1- Nguyễn Hiến Lê – một nhân cách cao quý Ông có tên hiệu Lộc Đình sinh ngày 8/1/1912– (khai sinh ghi 8/4/2012) - ở nhà số 4 ngõ Phất Lộc, Hà Nội - Tổ quán, làng Phương Khê, phủ Quảng
Oai, Sơn Tây - năm 1980, về ẩn cư ở Long Xuyên - ông mất ngày 22/12/1984 hưởng
thọ 72 tuổi. Nếu tính từ năm xuất bản 1993 (NXB Văn Học) đến thời điểm hiện
tại (2023) - tròn ba mươi năm,tập hồi ký của Nguyễn Hiến Lê vẫn có sức lôi cuốn
người đọc qua từng trang đầy nhóc thông tin về tổ tiên, gia đình,về đời viết văn
,về bối cảnh thời sự diễn ra xung quanh: “Chúng ta ở thời này, cũng chỉ
trong 30 năm,từ 1945 đến 1975 đã từng chứng kiến biết bao sự thay đổi. Chúng ta
đã thấy ba bốn trào thực dân cũ và mới : Pháp rồi Nhật, rồi lại Pháp,sau cùng là
Mỹ…” - (Chương I,tr 16). Điều tôi thích nhất ở Nguyễn Hiến Lê là tính trung thực,sự cẩn
trọng nghiêm túc với “con chữ”. Hiện thực có sao ông ghi chép - tường thuật
“sát rạt” - nhưng từ tốn không cực đoan quá khích. Thông tin có được từ cuộc sống
trải nghiệm - trực tiếp tai nghe mắt thấy, được cẩn thận soi chiếu tham khảo
qua nhiều tài liệu phổ biến trong và ngoài nước. Chẳng hạn viết về Chiến tranh Việt-Pháp – Việt-Mỹ,ông xem
thêm: Philippe Devillers - Histoire du Viet Nam de 1940 và 1952;Paul Mus -
Sociologic d’une guerre; Jean Lacouture - Ho Chi Minh (1965) - Les deux Viet Nam
(Payot - 1967; Jean Lacouture et Philippe Devillers… La fin d’une
guerre;Bernard-Fall-Guerres d’Indochine France 1946-1954 - La seconde
resistance - Việt Nam 1965 của W.Burchett (Gallimard-1965)… - Ông tường thuật tình hình thời kháng chiến chống Pháp: “toàn
dân ta đều coi thực dân Pháp là kẻ thù, đều muốn đuổi chúng đi gần như gia đình
nào cũng có người theo bộ đội hoặc giúp kháng chiến và coi chính phủ kháng chiến
là chính phủ của dân,mặc dầu những người lãnh đạo là cộng sản... Cũng có một số
rất ít vì lẽ này hay lẽ khác bất mãn với chính phủ, nhưng hạng đó không dám sống
ở chiến khu mà phải về những miền địch chiếm…”- (tr 319, 320 – Chương XIX –
Pháp sa lầy và thua ở Bắc Việt) - Ông thố lộ: “Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng
sản; ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ năm 1965 khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền
Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ; tôi phục tinh thần hy sinh, có
kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn
lòng giúp…” - Ông tỏ lòng “khâm phục Bắc Việt là trong cuộc kháng chiến lâu
dài,gay go chống Pháp, chống Mỹ mà vẫn kiến thiết về văn hóa, khảo về Nguyễn
Du, thơ đời Lý, đời Trần, soạn tự điển, khai quật các di tích vùng đền Hùng, sáng
tác, ca nhạc”… - Ông nhận định rất thẳng thắn tình hình kết quả 5 năm sau
ngày thống nhất,hòa bình lập lại:“Thất bại lớn nhất,là không đoàn kết được quốc
dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn
miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực
làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối 1975 đã có
đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc...”(“Thất bại trong hòa bình”– Chương
XXXI, tr72 tư liệu). Nguyễn Hiến Lê không phải là người tham gia kháng chiến,và
