Về bài thơ xuân xưa nhất
trong Văn học Việt Nam
Đa số các thiền sư Việt Nam nói chung, thiền sư đời Lý
nói riêng thường không bàn suông nói góp về cuộc đời, mà chính là họ đã hành đạo,
sống đạo trọn đời rồi mới thể hiện sự chứng nghiệm, thụ đắc chân lý của mình.
Những ai có duyên nợ với văn chương chắc hẳn không thể không biết đến, đọc đến dù chỉ một lần bài kệ – thơ của Mãn Giác Thiền sư đời Lý:
Nguyên tác:
告疾示眾
春去百花落,
春到百花開。
事逐眼前過,
老從頭上來。
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅
Phiên âm:
Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai,
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch thơ:
Có bệnh bảo đồ đệ
Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa tươi.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước nở cành mai.
(Bản dịch của Vân Trình Bùi Văn Nguyên trong Hợp tuyển thơ
văn Việt Nam,tập 2, thế kỷ X – đầu thế kỷ XVIII, NXB.Văn Học, tái bản, 1976)
Bài thi kệ vốn không có nhan đề. Nhan đề này là do người đời sau (có thể là Lê Quý Đôn?) khi làm thi tuyển đã căn cứ vào tiểu truyện chép về thiền sư trong sách Thiền uyển tập anh rồi đặt tên.
Mãn Giác (1051-1096), một thiền sư danh tiếng đời Lý, tên thật
là Lý Trường, Mãn Giác là pháp hiệu, ông là con của Trung thư viên Ngoại lang
Lý Hoài Tổ, thuộc dòng dõi vương triều đương thời. Thuở nhỏ, ông vào hầu thái tử
Kiền Đức, được thái tử quý trọng. Khi Kiền Đức lên ngôi (vua Lý Nhân Tông,
1072-1127), ông được ban tên Hoài Tín Trưởng lão và được mời vào trụ trì chùa
Giao Nguyên trong cung, gần điện Cảnh Hưng. Bài thi kệ ở trên là tác phẩm duy
nhất còn lại của ông.
Thiên nhiên và sự sống luôn là đề tài, là cội nguồn cảm hứng
chủ yếu của các nhà thơ từ xưa đến nay. Do quan niệm khác nhau về vũ trụ, về cuộc
sống nên mỗi tác giả phản ánh thiên nhiên mỗi khác. Hình ảnh thiên nhiên trong
thơ đời Lý (thế kỷ XI-XII) chỉ là phương tiện để nói lên nội dung tư tưởng triết
lý nhà Phật. Sang đời Trần (thế kỷ XIII-XIV), thiên nhiên mới trở thành đối tượng
miêu tả. Nhưng nhìn chung, những bài thơ tả cảnh thiên nhiên trong thơ đời Lý
thường nói lên lòng yêu cuộc sống tràn trề qua một nội dung trữ tình tinh tế,
hàm ngụ tư tưởng triết lý sâu sắc. Triết lý ở đây chính là tư tưởng triết lý Phật
giáo Thiền tông, vì hầu hết thơ đời Lý là thơ của các thiền sư. Bài thơ của Mãn
Giác mang đặc tính chung này.
Đa số các thiền sư Việt Nam nói chung, thiền sư đời Lý nói
riêng thường không bàn suông nói góp về cuộc đời, mà chính là họ đã hành đạo, sống
đạo trọn đời rồi mới thể hiện sự chứng nghiệm, thụ đắc chân lý của mình. Do đó,
họ không nhắc lại giáo lý tư tưởng nhà Phật một cách khô khan, máy móc. Chân lý
vi diệu trước khi được diễn tả ra lời thơ, câu văn là đã được họ chắt lọc kỹ
càng sau những năm tháng dài dằng dặc “quán bích tọa thiền”, hay sau những chuỗi
ngày khắc khoải tư duy, đến lúc tai đã mệt nghe vạn âm, mắt đã chán nhìn muôn sắc,
lưỡi đã tê mùi tục lụy và lúc này họ chỉ còn thấy có con đường duy nhất là trở
về với chân tâm tự tại, bản thể chân như của mình.
Hình ảnh hoa nở lúc xuân tới, hoa tàn khi xuân qua là một quy luật của tự nhiên, nói theo ngôn ngữ nhà Phật, nó tượng trưng cho sự sinh hóa của chư pháp, của vạn vật, thế giới khách quan. Còn cành mai kỳ diệu vẫn nở hoa trước sân đêm qua trong buổi xuân tàn hoa rụng, tượng trưng cho bản thể trường tồn. Đây là một hình ảnh rất sống động được cấu tạo bằng sự kết hợp hài hòa giáo lý đã thụ lĩnh cùng với sự chứng nghiệm của bản thân. Đó cũng là bài học về chân lý được đúc kết và trao truyền lại cho môn đệ sau những năm tháng quan sát vạn vật và nghiền ngẫm trong nội tâm, đến khi tóc đã đổi màu và giai đoạn “bệnh, tử” đã tới, thiền sư mới chứng ngộ và thốt lên.
Trước đây, có vài nhà văn học sử cho rằng bài thơ trên “đối lập
với triết lý Thiền tông Phật giáo” và “vượt ra ngoài khuôn khổ đạo Thiền” như
trong sách “Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam”, tập 1, NXB.Văn Sử Địa, 1959 và
trong “Lịch sử văn học Việt Nam” tủ sách ĐHSP, tập 2, NXB.Giáo Dục, 1962. Có phải
như vậy không? Ngày xưa, Đức Phật Thích Ca khi giảng thuyết cho đệ tử đã từng
nói rằng “Tất cả các pháp tướng hiện hữu đều như chiêm bao, bóng nổi trên mặt
nước, như hạt sương mai đọng trên ngọn cỏ, như bóng chớp mà thôi…” và “Phàm vật
gì có sắc tướng đều là hư ảo cả”. (Nguyên văn: “Nhất thiết hữu vi pháp/ Như mộng
huyễn bào ảnh/ Như lộ diệc như điện…” và “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”.
– Kinh Kim cang Bát-nhã Ba-la-mật).
Trên cơ sở đó, thiết nghĩ, bài thơ không có gì trái với giáo
lý đạo Phật và vượt ra ngoài khuôn khổ đạo Thiền. Yếu lĩnh của triết lý Thiền
tông là phủ nhận thực tại hiện hữu, cho rằng tất cả các pháp hữu vi đều là hư ảo,
tạm bợ. Thiền tông với tư tưởng đốn ngộ mạnh bạo của mình, cho phép thiền sư có
cái tinh thần không sợ (Nhậm vận thịnh suy vô bố úy – Vạn Hạnh), cái tinh thần
rất mực phóng khoáng, yêu đời, yêu cuộc sống, mà tinh thần này không phải của
Nho gia hay Đạo gia. Vì lẽ đó, các thiền sư thi sĩ bấy giờ mới có một tâm hồn
rung động tràn trề trước cảnh vật thiên nhiên, làm thơ tức thông qua cảnh vật,
cuộc sống để nói lên lòng mình và cũng để nói hộ lòng người. Không riêng gì bài
thi kệ của Mãn Giác mà rất nhiều tác phẩm khác của các thiền sư thi sĩ đời Lý đời
Trần cũng mang cái chất này.
Bốn câu đầu: Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa
khai/ Sự trục nhãn tiền quá/ Lão tùng đầu thượng lai. Thiền sư Mãn Giác đã phát
biểu một chân lý hiển nhiên của cuộc sống, một quy luật tuần hoàn của tự nhiên,
của vạn pháp. Thế giới khách quan luôn luôn biến động, chuyển dời và phát triển
không ngừng. Đó là cái lẽ sinh sinh hóa hóa vô thường của cuộc đời.
Hai câu cuối: Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc
dạ nhất chi mai. Hoa mai (tức hoa mơ màu trắng, hương thơm) vẫn được coi
là “bách hoa khôi” (hoa đứng đầu trăm hoa); nói đến hoa mai, người ta nghĩ ngay
đến những ngày cuối đông đầu xuân – mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, dạt dào sức
sống, khoe sắc tỏa hương.
Thiền sư một khi đã chứng ngộ chân lý thì có thể vượt khỏi
cái vòng luẩn quẩn luân hồi, thoát ra được cái quy luật sinh hóa của thế giới
khách quan nêu trên, chẳng khác nào cành mai kỳ diệu kia vẫn cứ nở hoa trong
lúc xuân tàn hoa rụng. Tư tưởng triết lý đạo Thiền kết tinh ở chỗ này. Bài học
mà Mãn Giác muốn dạy các đồ đệ là đừng tưởng nhà sư mất đi mà dòng Thiền bị
tiêu diệt. Thiền sư có thể viên tịch nhưng nhờ sự giác ngộ chân lý mà chân thân
của ông đã vượt khỏi cái vòng sinh tử luân hồi để đến chỗ tự tại, rốt ráo, “đáo
bỉ ngạn” (đến bờ bên kia). Đó là ý chủ đạo của bài thơ. Về mặt chủ quan, dù Mãn
Giác muốn phát biểu một quan niệm triết lý đi chăng nữa thì về mặt khách quan,
bài thơ vẫn tỏa ra và ánh lên đến rạng ngời một sức sống mãnh liệt, một sự nhạy
cảm tinh tế trước thiên nhiên tươi mát sinh động đang vươn lên, biểu hiện một
tư tưởng yêu đời, yêu cuộc sống thật lạc quan và tích cực: Trong cái tàn lụi vẫn
nảy sinh cái mầm của sự sống, của tương lai, của mùa xuân bất tận. Hai ý nghĩa
trên là sự thống nhất trong mâu thuẫn, một tư tưởng triết lý khá sâu sắc của Phật
giáo Thiền tông.
Quan niệm “Vạn vật nhất thể” này của Mãn Giác đã tạo nên một
sự hài hòa tuyệt diệu của bài thi kệ, sự hài hòa giữa thiền sư thi sĩ và thiên
nhiên đã làm cho thiền sư nhận thức thiên nhiên một cách sâu sắc, rung động với
sự gắn bó chân thành.
Ngày nay, mỗi dịp xuân về Tết đến, tôi thường nhớ và đọc lại cùng suy ngẫm về bài thi kệ của Mãn Giác, bài thơ xuân xưa nhất còn lại; có lẽ đây là bài thơ xuân đầu tiên trong văn học Việt Nam. Tôi vẫn cảm thấy cái tư tưởng lạc quan yêu đời kỳ lạ ấy còn quyện mãi trong lòng mình. Nó như là một âm hưởng thôi thúc mình tiến bước, vượt qua mọi thử thách gian lao, để vươn tới một ngày mai tươi sáng đầy niềm tin và khát vọng mới.
4/2/2025
Nguyễn Công Lý
Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Xuân Ất Tỵ 2025
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét