Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Biểu tượng cành mai trong một số bài thơ

Biểu tượng cành mai
trong một số bài thơ

Trong văn học ta thường gặp một số biểu tượng như: thuyền, bến, cây đa, mái đình…(Ca dao), dây mây, điện các, đao binh, cành mai,..(Văn học trung đại), mặt trời, vườn hoa lá, cành mai…(Văn học hiện đại). Tuy nhiên bài viết này chỉ bàn về biểu tượng cành mai qua một số bài thơ trung đại và hiện đại.
Theo Từ điển Tiếng Việt, biểu tượng là “Hiện tượng sinh tâm lí do có một sự việc ở ngoại giới tác động vào giác quan khiến ý thức con người nhận biết được vật kích thích hoặc thấy được hình ảnh của nó trở lại trí tuệ hay kí ức”.
Biểu tượng  nghệ thuật  được hiểu là những hình ảnh được lặp đi lặp lại nhiều lần có khả năng biểu đạt một ý nghĩa nào đó ngoài ý nghĩa vốn có của chúng. Hiểu như vậy, cành mai là một  biểu tượng quen thuộc trong  thơ ca.
Cơ sở hình thành biểu tượng cành mai xuất phát từ những quan sát  đời sống thiên nhiên, đời sống xã hội của nhân dân. Hoa mai thường nở vào những ngày cuối đông đầu xuân. Cánh hoa nhỏ xinh, trắng muốt. Hương thơm dìu dịu. Khi các loài cây đâm chồi nảy lộc và các loài hoa khoe sắc, trổ hương, mai vẫn khiêm nhường sắc trắng. Do vậy trong tâm thức của mỗi người vẫn sáng ngời hình ảnh loài hoa trắng gọi xuân về.
Trong văn chương, mai là một hình tượng nghệ thuật đẹp. Người xưa thường ví mai với dáng người con gái đẹp “Nét gầy như cúc, điệu gầy như mai”(Nguyễn Du) và thường   dùng để diễn tả vẻ đẹp thanh cao, quý phái:
Xuân đến hoa nào chẳng tốt tươi
Ta ưa mi vì tiết sạch hơn người
(Nguyễn Trãi)
Là một trong tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai), mai được  xem là loại thứ hai sau tùng. Thi nhân Nguyễn Trãi yêu mai cũng bởi vẻ đẹp cao khiết của nó. Có lẽ cũng vì vẻ đẹp cao khiết của mai mà nhà thơ Cao Bá Quát đã từng nói “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”(Cả một đời chỉ biết cúi lạy hoa mai). Với ý nghĩa  này, mai là biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp của người quân tử .
Nếu trong thơ Nguyễn Trãi, mai thanh tao bao nhiêu thì trong thơ Thiền sư Mãn Giác mai mạnh mẽ bấy nhiêu:
Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa tươi
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
(Bản dịch của NXB Văn học)
Hoa mai thường nở vào cuối đông đầu xuân. Thế mà cuối xuân Thiền sư vẫn nhìn thấy cành mai nở! Cành mai trong thơ Mãn Giác xuất hiện giữa cảnh “hoa lạc tận” nó phủ nhận tất cả những quy luật  tự nhiên của “trăm hoa rụng”,  “trăm hoa tươi”. Nó vượt lên cả sự sống chết, thịnh suy. Cành mai ấy là biểu tượng  cho sức sống mãnh liệt của vạn vật và con người,  bất chấp sự biến đổi của thời gian, thời tiết. Phải chăng đó là cành mai trong tâm tưởng, trong ý thức của nhà thơ?
Cần nhớ bài thơ được Thiền sư sáng tác khi ông cáo bệnh, nghĩa là khi nhà thơ phải đối mặt với cái chết và cuộc đời con người sẽ đi về phía huỷ diệt không thể cứu vẫn nổi thì mới thấy niềm lạc quan yêu đời, yêu sống  của nhà thơ đáng quý, đáng trân trọng biết nhường nào! Đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời, ta thấy rằng, cành mai còn là biểu tượng cho tinh thần lạc quan của con người thời Lý trước sự đổi thay của đất trời và thời cuộc.
Vẫn là cành mai nhưng trong thơ hiện đại, mai được khoác thêm một ý nghĩa biểu tượng mới. Đó là trường hợp Lên núi của Hồ Chí Minh:
Hai mươi tư tháng sáu
Lên ngọn núi này chơi
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ
Bên suối, một nhành mai
(Bản dịch của Tố Hữu)
Hai câu thơ mở đầu bài thơ như một lời tự sự kể lại một ngày trong rất nhiều ngày của Bác. Dù công việc bề bộn, Người vẫn dành thời gian lên núi vừa để ngắm cảnh, vừa tự rèn luyện mình. Ta có thể hình dung , một bậc hiền triết đang dạo giữa trời mây non non nước. Khi Người ngẩng đầu lên thì có một phát hiện thật bất ngờ:
“Ngẩng đầu mặt trời đỏ
Bên suối một nhành mai”
Ý  thơ rơi vào câu thơ thứ ba và khép lại ở câu thơ thứ tư. Ngẩng đầu lên thấy “Mặt trời đỏ”,  nhìn xuống “Một nhành mai”. “Mặt trời” trước hết là mặt trời của tự nhiên, một nguồn ánh sáng vô tận mãi mãi toả sáng cho vạn vật. Mượn hình ảnh của tự nhiên, Người muốn nói tới một mặt trời Cách mạng đã, đang và tiếp tục soi đường cho chúng ta đi tới ngày chiến thắng. Đáng chú ý hình ảnh cành mai. “Nhành mai” bên kia suối  không phải nhành mai nào khác mà  đó là  một nhành mai độc lập, tự do.
Nếu trong thơ Thiền sư Mãn Giác, chỉ có một cành mai trước sân thì trong thơ Người, cành mai ấy sóng đôi với “Mặt trời đỏ” tạo thành một cặp biểu tượng “mặt trời- cành mai” tượng trưng cho con đường cách mạng và niềm tin chiến thắng. Câu thơ vang lên như một lời khẳng định chắc chắn. Hơn nữa, nhờ biểu tượng này mà hình tượng thơ có sự vận động khoẻ khắn, tự nhiên hướng tới ánh sáng, niềm vui- Một nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
Như vậy, xét về phương diện nghệ thuật, cành mai đã trở thành một tín hiệu thẩm mĩ đem đến cho người tiếp nhận những ấn tượng khó quên. Đó là  cách diễn đạt kín đáo, hàm súc, cô đọng. Về phương diện nội dung, biểu tượng cành mai có ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Đó là bài học yêu đời, yêu sống, là niềm tin mãnh liệt vào chân lý.
Dù chưa có điều kiện để tìm hiểu đầy đủ hơn về biểu tượng cành mai trong thơ cũng như những biến thể của chúng, song vào những ngày đầu xuân đọc những vần thơ ấy ta như được tiếp thêm nhựa sống của niềm tin và hi vọng.
24/2/2025
Chu Thị Hảo
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...