Những ngày Covid,cách ly xã hội, ”cách” luôn cái thỉnh
thoảng ra hóng phố Saigon rửa mắt - làm gì cho hết ngày - thôi thì không sống với
hiện tại ta chui vào sách để tìm về quá khứ. Tôi đọc một hơi “Những ngọn đèn dầu trong đêm” (NXB Văn
Hóa - Văn Nghệ TP.HCM - 2011) của tác giả - họa sĩ Hà Thị Hạnh (*). Tác phẩm dày
210 trang gồm 38 mẩu ký - hồi ức bình dị chân phác mà trữ tình,khẽ khàng đánh
thức cảm xúc yêu thương sâu lắng trong người đọc - (Con Chó, Cuộc gặp không
định trước, Những ngọn đèn dầu trong đêm, Gia đình của con chim xanh, Đêm biên giới, Đêm
sang sông, Những cuộc chia ly, Con gà, Chuyện thật như đùa, Đêm Tháp Mười,Nắm cơm vắt, Con
sóc, Đêm giữa đồng, Ăn Tết ở Long Hòa, Tiếng chim trong vườn, Bài học đắt giá nhất,Ngọn
núi quê tôi, Mẹ tôi, Bánh ướt của thím Mười quê tôi, Cái giếng làng,Cái thau đồng, Cái
chết của con Ki Ki, Ngôi trường đầu tiên, Xem hát lúc xả giàn, Giã gạo đêm
trăng, Anh Hai tôi, Vẫn còn bao bà mẹ như vậy,Chuyện những chú chim,Năm tháng
không thể nào quên,Tản mạn về một dòng sông,Chị Tư Sang,Ông bánh chưng,Chợ Tết
miền quê,Bà đậu hủ,Thấy gì ở Thái Lan,Một thoáng quê hương nơi xứ người,Nỗi
lòng người Việt trên đất Mỹ,Sau một chuyến đi xa). Hình ảnh trích xuất từ cuộc sống nhặt được dọc đường băng rừng,lội
suối,vượt sông vùng miền Đông Nam bộ gian khổ,người đi vào chinh chiến phải đối
mặt thường xuyên với đạn pháo,bom đìa cày nát hệ thống địa đạo - “Nằm dưới
hầm bụng đói meo không một hột cơm,không một hớp nước.Lâu lâu,hầm lắc lên như
đưa võng”(Đêm sang sông - tr 38).Tuy nhiên không vì thế ta không nhìn ra được
những đốm sáng tâm hồn trong trẻo đậm chất thơ khiến vơi đi những hiểm nguy
rình rập - “Xuôi theo dòng kênh,chung quanh là đồng nước trắng xóa bao la
phất phơ những cây lúa trời vươn những ngọn lá xanh bén ngót theo điệu gió đong
đưa;những dề rau dừa ngả màu xanh tim tím dập dềnh theo sóng nước nhấp nhô, một
chú chim trời lạc bầy sà xuống mặt nước rồi bay vút lên giữa bầu trời xanh bao
la.Bóng chiều buông xuống,cả đồng nước lăn tăn những ánh vàng.Chiếc xuồng con của
chúng tôi len lỏi qua những cánh đồng sen bát ngát,ngan ngát hương sen”(Đêm
Tháp Mười - tr 61,62)- Và cũng không vì thế ta không thấy được tấm lòng yêu
thương muôn loài thấm đượm trong “chút cơm nguội” dành cho chú chó còm nhom xấu
xí,đầy ghẻ chóc bên miệng hố bom đìa(Con chó,tr12) - Con gà bị chồn vồ,đôi cánh
đầy máu được bôi thuốc đỏ lên vết thương chăm sóc lành lặn.(Con gà,tr 48) - Lũ
chim non mất mẹ,bị vặt đứt đầu gãy cánh,tung tóe trên nền đất đươc gom chôn cẩn
thận(Gia đình của con chim xanh – tr30)… “Những ngọn đèn dầu trong đêm”là tiếng lòng của người đi
kháng chiến được giải bày một cách chân thực,thoải mái khi đứng lùi xa lịch sử
gần nửa thế kỷ . Cục diện khách quan lịch sử Việt Nam (1945-1975)chỉ có một,nhưng
hàng trăm,hàng ngàn tình huống xảy ra,đã định hình số phận dân tộc này.Tùy cảnh
ngộ,thành phần xuất thân,mỗi công dân – ngay lúc bấy giờ,buộc phải có những lựa
chọn khác nhau. Chẳng hạn nhạc sĩ Phạm Duy trong “Hồi ký tập II - Thời Cách mạng
Kháng chiến”(nguồn internet),đã kể : “Thế chiến thứ 2 kết thúc,Pháp bị lép
vế ở VN,Nhật chuẩn bị đầu hàng,nước ta được bỏ trống,các tổ chức chính trị ùa
ra,đảng nào mạnh và giỏi thì đảng đó nắm chính quyền.Đám thanh niên thuộc tuổi
tôi và không theo đảng phái nào thì chỉ biết nhào ra theo CM.Nghe thấy có “tổng
khởi nghĩa”là hè nhau đi “cướp chính quyền”.Thấy Pháp trở lại VN thì xung phong
vào “kháng chiến Nam Bộ”.Rồi khi có lệnh “toàn quốc kháng chiến”là đua nhau rời
phố phường về nơi thôn quê xây làng chiến đấu.CM và KC thu hút tất cả,không chừa
một ai !”. Thi sĩ Quang Dũng chẳng tiếc thời xuân trẻ :“Chiến trường đi
chẳng tiếc ngày xanh/Áo bào thay chiếu,anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc
hành”(Tây tiến). Nhà nghiên cứu Lữ Phương trong “Những chuyến ra đi”(nguồn
viet-studies.info)nhớ lại: “tôi không hề tiếc nuối gì về sự dấn thân của
mình: tất cả chỉ là những trải nghiệm để hiểu hiện thực như cái sống thực chứ
không phải là những tư biện trong tháp ngà.Không có sự dấn thân đó,tôi không thể
biết thế nào là thực chất của cuộc cách mạng nhân danh “vô sản” để giải phóng
những người lao khổ,điều mà tôi chỉ hình dung qua những huyền thoại suốt thời
niên thiếu”. Về phần tác giả Hà Thị Hạnh, chị rời Saigon tháng 10 năm
1964,xa gia đình,xa bạn bè,xa trường học,xa những phố xá thân quen để ra vùng
kháng chiến - xóm Thuốc thuộc xã An Phú,Củ Chi. Chị bộc bạch chân thực :“Tôi bỏ
học để đi vào kháng chiến mà chẳng có một mục đích lý tưởng cao cả nào hết.Chẳng
qua là tôi thích cuộc đời mơ mộng phiêu lưu như anh chàng Dũng trong“Đôi bạn”của
Nhất Linh;hoặc nhân vật Chính trong“Hai thiêng liêng”của Nguyễn Vỹ.Trong
tôi,tôi lại có thêm nỗi bế tắc của lớp thanh niên mới lớn đang trong thời loạn
lạc“ưa đi lặng lẽ trong những đêm gió mưa u buồn mà nghe cô đơn”,cùng nỗi khát
khao“sống đời đáng sống” (Bài học đắt giá nhất - tr.100). Tự nhận mình thuộc thành phần “tạch tạch sè”(trí thức TTS/tiểu
tư sản),tác giả không ngần ngại tâm sự:“Những năm đầu kháng chiến,nỗi khổ về vật
chất tôi chịu được,cam go ác liệt tôi vượt qua;nhưng nỗi đau về sự xúc phạm thì
nó làm trái tim tôi muốn tan nát …Có lúc tôi bị quy là“chống Đảng”,vì tôi không
tuân theo sự sắp xếp và áp đặt của lãnh đạo,mà chỉ nghe theo sự mách bảo của
trái tim mình …Có lúc bị phê bình gay gắt vì là“quần chúng chưa giác ngộ”…Những
lần đau khổ tưởng chừng như ngã gục,tôi đi vào rừng một mình để kiếm củi
khô.Đêm đêm, lúc mọi người ngủ yên là tôi lội ra đồng ruộng tối đen như mực,lâm
râm mưa để cắm câu,bắt cá và được tự do khóc mà không để ai được biết.” (BHĐGN
– tr10) Đóng lại tác phẩm,người đọc bỗng dưng thoáng thấy bóng người
đi kháng chiến,lướt qua như gió thoảng.Bom đạn không hề là trò đùa.“Những ngọn
đèn dầu trong đêm”,giống như một chuyến “phượt” vô cùng thú vị ! Vẻ đẹp sáng
lên từ sự lựa chọn :“ tôi đã chọn con đường đi của mình - con đường nhiều gập
ghềnh,gai góc để thử thách chính mình.Nó đã đánh đổi cả tuổi trẻ của tôi,và tôi
cũng đã đem cả tính mạng của mình ra cá cược…Nhưng chính từ sự đau khổ tột cùng
ấy đã giúp tôi trưởng thành hơn,chín chắn hơn và có tấm lòng hơn.Tôi biết lắng
nghe,thông cảm,chia sẻ với nỗi đau của người khác…” ( BHĐGN – tr 103). Họa sĩ Hà Thị Hạnh “đã đi – đã dám dấn thân” và “đã về” chung
cuộc 30/4/75 – hòa bình, đất nước thống nhất – rất khâm phục “sức chịu đựng” của
chị!.
Chú thích:
(*) Vài nét về tác giả Hà Thị Hạnh: Sinh 26/4/1945 Dầu Tiếng, Bình Dương – Tốt
nghiệp ĐH Mỹ Thuật TP HCM khoa Lý luân và Lịch sử Mỹ thuật khóa I (1980) –
Nguyên Trưởng khoa Lý Luận-Lịch sử ĐH Mỹ Thuật TP.HCM – Nguyên PGĐ Làng Thiếu
niên Thủ Đức. Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam và TP.HCM – Huy chương “Vì sự nghiệp
Việt Nam” năm 2001. Sài Gòn, 18/4/2024
Phan Văn Thạnh
Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét