỹ và xác thực. Tính nhân văn, phải! Là tính nhân văn, xuyên suốt trong mạch nguồn thơ Lê Chí, dành cho đất và người đồng bằng.
Vẫn còn đó
Máu, nước mắt, thời gian vời vợi
Khoảng cách con người
Xa
Thật xa…
(Đời thường)
Không trốn tránh sự thật, nhà thơ đang loay hoay cô độc hay đang nhìn vào nỗi cô độc của người. Khi mà “khoảng cách con người/xa/thật xa…” khi mà thướt đo chung trong cuộc nhân sinh không còn nữa, khi mà loài người đang bị phân cách, lìa nhau theo cách nào đó. Và giữa cuộc sống của đời thường, con người không còn gặp nhau trong nhau, không còn cái chung nơi lòng nữa, họ cô độc lẫn nhau. Một hiện tượng không còn xa lạ giữa Đời thường, vẫn còn đó dấu chấm hỏi chưa có lời giải tường tận trong mỗi chúng ta. Và như cách nói của chính tác giả “Tôi nhận ra một điều, mình đang tồn tại trong một hiện thực mà sự phức tạp đa diện đa chiều không cách gì có thể lý giải đầy đủ được”.
Nhà thơ Lê Chí sinh 1940, tại Cà Mau, tên thật Lê Chí Trường, ông sống và viết tại Cần Thơ. Nếu nói về thi ca vùng đồng bằng, Lê Chí là một trong những người cầm bút tinh nhuệ. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến là: Cô gái đánh xe bò, Mùa xuân đên sớm, Những con đường lặng im, Khuya xa… trong mỗi chặng đường, cảm hứng sáng tạo có thể được nuôi dưỡng từ những hiện thực đời sống khác nhau, nhưng nhìn chung, thơ Lê Chí như chìm nổi, khóc cười cùng quê hương, đất nước và dân tộc mình. Đặc biệt, là tình yêu thương sâu sắc và nỗi cám cảnh thương sầu mà ông dành cho người dân hiền hoà, cần mẫn nơi miền châu thổ. Nói như nhà thơ Phan Hoàng “Thơ ông luôn thấm đẫm tình yêu thương, nặng trĩu nỗi suy tư về lịch sử từng cảnh vật, từng số phận của vùng đất mới sông nước Chín Rồng”.
Trăm triệu dân mình vết thương nào khác
nghĩa tử là nghĩa muôn đời
hỉ xả từ bi mầu nhiệm
Hơn nửa kiếp người nổi chìm tăm tích
hát chi hoài du dương
ngực đá Hoàng Sa phập phồng đêm thức
trò chuyện cùng sóng gió Trường Sa…
(Hơn nửa kiếp người)
Đất nước – con người như hoà thành một trong lời thơ thiêng liêng sông núi. Mỗi trái tim là mỗi tình yêu xứ sở, mỗi vùng đất vùng trời là mỗi hơi thở “muôn đời”, “mầu nhiệm” trong vô cùng “hỉ xả từ bi”. Đá gió chuyện trò đã tự ngàn đời nay, như sự ngàn đời trường tồn của Trường Sa, Hoàng Sa vậy. Ở đây, cái tôi trữ tình đã là cái tôi trữ tình đại chúng, là tiếng nói của số đông, nó vượt thoát khỏi cái tôi trữ tình cá nhân. Và vì thế, lời thơ dẫu nhẹ nhàng, sâu lắng như lời tâm tình gan ruột mà lại vang xa, kiêu hãnh một sự chắc nịch về lãnh thổ, chủ quyền dân tộc. Rất khảng khái.
Sinh ra trên đất khô cằn
như cây lúa ít mưa nhiều nắng
con đường thơ lầy lội bão giông
mải miết đi về phía biển
(Dấn thân)
Với người cầm bút nghiêm chỉnh, con đường họ đi chưa bao giờ là bằng phẳng. Và Lê Chí của chúng ta cũng thế, ông biết rất rõ phía trước con đường thơ là gì? Và ông vẫn mải miết. Điều đó đã minh chứng, dù có khó khăn, thiếu thốn đủ bề về vật chất, hoặc chăng là những trở ngại vô hình, thì với người thơ điều đó chẳng đủ để chặn đứng sự Dấn thân trên con đường sáng tạo của họ, mà có sự Dấn thân nào là không cao cả? Nhà thơ Lê Chí đã và đang dấn thân cho điều gì?