ông cũng không phải là nhà văn của “chế độ cũ”, mặc dù ông sống giữa lòng xã hội
ấy suốt mấy chục năm - (vào Nam trải qua các giai đoạn 1935 -1945-1975 - mất
năm 1984). Cục diện đất nước đã khiến ông mắc kẹt giữa hai làn đạn - “nhân
cách và phi nhân cách”.Nhưng trước sau ông đã tỏ ra bản lĩnh vững vàng vẫn giữ
được nhân cách của mình. Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và con tim Nguyễn Hiến
Lê ngay từ đầu đã thuộc về nhân dân, những người lao động, những ai cực khổ, bần
hàn và bất hạnh. Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi đau về dân tộc trước
những cuộc ngoại xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn luôn ý thức lánh xa những
gì phù phiếm như chức tước, địa vị và sự giàu sang không lương thiện, xích gần
với Cách mạng và tự coi mình là người của Cách mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều
Cách mạng đang làm cũng chính là những mơ ước của ông. Đọc hồi ký của ông,bạn đọc tiếc vô cùng một số Chương bị loại
bỏ oan uổng. Và thật may mắn vài năm sau đó tình cờ bắt gặp “những chương
trên”trôi lang thang trên xa lộ thông tin – chẳng biết ai là “chủ sở hữu” để
xin phép - tôi mạo muội download xuống – đóng thành tập 302 trang, khổ A4 - làm
tư liệu tham khảo - ngầm giữ hộ “núm ruột”cho tác giả. Đó là các chương: CHƯƠNG XXI: - Việt Nam chia hai (1954-1965) - A. Miền Nam: - Gia đình Ngô Đình Diệm - Dẹp giáo phái -
Truất Bảo Đại - Chính sách nhà Ngô - Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11/11/60 và
26/02/62 - Ấp chiến lược -Trận Ấp Bắc - Phật nạn - Đảo chánh 63 - B. Miền Bắc: Pháp mất hết quyền lợi - Kinh tế suy - Đời
sống khắc khổ - Cải cách điền địa – Vụ Quỳnh Lưu - Vụ Nhân văn Giai phẩm - Kinh
tế phát triển rất chậm - Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam. CHƯƠNG XXII: - Chiến tranh Việt Mỹ (1965-1975)- Các
chính phủ quân nhân - Mỹ đưa quân sang - Vụ Mậu Thân - Vừa đánh,vừa đàm - Hiệp
định Paris - Những bí mật trong chiến tranh Việt Mỹ - Mỹ rút về,quân Nam tan
rã,chiến tranh chấm dứt. CHƯƠNG XXIV: - Xã hội Việt Nam trong thời Mỹ - Kinh tế
miền Nam từ 1945-1974: Nhân số bộc phát - Nạn đói - Hạn chế sinh đẻ - Mất các
giá trị cổ truyền -Thị dân tăng lên quá mau - Nền kinh tế trái luật kinh tế - Sản
xuất kém mà tiêu thụ mạnh - Đời sống quay cuồng - Cảm giác bất an -Thời đại kĩ
nghệ điện tử - Phong hóa suy đồi. CHƯƠNG XXX: - Chế độ tập thể ở miền Nam - Cảm tình của
tôi với kháng chiến - Ngày 30/4/75 - Việt nam thống nhất - Chế độ mới : I-Hành
chánh - II.Tài chánh - Kinh tế - IV-Giáo dục - Văn hóa – V-Y tế - VI.Tư pháp –
VII-Ngoại giao. CHƯƠNG XXXI: - Kết quả sau hòa bình: Không đoàn kết - Bất
công -Thiếu kỷ luật- Kinh tế suy sụp - Xã hội sa đọa : Tham nhũng – Ăn cắp –
Buôn lậu – Con người mất nhân phẩm – Phong trào vượt biên – Người ta đã nhận định
sai CHƯƠNG XXXII: -Ta phải biết sống theo ta: Một Cuộc Đàm
thoại – Bài học của cổ nhân - Mình theo cả những lầm lẫn của người - Xu hướng của
thời đại: Dự đoán sai của Marx - Nguyện vọng của con người thời nay - Sự tranh
chấp giữa Nga và Mỹ - Một lối phát triển riêng - Một lối sống riêng. PHỤ LỤC: Kinh hoàng trên đảo Kokra (Trích báo Đất Mới –
