Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Trường ca của sinh diệt

Trường ca của sinh diệt

Ngày 15.2.2025, tại Hà Nội, Nhóm Nhân sĩ Hà Đông cùng với NXB Hội Nhà văn tổ chức ra mắt trường ca “Lò mổ” và trưng bày 18 bức tranh trong bộ tranh “Nguyện cầu” của nhà thơ, hoạ sĩ Nguyễn Quang Thiều. Vanvn xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết của nhà văn Phạm Lưu Vũ về “Lò mổ”.
Bắt đầu bằng cái tên chả “thi vị” một tẹo nào, nếu không nói là kì quái và đáng sợ: “Lò mổ”. Gọi là trường ca không nhất thiết cứ phải là những câu chuyện dài bằng thơ, là những bài thơ nghìn câu, là những cuộc tình trăm ngả… “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều đã khiến tôi phải “định nghĩa” lại khái niệm “trường ca” như vậy. Đây là một sự dũng cảm, dấn thân và bứt phá, ra khỏi cả một cõi giới nhạt nhòa, của một thi sĩ đã thành Danh, thành Nghiệp, như một “Quả vị” tiến hóa hẳn hoi trên văn đàn. “Lò mổ” thách thức mọi độc giả, mọi nhà phê bình, từ vỉa hè, chợ búa đến kinh viện, tháp ngà… thách thức cả những “hảo hán” yêu thơ một cách ầm ĩ, lắm mồm nhất trong giới văn chương.
“Lò mổ” là một trường ca khó đọc, nói chung thơ Nguyễn Quang Thiều phần lớn đều khó đọc, vì tác giả của nó là một người cả nghĩ, cả nghĩ như triết gia. Càng cực kì khó đọc, nếu không ra khỏi tư duy truyền thống, về trường ca, về văn vẻ, thơ thẩn… và (cái gọi là) “thi pháp” nói chung. Như một tiếng chuông, mà: “thiết vi u ám tất giai văn”, ngồi trong tấm màn sắt u ám cũng có thể nghe thấy, nếu ra khỏi thức thứ 6, tức là ý thức. Người cả nghĩ thường viết bằng tiềm thức (thức thứ 7), có khi bằng vô thức (thức thứ, ít khi viết bằng thức thứ 6. Cho nên người đọc cũng phải đọc bằng tiềm thức, hoặc vô thức thì mới được. Lò mổ là… lò mổ, chứ sao? Là nơi những con bò bị đập sọ, bị chọc tiết, lột da… Đem những chi tiết hãi hùng ấy để “ngụ ngôn”, để ví với cuộc đời của mỗi kiếp người, của ngàn vạn kiếp người… từ vô thủy đến nay thì rùng rợn quá, ngoa ngữ quá chăng? Không đâu! Bởi trước Nguyễn Quang Thiều, chính kinh Phật cũng đã ví như vậy. Kinh “Lục Độ Tập” có đoạn như sau:
“Mạng người ví như dắt trâu ra chợ mổ thịt, trâu dời một bước, là gần đến chỗ chết một bước. Người sống một ngày như trâu bước một bước…”
Nghĩa là “lò mổ” chính là cõi người, không ra ngoài cõi người. Và không chỉ kinh Phật, cả Nam Hoa Kinh của Trang Tử cũng nói về “lò mổ”, tả một anh đồ tể hành nghề mổ bò, mà giọng tả cứ như một… bài ca: “Hắn đưa lưỡi dao cắt xoẹt xoẹt, phát ra những âm thanh có tiết tấu, y như vũ khúc “tang lâm” và bản nhạc “kinh thủ”…” Và lời của anh đồ tể nói với Lương Huệ vương, ý tứ như của một bậc hiền giả: “Thần nhờ thích cái Đạo, nên nghệ thuật mới tiến được. Hồi mới học nghề mổ bò thì chỉ thấy con bò thôi, ba năm sau thì không thấy con bò nữa. Cảm quan đã ngưng lại, chỉ còn tâm thần là hoạt động, biết rõ cơ cấu thiên nhiên của con bò, chỉ cần lách lưỡi dao vào những chỗ kẽ trong thân thể nó, không đụng tới kinh lạc, bắp thịt, xương… Một người đồ tể giỏi một năm mới làm cùn một con dao, đồ tể tầm thường thì dùng dao một tháng đã cùn”.