Chưa bao giờ khắc nghiệt như bây giờ
Ruộng đồng nứt nẻ, nước mặn tứ bề
Lòng dạ đêm ngày nghi ngút
Người khát đất khát lúa khát, cây vườn héo úa
(Đồng bằng Cửu Long gánh nặng hai vai)
Ông Dấn thân vì tình yêu sâu nặng dành cho đất và người nơi miền sông nước này. Khi mà “Ruộng đồng nứt nẻ, nước mặn tứ bề” là khi nhà thơ chẳng thể nào an yên cho được, “Lòng dạ đêm ngày nghi ngút” trước cái khắc nghiệt của tự nhiên, trước cảnh tình bi đát của đồng bằng. Ruộng vườn là nơi sinh sống của cây lúa, cây trồng, cũng là nơi sinh tồn của người nông dân, mảnh đất gắn liền chén cơm của họ. Ca dao có câu “Trông cho chân cứng đá mềm/ Trời êm bể lặng, mới yên tấm lòng”, người làm nông có ước nguyện gì cao sang? Họ chỉ đơn giản là mong đừng có thiên tai, địch hoạ; mong cho mưa thuận gió hoà, mong có sức khoẻ tốt để lao động, để mùa màng được bội thu. Cái mong của người đồng bằng chất phác là vậy.
Mà hỡi ôi!
Đại dịch – tên đao phủ khổng lồ giấu mặt
Cái ác nhân danh văn minh giết người hàng loạt
Đường sá, xóm làng, hàng quán vắng tanh
(Đồng bằng Cửu Long gánh nặng hai vai)
Phải đâu chỉ là hạn mặn? Đại dịch xuất hiện và qua đi nhưng cái ám ảnh và dư âm của nó thì như vẫn còn đó. Covid 19 đã trở thành đại dịch kinh hoàng, mồ côi phút chốc, nhà cửa điêu tàn, bầu không khí trống lạnh bao trùm, tang thương phủ khắp. Dịch bệnh đã cướp đi 6,5 triệu sinh mạng trên toàn thế giới, trong đó Việt Nam là 43.178 người, theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, một con số khiến bất cứ ai cũng phải rùng mình. Và nhà thơ đã rùng mình theo cách rất riêng, thi nhân lặng thương cho Đồng bằng Cửu Long hai vai nặng gánh.
Ai chọn niềm vui ai chọn nỗi buồn
định mệnh bạc đầu trên sóng
mái ấm chén cơm một đời trông ngóng
kiếp nhân sinh mấy nẻo đoạn trường
(Đời ơi!)
Trong niềm thấu cảm đến xót xa, nhà thơ nghĩ về những số phận kém phần may mắn mà như nghĩ về nỗi đoạn trường của chính mình. Ông ngậm ngùi cho “kiếp nhân sinh mấy nẻo đoạn trường” bằng những diễn ngôn rất đời mà lại vô cùng cảm xúc, lời thơ phút chốc chạm vào tâm tư người đọc, trầm tích một nỗi niềm trăn trở mênh mông.
Lo thì rất lo, người đồng bằng vẫn vậy
Theo đời mà sống theo trời mà xanh
(Đồng bằng Cửu Long gánh nặng hai vai)
Nhưng cũng từ đấy, phẩm chất người đồng bằng hiện lên rõ nét. Bi thương chưa bao giờ khiến họ gục ngã, dù là trong chiến tranh hay dịch bệnh. Họ vẫn nương tựa vào nhau, với tinh thần lạc quan, họ dẻo dai và vươn lên không ngừng “Theo đời mà sống theo trời mà xanh”. Lời thơ như thì thầm, như ngầm xác nhận và ca tụng về những phẩm chất cao đẹp, hào khí nơi dòng máu con cháu Tiên Rồng. Càng trong nghịch cảnh, họ càng trở nên mạnh mẽ, can trường hơn “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng loà” Nguyễn Đình Thi.