Tin tỵ nạn) - Theo lời Nhà xuất bản (tr.6,7) các chương trên sở dĩ bị “trảm”
là vì: … “một số đánh giá của ông chưa được hợp lý theo quan niệm đương
thời hoặc theo cách nhìn của một bộ phận, một số nào đấy chăng? Vì tác giả đã mất, nên
Nhà xuất bản không nỡ cắt bỏ nhiều quá - chỉ lược bớt phần rườm rà và cắt những
chỗ không thể nào để lại được - mong bạn đọc thông cảm” - (Về phía bạn đọc,tôi
cảm giác dường như bị mắc kẹt – “mắc nghẹn” giữa Văn chương và Chính trị) ! 2- Nguyễn Khải – nỗi niềm của người cầm bút. Ông tên thật
Nguyễn Mạnh Khải sinh ngày 3/12/1930 - quê quán ở Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở
nhiều nơi - đang học trung học thì gặp CM tháng Tám - Kháng chiến chống Pháp,
gia nhập đội tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi
làm báo. Bắt đầu viết từ những năm 1950.Sau 1975 Nguyễn Khải chuyển vào sinh sống
tại Tp Hồ Chí Minh. Ông rời quân đội năm 1988 với quân hàm đại tá để về làm việc
tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn
Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội
khóa VII. Nguyễn Khải mất ngày 15 tháng 1 năm 2008 tại Tp Hồ Chí Minh do bệnh
tim. Riêng tôi được biết bút danh Nguyễn Khải qua tác phẩm Mùa Lạc
(khi đứng lớp giảng dạy chương trình môn Văn 12 thập niên 80,90) - cùng với các
tác phẩm: Xung đột (1960); Tầm nhìn xa(1963); Chủ tịch huyện (1972); Họ sống và
chiến đấu (1966); Đường trong mây (1970); Ra đảo (1970); Chiến sĩ (1973); Tháng
ba ở Tây nguyên (1976) - Sau 75 có thêm Tiểu thuyết: Cha và con,và… (1979); Gặp
gỡ cuối năm (1982); Thời gian của người (1985); các truyện ngắn: Một
người Hà Nội (1990); Một thời gió bụi (1993); Hà Nội trong mắt tôi (1995)… Nhìn chung Nguyễn Khải là một cây bút kỳ cựu – lẽ ra “một đường
máu chảy về tim” – nhưng “bỗng dưng” cuối đời ông vung bút lên trời xanh trút hết
tâm sự : “Những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sĩ
theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sĩ chúng tôi cũng “sống
không dễ”trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề: căm thù
và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh : công, nông, binh. Cái thế giới
mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu : đỏ là quân ta,đen
là quân địch.Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước
nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một
vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc
trung thành cũng phải chán.Chính chúng tôi cũng tự chán mình.Tài đã kém lại bị
bó chặt từ đầu tới chân,xoay tới xoay lui cũng chỉ có một vòng quay,ú ớ một
cách nói,càng viết càng nhảm cũng là phải.Một nền văn nghệ phải phục vụ chính
trị(mà chính trị thì sớm nắng,chiều mưa)là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục
vụ chính trị theo nghĩa của các chủ trương,chính sách của từng thời kỳ thì còn
gì là tự do nữa…”(Mục 7 - Đi tìm cái tôi đã mất – Tùy bút chính trị,2006). Bạn đọc phương Nam vô cùng ngạc nhiên - các thầy dạy văn lúc
bấy giờ cứ “ngớ người” - hóa ra đã có một dạo mình cũng đã cảm nhận như vậy
nhưng khốn nỗi mình không phải là Nguyễn Khải - lẽ dĩ nhiên không sống cuộc đời