Tại sao nói công việc của một anh đồ tể, mà Trang Tử lại lôi cả “Đạo” và “nghệ thuật” vào? Vì đồ tể trong Nam Hoa Kinh không phải người thường. Không tầm thường ở chỗ mổ suốt mười chín năm không làm cùn một con dao… Nhờ thích cái “Đạo” mà nghệ thuật tinh tiến như thế, thì “dao” lách trong bụng con bò cũng ví như chữ nghĩa trong văn chương, mổ mười chín năm mà dao vẫn sắc, thì cũng như viết cả đời mà chữ vẫn không mòn… Ý tứ của Trang Tử là như vậy, vì thế chớ coi thường cái công việc rất “hiện thực” của… mổ bò.
Như vậy ít nhất cũng có hai bộ kinh, một từ trong nhà Phật, một từ Phật Bích Chi (Trang Tử là một vị Độc Giác) từ ngàn năm đã nói về “Lò mổ”, như chính cái cõi giới sinh diệt này rồi. Đây là chỗ gặp gỡ, hay chứng nhập vào Đại Ngã, của vô thức Nguyễn Quang Thiều? Và của bất cứ độc giả nào, nếu cũng đọc “Lò mổ”, bằng cái “tâm” của Đại Ngã, bằng cái “thấy” của vô thức, và bằng hoạt động của tâm thần… Từ khi con người có chữ viết, thì mới hay chữ té ra là vốn có, cứ đủ “duyên” thì chữ hiện ra. Chữ vốn có là bất sinh bất diệt, chữ không mòn là bất tăng bất giảm, chữ ví như con dao, dùng mãi vẫn sắc là bất cấu bất tịnh… cái “Đạo” của Trang Tử là như vậy.
Nhà thơ Mỹ Bruce Wegil có những nhận định tương tự. Ông khẳng định sự “dấn thân” và “bứt phá” của Nguyễn Quang Thiều, coi “Lò mổ” là: “một cử chỉ thi ca can đảm vì nó tự lập về mặt tinh thần, nó từ chối đầu hàng những yêu cầu của truyền thống, và cho phép người đọc cảm nhận được thế giới trong hình thức gan góc nhất…”. Ông dùng từ “kiệt tác” để nói về trường ca này, ông tin vào “sức mạnh” của nó, và tin rằng bạn đọc cũng tìm được “sức mạnh” đó. Nhưng ông chưa chỉ ra, rằng “sức mạnh” ấy ở chỗ nào? Với tư cách bạn đọc, tôi xin liều mạng tạm sơ bộ mấy “sức mạnh” ấy ra đây. Nhân vật “chàng” trong “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều cũng chính là anh đồ tể trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Hãy xem đối tượng của “chàng” là con bò vừa bị mổ thì sao?
“Tấm da nặng nề đã trút khỏi
Con bay qua ô cửa sổ lò mổ
Con để lại cái đầu
Cặp sừng ngà lấp lánh
Con để lại đôi mắt
Ngôi sao Hôm thăm thẳm
Con để lại chum máu…”
Đây là lời bộc bạch của con bò với Đức Chúa Trời. Xin đừng bình là Nguyễn Quang Thiều đã “thi vị hóa” cái chết của con bò, là tính “nhân văn”, là “thiện căn”… này nọ, mà đây là đoạn cực tả về sự Giải thoát, thông qua cuộc “đại thí” của con bò. Và không chỉ riêng loài bò, tất cả các loài vật được con người thuần hóa, hầu như chỉ có một lối thoát là: “Lò mổ”, không có cơ hội giải thoát bằng cái chết tự nhiên. Một con bò tự do (vô chủ) trên cánh đồng sẽ không thể tồn tại quá 48 tiếng. Tự do trong rừng có khi còn ngắn hơn, chúng sẽ bị các loài khác xé xác, trong vòng 24 giờ đồng hồ. Vậy tại sao chúng vẫn sinh sôi, trong chuồng trại, giữa cánh đồng, kể cả ngay trong… lò mổ? Vì “nghiệp” của chúng là “bố thí” thân mạng cho con người, vì:
“Phía bên kia lò mổ là cánh đồng bất diệt của chúng ta
Xin hãy chết lấn lượt theo số thứ tự viết trên trán chúng ta. Xin đừng chen lấn…”.