Và dù ưỡn ngực trước phong ba, nhưng tận sâu đáy lòng người miền châu thổ là những cảm xúc thiết tha dành cho xứ sở, làng mạc quê mình; những cảm xúc chưa bao giờ nguội tắt và nó càng trở nên mãnh liệt hơn trong trái tim những ai còn rong ruỗi đâu đó nơi miền viễn xứ.
Thương quá những mùa rơm Tết
hạt gạo trắng tinh thơm tận đáy lòng
lãng đãng khói giữ hồn năm tháng
nghe tiếng cười rung buổi hoàng hôn
(Nhớ đồng)
Trong sâu thẳm những tâm hồn đồng bằng, khó ai quên được mùi đốt đồng, mùi khói chiều rơm rạ, mùi vị những ngày giáp tết nơi làng quê. Chỉ bấy nhiêu cảnh nhưng lại bao nhiêu tình? Tình mênh mông không kể xiết. Mỗi nhà thơ mỗi phương thức phô diễn tâm tư, và Nhớ đồng của Lê Chí cũng ngọt ngào, đầm dịu lắm thay! Với âm điệu trầm buồn, tự sự, với những hình ảnh tượng trưng gần gũi, sống động: “mùa rơm”, “hạt gạo trắng”, “khói” của “hoàng hôn” cùng những “tiếng cười” vang rung thuở nào… đã không chỉ lột tả thành công mà như cứa vào lòng bất cứ ai đang còn xa xứ về một tình cảm sâu nặng, nồng ấm quê nhà.
Ly rượu chung trà
Trần tình gạn đục khơi trong
Khác nào vợ chồng đêm đêm thủ thỉ
Con cái mẹ cha ruộng vườn nhà cửa
Có lúc nặng lời có lúc khó nghe
Cày xới sinh sôi ánh sáng
(Đời thường)
Lời thơ như lời được nói với chính mình, mà lại như đối thoại cùng bè bạn, người thân. Giữa đời thường, bên cạnh những cao đẹp vẫn tồn tại những điều chưa hoàn thiện. Trước những lo toan, vất vả “Con cái mẹ cha ruộng vườn nhà cửa” thì làm sao tránh được “Có lúc nặng lời có lúc khó nghe”, nhưng với người phương nam hiền lương, thiện chí, họ luôn biết “Trần tình gạn đục khơi trong” để rồi “Cày xới sinh sôi ánh sáng”. Họ là vậy, dẫu trong tàn tro vẫn tìm được chút đóm hồng, luôn biết cách yêu thương nhau, vững tay chèo trên mọi khúc sông qua. Thông hiểu sâu sắc điều này, nên nhà thơ đã bao dung cho tính tình bộc trực đó, ông hiểu mọi thứ, mọi vật tồn tại trên đời đều có tính hai mặt, ưu – khuyết cũng liền nhau, nên thi nhân đã thấu cảm tận cùng để mà hướng về “ánh sáng”.
Giống như cách mà ông Dấn thân vậy, khi ngẫm về đời thơ của mình, Lê Chí đã từng bọc bạch“Với tôi, Thơ thực sự là nỗi ám ảnh. Nhiều lúc phải tự hỏi Thơ là gì? Làm thế nào để viết được một câu thơ hay, một bài thơ nhiều người đồng cảm? Có thể ví Thơ là độ rung tinh tế, sâu thẳm của tiếng đàn bầu được phát ra từ cảm thức của trái tim. Hay thơ chỉ là sự cô đặc, mã hoá thành những tín hiệu, cần phải có chìa khoá của sự rung động và tri thức khác mới thưởng thức được? Vậy thì Thơ cần cho ai? Đôi lúc hoang mang, thấy chữ nào, câu nào trong thơ mình cũng vụng về, lê thê”. Thế đó, người nông dân thì mỗi ngày ngắm nghía cây trái sau vườn, bông lúa ngoài đồng để chăm lo,cải thiện và cho năng suất cao; người thơ thì không ngừng trăn trở, tự vấn trước mỗi vần thơ mình mang đến cho đời. Và càng là ngòi bút chân chính thì sự tự vấn sẽ càng nghiêm khắc hơn; như người nông dân chân chính nghiêm khắc với sản phẩm mình đưa ra thị trường tiêu thụ vậy. Những đau đáu, suy tư nhân đạo đến vô cùng.