của ông - mình là dân “tại chỗ”- nói niết không khéo chẳng phải đầu lại phải
tai,tốt hơn hết đừng dại dột “cầm đèn chạy trước ô tô”- đành thôi chấp nhận
“mình hèn” theo cách diễn đạt của cố nhạc sĩ Tô Hải (1927-2018). Có lẽ mọi người đều thấy “văn chương” là sản phẩm xã hội - xuất
phát từ “con người” hướng đến “con người” - tự nó quyết định số phận - tồn tại
mãi mãi (như Truyện Kiều của Nguyễn Du - nói lên tiếng lòng nhân thế) - hoặc
rơi tòm vào quên lãng khi nó chỉ là những “xác chữ” khô lạnh đứng bên ngoài
trái tim - Tôi nghĩ như vậy cho đến bạc đầu ! 3- Hoành Linh Đỗ Mậu – cuối đời nhìn lại Tướng Đỗ Mậu (1917-2002) quê làng Thổ Ngọa,Phủ Quảng Trạch
(nay là phường Quảng Thuận, thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình trong một gia đình
nhà Nho nghèo - nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân lực VNCH, cấp bậc Thiếu
tướng. Ông xuất thân là một quân nhân trong đơn vị Vệ binh bản xứ được gọi là
"lính khố xanh" thuộc quản lý của chính quyền thuộc địa Pháp. Sau ông
được theo học bổ túc tại trường Hạ sĩ quan An Cựu (tức Cơ lưu động Huế). Ông là
một trong những nhân vật đóng vai trò quan trọng với cuộc đảo chính ngày 1
tháng 11 năm 1963 và chính trường miền Nam từ 1963 đến 1965. Ông cũng là một
chính khách thời kỳ chính thể Đệ Nhị Cộng hòa. Ông còn có bút hiệu là Hoành
Linh Đỗ Mậu với một vài tác phẩm theo thể văn hồi ký. Với “Tâm sự tướng lưu vong” (NXB CAND -1998), là người
trong cuộc hơn ai hết ông nắm khá rõ tình hình nội bộ, đã chỉ ra: Chính “nạn
Kỳ thị tôn giáo và kỳ thị địa phương là hai sản phẩm đặc thù của chế độ Diệm. Hai
tệ hại đó tưởng chừng bị quét sạch sau ngày 01/11/1963 nhưng chế độ Thiệu tiếp
tục con đường của chế độ cũ đã hồi sinh phát triển mạnh mẽ - những cái chết của
các ông Trần Văn Văn,Nguyễn Chữ và vụ mưu sát Thượng tọa Thích Thiện Minh là những
minh chứng không thể chối cãi được…” - Ông lên án tệ nạn tham nhũng đã góp phần làm nát ruỗng nền
Đệ nhị Cộng hòa : “Sau khi nắm vững được chính quyền lực lượng hậu thuẫn sắt
thép là khối Công giáo và tướng tá trong quân đội - nhóm Thiệu, Khiêm, Viên, Quang
và một số tướng lãnh tay chân của Thiệu đã giẫm lên vết xe cũ của anh em nhà họ
Ngô , thực hiện một nền tham nhũng kinh khủng. Nền tham nhũng của chế độ Thiệu
tàn bạo đến độ Đại úy bác sĩ Hà Thúc Nhơn tại Nha Trang quá căm phẫn phải nỗi
loạn để mua lấy cái chết ám muội…”- Sau đó“Nhóm Sóng Thần của các nhà văn Uyên
Thao, Lý Đại Nguyên, Hà Thế Ruyệt, Vũ Thế Ngọc …bèn lập hội thờ Hà Thúc Nhơn mong
duy trì và phát triển phong trào chống tham nhũng tại miền Nam …” (Tr
592,593) Tệ nạn tham nhũng, thời nào cũng có - nếu không có giải pháp
cứng rắn ngăn chặn thì chính nó sẽ làm “đắm thuyền”. Kết thúc hồi ký, tướng lưu vong Đỗ Mậu chia sẻ: “Bài học
lớn đầu tiên mà tôi học được từ đó là tôi yêu quê hương không phải vì quê hương
đó xinh đẹp hay xấu xa, giàu mạnh hay nghèo khổ, mà tôi yêu quê hương vì tôi đã
có mặt ở đó sống để cùng chia sẻ vui buồn, sướng khổ, vinh nhục với đồng bào ruột
thịt. Thiếu sự liên đới khăng khít đó chắc tình yêu quê hương sẽ dở dang tàn lụi.
Thiếu sự TỈNH THỨC của một cuộc sống hiện thực chắc tôi chỉ là kẻ yêu nước qua
những hình bóng chủ quan mơ hồ và nhiều khi không thực.” (Tr 611,613) Ông “đi gần trọn cuộc sống đấu tranh, viết cuốn sách này
chỉ để đóng góp thêm cho thế hệ người Việt bây giờ và mai sau có thêm tài liệu
đúc kết một cách chính xác hơn bài học lịch sử của thời kỳ đau thương ,phức tạp
nhất của dân tộc Việt”- (Tr 614). Tác giả buông tay rơi thẳng vào cõi hư vô: “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.
(Thân như sấm chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi Thu héo hon
Nhìn cuộc thịnh suy đừng sợ hải
Thịnh suy: ngọn cỏ giọt sương hồng)
Vạn Hạnh Thiền Sư Đến thịnh suy của cả một quốc gia, cả một thế hệ còn được coi
như một giọt sương hồng trên ngọn cỏ trong vũ trụ bao la - thời gian vô tận. Ông
tạm thấy mình đã “làm tròn giấc mộng tiền sinh” - cuối cùng là tập sách
này,ông tự cho phép mình “mở miệng cười tan cuộc oán thù” (Phan Bội
Châu)…4 – Nguyễn Đăng Mạnh – nhà phê bình văn học tài hoa Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh sinh ngày 18/3/1930 tại làng Quần
Phương Hạ,huyện Hải Hậu,tỉnh Nam Định – Nguyên quán làng Thổ Khối,huyện Gia
Lâm, tỉnh Bắc Ninh . Trong phần Mở đầu (Tuổi “tuyển hồi”), ông viết: “Tôi tuy không
phải nhân vật lịch sử, nhưng sự tình cờ đã đưa đẩy tôi được chứng kiến nhiều sự
kiện lịch sử quan trọng như Cách mạng tháng Tám hay Cải cách ruộng đất…v.v, -
và biết được một ít chuyện riêng của một số danh nhân như Hồ Chí Minh,Tố Hữu, và
nhiều nhà văn hóa lớn như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyên Hồng…v.v..Tất
nhiên những sự kiện này và những nhân vật kia người ta đã nói nhiều,viết nhiều
rồi theo cách nhìn quan phương chính thống. Ở đây tôi chỉ nói những hiểu biết trực
tiếp của riêng tôi với cách nhìn rất chủ quan của tôi. Nhưng chính vì thế mà, biết
đâu đấy, lại có thể đem đến những thông tin riêng, những ý vị riêng”. (Tr 2,3 tư
liệu internet) Hơn nửa thế kỷ qua, ông không ngừng hoạt động trên hai lãnh vực
đào tạo sinh viên và nghiên cứu văn học. Những năm 87-90, thời kỳ đổi mới văn học, có
thể nói ông là người mở mũi “đột phá” đưa ra những biện pháp giáo dục và nghiên cứu
mới, tách rời chính trị ra khỏi văn học, đồng thời nhấn mạnh đến việc cần phải
nhận định lại các giai đoạn văn học sử,định vị lại giá trị tác phẩm theo tiêu
chuẩn văn học chứ không theo đòi hỏi chính trị nữa. Những công trình nghiên cứu
về Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, v.v… nói lên phong cách