Trong Lục Độ vạn hạnh, thì bố thí thân mạng là lớn nhất, vì thế gọi là “đại thí”. Trước khi Giải thoát, con bò đã tha thứ cho chàng đồ tể, vì nó tin rằng:
“Chàng sẽ thấy hình ảnh con rống vang và quỳ xuống. Nghi lễ linh thiêng trên mặt đất đau buồn.
Con trả ơn chàng bằng đôi mắt
Như sao Hôm hiện lên trên cái đầu bị cắt
Và chàng nhận thấy thi ca
Giờ con bay lên
Tất cả đã dần dần xa…”
Nghĩa là “Lò mổ” là hiện thực của Giải thoát, thông qua cuộc “đại thí”. Trên đời còn gì đáng quý hơn sự Giải thoát? đó là “sức mạnh” thứ nhất. “Sức mạnh” thứ hai là Tự do. Nguyễn Quang Thiều vừa “cá nhân hóa” thi ca, vừa “thi ca hóa” đời sống cá nhân của mình. Ông tuyên bố: “Đấy là Tự do. Và điều đó làm nên nghệ thuật”. Tự do này không gắn với khái niệm xiềng xích, luật lệ… như xưa nay vẫn hiểu như thế, mà Tự do của Nguyễn Quang Thiều là:
“Một ngọn cỏ tự do làm thành thảo nguyên
Một cái cây tự do làm thành cánh rừng
Một con cá tự do làm thành biển cả
Một con chim tự do làm thành bầu trời
Một con người tự do làm thành vũ trụ”
Đoạn tư duy rất thơ này của người làng Chùa được lặp lại vài lần trong trường ca. Cái “Một” đã hóa thành tất cả, thì đó là “Tiểu Ngã” (atman) đã thể nhập vào “Đại Ngã” (brahman). Đó là cảnh giới của vô ngã, thoát ra khỏi cái Ngã. Con người chúng ta ai cũng có vô ngã cả, chỉ mức độ cao, thấp, lớn, nhỏ… khác nhau mà thôi. Nếu không có sự vô ngã, thì chúng ta sẽ y như những tảng đá trên sa mạc, sẽ không thể tạo cảm xúc cho nhau, không thể hiểu nhau dù ầm ĩ đến mấy. Vô ngã là cái trí vô phân biệt, cái cây là cánh rừng, con cá là biển cả, con chim là bầu trời, con người là vũ trụ. Cái cây, con cá… tự do là vô sở hữu xứ, là chạm đến sự Giác ngộ. Sức mạnh của “Lò mổ” là như vậy, vì chỉ sức mạnh của sự Giác ngộ, mới cho ta Tự do, và đó là Tự do tuyệt đối.
Sức mạnh thứ ba của “Lò mổ” là người đọc có thể tìm thấy khả năng “chuyển y” hay thậm chí “chuyển địa”, người đã đọc xong không phải là cái người trước khi đọc. Nếu vẫn là cái người trước khi đọc, thì tức là chưa đọc, cũng tức là chưa “chuyển y”. Giống Nhan Thành Tử Du trong Nam Hoa Kinh hỏi thầy mình là Tử Kì: “Sao mà hình hài có thể khiến được như cây khô, còn lòng thì có thể khiến được như tro lạnh? Nay người ngồi trên ghế kia có còn phải là người ngồi trên ghế trước đây nữa hay không?”. Tâm thức, thậm chí cả hình hài của chúng ta cũng luôn luôn sinh diệt trong từng sát – na, như dòng nước từ trên thác trút xuống, nom như dải lụa là như vậy.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Quang Thiều có nhắc đến triết gia Nietzsche, nhưng không “hư vô”, phản nghịch… như Nietzsche, mà ông có vẻ “hiện sinh” giống Jean Paul Satre hơn. “Lò mổ” là nói về “hiện tượng”, vì thực ra chỉ có “hiện tượng”, không có “bản chất”, không chia ra thiện, ác… Mọi lý thuyết về “bản chất” đều là “hý luận” vì “Tất cả các pháp đều không có tự tính” – (Luận Trung Quán). Trong một “Lễ hội của tiếng rống và máu”, mà những đôi mắt nhận ra: “Chúng ta đã phạm tội trong cách nhìn”, những cái lưỡi nhận ra: “Chúng ta đã phạm tội trong phát âm”, những bộ óc nhận ra: “Chúng ta đã phạm tội trong ý nghĩ”, những đôi chân nhận ra: “Chúng ta đã phạm tội trong cách đi”, những bàn tay nhận ra: “Chúng ta đã phạm tội trong viết và ký”… thì những đôi mắt, cái lưỡi, bộ óc… trong “Lễ hội” ấy đã xuất hiện khả năng “chuyển xả” những tội lỗi đã phạm phải, thì tất nhiên sẽ có cơ hội “chuyển đắc” trong cách nhìn, trong phát âm, trong ý nghĩ… Trước phải “chuyển xả”, tức xả cái cũ đi, thì sau mới “chuyển đắc”, tức là đắc được cái mới thì gọi là “chuyển y”. Đây là quy luật bất diệt: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kì tâm”, của bất kì loại “tiến hóa” trí tuệ nào, cả trí tuệ thế gian lẫn xuất thế gian. “Chuyển y” có khả năng làm thay đổi cả “thọ mạng” của con người, không phải “phần đoạn sinh tử”, mà là “biến dịch sinh tử”. Tư tưởng ấy đồng nghĩa với “chuyển nghiệp”, từ nặng trở thành nhẹ, từ ác hóa thiện, từ thấp hóa nên cao, đang đoản hóa nên trường, câu: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” chính là nói về “sức mạnh” của “chuyển y”, mà chuyển ở ngay trong cái “Lễ hội tiếng rống và máu” này, chứ không cần phải tìm “sức mạnh” ấy ở đâu.
Còn “chuyển địa” thì sao? “Lò mổ” là một cõi “ngũ thú tạp cư địa”, trong đó có từ thiên đường (trời), người, súc sinh đến ngạ quỷ, địa ngục, mà:
“Chỉ duy nhất bộ phận sinh dục của chúng ta được án treo”
Với một lý do còn đầy ngờ vực
Về sự cần thiết của sự hiện diện
Của con người trên thế gian”
Thì khả năng “chuyển địa”, tức là lên (hoặc xuống) một “địa” khác, ở ngay trong “Lễ hội…” này là hoàn toàn có thể, nếu chúng ta muốn. Đây là chỗ trào lộng (mà lại thật) thú vị trong một trường ca nghiêm túc. Trong khi: “Ban mai vẫn đến cả khi thế gian này không còn chúng ta”, chỉ vì: “Chúng ta dựng lên quá nhiều ảo tưởng”, cho nên: “Bóng tối đã nhuộm đen tất cả chúng ta bởi luật chơi công bằng của nó…”. Một khi đã nhận ra những điều đó, thì sức mạnh của năng lực “chuyển địa”, trong chính vô thức của chúng ta đã hiện ra.
Chương ba của “Lò mổ”, dài gần chục trang dày đặc… ruồi, chỉ độc một chữ… “ruồi”. Đây là những trang lật úp mọi trường ca, phơi lưng trường ca và giễu nhại ngôn ngữ, phi truyền thống độc nhất vô nhị trong lịch sử những bản trường ca. Thơ thị giác thì nhiều người đã từng, nhưng dừng lại ở những trang “ruồi” sáng như ban ngày ở chương này, tôi nhìn thấy điệu cười mỉm của Nguyễn Quang Thiều lẫn trong đám ruồi. Giữa những trang “ruồi” ban đêm đen kịt, tôi nhìn thấy ánh mắt lấp lánh và tinh quái của tác giả. Có cảm giác trong vô lượng kiếp trước, thời cổ đại có lẽ ông là người Hy Lạp, thời cận đại, ông là một tác giả người Mĩ La Tinh, và ngày nay, ông là người làng Chùa chăng?
Chương mười hai: “Con bò mùa thu” là đỉnh cao của tác phẩm. Chàng đồ tể của “Lò mổ” cũng “hiền giả” như anh đồ tể trong Nam Hoa Kinh, song còn hơn ở khoản biết khóc, biết thụ hưởng cuộc đại thí của con bò, và con bò đã nhờ đó mà Giải thoát:
“Đã đến giờ con ra đi
Con là một con bò không biết khóc”
Và cuộc Giải thoát mới kì vĩ làm sao:
“Giờ con bay lên
Tất cả đã dần dần xa
Cái chuồng
chiếc ách
con đường
lò mổ
thịt bò
tiết luộc
Thế gian những đau khổ và hoảng loạn mờ tan…”
Chương mười sáu “Phán xử” là một màn kịch trong lễ hội mà đàn ruồi đóng vai… quan tòa. Nếu đọc “Lò mổ” phải ra khỏi truyền thống phân biệt “thiện”, “ác” bấy nay của văn học, thì chỗ này là đỉnh cao của “phi truyền thống”. Cõi người luôn là đối tượng của Trời, thần và ma quỷ… Các loài ấy luôn tìm cách “đầu thai” vào loài người bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ một dấu chân, ví dụ nước dãi của con giải, ví dụ cuộc ân ái trong mơ… Truyền thuyết, truyện cổ tích và văn học cổ điển không thiếu gì những câu chuyện như thế. Nhưng ở đây, Nguyễn Quang Thiều đã nói lên “khát vọng” của loài ruồi, muốn: “đẻ trứng vào giấc mơ của những người đàn bà biết sợ hãi và đau khổ…”, để thế gian sẽ không còn phân biệt đâu là ruồi, đâu là người nữa. Nguyễn Quang Thiều giễu nhại đến cả… cổ tích và cổ điển đến thế là cùng, nhưng đó là sự thật, vì trong Sinh, Diệt, thì: “Tất cả mọi chúng sinh đều bình đẳng!”. Chương này khó đọc nhất, khó đọc vì siêu thực, khiến tôi cũng có cảm giác như đàn ruồi, cũng thấy nhân vật chủ lò mổ thật ngu dốt, và ngửi thấy linh hồn của y còn bẩn thỉu hơn mọi sự bẩn thỉu. Đây là chỗ duy nhất trong trường ca nói tới sự vô minh, là tất cả mọi nguồn cơn của Sinh, Diệt.
Lò mổ là chuỗi tương tục, là thứ lớp của luân hồi nên không bao giờ dừng lại:
“Những cái đầu nằm trên sàn đá lạnh
Nhưng đôi mắt không hề khép lại
Vẫn mở một chân trời xa xôi, một chân trời u huyền
Vẫn thở nóng rực những đồng cỏ
Và dãy lò mổ mở những ô cửa như chưa từng đóng…”
Là chuỗi tương tục, vì con bê đã sinh ra trên chính cái sàn đá lạnh ấy. Con bò trút hơi thở cuối cùng, làm thiên nhiên phải chấn động: “tất cả những cái cây trên mặt đất rung chuyển”. Thì con bê, một sinh linh mới sinh ra cũng gây chấn động: “Tất cả ngũ cốc thức dậy”.
Hình ảnh đó ở chương kết thật tuyệt vời. Và đó là Sinh, Diệt. “Lò mổ” là trường ca của Sinh Diệt”.
17/2/2025
Phạm Lưu Vũ
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...