Phải nhìn bằng gì/ phải nghe bằng gì/ Kẻ lừa đảo miệng mồm tử tế/ tên giết người gương mặt thư sinh/ lũ ăn cắp veston cravat/ Thịt bẩn, gạo bẩn, nước bẩn, gió bẩn và lương tâm cũng bẩn/ Phận người trên thớt (Như có như không)
Khi suy ngẫm về thế cuộc, nhà thơ hẳn đã rất giận dữ; và khi nghĩ về phận người, nhà thơ hẳn đã rất đau lòng. Một hiện thực tàn khốc giữa thời đại văn minh, khi mà dường như mọi thứ đều được qui đổi thành tiền, thì thật giả lẫn lộn, như có như không, và con người thì bất lực trước muôn trùng hiện trạng khốc liệt đầy ma trá. Đời sống vì thế trở nên nhiễu loạn, bức bối và ngột ngạt. Trong dày đặc nhận thức về hiện thực, nhà thơ ý thức cả việc chuyển giọng cho thơ, những phẫn uất và đau đớn như hoà cùng nhịp điệu vừa rắn rỏi vừa bi thiết, làm nên những nốt ngân trầm bổng neo lại day diết nơi lòng người đọc.
Người ta bảo nhà thơ phải tìm điều cốt lõi
Quanh quẩn râu ria tiêu cực làm gì
Tôi chẳng phải người hay soi mói
Cái ác buộc mình không được quay đi
(Thơ mình)
Chữ Nhân trong thơ Lê Chí là vậy, vì tình yêu thương sâu sắc con người, nên “Cái ác buộc mình không được quay đi”. Ông trực diện với cái ác một cách rõ ràng, dứt khoát như cốt cách trượng nghĩa muôn đời của người phương Nam vậy. Và điều đó   khiến tôi nhớ về hai câu thơ bất hủ của cụ Đồ Chiểu “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Lê Chí là vậy, cách điệu hoá ngôn từ và giọng thơ nghe chừng bình dị nhưng sắc sảo; lối diễn giải cảm xúc tự nhiên nhưng sức gợi lại mở ra thăm thẳm; và lắng đọng bên trong là một nội tâm phong phú đầy trăn trở, là đạo lý cần có ở đời.
Quê tôi vẫn như ngày ấy
chiếc xuồng bơi theo dấu câu hò
bông sậy xám bông bồn bồn cũng xám
người đi xa nghe đất dặn dò
(Kí ức quê nhà)
Trong cuộc dấn thân, khai phá và chinh phục thơ, cũng như chinh phục chính mình, nhà thơ Lê Chí đã không ngừng nổ lực đi tìm cái đẹp, vươn tới cái đẹp. Cái đẹp của cuộc sống và thi ca, cũng từ đó hiện lên rực rỡ và thanh cao cái đẹp của quá trình lao động sáng tạo mà nhà thơ đã dày công, tâm huyết. Trong giới văn sĩ và người yêu thơ, tôi tin Lê Chí là một cái tên quá đổi thân quen, tôi yêu thơ và thơ Lê Chí là một trong những nguồn cảm hứng mà tôi thường tìm đến mỗi khi muốn chiêm nghiệm những bề sâu chữ nghĩa. Để rồi không khó để nhận ra, bên trong sắc diện những vần thơ trầm lắng, da diết ấy là một trái tim ấm áp, đong đầy tình yêu thương, cùng những khơi gợi trí tuệ vượt ra ngoài văn bản. Và ở đây, bên cạnh những khắc khoải với đời, ta thấy chữ Nhân ẩn tàng, lấp loáng nơi thơ ông. Đẹp như cách nói của R.Tagore “Giống như nụ cười và giọt nước mắt, bản chất của thơ phản ánh điều gì đó hoàn hảo từ bên trong”.
Cần Thơ, 7/12/2024
Bảo Bình
Nguồn: Trích từ Đồng bằng âm vang và những nốt trầm, Tập tiểu luận phê bình, NXB Hội Nhà văn 2025
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...