phê bình độc đáo của ông. Chung quanh vấn đề giảng dạy môn văn trong trường phổ
thông,ông nêu vấn đề cốt lõi “Người đọc văn phải có điều kiện gì,năng lực
gì?”- “Mỗi người có trong tâm hồn mình một kho ấn tượng thẩm mỹ được tích
lũy một cách tự phát từ nhỏ.Nguồn cung cấp những ấn tượng ấy là gì ?Là những
kinh nghiệm sống,là những sách vở đã đọc, những tranh ảnh đã xem, những phong cảnh
thiên nhiên đã ngắm nhìn, là lời ru của mẹ khi còn nằm trong nôi,là những truyện
cổ tích của bà kể cho nghe lúc năm,bảy tuổi,v.v… Những ấn tượng ấy tạo nên ở mỗi
người một “trường liên tưởng thẩm mỹ” nhất định. Khi đứng trước một áng văn
hay, một bức tranh đẹp…sự rung cảm của ta diễn ra trên cơ sở một chùm liên tưởng
giữa những yêu tố nào đó ở đối tượng thẩm mỹ kia (tức áng văn hay bức tranh) với
những ấn tượng nào đó có trong trường liên tưởng của mình. Trường liên tưởng thẩm
mỹ rất khác nhau ở mỗi người.Người thì phong phú,người thì nghèo nàn,người
thiên về sách vở,người thiên về kinh nghiệm sống v.v… Người có trường liên tưởng
thẩm mỹ phong phú tất nhiên thẩm văn tốt hơn,sâu sắc hơn. Vì trường liên tưởng
thẩm mỹ khác nhau nên hiểu văn có thể khác nhau, cái tạng khác nhau của mỗi nhà
phê bình”. (P/v Gs Nguyễn Đăng Mạnh - Phương Thu thực hiện - Văn học và Tuổi trẻ, số
1/2008). Ông chốt lại phương pháp dạy Văn: “điều quan trọng là
phải hiểu được bài văn đã. Phải giải quyết nội dung rồi thì mới có cái truyền đạt
chứ.Lâu nay nội dung ý nghĩa của bài văn thường bị chính trị hóa, nhiều người
coi tiêu chí cao nhất để đánh giá tác phẩm văn học là tiêu chí chính trị. Phân
tích tác phẩm họ thường suy diễn bừa bãi theo lối xã hội học dung tục hay biến
ngôn ngữ nghệ thuật thành ngôn ngữ chính trị trực tiếp, giá trị văn chương không
được coi trọng …”(Tr 89) Năm1989,1990 được Bộ GD giao chủ biên biên soạn chương trình
và Sách giáo khoa PTTH môn Văn,ông khẳng định ngay :“Chương trình văn,sách
giáo khoa văn trước hết phải là chương trình văn, sách giáo khoa văn đã.Nghĩa
là phải dạy trước hết nghệ thuật ngôn từ chứ không phải dạy chính trị,dạy tư tưởng”-
Ông đã đưa vào chương trình một loạt các tác phẩm có giá trị nghệ thuật của Tản
Đà (Thề non nước),Trần Tuấn Khải (Gánh nước đêm), Hồ Chí
Minh (Vi hành,Mộ,Tảo giải,Vãn cảnh,Tân xuất ngục học đăng sơn,Nguyên
tiêu,Báo tiệp), Tố Hữu (Tâm tư trong tù,Kính gửi cụ Nguyễn Du),Xuân
Diệu(Đây mùa thu tới,Thơ duyên,Vội vàng,Nguyệt cầm),Huy Cận (Tràng giang),Hàn
Mặc tử(Đây thôn Vĩ Dạ),Thâm Tâm(Tống biệt hành),Nguyễn Tuân(Chữ người tử tù),Vũ
Trọng Phụng(Số đỏ),Thạch Lam (Hai đứa trẻ), Hoàng Cầm (Bên kia
sông Đuống),Quang Dũng(Tây tiến),Nguyễn Đình Thi(Đất nước),Nam Cao(Chí Phèo,Đời
thừa,Đôi mắt),Kim Lân(Vợ nhặt),Nguyễn Thi(Những đứa con trong gia đình),Nguyễn
Minh Châu(Mảnh trăng cuối rừng),Nguyên Ngọc(Rừng Xà nu),Nguyễn Khải (Mùa Lạc)..vv…(Tr
115) Những trang viết phê bình,những chuyện kể bên lề của ông hé
ra nhiều tình tiết mới lạ - gây sự tò mò, nghe rất “sướng tai” vì nó thẳng như
nhát cắt và cụ thể như được sờ thấy. Ông phê bình thơ Hoàng Cầm : “nặng âm tính,nói rõ hơn là
rất ướt át,rất “đĩ” - thường cố tình lắp đi,lắp lại những hình ảnh gợi dục :
“môi trầu đờ đẫn”, “ngực yếm phập phồng”, “bầu vú lửa”, “vén xiêm”, “tốc
xiêm”…Kim Lân khó chịu cho là thưỡn thẹo,ưỡn ẹo,già mà tình tứ,dơ dáng …Thơ
Hoàng Cầm chỉ thật sự là thơ khi ông có cảm xúc chân thật lời thơ tuôn trào
theo bản năng tự nhiên,hồn nhiên.Hễ ông cố gò theo lý trí thì thơ chỉ có xác
(xác Kinh Bắc và cả xác tình dục) chứ không có hồn…”(Chương X ,tr172) Nói về Tô Hoài,ông nhận xét : “là nhà văn của đời thường,người
thường,chuyện thường,và ông cũng thích sống như một người thường.Mình là gì mà
cao đạo!Mà cần gì phải cao đạo!Cho nên đời cho hưởng cái gì,hưởng cái đó,không
chê – chắc ông nghĩ thế !” - Ông là một pho tự điển sống về giới nhà văn,về đời
sống muôn mặt,về kinh nghiệm viết văn.Ông là một kho chữ nghĩa…Người như thế
bây giờ là của hiếm lắm đấy !” (Chương XVI,tr 239,240). Nhìn chung hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh rất sinh động với nhiều
tình tiết hấp dẫn.Văn phê bình sắc sảo,cách nói giản dị mà đầy ấn tượng truyền
được cả những thái độ,tư tưởng tình cảm chân thực,xúc động của người viết tới bạn
đọc. Văn học và chính trị có mối quan hệ tất yếu (VH phản ánh cuộc
sống xã hội của con người dù muốn hay không nó mang màu sắc CT)- nói bóc tách
là cách nói tương đối - để tránh chủ trương cực đoan gò ép thái quá - “chính trị
hóa” văn học lâu dài sẽ khiến xơ chai,bào mòn cảm xúc nhân tính - Hãy để văn học
làm nhiệm vụ xã hội theo cách của nó - đi từ trái tim đến trái tim. Về hưu rộng thời gian gặp dịp Tết lại càng thừa thãi sự rảnh
rỗi, đọc lại những trang viết trải lòng phủ bụi vàng ố - soi từng con chữ sắc lẻm
- tôi ngộ ra quá khứ nào đâu đã kết thúc khi mãi mãi là một phần cuộc sống của
mỗi người - thậm chí của cả một dân tộc - nó luôn đi bên cạnh lịch sử để thỉnh
thoảng ngóc dậy “thưa trình” cùng hậu thế!. Thủ Đức, 4/3/2023 Phan Văn Thạnh Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét