Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tiếng cười
chống xa hoa, lãng phí!
Với những đại văn hào gần dân, thương dân, vì dân, viết nhiều về dân, trong sáng tác của họ chữ ‘dân’ luôn được coi là ‘từ khóa’ cơ bản. Với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là đúng vậy. Ông có câu thơ chữ Hán (trong bài ‘Tòng tây chinh’) mang tính tố cáo lớn: ‘Đảo huyền dân cửu li hung ngược’ (Nhân dân từ lâu đã bị khốn khổ như bị treo ngược bởi bọn hung tàn).
Bọn hung tàn ấy là những kẻ cường quyền thống trị bóc lột.
Trong bài thơ “Cảm hứng” ông vạch rõ chân dung những kẻ này: “Buông tuồng
tàn độc, tranh nhau vơ vét/ Bạo ngược vô chừng, lại thêm roi vọt/ Bòn rút cả
máu mỡ của dân/ Đau đớn thấu đến tận xương tủy dân”.
Sử còn ghi rõ, dưới thời Mạc Hiến Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm
dâng sớ đòi vua hạch tội 18 tên lộng thần. Không được chấp nhận, ông từ quan về
quê làm nghề dạy học với hiệu Bạch Vân cư sĩ. Có lẽ bài “Tăng thử” (Ghét chuột)
nổi tiếng ra đời sau sự kiện này. Ví bọn quan tham như loài chuột lớn, ông lên
tiếng phải trị bằng được bọn này để những cây lúa dân lành yên ổn mà kết hạt
nuôi người.
Thương dân nghèo, nhà thơ rất ghét loại người hám danh hám lợi,
sống trong xa hoa giàu có, vô cảm, tàn nhẫn. Trong “Trung Tân quán bi ký”, bọn
này hiện lên thật đáng khinh: “Ở triều thì tranh danh, ở chợ thì tranh lợi.
Khoe sự sang quý của mình thì cửa nhà ấm áp, khoe sự giàu có của mình thì lầu tạ
múa ca. Thấy người chết đói trên đường thì sẻn tiếc một đồng không giúp đỡ, thấy
người ngủ đêm ngoài sương thì không chét cỏ đậy che”.
Dưới cái nhìn nhân đạo ấy, kẻ giàu có mà xa hoa, coi rẻ thành
quả lao động của nông dân, khinh thường đồng loại thường mang tính cách hiếu thắng,
hèn nhát: “Vì ăn thịt coi thường rau lê hoắc/ Ở của công hầu khinh kẻ mái
gianh/ Nhà giàu trăm thứ phải tính toán/ Nhưng việc trị nước thì đáng cười, chẳng
biết gì/ Hiếu thắng nên mê muội/ Kiêu căng nên chí cùn/ Khi nói giặc kéo đến/
Hèn yếu đã toan chạy trước/ Bỏ trốn nơi cỏ hoang” (Cảm thời).
Đứng trên quan điểm người dân lao động nghèo, nhà thơ lên án
những kẻ sống trong nhung lụa không biết đến nỗi cảnh dân nghèo thống khổ: “Lóa
mắt gấm phủ quanh nhà/ Nặng bước chân vì ngọc trang sức trên giày/ Đồ dùng toàn
ngọc ngà/ Rèm màn the nõn sặc sỡ/ Cung đỏ bắn bằng đạn vàng/… Nước mía nấu với
thịt giải/ Sữa người cho lợn dê uống/ Một cá diếc cá chép vàng làm gỏi…” (Cảm
hứng). Một sự vô cảm đến tàn nhẫn của những kẻ ít tính người!
Thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sống, đồng tiền và danh lợi đã bắt đầu
có sức mạnh chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ xã hội: “Giàu sang người trọng,
khó ai nhìn/ …Thuở khó, dẫu chào, chào cũng lặng/ Khi giàu, chẳng hỏi, hỏi thì
quen/ Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng/ Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền” (Bài
5, thơ Nôm). Ở đây là sự mỉa mai lối ứng xử trọng của cải xa lạ với lối trọng
tình nghĩa của người Việt. Sự ăn chơi đua đòi quá đáng là biểu hiện của sự tha
hóa nhân cách, sự xuống cấp đạo lý: “Đem ngàn vàng mua một tiếng cười/ Đem
vạn tiền đổi một tiệc rượu/ Thâu đêm đánh đàn thổi sáo/ Cả ngày uống rượu đánh
bạc/ Bị người sỉ nhục, phỉ nhổ vào mặt” (Hữu cảm).
Lên án những kẻ bất liêm, tham lam, phung phí, nhà thơ coi
chúng như loài “Chích, Kiểu” bị thiên hạ rủa nguyền: “Lòng không đoái hoài liêm
sỉ/ Há có thể nào tiết chế?/… Lòng buông thả phung phí/ Vì tham miếng mồi to/
Chú thỏ bị chim ưng vồ xé/ Tính không khác gì hổ báo/ Làm giống như trộm Chích,
Kiểu/ Chẳng cứ ngày hay đêm/ Toàn làm việc ngạo ngược” (Hữu cảm).
Theo điển cố, hai tên trộm Chích và Kiều không chỉ là những
tên trộm khét tiếng nước Tần và nước Sở, từng cầm đầu hàng ngàn thủ hạ chuyên
đi ăn trộm, còn nổi tiếng gian ác, bất nhân “hàng ngày giết chóc, cắt gan người,
ăn thịt người, tàn bạo phóng túng, tụ tập đồ đảng mấy ngàn đứa, hoành hành khắp
nơi”. Điển này đi vào ngôn ngữ để có cụm ngữ cố định “phường trộm cắp” chỉ những
kẻ trộm có tổ chức, tàn độc, bất nhân, bất nghĩa. Hiểu vậy càng thấy sức tố cáo
của ý thơ hướng về những người có quyền mà tham nhũng, xa hoa chẳng khác gì
“phường trộm cắp” đồng nghĩa với loài thú ăn thịt!
Những kẻ ăn chơi sa đọa, phung phí cũng thường là háo danh, bị
nhà thơ mỉa mai trong “Nguyên đán ngẫu thành 2”: “Tề môn cổ sắt tiếu vương
thông/ Sĩ chỉ tùy thì chước thử trung” (Gảy đàn sắt ở cửa nước Tề, cười
thay không vào được cửa vua/ Giữ chữ “trung”, ra làm quan hay lui đều nên tùy
thời). Mượn điển tích vua nước Tề thích nghe thổi sênh, có kẻ muốn làm quan bèn
mang đàn cầm đến cửa cung gảy, ba năm liền vẫn không được vào hầu vua.
Câu chuyện chế giễu cay độc những kẻ hám danh đến mức ngu muội
và bán rẻ danh dự của chính mình. Ngu ở chỗ nhà vua thích nghe sênh thì lại đem
đàn cầm đến gảy. Bật ra một quy luật: sự hám danh sẽ làm tăm tối, lú lẫn những
đầu óc vốn bình thường (biết chơi đàn cầm hẳn không phải kẻ ngu). Hám danh còn
dẫn đến sự coi thường chính mình: đứng cửa cung (vua) chơi đàn tới ba năm.
Không phải vấn đề kiên trì mà là sự trơ trẽn thảm hại. Còn toát lên một ý: nghệ
thuật là địa hạt của sự vô tư trong sáng nhưng vẫn có thể là nơi để kẻ cơ hội lợi
dụng (còn đúng với hôm nay?).
Gần dân, hiểu dân, thương dân, nặng tình nặng nghĩa với dân,
tiếng cười Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là tiếng cười vì dân. Dễ hiểu nhà thơ cười cả
thần thánh nếu thần thánh đó xa dân, quên dân. Một lần qua đền một vị thần ở Từ
Liêm, nhà thơ viết bài “Quá Từ Liêm thần tử trách thần”: “Thông minh chính
trực vị chi thần/ Để sự dung gian cánh hại dân” (Tai mắt sáng suốt lòng
chính trực mới gọi là thần/ Cớ sao lại dung dưỡng kẻ gian làm hại dân).
Câu đầu là quan niệm thông thường: thần là biểu tượng cho sự
thông minh chính trực. Nhưng những câu sau lại cho biết vị thần này lại “dung
dưỡng kẻ gian làm hại dân”. Tiếng cười hướng tới hai đối tượng: Một là, những kẻ
tham gian đang sống nhởn nhơ hưởng lạc trên sự đói khổ của dân đen. Hai là hướng
đến những “thần” hại dân. Chống lại thần quyền, thời đó thực sự là dũng cảm vì
đi ngược lại cả một quan niệm ăn sâu vào tâm lý dân gian. Thực ra cười “thần”
là để cười những kẻ bóc lột tàn hại dân!
Thương dân, căm ghét sâu sắc những kẻ bóc lột dân mà hưởng sự
phú quý ích kỷ, Nguyễn Bỉnh Khiêm trở thành tác gia lớn viết về nhiều đối tượng
đáng cười đa dạng nhất trong văn học trung đại Việt Nam. Nhà thơ cười Đường
Minh Hoàng cũng là cười chung những kẻ đắm chìm trong tửu sắc: “Kham tiếu Đường
hoàng mê quốc sắc/ Lan can túy ỷ bắc Trầm Hương” (Đáng cười vua Đường mê bậc
quốc sắc/ Say tựa lan can phía bắc đình Trầm Hương” (Mẫu đơn thi). Vì quá si mê
Quý Phi, vua Đường sai dựng đình Trầm Hương, cho trồng hoa mẫu đơn trước cửa, lại
sai người mời Lý Bạch làm bài “từ” mới (tức bài “Thanh bình điệu”).
Ở bài thơ khác (Lệ chi thi) nhà thơ lên án thói ích kỷ xa hoa
của nhà vua mà gây hậu họa cho bao kẻ dân đen, Dương Quý Phi thích ăn quả vải
phương Nam. Vua Đường bắt người phương Nam cống nạp: “Phỏng trân kham tiếu
Đường thiên tử/ Dịch kỵ hồng trần vị ả nương” (Đáng cười cho vua Đường đi
tìm hỏi vật quý khắp nơi/ Những con ngựa lấp bụi hồng chỉ vì một nàng yêu”. Vật
cống phải tươi ngon nên người và ngựa phải chạy đêm ngày, tuy theo hình thức ngựa
trạm nhưng không tránh khỏi sự quá sức dẫn tới mệt lả, chết đói, chết khát, chết
mệt… Đằng sau tiếng cười đả kích mỉa mai ấy là sự cảm thông, là tình thương sâu
sắc những số phận cố cùng.
Thời nào cũng vậy, trẻ em là tấm gương phản chiếu văn hóa gia
đình. Thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sống, như là hậu quả của xã hội kim tiền nên đã có
hiện tượng nhiều thanh niên chơi bời lêu lổng, không tu chí học tập, lao động.
Nhà thơ lên tiếng cần sớm ngăn chặn, nếu không sẽ sa vào con đường trộm cướp: “Bề
ngoài trang điểm mỹ miều/ Bên trong giấu bọc gian trá/ Đường đường con cái nhà/
Ngày ngày toàn chuyện đùa cợt/ Tụm nhau vui chơi buông tuồng/ Trăm ngón nghề chỉ
thích trò hoang toàng ngang ngược” (Hữu cảm). Nhà giáo dục đưa ra triết lý
sống tránh xa những kẻ“say sưa rượu chè”: “Ở đời cứng cổ nên ruồng rẫy/ Vì
bạn say sưa bạn thốn thê” (Bài 145, thơ Nôm). Những kẻ “cứng cổ” xấu tính,
thiếu sự giáo dục, không nghe lời tốt, nanh nọc nên rời bỏ. Cũng như vậy, những
kẻ “say sưa” thì không làm chủ được mình, cũng chẳng nên chơi.
Thì ra, thời nào, sự xa hoa, lãng phí cũng đáng lên án, vì đi ngược lại đạo lý làm người là phải có trách nhiệm, sẻ chia với đồng loại.
23/1/2025
Nguyễn Thanh Tú
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét