Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

Một cành mai và một dòng thơ xuân XXXXX

Một cành mai và
một dòng thơ xuân

Cảm thức xuân là nguồn cảm hứng xuyên suốt thơ Việt từ xưa đến nay. Giữa dòng thơ xuân mênh mông bất tận đó có những tên tuổi trở thành riêng biệt, vượt được thời gian. Đặc biệt là thơ xuân của các thiền sư – thi sĩ, những con người luôn gần gũi với thiên nhiên. Vẻ đẹp của mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng lan tỏa, xuyên suốt trong một thế giới thơ đẫm vị thiền. Thiền vị và thi vị hòa kết làm nên những bài thơ xuân còn mãi với thời gian. Nói như Mãn Giác thiền sư thời Lý: “Xuân đi, trăm hoa rụng/ Xuân đến, trăm hoa nở”. Hoa cỏ và tâm xuân là cảm hứng chủ đạo của một dòng thơ.

Mùa xuân tượng trưng cho sự tươi mới của đất trời, đồng thời cũng biểu trưng cho sự thanh cao của tâm hồn con người. Cảm thức xuân là nguồn cảm hứng xuyên suốt thơ Việt từ xưa đến nay. Giữa dòng thơ xuân mênh mông bất tận đó có những tên tuổi trở thành riêng biệt, vượt được thời gian. Đặc biệt là thơ xuân của các thiền sư – thi sĩ, những con người luôn gần gũi với thiên nhiên. Vẻ đẹp của mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng lan tỏa, xuyên suốt trong một thế giới thơ đẫm vị thiền. Thiền vị và thi vị hòa kết làm nên những bài thơ xuân còn mãi với thời gian. Nói như Mãn Giác thiền sư thời Lý: “Xuân đi, trăm hoa rụng/ Xuân đến, trăm hoa nở”. Hoa cỏ và tâm xuân là cảm hứng chủ đạo của một dòng thơ.

“Rừng xưa còn nụ lão mai” (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

Tự thưở xa xưa, hoa mai đã có mặt trong những bài thơ thiền, biểu tượng cho một mùa xuân an lạc. Mãn Giác thiền sư đã để lại bài thi kệ bất hủ về lẽ vô thường của vạn vật, nhân sinh với hình ảnh một cành mai trường tồn cùng năm tháng: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai/ Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết, Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân” (Cáo tật thị chúng). Cảm thức xuân tàn, hoa rụng không chỉ nói lên sự tàn diệt. Mùa xuân từ góc nhìn triết lí tôn giáo có tính lưỡng trị, vừa là biểu trưng cho sự phai tàn, vừa biểu trưng cho sự phái sinh. Vạn vật sinh ra rồi mất đi. Nhưng cành mai biểu tượng của sự tồn tại bất biến, nói lên sự trường tồn của mùa xuân dẫu vạn vật vô thường, con người vô thường. Chỉ với nét chấm phá “một cành mai”, bài thi kệ tự bao giờ đã trở thành một bài thơ xuân mang tính nghệ thuật, và là một trong những bài thơ khởi đầu cho dòng thơ thiền về mùa xuân.

Trong mỹ cảm thiền, mùa xuân mang tâm thức của đạo đồng thời mang âm hưởng đời trong trẻo và an vui. Xuân trong thơ thiền ấm áp, rộn ràng với những sắc hoa: “Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu/ Mùa xuân tới hoa xuân cười” (Tuệ Trung Thượng sĩ); “Hãy xem bướm dỡn hoa xuân, Mấy phần quyến luyến mấy phần rời xa” (Thiền sư Viên Chiếu); “Ngủ dậy, mở cửa sổ/ A, xuân về rồi đây!/ Kìa một đôi bướm trắng/ Nhằm hoa, phơi phới bay” (Trần Nhân Tông). Trong thơ thiền sư – thi sĩ Trần Nhân Tông, hình ảnh hoa mai xuất hiện với tần suất cao, vừa chỉ vẻ đẹp tinh khiết của mùa xuân vừa ẩn dụ cho vẻ đẹp thanh cao của tâm hồn con người. Bài Tảo mai hòa quyện giữa thực và mộng với màu trắng tinh khiết của loài hoa khoe nhị vàng: “Năm cánh hoa tròn, vàng nhị phô/ Nổi nênh vảy cá, chìm san hô/ Đông ba tháng trải, cành khoe trắng/ Xuân một làn thơm, nhánh nhẹ đưa”. Có lúc vị thiền sư – thi sĩ cũng cảm hứng từ cảnh tàn thu, nhưng dư âm vang vọng luôn là một tâm xuân của con người yêu tha thiết thiên nhiên – “Hoa tàn, mưa tạnh, non im ắng/ Xuân cỗi còn dư một tiếng chim” (Hoa mai sớm). Đó là cái tâm không vọng động dẫu thời gian nhiều biến đổi. Thơ về mùa xuân trong thơ Trần Nhân Tông hòa quyện chất đạo chất đời với vẻ đẹp trong trẻo của cái tâm trong sáng. Con người cũng thế, không hiện hữu một mình mà hiện hữu cùng vũ trụ thiên nhiên, trong cảm thức xuân về hòa nhập với cõi thiên nhiên an tịnh. Xuân hiểu (Buổi sớm mùa xuân) là bài thơ tả cảnh thiên nhiên dạt dào sắc xuân: “Ngủ dậy, mở cửa sổ,/ A, xuân về rồi đây!/ Kìa một đôi bướm trắng,/ Nhằm hoa, phơi phới bay” (Trần Lê Văn dịch).

Khoảnh khắc xuân về như không báo trước chỉ bừng sáng qua hình ảnh hoa – bướm trùng phùng. Cái đẹp “vô ngôn” của Thiền tông khiến ý xuân, tình xuân, tâm xuân vượt khỏi giới hạn ngôn ngữ, những vần thơ mở rộng không chỉ xuân cảnh mà là tâm cảnh. Bài thơ là khoảnh khắc trực nhận bằng vô ngôn.

Mùa xuân trong thi kệ của Thiền sư Viên Chiếu mang ý nghĩa triết lý về thời gian: “Ly hạ trùng dương cúc,/ Chi đầu thục khí oanh/ Trú tắc kim ô chiếu,/ Dạ lai ngọc thố minh” (Ly hạ trùng dương cúc) (“Trùng dương đến, cúc vàng dưới giậu, Xuân ấm về, oanh náu đầu cành, Ngày vầng ô chiếu sáng, Đêm bóng thỏ rạng soi”). Nhìn cúc vàng biết thu về (tiết Trùng dương vào ngày 9 tháng 9 âm lịch), nghe oanh hót biết xuân ấm áp; nhìn vạn vật bằng cái tâm vô ưu, có lúc con người vượt thoát những hữu hạn của không gian lẫn thời gian. Tất cả tùy duyên, đến rồi đi như lẽ đời sắc không.

Sau này, Minh Đức Triều Tâm Ảnh cũng “tức cảnh sinh tình” về một cõi xuân an nhiên như thế: “Ngày xuân nằm ngủ trong lòng núi, thức dậy hương mai ngập cả nhà” (Ngủ trong núi). Thơ xuân của Triều Tâm Ảnh cũng gắn liền với “nhất chi mai”. Bóng dáng tiền nhân, hương thơm của hoa mai ngàn năm trước dường như còn bảng lảng: “Cành mai lãng đãng thiền sư/ Nở ngàn năm trước bây giờ còn thơm/ Lộc mầm biến hóa xanh hơn/ Phải chân diện mục dập dờn khói sương?” (Cành mai).

Luôn ý thức về sự viết của mình, thơ xuân của Minh Đức Triều Tâm Ảnh nằm trong mạch cảm tác, thơ – đạo – đời không còn biên giới. Mùa xuân thành nguồn cảm hứng, thành cõi phiêu bồng, thành chốn thiền môn, ở đó thiền sư thi nhân là một: “Rừng xưa còn nụ lão mai/ Bút hư không quyện một vài ý sương” (Lão mai). Xuân trong tâm thức Triều Tâm Ảnh là xuân an lạc:

Xuân nay đá cỏ đều vui

Phật ngồi tĩnh tại nụ cười hư vô

(Thân thế)

Thấm nhuần đặc trưng thẩm mỹ của thơ cổ phương Đông, thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh có tính mơ hồ, nhiều khoảng lặng, khoảng trống mang chứa triết lí sâu sắc về vũ trụ quan, nhân sinh quan Phật giáo; về vô thường, vô ngã, sắc không. Đó là thế giới của những ẩn dụ, biểu tượng giàu tính nhân văn. Cách đặt tên mỗi bài thơ thật cô đọng, có lúc lặp lại (ba bài thơ tứ tuyệt đều có nhan đề là Xuân, các bài Xuân tức cảnh, Xuân tự sự, Xuân trí tuệ, Xuân từ bi…). Trong những bài thơ chúc xuân, vị thiền sư thi sĩ cũng thổi hồn vào cỏ lá hoa. Mùa xuân tràn trề sinh sắc: “Cây khô, trở tiết, chồi xanh biếc/ Thân mục, nẩy mầm, nhựa thắm tươi/ Rều rác, hoa đơm, thơm vạn khoảnh/ Rong bèo, trăng chiếu, biếc ngàn khơi” (Chúc xuân). Lượm lặt lắp ghép “đá rác và cỏ thơm” (tên một tập thơ của Minh Đức Triều Tâm Ảnh, 5 quyển, gồm 1000 bài thơ lục bát tứ tuyệt), mùa xuân trong chốn thiền môn hòa quyện đạo và đời. Cái đẹp của thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh là cái đẹp của sự không tịch mang mỹ cảm thiền. Thơ vô ngôn, con người vô ngôn.

“Em về hong tóc mùa xuân” (Phạm Thiên Thư)

Phạm Thiên Thư là nhà thơ gom được cả tục và đời, cỏ hoa thiếu nữ và thiền, tình yêu và cõi không trong những vần thơ độc lạ của mình. Tất cả hòa quyện thành một cõi Đẹp riêng. Được xem là “nhà thơ thiền giữa cõi tục”, Phạm Thiên Thư có nhiều thơ xuân. Trong đó một số bài thơ mang tâm thức thiền với những câu thơ đẹp, lạ, làm nên một cõi xuân riêng: “Mười con nhạn trắng về tha/ Như lai thường trụ trên tà áo xuân/ Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền/ Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm” (Động hoa vàng).

Xuân và thiếu nữ là tứ thơ quen thuộc, qua con mắt không của nhà thơ đầy ảo diệu và hoài nhớ: “Con khuyên nó hót trên bờ/ Em thay áo tím thờ ơ giang đầu/ Tưởng xưa có kẻ trên lầu/ Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa”; “Em về hong tóc mùa xuân/ Trăng trầm hương tỏa dưới chân một vành” (Động hoa vàng). Thơ xuân Phạm Thiên Thư giàu chất họa. Nhà thơ sử dụng diễn ngôn hội họa để khắc họa bức tranh mùa xuân tươi sáng: Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi; Mùa xuân mặc lá trên ngàn; Áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông; Mùa xuân cắp rổ ra đồng vớt hoa; Xuân sau mọc giữa chân thường cội hoa… Trong nhiều vần thơ xuân của Phạm Thiên Thư, sự kết hợp giữa thơ và thị giác gợi nhiều liên tưởng. Khi Phạm Thiên Thư viết về Bùi Giáng, nhà thơ đã phác họa được một chân dung: “Ta thấy anh là – con dế điên/ Cả mùa xuân – hát giữa thanh thiên/ Mùa xuân hoa cỏ vương đầy sách/ Anh ném thơ ca – xuống vơng thiền” (Bùi Giáng bốn mùa). Dẫu nhân vật trữ tình là ai thì những vần thơ của Phạm Thiên Thư luôn thấp thoáng bóng dáng mình, như một lãng tử: “Mùa xuân lên núi la đà/ Nghìn xưa thoát hiện đóa hoa rừng trầm”; “Mùa xuân bỏ vào suối chơi/ Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa. Múc bình nước mát về qua. Ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa”. Đó là mùa xuân của tâm hồn con người đạt đến cảnh giới của an lạc, thong dong, thanh thản hòa nhập vào thiên nhiên: “Mùa xuân mặc lá trên ngàn/ Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư/ Động Nam Hoa có thiền sư/ Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn”. Quan niệm thời gian trôi chảy, xuân trong thơ Phạm Thiên Thư có lúc chỉ là một khoảnh khắc hoa rụng, xuân tàn: “Mai tươi cánh nở bên cồn/ Mưa bay lấm tấm cành hương trắng ngời/ Thu đông tàng ẩn kho trời/ Hạt rơi rụng ngọc mai rời rã hoa”; “Đón em như ngóng chim trời/ Bãi xuân sớm đợi chiều dời khói thu” (Động hoa vàng). Mùa xuân ấy cũng chịu sự chi phối của lẽ vô thường. Những thi ảnh chỉ sự mong manh như hoa rơi, sương khói, chiêm bao,… in đậm cảm thức về cái vô thường của vũ trụ, nhân sinh. Hoa chưa kịp sống hết đời hoa đã rã cánh nhạt nhòa hương sắc. Em đến rồi đi như cánh chim không mỏi giữa dòng trôi thời gian. Đây là cái đẹp được nhìn từ tâm không của một nhà thơ – tu sĩ. Thiền vị của thơ Phạm Thiên Thư cũng là đây.

Trong dòng thơ thiền hiện đại, Tuệ Sĩ là một phong cách thơ đặc biệt. Vị thiền sư làm nhiều thơ, nhất là trong quãng thời gian sau 1975, nhưng thơ về mùa xuân không nhiều. Nằng nặng nỗi niềm riêng, thơ Tuệ Sĩ là thu tàn, đông lạnh, hạ buồn “nay mùa thu mai mùa hạ buồn chăng”, là ve “khóc mùa hè mà khô cả đại dương”, là “thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya”; vì vậy thảng hoặc có viết về xuân thì mùa xuân lạc loài trong thơ ông cũng chỉ là thoáng chốc. Có lúc vị thiền sư “Gieo gió xuân chờ đợi mưa hè” (Mùng 1 tháng Giêng); có lúc thao thức, thảng thốt bởi mong đợi mùa xuân nhưng chỉ trong phút chốc đã tàn xuân: “Thao thức đêm khuya trộm bóng ma/ Ẩn tình khách trọ, nến đâm hoa/ Chồi mai trẩy lá, mùa xuân đợi/ Đã quá mùa xuân ánh điện nhòa” (Tĩnh thất).

Có những bài thơ không có từ xuân nhưng như bức tranh thiếu nữ trong ngày hội xuân. Trong thơ Tuệ sĩ có một ngày hội như thế, không cần xác định không gian, bởi tất cả nằm trong hoài niệm, trong chiêm bao. Ở đó em là cái đẹp ảo ảnh: “Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ/ Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang” (Không đề); “Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn/ Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao/ Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận/ Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao” (Thoáng chốc). Những vần thơ đắm đuối của vị thiền sư gợi cảm giác về cái trong veo của mùa xuân. “Em – mắt biếc – môi cười – cò trắng – đồng xanh” khiến không gian bất chợt hóa xuân, thiên nhiên trong trẻo, tinh khiết. Với thiền sư, cái đẹp vượt đến ngưỡng siêu thoát, thăng hoa, ảo mộng. Thơ Tuệ Sĩ đẹp, sang trọng, triết lí sâu xa. Cái đẹp từ tứ thơ, từ hình ảnh, biểu tượng. Cái đẹp của những ý thơ “bất khả giải”. Cái đẹp u buồn, nhẹ nhàng sâu lắng, truyền lan cảm xúc thẩm mĩ cho người đọc. Như cách Tuệ Sĩ viết về Tô Đông Pha: “Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm”. Nếu thơ là cảm xúc được thăng hoa thì ta không có cảm giác Tuệ Sĩ làm thơ, mà tâm hồn cất lên thành câu chữ với cái tâm không, an lạc. Cái u sầu trong thơ Tuệ Sĩ mang tính thẩm mỹ. Đó không phải là nỗi buồn xuất phát từ “khổ”, bởi thi nhân đã nhìn mọi thứ bằng con-mắt-không.

Thơ thiền mùa xuân có sự quyện hoà giữa thiền vị và thi vị. Hoa cỏ, mùa xuân được cảm nhận từ nhãn quan của các thiền sư nhìn cõi thế bằng tâm không và được biểu hiện qua ngòi bút trữ tình của một thi nhân. Tính triết lý và tính trữ tình hòa quyện làm nên vẻ đẹp riêng của những dòng thơ xuân bất tận.

8/2/2025
Lê Thị Hường
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

"Lời tình buồn" - Bài thơ an trú trong lòng một ca khúc XXXXX

"Lời tình buồn" - Bài thơ an trú trong lòng một ca khúc Bao giờ cũng thế, muôn đời vẫn vậy cái thời xuân trẻ, giữa hai mê mải m...