Thứ Hai, 27 tháng 9, 2021

Bóng nước hồ Gươm 1

Bóng nước hồ Gươm 1

Tập 1

Lời giới thiệu

Bạn đọc thân mến!

Lịch sử văn hóa của một dân tộc không phải của riêng cá nhân nào, chính vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển lịch sử văn hóa cũng không phải riêng một người nào có thể gánh vác được, nó thuộc về nhận thức chung của toàn xã hội và vai trò của từng nhân tố trong mỗi chặng đường lịch sử. Lịch sử là một khoa học. Lịch sử không phải là việc thống kê sự kiện một cách khô khan rời rạc. Bởi mỗi sự kiện trong tiến trình đó đều có mối liên kết chặt chẽ với nhau bằng sợi dây vô hình xuyên suốt không gian và thời gian tạo nên lịch sử của một dân tộc.

Dân tộc Việt Nam trải hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm dưới ách cai trị của thực dân, đế quốc, nhưng con cháu bà Trưng, bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... vẫn kiên trì bền chí, tin tưởng ở quá khứ hào hùng, không ngừng tranh đấu hướng tới tương lai rộng mở vì độc lập tự do của đất nước.

Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn và phát triển, ngoài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, điều quan trọng hơn nữa là phải có một nền tảng giáo dục vững chắc. Trong đó, giáo dục về lịch sử và lòng tự hào dân tộc là cần thiết để ghi khắc trong tâm trí các thế hệ, đặc biệt là tầng lớp thanh niên ý thức về nguồn gốc dân tộc, truyền thống văn hóa và nội lực quốc gia, đồng thời giúp định hình góc nhìn thấu đáo về vai trò của từng giai đoạn, triều đại và nhân vật - dù gây tranh cãi - tạo nên lịch sử đó.

Chính vì những giá trị to lớn đó, vấn đề học tập, tìm hiểu lịch sử nước nhà hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay... và rất nhiều những tổ chức khác đã và đang kiên trì con đường thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học lịch sử quốc gia, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc tới toàn xã hội.

Đồng hành với mối quan tâm của toàn xã hội, Công ty Cổ phần Sách Alpha - một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, với tôn chỉ “Tri thức là sức mạnh” - đặc biệt quan tâm tới việc góp phần nâng cao hiểu biết của người dân về truyền thống văn hóa lịch sử đất nước.

Theo nhiều kết quả khảo sát, đánh giá nhu cầu của bạn đọc cho thấy, “lỗ hổng lịch sử” ở không ít người trẻ hiện nay hoàn toàn có thể bù lấp một phần dựa trên nhiều nguồn tư liệu, công trình nghiên cứu, sách cổ sách quý hiện đang được các Viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân lưu giữ. Để chung tay tái hiện một cách rõ nét những mảnh ghép lịch sử dân tộc, Công ty Cổ phần sách Alpha đã triển khai dự án xuất bản mang tên Góc nhìn sử Việt với mục đích xuất bản lại và xuất bản mới một cách có hệ thống các công trình, tư liệu, sách nghiên cứu, sách văn học có giá trị… về lịch sử, bước đầu hình thành nên Tủ sách Alpha Di sản.

Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là một trong những sản phẩm đầu tiên của dự án này.

Xin trân trọng giới thiệu.

CÔNG TY CP SÁCH ALPHA




Chương I

Trời chợt bắt đầu trở gió may lành lạnh. Lá vàng rơi bay lả tả còn lăn theo chiều gió từng đợt mấy vòng, rồi mới chịu nằm ép gí bên vệ đường. Không khí khô ráo và trong sáng. Cảnh vật tuy đã chớm sang đông, vẫn đột nhiên có những lúc đẹp lạ lùng với bầu trời heo may khô nhẹ như thế này, có nắng hanh vàng, có đàn chim bay liệng, nó dễ gợi mối cảm hoài cho những ai đang nặng một niềm tư lự. Ánh mặt trời xế chiều soi ngả bóng ba người từ trong chùa Liên Trì đi ra thành ba cái vệt dài in lên trên nền chùa xây nhiều cấp leo qua cái cầu cuốn trước cửa chùa, và cứ loang loáng rút dần, rút dần ra đến cửa tam quan, rồi vút một cái, ba vệt bóng ngả bắt ngang ngay sang chân ngọn tháp phía bắc, vun vút chéo qua đường, lướt lên trên một tấm mạ sớm xanh rờn óng mượt. Cho mãi đến khi ba người qua khỏi cổng ngoài, ba vệt bóng tự nhiên chập ngay lại làm một, thành một vệt đậm, ngả trên tấm ruộng theo phía tây nam: ba người cùng đứng lại nhìn ngắm ngọn tháp Hòa Phong đang tắm ánh vàng rực rỡ, ngọn tháp vuông vắn, chồng lên nhau hai tầng, sừng sững đứng ngang bên đường Thập Lý 1 , chạy sát ven hồ, đầy cỏ xanh bò lăn ra vờn mặt nước lăn tăn, lóng lánh. Trông tháp nhìn hồ, một người trẻ nhất trong bọn vui vẻ chỉ tay về phía trước, nói:

-­ Lúc này ngắm cảnh Hồ Gươm thật là đẹp. Lại may mắn được gặp lão huynh đây chỉ dẫn thêm cho ít nhiều điều lạ về nơi thắng cảnh Long Thành này thì tuyệt…

Cái ông trung niên, khăn lượt chữ nhân quấn trùm kín búi tóc, áo vải giãi hạt cau dài quá giữa ống chân để hở múi thắt lưng điều buông thõng xuống đung đưa, giơ tay chỉ vào cái quán bên đường, nói:

- Xin mời chư huynh vào ngồi chơi ở cái quán góc hồ kia mà thưởng thức thì vừa được tùy thích cả.

Ông ta ngước mắt hỏi người nhiều tuổi, tóc đã điểm bạc:

- Thưa lão huynh có được chăng?

Ông già cười đáp:

- Xin vui theo mệnh các hiền hữu.

Ba người liền bước ra đường cái, luồn qua tháp Hòa Phong, rẽ về ngã tư Hàng Khay. Ở đây, bên này đường, có một cái quán duyên dáng một mặt trông ra hồ, một đầu quay sang phía chùa Quan Thượng. Quán lợp gianh cột gỗ, vách trát đất nề vôi trắng, mỗi cột đều có dán câu đối đỏ, trông có vẻ khang trang, mát mẻ. Khách vừa vào đến cửa, chủ quán đã đon đả ra chào mời vào và lăng xăng chạy đi thu dọn một chỗ lịch sự nhất để mời riêng ba người, ngồi ở đấy vừa tránh được chiều gió lộng, vừa trông thẳng được ra mặt hồ. Ông già ngồi lên tấm phản quang dầu, nhìn quanh gian quán và ngắm nghía chủ quán. Bác chủ người tầm thước, mặc áo nái nhuộm nâu năm thân cài khuy vải ở bên ngực và dưới nách, quần nái mộc giặt trắng, khăn lưng lụa xanh buông thõng bốn múi, đi đứng hoạt bát, nói năng lễ phép, ra vẻ khéo chiều khách mà không có gì xun xoe, bợ đỡ. Ông già ra chiều ưng ý, hỏi như nửa đùa nửa thật:

- Trông bác quán đây ra vẻ hào hoa phong nhã lại có lắm thơ và câu đối thế này, tất là một tay danh sỹ?

Chủ quán đứng chắp tay “dạ” một tiếng, rồi kính cẩn đáp:

- Bẩm lão tiên sinh, có cậu ấm 2 Ba con đây biết, hạ dân chúng con là người ở tổng dưới đây, trước có đi lại hầu hạ cụ lớn nhà, ăn mày được dăm ba chữ võ vẽ thôi ạ. Còn từ khi mở quán bán hàng ở chỗ này, hễ gặp các bậc danh sỹ tài ba là con xin các ngài đề tức cảnh cho cửa hàng con thêm duyên… Bẩm tiên sinh, đều là chữ của thiên hạ cả.

Người trẻ tuổi, tức cậu ấm Ba mà bác chủ quán vừa nhắc đến, nói xen vào:

- Thưa lão huynh, bác Phúc đây người ở dưới thôn Phúc Lâm, ra mở cái quán này đã được hơn mười năm rồi. Hồi sinh thời, thỉnh thoảng thầy tôi cũng thường rủ mấy ông bạn ra đây chơi.

Ông già cười:

- Thế ra cũng là bạn đồng môn nhà ta cả. Cùng anh em cả.

Cậu ấm Ba quay lại giới thiệu luôn với bác chủ:

- Lão huynh tôi đây là một bậc kỳ sỹ, người Tam Sơn bên Đông Ngàn tỉnh Bắc, học rộng đỗ rất sớm, nhưng không màng danh lợi… Có lẽ đến hơn chục năm nay ngài mới trở lại đất Long Thành này, nên hôm nay mới có dịp ra thăm quán bác đây. Còn ông bạn làng Vẽ này và tôi thì quen mặt quá ở đây rồi.

Chủ quán chăm chú lắng ghe rồi để ý nhìn kỹ ông già. Khuôn mặt quắc thước với bộ râu ba chòm lưa thưa khiến cho cái miệng lúc nào cũng tươi cười, đôi con mắt sáng lanh lợi chớp chớp dưới vành khăn tam giang vấn rối trên trán càng làm cho người ta cảm thấy tỏa ra cái nhìn hiền từ và sâu xa; ông mặc cái áo dài vải đồng lầm đã sẫm màu, cái quần nái nhuộm đỏ chướt nâu, đi đôi giầy Tàu vải đen; tất cả phong độ bề ngoài có vẻ thanh thản, tiên phong đạo cốt, dễ gần gũi với mọi người. Sẵn có cảm tình ngay với con người giản dị ấy, lại được cậu ấm nói rõ lai lịch như thế, bác quán vui mừng reo lên:

- May quá, thật là vạn hạnh, tệ xá được đón tiếp lão tiên sinh.

Ông già vội đỡ lời:

- Bác chủ ạ, không những tài hoa như cậu ấm Ba đây, hậu sinh khả úy mà thôi, cậu lại còn là thế huynh 3 của tôi…

Quay sang phía cậu ấm trẻ tuổi, ông nói rành rọt như phân bua:

- Như thế là thế huynh nói quá đấy nhé! Tôi có làm gì mà đáng gọi là kỳ sỹ. Chẳng qua là một tên học trò hèn mọn của Lỗ Am tiên sinh nhà, đi phiêu bạt vắng, không kịp về chịu tang thầy, nay mới trở về được, vội lên viếng mộ thầy, rồi thế huynh lại quá yêu cho ra đây chơi thăm cảnh cũ, lại hóa ra may mắn được gặp thêm bạn đồng môn.

Chủ quán càng thêm phấn khởi nói ngay:

- Thế thì hôm nay nhà cháu phải xin tiên sinh một bài thơ mới được.

Ông già Tam Sơn lắc đầu:

- Đã là đồng môn thì còn cháu chắt với tiên sinh gì nữa kia chứ. Nhưng này, tôi không giỏi làm mà lại hay bẻ thì sao?

Chủ quán càng vui, đỡ ngay lấy:

- Vâng, xin lão huynh cứ chỉ giáo cho. Rồi xin có hai cậu ấm nói giúp, thể nào lão huynh chả rộng bút ban cho nhà cháu, à quên cho đệ được nhờ lộc. Xin rước chư vị tôn huynh xơi trà, đệ xin đi sửa soạn món nhắm để các vị thưởng thức rượu, có thứ rượu cúc ngon.

Rồi bác lui ra đi xuống nhà dưới, bảo người nhà bưng nước trà nóng lên. Ông ấm Vẽ nói khẽ, với một vẻ chân tình:

- Bác quán đây là người thật thà. Xin lão huynh cứ nhẩn nha ở đây, vừa ngắm cảnh, vừa nói rõ sự tích những cảnh trí nơi này cho hậu sinh tiểu đệ được biết thêm. Nói chuyện ngay tại chỗ mới thú.

Ông già cười, hỏi lại, chuyển theo ý đang nghĩ:

- Hai hiền hữu xem đôi câu đối của quan Nghè Du làm treo ở cột giữa kia và bài từ ở bức hoành phi gian giữa kia, thấy thế nào?

Cậu ấm Ba quay lại nhìn và đọc to:

- “Cầm thư cung kiếm, nhân nan cựu; phong nguyệt hồ giang, cảnh dị tân” 4 .

Rồi nói ngay:

- Hay đấy chứ, trông cảnh lại nghĩ đến người, man mác một niềm hoài cổ!

Ông già cười:

- Thì có ai dám chê câu đối của quan Nghè đâu. Nhưng tôi muốn hỏi xem ý của người làm với cảnh bên ngoài, ta thấy thế nào? Cũng cảnh như thế, cũng ý như thế, và vẫn dùng những chữ ấy thôi, các hiền hữu thử nghĩ xem có thể chữa khác đi không?

Cậu ấm Ba cãi ngay:

- Của người ta hay rồi, đủ cảnh, đủ ý, đệ không dám chữa, mà đệ có làm thì ý lại khác.

Ông ấm Vẽ nói:

- Tôi thấy hay thì có hay, nhưng cũng không hoàn toàn đúng cả với cảnh và người ở đây. Theo ngu ý, đệ xin chữa mấy chữ: “Cầm thư cung kiếm, nhân giai dị; phong nguyệt, hồ giang cảnh dĩ phi!” 5

Ông già thủng thẳng nói:

- Công tử Đông Ngạc cũng hơi quá. Người bây giờ không phải là khác lạ cả đâu, mà cảnh cũng không đến nỗi sai trái khác hẳn trước không còn phải là cảnh quen nưa. Cảnh là do người. Nhưng theo ngu ý, câu này còn khả thủ hơn câu của quan Nghè. Bởi vì quan Nghè cho là người thời bây giờ kém, khó được như người xưa, mà cảnh thì rất dễ thay đổi, nó cứ đổi mới, có cần gì đến người, mọi việc đều phó mặc giời cả…

Ngừng một lát, ông trầm ngâm nói tiếp:

- … Mà cái lạc khoản “Tân vị khoa Tiến sỹ” kia, với tiếng tăm văn học của nhà họ Nguyễn Du Lâm, dễ lung lạc người ta lắm. Nhưng thực ra, bây giờ hay chữ chỉ biết có hay chữ, giỏi văn chỉ biết có giỏi văn. Còn ai có nghĩ gì khang khác thì cho là sai cả. Lục tỉnh Nam kỳ mất đi không cần biết đến, phỉ Khách hoành hành ở phía bắc, dân tình đói khổ phải đi phu đài tạp dịch, bọn Tây dương dòm ngó ngoài khơi, cũng không biết đến, thì tất nhiên cảnh dị tân, dễ đổi mới chứ gì?

Ông hỏi rồi nói ngay:

- Cho nên tôi e rằng đã phó mặc giời thì cũng dễ sinh ra tùy kệ người thôi. Còn cái bài từ trên bức hoành kia của quan Tam nguyên cùng khoa với quan Nghè, vần chỉnh đối hay, cũng đủ cảnh hồ, nặng lòng hoài cổ, nhưng làm sao ý cũng mờ mờ không rõ?

Chợt chủ quán đi vào, ông già hỏi ngay:

- Bài từ kia viết từ bao giờ thế, chủ nhân?

Chủ quán tươi cười lễ phép:

- Bẩm lão huynh, cái hồi năm Dần trước, đệ vừa mới sửa sang lại cửa hàng, nhân gặp quan Tam nguyên tỉnh nhà lên chơi quan Đốc học, quan có ra đây, đệ được dịp xin một bài thơ, quan viết cho bài từ này, vì thế vẫn còn chữ đề “Giáp Tý khoa giải Nguyên”. Năm ngoái, quan nghè Du Lâm qua đây cho đôi liễn này, đệ nhờ quan Nghè viết thêm vào mấy chữ mới “Sắc tứ Tam nguyên Nhị giáp Tiến sỹ” cho đúng với thanh danh quan bây giờ.

Ông già khen:

- Bác nghĩ như thế rất phải. Sở dĩ tôi cần hỏi là để biết rõ bài từ này làm vào thời gian nào. Quả là bài này cũng giống như đôi liễn kia, có nỗi nặng lòng vì nỗi biến thiên đất nước, nhưng cũng đều quy là tại giời cả, vầng giăng cứ khuyết lại tròn, tuy có nghĩ rằng suy rồi lại thịnh, bĩ cực thái lai. Nhưng đây vẫn là việc đâu đâu, không nhất thiết phải có ta vào đây. Những bậc tài hoa, danh vọng được nhĩ mục quan chiêm 6 còn nghĩ thế. Huống chi là những kẻ dung tục như chúng ta càng dễ tìm lối yên thân. Cái lệ nhà nho chúng ta thường chuộng khẩu khí, thành ra đôi khi danh bất phó hồ thực. Nhưng văn tức là người thì cũng cần xét đến tâm sự. Mà về tâm sự, chỉ cần xem cảm nghĩ đối với sự đổi thay, hưng phế. Chúng ta không chê trách văn chương, bới lông tìm vết, không cầu toàn trách bị. Có điều chắc các hiền hữu đều biết là quan Tam nguyên và quan Nghè đều thi đỗ khoa Giáp Tý trường Hà này 7

Cậu ấm trẻ nóng ruột hỏi ngay:

- Khoa Giáp Tý thì sao ạ?

- Ấy, khoa Giáp Tý có một chuyện lạ ở ngay quanh Hồ Gươm này, chắc nhiều người còn nhớ. Khoa ấy có cuộc náo trường lớn. Mấy nghìn sỹ tử không vào thi mà kéo nhau đi quanh hồ, qua trường, thẳng ra nhà học chính đường, vòng ra Văn Miếu, rồi tỏa ra các phường phố, các làng, dán những bài văn, những câu thơ, câu đối vào bờ rào trường thi, ở các ngả đường, để chỉ trích bản hòa ước năm Nhâm Tuất bán nước nhục vua. Đó là một hành vi nghĩa khái, tỏ ý chí bất bình của toàn dân, của sỹ khí trước cái nhục lớn lao của cả nước. Bảo là của toàn dân, là vì hồi ấy không hẹn mà lên, khắp cả các trường thi hương Thừa Thiên, Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định đều cũng có náo trường cả như vậy. Nhưng ở đây quyết liệt hơn cả. Ấy thế mà rồi bùi tai nghe các quan tỉnh dụ dỗ và hứa hẹn, mấy hôm sau số đông sỹ tử lại vào thi, để mặc cho quan trên bắt đi một số anh em. Vậy thì khoa ấy, quan Tam nguyên đỗ giải Tam nguyên và quan Nghè đỗ Tú tài, để mấy anh em như thầy khóa Phạm Gia Tự người cùng làng công tử Đông Ngạc, chắc công tử đã rõ, thầy khóa Tự bị đánh trượng 100 gậy, tù khổ dịch một năm. Và thầy Bá hộ Đỗ Quang Định bị đánh trượng 70 gậy, cách tuột phẩm hàm, trả về dân tịch, vì đã về hùa với sỹ tử đi khua múa. Một người ở ngoài sỹ lâm còn biết làm như thế. Cho nên khi ấy, nhiều người không muốn vào thi. Trước một vụ có quan hệ đến nho phong sỹ khí 8 như thế mà mình dửng dưng được, thì cái lòng dài thở vắn than kia cũng thành thở than suông. Tôi e rằng lâm sự rồi cũng đành khoanh tay ngậm ngùi mà thôi! Tôi hay cả nghĩ vì như thế. Đó cũng là một cái bệnh lẩn thẩn. Các hiền hữu nên thể tất cho tuổi già dễ sinh lẫn cẫn. Và trong khi còn đang độ thanh xuân phơi phới, thiết tưởng các hiền hữu cũng cần tìm cho rõ mọi duyên do mọi sự đổi thay dâu bể, để thấy rằng mình cũng phải có phần trách nhiệm.

Chủ quán bê bình rượu vào, nghe nói đến sự đổi thay, cũng nói theo ngay:

- Thưa lão huynh, đệ bốc cư 9 ở ngay cạnh hồ, trong nhà lại thích treo những câu đối, thơ phú vịnh hồ. Nhưng nhiều khi người ta hỏi đến sự tích thì chỉ biết lõm bõm qua loa, nghe các cụ nói lại, chẳng ra đầu đuôi gì cả. Nay may được rõ lão huynh là bậc lão thành uyên bác, xin lão huynh cho đệ được phép nghe…

Ông già nói một cách từ tốn, ôn tồn theo như thói quen của ông:

- Chủ nhân nói quá đấy. Chứ tôi cũng chả biết được gì hơn ai, lỗ mỗ điều được, điều chăng. Nhưng tôi có tìm hỏi và suy nghĩ nhiều, xin mạn phép được nói những điều tôi đã biết.

Chủ quán đã rót rượu vào một cái chén cổ, hai tay bưng đến đặt trước mặt ông già, kính cẩn nói:

- Xin rước lão huynh nếm thử cho trơn giọng.

Ông già đỡ lấy chén để lên miệng, tớp một ít, nhắp nhắp, rồi khà một tiếng, khen:

- Chà! Rượu cúc hảo hạng! Ngon thật!

Chủ quán thích chí, đứng xun xoe:

- Bẩm chí thành đợi khách đấy ạ. Xin lão huynh chiếu cố. Đừng cho là đệ ở quán hàng là dung tiện!

Ông già vội đỡ:

- Đâu dám thế! Chúng ta cùng là đệ tử của thầy, tin nhau ở tấm lòng, chứ đâu có phải vì rượu ngon.

Rồi ông nhanh nhẹn đứng phắt lên, đi ra ngoài hiên đông, đứng vịn vào cái duỗi suốt tre nối liền hàng cột, vẫy ba người cùng ra theo. Ông chỉ ra giữa hồ và nói thong thả, rành rọt, giọng ấm cúng:

- Ngày xưa, một nhà thơ đã viết:

Giăng xưa, nay vẫn sáng,

Dưới giăng, xưa những ai?

Và muôn đời sau nữa,

Lại những ai đứng đây?

Thì cái hồ đẹp nước trong xanh của chúng ta đây cũng vậy, nước hồ vẫn thế. Nhưng người đứng ngắm cảnh thấy chung quanh hồ có những cảnh hiện lên, cảnh mất đi, thì rõ ràng mỗi thời một khác, mỗi người cảm xúc một khác. Biết càng rõ cảnh thì cảm xúc càng sâu, mà càng thấy rằng con người có liên quan với sự tang thương của cảnh vật với những việc đau buồn ở đất nước. Lịch sử cái hồ này với câu chuyện thanh thần kiếm đem trả lại ở đây, sau mười năm bình định đuổi sạch quân Minh, vua Lê đã đánh dấu hồ này bằng một võ công anh hùng của cả dân tộc. Và hồ này cũng đã được chứng kiến bọn quân Minh nhục nhã đầu hàng, lùi lũi kéo nhau đi xuống phía nam thành, ở cái bãi rộng thuộc làng Phụ Khánh bây giờ, hội thề với quân vua Lê, để xin về nước. Rồi liền đó, hồ lại in bóng quân dân chiến thắng rầm rập kéo vào thành. Hồ vẫn trơ đấy. Mà thời kỳ oanh liệt nay không còn nữa… Và kia, giữa hồ, trên đảo hòn Ngọc kia, nhân dân kinh thành đã lập đền thờ những bậc tử vong vì nước, trong khi đánh đuổi giặc Nguyên. Đó lại là ghi nhớ một thời oanh liệt trước nữa. Về sau, trải qua mấy trăm năm bị chúa Trịnh chiếm giữ làm của riêng, sang đến bản triều, các quan tỉnh có tu bổ lại, rồi quan án Phương Đình 10 lấy danh nghĩa là người sở tại, đứng ra lập thêm đền thờ đức Văn Xương đế quân và dựng ra đài Nghiên, tháp Bút ở bên ngoài, tiêu biểu cho khoa cử của làng nho chúng ta. Và cũng làm đẹp thêm cho hồ.

Ông già lại chỉ sang phía bờ đông và nói:

- Còn cái chùa Tàu ở bên thôn Bảo Linh kia cũng ghi dấu một thời oanh liệt từ đời Trần. Bấy giờ Chế Bồng Nga là chúa Chiêm Thành hai lần đem quân thông thống vào đốt phá kinh thành, cướp của giết người, bắt đàn bà con trẻ đem đi. Sau Thượng tướng Trần Khát Chân đánh chém được Chế Bồng Nga ở sông Luộc. Triều đình cho lập đàn tế các chiến sỹ trận vong và nhân dân bị nạn ở chỗ nền chùa ấy. Sang đời Lê Hồng Đức, quân ta đi đánh Chiêm Thành thắng trận, lấy được số tượng gỗ, tượng đá đem về, nhà vua mới cho lập ngôi đền ở đấy để bày những tượng ấy quay chầu về hướng hoàng cung. Trong đền ở trong cùng có bàn thờ bốn vị thần là Thái hậu, Vương phi, và hai anh em vua Đế Bính nhà Tống chết trôi sang cửa Hội Thống và đã hiển linh giúp vua Lê đánh thắng quân Chiêm. Vì có tượng Phật, lại thờ bốn vị thần phương Bắc, nên dân ta mới quen gọi là chùa Tàu. Còn ở sát ngoài bờ hồ, trong làng Yên Trường kia là đền thờ Huyền Trân công chúa, ta quen gọi là đền Bà Chúa. Lại chùa Quan Thượng trước mặt đây, chúng ta vừa ở đấy ra, chính tên là chùa Liên Trì thì mới làm mấy chục năm gần đây thôi, cũng tô đẹp thêm cho cảnh Hồ Gươm này đấy chứ. Tuy có người đã chửi kẻ đứng ra làm chùa:

Phúc đức gì mày bố đĩ Giai,

Làm cho tổn Bắc lại hao Đoài!

Kìa gương Vũ đế còn soi đó,

Ngã tử Đài thành, Phật cứu ai? 11

Nhưng theo ngu ý, đây cũng là lối nhà nho ta nệ về chính thống của đạo Nho mà công kích những người mộ Phật, chứ Nguyễn Đăng Giai cũng không đến nỗi là một Tổng đốc trọng thần kém chính tích. Xét ra sở dĩ ông làm ngôi chùa này do lòng mộ Phật cũng có, nhưng chính là muốn đánh tan lòng tin nhảm vào tạp thần ở trong dân chúng. Nguyên cả mấy cái thôn Nghĩa Lâu, Cựu Lâu này trước kia là nền Ngũ Long lâu của triều Lê, lầu son gác tía nguy nga, làm chồng lên mấy tầng, ở ngoài có trường súng, có xưởng thuyền; đến cuối Lê, Tây Sơn ra phù Lê diệt Trịnh, rồi Trịnh bị Lê trả thù, hai bên đánh nhau đốt đi đốt lại mấy lần sạch trơn cả, dân cư kéo đến ở thành làng. Vì thế, bản triều mới đặt tên là làng Cựu Lâu. Ở chỗ nền chùa bây giờ, khi ấy còn trơ lại ba khẩu súng thần công lớn bằng gang, nòng năm tấc, dài năm thước, được phong là Điện Xiết tướng quân, Lôi Chấn tướng quân, Phi Đằng tướng quân. Đời Gia Long, các quan Bắc thành cho lính di chuyển đem vào thành, không tài nào lay nhổ lên được. Quan Đề đốc hộ thành phải cho sửa lễ cầu khẩn thần, lễ xong thì chuyển súng đi được ngay. Dân xóm chung quanh thấy linh ứng, liền lập miếu lên thờ. Đến đời Minh Mạng, người ta đã làm ngôi đền ngói và xin phong sắc để phụng sự. Song đầu đời Thiệu Trị, quan thượng Giai xét lại không cho, bắt hủy đi, và thân đứng ra làm ở trên chỗ nền ấy, ngôi chùa nguy nga đồ sộ như thế kia đấy, kiến trúc tinh xảo công phu lắm, kể ra thì cũng tổn phí rất nhiều tiền của thập phương thật đấy. Chính tên quan thượng Giai đặt cho chùa là Sùng Hưng tự tức là chuộng sự hưng thịnh. Vả theo ngụ ý đó cũng là điều ông ta mong mỏi, mà cũng là chỗ khả thủ đáng quý.

Chủ quán đã trở vào trong nhà từ lúc nào, bấy giờ lại chạy ra đon đả:

- Bẩm lão huynh và hai công tử, xin rước chư vị vào xơi chén rượu nhạt của bản quán, món nhắm vừa xào xong đang nóng. Khai vị rồi, xin lão huynh nói thêm rõ về lai lịch chung quanh hồ này. Người ở đây mà không biết chuyện ở đây, kể cũng ngu dốt thật. Khách tứ phương người ta có hỏi đến cứ ù ù cạc cạc…

Vậy xin mời ba vị chứng giám lòng thành…

Ông già vội đỡ lời:

- Bác chủ đã có lòng chiều anh em chúng tôi, chúng tôi xin bái lĩnh. Nào ta cùng đi nhắm nháp cho câu chuyện thêm vui…

Ba người trở vào nhà, ngồi vào sập. Bác Phúc ngồi ghé một bên rót rượu vào ba chén. Cậu ấm trẻ so đũa và lau bát. Bác chủ mời lượt nữa. Ba người cùng nâng chén mời nhau. Một người con gái bưng một khay thức ăn nhẹ nhàng đi vào lễ phép cúi chào khách, rồi đặt khay xuống sập. Bác Phúc đỡ đĩa thức ăn đặt vào mâm, rồi sai cô con gái đi lấy thêm đĩa rau thơm. Thấy ông già nhìn chăm chú cô bé như có ý xem tướng, bác quán vui vẻ nói:

- Thưa lão huynh, cháu Hiền; con gái lớn của đệ đấy ạ, cháu còn ngộc nghệch thô lỗ lắm!

Cô bé ra khỏi rồi, ông già nói:

- Cháu gọn ghẽ, kín đáo, có phúc tướng. Nhưng ở chỗ quán hàng thế này, cần phải dạy cháu biết giữ đạo đức…

Rồi ông tự cho mình là chủ trong đám này, vì hơn tuổi, ông giục:

- Nào ta vui chén đi chứ!

Qua một tuần nhắm đưa cay, hơi rượu ngấm vào người ấm áp, ai nấy thấy hăng hái vui vẻ thêm, ông già nói tiếp câu chuyện lúc nãy với vẻ say sưa hơn:

- … Cái khu phía đông và phía nam hồ bấy giờ khác xưa nhiều. Trước kia đây là khu vương phủ. Chúa Trịnh muốn vượt hẳn quyền vua Lê, nên lập phủ đệ riêng và đặt ra những danh hiệu riêng. Khu vực phủ ở phía tây hồ, chạy dài mãi hết hồ Thủy Quân dưới, có hai cửa chính: cửa tây bắc là cửa Diệu Công, ngụ ý khoe công với vua Lê; cửa phía đông là cửa Tuyên Vũ, tỏ ý phô trương oai võ với tất cả mọi người. Ở trong phủ có nhiều lâu đài hơn cả cung vua. Bên ngoài phủ, lại dựng nhiều ly cung, như Ngũ Long lâu, ở chỗ này, cung Khánh Thụy ở hòn đảo Ngọc Sơn, trên đắp hai quả núi giả gọi là Đào Tơ, Ngọc Bội. Ở phía làng Trang Lâu bây giờ thì có những lầu cho quận chúa, cung phi, cung nữ ở, và gần đấy lập ra Chân Tiên điện để các bà các cô ra đấy cúng lễ ăn chay, sống như tiên trên trần. Cái điện ấy do đàn bà trông coi, nên bây giờ quen gọi tên một bà, thành ra mới có tên là đền Bà Kiệu. Về sau, do một thái giám tên là Lê Trọng Hiên, người huyện Đường Hào, đứng ra mở mang to thêm. Đến khoảng năm Vĩnh Trị, cháu là Hoàng Thị Bột trùng tu lại, từ bấy đến nay, nó thành của tư dòng họ Lê ở Đường Hào. Đời Cảnh Hưng cuối Lê, rồi năm Tự Đức lục niên gần đây, đều có sửa chữa mở rộng. Bên phía dưới Ngũ Long lâu, gần sát với hồ về phía đường Thập Lý này, có xưởng đóng thuyền trận. Ngoài xa một ít, có trường đúc súng, tức là cái chỗ ngày nay là Tràng Tiền mà các quan Bắc thành đã đưa từ trên phường Khán Xuân về đây, vào đầu đời Minh Mạng. Để phô trương oai võ, chúa Trịnh cho đóng thủy quân ở hồ này, đổi tên là hồ Thủy Quân Tả Vọng, tỏ rõ không chầu về cung vua, lại cho ngăn hồ ra làm hai, chỉ trừ một con ngòi thông để tập thủy trận. Cho nên phần hồ dưới bây giờ vẫn còn gọi là hồ Thủy Quân. Và dân làng đã lấp dần đi thành hai hồ cách xa nhau như bây giờ. Ở chỗ gò tháp kia, chúa Trịnh cho xây cái Tả Vọng đình, trên tầng tháp có chỗ ngồi để chúa ngự ra xem tập trận. Ở phần hồ trên này lại thả cá cho đeo vòng vàng vòng bạc. Chung quanh hồ có giồng các cây hoa cỏ lạ, nuôi chim, giữ gìn sạch sẽ. Cấm ngặt dân gian không cho ai tới gần hồ này câu cá, hái hoa. Họ Trịnh lại cho khơi một con ngòi rộng từ hồ dưới ra đến sông Cái để thuyền ra vào được, và mở thành một cái bến lớn gọi là Tây Long Tân - chỗ bây giờ ta còn quen gọi là Tây Luông, tức là cửa ô Long Tường đấy - để đối với bến Đồng Tân trên phường Hà Khẩu. Thế là cả hai bến đông tây đều chầu cả về phủ chúa, bẻ sai hẳn hướng của cung vua. Cả cái khu vực nghiêm cấm này, đến khi chúa Trịnh thất thế, vua Lê cho đốt phá hết, rồi chính vì nhân dân quanh vùng bấy lâu bị ngăn cấm, lúc ấy được thể mới tràn vào san phẳng đi, dần dà ở thành làng xóm ngày nay. Bản triều mới nhận những di tích cũ mà đặt tên làng: Cựu Lâu, Trang Lâu, Tả Vọng, Khánh Thụy… cũng là có ý nhắc lại dấu vết một thời. Làng Cổ Tân bây giờ chính là bến Tây Long Tân bị lấp đi. Lúc đầu, bản triều mở trường thi hương ở đấy cho tiện đi lại. Như vậy cả một vùng tôn nghiêm lâu đài nguy nga san sát xưa kia, ngày nay đã khác hẳn rồi, khác hẳn như Bà Huyện Thanh Quan trên Nghi Tàm đã viết:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương!

Mà khác hẳn chính là vì dân làng đã đến ở đông đúc, ruộng đồng tốt tươi, cảnh sống nhộn nhịp chung cho tất cả mọi người, chứ không còn của riêng ai nữa, lâu đài xưa, nay đã thành làng mạc, bến cũ thành đồng lúa và ven bờ hồ này rải rác có những nhà dân với những cầu giặt rửa lác đác nhô hẳn ra mặt hồ. Thế thì so với trước kia, bây giờ tuy cảnh nguy nga không còn nữa, chúng ta có tiếc những kỳ công kiệt tác của ông cha ta ngày xưa thật, nhưng trong khi trăm họ được vui chung với cảnh hồ cây xanh nước biếc này, chúng ta cũng vẫn thấy vui đẹp hơn thời Lê, Trịnh. Cho nên bây giờ ta đối cảnh sinh tình, có nặng lòng hoài cổ chăng nữa, thì cũng là nhớ lại gương xưa mà lo cho sau này cảnh có thay đổi thì phải cố làm sao tránh khỏi cái lối độc chiếm, gạt mọi người dân chúng ta ra ngoài, không được bén mảng đến gần. Hiện tình Sài Gòn, lục tỉnh báo cho ta lo xa như vậy. Và ở đây, hiện nay Khách trú về hùa với Tây dương cũng báo hiệu cho ta lo xa như vậy. Bởi thế nhân tiện, tôi muốn gợi cảnh cũ để nhắc nhở các hiền hữu, cũng không phải chỉ là bùi ngùi như người xưa:

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường!

Mà chính là để cùng nhau nhớ lại gương kim cổ mà có phận sự giữ gìn lấy cảnh đẹp của đất nước chúng ta. Nếu cứ phó mặc giời xanh, kệ cho sao dời vật đổi, được sao hay vậy, thì tôi e rằng có ngày chúng ta sẽ không được cùng ngồi chung với nhau thế này mà thưởng thức cảnh trí thiên nhiên nữa, vì có lẽ lúc đó đã hóa ra nhân giai dị và cảnh dĩ phi rồi!

° ° °

Giời đã quá chiều, gió heo may đã nhẹ dần, rồi ngừng hẳn. Ánh nắng của mặt trời chênh chếch như vàng tươi hơn. Cảnh vật trầm lặng tắm trong màu phấn vàng trong sáng và linh động. Câu chuyện trong quán cũng đậm đà và biến chuyển rộng hơn. Ông già Tam Sơn không uống rượu nữa. Ông uống và nhắm những mẩu chuyện ông kể. Ông nói say sưa như một ông thầy giảng kinh nghĩa. Nghỉ một lúc cho mọi người nhắm n­háp vừa phải, bàn tán qua loa, rồi ông lại nói, giọng cao và thấm thía hơn:

- Các hiền hữu ạ, vượng khí Thăng Long chung đúc cho cả nước. Thăng Long trước kia là đế đô, bây giờ là tổng trấn của Bắc Hà, nơi mà các quan Kinh lược, Khâm sai đều đóng hành dinh ở đấy, cho nên đúng lý ra, giang sơn tú khí ở đây phải giúp tốt thêm cho sự thịnh vượng thái hòa, dân khang vật phú 12 ở nơi này và rộng ra cho cả nước. Nhưng cảnh có đẹp tươi cũng lại do tự người điểm xuyết. Lấy ngay cái vị trí Hồ Gươm mà nói: Triều Trần sau khi đã thắng quân Nguyên có mở ba ngày hội Thái bình diên yến cho toàn quốc, nhân dân kinh đô tụ tập ở đây đua thuyền múa hát. Rồi từ đấy thành lệ, hằng năm dân chúng đều tụ tập ở đây mở hội đua thuyền với nhà vua. Sang triều Lê, nhân có vua Lê trả gươm thần ở đây, hằng năm cứ đến ngày hai mươi bảy tháng giêng, ở dinh Phủ doãn, phủ Phụng Thiên lại làm lễ bái khánh đức vua và rước nước từ Hồ Gươm về phủ rồi quan Khâm mạng thân đem bình nước ra tưới lên ruộng tịch điền ở phía tây phủ, thuộc cánh đồng làng Bích Câu bây giờ. Đây là một ngày hội lớn mà tất cả dân chúng các nơi khắp trong ngoài kinh kỳ từ quan đến dân đều đến họp mặt vui vẻ, ai nấy đều cùng một ý nghĩ phấn khởi, một niềm tin chân thành mừng đức vua mạnh khỏe thân ra đi cày cho ruộng đồng tốt tươi, ai cũng sung sướng thấy rằng đức vua chăm lo ruộng tịch điền thì dân gian sẽ dễ làm ăn, xóm làng được vui vẻ… Cho đến đời Lê trung hưng, chúa Trịnh đã vượt quyền vua Lê, lập phủ riêng ngay bên cạnh hồ, liền chiếm luôn cả lễ bái khánh. Hằng năm, cũng vẫn đúng cái ngày hai mươi bảy tháng giêng, ở phủ trị Phụng Thiên, vẫn có làm lễ bái khánh và rước nước. Nhưng người được chúc khánh lại là chúa Trịnh. Thành ra dân chúng không còn tin nữa, ngờ vua, ngờ chúa, ngờ các quan trên xu nịnh dưới lấn át trên, người ta coi như thế là đại loạn, trăm họ sẽ phải chịu lầm than! Gia dĩ chúa Trịnh ngăn cấm không cho ai đến gần Hồ Gươm, dân chúng lại càng oán giận, chả còn thấy mình có liên quan gì đến hồ, đến trò vui của bọn vua chúa quan chức nữa, mà lại càng thêm căm ghét bọn cầm quyền đã chiếm đoạt mất cả nỗi niềm vui thích của trăm họ. Cho nên bây giờ có câu:

Nhân dân dìm trong nước lửa

Cung miếu xây với mỡ màu.

Bởi thế, khi cả Lê lẫn Trịnh đều thất thế, trăm họ không còn luyến tiếc gì, mà chính dân kinh thành này đã cùng nhau xông ra góp phần phá hoại thêm cung vua, phủ chúa.

Ông già ngừng lại tự đứng lên đi rót nước uống. Chủ quán vội chạy lấy thêm nậm rượu nữa đem vào toan rót ra chén cố nài, nhưng ông già giữ lấy cổ bình và nói:

- Chúng ta uống rượu để dẫn giọng nói cho thêm vui chứ không phải uống vì nghiện. Vậy uống thế là đủ, hiền hữu cứ để mặc chúng tôi. Tôi vẫn còn đủ đà nói chuyện, chỉ sợ rồi các hiền hữu không muốn nghe. Đệ đang có nhiều điều muốn nói đây.

Uống xong chén nước, ông ngồi xếp bằng ngay ngắn ung dung, nói tiếp:

- Đấy là cơ sự ngày xưa. Bây giờ lại càng khác. Sang đến bản triều, trăm họ ở đây tiếc cho phủ Phụng Thiên không còn nữa. Hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận là tên mới đổi mà lại lệ thuộc vào phủ Hoài Đức, lỵ sở ở mãi trên làng Dịch Vọng. Tuy ở đây có thành, có dinh Đốc bộ, nhưng mọi việc dân, việc hộ đều phải qua trên phủ xét. Lại năm Tự Đức tứ niên 13 , triều đình bớt huyện Vĩnh Thuận đi, dồn cả cho huyện Thọ Xương kiêm nhiếp. Riêng cái việc coi nhẹ nơi đế đô cũ như vậy đã làm cho dân chúng ở đây khó có một lòng một dạ tin vào triều chính ở trên. Lại gia dĩ các ông quan về đây phần nhiều cũng chỉ ai biết phận nấy, cốt giữ lợi cho mình, đã không thân dân, nhiều khi lại hại dân. Cái vụ án mấy vị quan lớn tỉnh này bị án tham tang 14 xử tù năm trước, chính là vì thế. Chết một nỗi lại đều là các vị khoa bảng cả, như quan Bố chính Hoàng giáp Lê Hữu Thanh, Án sát Cử nhân Đặng Tá… Các hiền hữu đều biết đấy, cách xếp đặt giáo hóa như thế mà bảo trăm họ trên dưới một lòng tin vào triều đình, tin ở quan trên, cứ yên tâm mà giữ gìn đất nước thì thật là thiên nan, vạn nan! Nhất là như lúc này, giặc ngoài đã lấn đất miền trong, đang nhòm ngó cả ra ngoài này, lại càng thêm khó nữa! Ấy thế mà ở đây người ta có để cho yên đâu, lại còn cứ xảy ra lắm chuyện rắc rối như nỗi oan quan huyện Thọ năm kia ấy, bác quán chắc biết rõ hơn tôi.

Cậu ấm trẻ vội đỡ ngay:

- À cái vụ quan huyện Thọ Xương bị đòn rồi bị tù năm Ngọ, Tự Đức nhị thập tam 15 ấy à?

Bác Phúc thấy được hỏi đến, cũng vội tranh kể lại:

- Thưa lão huynh và hai công tử, không phải quan huyện bị đòn đâu. Đệ nhớ ra rồi. Đâu vào tháng ba năm Ngọ, năm có khoa thi mà quan Nghè Du Lâm đỗ thủ khoa đấy, một tên tướng Khách ở mạn ngược về chơi Hà Nội, đánh mất gói hành lý ở ngoài phố, liền vào ngay huyện bắt quan huyện phải tìm cho ra ngay lập tức. Bấy giờ là quan huyện Đàm, ngài trả lời còn phải đợi tra xét truy cứu đứa thủ phạm vô danh. Nó cứ bắt phải đền ngay, rồi hung hăng đập phá công đường, gạt tung cả hồ sơ, bút mực, quát tháo xỉ vả mọi người. Quan huyện cản lại, nó xông vào đánh. Cụ đề Nguyễn Bá Chuyên can ngăn bị nó tát dúi xuống. Quan huyện hô lính giữ nó lại, cụ Đề phải lấy thắt lưng lụa tạm trói tay cho nó khỏi hành hung. Quan huyện cho mời người hàng bang 16 đến cùng giảng giải cho nó nghe ra. Việc có thế thôi. Thế mà khi hàng bang kéo đến đông, chả biết nói sao, nó liền cào đầu đập trán ăn vạ, không cho cởi trói. Cả phố huyện xôn xao. Quan Bố trong tỉnh ra dàn xếp cũng không xong. Chủ tướng nó đưa giấy về bắt quan tỉnh xử tội quan huyện ngay. Nhưng quan tỉnh ta không chịu, chủ tướng nó kiện mãi về kinh. Vua phái quan Khâm mạng ra thanh tra xét xử, cách chức quan huyện Đàm, bắt giam xiềng lại để xét và trích của kho ra đền ngay số hành lý đúng như nó đã khai. Dân hàng huyện đều căm tức, làm giấy ký kết khiếu oan cho quan huyện và đứng đơn kiện tên Khách hành hung. Thế mà đến tháng tám, bên trên xử thành án: quan huyện Đàm bị trượng 80 gậy, tù lao dịch hai năm và hoàn lại kho số tiền đã trích ra đền. Rõ là bất công, ăn hiếp người lương thiện. Mà cũng chỉ tại tụi Khách trịch thượng, cậy là thiên triều, cậy giàu có hơn, lại càng hoạnh họe. Dân chúng phố chúng tôi tức lắm, nên ngay dịp tết Trung Thu năm ấy, nhân đà múa sư tử, chúng tôi kéo đi đánh phá luôn cả tụi hàng bang nào đã vu khống cho quan huyện.

Cậu ấm trẻ ngắt lời:

- Kể cái án quan huyện Đàm Thuận Lễ thì ai cũng tức. Nhưng tình thế phải thế. Khi ấy quan Khâm mạng Phan Đình Bình ra xét vụ này, có vào chơi với thầy tôi. Thầy tôi cũng trình rõ nỗi oan của quan huyện Đàm. Ngài cũng rất quan tâm. Nhưng ngài cho biết chính quan Đề đốc Quảng Tây Phùng Tử Tài đưa thư vào triều kiện các quan tỉnh thông đồng che giấu cho nhau và dọa sẽ tư về bên Thanh triều nói rõ bên ta bạc đãi họ. Phùng Đề đốc lại là Nguyên soái đem hai mươi doanh quân xuất quan 17 sang giúp ta dẹp phỉ Khách Ngô Còn, Hoàng Sùng Anh. Nếu để có tiếng về bên ấy như thế, không những không lợi cho việc tiễu phỉ, mà còn là mất quốc thể nữa. Nên đức vua đã cử ngay quan Phan Đình Bình cùng với quan Khoa đạo Đinh Văn Bân và quan Hình ty viên ngoại ra tra xét. Vua có dụ thêm rằng: “Quan lính nước Đại Thanh sang đây vì ta mà dẹp giặc. Phàm những việc không quan ngại đều nên nấn ná liệu mà thu xếp cho thỏa đáng, không phải chỉ cốt mong sớm cho yên dân mà thôi, cũng còn phải giữ cho hợp ý cung thuận. Các bề tôi tỉnh, huyện ở đấy không biết khéo xử, đến nỗi sinh ra việc như thế, rất là mất thể diện. Phải tỏ cho người nước ngoài biết nước ta là một nước lễ nghĩa, chính lệnh rất nghiêm minh. Vậy chuẩn cho Thuận Lễ cách chức, giam gông lại để đợi xét, quyền Tổng đốc Nguyễn Văn Phong, thự Tuần phủ Trần Văn Chuẩn, Bố chánh Trần Văn Hệ, Án sát Vũ Đường đều cách chức lưu nhiệm, giao cho đình thần nghiêm xét”. Như thế, rõ ràng là ý định của trên, của đức vua ngay từ đầu, nên cũng khó…

Bác Phúc vội nói:

- Ấy thế mới tức chứ. Nó sai toét ra mà lại cứ trịch thượng. Mình thì từ vua đến quan, cứ nhường nhịn đàn anh mãi. Nên chỉ còn là chết dân!

Ông già Tam Sơn hỏi thêm:

- Thế lão quan Tàu kia chức to hay nhỏ? Các hiền hữu có biết không?

Cậu ấm đáp:

- Thầy tôi có nói lại, đâu tên hắn là Lưu Bộ Cao, làm chức Tổng bả trong doanh quân nhà Thanh, mà Tổng bả là một chức võ quan hạng cuối cùng, cả chức lẫn quyền không có gì đáng hống hách.

Ông ấm Vẽ thêm:

- Đó là hạng võ biền đắc thế, cậy là quan quân của thiên triều, lại quen thói bắt nạt dân, nên đi đâu là làm càn đến đấy!

Bác Phúc chủ quán cũng xen vào:

- Nhà cháu ngu muội không biết xa xôi gì, thiển ý cho là chỉ tại triều đình ta cao xa không biết đến dân tình, lại cứ nhân nhượng, dĩ hòa vi quý, nên trăm tội cứ đổ vào đầu thằng dân chịu cả. Thế là được cả thể nước, được cả lòng các quan Tàu. Có ông quan nào tôn tốt biết bênh dân một tí thì lại bị trừng trị oan khuất như vậy. Lại cũng tại tụi hàng bang ở đây xúi bẩy mới sinh ra to chuyện đến thế, thiết nghĩ cứ rọt cho chúng nó một trận tỉnh kỳ thân, cho chừa thói hống hách xúi bẩy…

Ông già cười, ngắt lời bác chủ quán:

- Xử sự như huynh ông chỉ giải được tức khí thôi, chứ không có lợi. Oán cừu nên gỡ, không nên thắt. Tôi có đi qua Hàng Ngang, Hàng Buồm, thấy họ có vẻ đề phòng kỹ hơn trước, phố xá ngăn cách riêng biệt với phố khác. Như thế là sinh sự, sự sinh. Mối hằn thù sẽ tăng lên. Theo ngu ý, cũng không phải do hàng bang Khách trú thù ghét gì ta, mà chính là đều bị mắc mưu một bọn trục lợi cả. Tôi đã từng ở Hải Dương, Ninh Hải 18 , tôi biết có một bọn Khách buôn lớn như lão Hùng Tài Lộc ở Hải Dương, có thuyền buôn đi lại với bọn Tây dương, lại nghe nói ở Gia Định có mấy tên Khách được bọn Phú Lãng Sa 19 cho làm quan để môi giới với bọn Khách buôn ngoài này. Tôi ngờ rằng có thể chính tụi Khách buôn lớn ấy đã thông đồng với Tây dương để gây ra mối hằn thù giữa Khách và ta. Cùng ở chung một nhà, môi hở răng lạnh, hai bên có đánh giết nhau là chỉ có lợi cho bọn Phú Lãng Sa đang lăm le lấn ra cả ngoài Bắc này đây. Triều đình và các quan ta có lẽ không biết cái mưu thâm ấy, cứ thẳng ruột ngựa mà đối xử, không có cớ trị Tây thì đi trị Khách trú, còn dân ta thì dễ tức khí nông nổi. Thế là mắc mưu nó tất…

Ông ấm Vẽ không tin, cãi:

- Đệ e rằng chưa có thực chứng mà võ đoán thì có khi đổ lỗi cho cả người mà không nhận thấy lỗi ở phía mình. Ngu ý cho là chỉ tại triều đình ta nhu thuận quá, gặp việc khó chỉ muốn thu xếp cho yên, vừa lòng mọi người, nên mới đến nỗi thế.

Ông già nói:

- Ta vẫn có thể đoán biết mà đề phòng chứ. Thế nào gọi là tiên đoán? Vả chính ông huyện Đàm bị tù ở Hải Dương có gặp tôi, ông cũng tỏ ý ngờ ngợ như vậy. Chính ra vẫn tại triều đình ta kém cỏi. Nhưng cũng cần phải biết dã tâm, mưu mô của bọn giặc để mà tránh, hay tốt hơn là có thể tương kế tựu kế mà chống lại chứ. Các hiền hữu thử nghĩ mà xem, ta và Khách thù hằn nhau thì bên nào có lợi không? Ấy thế mà tự nhiên sinh ra cừu địch thì thật là vô lý. Vậy chúng ta đã biết được như thế, thì cần phải làm sao cố dàn hòa xóa bỏ được mối hiềm nghi ấy, nhất là khi có những vụ xung đột.

Cậu ấm trẻ cũng nói:

- Nghĩ cho cùng, lão huynh nói đúng. Bây giờ tôi mới nhớ ra chính ngay khi xảy ra ta Khách đánh lộn nhau, thầy tôi đã nói: “Ta và người Tàu là anh em sao lại huynh đệ tương tàn thế? Chỉ tại bọn buôn lớn Quan Tá Đường, Bành Lợi Ký phải bỏ ra một số tiền cung cấp lương thực cho các doanh binh Quảng Tây sang giúp ta tiễu phỉ mà bọn ấy xúi bẩy thành to chuyện cho bõ...”. Nhưng thầy tôi chưa nghĩ xa đến như lão huynh. Bây giờ càng nghĩ, tôi càng thấy cái mầm thù ghét thật không đâu mà lại gây hại lớn cho ta… Cần phải làm thế nào ngăn chặn ngay đi, không thì có ngày giặc đã vào đến nhà, anh em còn giở trò đánh nhau chí mạng!

Ông già Tam Sơn giọng thêm tha thiết:

- Các hiền hữu ạ, lòng người hiện nay ly tán giống như bệnh ngày càng trầm trọng, chính là vì nghèo khổ quá, vì các quan trên ít thấu đến dân tình. Trên dưới ngờ vực nhau, trong ngoài ganh ghét nhau, thật là mối nguy cơ lớn cho nước nhà. Vậy việc cần phải làm ngay bây giờ là làm thế nào nói rộng cho mọi người gạt bỏ được lòng hiềm nghi ngờ vực nhau, nuôi lại tình thân thiện giữa dân ta với nhau, giữa ta với Khách, với người nước ngoài trú ngụ ở đây. Hằng ngày chung đụng với nhau, trong phố xá, mặt nhìn mặt ta có thể nói chuyện thẳng với nhau. Ta không thể nhất thiết ngồi chờ ở trên phân xử, vì trên có thấu dân tình mấy đâu. Các hiền hữu có thể đi nói rộng ra trong anh em quen biết. Tôi lên đây, một phần cũng vì thế. Tôi sẽ còn ở lại đây ít lâu, đến thăm quan Đốc Mọc, thăm bác cử Kim Cổ, vào bác cử Linh Đường và mấy bạn hữu cũ vùng này. Tôi mong hai hiền hữu trong khi còn mải dùi mài kinh sử để dành quyết khoa sang năm, thì cũng nên nghĩ sao cho vẹn cả đôi bề. Và bác chủ nhỉ, bác đã từng hăng hái đi rủ bà con chống hàng bang, thì nay bác chắc cũng vui vẻ đi tiên phong dàn hòa, đi gây lại tình giao hiếu chứ?

Thấy ông già đang nghiêm nghị bỗng tươi cười hỏi mình, bác Phúc vui vẻ đáp ngay:

- Dạ, bẩm xin tuân lĩnh cao ý, có khó nhọc gì đâu mà không làm được. Chỉ mong lão huynh luôn hạ cố đến chỉ giáo cho, thì mới biết đường mà đi… không có lão huynh dạy bảo, đệ chỉ biết tức giận Khách trú. Thật là ngu dốt làm hỏng việc!

Ông già đột ngột đổi hướng câu chuyện, hỏi:

- Quan huyện Thọ bây giờ thế nào? Có tốt không?

Bác Phúc đang vui đà đáp ngay:

- Quan huyện Đàm bị cách thì quan Giáo thụ phủ Hoài về quyền mấy tháng, rồi đến quan huyện Đào bây giờ. Ngài ngồi huyện này như thế là đã ngót hai năm rồi mà chưa có điều tiếng gì lớn lắm. Ngài rất nhã nhặn với mọi người. Nhưng lễ lạt ngài ăn cứ ngọt sớt và kín đáo. Kẻ mất lễ cứ im thin thít như gái phải cọc. Ngài lại thân với các hiệu buôn lớn, các hào mục oanh liệt, và khéo chiều quan trên, nên nghe đâu quan ngài sắp được thăng bổ Tri phủ…

Cậu ấm trẻ cũng thêm:

- Quan huyện Đào Trọng Kỳ, người đâu vùng Cổ Am tỉnh Đông, Cử nhân trường Nam khoa Dậu trước, tay văn án cũng khá.

Ông già hỏi bác Phúc:

- Theo ý bác, quan huyện mới có hơn quan huyện cũ?

- Thưa lão huynh, dân chúng ai cũng mộ quan huyện Đàm hơn. Toàn huyện đã có mấy chục lá đơn đệ lên xin ân xá cho ngài…

Trong quán mấy người đang trò chuyện nghiêm trang bỗng có tiếng roi đập mạnh vào cửa, tiếp theo tiếng hỏi:

- Hàng Hai Phúc hôm nay ế à? Sao đóng cửa sớm thế?

Và cuối cùng tiếng hỏi lại đổi ngay sang giọng sẵng:

- À ngồi tụ tập làm gì đây?

Ông già mải nói chuyện, giờ mới trông ra thấy mấy chuồng cánh cửa bướm ở ngoài đều khép cả, vội hỏi:

- Sao lại đóng cửa thế, người ta dễ ngờ…

Trong khi ông ấm Vẽ tức, hỏi vọng ra:

- Đứa nào mà dám nói sách mé thế?

Bác Phúc vừa chạy ra, vừa ngoảnh lại nói giải thích:

- Bẩm, cụ Bá tổng đệ đấy ạ. Cụ quen nói sỗ như thế, để đệ ra xem.

Cậu ấm trẻ cũng nói:

- Bá Kim, cai tổng Đông Thọ, nổi tiếng hách dịch. Ta nên về thôi. Không nên để lão huynh gặp hắn.

Ông già ung dung nói:

- Kệ họ chứ. Ta về ngay, họ tưởng ta sợ, không thì họ lại ngờ ta có ý gì khác.

Bác quán đã mở rộng cửa đưa khách vào, đon đả nói:

- Bẩm cụ, hôm nay vắng, nhân có cậu ấm Tự Tháp dẫn ông khách vào chơi ngồi nói chuyện, nhà cháu mải nghe, không kịp thấy tiếng cụ gọi. Rước cụ ngồi chơi xơi nước. Cụ có bảo gì không ạ?

Khách mới đến là một ông trạc xấp xỉ ngũ tuần, cao lớn bề thế, mặt vuông, mắt lá dăm sáng những tia dữ dội như soi mói, bộ râu đĩnh đạc trông càng oai vệ thêm, đầu chít khăn nhiễu quấn, mặc áo dài năm thân khép tà tay chẽn, quần lụa đỏ sẫm, chân đi giày vải hàng Tàu, dáng đi nhanh nhẹn, bước đến đâu như là cuốn theo sự náo động đến đấy. Lão ta đi sồng sộc vào giữa nhà, quẳng cái roi mây cầm ở tay xuống, rồi ngồi tót lên cái sập cao giải chiếu cạp điều, sau khi gật chào ba người và hất hàm hỏi cậu ấm trẻ:

- Cậu vừa ra chơi à?

- Vâng, cậu đáp, nhân có ông bạn mới ở tỉnh Bắc sang chơi, tôi đưa ông đi thăm lại chùa Quan Thượng rồi rẽ vào đây, đang ngồi chơi ngắm cảnh hồ.

Ông khách mới cười khẩy:

- Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư 20 ! Mà đây lại cùng ngồi tất có người bàn quốc sự.

Ông ấm Vẽ tức tối nói:

- Ông là người đang làm việc ở dân xã, ông nói láo như thế, dễ nhập nhân chi tội 21 , vu oan giá họa cho người!

Ông khách trừng mắt trông thẳng vào mặt ông ấm Vẽ, hỏi:

- Lại còn không à? Trong lúc đa sự này, tôi biết nhà nho dễ sinh ra bất đắc chí, thị kỷ phi nhân 22 lắm kia đấy!

Ông Tam Sơn cười đỡ lời:

- Ông khách nói khí quá. Mà một lời nói đã quá thì dẫu ngựa tứ cũng khó đuổi theo mà giữ lại. Ở đời, điều quý nhất là thành thực, là biết tin nhau, chớ có vội nghi nhau. Chúng tôi ngồi đây ngắm cảnh đẹp, mà ông bảo là bàn quốc sự. Tuy là một câu nói đùa, nhưng rồi do đấy, người khác có thể buộc tội chúng tôi là âm mưu bạo nghịch, thì có nguy không? Chả hóa ra nhập nhân chi tội là gì?

Ông khách gật gù:

- Chịu nhà nho giỏi lý sự thật. Một lời nói mạnh hơn mũi dao đâm. Hàng hào chúng tôi xin chịu thua đấy. Nhưng tôi xin hỏi thật các ông, ngắm cảnh sao lại ngồi gọn thon lỏn vào đây? Và bàn bạc cái gì đắc chí thế?

Ông già đáp:

- Ngắm cảnh Hồ Gươm và bàn chuyện phong thủy thì có thể hết cả ngày, ông cũng cấm à?

Ông kia quay lại nói riêng với cậu ấm trẻ như phân bua:

- Cậu Ba biết cho. Tôi là cánh hào lý hay nói thẳng mất lòng, quả tình lúc này đa sự, khó khăn lắm, trăm tội đổ cả vào đầu Tổng lý. Bên trên cứ buộc là phải dò xét dân tình, nên cũng là một lối tôi nhắc cậu như vậy. Mình con nhà gia thế, nói năng bàn bạc phải nên thận trọng…

Rồi lão lại quay sang hỏi ông già:

- Ông anh đã biết xem phong thủy thì đất này có phải là đất kiểu không nào?

Ông già vẫn giữ vẻ ung dung:

- Thăng Long là đất đại huyết mạch 23 thuộc hữu chi long, hồ này là cái bàng 24 của nó, sao lại không phải đất kiểu? Địa lý tức là địa ý, phải nhìn sao cho thấy được vị trí của nó cho hợp ý thì mới nhận ra được kiểu đất, chứ cứ cắm quàng xiên thì chả bõ hại. Kia kìa đình Hàng Khay trông ra hồ, lấy cái gò tháp làm án, trông thì đẹp mắt đấy, nhưng bị bắc phong xuy 25 , nên cứ lụn bại, rồi có lẽ sẽ tan tành. Và đình Tô Mộc bên thôn Phục Cổ kia nữa, cũng trông ra hồ, nhưng dòng nước từ trên hồ Hàng Đào chảy xuống đến đây xoáy quật lại rồi buông đi sang con ngòi bên này, như thế là phản thủy, rồi cũng sẽ đến thành điêu tàn thôi. Vì nước có lúc nào tụ đâu.

Ông khách vui thích nói một cách kính phục:

- Đúng thế! Thì ra tiên sinh xem đất thật. Xem mây gió tìm long mạch thì được. Còn chớ nên bàn đến thời thế không lợi lộc gì mà chỉ thêm bận cho chúng tôi. À, tôi xin hỏi thực tiên sinh nhé: “Kiểu đất đây là kiểu gì? Đẹp ở chỗ nào?”

Ông già Tam Sơn đọc ngay:

Thăng Long kiếm hồ,

Nước bọc ngọc nhô.

Trâu vàng dẫn mạch,

Sông Cái quanh co.

Nước lên thì lặn,

Nước xuống lại thò.

Lúc ẩn lúc hiện,

Như viên ngọc to.

Huyệt đúng chỗ ấy,

Tiếng nức đế đô.

Công hầu mãi mãi,

Phúc lộc nghìn thu!

Rồi ông nói luôn một mạch:

- Kiểu Cao Biền đấy. Chắc ông khách và các hiền hữu nhận ngay ra rồi chứ gì. Như hòn ngọc, như viên mọc, ai mà chả biết. Ấy thế mà từ trước đến nay vẫn chưa ai tìm ra sai huyệt đấy.

Ông ấm Vẽ nói:

- Kiểu đẹp như đền Ngọc Sơn, đức Văn Xương đế quân ngự mất rồi!

Ông khách mới đến cũng nói xen vào:

- Tôi cũng nghĩ thế. Chúa Trịnh đã làm núi giả ở đấy chực chiếm nhưng cũng hỏng ăn.

Ông già Tam Sơn nói:

- Ấy vì ai cũng nghĩ thế, nên huyệt vẫn còn. Các vị thử đọc lại kiểu xem: “Nước lên thì lặn, nước xuống lại thò, lúc ẩn lúc hiện, như viên mọc to”, có đúng với đảo hòn Ngọc không? Theo tôi, thì chỗ hòn Ngọc có ngập bao giờ đâu? Chính là chỗ Gò Rùa kia vừa nhỏ vừa thấp mới lúc ẩn, lúc hiện, lúc lặn lúc thò. Mà đất này là hữu chi long, lại là cái bàng ở bên tả cái chính, nên tạo hóa đã an bài cho nó có một hòn to hơn để che chở cho nó chống bắc phong…

Ông khách vỗ tay xuống sập khen:

- Thật chịu ngài! Rõ ngay trước mắt mà ít ai biết. Suốt cả cái phía bắc, từ hồ Thái Cực Hàng Đào cho lên đến sông Cái chỉ rặt sông nước, nếu không có hòn Ngọc Sơn lớn ở bên trên thì lấy gì mà che? Chả cứ hướng bắc, hướng nào cũng cần có đủ án như thế mới là đúng kiểu. Ấy thế mà…

Ông ta ngừng lại, quay sang hỏi cậu ấm:

- Tiên sinh với cậu Ba là thế nào nhỉ?

Cậu ấm nói thong thả, từ tốn:

- Lão huynh tôi đây là cụ cử Ngô Gia Phan, biệt hiệu Trần Ẩn tiên sinh, người làng Tam Sơn, bên Đông ngàn, tỉnh Bắc, là học trò thầy tôi lớp đầu tiên, trước cả quan Đốc Mọc. Lão huynh tôi say mê đạo lý, không cầu lợi đạt 26 chuyên chú học hỏi nghề: nho, y, lý, số, mặt nào cũng tinh thông…

Ông khách vui vẻ đáp lời:

- A! Quý hóa quá nhỉ? Thế ra cũng là người trong bọn ta cả.

Rồi ông vỗ tay vào ngực, tự giới thiệu với ông già, và nói một mạch:

- Thưa tiên sinh tôi đây là Bá hộ Kim ở cái huyện Thọ Xương này, tiếng hay thì ít, tiếng dở thì nhiều, chẳng qua cũng là số kiếp cái nghề làm việc Tổng lý dưới dồn lên, trên ấn xuống, nó sinh ra như vậy, nên rất là mang tiếng với bà con văn học, nhiều khi quen nết ăn nói sỗ sàng suồng sã, xin tiên sinh tha lỗi cho. Có cậu Ba biết. Tôi cũng thường ra vào hầu chuyện cụ lớn nhà, cụ lớn cũng coi như người nhà, nên có việc gì tôi cũng giữ tình thân hay nói thực. Lúc nãy tôi nói có vẻ đùa nhưng mà là thực đấy. Nhân là anh em nhà ta cả, tôi xin nói rõ để tiên sinh và các cậu liệu đề phòng, giữ gìn lời nói. Tôi vừa ở huyện ra đây. Trên có mật sức cho Tổng lý chúng tôi biết có một đoàn hỏa thuyền của bọn Tây dương Phú Lãng Sa 27 , mượn cớ hòa ước, đòi thông thương, đã đến Hải Dương và đòi lên Hà Nội này. Ta không cho lên. Quan trên sức cấm dân không được giao thiệp với Tây, không được xôn xao bàn tán, không được ra mặt chống đối, gây sự đánh nhau với bọn Tây ấy. Và ngay từ giờ cấm ngặt không được phao tin cho dân chúng biết, những người làm việc quan lại phải dò xét những kẻ ngấm ngầm tuyên truyền cho ngoại quốc để mà ngăn chặn, trừng trị trước đi. Cũng vì có mật lệnh như thế, nên khi thấy các vị bàn chuyện ở đây, tôi hăm hở nửa đùa, nửa dọa để dò la… Giờ xin tiên sinh xét tình đại xá cho. Sự nông nổi lỗ mãng cũng là do phận sự.

Ông già Tam Sơn hỏi:

- Giấy sức nói thuyền nó đã đến Hải Dương rồi à?

- Vâng, Bá Kim nói, đến Hải Dương rồi, mà vì có hòa ước thông thương, nên các quan ta không cản được.

- Thế còn mật sức làm gì?

- Mật sức để giữ cho dân chúng khỏi nôn nao, không cho tư thông với họ, và không để cho họ được tiếp xúc với dân. Còn thì phải đợi lệnh triều đình, không được gây sự, hành hung.

Bá Kim cúi xuống, với lấy cái roi mây, đứng lên, và nói thêm:

- Việc khó khăn thế, mà tôi lại đứng ra ghé đầu chịu báng, mọi việc tuần phòng dò xét, thông đạt giữ cho dân chúng yên ổn, tuân thủ mệnh lệnh triều đình, đều phải có tôi. Bây giờ tôi phải đi biến báo ngay cho Tổng lý, không có thì giờ hầu tiên sinh. Mai xin cậu Ba mời giúp tiên sinh rời gót ngọc quá bộ lại chơi đằng tôi. Ta sẽ bàn thêm về việc này.

Lão chào mọi người, rồi hấp tấp đi ra, không kịp ăn trầu uống nước. Bác Phúc cầm đĩa trầu chạy theo tiễn và mời:

- Rước cụ xơi nước xơi giầu đã!

Ông khách đã đi vội ra đến ngoài đường cái, trong khi ở trong này, ông già Tam Sơn lẩm bẩm:

- Hỏa thuyền đã đến Hải Dương rồi!

Cậu ấm Ba lơ đãng hỏi:

- Nó đến Hải Dương, thì lão huynh bảo có quan ngại gì?

Ông già nói:

- Thôi ta về đi. Chính là việc tôi muốn bàn với các hiền hữu đấy. Nó đã đến Hải Dương, thì rồi ngày một, ngày hai nó sẽ đến Hà Nội. Các quan cứ để cho nó đi, ngồi chờ lệnh triều đình. Triều đình thì rồi cũng lại trông vào dân mà thôi. Nếu dân ta không có hành động gì, cứ im thin thít như thóc đổ bồ, thì nó sẽ cứ làm bừa. Đến nơi nó đã kiếm cách mua chuộc xui nguyên giục bị chia rẽ dân ta. Cho nên, tôi nghĩ việc lớn nước nhà còn hay mất, kẻ thất phu đều có trách nhiệm. Ta phải cùng nhau bàn tính trước cách đối phó. Trước hết là trong nội bộ dân ta cần tránh mọi nghi kỵ, hiềm khích, phải hòa hảo với nhau, chín bỏ làm mười, chớ để cho kẻ nào lừa dối phỉnh phờ, không giao thiệp giúp đỡ bọn giặc nước ngoài mưu cướp đoạt mọi quyền lợi của nước ta…

Cậu ấm trẻ cũng đứng dậy, gọi dặn chủ quán:

- Chúng tôi về đây, bác Hai ạ. Mai tôi cầm tiền ra giả. Không thì lúc nào bác tạt qua đằng nhà tôi lấy cũng được nhá.

Ba người chào chủ quán rồi đi vòng theo bờ hồ lên thôn Phục Cổ để rẽ vào thôn Tự Tháp. Đi qua cửa đình Hàng Khay, ông Vẽ đứng dừng lại, ngắm ra cái Gò Rùa giữa hồ và hỏi:

- Hai lần chắn thế này mà lão huynh bảo là bắc phong xuy à? Ông già cười:

- Thứ nhất là chệch hướng trông chéo đi, có án Gò Rùa mà không có án Ngọc Sơn. Thứ hai, Tả Vọng đình của chúa Trịnh lại ngồi quay án ngữ, chứ không chầu lại, có khác nào chặn trước mặt. Vả nói về đất thì đây cũng chả ra cái kiểu gì cả. Và muốn bảo nó là cái hình thù gì cũng được miễn sao cho nó hợp với ý người xem. Còn thì như người ta vẫn nói:

Ví dù đất biết nói năng

Thì thầy địa lý cái răng chẳng còn!

- Thế cái kiểu lão huynh vừa đọc lúc nãy không phải à? Ông Ấm hỏi.

- Đó là kiểu đất Hồ Tây. Tôi thêm bớt tán rộng ra cho lão Bá Kim nó mê. Đối với lão thì phải có cái tiểu xảo gì cho lão sợ mới ràng buộc được lão.

Cậu ấm trẻ hỏi ngay:

- Thế ra lão huynh cũng biết rõ hắn ta?

- Tôi biết từ khi còn học thầy ở đây, ông già nói, biết đến cả gốc gác nhà lão ở tỉnh Đông. Ông tam đại nhà lão phiêu tán đi lên ở bãi Đồng Nhân, rồi đến bố lão tụ tập với dân tứ chiếng 28 ở phường Hà Khẩu, rồi xuống thôn Dũng Thọ, làm ăn khấm khá, có tiền tậu được nhà đất ở thôn Cựu Lâu và thôn Vũ Thạch, ra làm Lý trưởng. Đến đời lão, lão kế nghiệp trong hàng hào từ thời còn ít tuổi, làm việc lâu năm, trở nên giàu có oanh liệt, vì khéo lựa trên chèn dưới. Biết dùng được lão, lão sẽ là tay được việc, tháo vát, biết quyền biến. Nhưng nếu không khéo dùng, để mặc lão đắc thời, đắc thế, thì cũng thành gian hùng. Cho nên đối với hạng người như thế, ta không nên khích. Không nên làm cho lão phật ý.

Cậu ấm Ba nói:

- Không có lão huynh bảo thì đến có ngày đệ vặc nhau với lão ta, vì lão cứ quen giữ lối thân tình và trịch thượng.

Ông già tiếp lời:

- Thế nên tôi phải căn dặn các cậu trước. Không nên gây oán hận với ai. Cốt dĩ hòa vi quý, để mà đối phó với người ngoài chứ. Chợt đến ngã ba đầu thôn Tự Tháp, ông già đứng lại bảo cậu ấm:

- Thế huynh về trước đi. Công tử Đông Ngạc cũng về đi, liệu lời mà biến báo các anh em biết tin mà đề phòng. Tôi sang Kim Cổ gặp bác Cử Ngô ngay, để sáng mai còn gặp bác Đốc. Mai nếu tiện, ta sẽ gặp lại nhau ở từ đường thầy, rồi bàn bạc thêm. Việc gấp rồi, ta phải sốt sắng mới được…

Cậu ấm trẻ phải miễn cưỡng chào từ biệt hai người. Trời tối, trên nền trời cao xanh thẫm, mấy ngôi sao sớm đã lấp lánh rọi ánh sáng mờ nhạt. Không có gió nữa, cây cối đứng im như bù rù to thêm ra. Không khí lành lạnh như về hùa với cảnh vắng vẻ hoang vu, càng gợi sâu tâm tư con người. Ông già đứng lặng một lúc nhìn theo người bạn trẻ. Cái dáng người thanh thanh, gọn trong cái áo dài năm thân chẽn cài dải, bằng thứ vải to giãi nâu nhuộm bùn đen sẫm, càng thoăn thoắt xa dần càng thêm đậm nét, trông càng rõ. Ông già lẩm bẩm:

- Trông dáng đi cậu Phách giống quan Nghè ngày trước quá. Ông quay lại nói chuyện với ông ấm Vẽ:

- Mà tính tình cũng gần được như quan lớn, tuy ít tuổi, nhưng đã điềm đạm, biết đắn đo, cân nhắc hơn các cậu cả, cậu hai…

Ông ấm Vẽ từ lúc thấy ông bạn già cứ mải băn khoăn về thời thế, càng thêm kính mến, muốn gợi chuyện để đứng lâu thêm với ông bạn, liền hỏi:

- Nghe nói cụ Nghè ngày trước cương trực, can đảm và bình tĩnh lắm?

- Phải! Ông già nói thong thả, nhỏ đủ nghe. Cụ điềm đạm và cứng cỏi không sợ quyền quý, không sợ nguy hiểm. Hậu sinh chúng ta dễ không có ai được như cụ. Cụ ít nói nhưng lúc nào cũng vững như bàn thạch.

Ông vội quay lại giục ông Ấm còn đang như có ý chùng chình đứng lại:

- Thôi ta đi. Vừa đi vừa nói chuyện.

Hai người đi tạt qua xóm chợ để tránh cái phố huyện xiên lên Hàng Bông, để sang Hàng Hài. Ông già nói thêm về cụ Nghè Tự Tháp:

- Cụ bình tĩnh lắm, không bao giờ biết sợ cái gì cả. Một hôm cụ đi đò sông Cái, nhà đò tham, chở đông người. Đến khi ra giữa sông gặp gió to sóng lớn, người đi đò xôn xao, lái đò luống cuống, có người trực nhảy ra. Cụ đứng ngay ra cầm lấy sào lái và nghiêm nghị dõng dạc bắt mọi người ngồi yên tuân theo lệnh của cụ, giữ vững cho thuyền vào đến bến. Lại một bận cụ ở chơi một làng, đang đêm có cướp vào làng, cụ đã một mình tự đi ra gặp bọn cướp hỏi chúng muốn gì, rồi ôn tồn nói chuyện thuyết phục được bọn chúng. Lúc nào cụ cũng ung dung bình thản như không.

Hai người đã đến Hàng Bông. Ông già thôi không nói nữa, đi rẽ sang một ngõ ngang vào phường Kim Cổ. Ông Ấm khen:

- Lão huynh thuộc đường lối quá. Giá như đệ là cứ phải qua đằng phố Hàng Hài kia đấy.

- Ấy trước tôi học ở đây, tôi hay xông xáo lắm, chỗ nào tôi cũng mò vào, nên tôi thông tỏ cả. Mà từ bấy đến nay, cũng không thay đổi mấy, tôi lại chơi thân với ông huyện, anh bác Cử, nên tôi ra vào đây luôn. Ông huyện lúc ấy kém tôi hai tuổi.

Hai người vào đến nhà ông Cử, trong nhà đã lên đèn. Ông Cử đang đứng ở ngoài sân, ngẩng mặt lên nhìn trời xem thiên văn. Ông già đến nơi, nhìn quang cảnh như thế, lẳng lặng rón rén bước vào sân lên tiếng:

- Sao dày đặc nhỉ! Mà này, khách tinh không chầu sao Bắc Đẩu hay sao ấy nhỉ?

Ông Cử quay lại nhìn nhận ra bạn, vội chạy ra vồn vã hỏi dồn:

- Ối giời bác! Sao lâu lắm không thấy tiếng tăm gì? Và sao đến tối thế?

Ông Cử kém ông già Tam Sơn đến hơn chục tuổi, nhưng là đôi bạn cố tri, nên thân thiết coi ngang nhau, không cách bực như những người khác. Ông Cử mời hai người vào trong nhà. Ông ấm Vẽ chào ông già và xin phép ông Cử ra về. Ông Cử chạy xấn ra nắm lấy tay nói:

- Ấy cậu ở chơi, chả mấy khi có cả ông anh tôi, vả tối rồi cậu còn đi đâu?

Ông già Tam Sơn nói:

- Xin bác cứ để cậu ấy đi, tôi nhờ cậu ấy có tí việc.

- Không được, việc gì cũng để đến mai. Ông Cử vừa nói vừa nắm lấy tay khách.

Ông già phải đến gỡ tay bạn ra và nói:

- Bác cứ buông cho cậu ấy đi. Bác vào tôi nói chuyện.

Ông Cử buông tay ra, ông ấm chào mọi người rồi hấp tấp quay ra.

Ông Cử mời bạn vào trong nhà, vừa đi vừa nói:

- Bác thì chỉ được cái tất tưởi! Chả ở đâu yên. Lại nhờ cậu ấy việc gì đấy? Hay là nghe cậu ấy, định đánh lừa tôi à?

- Không ai dám đánh lừa bác! Việc cần mà.

Ông già vừa nói, vừa ung dung ngồi vào cái trường kỷ quang dầu. Ông Cử lại gần chỗ cây đèn, cho thêm bấc vào, khêu to ngọn lên, vừa nói:

- Việc của bác bao giờ cũng cần mà rồi sau cũng thành ra không cần cả.

Ông Cử ngồi vào trường kỷ, cười và nói thêm:

- Người ta bảo bác gàn, hay đi ngược lại thiên hạ, kể cũng không oan!

- Được tất, dại nhất thiên hạ cũng được! Nhưng này…

Hai ông bạn cùng cười vui vẻ, chụm đầu vào nhau, bắt đầu rủ rỉ tâm sự. Ông Cử lắng nghe, dần dần mắt sáng lên, nét mặt nghiêm nghị đăm đăm theo dõi lời bạn nói.

--------------------------------

1

Con đường từ Hàng Đào qua Cầu Gỗ vòng phía đông bờ hồ xuống đến Bạch Mai rồi chặp vào đường Thiên Lý.

2

Con quan gọi là cậu ấm.

3

Thế huynh: tiếng dùng để gọi con trai thầy học của mình ngày xưa.

4

Đàn sách, kiếm cung, người bây giờ khó được như trước; gió giăng, hồ sông, cảnh dễ đổi theo mới.

5

Đàn sách, kiếm cung, người đều lạ; gió giăng, sông hồ cảnh đã khác.

6

Mọi người đều thấy. (BT)

7

Khoa Giáp Tý trường Hà là khoa thi năm 1864. Thi ở Hà Nội.

8

Phong thể của nhà nho và khí tiết của kẻ có học vấn.

9

Bói chọn chỗ ở.

10

Phương Đình là biệt hiệu của Nguyễn Văn Siêu đỗ Phó bảng làm Án sát tỉnh Hưng Yên.

11

Ngã tử Đài thành: chết đói ở Đài Thành, Vũ đế nhà Lương là Tiêu Diễn, mộ Phật, xây nhiều chùa tháp, sau vì cận thần là Hầu Cảnh làm loạn vây cung cấm, Vũ đế bị chết đói.

12

Dân yên vui, vật thịnh và nhiều.

13

Tự Đức thứ 14 (1851) (BT)

14

Án về tội ăn hối lộ.

15

Tự Đức 23 (1870).

16

Bang là tập thể người Trung Quốc ngụ cư ở nước ngoài, bang Phúc Kiến, bang Triều Châu, bang Quảng Đông…

17

Ra khỏi ngoài cửa quan đi ra nước ngoài.

18

Tên cũ của Hải Phòng. Từ năm 1877 trở đi chính thức lấy tên Hải Phòng do Phạm Phú Thứ đặt trụ sở của Hải Phòng ở đây.

19

Tức bọn dân Pháp.

20

Ba người cùng đi tất có người là thầy dạy ta (lời Khổng Tử).

21

Buộc tội vào cho người.

22

Tự cho mình là phải, chế người ta là trái.

23

Theo sự mê tín về kiểu đất cho rằng đấy là kiểu đất đế vương, mỗi kiểu thường có một cái huyệt chính, mấy cái huyệt bàng.

24

Bàng nghĩa là bên cạnh, ở sát ngay bên.

25

Theo quan niệm mê tín về địa lý, cho rằng chỗ này bị gió bắc thổi vào không có án che chắn là điều tối kỵ trong phép địa lý.

26

Tiền tài, danh vị.

27

Trong các giấy tờ và trong khi nói ở thời kỳ này, người ta đều dùng chữ Phú Lãng Sa để chỉ nước Pháp và gọi tắt là Phú. Mãi đến năm 1883, hòa ước Harmand mới bắt đầu dịch thành chữ Đại Pháp.

28

(Khẩu ngữ) (người) đến từ khắp bốn phương, từ khắp mọi nơi, không thuần nhất (hàm ý coi khinh), phân biệt với cư dân nơi sở tại. (BT)

Chương II

Thời tiết đã vào giữa mùa hè. Quanh bờ Hồ Gươm, cây cỏ nảy nở trong mùa xuân nay tắm nắng hè lại càng mơn mởn xanh um, như có vẻ tràn lan thêm ra cả mặt hồ. Trên đường Thập Lý và trong những lối rẽ vào thôn Vũ Thạch, vào thôn Phục Cổ, vào thôn Tự Tháp, cỏ mọc lan ra cả lối mòn chân đi. Nhưng hôm nay, cuối tháng năm, một ngày hè nắng đẹp, những nhánh cỏ non bò lan trên đường rẽ vào xóm Đông thôn Tự Tháp, đang vui múa chan hòa với ánh nắng, bỗng bị từng đoàn người rầm rập tiến vào trong xóm giẫm nát cả, kẻ đi người lại ra vào luôn luôn, như trong một ngày hội lớn. Mà đây cũng là một ngày hội lớn thật, một ngày hội lớn đặc biệt, có một không hai ở bên cạnh Hồ Gươm này từ trước đến nay. Bởi vì đó là một cái hội giản dị, không có nghi thức trang trọng bề ngoài như của vua chúa, và cũng không ồn ào nhốn nháo như thường thấy ở những cuộc hội dân gian. Giản dị nhưng nghiêm trang, vì ở đấy tập trung tất cả hầu hết những nhân vật danh vọng tiêu biểu nhất trong các hàng chính, giáo và hào 1 ở hai cái tỉnh Hà Nội, Bắc Ninh này. Điều đặc biệt nữa là tất cả các bậc danh vọng ấy dù có gia nhân hay lính hầu đi theo vào đến đây, cũng đều một mình đi bộ. Ngựa, võng, điếu, tráp, quạt hầu đều gửi lại ở các làng xóm phố phường bên ngoài: ở phường Hà Khẩu, ở thôn Bảo Khánh, ở Hàng Cau, Hàng Bài, hay xa hơn nữa. Hàng cơm bác Hai Phúc hôm nay cũng được đón tiếp nhiều võng, lọng, điếu, tráp và cả lính hầu của các quan ở các tỉnh huyện xa đến. Các quan to trong hàng chính chức, giáo chức và thân hào quyền thế đều về họp cả ở đây cùng với một số lính hầu, gia phu đi bộ giẫm nát những cỏ tơ trên đường vào thôn Tự Tháp cũng giống như trước kia, trong lúc thiếu thời, họ đã từng đi lại nhiều lần trên khoảng đường này, không ồn ào náo nhiệt, không tỏ ra đài các quyền quý. Vì giờ đây họ cũng vẫn chỉ là những môn sinh trở về mừng lễ khánh thành nhà từ đường thờ bậc tôn sư đã dạy dỗ, tác thành cho họ. Mà trong quang cảnh đồng môn, trước vong linh của bậc tôn sư cao quý, tất cả mọi môn sinh đều ngang hàng, mỗi người chỉ còn là một tên học trò hèn mọn của thầy. Đây không phải là một kỷ luật quy định. Chỉ vì uy danh của thầy to lớn lan rộng khắp vùng, nên ngay cả những người không phải là học trò, hôm nay đến mừng lễ, tự nhiên cũng tuân theo cái ước lệ thành kính ấy. Vị thầy cao cả mà hôm nay ai nấy đều tưởng nhớ đó là tiến sỹ Vũ Tông Phan, biệt hiệu Lỗ Am tiên sinh, tự hiệu là Hoán Phủ, đỗ Tiến sỹ đời Minh Mạng mới ngoài hai mươi tuổi, được nhà vua ban cho cờ biển đề bốn chữ “thiếu tuấn đăng khoa” 2 . Ra làm quan đến chức Tham hiệp trấn Thái Nguyên, rồi vì thương tù, tìm đủ mọi bằng cớ, lý lẽ để thả tù ra, mà bị giáng chuyển sang Đốc học tỉnh Bắc Ninh. Sang đấy, ông viện cớ đau ốm, xin cáo quan về, ở luôn nhà, thường lấy nghệ xoa và tự hun khói cho vàng người để từ chối mọi lần trên gọi đi nhận chức mới. Ông người làng Hoa Đường ở Hải Dương, khi bé theo học cậu ruột là Lập Trai tiên sinh Phạm Quý Thích, Hoàng giáp nhà Lê, làm Đốc học Hà Nội. Ông học ở Hà Nội đã sớm yêu cảnh Hồ Gươm, ông làm nhà ở thôn Tự Tháp ngay bên cạnh hồ, trông ra cái nền đài câu cá của vua Lê Thái Tổ ngày trước. Đối cảnh ông đã đề bốn câu thơ hoài cổ:

Khí thiêng gươm báu ánh sao mờ,

Nền cũ, đài câu, thuyền khách trơ!

Tiếc đất phồn hoa muôn thuở ấy,

Với hồ nay cũng đượm màu thu!

Ông mở trường dạy học ngay bên hồ, giữa nơi kinh đô cũ, có đường đi lại tứ chiếng rất thuận tiện, nên khắp nơi mộ tài mến đức, sỹ tử kéo nhau về theo học rất đông. Đường học thức uyên thâm được khắp trong triều ngoài nội, không ai là không biết đến, còn tính tình đức độ thật là mô phạm một thời, ít có người sánh kịp. Tính ông điềm đạm, bình tĩnh, dũng cảm, quyết đoán không kiêng nể quyền quý. Đã đến học cửa ông thì sang hèn cũng như nhau, cứ ai học giỏi, có đạo đức tốt là được khen ngợi, ai có lỗi về xử thế, về hành vi là đều bị khiển trách nghiêm phạt. Ông rất nhân từ, yêu kính mọi người và luôn luôn chú ý cứu giúp mọi người cơ nhỡ bần cùng. Tất cả dân chúng trong vùng đều tôn ông như là một ông thầy kính mến của chính mình. Nay ông đã mất, môn sinh đã làm lễ cải táng, xây mộ, lại xây từ đường thờ ông và đặt ba mẫu ruộng tự điền làm lễ tế giỗ hằng năm. Hôm nay, từ đường đã làm xong, môn sinh các nơi theo giấy đạt của trưởng tràng, đã lục tục kéo về họp mừng lễ khánh thành và để tưởng niệm đến thầy đã mất. Phần đông đều đã thành đạt. Về họp hôm nay, có quan Hiệp biện đại học sỹ Lại bộ thượng thư Hoàng giáp Vân Lộc Nguyễn Tư Giản, người bên Du Lâm, Từ Sơn, Bắc Ninh, đang lĩnh chức Hà đê chánh sứ ở Bắc kỳ, quan Hình bộ biện lý Phó bảng Phạm Hy Lượng, người làng Nam Ngư, hiện sung Phó sứ sang Tàu vừa về qua đây, quan Thám hoa Hoàng Xuân Hợp, người làng Dũng Thọ, quan Án sát Phó bảng Dương Danh Lập, người làng Khắc Niệm bên Bắc Ninh… Tất cả mọi người dù danh vọng đến đâu, đều đi bộ đến nơi từ đường và răm rắp tuân theo mệnh lệnh của vị trưởng môn mà thầy đã cử ra từ lúc sinh thời: Đó là quan Tư nghiệp 3 Quốc Tử Giám Lê Đình Duyên. Ông là người thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thân năm Tự Đức nguyên niên, năm sau đỗ Hoàng giáp mới hai mươi sáu tuổi. Ra làm quan chỉ quanh quẩn thích ở giáo chức, năm Tự Đức mười ba, được cử làm Đốc học tỉnh Nghệ An rồi ra lĩnh chức Đốc học tỉnh Hà Nội này ngót chục năm, đến năm Tự Đức hai mươi ba được triệu vào kinh lĩnh chức Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, ông cáo bệnh không đi, xin ở lại Hà Nội, cuối cùng xin nghỉ về làng. Rồi vốn tâm mộ thầy, để được sống gần thầy hơn, ông ra mở trường dạy học ở gần cửa ô Yên Hậu, trong phố Hàng Đậu, sau lại làm thêm mấy gian nhà lá bên cạnh Hồ Gươm, cùng thưởng thức cái thú gió hoa trăng nước với thầy.

Ông cáo quan về, ở gần thầy được mấy năm (thực ra trước đây, ông cũng vẫn ở gần thầy, vì ông làm Đốc học tỉnh Hà Nội. Học chính đường ở ngay thôn Minh Giám, tổng Yên Hòa, về phía đông nam Văn Miếu 4 . Thầy mất, ông chịu tang như con đẻ và liệu lý cả việc ma chay. Ba năm xong tang, cải táng cho thầy rồi, tất cả môn sinh lại ủy ông đứng ra trông coi việc xây mộ, dựng bia, đặt ruộng tự điền tế giỗ thầy và làm nhà từ đường thờ thầy. Bổ và thu tiền đồng môn các nơi về, ông cùng với mấy môn sinh tại gia đi mua vật liệu, rồi đứng ra hưng công làm từ đường, hơn bốn tháng đã xong. Ông đã thông đạt cho tất cả môn sinh các nơi về dự lễ khánh thành hôm nay. Các bạn đồng môn về hầu gần khắp mặt. Trước khi vào dự một cuộc tế lớn, ông vui vẻ dẫn các bạn đi xem một lượt quang cảnh từ đường. Làm kiểu chữ nhị vít tường vây vuông thành kiểu chữ quốc, từ đường trông mãi ra phía hồ, hai bên cột trụ có khắc hai đôi câu đối. Đôi ở bên ngoài bảy chữ:

Sông Nhị, sóng ôm, ơn thấm khắp,

Hồ Gươm ánh rực, đức truyền xa.

Câu ở bên trong dài hơn:

Nhà mới, nền xưa, qua cửa vẳng vang lời dạy bảo,

Đạo cao, lễ trọng, lên thềm phảng phất vẻ dung nghi.

Ở gian giữa nhà tế đường treo bức hoành sơn son viền chỉ triện vàng với bốn chữ lớn thếp vàng rực rỡ: “Trông hồ nhớ nghĩa”. Bên trong là ba gian chính tẩm, ngoài là nhà đại tế năm gian đều bằng gỗ lim bào nhẵn bóng, không chạm trổ hoa lá. Ai nấy đều bằng lòng cái cảnh trí giản dị và tôn nghiêm và đều khen vị anh cả trưởng tràng khéo xếp đặt, giúp đỡ các thế huynh, con thầy, tu bổ nơi nhà cũ này, từ nhà cửa, gỗ ngói cho đến câu đối, văn bia đều tự tay ông xếp đặt cả, mà rất trang nhã, hợp cảnh và ý nhị. Ông trưởng tràng chỉ vào những cột gỗ lim mới đỏ hồng, cười bảo các bạn:

- Những cột kia còn đợi câu đối của chư huynh đấy.

Rồi cuộc đại tế bắt đầu vào lúc cuối giờ Thìn, kéo dài mãi sang quá giờ Tỵ. Trên bàn thờ, ở chính giữa, lễ tam sinh đã được dâng lên. Cậu ấm cả, người duy nhất đại diện gia đình nhà thầy trong cuộc đại lễ này, thân đi thắp tuần hương thứ nhất, tiếp đó các môn sinh mở đầu cuộc tế lớn. Ông trưởng tràng làm chủ tế. Hai ông Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản và Thám hoa Hoàng Xuân Hợp đứng bồi tế. Cuộc tế nghiêm trang, chuông trống nhịp nhàng. Mọi công việc nhớn nhỏ đều do môn sinh làm cả. Ba tuần rượu sơ, á, chung hiến lần lượt dâng xong, từ văn tế chúc đã được đem đốt trên bàn tay một viên tế tung lên tàn bay là là lơ lửng. Tế xong, lễ vật được hạ xuống. Mọi người nghỉ ngơi trò chuyện một lát nữa. Một số môn sinh sở tại cùng với gia nhân nhà thầy và lính hầu của các quan về dự, sửa soạn các mâm cỗ. Người ta bưng những mâm cỗ lên bày thẳng hàng ở giữa mỗi chiếc chiếu giải liền nhau khắp năm gian nhà. Theo lời mời của trưởng tràng, các môn sinh lần lượt ngồi xuống chiếu, cứ bốn người một mâm, theo thứ tự từng khoa, ai học lớp trước ngồi trước. Phải ngồi ra cả ngoài hàng hiên và xuống cả nhà dưới mới hết. Các vị khác không phải là môn sinh, các cụ già trong thôn xóm được mời đến cùng với ông ấm cả ngồi riêng trong nhà chính tẩm, có mấy ông trưởng tràng và quan to như Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản, thám hoa Hoàng Xuân Hợp, Phó bảng Phạm Hy Lượng hầu tiếp. Khách ăn đến gần hai trăm người mà rất yên ổn, trật tự, vì đây là một cuộc họp ở nhà thầy, lại có đông những người đã ra làm quan thờ vua trị nước, yên dân. Ăn uống xong, khách ra về, tất cả môn sinh lại tụ tập ở nhà đại tế. Ông trưởng tràng tổng kê lại với anh em mọi món tiền thu, chi và nói luôn đến dự định tu bổ thêm từ đường và định lễ tết hằng năm. Ai nấy đều vui vẻ y theo dự kiến của trưởng tràng. Cuối cùng, trong không khí trang nghiêm kính cẩn, bằng một giọng tha thiết và đanh thép, ông trưởng tràng nói rành rọt như đấm mạnh thêm cho mỗi tiếng:

- Nhân hôm nay, có đông đủ các hiền hữu, lại cùng chung hợp trước hương hồn đấng tôn sư lúc nào cũng căn dặn chúng ta phải nuôi mạnh sỹ khí, làm sáng tỏ đạo thánh, tôi muốn bàn với các hiền hữu, chúng ta để một chút thì giờ xét qua về các đoàn thuyền Tây dương Phú Lãng Sa nó đang đậu ở bờ sông Cái kia. Tuy là việc phụ, nhưng vì có quan hệ đến việc lớn nước nhà, nhất là từ mấy tháng nay, xem ra nó coi thường cả phép nước, khinh nhờn các quan, hà hiếp dân chúng, làm nhục đến cả nước. Thế tất sỹ lâm 5 ta phải tỏ ý chí và hành vi thế nào đối với bọn ấy. Cho nên, tôi thiết tưởng cũng là việc chính cần bàn ngay…

Phó bảng làng Nam Ngư Phạm Hy Lượng nói ngay:

- Ngu đệ trộm nghĩ: có tốt đất, cò mới đậu. Đã có hòa ước thông thương, thì họ đến buôn bán với mình, cứ để cho họ đến, việc gì cản trở họ cho thêm sinh rắc rối. Cũng chỉ vì ngăn không cho họ vào buôn, mà thành ra mất sáu tỉnh Đường trong đấy…

Ông mền 6 Kim Liên Trần Quang Luyện ngắt luôn:

- Thế anh bảng Nam Ngư làm quan giữ về hình án, thấy có thể muốn vào ở nhờ nhà người ta, người ta chưa cho, cứ đánh giết bừa người ta đi rồi chiếm lấy cơ nghiệp. Như thế anh xét xử cho kẻ ấy được kiện à?

Ông trưởng tràng vội gạt đi:

- Chúng ta không nên vặn lý nhau ở đây. Ta chỉ bàn cách đối xử thế nào cho phải lẽ.

Phó bảng làng Ném, Dương Danh Lập, cũng nói:

- Đã ký hòa ước với họ thì phải giữ hòa hảo, quân tử chỉ ư tín, gây ra xích mích hiểu lầm nhau là do có kẻ xúi bẩy bên trong, ta nên trừng trị kẻ nào xúi bẩy, vạch mưu...

Cử nhân Nam Phố, phố Hàng Bè, Lương Huy Ý, đang làm Án sát tỉnh Ninh Bình cũng nói:

- Tôi xét ra sức dân ta yếu, ta không nên bới chuyện sinh sự, cứ nên tuân mệnh triều đình, vì hai nước đã hòa hảo, sứ họ đã đến dâng quốc thư và bệ kiến đức vua ta. Nếu ta cứ gây sự, càng thêm khó khăn cho triều đình, mà họ lại càng có cớ…

Ông Đốc trưởng tràng ôn tồn nói:

- Các hiền hữu phần đông đi trọng nhậm nơi xa, không rõ tình hình phố phường mấy tháng nay. Anh Kim Cổ hãy thuật lại những việc để các hiền hữu rõ hơn, ta bàn mới sát lý sự.

Ông Cử phường Kim Cổ Ngô Văn Dạng nói:

- Xin phép chư tôn huynh, đệ ro ró ở nhà, chỉ nghe lỏm, nhớ không được rành mạch, xin để anh Hai Phúc kể lại rõ hơn, vì anh Hai chịu lặn lội, len lỏi đi hỏi han nhiều, chỗ nào có việc gì lạ là đến ngay.

Bác Hai Phúc ngồi im ngập ngừng chưa dám nói. Ông Đốc hỏi ý kiến anh em. Mọi người đều muốn biết rõ đầu đuôi, đồng thanh giục. Bác Hai mới lên tiếng:

- Bẩm các quan anh, hồi cuối tháng mười một năm ngoái, có giấy mật sức cho dân phải đề phòng đoàn thuyền Tây đến Hà Nội cấm không được xôn xao và thông đồng đi lại giao thiệp với Tây. Thì hai hôm sau, đoàn thuyền nó đến thật, có ba tàu máy, hai thuyền buồm, chở khoảng chừng trăm rưởi người đủ cả Tây, ta và Khách, Tây ngăm ngăm đen. Ngày hôm sau tên trưởng đoàn Đồ Phổ̉ Nghĩa 7 với cả đoàn Tây, Tàu lên dự tiệc nó thết hàng bang và Khách buôn lớn ở nhà hội quán phố Hàng Buồm. Hôm sau nữa, nó thân dẫn một tàu máy đi lên Sơn Tây, đến sáng ra, mặt giời độ ba bốn con sào, nó lại ì ì trở về đây. Nó không vào trình quan, mà chỉ nhờ hàng bang chuyển giấy hẹn gặp quan tỉnh ta thôi. Sang đầu tháng chạp, nó với một quan phủ người Tàu gặp quan Bố và quan Đề ở hội quán Hàng Buồm. Nó bảo nó sẽ đem các thứ hàng gạo, muối, súng, đạn lên bán ở Vân Nam. Các quan ta bảo cho nó biết rằng trong điều ước không thấy định rõ việc buôn bán ở Hà Nội, và việc tải khí giới qua nội địa là một điều cấm. Nó nói nó cứ đi, vì đã có điều hòa ước và có giấy của quan Tổng đốc Vân Nam là đủ, vì đây là thuộc quốc của nhà Thanh. Bên nó có thông ngôn người Sài Gòn và bọn Khách. Bên ta không có người nói được tiếng Tây, nên ngôn ngữ bất đồng, nói không hết ý, phải cho đi đòi cố đạo Phước ở Kẻ Sở lên, thì ba bốn hôm sau mới đến được. Quan ta cấm không ai được chở hàng cho bọn nó và bắt dân chài phải giấu hết thuyền đi. Nhưng bọn Khách buôn vẫn tìm được thuyền cho nó, nên cuối tháng chạp, tên Đồ Phổ Nghĩa đem hai tàu máy nhỏ đi Việt Trì, cùng với một đoàn thuyền ván ngược lên Vân Nam. Còn tên phó hình như tên là Mi Lộ vẫn ở lại đây. Nghe nói đến Việt Trì chúng nó có lên bộ mua gạo củi hiếp của dân phố, đánh lính canh và hành hung những ai không chịu bán hàng cho chúng. Đến cuối tháng ba vừa rồi, thì nó về đến đây. Nó đi lọt được và về đến nơi không việc gì cả, nên nó càng lên nước làm già. Nó đem quân lên đóng ngay ở hội quán Hàng Buồm và cho làm kho chứa hàng ở ngay ngoài bờ sông cạnh cửa ô Quan Chưởng. Mới hôm đầu tháng, bọn nó đã mua cướp, đánh người ở chợ Hàng Bè. Và hôm kia đây, nó lại bắt một người ở phố Hàng Buồm đem giam ở dưới thuyền chưa thấy thả. Nó còn bắn tin rằng nếu không cho người nó tự do đi lại buôn bán, nó sẽ nhờ quan Tàu sang bắt ta phải theo ý nó… Thưa các quan anh, sự thể ở phố xá đang xôn xao bàn tán như thế.

Câu chuyện kể dài dòng nhưng rành rọt, vì bác Hai đã căm tức, nhớ rõ quá, nêu bật hẳn sự lấn át quá đáng của bọn Tây dương làm cho mọi người cùng im lặng, lắng xuống trong một mối tức giận chung. Không khí trở nên nghiêm trang, nặng trĩu, buộc mọi người phải suy nghĩ. Các cậu ấm con thầy, và cậu tú San, cháu đích tôn thầy, lúc này thấy bàn đến thời thế cũng ngồi họp với đồng môn. Cậu ấm Ba, người trước đây đã từng sốt sắng đi báo khắp văn hội bàn cách chống Tây dương, tiện dịp liền đứng lên tiếp lời với vẻ quyết liệt hơn:

- Có va chạm chúng nó hằng ngày ở ngoài phố mới thấy chướng tai gai mắt. Hòa vi quý. Nhưng hòa với Phật chứ không thể hòa với ma. Tín vi tiên. Nhưng tín với người lịch thiệp, chứ không thể tín với kẻ cướp của, giết người. Đối với bọn giặc ấy, chỉ có cách xin với các quan trên tâu lên với triều đình cho phép dân cư đánh cho một trận, chúng nó mới biết sợ…

Ông ấm Cả vội ngắt giữa câu:

- Chú không được hỗn, nói leo, im nghe các quan bàn! Chú thì biết cái gì!

Ông Đốc làng Mọc đỡ lời:

- Được, cậu Ba cứ nói. Ai có mưu kế gì cứ đưa ra. Hợp chúng trí 8 mới nên việc lớn chứ.

Và thấy mọi người vẫn ngồi im, ông phải lên tiếng hỏi to:

- Các hiền hữu nghĩ thế nào?

Có tiếng nói:

- Thưa các tôn huynh, bọn Tây dương sở dĩ lấn át làm càn được, chính là vì có tay chân nội ứng.

Ông Đốc nhìn theo và hỏi:

- Quan Tuần Định Công định ám chỉ bọn nào? Xin nói rõ.

Người vừa nói là Trịnh Đình Thái, người xã Định Công, đỗ Nhị giáp Tiến sỹ, làm Tuần phủ Lạng Bình, vì tiễu phỉ bất lực phải điều về Hà Nội coi việc chuyển vận lương thực. Thấy hỏi đến, ông nói thêm:

- Tôi nói bọn Khách và bọn đi đạo lấy gạo…

Phạm Hy Lượng và Dương Danh Lập cũng nói theo:

- Chúng tôi cũng nghĩ như thế.

- Ta nên tìm cách bắt hết vây cánh, tai mắt của bọn nó đi đã. Ta cứ theo luật cấm bắt hết bọn Khách buôn và dân giáo…

Ông mền Kim Liên nói:

- Việc đó làm trước kia thì được, khi bọn Tây chưa vào đây còn được. Bây giờ nó đã ở lẫn với mình rồi, làm nghiệt quá, tôi e rằng bất lợi, có khác nào vạch áo cho người xem lưng và lại đẩy dân của mình đi theo giặc.

Phạm Hy Lượng cãi:

- Sao lại bất lợi? Có tội cứ chiểu luật mà trừng trị, có thế mới ngăn ngừa được bọn côn đồ chủ tâm đi theo người ngoài.

Ông Cử phường Kim Cổ tiếp:

- Quan tỉnh đã có bắt giữ bọn Quan Tá Đường, Tống Tài, Tuân Thành, Lê Đạt Ký… rồi đấy và cũng đã cảnh giới một số hiệu Khách buôn Hàng Buồm. Nhưng bọn con buôn hám lợi, ta bắt bọn này, thì sẽ lại có bọn khác ra. Cho nên trị bệnh phải trị tận gốc, phải làm sao triệt hẳn bọn Tây dương thì mới yên. Đệ thiển nghĩ cần phải bàn nhau giữ gìn, dạy dỗ từ mọi người dân thường trở lên đều biết rõ mưu mô của giặc để mà chống, và nếu cần thì phải cho dùng đến vũ lực…

Tuần phủ Trịnh Đình Thái nói:

- Các ông không ở trong chính giới 9 , các ông không biết. Triều đình đang bận về dẹp phỉ ở mạn ngược, binh tài dồn cả vào đấy chưa xong. Tây thì khí giới mạnh, lại mạo hiểm đi xa, hung hăng liều mạng quen đánh trận. Gây sự với họ chưa chắc đã thắng. Vả đã ký kết với họ, họ có cớ vào đây, thiết tưởng lấy lời mà nói cho họ nghe ra lẽ phải thì hơn. Còn bên trong ta cứ trị những đứa làm trái pháp luật của ta, không nói vào đâu được. Thế là nhất cử lưỡng tiện, một mặt ta trừ được tay chân địch, một mặt họ được lợi cũng sẽ không muốn sinh chuyện ra làm gì nữa. Mà làm việc này thiết tưởng để dân phường phố ở đây làm thì đắc lực hơn, như các thế huynh, anh Hai Phúc, anh mền Kim Liên, anh cử Kim Cổ… nghe ngóng biết rõ kẻ nào thì thụt và…

Ông cử Kim Cổ hỏi:

- Thế bọn Tây nó cứ không theo pháp luật thì sao? Không trị tội à?

Bác Hai Phúc nói theo:

- Gây sự đánh phá bọn Khách buôn thì không khó. Tết Trung Thu năm nọ, mượn cớ múa sư tử, chúng tôi đã phá chúng nó một mẻ, nhưng xét ra chỉ gây thêm thù oán, chứ không được lợi gì. Nghĩ cho kỹ, đúng như bác cử Tam Sơn hồi cuối năm ngoái sang đây bảo với chúng tôi rằng: bọn Tây, bọn Khách giàu sụ đều mong muốn ta gây sự đánh nhau với Khách, với người đi đạo. Nên ở đây chúng tôi đã loan báo cho nhau phải hết sức tránh mọi sự xô xát, đừng để chúng nó lợi dụng mối bất hòa ấy mà ly gián xúi bẩy được.

Nguyễn Tư Giản cười hỏi:

- Các bạn lại cả nghe ông anh cuồng của chúng ta rồi chứ gì? Ông anh ta tâm điền tốt, nhưng lông bông, không thiết sự tình, nghe ông ấy, nhiều khi không trúng việc.

Ông Đốc nói tiếp có vẻ bênh ông bạn già:

- Không, ít ra lần này bác cử Ngô Tam Sơn nói đúng. Bọn Tây chủ tâm lấn át ta, cốt sao chiếm hẳn được đất Bắc này như sáu tỉnh trong Nam mới thôi. Nên bất cứ cuộc hằn thù nào trong dân ta, trong những người cùng sống với nhau ở đây, đều có lợi cho bọn chúng. Bởi vậy, nếu ta không khéo, cứ đi trừng trị bọn Khách, bọn đạo thì vô tình lại đáp đúng lòng mong mỏi của bọn Tây. Ta phải cố hết sức tránh gây ra hiểu nhầm hiềm thù nhau. Vả hiện nay, nó đã ở lẫn ngay với ta, hằng ngày gây chuyện hành hung dân ta. Nếu giận cá băm thớt, chỉ làm lợi cho nó thôi. Nên chúng ta cần bàn ngay cách đối phó thẳng với bọn nó.

Ông cử Kim Cổ nói thêm:

- Các vị cứ bảo bác cử Tam Sơn là bác ấy không thiết thực. Chứ bác ấy thấy rõ hơn chúng ta, bác ấy sống rau cháo như dân chúng, bác ấy lăn lộn như dân chúng, bác ấy vui buồn như mọi người dân thường. Ý nghĩ của bác ấy đúng như mọi người dân phường phố ở đây đang tức tối. Có chúng ta ở xa cách…

Cuộc bàn bạc chưa ngã ngũ ra sao, ý kiến còn đương giằng co miên man. Bỗng ở ngoài ngõ có tiếng ồn ào, rồi một người chạy vụt vào, hớt hải nói lắp bắp:

- Bẩm các quan lớn, Tây nó bắn chết người ở cửa Nam!

Ông Đốc bước vội ra hỏi giật:

- Sao? Nó bắn chết người à?

Ông cử Kim Cổ thở dài, nói:

- Đấy nhé, các bác coi, nó cố tình gây chuyện.

Ông mền Kim Liên cáu tiết chửi:

- Cha tiên sư đồ phủ nghĩa 10 , đồ bất nhân, bất nghĩa! Quân ăn cướp, giết người!

Vừa lúc ấy một người nữa chạy vào:

- Nó bắn chết thầy lý Kim Liên, rồi nó bỏ chạy cả. Dân đành phải khiêng thầy Lý vào huyện.

Không còn ai ngồi im được nữa. Mọi người đổ xô cả ra đường. Ông mền Kim Liên chạy xông lên trước và gầm to:

- Nhất định bắt nó đền mạng!

Đến đầu khu Chùa Tháp, tiếng ồn ào như vỡ chợ đã vọng lại. Ngoài đường, các ngả, lác đác người chạy tới, tiến về phía cửa huyện. Mọi người đều rảo cẳng. Dân hàng phố, dân các xã Kim Liên, xã Minh Giám, xã Bích Lưu, xã Nam Ngư, phường Tiên Thị và các nơi, kẻ gậy người giáo, đang bừng bừng nộ khí vây kín cửa huyện. Có người hét lớn:

- Quân lính triều đình đâu? Hàng ngàn, hàng vạn người thế này mà chịu để cho một dúm chó khô mèo lạc ở đâu đến, nó hoành hành giết người giữa thanh thiên bạch nhật thế này à?

Có những tiếng khác thét to hơn:

- Bọn làm việc quan quách ăn hại đái nát à?

- Kéo ra bãi phá tan tàu thuyền chúng nó ra chứ!

Thấy dân chúng bồng bột quá, Nguyễn Tư Giản cuống cuồng sợ xảy ra to chuyện gây thêm khó khăn cho triều đình, vội đẩy quan Đốc học Lê Đình Duyên lên và giục:

- Bác bảo họ hãy khoan khoan đã, để quan trên còn xét chứ!

Ông Đốc cũng sợ dân đang tức liều lĩnh làm càn, vội kêu:

- Khoan đã! Khoan đã!

Ông ngồi Đốc học tỉnh này lâu năm, lại giản dị gần dân, được mọi người biết mặt, rõ tên và mến phục, nên khi mấy ông bạn vừa đỡ ông lên đứng công kênh trên vai hai người lính hầu ôm đỡ, thì ai nấy đều xôn xao:

- À quan Đốc học!

- À quan Đốc Mọc!

Ông giơ tay xua vẫy! Mọi người im dần. Ông nói tiếp:

- Bà con hãy khoan! Đợi các quan xét cho ra lẽ đã. Chúng ta nhất định phải đòi nó phải đền mạng gấp đôi, gấp ba.

Nhân dân nghe theo, bình tĩnh lại, im lặng chờ đợi. Đoàn môn sinh lách vượt lên, vào được đến cổng. Cổng đóng, cửa cài kỹ. Một toán lính đứng canh cả trên chòi và dưới đất sát hàng rào chông chà, lăm lăm khí giới trong tay. Bọn lính thấy dân ở ngoài đã im, và nhận ra quan Đốc Mọc, thấy ông đến nơi, vội đánh ba tiếng trống báo ở trên chòi và hé mở cổng để quan Đốc và một số quan lớn nữa cùng vào, rồi lại đóng sập ngay cửa lại. Các môn sinh khác phải đứng ở bên ngoài lẫn với dân chúng. Ông huyện Thọ Xương nghe trống báo vội vã ra đón, vái chào và thân dẫn ngay mọi người đi thẳng vào trại lệ, vừa đi vừa nói chuyện qua loa về tình hình. Xác Lý trưởng xã Kim Liên để trên một chiếc chiếu giải ở sàn đất bên chái đông trại lệ, mặt phủ một tờ giấy trắng, mình đắp một áo dài the. Có ba người phu tuần và một con giai nạn nhân ngồi túc trực. Ông huyện Thọ nâng tờ giấy bản lên và lật cả áo ra, chỉ những vết đạn cho đoàn người mới đến xem và gọi viên lại mục đem tờ biên bản vừa mới làm xong trình quan khách. Nạn nhân bị ba vết tử thương, một vết sượt qua trán làm mất một mảng đầu, một vết trúng bả vai và một vết xuyên qua bụng. Ông Đốc hỏi tình hình lúc bị nạn. Một người tuần khai:

- Bẩm các quan lớn, thầy Lý dẫn năm tuần phu chúng con đi trên đường cái quan Thiên Lý lên cửa Nam có việc quan, đang đi thấy có ba tên Tây đang nhổ cướp rau ở vườn làng Nam Ngư gần đường cái. Thầy Lý chúng con đến bắt chúng phải trả lại. Ba tên Tây hung hăng gây sự, một đứa đứng sau nổ súng bắn đỡ cho hai đứa mang rau chạy trước. Nó ngắm thẳng bắn bừa luôn mấy phát, thấy thầy Lý ngã khuỵu xuống rồi, nó vội vác súng chạy tháo lui về phía cửa Đông… Chúng con chỉ có gậy nên không dám đuổi…

Ông Đốc quay lại nói với ông Biện lý bộ Hình Phạm Hy Lượng:

- Đấy, rõ ràng là nó mưu đồ ý khác, chứ không phải chỉ đến thông thương!

Ông huyện nói thêm với các vị khách:

- Bẩm các cụ lớn, hạ chức đã cho phi trình lên cụ Thượng để ngài xét định… Bẩm có lẽ phải tạm giữ tử thi tại đây hôm nay, đưa ra bây giờ dân chúng họ làm náo động lên mất!

Ông Thượng thư Nguyễn Tư Giản cũng nói:

- Có tư đòi nó đến hỏi cho ra lẽ thì cũng phải đến mai. Để dân chúng đợi mãi thế này vô ích, bất lợi, mất công mất việc. Ta phải làm thế nào cho dân họ về nhà đi, để các quan còn khám nghiệm. Xong đâu đấy, mai bà con lại đi đưa đám, tiện hơn…

Ngập ngừng một lát, ông nói thêm:

- Quan huyện có nói được không? Hay ta lại nhờ bác Đốc.

Ông Đốc không muốn nhận:

- Thôi, thôi!... Đó là phận sự của các quan tại chức. Tôi đây lão giả an chi39]…

Ông huyện cũng nằn nì:

- Bẩm, cụ lớn nói dân dễ nghe theo. Vả lại, thưa cụ lớn, dân đang nóng nẩy, dễ khích nộ, để tụ tập đông và đứng lâu lúc này rất bất tiện, họ dễ nghe xúc xiểm, có thể xảy ra những việc không hay làm khó khăn cho các quan tỉnh. Chỉ đã rối, nên gỡ ra không nên để rối thêm…

Ở ngoài, dân đợi lâu chưa thấy tin tức gì, lại ồn ào chen lấn cả vào hàng rào. Ông huyện thấy mình không thể nào đứng ra nói mà trấn tĩnh ngay được lòng dân, vội khẩn khoản nói thêm với ông Đốc như có vẻ chì chiết:

- Bẩm cụ lớn, hạ chức ra nói bây giờ dân họ không nghe đâu. Cụ lớn có lên tiếng giúp cho, mà dân họ biết nghe theo thì vừa lợi cho họ, vừa được việc cho triều đình. Bằng không, cùng lắm, hạ chức đến phải ra lệnh cho quân lính đem khí giới ra xua đuổi.

Các ông Nguyễn Tư Giản, Phạm Hy Lượng, Lương Huy Ý cũng mỗi người một lời nói thêm vào. Cuối cùng, ông Đốc đành phải leo lên chòi nói dõng dạc với nhân dân:

- Hỡi bà con trong làng ngoài phố. Giời chiều gần tối rồi, mà việc các quan xét chưa xong, bên tỉnh còn cho trát đi bắt hung thủ để đối chất. Sự thể thế nào có thể đến mai mới rõ. Vậy bà con ta hãy tạm về nhà làm việc. Đứng đây bây giờ cũng vô vị. Sáng mai, chúng ta lại tụ tập chỉnh tề ở đây xem bọn nó đối xử ra sao, và đi đưa đám người quá cố một thể, gọi là nghĩa tử nghĩa tận…

Lời nói ôn tồn của một người khoa giáp mô phạm, thanh bạch, luôn luôn gần gũi dân, được mọi người nghe bàn tán ồn ào, trong khi họ vẫn lắng nghe ông nói tiếp:

- … Tôi cũng là một người dân căm tức như bà con. Nhưng việc quan có tình còn phải có lý, không thể vội được. Vậy bà con nên nghe tôi, hãy về nhà đã, đỡ chầu chực mất công, mất việc.

Mọi người ngẫm nghĩ đều cho là phải, nhộn nhịp ào ào kéo nhau tản ra các ngả đường, giải tán. Các “quan môn sinh” cũng lần lượt về nhà từ đường tiếp tục cuộc họp bàn lúc nãy. Tình thế nguy bách quá, rõ ràng quá, không có ai còn thể ôn hòa được nữa, đến ngay như các ông Phạm Hy Lượng, Dương Danh Lập lúc trước chỉ muốn dĩ hòa vi quý, để cho Tây vào buôn bán càng có lợi cho dân, thì bây giờ cũng phải hung hăng nói chỉ còn nhất định có đánh mà thôi, đánh triệt từ thằng thầy cho đến cả tụi lau nhau tôi tớ. Đó là điều quyết định cuối cùng và nhất trí. Khi bàn đến việc đem thi hành, các quan tại chức đều vội bận ra về để mẫn cán đi đảm đang phận sự của mình ở nơi trọng nhậm, nên đều đồng thanh giao cho trưởng tràng và các bạn đồng môn tại gia đôn đốc, vận động anh em đem hết tài ba, tâm lực cùng với bà con trăm họ tìm mọi cách trừng trị bằng được những kẻ phạm luật pháp của triều đình, bất kể là ta, Tây, Khách. Và đồng môn còn phải theo dõi trừng phạt những kẻ nào ngả nghiêng vụ lợi trong hàng ngũ tư văn. Tất cả anh em ra về trong cái ý chí sắt đá ấy. Ngôi từ đường mới, ngói mới đỏ, tường vôi trắng lại trở lại cảnh trang nghiêm tĩnh mịch bên bờ Hồ Gươm cây xanh, nước biếc. Và trong ngôi từ đường yên tĩnh ấy, đêm hôm nay cậu ấm Ba, người thanh niên đang bồng bột nghĩa khái, lần đầu tiên được say mê trong giấc ngủ ngon lành, mơ màng văng vẳng tiếng nói dõng dạc của quan Đốc, say sưa như đã thấy rõ sức mạnh của đồng môn, của văn hội.

° ° °

Vào khoảng giờ Tuất tối hôm ấy, ông Tri huyện Thọ Xương, cho lính ra gọi Bá hộ Nguyễn Ngọc Kim, Chánh tổng tổng Đông Thọ, kiêm chức Trợ biện huyện vụ, Bá Kim vào đến nơi, ông huyện hỏi ngay:

- Binh tình ở ngoài thế nào?

Bá Kim đáp:

- Bẩm quan lớn, canh phòng cẩn mật, các ngả vẫn yên tĩnh cả.

- Dân có bàn tán gì không?

- Bẩm mọi người đều căm tức, dân chỉ muốn báo thù…

Ông huyện hạ thấp giọng:

- Ấy khó khăn là ở đấy. Trong tỉnh báo phải mai táng đi, đừng để dân sự lôi thôi làm khó khăn thêm. Triều đình đang bắt Súy phủ nó ở Sài Gòn ra đền đáp bồi thường mọi thứ đấy và đòi bọn Đồ Phổ Nghĩa về. Mình làm mạnh quá, sợ già néo đứt dây. Nên trong tỉnh ra lệnh phải chôn cất ngay đêm nay. Mà nha mình đây phải cáng đáng mọi công việc…

Thấy viên Trợ biện còn ngồi im lặng ra vẻ nghĩ ngợi, ông nói tiếp quả quyết hơn:

- Vợ Lý trưởng hiện ở đây rồi. Tôi đã bảo chị ta nghe ra, người đã chết, cứ để phơi bày ra thêm tội! Chỉ còn Chánh tổng và lão mền Kim Liên, tôi định cứ cho gọi lên đây, bảo không nghe, thì giữ lại đây cho khỏi lộ, mà họ nghe theo thì càng tốt…

Bá Kim vẫn ngồi im, ông huyện vội ngừng lại, hỏi:

- Thầy nghĩ gì? Hay thầy cũng ngả về phía dân ngu, muốn hung hăng làm liều? Tôi thấy thầy trước nay vốn đạt lý, được việc, nên mới bàn với thầy. Việc cấp bách lắm rồi…

Bá Kim nói ngay:

- Bẩm quan lớn, lòng dân đang sôi lên sùng sục. Ăn cùng dân, ở cùng dân, làm trái họ, rồi mang tiếng để đời. Vả thưa quan lớn, tôi sợ nhất đám đồng môn quan nghè Tự Tháp. Họ vừa mới bàn định với nhau lúc chiều xong. Mà lại có quan Đốc Mọc đứng đầu.

Ông huyện cười lớn:

- Việc quan có bao giờ thẳng như ruột ngựa đâu. Điều đó, thầy mà lại còn không biết à? Đây là lệnh của quan trên, tất họ không thể chống lại quan trên được. Quan Đốc Mọc lại càng không thể làm trái lệnh triều đình…

Ngừng lại nhìn thẳng vào mặt kẻ đối thoại, ông vui mừng như reo lên, đưa ra được bằng chứng để thuyết phục:

- À này! Vả lại ngay trong bọn họ, họ cũng có sợ nhau đâu. Chính lão Cử nhân Minh Hương ở phố Phúc Kiến vừa mới vào đây chơi, đưa cái thiếp của Huỳnh Lục Ký Hàng Ngang đây này. Ý nó định xin vào hầu bàn thêm về việc này đấy.

Bá Kim cầm lấy tờ thiếp ở tay ông huyện đưa cho ngắm nghía hai dòng chữ:

Khách ở phương xa chưa đành tam cố,

Người cùng nhà những muốn tứ tri.

Lão không hiểu nghĩa, nhưng cũng đoán biết là họ vẫn đi lại giao thiệp với nhau qua những người môi giới. Tự nhiên lão đâm ra suy nghĩ:

- Họ nghiệt người dễ ta thế đấy, lão tự nhủ thầm. Dân có biết đấy vào đâu. Mình cứ nhắm mắt theo họ là dại! Vậy thì tội gì mình lại cứ trung thành theo đúng điều cấm của triều đình. À đã thế thì được. Mình cũng sẽ xoay giở cho họ trắng mắt ra mà xem.

Trong khi ấy, ông huyện kể lể:

- Đấy, thầy nghĩ kỹ mà xem, dàn xếp khéo để lợi cho nước hơn, hay là hung hăng làm hỏng việc, đằng nào hơn? Vậy, bây giờ, thầy đi giùm đem trát mời thầy Chánh tổng Kim Liên và mời bác mền Kim Liên lên đây. Mọi việc sẽ phải làm xong ngay đêm nay. Tỉnh sẽ chu cấp cho khổ chủ và chịu mọi tổn phí. Như thế khổ chủ có thiệt phận, nhưng tang quyến cũng có lợi…

Rồi ông hỏi gặng:

- Thế nào? Thầy nhận ra rồi chứ?

Bá Kim đang theo đuổi ý nghĩ riêng, vội đáp:

- Thưa quan lớn, vâng ạ.

Ông huyện khen để khuyến khích:

- Tôi vốn biết thầy thức thời đạt lý, quả cảm, nên cứ hễ giao việc được cho thầy là tôi thấy nhẹ mình, và có lợi cho nhà nước.

Bá Kim đã tìm ra được cách đối xử, liền tỏ ý vui vẻ làm theo lệnh của huyện, đi ngay với một người lính cơ xuống gặp mặt đưa giấy mời hai nhân vật danh vọng nhất của xã Kim Liên lên huyện ngay đêm ấy hầu quan có việc thượng khẩn. Đưa hai ông bạn vào đến trại cơ, để đợi chú lính lên trình quan, lão chào hai ông bạn rồi ra ngay, cắm cổ đi thẳng lên phố Đông Thành.

Rẽ ra phố chợ Đông Thành, lão tìm đến nhà bạn học cũ là Tú tài Nguyễn Tích. Thấy Kim gọi cổng vào giữa lúc đêm khuya, Tích sợ có việc chẳng lành, không dám lên tiếng, lẻn trốn xuống bếp. Nhà đã thắp đèn sáng, cửa mở, Bá Kim cứ xồng xộc bước vào vội vã. Sau khi biết rõ Kim đi tuần, muốn vào đây nghỉ lại để nghe ngóng tình hình dân sự miền cửa Đông này, Tích mới dám thò ra tiếp bạn. Qua loa mấy câu hỏi han mào đầu, Kim hỏi ngay đến nghĩa chữ “tứ tri”. Tú Tích cắt nghĩa rành rọt:

- “Tứ tri” là bốn biết do tích ông Dương Chấn đời Hán. Ông ta rất thanh liêm, nên nghèo lắm. Có người đem vàng đến đút lót, lạy van nói với ông rằng: “Xin ngài cứ nhận cho không có ai biết cả”. Ông ta cười, từ tốn bảo người ấy rằng: “Có giời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, bốn bề cùng biết, sao lại bảo là không ai biết”. Ông từ chối.

Kim vỗ tay reo:

- A ha! Ra nó hẹn sẽ đem tiền đến lễ! Thâm thật, mưu gớm thật!

Tú Tích hơi lạ, hỏi:

- Cái gì thế?

Kim vội nói lảng ra:

- À có gì đâu, mình dốt quá, bắt được tờ giấy của bọn Khách gửi cho sở tuần Thanh Hà, thấy có chữ “tứ tri”, mình chả hiểu gì cả, đem vào trình quan huyện Lão ta giữ ngay lấy, mình hỏi, lão chỉ tủm tỉm cười, không giảng.

Tú Tích cũng thích chí, cười đế vào:

- Quan huyện Đào Trọng Kỳ còn phải bàn!

Nói bâng quơ mấy câu về quan huyện, Bá Kim vội vin vào cớ đêm đã khuya, xin đi ngủ, cốt ý tránh phải nhắc đến vụ án mạng ban ngày. Lão ngủ lại ở đấy. Nằm trằn trọc mãi không ngủ được, nghĩ ngợi lung tung, lão bỗng cười thầm tự nhủ:

- Dù sao thì trong thời buổi nhiễu nhương này, phải biết giữ mình là hơn cả, làm giai cứ nước hai mà nói. Mình sẽ... để rồi xem họ xử sự như thế nào?

Lão khoái chí với một ý định rành rọt như thế, ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Sáng hôm sau, trời vừa sáng, lão bừng tỉnh dậy khoan khoái thanh thản. Lão rửa mặt rồi chào Tú Tích, vội trở ra về ngay. Vừa đi lão vừa vui vẻ lẩm bẩm suy tính những dự định đối phó ngay trong đám tang Lý trưởng Kim Liên này, cốt sao đứng ngoài vòng mà vẫn vơ được cả danh, được cả lợi, không để cho một ai lừa dối, giấu giếm nổi mình.

Vừa về đến gần phố cổng huyện thấy lao xao động tiếng người, lão vội rẽ vào, đã nghe thấy tiếng quát:

- Đã chôn rồi à? Ai chôn?

Người đã đứng đông đặc kín cả phố huyện, Bá Kim cố lách vào đến gần cổng huyện, trong khi nghe tiếng người khác thét to hơn:

- Cụ Mền, cụ Chánh đâu cả?

Người con giai Chánh tổng Kim Liên vội nói lớn:

- Cụ Mền và thầy tôi có trát quan đòi lên huyện tự tối hôm qua, cùng đi với cụ Trợ tổng Đông, chưa thấy về.

Bá Kim thấy cơ hội tốt hợp với ý mình, lại nhân có người nhắc đến, liền ra mặt lên tiếng:

- Phải, phải, hai cụ tối qua có đi với tôi lên huyện. Nhưng không phải đi chôn thầy Lý đâu. Ai chôn? Chính tôi đây giữ việc tuần phòng cũng chưa biết. Nếu đi lên chôn thì đã về rồi. Có lẽ các cụ bị giữ lại chăng?

Mọi người nhao nhao lên:

- Thế thì ai chôn? Ta phải kéo vào huyện hỏi cho ra lẽ.

Trong huyện, viên lại mục vội ra loan báo:

- Quan huyện bảo trong này không có ai chết cả mà ồn ào lên thế. Có một người ngộ sát thì khám cho phép mai táng từ tối hôm qua rồi!

Bá Kim chộp ngay lấy cơ hội dân đang tức, nói với mọi người:

- Việc này chỉ tại quan Đốc Mọc hôm qua bảo ta về, ta cứ đi tìm quan Đốc mà hỏi.

Dân chúng mắc mưu ngay. Có người hỏi:

- Quan Đốc có còn ở ngoài này không nhỉ?

- Cứ lại nhà xem nào! Người khác nói.

Nhiều người đang nôn nóng muốn rõ sự thể, không kịp suy nghĩ, vội hung hăng ồ ạt kéo nhau đi. Một số thấy người chết đã được chôn cất rồi là xong việc, rủ nhau ra về. Đám đông kia ào ào kéo qua dọc làng Tự Tháp ra đến phía bờ hồ gần phố Hàng Hài, tụ tập đông đảo ở cổng nhà ông Đốc, nhưng chưa ai dám xông vào hoặc lên tiếng. Bá Kim đứng ngoài giục:

- Bà con nên mời quan lớn ra mà hỏi.

Người trong nhà thấy ồn ào chạy ra báo cho biết quan Đốc còn ngủ, mọi người còn đang trù trừ, bàn tán. Có người nói:

- Xin nhờ cụ Bá Đông vào hỏi cho tiện.

Nhiều người tán thành:

- Phải đấy! Phải đấy!

- Nhờ cụ vào nói chuyện với quan lớn dễ hơn chúng tôi.

Nhưng Bá Kim ranh mãnh lái ngay:

- Tôi cũng chỉ là dân thừa hành, quan trên bảo sao thì làm theo vậy. Đã dưới quyền các quan, mà bà con cử tôi vào hỏi thì chi bằng cứ nhờ ngay cái ông người nhà quan kia hỏi hộ lại còn hơn. Hay là bà con sợ thì thôi, đi về vậy!

Bị nói kháy, nổi khùng lên, một bác ngỗ ngược hùng hổ nói:

- Quan ngủ thì kéo vào dựng cổ quan dậy mà hỏi.

Vừa lúc ấy, ông cử Kim Cổ được tin nhân dân kéo đến bắt đền quan Đốc, vội chạy từ phố Hàng Gai đến đón đầu đám đông và hỏi lớn:

- Bà con kéo nhau đi đâu thế?

Rồi không đợi ai đáp, ông nói chặn ngay:

- Các người không được vô lễ. Hôm qua vì còn đợi xét hỏi, quan Đốc sợ bà con mất công, mất việc, nên mới bảo bà con về. Còn việc chôn cất kẻ bị nạn có liên quan gì đến quan lớn đâu…

Ở đầu đằng kia cũng có tiếng ồn ào. Nguyên cậu ấm Ba Tự Tháp, nhà ở gần ngay đấy, nhưng hôm nay ngủ trưa, mãi khi có tiếng chân đông người kéo đi rầm rập ngoài đường, cậu mới giật mình choàng tỉnh dậy, chạy bổ ra đường. Chợt thấy Bá Kim đi qua, cậu lanh ý hiểu ngay có kẻ xúi khích, liền quát vặc luôn:

- Đứa nào xui dân kéo nhau đi đâu? Có giỏi đi ra ngay đánh bỏ mẹ thằng Tây đi xem nào! Đồ gà què ăn quyện cối xay!

Mọi người đang đổ dồn vào nghe ông Cử nói và cậu Ba quát thì chợt có tiếng nói ôn tồn:

- Ai? Ai hỏi tôi? Tôi xin ra đây!

Tiếp theo có những tiếng reo lên:

- A! Quan Đốc…

- Quan Đốc đã ra!

Tất cả quay lại, xôn xao rồi im lặng. Một ông già búi tóc củ hành, trên đầu lơ phơ mấy sợi tóc bạc phơ, mặc quần đỏ, áo lụa, đi dép, một tay chống cái gậy trúc, ung dung đứng trước mặt mọi người, đôi mắt sáng ngời trên nét mặt hồng hào như đang dò hỏi bà con. Một người lễ phép nói phá tan im lặng:

- Bẩm thưa cụ dân chúng con mắc lừa!

Ông già từ tốn tiếp lời ngay:

 

- Thì tôi đây cũng bị mắc lừa như bà con. Việc quan đã có chứng cớ thì phải xét, mà xét thì phải đủ cả hai bên nguyên bị, có thì giờ đối chứng. Quan trên bảo thế. Tôi cũng nghĩ thế, nên tôi mới giục bà con về. Còn đêm đến, người ta chôn vội thế nào? Lý do tại sao? Tôi có là chính quan tại chức đâu mà tôi biết. Bà con muốn biết rõ nguyên do đến hỏi tôi, thì chính tôi đây cũng đang muốn biết. Nhưng bây giờ kẻ bị nạn đã mồ yên mả đẹp rồi, bà con ta vin vào đấy mà bới ra cũng không có lợi gì. Kẻ thù trước mắt ta nó sẽ còn hung hãn rông càn hơn, và sẽ có nhiều đứa mưu mẹo lừa dối bà con để về hùa với giặc mà kiếm chác. Tôi thiết tưởng bà con nên biết điều đó mà đề phòng. Làm sao ngăn cấm được cái tội lỗi của con người ta ngay từ lúc nó mới phát, giữ được đúng cái lẽ “phòng vi, đỗ tiệm” 11 của cổ nhân, chứ hung hăng mà không được kết quả gì cả thì có ra gì!

Ngừng lại một lát lấy hơi, ông nói tiếp rắn giỏi:

- … Còn bây giờ bà con bắt đền thế nào, tôi cũng xin chịu!

Ông Đốc thôi không nói nữa, thanh thản, trìu mến nhìn mọi người. Ai nấy đã trở lại bình tĩnh, suy nghĩ, gật gù khen phải. Có những tiếng nói nhỏ với nhau:

- Quan Đốc nói phải đấy, bới ra cũng vô ích…

- Có hỏi thì kéo đi hỏi tội hẳn thằng Tây…

- Ừ, ta kéo hẳn ra bờ sông đi. Ta mời cả quan Đốc cùng đi.

Ông Đốc nghe thấy họ bàn tán như thế, lại phải vội nói thêm:

- Không phải vì tôi đang mệt mà tôi định không cùng đi với bà con đâu. Nhưng vì tôi thiết nghĩ, đối với người nước ngoài, ta muốn đòi hỏi cái gì, phải có bằng chứng hiển nhiên. Nay kẻ chết đã chôn cất rồi, kéo nhau ra hỏi, chúng ta lấy cái gì mà làm chứng? Vậy chúng ta hãy nên về cho khỏi mất công mất việc. Chúng ta hãy giữ lấy chí khí dũng cảm, dưỡng uy súc nhuệ 12 để dành một dịp khác…

Mọi người ngẫm nghĩ đều cho là phải, lục tục, im lặng, trật tự, kéo nhau ra về. Ông cử Kim Cổ đi theo ông Đốc vào nhà. Bá Kim đứng ở một góc đường nhìn theo đám đông tỏa ra các ngả vui vẻ như những người đi chợ về, bỗng buột miệng thốt ra câu:

- Dân còn tin theo lão ta quá!

- Lão nào thế?

Bá Kim giật bắn người, quay lại sau vội nói đỡ:

- À ra bác Tú. Xin thất lễ với bác. Không biết có bác, nói nhảm một mình, thế nào lại lọt vào tai bác. Rõ chán!

Tú tài Nguyễn Tích cười, hỏi:

- Làm sao giữ ở ăn cơm không ở, vội về ngay, mà giờ còn đứng thẩn thơ ở đây?

Bá Kim phân trần:

- Ấy thưa bác, về đến cổng huyện, thấy đám đông người kéo đến định hỏi quan Đốc Mọc về việc chôn cất thầy lý Kim Liên, mình có phận sự tuần phòng, nên phải đi theo đến đây, e có gì không hay xảy ra lại sinh rắc rối thêm. Nhưng may quá, quan Đốc nói, dân nghe ra, mọi người đều vui vẻ yên ổn ra về. Kể cũng giỏi thật.

Tú Tích nói:

- Chuyện, vạn sự xuất ư nho mà lỵ! Có thế mới đúng danh tiếng quan Đốc. Nhưng này, ông anh tâm phục quan Đốc tôi thật đấy chứ, hay là căm giận nhân dân trăm họ?

- Tôi ấy á? Bá Kim đáp chống chế. Sống cùng dân, ở cùng dân, chết cũng cùng dân, ai mà dám giận dân. Còn quan Đốc thì… thì ngài dạy cả bàn dân thiên hạ, không phục mà được.

Tú Tích hỏi, ranh mãnh:

- Thế bây giờ ông anh định đi theo ai? Định theo quan Đốc à?

Bá Kim trả lời nửa đùa nửa thực:

- Theo thì muốn theo quan Đốc, nhưng còn muốn “ngũ tri” cái đã.

Tú Tích vỗ vai bạn, tỏ ý khen:

- Còn muốn biết hiện nay có cái sự không xuất ư nho mà lại làm lay chuyển cả cuộc đời chứ gì? Được đấy! Can trường, ốc sạo như ông anh may ra ăn thua to. Nhưng này, không khéo đâm lao phải theo lao thì chết! Liệu đấy!

Hai người cùng cười, dẫn nhau đi về phía làng Cổ Vũ qua đình Đức thánh Tản, rẽ sang phố Hàng Đào.

° ° °

Bác Hai Phúc ra đến chợ Hàng Bè thì chợ đã vãn người, chỉ còn lèo tèo mấy thứ hàng rau và một ít cua cá mới ở dưới sông đem lên. Dạo này chợ chỉ đông xô xát một lúc buổi sáng thôi, vì ở phố xá, Tây Tàu nhộn lắm, mà binh lính của các quan lúc này lại càng được thể hoạch dân, người nào thể chẳng đừng được mới phải mò ra chợ. Nên chợ vắng lắm. Bác đi đảo một lượt chẳng mua được gì cả, liền rẽ vào phía ngõ Nam Phố ở cuối chợ thăm chú Sìn ở hiệu phở Dụ Hưng Lâu. Hàng vắng khách. Chú Sìn đang ngồi gấp vằn thắn để bán cho hàng rong buổi chiều, thấy bác vào, liền đứng lên kéo một cái ghế đẩu ở bàn ăn bên cạnh vào mời bác ngồi và bắt đầu hỏi chuyện ngay:

- Thế nào? Hàng đằng ấy có khá không?

Rồi không để cho khách kịp trả lời, chú Sìn nói luôn:

- Đằng này ế lắm ạ! Dạo này người ta sợ sệt đi đâu cả, chẳng còn thấy ai vào hàng nữa. Thế này rồi cũng đến bỏ sới mà về Quảng Đông thôi! Ở đây có ngày không chết tội thì cũng chết đói!

Bác Hai vội đỡ lời, yên ủi:

- Có làm thì có ăn, khéo như chú, sợ gì đói. Mà không gian dối phạm pháp thì ai bắt tội được mình.

Chú Sìn phân trần:

- Khốn nhưng trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết. Các ông tướng Tây hoành hành, bọn Khách lớn hùa theo, rồi các quan An Nam không ngăn nổi quay ra đi trị phạt bọn Khách nhỏ chúng tôi. Luôn mấy hôm nay đấy, đòi hỏi, bắt bớ, cấm đoán bao nhiêu là nhà rồi đấy… Họ bảo là tại bọn Khách trú chúng tôi đi theo Tây, nên họ đòi lên dọa nạt là sẽ trả thù!

Bác Phúc thấy cần ôn tồn giảng giải cho ra lẽ để kéo giữ ông bạn hàng về phía mình:

- Việc quan có nhiều uẩn khúc ngoắt ngoéo. Nhưng chú xem, từ năm ngoái đến nay, dân chúng trăm họ ở đây có ai gây sự hiềm khích gì với các chú đâu. Có điều là cũng có một số Khách buôn ta đi theo về hùa với bọn Đồ Phổ Nghĩa thật cơ mà.

- Cái ấy có. Chú Sìn tiếp. Nhưng đầu chả phải, phải tai, bọn đầu têu thì chả thấy chúng nó việc gì. Chỉ khổ bọn tôm tép thôi.

Bác Phúc lại lựa dần vào đích của mình:

- Như thế là ngoắt ngoéo đấy. Có lẽ có kẻ ném đá giấu tay cốt làm cho người Nam, người Khách thù ghét nhau…

Chợt có người nói xen vào:

- Tôi cũng nghĩ thế, vì tôi xem ra cái bọn lính Vân Nam và cả cái ông tướng Lý Dương Tài – Quảng Tây đến nhà hội quản hôm nọ, cũng không phải là quan quân của triều đình Đại Thanh. Chỉ là một kẻ theo Tây dương để kiếm lợi… Tôi cũng có nói với Ả Sìn như thế.

Thấy bác Phúc ngơ ngác vì có một người lạ mặt vừa ở trong bếp bước ra xen vào câu chuyện, chú Sìn nói rõ thêm:

- Ả Chí nó đây mới ở mạn Đồng Đăng về đấy, vừa bị cả bọn lính Vân Nam và quan An Nam bắt tra hỏi mấy lần đấy. Rõ quỷ tha ma bắt, còn biết đằng nào mà mò. Bác Phúc quay sang hỏi người người bạn mới:

- Thế chú có tức không?

Người kia nói:

- Tức chứ! Nhưng nghĩ cho cùng, tức giận thì tức ai kia chứ? Tức lính Tàu hay tức quan An Nam? Chung quy tại bọn Tây cả. Tôi ở cái đất An Nam này đã non hai chục năm, khắp cả mỏ đồng, mõ kẽm về đây, nên tôi biết. Từ trước đến giờ có thế đâu. Nên tôi chẳng hơi đâu mà tức giận. Về đây, tôi cũng bảo bà con tôi đừng có nông nổi…

Câu chuyện đang sắp đến lúc cởi mở, bỗng ở ngoài đường có tiếng con gái gọi vọng:

- Bác Phúc có ở đây à? Tôi đương đi tìm…

Ba người đều trông ra: Một cô con gái độ mười tám tuổi, mặc áo dài tứ thân vải đồng lầm, quần nái nhuộm sòi chấm gót, đầu vấn khăn nhiễu tam giang, bỏ đuôi gà óng ả, thoăn thoắt đi vội vào quán. Chú Sìn chào hỏi trước:

- Chào cô Xuyến! Bác ấy vừa mới vào đây. Cô tìm có việc gì thế?

Cô gái mới đến cúi đầu gật chào mọi người, rồi đến gần nói riêng với bác Phúc:

- Bọn Tây nó đánh quan Đốc Mọc đau lắm. Cậu ấm Phách bảo tôi đi tìm bác. Tôi vào hàng, nhà bảo bác ra chợ. Tôi chạy…

Bác Phúc sửng sốt kinh ngạc, hỏi ngay:

- Nó đánh ở đâu? Có sao không?

- Thấy nói ở cửa Bắc, đâu quan lớn vừa ở trường học Yên Ninh ra.

Chú Sìn chép miệng nói góp:

- Rõ khổ! Thật là lũ chó nhà giời sai xuống cắn quàng, còn là khổ cả dân Nam, dân Khách ạ!

Bác Phúc cuống cuồng không kịp chào chú Sìn và chú Khách vừa mới gặp, vội chạy đi ngay. Cô gái phải chạy ra dặn với:

- Quan lớn chưa về nhà đâu. Tôi thấy cậu ấm cũng chạy lên phía cửa Bắc.

Bác Hai không nói gì, cắm đầu chạy tắt xóm Gia Ngư sang phố Hàng Bạc xiên sang Hàng Buồm, qua cầu Đông lên phường Đồng Xuân, thẳng lên ô Yên Hậu, qua cửa trường quan Đốc, không thấy gì, bác vội chạy tắt xuyên qua mấy thôn Yên Thành, Yên Định, ngoắt vào đầu làng Yên Ninh. Ở đây đã thấy nhốn nháo người đi lại bàn tán, bác không hỏi thăm ai, cứ một mạch lao đến nhà học xá của huyện Thọ Xương, ở phía Tây của làng Yên Ninh, bên hồ Trúc Bạch. Quả nhiên đúng như bác dự đoán, quan Đốc hiện còn ở đây. Trong nhà trường có đông các thân hào và tư văn 13 trong vùng, được tin quan Đốc bị nạn, đã chạy đến hỏi thăm. Ông cử Kim Cổ, cậu ấm Ba Tự Tháp, quan Huấn đạo 14 Thọ Xương đang bàn nhỏ gì với nhau ở gần cửa buồng chái bên tây. Các người khác ngồi im lặng, nét mặt có vẻ căm tức, nghĩ ngợi. Không thấy quan Đốc, nhưng bác không dám lên tiếng hỏi, cũng lặng lẽ rón rén bước vào ngồi bên những người đã đến trước. Một người ở phía nhà dưới đi lên, bưng một bát nước và nói:

- Bẩm quan, nước cua sống lọc kỹ rồi đây ạ, xin quan đưa vào mời cụ lớn cố xơi cho hết…

Ông Huấn đạo Thọ Xương chạy ra đỡ lấy bát nước cua gạch đem vào buồng. Ông Cử quay ra nói với mọi người có mặt ở đấy:

- Ta phải họp ngay Văn hội Thọ Xương và họp đồng môn Tự Tháp. Quan Huấn đã ký đạt anh em họp ngay chiều nay ở Văn Miếu.

Bác Phúc được dịp hỏi ngay:

- Xin quan bác cho đệ vào thăm quan Đốc một tí, gọi là có đầu làm lễ, hai nữa xem bệnh tình thế nào, đệ có thể nắn bóp cho nhẹ thương tích…

Ông Cử nói:

- Được, để quan lớn nghỉ yên một tí đã, xôn xao và nhiều người nâng giấc quá lại đau thêm. Ở đây chúng tôi đã làm đủ cách rồi. Bây giờ tôi viết giấy đạt, bác cầm đi hộ, mời đồng môn ngay nhé…

Ngừng một lát, ông Cử nói tiếp thủng thẳng:

- Không thể nhu nhơ với bọn chó được nữa. Nó đánh quan Đốc tức là nó đánh tất cả chúng ta, đánh cả nước ta, chứ còn gì nữa!

Ông Huấn đã ở trong buồng đi ra, nói với
mọi người:

- Cũng đã dìu dịu rồi, đau nhưng không đến nỗi nguy lắm. Việc hệ trọng liên quan đến cả danh giáo, đến cả quốc thể. Chúng ta phải mau bàn cách ngăn triệt lối lấn dần tằm ăn của bọn hung đồ hôi tanh ấy. Nếu cứ để mặc kệ thì rồi đến bọn Khách cũng sẽ khinh miệt và lấn át chúng ta. Nên chúng tôi đã bàn, chiều nay họp ở Văn Miếu. Bây giờ ta nên im lặng để quan lớn nghỉ ngơi… Hay là…

Một vị khách đứng lên xin nói:

- Quan Huấn đã dạy thế, bà con ta hãy về, chiều ta đến họp một thể. Những vị có mặt ở đây, không cứ là hàng văn hay hàng hào, ta đều đi cả.

Ông huấn Thọ Xương tiếp lời:

- Vâng, xin mời các vị đi cả cho đông. Việc là việc chung cả, giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh, nữa là. Sở dĩ phải thông đạt là vì còn có người chưa biết.

Mọi người đứng lên khẽ chào từ biệt, lục tục kéo ra về. Bác Phúc xun xoe muốn biết rõ tường tận việc quan Đốc bị bọn Tây đánh như thế nào, nhưng chưa biết hỏi ai, vì ai nấy đều ra về cả, còn bác thì ở lại đây đợi ông cử Kim Cổ viết giấy đạt. Và trong mối lo lắng căm phẫn chung, tự nhiên bác càng thấy rụt rè không dám hỏi để ông Cử hay ông Huấn nhắc lại nữa. Nhưng khi mọi người về hết rồi, và ông Cử còn đương loay hoay viết, bác lỏn tót ngay vào buồng, vì bác tin rằng có cậu ấm Ba ở trong ấy rồi, ông Huấn có biết, cũng đã có người nhận cho. Qua cửa buồng, một cảnh tượng thương tâm đập vào mắt: mặt quan Đốc sưng vù một bên, mắt híp lại và một đầu gối phải buộc chặt, duỗi thẳng. Thấy bác vào, ông vẫn nằm im, trừng mắt nhìn như truyền tia lửa căm hờn sang cho bác. Cậu ấm Ba giơ tay ra hiệu im lặng đừng nói. Bác rón rén đến bên giường ngồi xổm xuống đất ngắm nhìn ông già nằm trên giường thở khò khè khó nhọc, như cố thu hút lấy cái hình ảnh đau thương ấy để mà đời đời ghi sâu mối thù kẻ giặc ngoài đến đây hành hung một bậc lão thành mô phạm, và cũng là để tâm niệm chia sẻ thêm nỗi đau đớn tức giận với ông bạn đồng môn cao quý. Bác ngồi như thiền định một lúc lâu, không nói một tiếng. Trong phòng im phăng phắc. Chợt ở ngoài có tiếng ông Cử gọi:

- Anh Phúc đâu nhỉ?

Bác vội rón rén lùi ra, mắt cố nhìn ông bạn già một lần nữa. Bác ra đến ngoài, ông Cử đưa giấy cho bác và giục đưa ngay đến các trưởng môn lẻ ở các xã tiếp nhận. Bác nhận giấy vừa ra đến cổng gặp ngay anh phu võng của quan Đốc cũng ở nhà bên vừa đi ra, bác hỏi ngay:

- Chú mày đi đâu?

Anh kia lễ phép nói:

- Thưa bác, tôi vừa về dưới Tự Tháp lên, bây giờ tôi lại về Mọc tìm cậu hai.

- Thế thì đi, ta cùng đi.

Nói rồi, bác rảo chân đi lên trước, cho anh kia đi theo sau và hỏi:

- Làm sao sức anh hai không che chở được cho thầy mà để bọn chó nó hành hung được như thế?

- Thưa, nó xuất kỳ bất ý, chúng tôi vô tình, giở tay không kịp.

- Sự tình xảy ra như thế nào, chú kể cho tôi nghe.

- Thưa, sáng nay quan lớn từ trên Cổ Nhuế về, đi đến cửa Bắc gặp hai thằng Tây Phú Lãng Sa và một thằng Khách đang đứng xem xét và ghi vẽ cửa thành, quan lớn bảo chúng tôi dừng lại để ngài bảo chúng nó đi chơi chỗ khác, không được đứng vẽ cửa thành, như thế là phạm cấm. Thằng Khách nói sõi tiếng ta thông ngôn cãi lại là nó có quyền đi đâu, làm gì cũng được, không ai cấm nổi. Ngài có mắng chúng nó vô lễ, ăn nói quàng xiên. Thế là một thằng Tây xông ngay vào tát đánh ngài ngã chúi xuống đất, nó lại phang luôn mấy nhát gậy vào đầu gối, vào ống chân. Chúng tôi vội quăng võng, ôm lấy ngài và hô hoán lên. Dân làng, dân phố và lính tráng trong thành chạy ra. Ba tên kia bắn mấy phát súng rồi chạy tháo lui. Người ta bảo chính thằng Đồ Phổ Nghĩa đấy! Đâu chúng nó vừa ở hội quán Hàng Buồm ra. Quan Huấn và học trò ra vực quan lớn đưa ngay vào trường.

Bác Phúc tức quá hỏi ngay:

- Sao các anh không vác ngay đòn võng mà phang luôn cho chúng nó một trận?

Anh phu kia nhăn nhở bào chữa:

- Ấy, nó cuống lên, trí bất cập mưu, quẳng võng xuống, chúng tôi chỉ mải nghĩ cứu lấy thầy…

Bác Hai cáu, đã toan gắt: “Tại chúng bay sợ nó có súng chứ gì? Đồ ăn hại!” Nhưng nghĩ sao, bác nén được ngay và nói lảng ra:

- Thôi được, đi mau cho được việc nhé. Tôi rẽ về lối này cơ.

° ° °

Buổi chiều hôm ấy, bác Hai Phúc chưa đi hết lượt các bạn đồng môn ở từng xóm lẻ, nhưng hầu khắp các văn thân sỹ tử, kỳ hào được tin truyền cho nhau đã đến đông đủ ở Văn Miếu, đặc cả trong đền ngoài sân. Trời nóng bức, nhưng từng đám một, xúm nhau lại bàn tính hăng hái, ai nấy đều bừng bừng nộ khí, nhất quyết chỉ có kéo nhau ra sông đánh tan xác bọn giặc lõ chúng nó ra mới hả giận. Đợi quá chiều một chút, thấy đã đông đủ khắp mặt anh em ở các phường phố thôn xóm, cả các bạn Thanh Trì, Hoài Đức, ông Huấn đạo huyện Thọ Xương mới đứng ra nói rõ mục đích cuộc họp của văn hội và nêu việc phải trả thù cho quan Đốc, rửa nhục cho cả sỹ lâm ra hỏi ý kiến. Mọi người đều nhất trí cho là tất cả phải nhất tề đứng lên đánh trừ bọn hung đồ cướp của, giết người trời oán dân giận kia! Ông cử Kim Cổ đứng lên tiếp lời:

- Bây giờ bà con ta phải bàn đến hai lẽ: một là chúng ta đánh nó thì thua được chưa biết thế nào, nhưng là phạm lỗi với triều đình. Dụ của nhà vua và lệnh các quan tỉnh đều ngăn cấm không cho ta gây sự với tụi nó, vì cho như thế là khích biến, làm khó khăn cho cuộc thương thuyết. Vậy chúng ta có chịu lỗi không?

Mấy người nhao nhao tranh nhau nói:

- Lỗi gì? Chúng nó cướp của giết người thì phải trừng trị chứ! Thương thuyết, hòa hảo gì, cái lối vừa đánh trống vừa ăn cướp, miệng nói hòa thân mà chủ tâm ăn hết cả lần trong lần ngoài váy con người ta!

- Giặc đến nhà, đàn bà còn biết đánh, bọn nho phong sỹ khí như anh em mình lại đành đứng nhìn à?

Ông Cử giơ tay gạt ra hiệu và nói:

- Ấy là tôi hỏi thế để chư vị nghĩ kỹ. Hai là trong dân gian ta, theo ngu ý thiển nghĩ, có lẽ có nội phản, có kẻ đưa tin hoặc bầy mưu cho địch. Việc nó đánh quan Đốc không phải là ngẫu nhĩ đâu. Có đứa bảo nó biết được ở đây quan Đốc là người đứng đầu cả bọn chúng ta chống cản chúng nó và thường thường buổi sáng ngài hay sang chơi trường học Yên Ninh. Vậy thì chúng ta tính sao?

- Đánh tất! Trừ tất!

- Phải trị cho tiệt bọn lòng lang dạ thú ấy đi!

Mấy người cùng nói lên một lúc, tỏ rõ quyết tâm của tất cả anh em. Ông Huấn nói tiếp:

- Ấy phải nói rõ những trở ngại trước để anh em ta cùng liệu định, nhưng tôi tin rằng chí đã quyết thì chúng ta có sợ gì! Đây là mối thù danh giáo, chúng ta không thể để bọn man di đem sức cường bạo đến lấn át dân ta, cướp nước ta, giày xéo lên đạo lý của ta. Vì danh giáo, vì đất nước, chúng ta có sợ gì nguy nan, có e gì tiểu tiết? Anh em có quyết chí không?

Mọi người ồn ào, hùng hổ cùng hét lớn:

- Đánh!

- Quyết chứ?

- Chỉ có đánh!

- Quyết đánh cho bằng được!

Ông mền Kim Liên đứng lên nói:

- Kim chỉ phải có đầu, việc hợp quần phải có xếp đặt. Xin thành lập đạo quân nghĩa sỹ. Tất cả những người có chân tư văn đều phải vào và đem nghĩa lý ra biến báo khắp nhân dân, mộ thêm người cùng tham dự. Trước hết hãy đánh bại Tây đi đã. Dập tắt được lửa, tự nhiên hết khói!

Mọi người đồng ý ngay. Có người xin cắt cử ông cử Kim Cổ làm chánh đội trưởng và ông mền Kim Liên Trần Quang Luyện làm phó đội trưởng đạo quân ấy. Toàn thể anh em tán thành, suy cử hai ông làm chỉ huy và cắt thêm số anh em ở rải rác các thôn xóm giữ việc liên lạc do thám và lập danh sách những người thuộc về vùng của mình. Anh em giao cho hai ông chỉ huy toàn quyền xếp đặt và định ngày giờ tập hợp và luyện tập. Mọi người lại ủy ông Huấn đạo cùng với hai ông chánh phó đội trưởng làm đơn trình lên quan trên rõ ý định chính đại quang minh của hội Tư văn Thọ Xương lập ra đạo quân này để bảo vệ danh giáo, đuổi Tây cứu nước, cứu dân. Cuộc họp bàn nhanh chóng, mọi việc đều đi đến nhất trí, ai nấy đều như cùng hăm hở trong một ý nghĩ thiêng liêng quyết tâm chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu quyết liệt. Cuộc họp sắp tan, ông Huấn và ông Cử còn đang ghi nốt những tên người đã được cử ra. Chợt văng vẳng có tiếng trống tiêu cổ của quan trên đi đường, rồi một toán người ngựa dừng lại ở ngoài cổng Văn Miếu. Một toán quân sỹ đi thẳng vào. Trong này nhốn nháo, mọi người chạy đi chạy lại. Nhưng ông cử Kim Cổ đã đứng lên nói to:

- Anh em ai đứng đâu đứng đấy, không nên lộn xộn.

Và mọi người trông ra thấy quan Lãnh binh vệ thành đi bên một viên cai đội cầm lá cờ lệnh của quan Tổng đốc đã vào đến sân. Tiếng trống tiêu cổ đổ hồi, dứt hẳn. Mọi người trông thẳng lên lá cờ quỳ xuống phủ phục, rồi đứng lên ngay ngắn ngẩng nhìn quan Lãnh binh và hơn chục người lính đứng dàn ra hai bên. Ông Lãnh binh hất hàm hỏi:

- Các anh tụ tập làm gì đông thế này?

Ông Huấn đứng ra nói:

- Bẩm quan lớn, chúng tôi văn hội và thân hào họp bàn về việc quan Đốc bị hành hung.

- Để làm gì? – ông Lãnh binh hỏi với giọng sách mé.

- Bẩm để bàn cách bảo vệ danh giáo và trả thù cho quan Đốc.

- Việc quan Đốc đã có quan trên xét xử, ông Lãnh nói tiếp, các anh họp bàn thế này là trái phép, làm náo động dân tình, gây khó khăn cho cuộc bang giao. Cụ thượng cho bản chức ra giải tán cuộc họp phi pháp này và…

Mọi người đều đứng xúm cả lại, ồn ào át cả tiếng ông Lãnh. Ông Huấn phải xua tay ra hiệu giữ im lặng, ông Lãnh cũng chột dạ, đổi giọng dịu dàng hơn:

- Việc các thầy làm là nghĩa khí, hợp tình, nhưng trái lý, không tuân pháp lệnh nước nhà. Vậy ai đứng ra mời cuộc họp này?

- Bẩm quan lớn, tôi ạ, tôi Huấn đạo Thọ Xương.

Ông Lãnh binh cười, nói tiếp giọng nghiêm trở lại:

- A! Thế mời quan Huấn đi với tôi. Còn các người khác đi về, ra ngay để bản chức khỏi phải cho lính vào đuổi.

Ông Lãnh đưa mắt sai một người lính đi đến bên ông Huấn, sẵn sàng để chộp giữ lấy ông ta. Ở đám đông đang xôn xao bực tức, có tiếng hỏi lên:

- Sao quan Lãnh không đi đuổi Tây lại đi đuổi chúng tôi?

Ông Huấn đạo lanh trí, biết hơi gai một tí lúc này là có thể gây ra xung đột to tát, bất lợi cho công việc chung, ông liền giơ tay làm hiệu cho mọi người im lặng và nói với vẻ cương quyết:

- Các ông hãy bình tĩnh và trật tự ra về để tâm trí lo liệu công việc chung. Tôi đây, tôi sẽ vào trình lên cụ lớn Tổng đốc rõ ý chí của chúng ta. Chí đã quyết thì gươm kề cổ tôi cũng xin nguyện với các ông là tôi không lùi. Thấy việc nghĩa mà không làm là vô dũng. Nhưng chúng ta gà cùng một mẹ mà đá nhau thì mang tiếng chết, có phải không thưa quan lớn Lãnh binh?

Ông Huấn tươi cười quay lại hỏi ông Lãnh. Ông này bất đắc dĩ cũng phải nở nụ cười đồng tình. Ông Huấn nói thêm:

- Tôi xin tuân mệnh quan lớn.

Ông quay lại nói với mọi người:

- Chào anh em về nhé!

Ông Huấn đạo theo ông Lãnh binh và toán lính đi ra. Mọi người cũng lục tục ra theo, trật tự, im lặng, suy nghĩ trong khi hoàng hôn đang xuống rất nhanh, tô thẫm những lùm cây, mái ngói, tường rêu ở khu Văn Miếu rộng bao la, thăm thẳm đã yên tĩnh, lại càng như lắng xuống yên tĩnh, trầm lặng thêm với những đắn đo suy tính thầm lặng của những con người đang lặng lẽ từ nơi cửa thánh đi ra. Ngày và đêm bắt đầu giằng co trên khoảng trời yên tĩnh.

--------------------------------

1

Theo quan niệm mê tín về địa lý, cho rằng chỗ này bị gió bắc thổi vào không có án che chắn là điều tối kỵ trong phép địa lý.

2

Tiền tài, danh vị.

3

Trong các giấy tờ và trong khi nói ở thời kỳ này, người ta đều dùng chữ Phú Lãng Sa để chỉ nước Pháp và gọi tắt là Phú. Mãi đến năm 1883, hòa ước Harmand mới bắt đầu dịch thành chữ Đại Pháp.

4

(Khẩu ngữ) (người) đến từ khắp bốn phương, từ khắp mọi nơi, không thuần nhất (hàm ý coi khinh), phân biệt với cư dân nơi sở tại. (BT)

5

Chính: những người làm quan coi việc cai trị; giáo: những người dạy học; hào: những người tổng lý.

6

Đỗ thời trẻ.

7

Tư nghiệp là chức Giáo sư.

8

Ở phố Trần Quý Cáp sau nhà ga bây giờ.

9

Sỹ lâm: rừng kẻ sĩ, tiếng chỉ chung giới sỹ phu.

10

Mền là người ba lần đi thi đều đỗ Tú tài cả. Hai lần thì gọi là ông Kép.

11

. Jean Dupuis: tên thực dân Pháp đầu tiên đến Bắc kỳ, sục sạo mở đường sông Hồng, đem hàng lên Vân Nam. Nó lấy cớ buôn bán với nước Tầu để dòm ngó nước An Nam, chuẩn bị cho công cuộc chiếm đánh của chúng sau này.

12

Hợp trí khôn của mọi người.

13

Giới cai trị, giới đang cầm quyền trong nước.

14

Chơi chữ: “Đồ Phổ Nghĩa” dịch âm tên Dupuis, một tên thực dân Pháp đến nước ta thời kỳ đầu thành “đồ phủ nghĩa”: đồ bỏ nghĩa, đồ bất nghĩa.

Chương III

Khác với mọi ngày, chiều tối hôm ấy Thị Huệ, cô vợ lẽ yêu người Việt, lên gác, theo như thường lệ, tiêm thuốc phiện cho chồng là chủ hiệu Hằng Dụ phố Hàng Ngang, tức Huỳnh Lục Ký, bang trưởng Quảng Đông. Lên khỏi thang gác, trông thấy khay đèn thuốc phiện vẫn còn để nguyên ở trên nóc cái tủ kính và cái sập gụ chân quỳ trống không, không thấy Huỳnh Lục Ký đâu cả, Thị Huệ ngơ ngác, kinh lạ, nhìn quanh nhà không thấy, vội bước ba bước ra đến hiên sau, thị càng kinh lạ kêu lên:

- Làm sao thế này?

Huỳnh Lục Ký đã ăn mặc khác hẳn đang lặng lẽ đứng ngoảnh đi, ngoảnh lại, ngắm nghía trước cái gương tư mã lớn treo ở tường, trước cái giá để chậu thau rửa mặt. Huỳnh Lục Ký cười âu yếm hỏi:

- Mình trông có ra vẻ phu khuân vác Hàng Buồm không?

- Nhưng sao lại ăn mặc lạ lùng thế kia chứ?

Thị hỏi lại với vẻ không bằng lòng và trân trân nhìn chồng cũn cỡn trong bộ quần áo cộc bằng vải giãi hạt cau đã bạc màu: áo năm thân tay chẽn cài dải ở ngực và ở dưới nách, quần cộc đến nửa ống chân. Huỳnh Lục Ký ôm vai vợ đi vào nhà, vừa đi vừa nói:

- Hôm nay ta phải tạm sai hẹn thường lệ với ả phù dung tiên tử và cũng là sai hẹn với mình một lúc lâu nhưng rồi sau sẽ càng xoắn xuýt hơn.

Huỳnh Lục Ký cười tình, nhưng chị vợ vẫn ngúng nguẩy hỏi:

- Mình định làm cái trò gì thế? Phải nói thật ra cơ, em mới cho…

- Ta cần phải đi hỏi cái này một tí. Phải cải trang cho họ không nhận ra, họ khỏi ngờ.

Chị vợ giẫy nẩy lên, nũng nịu:

- Ứ ừ! Em không bằng lòng để mình đi đâu, ngộ họ bắt mất thì sao!

Hai người đã vào đến giữa nhà, cùng ngồi lên sập, Huỳnh Lục Ký cười âu yếm bảo vợ:

- Cứ ngồi ở nhà, dễ mình giữ được đấy à? Người ta bắt thì ở nhà người ta cũng đến người ta bắt, như bọn Quan Tá Đường, Tống Tài, Tuân Thành đấy, dễ người ta bắt ở đường à?

Chị vợ hỏi luôn:

- À này, bác Lê Đạt Ký mới được thả về rồi, mình đã sang hỏi thăm chưa?

- Năm trăm lạng vàng đấy, ít của à? Anh chồng nói.

- Thì mình cũng cứ ở nhà, có bị bắt cũng lấy vàng ra mà rẫy chứ sao!

Nghe vợ nói, chồng cười vang lên vừa mắng yêu vợ, vừa giảng giải:

- Mình ngu lắm! Mất tiền mà cánh Quan Tá Đường và Tống Tài có được tha đâu, có thể còn bị giết nữa. Cho nên phải khôn mới được. Khôn sống mống chết, mình hiểu chưa? Câu tục ngữ An Nam thế mà đúng đáo để. Bác Đạt Ký bảo các quan An Nam cũng sợ Tây bỏ mẹ. Thế cho nên, tôi muốn đến gặp ông tướng Tàu ở Hàng Buồm để nhờ ông ta nói với Tây xin hộ bọn bác Quan Tá Đường. Vả…

Hắn ngập ngừng nhìn thẳng vào mắt vợ và nói khẽ:

- Vả cũng phải tìm lối giao thiệp để giữ thân chứ. Ngộ nhỡ các ông ấy đắc thời, đắc vị, các ông lại trị mình thì chết! Phải khôn, nghĩa là như thế đấy!

Hắn ôm hôn vợ và giao hẹn:

- Bây giờ thì mình yên trí để tôi đi nhé! Có ai hỏi cứ bảo tôi đi vắng, chạy loăng quăng đâu đấy. Độ đầu canh hai tôi về. Cố đợi nhé!

Hắn tháo giầy ra đứng lên và cúi xuống kéo ở gầm sập ra một đôi guốc mộc quai da buộc chéo kiểu quai dép và một cái mũ đan to vành cúp xuống, có chóp nhọn, đúng kiểu của dân Khách lao động ngoài bến thuyền. Hắn cười tình, bảo vợ:

- Thế này mới đủ lệ bộ.

Rối hắn cầm cả mũ, guốc hấp tấp đi xuống. Hắn ra lối cổng sau, đội mũ đi guốc vào, ngập ngừng trông trước, trông sau, rồi lanh lẹn thoăn thoắt đi qua phố Hàng Giầy, vòng qua cái ao trước cửa đền Bạch Mã, đi vào phố Hàng Buồm. Trời nhá nhem tối, mọi người đi về đều vội vã, không ai nhận ra hắn. Đến cổng nhà hội quán của Hoa kiều Quảng Đông, hắn thở phào, nhẹ nhàng nhấc mũ ra nói nhỏ với tên lính đứng canh rồi ung dung đi vào. Trong nhà khách, tên Tri phủ Hồ Quảng Lý Ngọc Trì đang ngồi đợi, vội chạy ra đón, kêu lên:

- Ối giời! Ông sợ à? Sao ăn mặc kỳ quái thế? Quan chánh mời đến ăn tiệc kia mà!

Huỳnh Lục Ký trả lời với vẻ thản nhiên, kiêu hãnh:

- Có thế, đi mới trót lọt. Bữa tiệc linh đình ở đây cuối năm ngoái chả làm khổ bao nhiêu người hàng bang chúng tôi rồi đấy! Bây giờ cốt được việc đã. Đi thôi chứ?

- Tôi chỉ còn có việc ngồi đợi ông. Đã tưởng không đến. Nào ta đi!

Hai người đứng lên đi ra, có hai người lính vác súng đi theo. Đi ngược lên, ra đến bến ô Đông Hà, đã có thuyền đợi sẵn ở đấy, khi mọi người đã xuống thuyền và thuyền rời xa bến rồi, Huỳnh Lục Ký mới hỏi Lý Ngọc Trì:

- Sao các ông không xin tha cho các hiệu Quan Tá Đường, Tổng Tài? Vì các ông mà họ bị bắt đấy.

- Đòi chứ không xin, Lý nói vẻ hùng hổ. Đang bắt chúng nó phải thả, cái tụi quan chó chết ấy!

Huỳnh Lục Ký cũng biết anh bạn cùng quê với mình nói khoác, nên ngồi im không nói gì nữa, kệ cho Lý ba hoa cho đến lúc chiếc thuyền con ghé sát vào đoàn thuyền lớn. Tất cả đậu ở giữa lòng sông, có ba tàu máy, hai thuyền buồm lớn đậu thẳng hàng và đến gần một chục thuyền gỗ, thuyền nan quây xung quanh. Mỗi thuyền đều có thắp đèn sáng. Ba tàu máy thắp đèn dầu lửa sáng rực rỡ chiếu tỏ cả một mảng sông. Chiếc thuyền mới đến áp vào thành cái tàu máy thứ hai. Lính trên tàu đưa cầu ván ra rước hai người khách lên. Đồ Phổ Nghĩa và Mi Lộ được tin thân ra tận nơi đón. Lý Ngọc Trì có ý nói chữa cho bạn:

- Thưa quan chánh và quan phó, ông bang trưởng Huỳnh Lục Ký sợ lộ, An Nam nó biết, nó giết, nên cải trang y phục khổ sở thế này.

- Ấy cẩn tắc vô ưu! Huỳnh Lục Ký nói một cách tự nhiên.

Đồ Phổ Nghĩa niềm nở bắt tay Huỳnh Lục Ký và nói tiếng Khách lơ lớ:

- Thưa ông bang trưởng, ông giữ gìn thế là rất tốt. Điều quý nhất là chúng tôi rất sung sướng được đón tiếp ông đúng hẹn ở trên tàu của chúng tôi tối hôm nay. Xin mời ông đi lên.

Đồ Phổ Nghĩa đi trước dẫn Huỳnh Lục Ký đi lên boong, vòng qua buồng đặt súng đại bác, buồng máy, giới thiệu qua loa, rồi đưa thẳng vào phòng khách, tức là nơi buồng riêng của thuyền trưởng. Đây là một căn phòng nhỏ, chữ nhật, xinh xắn, ngăn nắp, sơn trắng xanh màu men sứ. Hai bên, hai cửa sổ chấn song đều căng lụa hồng viền ren. Ở một đầu, một cái đi-văng giải nệm sa-tanh thêu chim phượng xòe cánh múa. Hai góc ở đầu bên này đặt hai đôn sứ thắt cổ bồng đội hai chậu cây cũng bằng sứ vẽ tích Lưu Bị tam cố thảo lư. Ở giữa hai đôn, có một cái bàn con trên để cái đèn tọa đăng thắp măng-sông sáng xanh ngắt tỏa khắp cả căn phòng ra tận ngoài khoang tàu, tỏ như ban ngày. Bên cạnh đèn, để hai bàn đèn hút thuốc phiện, khay bạc sáng bóng, bóng đèn pha lê trong vắt. Ở giữa kê một cái bàn dài phủ khăn trắng muốt, trên bày những món ăn, hoa quả, cốc, chén, bát, đĩa, dao, dĩa... rất đăng đối đẹp mắt. Chung quanh bàn để sáu cái ghế tựa quang dầu bóng nhoáng… Đồ Phổ Nghĩa mời Huỳnh Lục Ký ngồi xuống đi-văng cùng với mình. Mi Lộ và Lý Ngọc Trì ngồi xuống cái ghế dài kê sát vào vách bên cửa sổ. Huỳnh nhìn căn phòng, nhìn bàn tiệc, rồi nói với chủ thuyền:

- Thưa quan chánh thuyền trưởng Phú Lãng Sa, tôi đến đây với ý nghĩ là đi bàn công việc, chứ không phải đi dự tiệc, nên…

Đồ Phổ Nghĩa cười rất lịch thiệp, đáp:

- Vâng, thưa ông bang trưởng, chính chúng tôi hẹn mời ngài đến bàn công việc. Nhưng, thưa ngài, dân dĩ thực vi tiên, chúng ta gặp nhau cũng phải nên lấy chén rượu làm vui chứ. Đời là một cuộc tranh cướp lấy sự vui sướng mà lị! Đây sẽ có đủ mọi thứ vui, thuốc phiện hảo hạng, bàn đèn hảo hạng để đưa ngài vào cõi mộng… còn y phục ngài thế này mới thực là quý, nó chứng tỏ ngài thực tâm đến với chúng tôi.

Thấy mấy cô con gái Tàu ăn mặc lối Thượng Hải thấp thoáng ở ngoài, rồi hai cô trẻ măng mặc áo dài hoa bổ dọc để hở đùi và bắp chân mũm mĩm óng ả, bưng khay bạc vào dâng trà, Huỳnh Lục Ký hỏi:

- Trong quân đội, quan lớn cũng nuôi cả món này?

- Thưa ngài, trước hết tôi không phải là quan binh, Đồ Phổ Nghĩa đáp, tôi chỉ là một nhà buôn như ngài, nên như tôi vừa nói với ngài, tôi phải có ở trong tay đủ mọi thứ để mua vui chứ. Tôi nuôi cả đấy chứ. Chúng tôi cũng đang để tâm đào tạo thêm món hàng An Nam nữa... À hay ngài cần món An Nam mới nguyên?

Hắn nhìn vào mặt khách hỏi đột ngột, hai tay đưa lên vê xoắn hai chòm ria mép cong lên, miệng cười hề hề. Huỳnh lắc đầu nói:

- Không. Tôi đến đây cốt để bàn với ông một ít công việc.

Và hắn đi vào đề luôn:

- Trước hết, tôi đến nói với ông nên làm thế nào cho các anh Quan Tá Đường, Tống Tài là anh em của tôi được tha ra. Bọn quan An Nam dọa sẽ giết họ. Họ đều là những người dự bữa tiệc đầu tiên ông thết và sốt sắng vì công việc của ông mà bị bắt. Nếu họ không được tha, mọi người ở đây sẽ không tin ông nữa! Hai là các quan An Nam bảo sẽ bắt Súy phủ Sài Gòn ra tống cổ ông đi…

Đồ Phổ Nghĩa chăm chú nghe đến đây hỏi
ngắt ngay:

- Tống cổ tôi đi ấy à! Tôi sẽ chỉ đi khỏi xứ này khi nào tôi mở được nhiều cửa hàng ở Hà Nội, mở sông Hồng Hà thông thương cho suốt đến Vân Nam và tôi muốn ra vào, đi ở lúc nào cũng được, tùy ý tôi. Còn như những Hoa thương bị bắt, tôi sẽ lựa chiều ép buộc bọn quan An Nam tha dần. Lê Đạt Ký chủ thầu mỏ kẽm được về rồi đấy.

- Vâng, bác Lê Đạt Ký mới được thả mấy hôm nay, nhưng phải lễ mất năm trăm lạng vàng! Huỳnh Lục Ký nói thủng thẳng.

- Ông ấy dại nên mới chịu mất tiền thế chứ. Tôi đã đòi họ phải tha hết. Họ còn giữ thể diện với dân họ, nên họ sẽ thả dần.

- Nhưng thưa ông, tôi thấy quan và dân An Nam họ làm dữ dội lắm. Tôi sợ họ sẽ kết án xử tử mấy anh em đồng bào của tôi mất. Nếu họ không sợ làm sai ý triều đình, tôi thiết tưởng họ sẽ đánh bật ông đi rồi. Đánh ông, họ sợ trái với hòa ước, nên họ đổ vào đầu chúng tôi. Họ quay ra trừng trị chúng tôi. Anh em chúng tôi ở giữa chết chẹt.

Đồ Phổ Nghĩa tươi hẳn lên, dịu dàng nói với khách:

- Ấy tại ông anh không nhìn quán xuyến, ông anh mới nghĩ như vậy chứ các quan An Nam không phải người nào cũng ghét chúng tôi cả đâu. Những kẻ thức thời đều biết chúng tôi đến là có lợi cho họ. Mà đều là những quan to có thế lực.

Đồ Phổ Nghĩa đứng lên, rút cái ngăn kéo ở cái tủ đựng tài liệu để ở cuối đi-văng kê sát vách, lấy ra hai tờ giấy bản cầm đưa cho Huỳnh Lục Ký, vừa ngồi xuống bên cạnh, nói tiếp vẻ thích chí:

- Đây hai bức thư có dấu son đỏ chóe hẳn hoi, một bức của quan Tổng đốc Hoàng Tá Viêm, một bức của quan Kinh lược Lê Tuấn gửi cho tôi đã hơn một tháng nay. Đấy ngài xem, tôi có nói dối đâu.

Hắn quay ra nói với hai người ngồi ở ghế dài:

- Anh cho đi mời hai ông khách kia lại, ta vừa ăn vừa nói chuyện bàn cũng được. Anh gọi chúng nó vào mở rượu.

Mi Lộ đi ra ngoài. Mấy cô gái Thượng Hải vào đứng ở bên cạnh đôn sứ, và đi lại bày các thức ở trên bàn lại cho ngay ngắn thêm, sẵn sàng đợi lệnh hầu bàn. Một người Tây mặc tạp-dề 1 trắng kiểu nhà bếp đứng thập thò ngoài cửa. Trong khi ấy, Huỳnh Lục Ký mở hai tờ giấy ra xem qua. Đúng hai bức thư của hai ông quan lớn nhất ở Bắc kỳ, dấu kiềm, ấn son còn như lóe cả mắt. Bức thư thứ nhất dài đặc cả hai trang giấy, gửi trước, của Hoàng Tá Viêm còn in rành rành cả hai ấn quan phòng lớn với những chữ: “Tổng thống quân vụ đại thần” và “Sơn Hưng Tổng đốc”. Tờ thứ hai ngắn hơn, gửi sau mấy ngày là của Lê Tuấn với chức tước: “Bắc kỳ Khâm sai Thị sự đại thần” 2 và ấn son bốn chữ “ Bắc kỳ Thị sự”. Hắn chưa kịp đọc, Mi Lộ đã dẫn hai người khách nữa đến, hai người An Nam lạ mặt. Mọi người cúi đầu chào nhau. Đồ Phổ Nghĩa đứng lên giới thiệu Huỳnh Lục Ký với hai người, và lần lượt nhắc đến họ tên và chỉ vào từng người một:

- Đây là ông Trương giúp việc chúng tôi ở Hải Dương.

- Đây là ông Phạm Quang Diệu ở Hà Nội, đều là người theo đạo Thiên chúa do bề trên run rủi được các đức cha đưa đến với chúng tôi. Hai ông ở Hà Nội nên làm quen nhau đi.

Mọi người lại bắt tay nhau niềm nở. Đồ Phổ Nghĩa thân kéo tay từng người khách mời ngồi vào ghế, rồi mới cùng với Mi Lộ, Lý Ngọc Trì cùng ngồi xuống sau. Hắn ngồi bên cạnh Huỳnh Lục Ký đối diện với Phạm Quang Diệu, nâng cốc mời mọi người và nói:

- Hôm nay là bữa cơm người nhà cả, bữa ăn bàn công việc.

Rồi không để ai nói tiếp, hắn nói luôn với Huỳnh Lục Ký:

- Ta vừa ăn vừa bàn. Tôi không biết chữ nho, ngài đọc cho tôi xem họ dịch có đúng không?

- Tôi xem qua đủ rõ rồi. Huỳnh Lục Ký nói, tôi xin đọc bức ngắn của quan Khâm sai Lê Tuấn thôi.

- Vâng, cũng được, xin ngài uống rượu rồi đọc. Đồ Phổ Nghĩa mời.

Huỳnh Lục Ký ầm è lấy giọng rồi lên tiếng đọc:

“Bắc kỳ Khâm sai Thị sự đại thần Lê Tuấn kính đệ quan đoàn trưởng đoàn thuyền Đồ Phổ Nghĩa quý sứ đại nhân: Bản chức đã tiếp được bức công văn của quý sứ về bọn phỉ Hoàng Sùng Anh. Bọn nghịch phỉ này tàn phá miền thượng du Bắc kỳ đã lâu mà triều đình chưa dẹp tan được. Bọn phỉ ấy là gốc sinh ra mọi đói khổ ở Bắc kỳ này. Bản chức rất lấy làm kinh ngạc, thán phục quý sứ đã đi qua đám giặc ấy mà không việc gì cả. Quý sứ thật là bậc dị nhân kỳ tài đã thuyết phục được bọn ấy, nói cho chúng nghe ra và biết phục thiện đầu hàng. Bản chức và các quan của bản triều đều bất lực, không làm được như thế. Xin ghi nhớ công quý sứ đã làm cho bản quốc được yên, và do đấy là kẻ có trọng trách ở biên cương, càng thấy mình quá bé nhỏ bên cạnh quý sứ. Bản chức vội sức ngay cho các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa biết. Bản chức cũng vừa tiếp được thư của quan Tuần phủ Vân Nam. Khi nào phụng tiếp được chỉ dụ của triều đình gửi ra, bản chức sẽ cố tìm mọi cách làm cho quý sứ được hân hoan sở cầu như nguyện.

“Tự Đức hai mươi sáu, tháng năm, ngày tám”.

Đọc xong, Huỳnh Lục Ký đưa trả cả hai tờ giấy bản cho Đồ Phổ Nghĩa. Tên này cầm lấy đưa cho Phạm Quang Diệu xem và nói:

- Đấy chả phải họ sợ chúng tôi là gì? Nên khi biết ông Khâm sai này cấp bằng cho cái anh Bát phẩm bị can án đứng ra giao thiệp với chúng tôi, tôi đã không nhận, tôi đuổi về. Mình chỉ là một anh nhà buôn thôi, nhưng họ đã sợ mình thì mình cứ làm già lên.

- Nhưng thưa ông, đấy chỉ là một vài kẻ cá nhân riêng biệt, còn cả triều đình nữa, khi nào họ chịu sợ một cách vô lý quá đáng.

- Thì triều đình cũng chỉ là các ông quan to thôi chứ gì? Vả lại ở đây lại khác. Ngài hẳn biết ngoài này trước kia là một nước khác, nước của vua Lê, nhân dân ở đây còn nhớ vua Lê ghét triều đình Huế, nên nếu bọn quan ngoài này mà không chịu mở đất thông thương, thì chúng tôi sẽ giúp cho con cháu nhà Lê lập lại nước cũ, dễ như trở bàn tay. Nhưng đấy là nói chuyện đường dài. Còn đối với chúng tôi thì cốt sao mở được đất thông thương, mở cửa hiệu, mở xưởng máy, tự do đi lại, đem ánh văn minh đến khai hóa đất này, cho thiên hạ vào đây buôn bán, tứ hải giai huynh đệ. Cứ bọn nào chịu theo như thế là được, chả phải lôi thôi gì cả.

Ngừng lại, thấy mình nói quá nhiều, Đồ Phổ Nghĩa vội đổi chiều:

- Nào mời các ông ăn uống đi chứ!

Thấy bên kia, Lý Ngọc Trì đang vui vẻ giúp đỡ hai người bạn bản xứ sử dụng dao dĩa cho đúng cách, hắn bằng lòng, tớp một ly rượu mạnh, ăn một miếng bít-tết, lấy đầu khăn ăn lau qua mép, rồi lại nói với Huỳnh Lục Ký:

- Bây giờ ta bàn đến chuyện gần. Ngài có đồng ý với tôi là sở dĩ có tình trạng nguy kịch như hiện nay là vì bọn quan ở đây vừa sợ chúng tôi, vừa sợ dân chúng của họ, một bọn quan lại bất lực.

Giá như lúc mới đến, còn để thăm dò tâm địa và ý định kẻ đối thoại, Huỳnh Lục Ký đã định hỏi một câu soi mói: “Nếu không bất lực thì cứ để mặc kệ các ông làm gì cũng được có phải không?”. Nhưng may, hắn đã nhìn rõ tình thế hơn, thấy Đồ Phổ Nghĩa thông thuộc tình hình Bắc kỳ này hơn, lại có nhiều tay trong người An Nam, cả từ quan cho đến dân, hắn mới tỏ quyết tâm vệ hẳn về kẻ đã hạ cố mời mình đến chơi ngày hôm nay, nên hắn dịu lời:

- Thưa quan thuyền trưởng, tôi thấy ông nghĩ đúng, thật họ lúng túng, sợ các ông lại vừa sợ cả dân gây ra lôi thôi làm cho họ phải chịu lỗi.

Mãi đến bây giờ mới thấy Huỳnh Lục Ký ngả về phía mình, Đồ Phổ Nghĩa cho là đã thuyết phục được người khách buôn lõi đời ấy trung thành với mình, liền hỏi ngay sang những việc cụ thể:

- Ngài thấy việc đánh lão Đốc học thế nào? Có lợi chứ?

- Vâng, tôi cũng thấy có lợi, nhưng cũng thêm khó khăn. Huỳnh Lục Ký trả lời. Toàn dân người ta khích phẫn…

Đồ Phổ Nghĩa vội ngắt:

- Việc đời việc nào mà chả có khó khăn. Nhưng dân phẫn khích thì các quan càng sợ, càng phải giữ ép dân, mặt khác dân có phẫn nộ mới bùng ra những hành động, ta mới biết mà đối phó chứ. Ngài đã biết chúng tôi chỉ là một bọn khách lạ đến đây, chúng tôi đi suốt con sông này lên đến Vân Nam trở về vô sự, chúng tôi đóng đoàn thuyền ở đây, chúng tôi có kho hàng ở trên bến, chúng tôi lại đóng quân ở giữa phố buôn bán, chúng tôi lại giao thiệp thân ái với các quan chức có thế lực ở đây và ở bên quý quốc, chứng cớ là tập thư từ hàng đống kia kìa. Thế là chúng tôi mạnh, lại có bao nhiêu người phù trợ chúng tôi. Chúng tôi nhất định phải mở mang xứ này. Tương lai phồn vinh ở đây là ở trong tay chúng tôi. Thế tất tương lai kinh doanh của các ông phải gắn liền với chúng tôi chứ không phải với bọn vua quan An Nam. Chắc ngài thấy rõ điều đó.

Khoái trí vì đã nói rõ được oai thế của mình, Đồ Phổ Nghĩa uống thêm một cốc rượu mai quế lộ, cầm cả đùi gà quay lên ngoạm như có ý tự thưởng thức sự đắc thắng của mình và hất hàm bảo hai ông bạn người bản xứ:

- Ăn đi chứ!

Nhai xong miếng gà quay, lau sạch mép, uống thêm một ngụm rượu rồi, vẫn thấy Huỳnh Lục Ký ăn nhỏ nhẻ cầm chừng, hắn giục:

- Nào mời ngài ăn đi chứ!

Rồi hắn đi ngay vào vấn đề đã định sẵn:

- Mọi việc lúc đầu có khó thì về sau lợi mới nhiều. Đã gắn bó với nhau cùng một mối lợi chung, tất nhiên ta nên giúp nhau cùng vượt khó khăn trở ngại. Chắc ngài cũng nghĩ thế. Trong cuộc giằng co tranh chấp, bên nào khôn khéo ly gián, đánh rời rạc đối phương là bên ấy thắng. Công việc ấy chúng ta đã làm tốt, và ngài đã giúp chúng tôi khá nhiều, nhất là gây được hòa hảo với quan huyện sở tại. Bây giờ, chúng tôi muốn nhờ ngài mấy việc: Trước hết làm sao kéo được dân nghèo về phía chúng ta, cả Khách và Nam, muốn thế phải gây làm sao cho bọn quan An Nam bắt bớ nhiều vào. Thứ hai, lựa thế nào được mấy người về hùa giúp chúng tôi, nhất là cánh đồng môn nào ấy và Bá hộ Kim. Sau nữa, chúng tôi muốn sao những bức thư của các quan An Nam gửi cho tôi được đem niêm yết khắp các phố cho dân chúng biết, ngài tính có nên không?

Huỳnh Lục Ký im lặng ngẫm nghĩ mãi từ nãy đến giờ, thấy hỏi, vội trả lời:

- Nên lắm, vừa làm tăng thêm thanh thế cho mình, vừa là một cách ly gián khéo.

- Vâng, ngài nói đúng, Đồ Phổ Nghĩa tiếp. Dán lên rồi tất có kẻ xé đi. Chúng tôi nhờ ngài theo dõi những kẻ phá hoại ấy để biết mà tìm cách đối phó. Cuối cùng, ngài nên để tâm xem xét trong hàng Khách trú những kẻ nào có ý chống đối hẳn lại chúng tôi.

Ngừng lại một lát, Đồ Phổ Nghĩa cười vui vẻ, nói tiếp với vẻ cởi mở:

- Chúng tôi chỉ nhờ ngài có thế. Tôi tin rằng ngài sẽ làm được, vì ngài kín đáo, thận trọng hơn các ông Quan Tá Đường, Tống Tài. Mà những việc tranh giành khó khăn, chúng tôi xin cáng đáng cả. Đi với chúng tôi nhẹ mình không nguy hiểm mà chỉ có lợi thôi. Các ông Quảng An Đường, Vạn Thịnh ở trong Sài Gòn vừa buôn bán lớn, vừa tham dự vào quan chức của Súy phủ chúng tôi, chắc ông đã biết.

Mọi việc coi như là đã thỏa thuận, Huỳnh Lục Ký thấy không cần nhắc lại, chỉ nhắc riêng điều đã nói lúc mới đến:

- Thế nào ông cũng phải đòi thả cho được bọn Quan Tá Đường.

- Chúng tôi sẽ cố đòi và đòi cả bồi thường nữa, Đồ Phổ Nghĩa vừa nói, vừa vỗ vai Huỳnh Lục Ký. Nhưng chóng hay chậm là còn do quan An Nam và cũng là do sức mạnh của ta có lan rộng không đã. Cho nên muốn chóng thả các bạn của chúng ta, chúng ta càng cần phải cố gắng mau chóng làm cho được những kế hoạch đã định.

Thấy không còn gì phải nói thêm nữa, Đồ Phổ Nghĩa chỉ hai người An Nam bảo Huỳnh Lục Ký:

- Ngài nhận diện hai người này để sau này tiện gặp nhau.

Huỳnh Lục Ký quay nói tiếng Việt với hai người:

- Mời hai ông đến chơi nhà tôi ở hiệu Hằng Dụ phố Hàng Ngang.

Lão Trương nói:

- Tôi không sang Hà Nội, tôi về thẳng Hải Dương.

- Còn tôi, Phạm Quang Diệu nói, tôi chưa ở hẳn Hà Nội, tôi chỉ qua lại chốc lát thôi, lúc nào tiện, tôi xin vào hầu tôn ông.

Bữa tiệc cũng vừa tan, mọi người ngồi xuống đi-văng và ghế dài ăn quả và bánh ngọt tráng miệng. Huỳnh Lục Ký xin phép ra về. Đồ Phổ Nghĩa chỉ cái bàn đèn thuốc phiện bằng bạc để trên bàn con, mời:

- Rước ngài ở lại với chúng tôi đi bay chơi mây khói một chuyến.

- Thôi, thưa quan thuyền chủ, xin đủ ạ, xin khất đến khi khác. Tôi cần về sớm một tí, khuya quá ngộ nhỡ người ta ngờ.

- Vâng, ngài đã cẩn thận thế, tôi không dám nài. Đồ Phổ Nghĩa nói và vỗ vai thân mật người đối thoại. Cám ơn ngài đã đúng hẹn đến chơi với chúng tôi. Rất mong một ngày gần đây, chúng tôi được dịp thân đến nhà đáp lễ ngài, thưa ngài bang trưởng, chúng tôi muốn ăn tiệc ở ngay nhà ngài. Cái ngày ấy chúng tôi mong nó sẽ là công của ngài.

- Tôi sẽ rất hân hạnh được đón tiếp các quan đến tệ xá, Huỳnh Lục Ký cười cảm động nói, thưa quan thuyền trưởng. Bây giờ tôi xin phép quan cho phép tôi về. Kính chào quan Chánh, chào quan Phó, chào quan Phủ.

Và hắn chào hai người bạn An Nam bằng tiếng Việt:

- Chào hai ông, hai ông còn ở chơi đây chứ?

- Vâng, sáng mai chúng tôi về thuyền, lão Trương đáp.

Mọi người thân mật bắt tay khách về, Đồ Phổ Nghĩa, Mi Lộ, Lý Ngọc Trì thân đưa khách xuống tận thuyền. Lại một lượt chào và bắt tay nữa. Lý Ngọc Trì nhảy xuống trước và nói:

- Tôi cũng về cơ mà, sao ông lại chào?

Đồ Phổ Nghĩa dắt tay đỡ Huỳnh Lục Ký xuống thuyền và nắm chặt giật giật thân mật một lúc mới buông vừa chúc:

- Mạnh khỏe, thành công! Nhớ nhé, liên lạc luôn!

Con thuyền quay mũi vào bến đi trong đêm sáng sao, lướt nhanh và êm như gió. Không một ai nói gì. Những ngôi sao dày chi chít như những cúc bạc sáng bóng gài xít trên nền thảm xanh lơ, tỏa ánh sáng ruồng, lấp lánh như cười thầm cuộc đi chơi lén lút. Huỳnh Lục Ký cảm thấy như thế nhưng nghĩ đến lợi, nghĩ đến người Tây sẽ trọng vọng mình và nhất là nghĩ đến chóng chầy thế nào người Tây cũng chiếm cứ đất này, như Đồ Phổ Nghĩa đã nói, hắn tự thấy lẽ phải ở mình, thấy sự đắc thắng lớn lao ở dịp đi này, nên hắn cười thích chí. Thuyền đến bến, hai người lính vác súng lên trước hắn, bước theo Lý Ngọc Trì lên sau, rồi lọc cọc đôi guốc đi ngang nhiên trên con đường lát đá cho vang thêm tiếng động như không cần giấu giếm gì nữa. Đến trước cổng hội quán, hắn khẽ chào Lý Ngọc Trì rồi đi thẳng. Đến chỗ cái ao trước đền Bạch Mã, hắn đứng dừng lại lưỡng lự, ý muốn đi thẳng lên phố Hàng Đường qua cầu Đông mà về, đêm đã khuya, phố vắng vẻ, có gặp ai mà sợ. Nhưng nghĩ sao hắn lại rón rén vòng qua ao đi sang phố Hàng Giầy để trở về cổng sau. Vẫn vắng vẻ, không gặp một ai. Trong một ngõ ngang, một ngọn đèn le lói soi rõ một gánh hàng quà đang bán. Mấy người ngồi ăn. Than bếp lửa còn đỏ hồng cho hắn biết đó là gánh hàng phở hay cháo. Hơi chột dạ, hắn đi nhẹ guốc và bước nhanh hơn. Bỗng từ trong ngõ một bóng đen chạy xồ ra giọng lè nhè:

- À cu cậu đi ăn mảnh phải? Phát tài vào đây chén với chúng tớ!

Hắn bước vội, tức thì bóng đen vượt hẳn lên giang tay ra và gọi:

- Anh em ơi! Nó chuồn!

Huỳnh Lục Ký gạt được tay, bỏ guốc chạy thục mạng. Tức thì ở trong đình Trâu Khê, một bóng người cao lớn xông ra chộp luôn bàn tay rắn chắc vào cẳng kẻ đang chạy làm hắn ngã sóng soài xuống đường văng cả mũ đi xa, trong khi mấy người chạy theo sau nói láo quáo:

- Mẹ kiếp! Thời buổi này mà nó còn muốn làm thần giữ của. Nó đi hót của Tây về đấy!

- Ê hê! Chưa chi đã sóng soài lạy anh thế à?

- Đàn em hèn thế mà dám trêu vào các ông anh à? Ở đâu mới đến dại dột lớ ngớ thế?

Nhưng khi mấy người chạy đến nơi thì Huỳnh Lục Ký đã ngồi dậy, người cao lớn đang chạy đi nhặt cái mũ và nói với mọi người:

- Ông Hằng Dụ đấy.

Mấy người chạy xúm lại vây quanh đỡ hắn đứng lên, phủi quần áo và hỏi:

- Ông bang đấy à?

- Phải! – Huỳnh Lục Ký miễn cưỡng trả lời.

Một người chạy đi nhặt đôi guốc đem lại, mấy người hỏi dồn:

- Ông đi đâu thế?

- Sao ông không lên tiếng?

- Tại ông không nói, anh em tưởng là kẻ gian!

Người cao lớn chộp ngã ông lúc nãy gạt đi và nói:

- Mời ông vào tạm trong đình này nghỉ tí đã, rồi tôi xin đưa ông về.

Huỳnh Lục Ký nghĩ cần phải thanh minh làm sao cho bọn này khỏi ngờ, liền vui vẻ theo người kia vào đình, vừa đi vừa nói:

- Tôi muốn đi xem quang cảnh phố xá và các chú làm ăn thế nào?

- Bây giờ khác nhiều, một người nói, phố vắng vẻ ngay từ chập tối. Người Nam chả còn ai đến đây làm gì.

- Vất vả lắm, ông ạ! Người khác tiếp. Sống như cá chốc thớt!

Cái người say rượu đuổi lúc nãy lè nhè hỏi:

- Sao ông không lên tiếng? Tôi ngỡ kẻ nào lẻn đi làm cho Tây thì chúng tôi sẽ dần cho một trận!

- Sao ông lại ăn mặc thế này? Làm anh em không nhận ra.

Cả bọn đã vào đến sân đình. Huỳnh Lục Ký ngồi xuống cái ghế dài bốn chân tre xoạc ra kê tựa vào gốc một cây sung, một quả sung chín bị dơi ăn rụng đánh bộp vào đầu, hắn giật mình hoảng sợ co rúm lại, làm mấy người cười ồ lên và nói:

- Quả sung đấy chứ không phải con gì đâu!

Trấn tĩnh lại được rồi, Huỳnh Lục Ký cười chữa thẹn và trả lời câu hỏi:

- Tôi phải mặc thế này để cho cả Tây và Nam họ không nhận ra thì mới đi được khắp các phố chứ. Sở dĩ tôi không lên tiếng là cũng không muốn anh em nhận ra tôi, tưởng đi vượt lên một tí qua khỏi thì một lúc nữa là về đến nhà.

Hắn ngừng lại, mới kịp có thì giờ nhìn rõ mọi người dưới ánh sáng của bếp lửa đang cháy lom dom bập bùng ở trong một bên gánh hàng để bên bức tường tắc môn. Thấy người cao lớn đang cúi lom khom thổi lửa, hắn hỏi:

- Ả Sìn cũng lên bán hàng kia à?

- Bẩm ông, hàng dưới ấy ế lắm. Mấy tháng nay tối nào tôi cũng phải lên bến và về đây bán cho anh em phu. Người kia ngẩng lên, ngồi xổm đáp.

Lấy lại tư thế kẻ cả, Huỳnh Lục Ký thân mật hỏi mọi người:

- Các chú dạo này làm ăn thế nào?

Một người đáp:

- Không bao giờ như thế này. Chả ra sao cả. Bọn Tây hoành hành, quan Nam bắt bớ… Cũng đến bỏ sới đi nơi khác thôi.

- Buồn quá, chúng tôi thường rủ nhau ra đây nhậm và sực, một người nữa nói tiếp. Kẻ có nuôi người không…

- Nên tưởng có kẻ đi ăn mảnh, anh say rượu nói lè nhè, anh em định tóm cổ lôi vào…

Huỳnh Lục Ký thấy cần lựa lời lấy lòng họ:

- Các chú cứ việc yên trí ở đây chịu khó làm ăn, có gì trở ngại cứ đến hỏi tôi. Nghe nói đâu bọn Tây nó đã xin được phép quan An Nam cho họ được mộ người giúp đỡ khuân bốc hàng, chuyên chở hàng cho họ đem lên mạn ngược. Tất nhiên các quan phải để cho mình làm…

- Nhưng người An Nam không làm, mình đi làm, nó thế nào ấy, một người nói. Đã có lệnh cấm, người ta cứ bắt thì sao?

- Tây nó đến đã quá nửa năm, nó đã làm nhà lên phố, không đuổi nó đi được, tất phải cho nó ở chung, bình thường như mình. Mà sở dĩ nó hoành hành cũng tại nó bị trói buộc quá. Nên các quan An Nam mới đổi cách, cho nó được thuê mượn người. Vậy ai bắt bớ làm khó dễ, các chú cứ chạy đến tìm tôi. Nếu thật có phép rồi, tôi sẽ có thể giúp đỡ được.

Ả Sìn đã đứng lên xếp gọn chồng bát trên mặt cái hòm gỗ vuông bên gánh, rồi cầm hai thanh gỗ gõ vào nhau kêu tục tắc, cũng nói xen:

- Nhưng người Nam không làm cho Tây, họ sẽ bảo mình đừng làm. Chả nhẽ không nghe!

Nghe nói thế, Huỳnh Lục Ký mừng thầm đã nắm được mối dây rồi, nhưng không dám hỏi gạn ngay, chỉ nói khuyên giải:

- Thì mình cũng cứ nói là cùng bất đắc dĩ, đói thì đầu gối phải bò, mình không làm, người khác cũng làm. Vả quan trên đã cho phép, cứ nói tình thực cảnh khổ của mình, chắc họ cũng chả nỡ…

- Thưa ông xơi một bát mằn thắn? Nóng ngon đây ạ. Ả Sìn hỏi.

- Thôi, cám ơn chú, tôi còn no - Huỳnh Lục Ký đáp và hỏi lại: Khuya rồi, sắp về chưa?

- Bẩm cũng đợi một lúc lâu nữa, còn một số anh em ăn quen. Ả Sìn đáp và ngập ngừng nói thêm:

- À, bẩm ông, cái việc Ả Chí xin khai vào sổ hàng bang từ tháng trước, ông đã nhận cho, thì xin bảo cho hắn biết để yên trí làm ăn ở đây.

Sực nhớ ra điều gì thấy vừa khớp với ý mình đang mong mỏi, Huỳnh Lục Ký vội vồn vã:

- Ừ được, trưa mai, bảo hắn đến, tôi xét xem có thể làm ơn được. Hơi khó đấy. Nhưng nhớ nhắc hắn cứ đến đúng hẹn nhé. Thôi chào các chú, tôi về đây, các chú cũng liệu mà về đi, khuya rồi.

Hắn đứng lên đi ra. Ả Sìn vội nói:

- Để tôi cầm đóm đưa ông về đến cổng.

Một người đứng lên chạy theo và nói:

- Thôi, chẳng đèn đóm gì cả, để tôi đưa ông đi tắt xóm Nội Miếu.

Huỳnh Lục Ký bằng lòng, cùng với người kia biến khuất vào trong bóng tối.

° ° °

Họp ở trường học của quan Đốc Mọc phố Hàng Đậu để biết qua bệnh tình quan Đốc và bàn mấy công việc cần, bác Hai Phúc cùng mấy ông bạn đồng môn ra về, rủ nhau tạt qua chợ Đồng Xuân. Hôm nay là phiên chợ chính, lại đương giữa vụ thuế tháng năm. Mấy người định bụng vào xem cho biết giá cả, hàng họ và dân tình lo liệu thuế má thế nào. Nhưng khi vào đến cổng chợ, cả bọn sửng sốt thấy chợ chỉ lèo tèo một dúm người như sắp tan, phiên trước và phiên nay khác hẳn, tuy tình thế có gay go, mọi người đều biết, nhưng không ai ngờ chợ lại vắng đến thế, vắng như phiên xép mồng ba tết đầu năm. Mọi khi, không phải dịp thuế, vào lúc nửa buổi non trưa này, chợ đã chật ních những người. Năm dẫy lều ngói cao rộng và gần chục lều gianh đầy ắp những người chen chúc, len đi lách lại khó khăn, làn sóng người còn cuồn cuộn nối dài cánh bãi ra mãi đến bến đò đình Thanh Hà. Phía bắc chợ, lợn gà và trâu bò từ sân đình phường Đồng Xuân họp tràn lan ra mãi đến đình Phúc Lâm gần cửa ô. Thế mà hôm nay tất cả tứ phía đều như quang cảnh ngày hội đã rã đám. Bến Cháy cửa ô Đông Hà có bọn Tây đóng án ngữ ở đấy, không thuyền buôn nào muốn đến ghé vào đã đành, ngay đến Thanh Hà cũng không một thuyền nhỏ nào từ dòng sông Tô luồn qua ngòi nhỏ mà vào chợ nữa. Dân đi bộ ở các làng xã ngoài thành cũng không mang sản vật đến chợ bán, hoặc đi mua sắm. Thành ra chỉ còn quanh quẩn người mấy xã thôn phường phố trong hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận họp chợ với nhau mà thôi. Thảo nào không có tiếng vọng xa và trông cái chợ cứ mông mênh như lúc xế chiều mọi phiên trước kia, chợ thông thống, suốt chợ như đếm được người trên đầu ngón tay. Có thứ hàng thì ê hề chẳng ai mua và có những thứ tìm kiếm đến bói chẳng ra! Đứng ở lều ngói giữa chợ nhìn khắp một lượt tứ phía, bác Hai gọi mấy ông bạn đang chạy đi tìm mua lợn con về nuôi, và nói:

- Thế này thì loạn rồi còn gì nữa? Ai lại chợ búa thế này! Mình tưởng nó cũng được như buổi trước.

- Thì đã bảo cái tụi này không trị cho nó ra môn ra khoai thì không thể nào chịu được. Một ông bạn thợ thêu ở xóm Yên Thái đằng sau Hàng Hòm nói. Ai lại nó làm như phố buôn bán này là của nó rồi, nó muốn làm gì thì làm, nó cấm đoán mọi thứ, nó không cho mình đi đông người ở ngoài phố! Cấm cả mang khí giới trong người.

Một ông bạn bán đồ đồng nát ở phố Phúc Kiến nói:

- Có ở cái phố Hàng Buồm, Hàng Ngang nó muốn dán giấy huênh hoang thế nào, chứ ở phố tôi, hễ thò ra tờ nào là chúng tôi xé tất cho vào bếp. Những tờ giấy to tướng đem đun đến được ấm nước, nào thư của Tam tuyên Tổng đốc, của Bắc kỳ Khâm sai…

- Tôi cho là nó viết láo, ông bạn kia cãi. Nó bịa ra để lòe dân ta đấy thôi. Chứ quan ta ai thèm viết thư cho nó!

Bác Phúc hỏi:

- Dù cho có là chính thư thật của các ông quan đại thần ấy, cũng chẳng ma nào thèm đọc những bức thư dài dằng dặc ấy. Nhưng tức nhất là tờ giấy nó yết cấm cả quan chức và quân lính của ta không được đi đông ở trong phố, và có bắt người và khám nhà phải được phép của quan thuyền trưởng đoàn hỏa thuyền Đồ Phối mới được vào nhà!

- Tên gì mà kỳ quặc thế nhỉ? Đồ Phối có lẽ là nó nói cả hai bên cùng phối hợp khám bắt. Một ông bạn nói:

- Không! Bác Phúc cãi. Tên nó đọc thế đấy. Tôi không đọc nhưng người ta bảo nó ký ở dưới, chứ có ở giữa câu đâu! Nó lại đề niên hiệu Thiên chúa giáng sinh, chứ không viết niên hiệu vua ta, thế mà các quan ta vẫn cứ để yên, lạ quá!

- Thế nên bọn Khách buôn mới cứ nhơn nhơn, ông bạn xóm Yên Thái nói. Họ bảo quan ta sợ Tây, có Tây bênh, quan ta không làm gì được họ, nên xem ra dạo này họ về theo Tây nhiều lắm. Tây nó sống được ở đây là nhờ bọn đó.

Bác Phúc vội ngắt:

- Ta không nên vơ đũa cả nắm làm mất hòa khí, chỉ có lợi cho bọn Tây thôi. Bọn Khách cũng khổ như mình, lại bị bọn buôn lớn nó lừa dối…

- Đúng đấy, chỉ bọn buôn lớn là làm giàu thêm. Ông bạn bán hàng đồng nát tiếp lời, và nói nhỏ hơn: Ta xử tử bọn Quan Tá Đường, Tống Tài rồi đấy, và đưa đi biệt tích một vài chủ hiệu khác.

Ba người đã ra khỏi chợ, đi dọc theo con ngòi Thanh Hà đến dốc Ngõ Gạch ông bạn hàng đồng nói thêm:

- Tôi cho là chỉ tại thằng Tây, mà quan ta thì nhu nhược, nó càng làm già, nên như ta nói ở trường lúc nãy, ta cứ mau mau nện cho nó một trận, nếp tẻ ra sao thì ra, không thì tức lắm, góp công, góp của, tôi có tất. Quan trên cứ đắn đo, văn thân lại đắn đo nữa, thì chúng tôi sẽ thủ dùi đục đi, chúng tôi phang! Cứ để tụi nó khinh nước mình như thế, ai mà chịu được! Cứ một đổi một là giết hết bọn nó.

Đến chỗ ngã ba, ông kia đứng lại rút trong bọc giắt ở cạp quần ra một cái búa con gò đồng giơ lên và nói:

- Tôi vẫn thủ sẵn búa đây. Nhưng thôi chưa phải lúc, tôi không muốn vào phố Hàng Buồm làm gì. Bác Hai có muốn về qua lối này thì về. Chúng tôi đi đằng này.

Hai người rẽ lên đầu phố Hàng Đường, làm cho bác Phúc đang đứng lưỡng lự, vội nói:

- Đợi tí đã nào, sao vội thế?

Hai người rảo bước, không nói gì, bác đứng thừ trông theo, rồi cũng ngoắt đi thẳng xuống Hàng Buồm. Về qua hiệu phở Dụ Hưng, không ai ở nhà, bác vội vã về nhà. Ra đến đầu làng Hà Thanh, gần bờ hồ, bác gặp Bá Kim đang ngồi trên mình con ngựa nâu lộc cộc đi lại và gọi:

- Hai Phúc đi đâu về đấy? Tôi qua nhà gọi không thấy. Và không đợi bác trả lời, lão nói luôn, vừa ghìm cương dừng ngựa:

- Này bác này, tôi vừa ở trong huyện ra được tin triều đình cử quan Khâm mạng ra hòa giải, đòi Súy phủ ở Sài Gòn cử phái viên ra đến nơi là cùng dàn xếp với nhau xong mọi việc, bắt bọn Đồ Phổ Nghĩa phải rút lui hết. Quan huyện được thăng Tri phủ, mai ngài đi nhậm chức mới, ngài có dặn tôi cố làm sao giữ cho huyện ta đừng ai gây ra chuyện gì lôi thôi. Ai vô ý nói năng thất thố khích động làm hỏng việc là bị cữu nặng đấy! Nghe nói anh em đồng môn đang rục rịch làm trò trống gì. Bác về bảo với các vị ấy liều liệu chứ không lại uổng công toi mạng! Có bác là chỗ quen thuộc đi lại, tôi mới bảo thật đấy.

Bác Hai hỏi lại:

- Nhưng thưa cụ, cứ chịu để cho nó hoành hành mãi thế à? Cùng bất đắc dĩ mới phải làm đấy chứ. Nó đánh cả quan Đốc thì còn giời đất nào nữa? Mà quan Đốc có đào mồ cuốc mả bọn nó đâu? Ngài chỉ bảo nó đừng vẽ họa đồ cổng thành.

Bá Kim giảng giải:

- Quan Đốc không bằng cụ lớn Khâm sai, cụ Tổng đốc. Các cụ lớn đã bảo không được gây sự với họ thì mình phải tuân. Nếu không tuân, các quan khép vào trọng tội thì đồng môn có bênh và chịu tội chung với không? Ấy có thân thì phải lo là thế. Vả phải bỏ những cái tiểu tiết để mưu lo việc lớn cho nước nhà chứ. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Chẳng qua cũng là cái vận hạn không may của quan Đốc, hạn Tang môn, Bạch hổ.

- Thế thưa cụ, cụ không làm gì cả mà nó túm đánh cụ thì cụ có tức không? Hay cụ cũng im đi mà giúp đỡ kẻ đã đánh mình để mưu việc lớn cho nhà nước, rồi cũng bảo đó là vận số.

Bá Kim thấy bị kẻ dưới quyền vặn lý, đâm cáu, phát khùng gắt:

- Ai cho anh cãi lý với tôi? À quân này hỗn thật! Chúng bay cậy có bè, có cánh phải? Ông truyền hồn cho biết: Cứ ti toe vào đấy rồi có chết chẳng ai thương.

Rồi lão giật cương cho ngựa chạy, mặt vẫn còn hầm hầm. Bác Phúc đứng ngây mặt ra, vội nói vớt:

- Thưa cụ!

Cũng gờm vai vế của cánh đồng môn Tự Tháp lúc này, Bá Kim thấy tiếng gọi vớt, được dịp vội ghìm ngựa lại, nói đấu dịu, chữa cái vẻ giận dữ quá đáng:

- Như tôi à? Không khi nào tôi bị ai đánh cả, vì tôi có trêu chòng ai, và hễ khi tôi hơi nóng nẩy, tôi biết ngay, kìm ngay lại được. Như vừa xong đấy, tôi có hung hăng với bác, chẳng qua là tính tôi thẳng, tôi thấy thế nào tôi nói thế, có chỗ thân tình tôi mới bảo, còn nghe hay không là tự ý. Thế mà bị bác vặn lý là tôi cáu nói mất mặn mất nhạt ngay. Nhưng tôi biết mình nóng lại hối ngay. Bác cũng không nên để tâm…

- Dạ, không dám! Bác Phúc đỡ lời. Tôi vốn biết cụ hay nói sỗ, nóng như lửa.

- Thôi bác về đi!... Này dạo này hàng ế ẩm cũng liệu mà xoay xở nghề gì kiếm thêm cho bác gái khỏi kì kèo…

Lão cười, giơ roi khẽ quất cho con ngựa bước mau đi, mặc cho bác Phúc ngẩn ngơ nhìn theo. Bác lững thững trở về, ra chiều nghĩ ngợi. Về đến nhà, cửa vẫn còn đóng tất cả, bác đẩy cánh cửa liếp nhà ngang, đi lên nhà trên, cởi cái áo cánh nái ra treo lên cột, mặc cái áo vải nâu vào, rồi đi ra mở rộng cửa nhà trên. Gọi chẳng thấy ai thưa, bác chạy thẳng xuống bếp, vừa láo quáo:

- Đi đâu cả rồi? Đóng cửa để đi chơi à?

Vào đến bếp, thấy vợ bế đứa con nhỏ đang ngồi đun lom dom ấm nước, có vẻ đang giận dỗi, bác cố dịu dàng pha trò:

- Ngồi chầu vua đấy à? Sao hỏi không nói? Nhà cửa cứ đóng im ỉm như nhà không có người ấy! Cái Hiền đâu?

- Mở cửa mà đón bụi à? Bác gái nói chì chiết. Đi biền biệt cả ngày ấy, chả nhìn đến nhà. Làm mõ một nhà không chán, lại muốn làm mõ cả hàng tỉnh, hàng huyện à?

Bác vớ lấy cái chổi cọ buộc lạt lại đang định quét qua cái sân con trước cửa bếp, giáp mặt hồ, thấy vợ nói thế, đứng sững lại, nhìn vợ trừng trừng, cố nén giận dịu dàng hỏi:

- Bu mày hôm nay làm sao thế? À cụ Bá vừa xui bẩy chứ gì?

Bác gái vẫn thản nhiên ngồi chụm hai bàn chân vào nhau, tòe thêm hai đầu gối, hai tay bế giở chiều lại cho đứa bé, đặt gọn vào lòng, rồi kéo lại mép gấu váy trùm kín lên đầu gối, vẫn nói giọng gay gắt:

- Cụ ấy chả hơi đâu cụ ấy xui. Cụ ấy chỉ bảo quan trên đã cấm mà cứ đi nghe dại theo cánh đồng môn, thì rồi đầu chẳng phải, phải tai! Môn với chả khoai! Có cỗ bàn thì đến mà hầu đã đành. Nay công việc đấm đá ở những đâu đâu ấy, cứ na mô hớt, nhong nhong chạy như chó dái. Ai người ta coi anh ra gì mà cũng ghé đầu chịu báng?

Thấy vợ nói cũng có phần nào đúng, nhưng nghĩ lại quan Nghè trước vẫn yêu thương mình, và hiện nay quan Đốc và các ông Cử, ông Mền ở gần đây đều coi mình ngang hàng, bác nhận ra rằng bị vợ cằn nhằn cũng chính là tại mình ít chữ mà thôi, bác cũng thấy cam phận, mắng gạt vợ đi:

- Này câm cái mồm đi! Đừng có mà nói láo! Mỗi người một việc chứ, mình vô học ít chữ thì phải làm nặng nhọc chứ ai bắt. Còn công việc bây giờ là việc chung, ai cũng phải góp sức vào, nếu ai cũng nghĩ như bu mày, thì rồi Tây nó đến nó đốt nhà nó bắt bu mày và con Hiền đi thì trơ mắt ra mà nhìn à? Nó đánh quan Đốc được, nó giết ông lý Kim Liên được, thì dễ nó lép nó không đến nó bắt đàn bà con gái? Và hàng họ vắng thế cũng cứ ngồi ở nhà khoanh tay mà nhìn à?

- Vắng! Ế! Thì phải nghĩ cách nào kiếm gạo mà nuôi vợ con chứ, bác gái bế con đứng dậy, vùng vằng đi ra sân.

Bác Phúc không nói gì nữa, quẳng chổi tựa vào hè, lẳng lặng đi lên nhà trên, vừa tự nghĩ:

- Ra nó lo con nó đói. Đàn bà chỉ biết nhìn nông như cái đĩa đèn!

Không vào nhà, bác đẩy cửa buồng xép bước vào, chợt thấy con gái nằm quặp hai tay lên gáy úp mặt vào phía cái hòm gian, bác phát mạnh đánh đét vào lưng, gầm rít lên:

- Con chết tiệt này mày nằm lỳ đây à? Ngủ ăn hay ngủ bán?

Cô Hiền giật mình ngồi nhỏm dậy, bác giơ thẳng tay toan tát cái nữa, chợt thấy hai mắt con gái đỏ hoe khóc đã lâu, bác ngừng lại ngay và hỏi gắt:

- Thằng Hiển đâu?

- Bu đánh nó chạy đâu ấy? Cô gái nắn lại vành khăn trả lời.

- Bố mày chết hay sao mày khóc? Bác hỏi rít lên.

Thấy con gái gục đầu xuống, khoanh tay trên đầu gối, khóc nức nở thành tiếng, trái với tính nết con vốn ít giận, ít khóc, bác dịu giọng hỏi ôn tồn:

- Sao? Lại bu mày đánh phải? Con gái cãi lại mẹ chứ gì?

- Con có dám cãi đâu? Cô gái nức nở sụt sùi đáp. Bu cứ chửi lấy được.

- Con lại không nghe lời mẹ con bảo chứ gì? Bác trấn tĩnh trở lại, hiền từ âu yếm hỏi. Con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư!

- Nhưng bu con sai những việc mà con không thể nào theo được.

Thấy là lạ, bác Phúc cố gạn hỏi thêm. Cô Hiền ngồi ngay ngắn bỏ chân xuống đất, lau sạch nước mắt, nói ấp úng:

- Bu con sai đi các làng mua gà, trứng và hoa quả về bán cho Khách…

- Thế thì sao lại không đi? Bác hỏi hơi có ý trách.

Cô im bặt, ngẩn người ra, hơi lấy làm lạ, vừa lúc bà mẹ ở dưới bếp đi lên, bế con đi ngoài hiên nói láo quáo:

- Mở toang cửa ra thế này mà không ai trông hàng à?

Nhìn vào trong buồng thấy chồng và con như đang bàn tán gì về mình, bác gái điên tiết, xỉa xói vào con gái và bảo chồng:

- Ông có dạy con ông không? Ông xem con ông quý quyền lắm. Tôi không bảo được nó đấy. Nó cứ cãi nha nhả, nó không chịu đi…

Bác quay ra ôn tồn bảo vợ:

- Thì con nó có dại chưa nghe ra, bu mày hãy cứ khuyên bảo rành rọt, tức khắc nó sẽ hiểu. Việc gì cứ chửi lấp liếm trước, làm cho nó mụ đi rồi lại đi gây sự với cả tôi!

- Ối dào! Mụ! Con ông có cái mụ, nó cãi, nó nói cho chảy máu mắt ra ấy. Ông tưởng nó vừa đấy!

Bác Hai quay sang trách con nghiêm nghị:

- Sao hư thế con? Nhà mình là nhà hàng, phải có món ăn, có thức này, thức nọ bán cho khách chứ. Khách người ta vào hàng, người ta ngủ trọ lại, người ta cần đến cái gì là phải sẵn có cho người ta thì người ta mới nhớ đến nhà hàng chứ. Thế nào là bán hàng chiều khách. Bố bận đi vắng, thì ở nhà mẹ bảo con phải nghe.

Thấy bố hiểu nhầm về câu nói lúc nãy mình nói chưa rõ, cô Hiền mừng quá, vội phân trần:

- Thầy nghe chưa hết câu, khách là các chú Khách Hàng Buồm chứ không phải khách vào hàng ta.

Bác Phúc chợt hiểu, mới kịp “À” một tiếng, bác gái đã nói át:

- Đấy ông xem đấy! Bán cho khách Hàng Buồm thì đã sao? Xưa nay dễ thường nhà này không bao giờ chơi với Khách đấy? Chú Sìn vẫn lại đây, và thầy mày cũng hay thì thụt lại đằng nhà chú ấy. Tôi đã bảo nó mãi rằng thầy mày bận rộn, hay chạy loăng quăng, hàng nhà lại ế ẩm, thì cũng nên buôn bán kiếm thêm ít lời nuôi nhau qua cái cơn tao loạn này. Mà nào nó có nghe, nó cứ cậy trứng khôn hơn rận. Hàng cứ khuân về đây rồi có người đến lấy, ai biết đấy vào đâu.

Cô Hiền không nhịn được cũng nói:

- Dễ bu tưởng người ta không biết cả đấy?

- Có phải chỉ vì thế mà hai mẹ con giận dỗi nhau rồi giận lây sang cả đến tôi? Bác Phúc hỏi một câu hình như thừa.

Bác cũng nghĩ như thế, nên bác quay sang hỏi riêng con gái:

- Tại sao con lại không muốn đem hàng bán cho Khách trú?

- Có phải đem đến nơi đâu. Người ta tới đây người ta lấy cơ mà! Bác gái nói rõ thêm.

- Đem đến nơi hay đến đây lấy, thì cũng đều là bán hàng cho các chú Khách cả, bác Phúc nói và đưa mắt giục con gái trả lời câu hỏi vừa nêu ra.

Cô Hiền vẫn khăng khăng một ý kiến đã cãi với mẹ từ trước:

- Con nghĩ rằng bán hàng cho Khách như thế lúc này là đem hàng bán cho Tây, đem lương thực đến cho Tây. Mà mọi người đang nhất quyết không đem một hạt thóc, một miếng thịt bán cho Tây, và quan trên đã có lệnh cấm, thì rõ ràng là phạm tội và có lỗi với dân, với nước.

- Được, cũng có lý!

Bác Phúc gật đầu khen và quay sang hỏi vợ:

- Thế còn bu mày bảo có người đến đây lấy hàng đi thì ai đến? Người ta hay người Ngô?

- Người ta. Có người đàng hoàng đến đây lấy hàng đem đi, bà vợ trả lời một cách trôi chảy.

- Cũng được! Bác giai nói và hỏi thêm: Vậy thì ai mách mối cho bu mày? Hay là bu mày tự tìm đến bọn Khách để nài bán? Bu mày sợ các con đói chứ gì? Sợ con đói mà phải đi lạy lục như thế, tôi thấy xấu hổ…

Bị kích vào trúng lòng tự ái, bác gái thanh minh và như có vẻ khoe khoang với chồng:

- Tôi thèm đi lạy ai! Thím Hằng Dụ thím ấy thấy hàng ế ẩm và thầy mày lại mải công việc đâu đâu, nên thím ấy nghĩ ái ngại cho mình, thím ấy mới bảo tôi cho cái Hiền đi mua hàng về đây, rồi thím ấy thân hành đến lấy.

- Tử tế nhỉ? Bác Hai nói hơi mỉa mai. Bà không tỉ tê ngồi lê nói mách dễ thường tự dưng thím ấy đến đây thím ấy mời bà đấy nhỉ?

- Chứ lại không à? Bác gái nói như đắc ý. Chỗ chị em cùng làng, chơi với nhau từ lúc để trái đào, rồi cô ấy đi lấy chồng Khách giàu sang cách bực, tôi cũng có thèm chơi với cô ấy đâu. Bây giờ gặp lúc khó khăn, không mua được thức ăn, cô ấy mới tự hạ đến chơi lân la nói đến chuyện ấy. Họ lạy van mình làm phúc mua giúp họ.

Chợt nhớ ra vợ lẽ bang trưởng Huỳnh Lục Ký là người thôn Phụ Khánh, tổng Thanh Nhàn cùng làng với vợ mình, bác Hai lại “À” một tiếng và nói:

- Nhưng mà bà có biết không, nó mua nhiều thế là nó mua cho Tây đấy, nó không nhờ vào ai được, nó mới phải tìm đến bà, chứ có tử tế gì. Lợi nó ăn mà tội mình chịu. Vả lại, vợ chồng nó cốt đem lợi dử bà để hòng kéo dụ dỗ tôi làm trung gian giúp đỡ bọn Tây.

Ngừng một lát. Bác lại nói nghiêm nghị hơn:

- Không được! Con Hiền nó không nghe bu mày là đúng. Ai lại chồng thì căm ghét bọn Tây ăn cướp ấy, đang cùng với bà con một lòng mưu toan đuổi bọn ấy đi cho rảnh mắt, thì vợ còn lại đi mua hàng giúp cho bọn ấy sống mãi ở đây thì còn ra cái thể thống gì nữa! Người ta phỉ nhổ vào mặt ấy chứ!

- Ối dào! Đuổi! Sao các quan có quân lính đầy rẫy đấy lại không đuổi nó đi, mà lại cần cái ngữ thầy mày! Cái đồ ô hợp bách tính ấy thì làm nên trò gì! Đây người ta cần ăn, người ta nhờ mình, mình không giúp thì cũng có người khác giúp, thiên hạ thiếu gì người, ai biết đấy vào đâu!

- Biết! Có lòng mình biết chứ! Bác Hai gắt! Sao cho khỏi thẹn với lương tâm, khỏi hối hận, cho các con nó khỏi xấu hổ vì mình. Bu mày thử kể xem những ai lén lút đi lại giúp Tây nào? Kể cả các chú Khách? Hay là chỉ có mấy hiệu buôn lớn và bây giờ thêm bu mày!

Bác gái thấy đuối lý, phát khùng:

- Thôi bố con nhà ông phải cả. Cứ sạch lòng mà chạy nhong nhóng suốt ngày, rồi rã họng ra mới biết thân!

Bác bế con vùng vằng đi nguẩy trở xuống, vừa lẩm bẩm:

- Nước này mẹ con bế nhau đi đâu thì đi, chứ cứ ở đây có ngày họ bỏ mặc cho chết đói!

Bác Phúc ngồi thừ ra một lúc, bác nghĩ không nên để mối bất hòa trong gia đình trong lúc đang khốn quẫn, chợt nghĩ ra một cách, bác quay sang bảo con gái:

- Con ạ! Con xuống nói với bu, đưa tiền cho con đi mua, bảo là thầy đã bằng lòng, rồi tao sẽ mặc cả với bu mày sau.

- Sao? Thầy cũng… à? Cô Hiền ngập ngừng hỏi, đôi mắt long lanh nhìn bố.

Bác ngồi nhích lại gần con nói nhỏ giảng giải:

- Không phải! Tao hiện nhận đứng mua sắm thức ăn cho đồng môn và tư văn ăn tập. Nhân tiện để cho bu con bớt giận, yên tâm, rồi sẽ nhận ra sau, ta cứ đi mua hàng về đây đã, rồi khi giao, ta không giao cho thím Khách mà giao cho đồng môn. Con chỉ việc đi mua, còn giao, để mặc tao, tao đã có cách…

- Nhưng sau vỡ chuyện, sai hẹn với thím Khách, bu con lại tức tối hơn – Cô con gái nói thong thả, có vẻ đắn đo – Bu con lại làm toáng lên thì lại càng tội.

- Được. Phải khéo chứ! Bác Hai nói quả quyết. Không những bà ấy sẽ không giận, mà còn có thể làm cho bà ấy đỡ nông nổi, nhẹ dạ cả tin nữa. Con cứ xuống đi, xuống nói với bu trước, rồi thầy xuống đấy.

Cô Hiền còn chần chừ. Bác Hai giục:

- Đằng nào cũng phải đi mua kia mà. Con đi ngay, đi mau lên! Vui vẻ lên một tí, đừng để bu con buồn…

Cô Hiền đứng dậy đi xuống bếp. Bác Phúc ra nhà ngoài quét phẩy giường chiếu cho sạch, rồi nghe thấy con giai đang nô đùa ở bên cổng chùa, vội chạy ra chỗ tháp Hòa Phong gọi về trông hàng. Đoạn bác ung dung trở vào đi xuống bếp. Thấy hai mẹ con còn đang có vẻ bàn tính, người nào nét mặt cũng tươi vui, bác vững tâm đi vào ngồi xuống ngưỡng cửa bếp, với cái chổi cọ quẳng lúc nãy, buộc lại nút lạt và hỏi:

- Thế nào hai mẹ con đã thỏa thuận với nhau xong chưa?

Bác gái hỏi ngay:

- Thế ông bằng lòng cho con nó đi mua hàng chứ?

- Không bằng lòng lại bảo nó xuống làm lành với bà, bác giai cười đáp. Tôi sợ chỗ người lớn với nhau, bà sai hẹn với người ta, mang tiếng chết, nên tôi bảo con nó nhận đi mua hộ vài chuyến thôi.

Ngừng lại một lát, nhìn cả hai mẹ con như có ý dò hỏi, bác nói tiếp:

- Nhưng tôi giao hẹn trước thế này nhé! Có bằng lòng thì hãy đi mua, không thì thôi: Hàng mua về đây, nhưng không giao ở đây, sẽ giao thẳng cho thím ấy ở một chỗ nào tùy ý thím ấy, con Hiền và bu mày sẽ gánh hàng đến. Nếu nhiều, con Hiền sẽ đi hai lượt. Không lôi thôi gì đến tôi cả. Được lãi thì mẹ con ăn với nhau. Bằng lòng chứ?

Bác gái ngồi im suy nghĩ không nói. Thấy chồng hỏi lại lượt nữa, bác mới ngẩng mặt lên nhìn chồng, hỏi lại:

- Ngộ người ta biết thì sao? Gánh nghễu nghện đi xa cũng phiền lắm.

- Thế dễ giao ở đây, người ta không biết à? Bác giai hỏi.

- Nhưng ở đây, ra khỏi nhà rồi là vô tang. Bác gái trả lời.

Bác giai lại “À” một tiếng, nghĩ bụng:

- Ra cu cậu cũng biết sợ đấy, thế thì tốt.

Và bác hỏi to:

- Vậy bà muốn thế nào?

- Tôi muốn cứ như thím ấy bảo, thím ấy cho người đến đây lấy dần.

- Thím ấy đến chứ?

- Thím ấy chỉ đến một lần, còn về sau có người đến.

Bác nói thêm dõng dạc như quyết định:

- Được, đã thế, tôi giao hẹn trước: đến lấy hàng ở đây cũng được nhưng lấy dồn một chuyến, chứ không cho lấy dần. Lấy dần cứ thì thụt đi lại mang tiếng đến tôi. Như thế bằng lòng chứ? Thế là vừa ý bà nhé!

Bác gái đành phải cười đáp:

- Thôi như thế cũng được. Thế ông ở nhà để tôi và con Hiền đi lùng nhé.

- Ừ được! Bác Phúc ầm ừ trả lời.

Vừa lúc ấy, có tiếng người hỏi láo quáo ở ngoài cửa, rồi một thanh niên quần áo cánh nâu, cầm đòn gánh đi xồng xộc vào hẳn sân bếp, trông thấy đủ mặt cả ba người, hỏi luôn:

- Chào chú thím ạ! Làm gì mà ngồi túm tụm cả ở đây thế này? Vắng hàng, họp nhau ăn vụng xó bếp à?

- Anh Tín đi đâu về thế? Bác gái hỏi. Người đâu lúc nào cũng chất cha chất chưởng, nhởn nhơ như trẻ con ấy!

- Thím bảo không nhởn nhơ thì khóc à? Gánh è cổ con lợn lên đến chợ lại gánh về đây! Chợ với búa. Đứng lèo tèo một dúm người.

- Đi chợ chạy thuế à? Bác giai hỏi.

- Thưa chú, đem lợn gà đi bán thuế đấy. Anh thanh niên đáp. Nhưng chợ vắng quá, người mình chẳng có ma nào sờ đến. Chỉ có mấy chú Khách cứ quyện đi quyện lại, trả giá đắt, muốn vơ lấy tất. Nhưng chả chơi! Bán cho các chú, các chú lại mua về cho tụi Tây, chúng nó ăn cho béo, lại đi cướp của dân mình!...

Bác giai đưa mắt nhìn vợ như có ý bảo: “Đấy nghe đấy”. Nhưng bác gái lại hiểu ra thế khác, hỏi ngay:

- Thế anh bán cả cho chúng tôi nhé. Khỏi phải gánh về.

- Chú thím mua để đón khách đổ thuế à? Anh thanh niên hỏi. Sớm quá, chú ạ, còn những nửa tháng nữa kia mà. Bây giờ khối, lúc nào cần, mua bấy giờ, mua sớm nuôi thêm tốn ra.

- Anh cứ để cho tôi, tôi không gièm giá mua rẻ đâu mà sợ. Bác Phúc gái nói. Tôi giả tiền ngay, không chịu đâu. Ở dưới làng, anh xem còn có nhiều người muốn bán không, tôi cho em theo anh xuống, anh mua hộ.

- Được! Anh kia nói. Đang định đem về, mời chú xuống chơi, cháu chọc tiết con lợn này đánh bát tiết canh nhắm rượu. Nay thím mua, cháu bán tròn mười lăm quan, lúc nào thím cho tiền cũng được. Nào, mời thím ra xem lợn, chú Khách giả hai mươi hai quan kia đấy.

Anh đứng lên vừa giục bà thím, vừa đi ra. Bác Phúc gái theo sau, vừa đi vừa nói:

- Anh cứ đem thả vào chuồng hộ, và anh để cả lồng gà lại cho tôi. Anh uống nước, ăn thuốc, rồi có về cho em nó theo xuống nhé.

- Thôi, cháu về đây, tiền hẵng để đấy. Mai cháu lên cháu lấy.

Anh nói rồi cầm đòn gánh đi ra ngoài cửa, khẽ hỏi ông chú đã ra đứng ở ngoài đường từ lúc theo ra xem lợn:

- Chú mua làm gì lắm lợn gà thế? Hay là…?

Bác Phúc thản nhiên đáp để yên lòng cháu:

- Hay là gì? Chú cần mua cho anh em tư văn.

- Thế cháu về đây nhé, chú nhé, chú cần mua những loại như thế hay nhỏ hơn?

- Có em Hiền nó theo xuống đấy, tùy tiền nó mang theo và tùy ý nó và anh giúp cho.

Bà thím đã xếp được một gánh nhẹ tiền kẽm đựng trong hai thúng khảo đậy vỉ buồm cói, gánh ra đến cửa, đặt xuống đầu hè, đứng đợi con gái ra. Ba người nói chuyện qua về giá cả. Khi cô Hiền ở buồng nhà trên đi ra, bác gái chỉ gánh và dặn:

- Con gánh theo anh về làng nhờ anh mua hộ một con lợn và mấy chục con gà nữa nhá.

Quay sang anh thanh niên, bác nói vui vẻ:

- Anh mua giúp em nhé. Đây có cả số tiền của anh. Nếu anh cho chịu thì có thể mua thêm được nữa. Và có nhỡ thiếu ít nhiều, anh khất hộ, cho em nó về, mai nó mang xuống.

Anh thanh niên nhìn đôi quang gánh rồi trông cô Hiền và nói:

- Cô cầm đòn gánh, còn tiền để đấy tôi gánh cho.

- Ấy anh để em nó gánh! Bác gái nói. Có thiếu tiền anh cứ khất hộ, cho em nó về đem xuống ngay.

- Được, xin tùy cơ ứng biến.

Anh Tín đáp rồi thoăn thoắt quẩy quang đi trước, cô Hiền vác đòn gánh lon ton chạy theo sau. Bác gái trông theo thốt lời khen:

- Thằng bé nhẹ tính nhẹ nết thật!

Bác Phúc đứng im, tủm tỉm cười thầm niềm vui sướng thiển cận của vợ và lời vợ khen cháu có đượm màu vụ lợi.

° ° °

Chiều hôm sau, trời gần tối, cuộc giao hàng đầu tiên của bác Phúc gái chuyển sang cho chị Huệ, vợ lẽ chủ hiệu Hằng Dụ, đã tiến hành xong ở trong sân bếp, sau hàng bác Phúc. Tiền trao cháo múc. Tất cả có ba gánh: một gánh ba con lợn, một gánh hai lồng gà lớn có chừng ba mươi con gà xoai xoai, một gánh đầy những chuối, dứa và một thúng gạo tám. Thị Huệ nhận hàng đưa tiền xong đi ra trước, ba người đàn bà mỗi người một gánh bước ra đường, thoăn thoắt bước trên đường Thập Lý, ung dung như những người đi chợ xa về. Ánh vàng chiều tà, ánh sáng của mặt giời lặn còn rớt lại vương vấn trên ngọn cây mặt nước, nhuộm vàng cả những gánh nặng của mấy người đàn bà kia, càng như giục người ta dấn bước. Chim bay về tổ tối rồi, những người vội vã lúc này là những người đảm đang quanh năm suốt tháng, đòn gánh trốc vai, sáng đi tối về, ai mà nỡ hỏi trêu ghẹo giữa đường đi đang vội. Nhưng đến đầu làng Thanh Hà, một toán người đứng trong sân đền vua Lê chạy ra ngáng giữ ba người lại và hỏi họ gánh những thứ này đi đâu. Ba người ấp úng, trả lời quanh co không thống nhất với nhau. Một người trong toán nói vẻ trách cự:

- Đây chính là số hàng đưa vào Hàng Buồm bán cho Khách đem cho Tây, các chị lại không có quán chỉ rõ rệt ở vùng này. Chúng tôi tịch thu số hàng này, tha cho các chị về vì mới là lần đầu.

Ba người kia được thả, đành lủi thủi chạy đi tìm Thị Huệ. Bất đắc dĩ thị phải trở vào đình, nhận số hàng ấy là của thị và thị đã thuê ba người kia gánh hộ. Thị lại tự nhận là vợ bang trưởng Huỳnh Lục Ký và đòi trả số hàng ấy. Một ông trong bọn nói:

- Đây là những sản vật bị cấm đem vào vùng này, bất cứ của ai cũng bị tịch thu. Lại còn bị xử tù tội nữa. Nhưng vì chị là người Nam, muốn cho chồng Bắc vợ Nam khỏi sinh ra xích mích, chúng tôi biên nhận trả tiền cho chị theo giá chợ.

Ông ta quay gọi vào trong đình:

- Bưng thúng tiền ra đây và cử ngay ba người gánh ba gánh này về nhé.

Ông lại nói với Thị Huệ:

- Chị không nhận tiền, chúng tôi sẽ đem cả đi bây giờ.

Nói mãi không xin được hàng, thị đành nhận lấy mấy chục quan tiền, mượn một người gánh về vậy. Trời tối xuống, một người trong bọn về qua hàng bác Hai vào uống nước, nói chuyện việc bắt hàng và trả lại tiền cho thím khách Hằng Dụ. Cao hứng, ông khách chửi bọn Khách trú gian giảo, khôn khéo lén lút đi mua hàng về cho Tây. Ông ta khen chức dịch của ta còn biết giữ cả lý, cả tình, nên mới tha người mà trả cả tiền vốn. Ông nói rõ thêm:

- Vì cái con mụ ấy là người Nam mình, nên mình mới trả vốn, chứ nếu là bọn Khách thật thì một xu cũng không giả.

Ông khách uống nước đi rồi. Bác Phúc ra đóng cửa nhà ngoài cẩn thận, rồi vào nhà ngang lấy cái đèn quang đem xuống bếp thắp xách lên treo ở cửa ra vào soi tỏ cả trong nhà ngoài sân. Bác ngồi ở ngưỡng cửa chẻ mấy thanh lạt giang, vừa tủm tỉm cười một mình. Thấy vợ và con gái chạy đi hỏi thêm tin đã về đến nơi, bác nói:

- Hú vía nhé! Họ mà bắt được hàng ở tại nhà mình mới gọi là ê mặt mo! Mà cũng may không ai nó khai ra ở đây.

Ngẫm nghĩ một lúc, bác nói thêm:

- Bọn này dốt, xong việc thì thôi, không truy nữa, chứ nếu họ cứ hỏi vặn thì moi ngay tổ chấy nhà này.

Bác quay sang hỏi trêu vợ:

- Đã cạch đến già chưa? Đừng có tham lợi nữa nhé. Cứ chân phương mà làm ăn thì sao? Giá không cho đi mua thì đã vùng vằng bù lu bù loa lên, nạt nộ người ta!

Bác gái tức mình đâm cãi liều chữa thẹn:

- Chẳng qua người Nam lại bắt nạt người Nam, giá chính bọn Khách họ mang đi thì không sao đâu, chả ai dám hỏi…

Bác Phúc nghiêm nét mặt, cự:

- Này đừng có mà nói láo! Bọn Quan Tá Đường, Tống Tài bị xử tử rồi đấy. Bọn Vĩnh Xương, Thành Hưng bị bắt đưa đi di cư ở nơi khác. Mình mà cứ thì thụt có ngày toi mạng!

Giọng nói càng nghiêm khắc hơn, bác phân tích giảng rõ:

- Cứ trông ngay thằng Tín đấy. Lợn được giá đắt mà gánh về đấy! Chỉ vì nó không muốn bán cho Khách, để Khách lại bán cho Tây. Khắp mọi người dân thành Hà Nội đều như vậy, bu mày cứ ra chợ Đồng Xuân và các chợ mà xem. Bu mày có biết thằng Tín nó bỏ công bỏ việc, nó đi mua lợn, mua gà với con Hiền là vì đâu không? Là tại làm sao không? Dễ thường vì hám lợi đấy nhỉ? Mà nào nó có được cái lợi gì đâu? Nó sốt sắng thế là vì nó tưởng tôi mua sắm cho anh em đồng môn, ăn em tư văn ăn tập để chực đánh Tây. Ấy đấy, lòng con người ta sốt sắng vì nghĩa đến như thế. Chả tin bu mày cứ hỏi thử nó mà xem. Nó mà biết như thế này thì nó đến ỉa vào mặt chú thím, nó không thèm nhìn.

Bác gái bí quá, lại nói liều thêm một câu nữa:

- Đã biết thế, sao lại còn để cho người ta làm?

- Khốn nhưng con người chỉ trông thấy cái lợi nhỏ trước mắt, dễ bị kẻ xấu nó ton hót, kích cho giận dữ, tan cửa nát nhà, nên tôi phải khuyên nhủ con Hiền mãi nó mới chịu theo chiều ý bu mày. Thôi cũng xong, có thế bu mày mới nhớ đời, mới biết thương chồng, thương con. Và có thế bu mày mới nhận ra rằng mình dễ bị người ta lừa, chứ mình chả lừa được ai. Chi bằng cứ sờ đầu gối, nói chân thật, ngay thẳng để đức cho con.

--------------------------------

1

Người già sống yên phận, không để ý đến việc đời. (BT)

2

Phòng từ cái rất nhỏ, lấp chặn cái dần dần lấn đến.

Chương IV

Tiết giời cuối hè, sắp sang thu, mà còn nóng nực lắm. Giá như mọi khi, vào lúc buổi chiều nóng bức này, nơi bờ hồ thoáng mát đã đông người ra chơi hóng mát, có cả những con thuyền nhỏ bập bồng trôi lượn. Nhưng độ này ở đây vắng hẳn. Vì hai cái trường đại tập ở hai đầu hồ đều nghỉ hẳn, tuy đã gần đến kỳ thi hương – năm nay là khoa Quý Dậu, khoa thi thường lệ – trường Kim Cổ của ông cử Ngô Văn Dạng đã cùng với học trò đem nhau đi luyện tập võ nghệ ở đâu mãi vùng quê xa. Còn trường Vũ Thạch, ở ngay phố Hàng Khay bên hồ, cũng vắng tiếng bình văn đã gần đến một tuần. Trước đây, bọn học trò dùi mài kinh sử để chờ ngày vào thi, thể nào cũng phải la cà ở những đình chùa, ngồi mát ở ven hồ và ra vào hàng quán của bác Hai Phúc. Nay vắng họ, ven hồ thấy như thiếu mất một cái gì thân mật, vui vui. Nhưng cảnh hồ bỗng thành ra hoang vắng hơn nữa. Lại còn do từ mấy hôm nay, nơi Hà Thành đô hội này đã hóa ra có hai khu cách bức hẳn nhau: các phố Hàng Buồm, Hàng Ngang, Hàng Giầy, Hàng Chiếu, ra đến ô Đông Hà, ô Ưu Nghĩa có Khách trú đã ở biệt lập thành như một xóm làng ngoại quốc, người Nam không muốn, không thèm vào và có người không muốn lai vãng đến đấy. Bọn lính Khách đông thêm, nhan nhản khắp phố, canh giữ các ngả. Những chú Khách nghèo, buôn bán vặt hay làm công việc nặng nhọc, tuy nghề nghiệp bắt buộc phải đi xa, cũng không dám ra khỏi nơi mình trú ngụ. Phố xá vắng vẻ. Đã thành ra hai khu vực cách biệt, tự nhiên dân Nam càng không bén mảng đến miền Tây Tàu hỗn loạn ấy làm gì, và không bán bất cứ thứ hàng gì đem vào đây nữa. Sự đi lại giao thông hình như không còn nữa. Bờ hồ lại càng hoang vắng. Dân Khách và lính Khách trước kia còn thỉnh thoảng xuống thăm hồ hóng mát, thì nay không còn dám lảng vảng đến nữa. Giữa hai cảnh cách biệt ấy, tự nhiên nẩy ra một nơi địa đầu hút được nhiều người. Đó là hiệu phở Dụ Hưng Lâu ở đầu chợ Hàng Bè. Chú Sìn chủ hiệu đã ở đây lâu năm, buôn bán thật thà, lại hay giúp đỡ người nghèo, được cảm tình của bà con Việt Nam, nên vẫn mua được một số gà, vịt, thịt lợn đủ bán cho khách ăn. Các hàng cao lâu ở trong phố khan món ăn, một số lính Vân Nam và khách buôn cũng kéo ra hiệu Ả Sìn ăn uống. Do đấy hàng đông khách, các món ăn bán chạy, Ả Sìn phải nhờ bác Phúc giúp đỡ thêm vào, chạy mua các thứ rau, quả, gà, vịt, thịt. Anh em ở văn hội đang cần biết nhiều tin tức trong khu vực bọn Tây, Tàu, đã nhờ bác cố tìm cách đi lại trong phố bắt liên lạc với nhiều bà con Khách nghèo trong ấy, bác và con gái được phép thêm hàng vào cho những gánh phở, cháo và quà bánh của các chú Khách bán rong. Ban ngày, bác phục dịch bán hàng giúp chú Sìn, tối đến, bác thường cùng Ả Chí, người bạn mới quen ở hiệu phở Dụ Hưng đi bán phở ở đình Trâu Khê, lân la hỏi chuyện những chú Khách ra ăn hàng, cứ đến khuya mới về, sáng hôm sau lại có người đến hỏi tin tức sớm. Cửa hàng của bác vẫn phải mở cầm chừng để làm nơi liên lạc khách các nơi đi đến, khách ít, do bác gái trông nom cũng đủ. Cuộc sống mới bất bình thường như thế đã được đến bốn năm ngày, giữa tiết giời hè oi ả này. Nhưng mải mê với công việc, lúc thì xoay trần thái thịt bên bếp lửa hồng nhà chú Sìn, khi thì hối hả rảo bước trong phố đông, bác không thấy oi bức là gì, thế mà chiều hôm nay, bác nghỉ ở nhà trong cửa hàng rộng thoáng, mát mẻ thế này, mà thấy bồn chồn, bức bối, bác cởi trần, cứ ra ra vào vào, xuống bếp lại lên nhà, tay luôn luôn phe phẩy cái quạt mo cắt hình trái đào. Bác đang đợi một người mà ông cử Kim Cổ đã hẹn hôm qua là cho về đón bác ra họp đồng môn ở ngoài kia. Bác nghĩ bụng tất có việc gì lớn đây, mới cho tìm mình ra, nên bác càng nóng lòng trông ngóng. Bác chạy hẳn ra đứng dưới tháp Hòa Phong hóng mát, nhìn bóng mặt giời đã khuất dưới lũy tre làng Phục Cổ, bác lẩm bẩm:

- Thế này thì lại họp đêm chắc…

Bỗng có tiếng gọi ở đầu hè:

- Ông chủ ơi!

Bác quay lại reo lên:

- A! Ông ấm! Sao lâu lắm mới lại ra chơi?

Bác chạy vào đến nơi, người khách vẫn đứng ở đầu hè nói:

- Tôi đến tìm bác đây.

Khi hai người cùng bước vào nhà, khách nói:

- Bác mặc áo rồi ta đi. Còn mấy việc nữa.

Bác Phúc chạy vào lấy cái áo cánh nái năm thân treo ở trên cột mặc vào, chạy xuống nhà dặn vợ, rồi tạt vào buồng lấy cái nón dứa chóp bạc và cái quạt giấy dài hơn một thước đi ra. Ông khách đã giục:

- Nào ta đi!

- Xin mời ông anh xơi nước đã! Bác cầm bình tích rót nước.

- Thôi đi kẻo muộn, các cụ đợi. Ông khách nói và bước ra hè. Ra đến đường, ông bạn vừa đi vừa hỏi:

- Hàng họ thế nào? Nghe đâu suýt nữa ông bà bất hòa to?

- Ấy, cũng thường hay nghĩ quẩn, bác cười vui vẻ đáp, đàn bà họ hay lo. Nhưng bây giờ mụ ta biết ra rồi. Vả có việc mua bán cho chú Sìn, mụ ta vừa đỡ lo và mới nhận ra, không hám lợi như lúc đâm bổ vào với thím Hằng Dụ.

- Bác khéo đấy! Ông khách khen, chứ giận vợ hờn làng thì hỏng bét. Vừa đi hết phố Hàng Khay đến đầu Vũ Thạch, ông khách nói:

- Vào đây đã!

Đây là trường học của cụ cử Vũ Thạch Nguyễn Huy Đức. Cụ Cử thuộc vào lớp đàn anh, đỗ từ đầu triều Tự Đức, không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học, nhưng cũng chỉ biết chăm dạy học và không bao giờ bàn đến thời thế cả. Lần này, học trò nghỉ đi theo đội Nghĩa sỹ cả, ông ở lại một mình cũng buồn, có nói với văn hội cho ông được góp của và được biết tin tức luyện tập và dự định của anh em. Cho nên, mỗi lần có người về, ông cử Kim Cổ đều bảo đến thăm ông bạn mũ ni che tai ấy, như ông vẫn nói.

Qua cái cổng gỗ, vào cái sân gạch, bước lên cái nhà học năm gian thượng thực hạ hư, rộng thênh thang vắng bóng người chống chếnh, bác Phúc bỗng nói:

- Sắp đến ngày thi rồi mà trường học vắng thế này, chỉ tại tổ sư thằng Tây… Mấy tháng nay, đến gần nửa năm ấy nhỉ, ông ấm chắc mải học thi nên không thấy ra chơi!

Bác nói thêm để hỏi trêu ông khách. Ông này đáp:

- Ấm Vẽ có bao giờ học thi. Các cụ vẫn mắng thế mà lại.

Nghe tiếng người nói láo quáo, một cậu bé chạy ra nói:

- Mời các ông đi sang bên này, ông cháu đợi ở nhà trong.

Cậu bé đi trước dẫn lối quành ra đầu nhà, qua cái vườn cau vào đến cái nhà nhỏ ba gian liền với bếp. Một ông cụ mới vào khoảng trung thọ, tóc đã bạc, đã đứng đợi ở cửa.

- Chào thầy ạ!

- Bẩm thầy ạ!

Hai người cùng chào. Ông cụ đáp lại và hỏi luôn:

- Ở lại chơi hay đi ngay?

- Bẩm phải đi ngay ạ!

Ông cụ dẫn hai người bước vào nhà và nói:

- Thì hẵng ngồi chơi đấy đã!

Rồi ông đi biến vào trong cái buồng con, một lúc sau, ông cầm ra một hũ sành con để lên giường, ông ngồi xuống, ghé sát vào hai người nói nhỏ:

- Nhờ hai bác đem hộ cái lọ này cho bác Cử và bác Mền, rượu thuốc của tôi đấy. Còn rượu khao anh em, tôi gửi nén bạc này ra mua ở ngoài ấy, ở đây tôi không đủ.

Ông giở miếng vải gói nén bạc ra cho ông ấm Vẽ xem rồi lại gói lại cẩn thận, giao cho ông ấm, và quay sang dặn riêng bác Phúc:

- Còn trở về nữa chứ? Về nhớ lại đây cho tôi hỏi chuyện nhé. Lúc nãy cậu ấm, cậu ấy chưa kịp vào đến nhà, chỉ gọi đánh ới một cái dặn mấy câu, tôi chưa ra đến nơi cậu ấy đã đi, bây giờ thì lại vội, tôi chả dám giữ.

- Bẩm thưa thầy, quả cháu vội ạ. Ông ấm nói chữa và hỏi thêm. Thưa thầy, có dặn gì nữa không ạ?

Ông cụ ngồi ngay người lên, nhìn ra sân, có vẻ đăm chiêu, vẫn nói nhỏ, thong thả, như đắn đo từng tiếng:

- Quan Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương đã ra tới nơi, xem ra có vẻ quyết liệt hơn, có thể đánh nhau với tụi Tây Tàu, thì anh em liệu cử người lên xin với quan lớn để cùng giúp mà đánh thì hơn. Nếu không họ sẽ vin vào cớ trái lệnh mà trị mình thì không lợi đâu. Bọn Tây nó đứng ngoài nó cười cho đấy!

Ông ấm Vẽ đứng lên nói:

- Vâng! Thầy dặn, cháu sẽ xin thưa lại với các bác ngoài ấy. Anh em có dám làm trái lệnh triều đình đâu. Vạn bất dắc dĩ cả.

Bác Phúc cũng đứng lên theo, ông Cử cũng đứng lên, ân cần bảo:

- Nhớ có về qua đây cố vào bảo cho lão biết chuyện nhé!

- Vâng, thể nào cháu về cháu cũng xin vào hầu thầy.

Hai người chào từ biệt ông Cử. Ra đến ngoài, ông ấm Vẽ bảo bác Phúc:

- Ông lão chân thành lắm đấy. Xưa nay ông vốn không muốn phiền lụy đến thân, không bao giờ đả động đến thời thế, không hề cùng ai bàn bạc đến việc ngoài đời, ấy thế mà ông góp của gửi quà thế này là quý hóa lắm, tin yêu lắm kia đấy.

Bác Hai cũng thêm:

- Thế mới là chính nhân quân tử, ông nghiêm mà thẳng, không ai mua chuộc được, nên ông theo về ta, càng thêm thanh thế.

Hai người đi vội, qua Văn Miếu, qua tổng Minh Giám tắt ra cửa ô Chợ Dừa vào đình làng Thịnh Hào. Ngôi đình này thờ Bố cái Đại Vương Phùng Hưng, một vị đế vương anh hùng dân tộc đã đánh đuổi được bọn quan đô hộ nhà Đường, các triều đại đều có tu sửa và liệt vào hạng các đình có lệ quốc tế, hằng năm tỉnh sở tại phải cử đến tế.

Các vị chỉ huy quân đội nghĩa sỹ chọn ngôi đình này làm nơi hội họp cũng nhằm đem gương anh dũng của tiên nhân để gây thêm lòng quyết chiến đuổi giặc ở đoàn quân nghĩa khái này. Hai ông chánh phó đội trưởng, ông cử Kim Cổ và ông mền Kim Liên và một số các vị đầu xã, đầu nhóm đã có mặt ở đấy. Ông ấm Vẽ và bác Phúc ra đến nơi vào đình thì giời đã tối. Trong đình đã thắp đèn sáng. Mọi người đều ngóng chờ hai người ở trong phố ra. Ông ấm bưng lọ rượu và nén bạc đệ lên chỗ ông cử Kim Cổ ngồi và nói lại những lời ông cử Vũ Thạch nhắn ra. Ông cử Kim Cổ mở nút lọ, mùi rượu bốc lên thơm thoang thoảng, ông đóng nút lại và nói:

- Các hiền hữu đã đến đông đủ cả, tôi xin các hiền hữu bắt đầu bàn việc. Bác cử Vũ Thạch có gửi biếu chúng ta một hũ rượu thuốc và một nén bạc để góp vào việc khao quân. Tôi xin đi mượn chén của đức Bố cái Đại Vương để các anh em ta cùng uống thứ rượu quý để mừng cái buổi họp quan trọng này.

Nói rồi, ông đứng lên đi vào bên trong hương án, mở những nắp đài rượu và đài nước, nhặt hết mọi chén uống rượu và uống nước đem ra, sai ông mền Kim Liên rót rượu vào, lần lượt đưa cho từng vị nhiều tuổi trước. Rồi ông lại ngồi lên giường xếp bằng nghiêm chỉnh, nói dõng dạc, từ tốn:

- Cũng là một điềm tốt, tự nhiên buổi họp này lại có được thứ rượu quý này, vậy chén ít, xin anh em vui lòng uống lần lượt kẻ trước người sau, cho thêm phần phấn khích. Cuộc họp này, chúng ta xét số quân của chúng ta và bàn cách xuất quân và tiến công cho hết lý. Trước hết tôi xin báo rõ số quân của ta, rồi bác Mền nói rõ tin tức của các quan chức bên ta đối phó với địch và đối xử với đạo quân của ta như thế nào. Sau cùng bác Hai Phúc sẽ nói cho ta biết tình hình bọn Tây bọn Khách ở trong phố hiện nay ra sao. Rồi cứ theo những điều đã được trình bày ấy, các hiền hữu sẽ bàn xem chúng ta nên làm thế nào cho thật có lợi… Nào mời các hiền hữu uống dần đi để lấy chén cho người khác.

Ông nâng một chén rượu lên mời mọi người, tự uống một ngụm to, nuốt nhắp nhắp, rồi đứng lên trình bày một cách khúc triết.

- Đạo quân của chúng ta hiện có hai trăm bốn mươi hai người, nguyên chính người trong Văn hội Thọ Xương và môn sinh ở các trường lớn, các văn hữu ở Thanh Trì, Hoài Đức cũng tham dự vào, tất cả là một trăm năm mươi người, còn chín mươi hai người là những thanh niên phường phố và nông thôn tự ý bỏ nhà tình nguyện xin vào tham dự với chúng ta. Ngoài ra còn một số nông dân ở những làng chúng ta đến đóng để tập luyện, cũng xin tự sắm khí giới và lương thực để được đi theo chúng ta. Trong số quân hiện có ấy, chúng tôi chỉ lấy hai trăm người cho luyện tập hẳn hoi, cho được sử dụng đủ mọi thứ vũ khí và vũ thuật. Còn bốn mươi người chỉ cho tập về đêm thôi, còn ban ngày cho đi quyên tiền, thu tiền, đi mua sắm khí giới, đi liên lạc, đi tìm cách tiếp tế, đi xem xét tình hình. Khí giới hiện ta chỉ có đao, gươm, đòng và dao mã tấu, hỏa mù, ống lửa, cung, nỏ. Ta chưa có cách nào sắm được súng. Lương thực thu của anh em hiện có đủ số ăn tập trong vòng một tháng. Ta sẽ thu thêm và đi quyên. Về chia phiên, chúng tôi tạm chia làm hai đội, mỗi đội một trăm người, hai người chánh phó chúng tôi, mỗi người trông coi một đội, mỗi đội có mười thập trưởng do các nhóm trưởng đảm nhiệm. Hôm nay họp mặt ở đây gần đủ các thập trưởng, chúng ta xét rõ mọi mặt của tình thế, mọi cách đối phó hoành hành của bọn giặc mà tìm ra mọi việc cần làm, phải làm lúc này.

Ông ngừng quay sang bảo ông mền Kim Liên:

- Bác Mền nói về mặt giao thiệp với bên ngoài.

Ông Mền mở cái tráp lấy ra một quyển sổ mở ra giơ cho mọi người xem và nói trịnh trọng một mạch:

- Toàn dân vui mừng giúp đỡ nghĩa cử của chúng ta. Nhận của ai một tí gì chúng tôi đều có ghi sổ lại rõ ràng, tài thượng phân minh. Nhiều người đến tận nơi xin giúp công giúp của, nhưng hiện nay, chúng tôi hẵng tạm không dám nhận nữa, phải nói khéo họ mới chịu nghe. Còn đối với các quan tỉnh, tôi có lên dò hỏi ý quan Đốc. Ngài cũng thấy việc chúng ta làm là nghĩa cử, nhưng nếu đường đường đem quân ra mà đánh bọn Tây thì không được, quan trên không cho phép, mà xin theo quân triều đình đi đánh giặc, thì các quan đang dẹp loạn ở Ứng Hòa, ở đạo Mỹ Đức, triều đình đang điều quân tiễu phỉ ở mạn Tuyên Thái, Cao Lạng, tất nhiên họ sẽ cử chúng ta đi những nơi ấy. Tôi có nói là chúng tôi họp nhau đi đánh Tây mới cùng có một lòng dũng cảm giết giặc, chứ đi đánh người mình ở đâu đâu, thì ai người ta theo chúng tôi làm gì, người ta có thể quay giáo người ta giết chúng tôi ấy chứ. Quan Đốc có bảo chúng ta nên kín đáo, nếu để lộ hình tích, tụi Tây nó vin vào đấy buộc các quan ta nhận là phỉ đem trị tội thì nguy đấy.

- Thế còn quan Huấn thế nào? Đã được tha chưa? Có người hỏi.

- Trường Yên Ninh cũng như các trường khác đều nghỉ cả. Ông Mền nói tiếp, còn quan Huấn phải vào làm việc trong dinh cụ Thượng. Về phía quan ta, cụ lớn Thái tử Thiếu bảo Nguyễn Tri Phương được cử ra làm Đổng sát quân vụ đại thần kiêm Kinh lược Bắc kỳ thay quan Khâm sai Thị sự Lê Tuấn. Ra đến nơi ngài đã điều bổ quan Đề đốc cũ đi, thăng quan huyện Đào Trọng Kỳ đi Tri phủ và cử quan huyện mới về. Ngài thông sức cho tỉnh, phủ, huyện chuẩn bị mọi thứ phòng đánh nhau với Tây, ngài không cho quan đi lại thương thuyết với bọn Tây nữa.

- Phải như thế chứ, có người nói xen vào, nó đến đây nó muốn gì, nó phải vào mình, ai lại đường đường phương diện quốc gia lại cứ phải dẫn thân đến thì thụt ra vào cái hội quán Hàng Buồm của mấy chú chiệc.

- Này nghe nói cụ lớn Nguyễn Tri Phương đã đánh nhau với Tây ở Gia Định, một người nữa nói, ta đánh Tây tất cụ sẽ giúp thêm.

- Cái đó ta sẽ bàn. Ông Mền giơ tay ra hiệu mọi người im và nói tiếp. Tụi Tây có đưa thêm nhiều lính Vân Nam và cả Quảng Đông về, đóng ở Hàng Buồm và cửa ô Đông Hà. Lại được thêm tin có phái viên của Súy phủ Phú ở Sài Gòn ra thương lượng… Bác Phúc sẽ nói thêm chi tiết.

Ông Cử với lấy lọ rượu lắc lắc giơ lên và nói:

- Rượu còn đây, anh em chia nhau uống nốt đi cho thêm phấn chấn. Nào bác Phúc cho chúng tôi biết thêm chuyện về Tây Khách.

Bác Phúc ngồi ở đầu sàn ngoài cùng, ngay cửa vào, bác bước hẳn xuống đất đứng ngay ngắn lên để nói cho mọi người nghe rõ:

- Thưa các vị, tôi được ở lại trong phố vào làm cho hiệu chú Sìn, đi lại được phố Hàng Buồm, tôi thấy như thế này. Năm cái tàu của Tây vẫn đóng ở ngoài sông, bây giờ có thêm nhiều thuyền ván. Ở trong phố, lão Tri phủ Lý Ngọc Trì vẫn ở nhà hội quán, thêm lão quan võ Lý Dương Tài đem xuống độ hai trăm lính Vân Nam đóng ở đấy và quanh phố Hàng Buồm. Một tuần nay lại có thêm một toán lính mới đóng ở ô Quan Chưởng, quanh kho hàng của tên Đồ Phổ Nghĩa, có cờ hiệu đề mấy chữ “Tổng binh Trần Vân Quý”, bọn này người Quảng Đông cả, nghe nói đâu những ba trăm vừa ở dưới thuyền, vừa ở trên bộ. Có mấy đứa hay ra ăn quà ở hàng chú Sìn, tôi hỏi nó bảo là ở Thái Nguyên chuyển xuống đây, là quân của Phùng Đề đốc cho xuống bảo vệ Hoa Kiều…

- Nó nói láo đấy, Phùng Đề đốc về nước tám hoánh rồi, còn ở đây đâu. Ông cử Hoàng Mai nói.

- Có nó xuống đánh thuê cho Tây, chứ ai mượn. Người nữa tiếp.

Ông cử Kim Cổ phải giơ tay gạt đi:

- Để im nghe hết đã nào.

- … Như vậy là số quân của chúng nó cả cũ mới lên hơn sáu trăm tên, bác Phúc nói tiếp càng về sau càng lưu loát trôi chảy. Thế mà lương thực nó không thiếu, vì nó cho thuyền đi mua sắm ở các nơi, do dân đi đạo ở Hưng Yên, ở Thường Tín, ở Kẻ Tâng, Kẻ Sở mua đem lên đi như dân thường ta đi lại, chẳng ai biết đấy vào đâu. Tôi thấy Ả Chí ở nhà chú Sìn nói nó có một lão vẫn thường đến nhà bang trưởng Huỳnh Lục Ký. Tôi đã rình xem, đúng là một lão đi đạo ở dưới thuyền lên, chứ không phải người quanh đấy. Chắc chúng nó bàn gì với nhau đấy. Còn hạng Khách nghèo đều không ưa gì bọn Tây và lính Khách. Họ tức sao các quan An Nam hèn thế, không tống khứ ngay bọn hung đồ ấy đi. Những tờ yết thị của bọn chúng, họ có thèm để ý đâu, hễ không có bọn lính trông thấy, là họ xé đem đun bếp… À, hôm nọ tôi cũng có nhắn ra rồi đấy: Bá Kim có nói bọn Phú ở Sài Gòn đã cử một phái viên ra ngoài này điều đình xin bồi thường mọi thứ và bắt Đồ Phổ Nghĩa về, triều đình cũng cử một quan Khâm mạng sắp ra đến nơi. Lão nhắn anh em chúng ta nếu gây ra sự gì làm hỏng việc, thì sẽ toi mạng. Tôi có hỏi vặn lại, lão đâm bí phát khùng dọa bắt tôi, nhưng tôi không sợ.

Bác ngừng lại như để lấy hơi, ông Cử nói tiếp ngay:

- Thôi, bác nói thế đủ, bây giờ ta bàn ngay đến công việc: Các vị đã nghe rõ mọi tình thế rồi, có ai muốn hỏi thêm gì không?

Trong đình im phăng phắc. Hai ngọn đèn đĩa treo và bốn ngọn đèn đĩa đặt trên cây đèn thờ để thẳng hàng theo dọc sàn đình, đang bập bồng nhảy múa rung rinh làm những bóng người ngồi cứ trập trùng di động trên tường vôi trắng, trên cột sơn son đỏ thắm. Mọi người im lặng suy nghĩ. Ông Cử lại lên tiếng:

- Không ai hỏi gì à? Vậy tôi nêu lên ba việc, chúng ta sẽ bàn lần lượt: Trước hết, các quan không đánh Tây, vì chưa được lệnh, mà đang cần tiễu phỉ. Nếu ta làm trái phép, các quan kết tội là phỉ đem quân đánh bắt chúng ta thì sao? Sợ thì ta không sợ nhưng gà cùng một mẹ đá nhau, không lợi, Tây, Khách ở ngoài chúng nó vỗ tay reo! Hai là bọn địch bây giờ quân số nhiều lên gấp đôi ba lần, lại có đủ khí giới súng ống, vậy chúng ta có dám đương đầu với chúng nó không? Đối địch với nó thì phải làm như thế nào? Ba là chúng ta phải làm thế nào ngăn cản các thuyền đem lương thực đến cho địch? Ta hẵng bàn riêng từng việc một.

Ông cử Hoàng Mai nói trước:

- Hôm nọ, chúng ta đã nhất quyết thấy việc nghĩa là cứ làm, không lẽ hôm nay lại đổi ý. Chỉ có điều là cái bọn quan tỉnh này dát không dám đánh Tây, nên họ mới càng ra công tiễu phỉ. Bố Tổng đốc Bùi Thức Kiên thân đi Ứng Hòa đánh bắt ông đồ Nguyễn Xuân Bảng đem về xử tử lấy công đấy. Lão muốn đem đằng nọ bù đằng kia đấy. Nhưng họ sợ Tây thì tất nhiên họ sợ cả ta. Ta cứ đánh thắng Tây là họ không dám làm gì ta. Miễn là ta phải giữ kín đáo và đừng làm ra vẻ tự ý vượt quyền các quan.

Mọi người đều nhanh chóng nhất trí với ông cử Hoàng Mai không sợ các quan vin quyền chúa tể một phương trừng trị, vì anh em họp lại chống Tây để tự vệ chứ không phải làm giặc chống lại triều đình, nên ai nấy đều thống nhất ý kiến phải cương quyết ngăn chặn bọn Tây Phú hôi tanh để bảo vệ lấy danh giáo, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trăm họ. Nhiều người còn nhắc đến quan Kinh lược Nguyễn Tri Phương mới ra và một vài sự thuyên chuyển trong quan chức ở Hà Nội để làm mạnh thêm bề thế cho việc nghĩa cử này. Ông cử Ngô Văn Dạng phải nêu lên câu hỏi một lần nữa trước khi chuyển sang việc thứ hai:

- Ta không nói đến cụ lớn Kinh lược có giúp đỡ chúng ta hay không, nếu cụ lớn cũng cấm đoán chúng ta, thì vì việc nghĩa, đội nghĩa sỹ chúng ta cũng cứ nhất quyết cử sự chứ?

Mọi người cùng vang lên một tiếng “nhất quyết” đáp lại rắn chắc như tiếng reo vang nhịp bước của đoàn quân Bố cái Đại Vương tiến lên xiết chặt vòng vây Cao Chính Bình ở trong phủ trị đô hộ. Ông Cử nói:

- Bây giờ bàn đến kế sách tiến đánh. Quân nó nhiều, súng nó mạnh, ta có đánh và có cách nào đánh không?

Mọi người ngồi im lặng suy nghĩ. Đây là một vấn đề nan giải hơn. Quân nó hung hăng, liều lĩnh, súng của nó bắn ra lửa nhanh gọn và mạnh, đạn nổ tan và phá dữ hơn binh khí của triều đình, có lẽ vì thế mà các quan ta sợ, không dám ngăn chặn chúng nó, để chúng nó lấn dần, làm già. Vậy thì một bọn người dân thường chúng ta, chỉ có gậy gộc, giáo mác, liệu có đối địch được với chúng nó không? Một lúc lâu, một anh thợ thêu phố Hàng Quạt, thập trưởng những người thủ công ở phường phố gia nhập đội nghĩa sỹ, lên tiếng nói trước:

- Cái mạnh của tụi nó chỉ là cái mạnh hung hăng bề ngoài, nếu ta nhụt, nó càng làm già. Nhưng xét cho cùng, nó là khách lạ đến, ta là chủ, ta có đủ thời thế và hình. Thời là ta đánh lúc nào cũng được, thế là ta đánh ở chỗ nào cũng được, đất là đất của ta, chỗ nào ta xoay giở công và thủ cũng được; hình là địa hình ta biết hết, nhân dân mọi nhà đều tranh nhau giúp đỡ ta, ta có thể vừa nấp vừa đánh đón đường chặn lối dồn nó vào chỗ bí. Nếu ta quyết tâm lại có các vị chỉ huy khéo bài binh bố trận, tùy cơ ứng biến linh hoạt thần tốc, thì nhất định ta đánh được…

Có người cười nói xen:

- Nghe bác nói cứ như là ông tướng cầm quân ấy!

- Chứ lại không à? Anh thợ Hàng Quạt nói. Ta họp nhau để đi đánh nhau mà không lượng mọi tình thế bên mình, bên địch thì đánh làm sao được.

Ông cử Kim Cổ giơ tay chưa kịp nói, ông ấm làng Vẽ đã lên tiếng:

- Ông ấy nói đúng, ta có cái thế vững, nếu ta khéo dùng thì có thể “thảo mộc giai binh” 1 , Bồ Kiên đem trăm vạn quân đến lội cạn sông tràn xuống Trung nguyên mà Tạ An ngồi ung dung đánh cờ cũng thắng được. Ở ta, đức thánh Trần đánh quân Nguyên cũng đã dùng đoản đánh trường mà thắng đấy. Chỉ sợ ta không có dũng khí và quyết tâm, chứ cứ xuất kỳ bất ý xông ra chịt lấy bọn chúng giáp lá cà với nhau thì súng của chúng nó cũng bằng vất đi.

Ông mền Kim Liên thêm:

- Vâng! Đúng đấy ạ! Quyết thắng là ở ta, chứ không phải ở địch. Chúng nó nhiều người nhưng lạ thung lạ thổ, ta ngăn được những kẻ vô lương đi đưa đường chỉ lối cho chúng, ta lại cố dò biết thói quen của chúng nó hay xuất quân vào lúc nào, đi về phía nào, thế tất ta có cơ chặn đánh được chúng dễ như chơi…

- Vậy phải thêm người đi thám thính, một vị nói, để ngay những người ở trong phố làm công việc ấy, vừa dò biết địch và vừa dò biết những người bên ta và của bọn Khách nữa.

- Thường thường một ít thằng Tây đi cùng với mấy toán lính Khách hay đi ra vào lúc sáng sớm để đi mua thức ăn, nếu không mua được thì chúng cứ xông vào cướp rồi quăng tiền lại trả. Ta đặt quân phục đánh úp bọn ấy tất là thắng được. Vả lại ta bố trí ngăn bắt những thuyền lạ của bọn đi đạo đem lương thực đến cũng vừa dử được cho chúng nó ra… Vì tất nhiên chúng nó phải đi bảo vệ lương thực của chúng nó.

- Hay đấy! Một ông nữa nói. Ông Phúc nói có lý. Ta phải làm hai việc cùng một lúc. Ta chia người ra đón bắt giữ những thuyền lương, hễ nó ra gây sự là ta chặn đánh.

Ông cử Kim Cổ hỏi:

- Thế là ta lân sang việc thứ ba rồi. Hỗn hợp cả hai việc cùng bàn cũng được. Nhưng việc chính của chúng ta là đánh Tây, vì vậy ta phải làm trái cả lệnh của triều đình, và tất nhiên cũng phải ngăn bắt những thuyền lương của dân đạo do các cha cố bảo đem đến cho địch. Vậy ta hãy bàn cái việc thứ ba này trước cũng được, có phải không các hiền hữu? Ta nên đối với bọn ấy thế nào?

- Ta chia quân ra kiểm soát dọc sông, ông cử Hoàng Mai nói, hễ bắt được những thuyền lương như thế, ta tịch thu cả thuyền và lương thực, bắt giam người lại trong khi ta sắp đánh nhau với Tây.

- Tôi nghĩ ta không nên làm mạnh quá, bác Phúc nói, chẳng qua cũng Nam quốc Nam nhân cả, dân đạo họ bị bọn cố cụ dụ dỗ xui bậy đem những lương thực đến cho những người đi mở nước Chúa, đem văn minh đến cho dân Nam, họ bị lừa dối tưởng lầm tụi Tây là người nhà Chúa thật, nên họ mới liều thân đi lại như vậy, nay ta bắt tất cả, chỉ càng làm cho họ oán thêm ta mà thôi. Nên tôi thiết tưởng tốt nhất là ta bắt lấy hàng, hoàn lại vốn cho họ về là hơn.

- Tiền ở đâu mà hoàn? Một người hỏi.

- Chúng ta sẽ lấy số lương thực ấy, và trả bằng tiền của ta, bác Phúc nói, nếu không đủ, ta đem số hàng ấy bán cho dân.

- Nhưng ta không phải quan chức, ta có quyền bắt giữ họ không? Một người hỏi.

- Nếu ta nhất quyết làm là làm được, ông mền Kim Liên nói, ta sẽ xin giấy của quan huyện Thanh Trì cho quyền chúng ta bắt giữ mọi thuyền buôn trái phép.

Ông cử Hoàng Mai khoa tay lên như phân bua nói:

- Tôi xin giữ việc này cho, tôi đi xin phép quan huyện và hễ bắt được thuyền nào đem lương thực cho Tây là tôi giữ lại, hoàn vốn cho chủ thuyền, và cũng là một cách đóng quân ở dưới này để làm thế ỷ dốc 2 . Nếu hỏng việc, tôi xin chịu cữu.

- Được, giao cho bác cử Hoàng Mai cũng được. Ông cử Kim Cổ nói, miễn là bác đừng có mượn cớ để giết đạo. Ngày mai ta sẽ canh phòng rẻo sông, ngăn bắt thuyền đạo ngay. Và bây giờ ta trở lại việc đánh đuổi Tây. Ta có nhất quyết không?

Bàn sáng tỏ hai việc đầu và cuối rồi, mọi người đang bồng bột, nô nức, cả gian đình rộng rãi từ nẫy giờ yên tĩnh trang nghiêm bỗng ồn ào rộn lên, mọi người đều như muốn hét lên hai tiếng:

- Nhất quyết! Nhất quyết!

Ông ấm Vẽ trịnh trọng nói:

- Lúc nãy, các vị đã nói rõ rồi đấy! Ta có thể hơn địch, nếu ta không biết dùng ngay cái thế ấy, thì thế sẽ mất đi mà địch sẽ lấn ta. Chúng ta đã nhất quyết thì nên làm ngay!

Mọi người đều reo lên:

- Phải đấy!

- Phải đấy!

Ông cử Kim Cổ vui mừng đứng hẳn lên nói nghiêm nghị:

- Các hiền hữu ạ! Thế là chúng ta đã trăm người như một, đều dốc một lòng, chúng ta nhất quyết đánh đuổi bọn Tây đi, không để cho chúng nó hoành hành ở phường phố ta. Chúng ta sẽ tách ra một toán giao cho bác cử Hoàng Mai đi tuần ven sông ngay từ ngày mai. Còn hai đạo quân sẽ tiến lên đóng dải ở phố ngay sau khi đã phân bố xong và chấn chỉnh đủ khí giới, nghĩa là chỉ một hai ngày nữa là cùng… Vậy các thập phải về báo ngay cho người của mình sửa soạn đầy đủ. Việc bài binh bố trận sẽ báo xuống các thập sau.

Mọi người đứng lên vui vẻ nhộn nhịp. Ông Cử vẫn đứng nghiêm trang giơ tay gạt gạt nói:

- Hãy khoan! Hãy khoan! Ai có thêm ý kiến gì nữa không?

- Tôi xin các vị đội trưởng cho mở binh thư ra xem, học cách thức làm hỏa mù, một người nói.

- Hỏa mù ta đã có gio, có gio! Đánh giáp lá cà, gio tung vào mắt là tốt nhất. Người khác xen ngay.

Ông cử Kim Cổ nói:

- Chúng tôi xin theo tất cả ý kiến của các vị, cố đem thử cả xem. Còn một việc nữa ta nên lưu tâm là đối với các người tư văn mà không ra đây đồng cam cộng khổ với chúng ta, ta nên đối xử thế nào cho phải đạo?

Ông ấm Vẽ nói ngay:

- Trừ ông cử Vũ Thạch ra, còn các người khác sức dài vai rộng mà không ra với chúng ta, tức là không cùng một ý chí với chúng ta rồi, không được như người dân thường, không chơi với họ nữa.

- Không được! Anh thợ thêu Hàng Quạt nói. Họ không ra đây mỗi người vì một lẽ riêng, nếu ta coi nhất luật như nhau, hóa ra đẩy họ đến chỗ bỏ ta. Chi bằng ta cứ liên lạc với họ, cho họ thấy sức mạnh của chúng ta mà không dám nghĩ khác, còn công việc của ta làm thế nào ta không cho họ biết.

Ông cử Kim Cổ vui vẻ nhắc lại ngay ý kiến ấy như để kết thúc hội nghị:

- Đúng! Ta không bỏ họ, họ muốn liên lạc ta cứ cho liên lạc, nhưng không cho họ biết công việc của ta, họ biết tức là dễ lộ, địch nó biết được nó dễ đề phòng. Vậy tất cả các hiền hữu ở đây chỉ nên nói mục đích và ý định đã bàn hôm nay với các bạn ở nhà, còn kế hoạch rõ ràng thì không nên nói vội. Còn với người ngoài thì không nên nói gì cả.

Ngừng một lát, ông nói thêm thân mật:

- Thế là chúng ta đã bàn xong. Các hiền hữu về bàn bạc với anh em sửa soạn cho tốt nhé.

Cuộc họp mặt tan giữa sự tĩnh mịch của đêm khuya. Mọi người lần lượt ra về, im lặng, những bước đi càng vọng huỳnh huỵch trong đường xóm vắng làm cho những con chó ở nhà ven đường giật mình trở dậy sủa vang lên một lúc mới thôi. Bác Phúc còn ở lại bàn thêm ít việc với ông Cử và ông Mền. Ông Cử vào đình trong thắp một tuần hương cho khói lên thơm nghi ngút. Ông trông theo đốm lửa đỏ ngòm trong đêm tối như đang tâm niệm đến đức Bố cái Đại Vương đã giáng lâm đang phù hộ độ trì cho công việc của mình. Ông lặng lẽ đi ra phía sàn, thấy bác Phúc còn đứng đấy, ông vui vẻ nói với ông Mền ngồi trên sàn đang khêu to ngọn đèn cầy, mà như nói riêng với bác:

- Ấy có để cho bàn vỡ lẽ ra như thế, họ mới tin ở sức mình và mới mạnh dạn đi theo việc nghĩa như nước chảy, và không chùn bước trước sự hung hăng của quân thú dữ.

Ông đứng sát gần bên bác, nói thêm:

- Bác về để ý mấy lão Tú ở phía chợ Cửa Đông xem họ có làm gì không, nhất là cái anh Tú Tốn Hàng Gà, anh ấy đi đạo, có thể dễ vệ về bọn Tây đấy. Bác cũng nên năng đến thầy bói Thịnh. Anh ấy khá mà biết lắm chuyện đáo để.

- Ấy phải khéo mới được, ông Mền xếp mọi giấy tờ vào tráp đậy nắp lại và nói. Nghe ngóng và hỏi thêm ở ngoài, đừng để người ta tưởng mình dò la họ để làm hại họ. Không cần đến nhiều, ở đây ta cũng có người thường về vùng ấy rồi.

Ông Cử nói thêm và vỗ vai bác Phúc như tỏ ý tin cậy khuyến khích:

- Ấy là nói thế, nếu có dịp đi lại ta cần để ý đến cả mọi thứ. Thôi, bác có thể về. Cứ việc đi giúp đỡ chú Sìn, ai nói ra nói vào cũng đừng ngại. Phải khéo với cả Bá Kim đấy. Lão mà cấm bác đi lại với Khách thì cũng rầy rà cả cho bác…

- Vâng được ạ! Đệ xin tuân lời các vị dạy.

Bác Phúc đáp và chào hai ông, lui ra băng mình vào trong đêm tối sáng sao mát rợi, qua những làng mạc yên tĩnh như đi giữa sông Ngân Hà mênh mông. Bác về qua Nam Ngư thì đã nghe vọng từ trên lầu canh của cổng thành tiếng chuông ba tiếng, rồi xa xa ba tiếng trống ở chòi huyện Thọ như trả lời lại. Chắc cũng vừa mới trống canh ba thôi. Nhưng đêm đã khuya rồi, chó ngủ im cả. Bác đã toát hơi sương, chó không đánh hơi được, bác lại đi nhẹ nhàng thoăn thoắt hình như không có tiếng động, nên chó chẳng sủa gì cả. Chỉ khi qua những điếm canh các làng, bác đã nhanh miệng lên tiếng hỏi các phu tuần trước. Họ đều quen biết bác cả, họ để bác đi ngay.

Bác đi một mạch về đến nhà, khẽ gọi cửa, cô Hiền đã ra mở. Bác sửng sốt hỏi:

- Chưa ngủ kia à?

- Con mải vá cái áo, cô con gái nói ngọt ngào, mồ hôi chóng rách lắm.

- Từ tối đến giờ làm gì không vá?

- Ban tối lủng củng, hai mẹ con còn mải cãi lý sự với nhau, cô bé vẫn nói ngọt ngào tự nhiên. Đã đi nằm nhưng nóng quá không ngủ được, con dậy thắp đèn ngồi vá áo để đợi thầy về.

- Mẹ con nhà mày chỉ vô công rồi nghề, ngồi rỗi mách lẻo, hay lôi thôi! Hễ vắng tao là y như có chuyện!

Cô Hiền ngồi vào phản vuốt thẳng mụn vá, vẫn ung dung nói:

- Không, có lôi thôi gì đâu, chả là bu con cứ cằn nhằn về thầy cứ đi họp đêm, họp hôm ở đâu, khách đến người ta cứ hỏi. Chả là lúc gần tối, cụ Bá Đông và ông Tú trên phố chợ vào đây ăn quà có hỏi thầy đi đâu, họ có bảo bu là thầy đi họp đồng môn chống lại quan trên đấy làm bu sợ quá. Đến tối lại cái anh Tín ở dưới làng lên bồn chồn bảo rằng ở ngoài người ta đồn nhà ta đi mua hàng bán cho Tây, anh ấy nói mất mặn mất nhạt, làm cho bu tức quá, hai thím cháu suýt nữa chửi nhau to, anh ấy vội bỏ ra về…

Bác Phúc trở lại bình tĩnh vui vẻ nói:

- Cái tính thằng ấy nó lốp bốp thế, nó chưa rõ đấy thôi, mai mày xuống tìm nó lên đây tao bảo. Thế còn cụ Bá Kim và ông Tú đến đây cùng một lúc à?

- Vâng, cùng một lúc, cô con gái đang mặc áo vào, vơ những mụn vải lại và đáp. Họ ngồi nói chuyện với nhau lâu lắm và hễ thấy bu và con là họ cứ hỏi thầy đi đâu? Bao giờ về? Vì thế, bu con bảo từ mai không cho thầy đi đâu cả, không cho lên chú Sìn, không cho đi chợ.

- Mẹ bố mày! Không lên chú Sìn thì đói rã họng ra, bu mày lại kêu! Thôi tắt đèn đi ngủ! Quá nửa đêm rồi!

Bác bước ra khỏi buồng, tự tủm tỉm cười giọng chửi êm dịu của mình.

Bá Kim cùng với bang trưởng Quảng Đông Huỳnh Lục Ký đi quanh một vòng hết chợ Hàng Bè. Chợ vắng quá, chỉ lèo tèo mấy hàng rau. Cua cá của dân chài dưới sông cũng không đem lên bán. Hai người đi ra góc chợ phía thôn Gia Ngư rẽ vào hiệu Dụ Hưng Lâu. Cửa hàng đã đông khách. Chú Sìn và Ả Chí đang tíu tít chạy đi chạy lại bưng món ăn lên hầu khách, toàn là những tên lính háu ăn mạo hiểm và những chú Khách khá giả ở trên phố. Hai người đến nơi, chú Sìn vội chạy ra đón mời vào. Bá Kim vui vẻ hỏi ngay:

- Đông khách đấy nhỉ? Phát tài không?

- Dạ bẩm hai cụ, chú Sìn trả lời tươi cười, nhờ giời, nhờ lượng các cụ, mấy tuần nay cũng bán chạy. Rước hai cụ vào chơi.

- Thôi, để anh bán hàng, Huỳnh Lục Ký nói, chúng tôi vào làm cho chật chỗ thêm, có khi khách ăn họ ngượng với chúng tôi. Anh sang bên hàng xóm này tĩnh mịch, tôi hỏi anh cái này một tí.

Bá Kim trông thấy bác Phúc ở trong bếp trong đi ra cũng gọi:

- Bác Hai! Bác Hai sang đây một thể.

Sợ bác không nghe thấy hay vờ lảng đi, lão dặn theo Ả Sìn:

- Chú bảo cả bác Phúc sang nữa nhé!

Hai người đủng đỉnh quay trở ra đi sang nhà bên cạnh là nhà một người bán cau ở cửa ô Hàng Cau. Nhà có bờ rào hóp, có cổng, có mảnh sân gạch con và một cái nhà gỗ năm gian lợp lá. Người nhớn đi vắng, chỉ có mấy đứa bé đang chơi ở ngoài sân. Hai người đẩy cửa vào đến sân, bác Phúc và chú Sìn cũng vừa theo kịp. Bá Kim đi rảo lên trước ngồi phệt ngay xuống cái bờ hè xây gạch và nói ra vẻ xuề xòa đắc ý:

- Ta ngồi ngay đây nói cho tiện.

Huỳnh Lục Ký vào đến nơi cũng ngồi xuống hè. Còn hai người kia ngồi xổm dưới sân. Huỳnh Lục Ký nói vào đề ngay:

- Chúng tôi vừa đi thăm chợ, chợ vắng lắm. Mấy hôm nay các chợ đều không có người đem sản vật đến bán. Mà khu ta đây đông đúc, mỗi ngày ăn uống nhiều, nên tôi đến bảo anh mở to hàng của anh ra để buôn bán được nhiều, sau nữa khi đi mua thức ăn, mua thêm cho nhiều, về bán lại cho bà con, và nhân tiện bảo với bà con các thôn xóm đem sản vật vào mấy chợ ở đây mà bán.

- Họ không đem đến bán đâu, chú Sìn nói, họ sợ các quan cấm, tôi cũng phải nhờ bác Phúc mua hộ đấy.

- Không, bây giờ có giấy sức của các quan hẳn hoi, Lục Ký nói, anh phải thân hành đi đến tận các nơi mà nói cho người ta biết. Trước hãy đi cùng với ông Hai, rồi sau đi một mình, vừa mua được hàng cho mình, vừa giúp ích được cho cả đôi bên, nhỉ ông Hai nhỉ!

Huỳnh Lục Ký quay ra cười hỏi bác Phúc, bác chưa kịp trả lời ra sao, Bá Kim đã bảo:

- Chợ ít người họp, các gia đình Khách trú ở đây có tiền mà không mua được thức ăn, hàng bang có lên kêu với quan Tổng đốc, nên nay đã có giấy thông sức cho dân các thôn xã vùng quê phải đem sản vật ra bán cho phố phường. Đây giấy sức đây!

Lão thò tay vào cái túi ngực khâu trong cái áo cộc năm thân, rút ra một tờ giấy bản gấp vuông, mở to cho mọi người nhìn rõ dấu son đỏ chóe, và è một tiếng lấy giọng đọc luôn:

“Quan Tri huyện Nguyễn, huyện Thọ Xương thông sức cho chánh phó tổng bảy tổng tuân loan báo cho dân chúng các thôn, xã, phường, trại biết:

Mới đây vì ngôn ngữ bất đồng, đoàn thuyền Tây dương đến có sinh ra xô xát, nhân dân ta sợ tai vạ không đem sản vật ra chợ bán nữa. Nay việc thương thuyết đã buộc họ phải cử phái viên ra bàn bạc cùng ta, bồi thường mọi thứ. Vả không vì thế mà để cho mấy nghìn Khách trú đã ở lâu đời ở đây phải chịu thiếu thốn lây. Vậy các thầy chánh phó tổng phải đi cùng với lý phó trưởng các thôn, xã, phường, trại đến bảo mọi nhà phải đi họp chợ như thường, đem hàng hóa sản vật đến bán ở những nơi đông Khách trú, cho tỏ rõ tấm lòng nhất thị đồng nhân 3 .

Nay khẩn sức.”

Đọc hết, lão ngẩng lên trông bác Phúc và nói:

- Nhất thị đồng nhân, coi nhất luật như anh em nhà cả. Giấy quan đã sức thế, bác Hai nên đứng ra đi mua hộ hàng giúp cho chú Sìn, rồi chú Sìn đem bán cho bà con khách trú, thế là vừa có lợi, vừa có tình, bác nghĩ thế nào?

Bị hỏi dồn, bác chưa kịp suy nghĩ, đành đánh nước lảng:

- Dạ, tôi không quen buôn bán lớn, chỉ quen đâm đầu vào bếp bán hàng cơm, có giấy sức được đi lại như thường, tôi xin mở to cửa hàng của tôi để mời các chú Khách quá bộ xuống thưởng thức cho vui vẻ.

- Được, vừa mở to cửa hàng, Bá Kim nói, vừa buôn bán thêm cũng được chứ sao? Cho vợ con chạy chợ, mình ở nhà.

- Không cần phải đi buôn đâu, ông Hai ạ, Huỳnh Lục Ký cũng nói, ông cứ bảo bà con đem hàng đến chợ bán, hay đem đến hàng ông, ông mua rồi chuyển sang tay cho Ả Sìn này.

- Nhưng trước hết, ông phải bảo bọn các ông đừng ngăn cách riêng khu các ông ra nữa mới được. Bác Phúc nói riêng với Huỳnh Lục Ký, có bỏ cái lối lính canh giữa phố đi, người ta mới nói đến chứ.

- Ồ! Đấy cũng là một lối tự vệ đấy thôi. Huỳnh Lục Ký nói thêm. Để tôi sẽ nói lại với mấy ông tướng Tàu.

Bá Kim đứng lên ra vẻ dặn dò:

- Thôi, việc có thế, thấy điều lợi, chúng tôi đến bảo bác và chú Sìn trước. Bây giờ, tôi phải thân đến các xã thôn, nói làm sao cho dân họ hiểu. Chúng tôi đi đây.

Huỳnh Lục Ký cũng đứng lên theo. Hai người đi ra. Bác Phúc cũng đứng lên phủi đít quần, chạy theo chú Sìn đã đi tắt ngang lách qua bờ rào về bên bếp nhà mình. Bác nói vọng thêm cho chú Sìn rõ:

- Mẹ kiếp, miệng quan trôn trẻ, lúc thì sức cấm, lúc lại sức bắt ra họp chợ, đem hàng đến bán, ai tin được!

Nhưng chú Sìn đã đi ngoắt lên cửa hàng. Bác vui thích một mình chui vào bếp, bồng bột nói với một chú khách thanh niên đến làm giúp đang ngồi xay cối bột:

- Cho là còn lâu mới có lương thực.

- Sao thế cơ? Chú bé đang quay cái cối, ngẩng lên hỏi.

- Vì dân thôn người ta không mang ra, nên bà con mình mới bị khó khăn.

Bác trả lời thế cho xong chuyện, rồi im lặng đi lấy cái điếu cày, hút một điếu thuốc lào to, say lờ đờ, bác ngồi nghĩ toán anh em nghĩa sỹ đã đi đóng ở ven sông ngăn giữ các thuyền đem lương và hàng đến cho giặc. Đúng rồi, hai hôm nay sáng nào nó cũng vận cho hai toán lính đi trên ven đê mong bảo vệ những thuyền lương của chúng. Nhưng thuyền vẫn không lên được, toán lính đành đi diễu hành trên đê trở về đoàn thuyền, hay lên hội quán phố Hàng Buồm. Thảo nào! Nó lại phải đâm bổ đi kêu xin quan ta sức cho dân đi họp chợ, rồi bọn thừa hành của ta lại có dịp kiếm lợi cả hai mang! Được! Ông cho là chúng mày còn khốn quẫn ạ! Đằng nào cũng muốn giữ phần làm bố người ta cả, ai người ta nghe! Bác đã tỉnh say thuốc, lấy làm thích chí đang chực chạy ra cửa hiệu rỉ tai ý nghĩ vui sướng với Ả Chí thì chợt có luôn mấy tiếng súng nổ ở phía bờ sông, tiếp theo có tiếng hò reo văng vẳng từ đằng xa lại. Trong làng xôn xao. Có người kêu:

- Chết! Họ đánh nhau rồi!

Mọi người nhớn nhác chạy ra. Bác Phúc không thèm nghe những chú Khách líu lô bàn tán nữa, bác chạy bổ văng về qua nhà, giục vợ con đóng cửa, rồi lao như bay về lối đình làng Trường Tín, vì bác đã biết anh em đóng về mạn này. Khác với cảnh nhốn nháo ở trên phố, ở những làng dưới này nhân dân vui vác gậy vác dao chạy ra phía bờ sông nơi có tiếng ồn ào, mấy cụ già đầu tóc bạc phơ chống gậy ra đứng ở cổng làng nghe ngóng tươi cười trông theo những người trai trẻ đang chạy cả ra bờ sông, có cụ cười nheo mắt nói:

- Cố bắt đem về đây mấy đứa nhé!

Tiếng ồn ào càng vọng to hơn. Một cụ mừng quá reo lên:

- Có thế chứ! Mình nhiều thế này mà chịu nó à?

Bác Phúc đang nức lòng cũng nói theo:

- Vui quá, nhỉ cụ nhỉ?

Nhưng vừa ra khỏi đầu làng Trường Tín, đám đông người đứng tụm lại, trên đê một toán người tiến xuống. Có người nói lớn:

- Đừng kéo ra ngoài ấy nhiều nữa, lốn nhốn không có chỗ nấp, nó bắn súng đấy!

Người đi đầu tiến vượt lên nói thêm:

- Các ông đi giải bọn này xuống Đồng Phù với chúng tôi!

Mọi người nhảy lên reo vui:

- A người mình bắt được tụi nó!

- Nhưng sao lại chỉ có bọn Khách thế này?

- Chưa bắt được Tây à?

Mọi người tranh nói, tranh hỏi. Có người trong bọn họ nói len vào:

- Bắt được Tây thì giết đi chứ, đem của nợ ấy về làm gì!

Người đi đầu đã đến nơi, nói cải chính:

- Không, bọn Tây nó ít, chưa bắt được. Mới bắt được mấy chú này, chúng tôi phải dẫn đi liền. Để ngoài ấy quẩn chân!

Cả toán đã đến nơi. Mọi người đều xúm quanh vây lấy bọn khách bị bắt. Tất cả năm đứa to lớn, nhưng quần áo xốc xếch, hai tay bị trói rặt ra đằng sau, mặt nhợt nhạt tái mét, run sợ như cò bị bão, trông thiểu não đến bật cười. Có người xô vào trực đánh, bác Phúc vội dang tay gạt mọi người ra và nói như quát:

- Không được! Ta chỉ đánh nhau tại trận thôi! Vả đây cũng người da vàng bà con ta cả. Ta chỉ đánh bọn quỷ trắng nó đến ăn hiếp ta.

Rồi bác quay lại nói với toán người áp giải:

- Các bác để tôi giải đi cho, dẫn qua trong xóm cho mấy cụ đang đứng ngóng kia các cụ thích, các cụ vừa dặn xong.

Thấy mọi người cười, bác mới kịp ngẩng lên nhìn các chiến sỹ:

- À quên, các anh, bác nói tiếp hơi ngượng, thì ra toàn thanh niên các xóm, các xã cả. Các anh đi vào với tư văn à? Thế cụ Cử có ở ngoài ấy không?

- Cụ Cử nào kia chứ? Một anh hỏi.

- Có, có mấy ông Cử, ông Tú ở ngoài mặt trận đấy…

Một anh nữa chưa nói hết câu, người đi đầu lúc nãy, nhiều tuổi hơn, đã nói cướp:

- Có cụ Mền chỉ huy ở đấy, còn cụ Cử đi đón đầu ở đằng trên kia! À này thôi, cụ Phúc ơi, cụ dẫn lũ này về dưới kia và cũng xin các bác, các chú cũng đi với cụ Phúc, còn vị nào không muốn đi, xin cứ đứng đón bọn Khách nữa. Đừng ra ngoài ấy, để chúng cháu đã tập quen rồi ra mới có lợi. Văn ôn, vũ luyện, chúng cháu có tập vẫn hơn.

- Được! Chúng tôi xin đứng đợi ở đây, một ông vui vẻ nói, không làm được gì nữa thì chúng tôi kéo đi thổi cơm làm cỗ giúp các anh để các anh nghỉ ngơi chứ sao.

Mọi người cười vui vẻ. Ba người ở lại đi với tù binh, còn năm người lại cầm mã tấu khoác lại khiên, chạy bon bon vượt đê ra phía bờ sông. Trông theo họ lanh lẹn lao mình lên đê, bác Phúc càng thấm thía thấy rõ tinh thần dũng cảm của đoàn quân nghĩa sỹ, một toán người ô hợp, áo giáp chỉ có bộ quần áo nâu cộc, thắt ngoài ngang bụng một cái dây lưng xanh bỏ múi ngang hông dưới nách, đi chân không, đầu bịt một cái khăn vuông đen, ấy thế mà trông cũng hùng dũng, hiên ngang, bắt được cả một lũ to béo, đủ cả quần áo, giầy vải, nón chóp bọc da và kiếm. Quay nhìn lại bọn chúng đang đứng cúi xuống giật nẩy mình ngẩng đầu lên khi nghe tiếng giục của bác trưởng toán:

- Thôi đi mau!

Bác càng thấy khinh bỉ và thương hại bọn lính đánh thuê ấy, bác đi kèm bên chúng nó để giữ cho chúng khỏi bị dân chúng bên đường đón đánh. Nhưng người ta chỉ tức Tây, chứ không mấy người ghét Khách, trông chúng đi thất thểu, tay bị trói, bụng bị hở áo phanh cả rốn, có bà cụ đứng nhìn và nói:

- Sao không cài áo bụng lại cho nó?

Bác bập bẹ mấy tiếng Khách nói cho chúng nghe rõ ý bà cụ, làm cho chúng nó hối hận, bẽn lẽn cúi gầm mặt xuống. Toán giải tù binh này đi rất nhanh, chỉ độ khô một bãi bòn bọt đã đến làng Đồng Phù, còn đang để chúng nó ngồi nghỉ ở sân đình cho bà con xóm làng ra xem cho chán, thì đã có một toán dẫn thêm sáu anh lính Khách nữa đến. Thấy đem nhiều lính Khách về đây, sợ bọn giặc nó biết, nó sẽ đi tàu máy về đến tận bờ đê, nó tiến được vào làng, nó sẽ phá hết, đốt hết, giết hết, một cụ già bảo mấy chiến sỹ áp giải:

- Các anh đem chúng nó vào sâu trong những làng trong kia. Ở đây gần ngay bờ sông, chúng nó đi sấn về đến nơi, nó có thể vào đánh tháo được.

Bác Phúc ôn tồn nói đáp lại:

- Cụ đừng sợ. Khi nào nó dám xuống đến đây! Và cũng tạm cho nó nghỉ ở đây một lúc, rồi chốc nữa, sẽ đưa nó đi…

Rồi bác quay ra nói chuyện với một chiến sỹ đứng đầu toán:

- Xin anh cho tôi trở lên đón lấy mươi, mười lăm tên nữa đem về đây chứ?

Bác lại chạy tót ra đi đón những toán khác, nhìn thấy mấy chú Khách bị giải đến, bác hỏi thăm qua loa, rồi đi thẳng về đầu xóm Đông xã Trường Tín. Nhưng chưa đến nơi, bỗng nghe thấy những tiếng ào ạt như phàn nàn tức tối, rồi có mấy toán người cùng đi theo ven đê trở về mặt hầm hầm dữ dội, thúc bọn lính Khách bị trói đi mau. Những người đứng bên đường thì reo vui đón chào họ, nhưng bác chạy ra hỏi, họ vẫn im lặng không thèm nói, cứ đi nhanh. Lại những toán sau nữa, bác nhận ra nhiều người quen. Kìa bọn ấm Vẽ, lại kìa toán của ấm Phách. Bác chạy xô ra hỏi:

- Sao lại về? Thua à?

- Thua lại bắt được lính Khách? Ấm Vẽ nói.

- Không bắt được Tây à?

- Ông đề không cho bắt! Một thanh niên nói nhanh với vẻ tức tối lẫn thêm vẻ kiêu hãnh.

Bác chạy lên đón cậu ấm Tự Tháp:

- Nó đuổi hay sao mà về cả thế?

Cậu ấm Ba Tự Tháp là người hung hăng nói nhiều nhất từ nãy đến giờ đã sừng sộ cả với ông cử Kim Cổ, mới im lặng được một lúc, thấy bác Hai hỏi đến, lại vùng vằng bỏ hàng ngũ chạy ra với bác và giục:

- Thôi về đi! Đánh với chác!

Những người trong hàng reo lên:

- Ê anh kia đào ngũ!

- Tao về đây! Cậu nói thế, tay trật cái khăn bịt đầu ra và cầm cả cái dao mã tấu đưa cho bác Hai và nói khẩn khoản:

- Nhờ bác cầm chạy lên giao cho ông ấm Vẽ hộ tôi. Tội vạ tôi xin chịu…

Cậu chạy ra ngồi trên một mô đất dưới cây sung bên một bờ ao ria đường, đợi bác Hai. Ở ngoài kia loáng thoáng lại có thêm từng toán đi vào. Trong làng tự nhiên có tiếng nhốn nháo truyền nhau:

- Chạy bớt đi, không nó đuổi đánh báo thù đấy!

Cậu vội đứng lên quát:

- Đứa nào nói láo? Trói nó lại! Quân ở đâu mà nó dám đến đây báo thù? Những người còn ở ngoài kia người ta là nấm à?

Bác Hai đã trở về đến gốc sung. Những toán chiến sỹ đã lần lượt đi hết, trông ra ngoài đê chỉ còn trời nắng chang chang tỏa nhuộm vàng tươi ngọn cỏ sườn đê và những lùm cây bàng, cây đề, cây đa ngoài phía bãi. Trời đã gần trưa. Nhưng ở đây dưới lũy tre râm mát và cây sung lòa xòa soi bóng xuống cái ao trong phẳng lặng, mấy con cá mè đang úi lượm đớp mồi gợn sóng lăn tăn, mọi người đã vây quanh cậu ấm hỏi cho rõ tình hình trận đánh. Đương muốn trút hết mọi bực tức và cũng là muốn cho dân chúng khỏi hiểu sai tưởng rằng mình thua, cậu đành phải đứng lại nói cho rõ ngành ngọn.

Biết được thóp Đồ Phổ Nghĩa hay cho quân đi vào buổi sáng ở trên đê để thị uy và bắt phu về làm cho nó – nó trả rất hậu, nên vẫn có một số người lảng vảng ra để được bắt – quân ta quyết chặn đánh một mẻ rồi ra sao thì ra. Cả đội chia làm hai cánh. Cánh hữu do ông Mền chỉ huy đi lẻn vào phục kích từ làng Cổ Tân, Trang Lâu đến Thất Thi, thủ dao ngắn, đi rải rác như người vào phố, toán tiền đạo phải giả làm dân lảng vảng ở ngoài cửa ô Hàng Cau đến cửa ô Long Tường. Cánh tả quân do ông Cử nhà ta dẫn đến bày trận ở ven đê từ bãi Đồng Nhân đến bến đò Trường Tín ngoài kia. Anh em cánh này vào ở lẫn với dân, dân biết cả, nhưng ai nấy một lòng không bàn tán gì. Một toán phải túc trực ở ngoài ven đê suốt ngày hôm qua chẳng thấy gì cả, đến chiều anh em rút cả về Phụ Khánh, Bạch Mai, Thanh Nhàn. Sáng sớm tinh mơ hôm nay, anh em lại lặng lẽ đi ra phân bố như sáng qua. Đến độ đầu giờ Mão, mặt trời đã qua khỏi những lũy tre bên kia sông đến mấy con sào đang tỏa ánh nắng chói chang, hất những bóng cây ven đê ngả dài rợp các thôn xóm bên đường. Một toán quân dưới thuyền đi lên bộ, bóng nhấp nhô, loang loáng, trông ngứa mắt quá, nó đi nghênh ngang như đi trên đất nước nhà nó. Đến mặt đê, chúng nó chia làm hai, một cánh đi lên phía đê Thanh Hà, còn một cánh chừng ba mươi Tây, năm mươi Khách và độ hơn chục Tây đen rầm rộ xì xồ kéo về phía bến đò này như thường lệ. Ba tiếng trống rồng ở đình ngoài Trường Tín lúc sáng là tiếng hiệu, rồi chuông chùa Đồng Nhân tiếp theo. Các đội quân phục kích ở ven đê xông lên nhanh như chớp cắt ngang toán quân địch, mặc cho súng địch bắn vì đã xông vào giáp lá cà, súng trường không còn sức tác hại nữa. Bọn lính Khách không có súng, chỉ có đao kiếm bị quân ta chẹn bất ngờ, hoảng sợ bỏ khí giới chạy toán loạn thục thân, bị quân ta ở trong làng chạy thêm ra vây bắt. Bọn Tây đen, Tây trắng thấy vắng tụi Khách vội chạy xuống bãi sông đứng tụm vào nhau, cố bắn súng bừa ra tứ phía để tự vệ. Quân ta đang đà thắng cúi nấp vào những mép đất, mô đất, lấy gạch đá đã mang sẵn trong người ném túi bụi vào đám quân đang đứng túm tụm. Có những người đỡ nghiêng nằm lăn xả vào gần tới bọn địch, vừa lăn vừa ném gạch. Và đến gần được họ đã vùng lên múa dao chém đỡ… Cánh hữu quân của ông Mền trong xóm Cổ Tân xông ra cùng với anh em tiền đạo đánh lùi bọn Tây chạy xuống thuyền, và nổ pháo làm nghi binh giữ rịt bọn lính Vân Nam ở ô Thanh Hà không dám ra. Một nửa cánh quân đang ào ào tiến xuống Trường Tín. Ba quân đang hăng hái tiến đến bao vây bắt giặc, chợt có ba tiếng loa gọi ở trên đê là có quan Đề đốc đến. Lá cờ lệnh đuôi nheo phấp phới trên mình ngựa đi trước, theo sau ba con ngựa với ba vị võ quan cùng chạy lao xuống chỗ đang hỗn chiến. Tiếng loa hét lệnh ngừng đánh nhau. Mọi người ngừng lại trông ra, bọn Tây đang luống cuống, ù té chạy tỏa ra chực nấp bắn. Nhưng Đồ Phổ Nghĩa cũng đã kịp đem một cánh quân cùng với tên huyện Chàm, thông ngôn người Sài Gòn, ra đến trên đê vẫy tay ra hiệu cho bọn lính của nó đừng bắn. Hai đứa đi tiến lên chào quan Đề và nói chuyện gì với quan Đề nhiều lắm. Rồi ông Đề cho tập hợp quân ta lại, tuyên cáo lệnh cụ Thượng bắt mọi người phải tức khắc trở về làng xóm làm ăn, không được trái lệnh triều đình. Thế là trận đánh phải bỏ dở…

Còn như tiếc rẻ, cậu ấm đổi giọng, nói tiếp ấm ức:

- Tôi đương ở mạn dưới này, thấy im, vội chạy lên hỏi biết được lệnh quan Đề, tôi tức quát ngay: “Đương tại trận không nghe ai cả. Bắt cả quan Đề lại. Lệnh nào? Triều đình đi theo giặc à?”. Quan Đề đốc cáu gắt mắng tôi: “Khinh mạn triều đình, đầu mi treo trên sợi tóc! Trông lưỡi kiếm này đây!”. Lão quay sang giục ông cử Kim Cổ: “Anh muốn để thằng trẻ con nó làm chết lây sang hàng mấy trăm người à?”. Ông Cử nhà ta thì trì trọng quá, nghe nó dọa, đâm ra sợ liên lụy đến nhiều người, liền hạ lệnh rút tất cả quân về.

- Thế ta có nhiều người bị thương không? Một người hỏi.

- Không ai chết. Bị thương cũng đến trên chục người. Có anh gì ở Trung Tự bị gãy một ống chân!

- Có bắt được thằng Tây nào không?

- Chỉ toàn Khách, đến hai chục tên.

- Sao thấy dẫn qua đây có độ chục thằng? Một người hỏi.

- Người ta đi lối dưới nữa chứ!

Một ông cụ tay đang cầm cái gậy chống, cắm mạnh cái đầu nhọn xuống bờ ao ướt và nói:

- Tức nhỉ! Giá cứ đánh đi có phải hơn, quan ở trên họ có động chạm gì đâu mà họ biết tức như dân!

Thấy để cậu ngồi nán lại nữa, sẽ còn nhiều câu hỏi kích thêm nỗi bực tức của ông bạn trẻ này lên, bác Phúc nói với cậu ấm:

- Thôi! Ta đi về kẻo muộn rồi!

- Về làm gì? Vào nhà tôi mà nghỉ, ông cụ nói tiếp ngay… Vả rồi cũng còn phải đi theo đội ngũ xem sao chứ. Ở đây đi cho nó gần.

Bác Hai cứ kéo cậu ấm Ba đứng dậy. Hai người chào tất cả mọi người, rồi đi tắt ngang về phía làng Phúc Lâm, bác Phúc muốn ghé qua làng xem thằng cháu Tín có nhà không. Đi ra khỏi làng chỉ còn hai người với nhau, bác mới nói riêng với bạn:

- Cậu đi ăn tập mới có ít lâu, chưa được một tháng nhỉ, thế mà trông khác hẳn đi, xăm xắn, khỏe mạnh, trông gọn ghẽ hoạt bát đáo để.

- Cũng chẳng thấm vào đâu với anh em nông thôn, dân cày cuốc, họ gan dạ và lanh lẹn lắm. Thắng hôm nay là nhờ có họ, chứ anh em mình lờ đờ lắm.

- Nhưng các cậu đã lắm mưu kế, dũng nhi vô mưu thì cũng hỏng.

- Chưa chắc đâu, bác ạ! Cậu ấm cười đáp. Hễ người ta đã quyết chí, tự khắc người ta có lắm mưu.

Hai người đã đến làng Phúc Lâm, giữa trưa nắng, nghỉ lại đấy.

° ° °

Hôm sau trát sức của Tổng đốc Hà Ninh truy nã hai ông chánh phó đội trưởng đội quân nghĩa sỹ của văn thân đã được đưa xuống các chánh phó tổng các huyện Thọ Xương, Thanh Trì, Hoài Đức để thông báo cho Lý trưởng các xã, toàn dân biết mà lùng bắt. Được tin, ông cử Kim Cổ vội trở về thân trình với quan Đốc học:

- Tôi không phải là giặc, nên tôi không sợ nã giải gì cả! Tôi làm việc nghĩa, không ai người ta nỡ bắt tôi đâu. Đây giấy sức của quan trên, người ta đem đến cho tôi đây này….

Ông cử đưa tờ giấy sức của ông quan huyện Thanh Trì cho quan Đốc xem và nói tiếp:

- Nghĩ rằng tôi không về, các quan lại vin cớ buộc tôi là phỉ chống triều đình, như ông đồ Bảng trong Ứng Hòa, thì rồi dân chúng người ta lại nguyền rủa các quan, không lợi gì lúc này, nên tôi đến nhờ quan lớn đưa vào trình cụ Thượng.

- Thầy về ngay thế này là tốt, vâng, tôi xin dẫn thầy đến.

Ông Đốc nói rồi liền đứng lên cùng đi ngay với ông Cử vào thành xin vào hầu quan Tổng đốc ở Đốc bộ đường. Tổng đốc Bùi Thức Kiên được tin ra tiếp ông Cử ngay ngoài bái đường, vừa trông thấy ông Cử đã mắng phủ đầu ngay:

- Tôi tưởng thầy trốn, nên phải sức truy nã. Thầy thân là khoa mục mà làm trái mệnh triều đình, chực cam chịu tước tên trong văn tịch, mang tiếng tội nhân muôn đời sao?

Ông Cử thẳng thắn trả lời:

- Bẩm cụ lớn Tổng đốc, chúng tôi nghĩa phận vì danh giáo, không lượng sức mình, đứng ra ngăn cản bọn giặc hôi tanh không cho chúng nó tàn hại nhân dân, giày xéo lên đạo lý, nếu bảo đấy là một tội thì chúng tôi vui lòng chịu cái tội ấy.

Ông Tổng đốc nghiêm nghị quở:

- Triều đình đã có lệnh cấm khích động, khích biến, để đợi phái viên họ ra đây nhận trang trả bồi thường mọi lỗi. Thế mà các anh lại dối trên lừa dưới, ngông cuồng bất đạo, làm hỏng cả việc lớn nước nhà. Đạo lý, danh giáo thế à?

Ông Cử cũng cứ đứng nghiêm trang cãi:

- Bẩm cụ lớn, Lý trưởng Kim Liên chết, không ai hỏi đến, quan đốc Lê Đình Duyên bị đánh đau còn nằm đấy, giấy má xúc phạm đến thể diện cả nước được công nhiên dán đầy khắp phố, không phải là nhục dân, nhục nước hay sao? Thế mà không trừng trị, còn đợi nó đến, nó trói hai tay, gõ vào đầu, bắt làm thân trâu ngựa nữa hay sao? Cụ lớn xuất thân giáp bảng, trọng trấn một phương mà cứ điềm nhiên ngồi yên đợi lệnh. Như thế thì cụ lớn buộc tội tôi là phải. Vậy có bắt xin cứ bắt.

Ông Tổng đốc bị nói kháy, lại đổi giọng:

- Tội của anh đáng chết! Hãy tạm tha đấy. Bây giờ tôi truyền cho anh một việc này. Chỉ vì các anh giở ngô giở ngọng mà Tây nó bắt mất quan Đề đốc và sáng nay nó lại bắt mất quan huyện Thọ Xương đem xuống dưới thuyền. Nó đòi phải thả tất cả bọn lính các anh bắt hôm qua, nó mới chịu để quan Đề về. Và nó còn đòi bồi thường hai mươi vạn nén bạc.

- Thế thì bán cả nước đi mà đền à? Ông Cử buột miệng kêu.

- … Cũng chỉ tại các anh khiêu chiến với nó, mới ra cơ sự như thế. Nên trước hết, anh phải giao ngay số lính khách bắt được hôm qua đem ra đây.

- Bẩm cụ lớn, để cho cụ lớn đem đổi lấy quan Đề à? Ông Cử hỏi mỉa mai. Thế còn số tiền nó đòi bồi thường thì đem cái thành Hà Nội này mà đổi à? Mà sao lại bồi thường? Bồi thường cái gì kia chứ? Bồi thường cho nó đã giết Lý trưởng Kim Liên à?

Ông Tổng đốc gắt:

- Cần nhất nó trả lại quan Đề đã. Còn mọi việc, phái viên nó ra đây điều đình với quan Khâm mạng sẽ đâu vào đấy cả. Nó sẽ phải trang trải mọi tội lỗi. Chứ cứ nóng nẩy như các anh mà được à! Xưa nay, cấp táo có bao giờ ra trò trống gì!

Ông Cử hỏi thêm:

- Bẩm cụ lớn Tổng đốc, thế ra cụ bắt chúng tôi phải đem số tù bắt được trao trả lại để nối giáo thêm cho giặc tàn hại dân à? Chính tích của cụ lớn cũng lạ!

Ông Tổng đốc quắc mắt gắt:

- Anh không được xấc láo! Trong lúc nước nhà đương nhiều việc hãy tạm để tội anh đấy. Cho về đem ngay bọn lính Khách lại đây, rồi đuổi bọn đồng môn về làm ruộng. Nghĩa khí gì các anh. Phải nhớ rằng đó là một vụ bạn nghịch tại án 4 , đầu các anh còn đang treo trên sợi tóc đấy nhé!

Quay mặt sang gian bên nhìn ông Đốc học đang ngồi trên một cái ghế bành và từ nẫy đến giờ vẫn yên lặng, lão nói như giao hẹn:

- Quan Đốc nói cho anh ấy nghe ra, không rồi mang tội với triều đình thì đừng trách!

Rồi lão đứng phắt lên, đi thoắt vào phía trong tư đệ, mặc kệ hai người đứng và ngồi trơ như bụt mọc ở ngoài nhà bái đường rộng thênh thang.

Ông Cử trịnh trọng từng bước đi lại phía ông Đốc học nói rõ ý mình với vẻ vừa phân trần, vừa trách móc:

- Tôi không ngờ nó bắt mất quan Đề đấy! Tôi lấy làm lạ sao các quan tỉnh lại xử sự thấp mưu như vậy? Chúng tôi đang thắng, nó nhờ quan Đề giải vây cho nó, đuổi chúng tôi về. Quan Đề dọa chúng tôi trăm nghìn thứ tội cho chúng tôi đi khỏi, để rồi nó có dịp rảnh tay vây lấy quan Đề, dí súng vào đầu quan mà bắt đem đi chứ gì? Thấp mưu đến thế là cùng. Còn việc nó bắt quan huyện Thọ Xương có can gì đến chúng tôi. Đó là lỗi của các quan chứ? Để giặc đường hoàng vào huyện như một chỗ không người, bắt một phụ mẫu chi quan đi, thì phải ghép vào tội gì chứ? Bây giờ, chúng nó lại còn bắt đền. Lấy thịt đâu cho vừa lòng hổ đói!

Ông Đốc giảng giải có vẻ nước đôi:

- Việc thầy làm là một nghĩa cử vì danh giáo, vì sỹ khí cả, các quan cũng biết. Nhưng chưa được lệnh mà các thầy tự ý làm. Trong nước phải có kỷ cương chứ. Nếu ai cũng làm bừa thì ra loạn à? Vả tình thế khó khăn, không khéo một tí là hỏng việc lớn. Cho nên nhất cử nhất động là phải thận trọng. Ở đây, người ta nói nhiều đến bọn đồng môn quan Nghè. Tây, ta, Khách, ai người ta cũng biết. Các thầy nên liều liệu chớ đừng tưởng kéo bè mà được việc đâu…

Ông Cử nói đỡ một cách từ tốn, nhưng có vẻ chua chát:

- Vâng, quan lớn dạy bảo chúng tôi xin tuân. Nhưng tôi nghĩ hợp sức nhau lại cùng giữ lấy thanh danh sỹ lâm chung, chứ có ăn vàng ăn bạc gì đâu. Chúng tôi cũng hơi lạ là các quan có lòng xét nét chúng tôi nhiều quá, mà đối với bọn Tây thì lại quá rộng rãi, quá nể… để mặc nó muốn làm gì thì làm! Thật là bất công!

- Công việc lúc này là công việc chung, khó khăn là khó khăn chung. Ông Đốc nói có vẻ đắn đo, ta phải theo cùng một hướng, không thì hỏng bét cả. Việc quân cơ cả nước, mình làm trái cũng không được. Tôi thiết tưởng các thầy cứ nên tuân mệnh triều đình, bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính 5 là hơn cả. Mình, ếch ngồi đáy giếng, chỉ biết việc xó nhà nơi quê hương mình, không có địa vị nhìn cao xa rộng khắp cả nước, ngộ nhỡ làm hỏng việc thiên hạ thì mang hận muôn đời.

- Vâng, như lời quan lớn dạy, ông Cử nói, thế là mình cứ phải nhẫn nhục chịu nhượng bọn giặc cướp chứ gì? Rõ ràng là chúng nó cướp của, giết người, khinh nhờn phép nước, thế mà chịu nó, thì là sách nào dạy, lời sách nào?

Ông Đốc ngồi im chưa biết nói sao, thì ông Tư vụ ở phòng tào bên tả vu đi lên nói với hai người:

- Cụ lớn truyền quan Đốc về, còn thầy cử Ngô Văn Dạng ở đây để đi với thầy quản cơ đem lính đi đưa bọn lính khách về đây.

Ông Đốc học đứng lên ra về còn nói với ông Cử:

- Thôi thế là yên cho thầy.

--------------------------------

1

Nuôi uy, nuôi cái nhọn.

2

Những người có theo nho học, lập thành hội gìn giữ đạo nho.

3

Huấn đạo là chức quan coi về việc học.

4

Tablier: cái vải choàng ngoài để làm việc hầu bàn, cho được vệ sinh, ở đây đọc theo âm Việt hóa thành tạp-dề.

5

Vị quan to theo mệnh vua (Khâm sai) để trông nom (thị sự) mọi việc.

Chương V

Giời mưa rươi luôn mấy hôm, đường lầy lội đi lại lấm láp. Ông cử Tam Sơn, từ trong Mọc ra đến hàng bác Hai Phúc. Mặt trời mới ló ra từ nửa chiều, giờ đã sà xuống bên dãy tre làng Phục Cổ, nhuộm đỏ ngòm cả một góc trời tây. Quần xắn đến bên trên đầu gối, ông bước xuống cái cầu ao bằng bốn đoạn tre đóng liền làm một bắc nhô ra hồ ở bên phía đầu hàng bác Hai, ông vịn lên đầu cọc cầu, khỏa chân uồm uồm, có ý khua mạnh cho người trong nhà nghe tiếng, nhưng không thấy bóng ai ló ra, ông đoán có lẽ nhà này đi vắng cả chăng? Ông rửa xong lên bờ, buông quần xuống, vuốt phẳng, rồi ung dung bước vào hàng bác Hai. Cửa đã đóng kín, ông lên tiếng gọi, bác Hai ra mở, trông thấy ông vội reo lên, không kịp chào hỏi gì cả:

- May quá, chỉ một tí nữa là nhà cháu lại đi vắng!

- Bận à? Đi đâu? Ông Cử hỏi. Sao không bán hàng? Nhộn lắm à?

- Dạ, dạo này hai bên không ngăn giữ nhau nữa, bác Hai vừa mở to cửa mời ông khách vào vừa nói, hàng họ được mang vào phố, khách ăn họ tụ tập cả ở trên ấy, còn người mình thì cũng không ai thiết đi lại, ế hàng, nên càng có cớ chạy rong…

- Thế định chạy rong đâu đấy?

- Bẩm, tiểu đệ định chạy qua lại hàng chú Sìn một tí.

- À thế có cái chú khách gì ở đấy không? Cái chú mà bác nói khoe với tôi hôm nọ ấy mà.

- Bẩm, may ra thì có, à, giờ có lẽ chú sắp gánh hàng lên bán ở Hàng Buồm.

- À thế cho tôi đi theo đến gặp chú ấy một tí có tiện không?

- Dạ, bẩm được lắm ạ! Chỉ ngại quan bác mệt.

- Tôi đi bộ quen rồi, bác ạ, không sợ. Ông Cử nói quả quyết, rồi ngần ngừ quay vào giường bên cửa sổ nói thêm:

– À này, bác cho tôi mượn bút mực viết câu này gửi tặng quan Đốc. Lúc nãy, đông khách, chưa tiện viết. Mai hay lúc nào bác vào thăm, đem vào giùm nhé. Ông cụ nằm đấy cũng buồn.

- Dạ, đệ không vào được, đệ xin đem lên Hàng Đậu gửi người nhà đem vào ngay trình quan lớn. Ấy quan lớn về trong ấy mới tĩnh dưỡng được, chứ ở ngoài này, vừa ồn lại vừa tức, nó chọc ngay trước mắt.

Bác Hai nói, vừa đi vội vào trong buồng lấy nghiên mực, ống bút và tờ giấy hoa tiên màu hồng, bác mới xin được của hiệu khách Thành Ký bán thuốc bắc trên phố Hàng Buồm, đem ra đưa cho ông Cử. Bác lấy nước mài mực. Ông Cử vuốt phẳng tờ giấy hoa tiên khen:

- Tờ giấy hồng đẹp thế này mà chả biết chữ nghĩa có xứng không? Ông thấm bút vào mực viết một đôi câu đối. Bác Hai vừa mài mực vừa lẩm bẩm đọc, rồi lên tiếng nói:

- Lão huynh đọc to lên cho đệ nghe nhờ tí. Cái dốt là cái tội. Lão huynh viết tháu, đệ không nhận ra được.

Ông Cử vê ngòi bút trên nghiên mực, tháp bút lại rồi đọc ngân nga:

Lòng đủ thấu giời, đau khắc khỏi

Thù còn lấn nước, giận càng sôi!

Ông gấp tờ giấy lại đưa cho bác Hai và nói thêm:

- Viết mấy chữ phá lề lối, cốt mong quan Đốc mau khỏi. Bác Hai đế ngay:

- Ấy lão huynh viết thiết thực như thế, quan Đốc sẽ bớt được một phần nghĩ ngợi mà mau khỏi thật đấy. Người ta thường bảo văn chương của các bậc cao sỹ, đanh thép, quỷ thần kinh sợ, chữa khỏi bệnh đấy.

Ông Cử cười đứng lên nói:

- Bác cũng khéo tán rộng thế. Thôi ta đi đi!

Hai người cùng bước ra hè. Bác Hai khép chuồng cửa bướm lại, rồi bước xuống sân theo ra đường, đi vượt lên nói:

- Tôi dẫn lão huynh đi vào thôn Yên Trường, đường lát gạch bổ cau dễ đi, lối ngoài này còn lội lắm.

- Được tùy bác, bác dẫn đi đâu tôi cũng đi.

Hai người đi song song bên nhau đến cửa đền Bà Chúa, quành ra sau đền, rồi bác Hai đi trước tiến theo đường gạch vào trong xóm. Yên tĩnh quá, loáng thoáng trên dăm ba mái nhà, làn khói lam nhè nhẹ bốc lên là là, trên đường dăm sáu người đi làm về rảo bước, tươi cười chào bác Phúc rồi vượt đi. Ở ao làng, một vài cô đang lội xuống bậc vén cao ống quần lên rửa chân, cái mớ tóc đuôi gà trong vành khăn đang phất phơ đằng sau gáy theo với nhịp toàn thân uyển chuyển do hai bàn chân đang kỳ cọ. Cảnh thanh bình quá, ông Cử thốt nhiên hỏi:

- Thái bình yên ấm quá nhỉ? Mấy hôm nọ cũng thế à?

- Cũng thế. Vì những người giàu có ở làng này, họ sợ đánh nhau, họ đã chạy ra vùng nhà quê cả rồi. Còn ở đây ở nhà chỉ có những người đi làm ở các phường. Vì thế trong làng vắng vẻ. Trong làng sạch sẽ, nhưng không có gì, nên bọn lính Khách nó cũng biết, nó không đến đây bao giờ.

- Vào đến đây, tôi tưởng như vào một làng ở xa xôi lắm, như ở Hưng Yên, trên bờ sông Luộc…

- Ấy, thế đố lão huynh biết hết thôn này rồi đến gì đây?

Ông Cử trông theo tay bác Hai, thấy ra khỏi thôn có mấy tấm ruộng lúa nếp hoa vàng trĩu hạt, mấy vườn rau, rồi đến thôn xóm nữa. Ông chưa kịp nói, bác Hai đã đỡ ngay:

- Chính con đường này chạy qua bãi Hàng Bè thẳng lên phố Hàng Tre, tre nứa xếp đống ngổn ngang kia. Xóm kia tức là đầu thôn Trang Lâu.

- Thôn Trang Lâu trước kia liền với thôn Nam Phố, tức là Hàng Bè bây giờ. Trước kia bãi sông vào mãi đến tận đây, phố tức là một bên là bờ sông, bên kia bờ, dân cư ở thành dãy dài. Nam phố bây giờ không còn sống nữa, làng đã ở lùi vào phía trong phố và đổi tên là Gia Ngư, còn bè tre nứa gỗ bây giờ ở tít ngoài xa, mãi bên ngoài phố hàng Tre. Bác trông có mênh mông vắng vẻ không?

- Cũng tại tụi Tây nó đậu thuyền ở ngoài sông kia, nên khu vực ít tre gỗ hẳn đi, và người đến mua bán cũng ít, phố này thành ra vắng vẻ, chưa chiều tối đã vắng như bãi tha ma, chứ dạo trước khu này rộn rịp đông vui suốt từ sáng sớm cho đến tối. Hàng đệ cũng vắng lây vì thế đấy.

- Ừ, thời thế thay đổi cũng mau đấy chứ.

Hai người đã tắt qua bãi, lên phố rồi vào chợ Hàng Bè, đến hiệu Dụ Hưng Lâu, hàng đã đóng cửa, chú Sìn đi vắng, chỉ thấy Ả Chí đang loay hoay nhóm lửa vào bếp một bên gánh phở. Bác Phúc bước vào trước hỏi:

- Đã đi rồi à?

Rồi bác giới thiệu ngay ông Cử với Ả Chí và quay ra nói với ông bạn già:

- Chú Sìn đã gánh cháo và sực tắc lên trên phố Hàng Buồm bán rồi, ở đây đèn đóm lách cách và tối, khách họ cũng ít xuống. Chú Chí cũng sắp một gánh đi. Mời lão huynh vào, may vừa gặp, nói chuyện ở đây tiện hơn ở trên kia.

Ông Cử bước vào nhà. Hai người chào nhau. Ả Chí khêu to ngọn đèn dầu lạc để sẵn trên bàn, giương mắt trân trân nhìn ông khách mới như dò xét xem tướng, sau cùng có lẽ nhận thấy một ông già đạo mạo, quắc thước, nói năng từ tốn, chú mới nói xin lỗi bằng một thứ tiếng Việt chưa sõi lắm:

- Thưa tôn ông, đệ là dân kiều ngụ cục cằn, nói chào thô lỗ, xin tôn ông xá cho. Tôn ông cũng như ông Hai đây, đệ biết đều là những người rất tốt, biết quý người, hay giúp đỡ người, nên đệ rất thích được hầu chuyện ông Hai đấy, và nay lại được hân hạnh thừa tiếp tôn ông, đệ rất lấy làm sung sướng.

Ông Cử nói mấy câu xã giao làm quen bằng tiếng Khách. Bác Phúc trố mắt nhìn, hỏi:

- Lão huynh nói sõi tiếng Tàu thế cơ à?

- Tôi đã học nói khi tôi làm tài công cho hiệu khách ở Ninh Hải, ông Cử nói, tôi tập nói lại để chú Chí nghe xem có hiểu không?

Bác Hai ngồi xuống đất bỏ thêm củi vào bếp đang nhóm và xếp gọn một ít củi khô, bỏ vào hòm gánh ở dưới gầm cái tủ gánh đựng bát đĩa, thịt gà và gia vị, rồi nói với hai người:

- Hai vị cứ yên trí nói chuyện, tôi gánh hàng đi trước cho.

- Chậm một tí cũng được, bán về khuya cơ mà, giờ đã có ai ăn.

Ả Chí nói vậy, ông Cử cũng tiếp:

- Nếu cần đi ngay, tôi xin đi theo xem quang cảnh phố một tí cũng được. Có chuyện gì kín lắm đâu.

- Cứ ở nhà một lúc đã, tối hẳn hãy đi. Ả Chí vẫn nói.

Ba người ngồi lại nói chuyện với nhau, sau mấy câu xã giao thăm dò như thường lệ, Ả Chí không còn e ngại gì nữa, nói ngay:

- Đệ thấy ông Hai đây nói đến tiên sinh, đệ vẫn ước ao được gặp để mong biết được cao ý đối với việc đời nay. Tính đệ cứ thẳng tuột ruột ngựa, biết thế nào nói thế, không dám ba hoa văn vẻ. Đệ qua ở bên này đã lâu, đệ nghĩ rằng mọi khổ cực điêu linh ở đây hiện nay đều do bọn Tây dương mà ra cả. Tụi nó mà đắc thời đắc thế thì còn là chết ạ! Có phải thế không quan bác? Vậy đáng lẽ ta phải sớm chặn nó lại. Nhưng quan bác ạ, triều đình và quan lớn có lẽ không biết đấy vào đâu. Bên Đại Thanh cũng thế và bên An Nam này cũng thế. Họ chỉ biết nhường nhịn bọn Tây để kiếm lợi riêng. Tổng binh Trần Vân Quý đấy, Hiệu úy Lý Dương Tài đấy, bọn chúng đi lấy giấy của Phùng Đề đốc Quảng Tây để bênh vực Đồ Phổ Nghĩa tác oai tác phúc ở đây. Còn các quan chức ở đây, từ tỉnh đến huyện cứ ngồi im, mặc cho Tây dương hoành hành. Có phải thế không quan bác? Và nguyên do tại sao?

Ông Cử vui miệng trả lời ngay:

- Tại họ nhút nhát, tham sống sợ chết…

Ả Chí nói tiếp ngay:

- Tại vì họ còn mong có lời, lợi lộc và sự tọa hưởng yên thân đã vít tối mắt họ lại, tôi xem họ hoạnh họe tôi mấy lần, tôi rõ lắm. Nhưng còn dân thì khác. Dân chúng trăm họ vốn ghét bọn giặc ngoài hung hãn, trăm người như một, ai cũng căm tức. Nhân cái đà dân đang căm tức, ta lựa chiều chặn nó được tí nào hay tí ấy. Trận phục kích hôm nọ hay đấy, chúng nó sợ đáo để. Nhưng bọn quan ở đây tồi quá, chỉ ăn tham cho béo, lúc thường thì hống hách bắt nạt dân, bòn rút của dân, đến khi lâm nguy thì rồi cũng đành đánh trống lảng, chỉ còn trông nhờ ở dân cả thôi. Dân mà không làm gì được, họ sẽ sẵn sàng luồn cúi bọn giặc mà thôi.

Bác Hai sốt ruột nói:

- Chán quá, sao chú nói ít với tôi, mà thấy lão huynh tôi, chú lại nói nhiều thế? Lão huynh tôi là bậc khoa bảng danh sỹ đã trải đời nhiều, chú nói ít lão huynh tôi cũng đã hiểu rồi…

Ông Cử vội ngắt:

- Cái anh này chỉ quen thói cộc cằn, chú là người ngoài, chú có nói, mình nghe mới sáng mắt ra chứ!

Ông quay ra nói với Ả Chí:

- Chú xá lỗi cho, bác Hai nhà tôi nông nổi, chỉ muốn nói ngay một là một, hai là hai, không thích người ta bàn đến xa xôi… vả lại bác ta sốt ruột cũng vì tình trạng bây giờ đúng như chú nói đấy, nên chúng tôi muốn đến nhờ chú giúp thêm, vì hai dân nước chúng ta như môi với răng, môi hở thì răng lạnh…

- Không, ông Hai tính thực và thẳng, Ả Chí nói, tôi biết lắm. Trông thấy cái gì ngang trái bất công thì tức. Bọn Khách chúng tôi cũng thế. Nhưng mỗi người nghĩ theo cái chí của mình có sâu rộng khác nhau. Có bọn đi theo Tây dương. Nhưng tôi thì tôi ghét cay ghét đắng bọn ấy, vì bọn ấy xảo quyệt, xui nguyên giục bị để tàn hại dân lành, vơ vét cho đầy túi tham của chúng, ở bên nước tôi và ở bên nước tiên sinh đây cũng vậy, nên tôi không thể nào theo chúng nó được…

- Nghe bác Hai nói, ông Cử ngắt, tôi biết chú là người có chí lớn, hôm nay được gặp, quả là chú có lòng nghĩa khí, anh hùng ẩn tích, giữa đường gặp sự bất bằng, không thể nào ngồi yên được. Cho nên hạnh ngộ đây, tôi muốn bàn với chú xem trong tình trạng bây giờ, hai bên họ đã hòa hoãn với nhau, không găng quá như trước, anh em chúng tôi có nên làm gì nữa không, hay là cứ theo lệnh quan trên yên trí mà làm ăn ở nhà, cho được yên ổn cả.

Ả Chí cười nói lưỡng:

- Quan bác dạy vậy, chứ đệ nói chắc nào quan bác đã tin. Nhưng mà đệ nghĩ rằng, bây giờ dân An Nam ở đây ai cũng ghét Tây, mình chống lại Tây ai cũng thích, mà cũng do cái trận cản nó hôm nọ mà nó mới êm êm đi một ít đấy. Nay nó đã lấy nê được quan nể, về hùa với nó rồi, nếu ta không làm gì thì rồi nó đè ép nữa cho mà xem, nó đè cả người Nam và người Khách cho ngóc đầu lên không được ấy.

- Ấy thế nên chúng tôi mới tìm đến bàn với chú.

- Đệ thì cô thân một mình một ý, Ả Chí nói tiếp, giọng trở nên nghiêm trang hơn, không có vây cánh, chẳng dám lạm bàn. Nhưng tôi nghĩ việc đối xử tử tế với bọn lính Vân Nam bị bắt hôm nọ, rồi lại trả về, làm cho cả bọn rất cảm kích. Cũng vì thế mà mấy hôm nay, bọn lính khách không dám hoạnh họe, nạt nộ dân nữa. Có thể ta nhân cái cơ lính đang dễ dãi và sợ sệt như thế mà làm ngay một việc gì cho chúng nó hoảng một mẻ.

Rồi chú hỏi ngay sang việc khác, đột ngột:

- Nhưng này, người ta thường bảo vô nam dụng nữ, mà bây giờ tôi lại muốn phiền các ông, tuy hữu nam, tôi vẫn muốn dụng riêng nữ, liệu có được không?

- Chú lại định dùng mỹ nhân kế? Ông Cử hỏi:

- Không, chưa phải lúc. Bây giờ tôi nghĩ muốn dùng mấy tay con gái can trường, đi đứng hết sức tự nhiên, nói năng hoạt bát, để thu xếp lừa đánh cho chúng nó những đòn bất ngờ, vì hiện nay đàn bà con gái đi lại trong phố chúng nó đỡ nghi hơn. Chúng nó còn đang muốn ve vãn. Về phía tôi, tôi suy nghĩ mãi chỉ mới có thể tìm cách làm được như thế.

- Chú nghĩ như thế, ông Cử nói, kể cũng chí lý đấy. Việc xé và xóa bỏ những giấy yết thị của bọn Phú Lãng Sa ở mấy phố này thấy nói đều nhờ mưu và công của chú. Đã tin điều trước, ắt nhằm việc sau. Phiền nỗi tôi ít ở đây, không quen biết mấy ở thành phố này, nên không biết ai là người có thể giao phó được. Để chúng tôi về bàn với anh em xem.

Bác Hai bộp chộp nói như vồ ngay lấy:

- Hoài của! Có cô Xuyến độ nọ chạy đến gọi tôi, cái hôm quan Đốc bị nạn ấy mà, chú có nhớ không? Cô ấy tính khí nhẹ nhõm dễ bảo, thích làm việc nghĩa, giúp người. Nhưng ác cái cô ấy lại là con gái lão Bá Kim. Người ta đang nghi lão về bè với Tây…

- Càng tốt, Ả Chí nói luôn, con ông Bá Kim càng dễ làm việc, vì ông ta đang làm việc quan, khắp mấy bang Phúc Kiến, Quảng Đông ở đây, ai là không biết, ông ta lại đang đi lại chơi thân với các ông Huỳnh Lục Ký, Lê Đạt Ký. Có cô ấy giúp, ra vào, quanh quẩn mấy phố khách này càng khỏi bị chúng nó nghi ngờ, có phải tốt không quan bác nhỉ?

- Vâng! Ông Cử đáp. Vả dùng người như dùng gỗ, lấy chỗ tốt, bỏ chỗ xấu, cốt sao cho được việc thì dùng. Có trách thì nên trách những kẻ có quyền hành giành giữ một phương mà cứ làm thinh, mặc kệ, chỉ ngồi đợi lệnh triều đình, rồi muốn ra sao thì ra, chứ trách chi đến hạng người thừa hành… mà lại đi khinh rẻ con cái người ta.

- Ấy cũng cần biết mà ngăn cản đi chứ, bác Hai nói vẫn giữ ý mình. Kẻ ở sát ngay cạnh nách mình, nếu đã nhị tâm, càng dễ thông tỏ ngõ nguồn, dễ phá hại mình lắm. Nhưng nếu lão huynh và chú Chí thấy có thể dùng cô ấy giúp được một tay thì cứ dùng. Vả cô ấy cũng là con người tốt.

- Được, quan bác cứ bảo cô ấy đến đây, Ả Chí nói, và mấy cô nữa càng tốt, rồi ta sẽ bàn xem.

Bác Hai quay lại nói với ông Cử:

- Muốn cho cô ta làm được việc, lão huynh nên bảo cậu ấm Ba khuyên cô ta một tiếng.

- Bác bảo sao? Ông Cử hỏi hơi khó chịu. Có can chi đến cậu ấm?

- Thưa lão huynh, ấy chả là vì cùng lứa tuổi thiếu niên cả, người ta thường mộ nghĩa liên tài 1 mà.

- Được, ông Cử cười giục, thế để ta về bàn với bác Cử và cậu Ba. Rồi ông đứng lên nói với Ả Chí:

- Nhất kiến như cựu 2 , xin vâng lời chú dạy, về anh em chúng tôi bàn nhau, không quậy cựa gì lúc này thì cũng ức lắm, chú ạ. Thôi để chú đi bán hàng, kẻo khách ăn họ mong ta…

Hai người chào Ả Chí, rồi bước ra cửa. Bên ngoài giời đã tối hẳn. Giời tạnh mát. Trên nền giời quang, những ngôi sao như những chòm cúc bạc óng ánh tỏa ánh sáng mờ nhạt đánh loãng màn đêm nhờ nhờ. Hai bên đường phố, trong những nhà cửa đóng, đã lập lòe ánh đèn sáng. Nhưng tứ phía im ắng. Các lối đi hiện ra lờ mờ trước mặt. Đến ngã ba đầu chợ, bác Hai rẽ vào xóm Gia Ngư và nói với ông Cử:

- Ta đi tắt lối này ra hồ Thái Cực, đi quành sau đình Hàng Đào luồn sang phường Đông Hà gần hơn, lão huynh nhá!

- Ừ! Ông Cử nói. Tùy bác chứ, có dễ đi không?

- Dễ chứ, vừa mới chập tối, nhà nào cũng còn thắp đèn, đường ngõ sáng lắm.

- Thế thì tốt, bác đưa tôi về bác Kim Cổ, rồi đi tìm cậu ấm lại nhá, rồi có cần lên giúp chú Chí ngay thì đi cũng được, mai tôi sẽ bàn thêm với bác. Cái chú này hay đấy, không viển vông.

Hai người ra khỏi xóm Gia Ngư, bước vào phường Thái Cực ở vuông quanh hồ, đi vòng theo nửa bờ phía đông và bờ phía bắc đến phố Hàng Đào chạy bổ dọc phường. Đèn những nhà hai bên phố chiếu sáng ra đường, hai người đến chỗ giữa phố khuất ánh đèn, dừng lại tìm lối. Đây là đình Hàng Đào, ngôi đình to, có sân rộng trông ra hồ, là nơi họp chợ tơ. Những ngày phiên chợ, người các nơi đem tơ nhuộm, tơ dệt, tơ con đến bán rất đông, ngồi khắp cả phố và quanh hồ này. Đang ở những nhà có ánh đèn, vào chỗ tối, bị quáng, ông Cử vịn tay vào tường định sờ soạng lần theo bác Phúc và hỏi:

- Chợ tơ dạo này có đông không?

- Vắng lắm, lão huynh ạ, bác Hai đáp. Chẳng sao cả, nhưng ở ngoài cứ nghe đồn tưởng ghê gớm lắm, khách xa người ta không đến, hàng gần chả bán cho ai. Đến ngay như La Khê, La Cả, họ cũng ngại không dám đem hàng ra bán…

- Thành thử hàng bác cũng ế lây.

- Vâng chính thế.

Đi men hết cái đình chuôi vồ thì vào một cái ngõ ngang, lại có ánh đèn ở trong hắt ra, bác Phúc đi vào cái ngõ có ánh sáng ấy, và lên tiếng hỏi:

- Cụ cả có nhà không? Cháu đi nhờ sau vườn sang xóm Tố Tịch một tí nhá.

Một ông già khỏe mạnh ở trong nhà bước ra sân hỏi ngay:

- Hai Phúc đá? Vào chơi đã! Có món gì hời không?

- Thôi xin phép cụ, cháu vội đi có tí việc.

Bác và ông Cử chào ông cụ, đi qua sân rồi đi thẳng ra cái vườn sau, đến cái góc vườn có một cái cổng xép khép chặt. Bác Hai mở cổng nhường ông Cử ra trước, bác ra sau, khép chặt cổng lại như cũ, rồi đứng lại bảo với ông Cử:

- Từ chỗ này ra cái ao giữa xóm kia tối khó đi, lão huynh vịn vào vai đệ đi cho nó vững và nhanh…

- Được kệ tôi, tôi đi được. Sáng sao và đường khô, dễ đi đấy chứ. Ngập ngừng một lát, ông nói tiếp:

- Ngộ nhỡ có đánh nhau, người ở đây phải thông thuộc đường lối như bác thế mới được.

- Ấy, các phố cổng vẫn đóng đấy, bác Phúc nói với vẻ thỏa thích, nhưng những người khéo lần mò, len lỏi, vẫn đi lại suốt đêm được, không phải qua cổng chính, không bị ai hỏi han cả, vì phố nào nhà nào, người ta cũng có ngõ ngang, có cổng sau.

Ra đến ao Tố Tịch, một khoảng rộng thênh thang, yên tĩnh, không khí mát lạnh, cảnh vật sáng nhờ nhờ, hai người dừng lại nghỉ một lúc, bác Hai nói:

- Cái ao này to lắm, gần bằng nửa hồ Hàng Đào, nên nước ở mạn này trút xuống đây cả, mưa xong là đường khô ngay. Phố Hàng Quạt cũng chung cái ao này đấy. Ao giặt chiếu miến, chiếu hoa ngày xưa đấy.

- Hồi tôi còn trẻ học ở trên này, tối thường ra đây chơi, thấy dân xóm phố phường ra đây giặt giũ đông vui lắm.

- Ấy chả là giời mới mưa rươi trở lạnh, nên vắng đấy, nóng bức ở đây đông lắm. Vả cũng một phần tại thằng Tây.

Hai người lại đi, quặt mấy bước đã sang đến phường Đông Hà xiên thẳng xuống đền đức Thánh Tản, đi một quãng nữa là đến trường học của ông cử Kim Cổ. Nhà vắng vẻ. Khoa thi hương năm nay đình hoãn, học trò không đến học nữa. Vả từ khi ông bị giữ ở trong dinh Tổng đốc rồi được thả về, đội nghĩa sỹ giải tán về làng xóm, càng ít người qua lại nhà ông. Nay được ông bạn già đến thăm đột ngột, giữa lúc tình thế nguy nan này, ông cử Kim Cổ rất vui mừng, hỏi ngay:

- Sao cái ông này lại cứ lần mò đến lúc đêm tối? Lại chuyện gì đây?

- Chẳng chuyện gì cả! Ông cử Tam Sơn nói. Già rồi, đi chậm nên giờ mới lần đến được, có bác Phúc biết đấy.

- Đi mất mặt đâu từ hồi ấy, tưởng là chết đâu rồi. Ông cử Kim Cổ hỏi với vẻ thân mật, trìu mến, anh em lo đông lo tây, mong mỏi mắt chẳng thấy đâu cả giờ mới bò đến!

- Giờ còn mò đến được là may đấy, ông cử Tam Sơn cười đáp. Ngỡ là bị quan trên kết án là phỉ đảng rồi thì còn đâu!

Ông ngoảnh lại bảo bác Phúc còn đang đứng bên cạnh, ngay bậu cửa ra vào:

- Bác làm ơn cố gắng đi mời cậu ấm Ba lên đây nghe nhé!

Bác Hai vâng lời lui ra. Hai ông bạn cùng ngồi trên cái sập, mỗi người cùng ngồi tựa tí tay lên chồng gối xếp bọc vải đỏ, cùng nói chuyện ngay đến việc đối phó với bọn Tây dương. Ông già Tam Sơn hỏi đến việc phiên chế đội nghĩa sỹ, hỏi chi tiết cuộc chiến đấu hôm nọ, hỏi thái độ của dân chúng xóm làng, cách đối xử của quan trên đối với nhân dân, cách đối phó của họ với bọn Tây, bọn Khách. Ông cử Kim Cổ trả lời cặn kẽ mọi chi tiết và nêu rõ cả ý nghĩ đắn đo từng việc một. Ông già Tam Sơn cũng thêm bớt ý kiến, vừa có ý cho câu chuyện thêm vui, vừa có ý để tán thưởng tinh thần ông bạn đã dâng mình vì nghĩa. Sau cùng ông thuật lại cuộc gặp gỡ Ả Chí và ý định đã bàn ở hàng chú Sìn. Ông cử Kim Cổ tán thành luôn, không trù trừ ngẫm nghĩ như thường tình của ông xưa nay. Ông nói:

- Được lắm! Lẽ thứ nhất là cô Xuyến là học trò, tôi biết lắm. Tính tình nó tốt, thích làm việc nghĩa, giúp người. Có thể tin cậy được. Khéo khích lệ, nó càng xông xáo dám làm, mà lại biết cơ mưu quyền biến, biết hâm mộ những hành vi tiết liệt, những bậc chính nhân quân tử. Nó vốn kính trọng con em nhà nho chúng ta. Và ông Bá hình như cũng có ý muốn rắp ranh bắn tin muốn cho nó làm bạn với cậu ấm Ba đấy… Nhưng…

Ông Tam Sơn ngắt:

- Ấy, khó khăn là ở chỗ ấy, binh tình như không thì không sao. Đằng này lại có sự gán ghép như thế rồi, nhỡ ra người ta đồn đại không đâu, thì hỏng bét cả công việc. Cho nên phải dặn cậu Ba hết sức khéo léo cẩn thận lắm mới được.

- Được, không sao! Ông Kim Cổ nói tiếp. Tôi sẽ bảo ban khích lệ cô ta và sẽ giữ gìn cho cậu Ba khỏi điều tiếng.

Vừa lúc ấy, bác Phúc dẫn cậu ấm Phách đến, cậu reo lên:

- Lão huynh đến đây từ hôm qua kia à mà đệ không được biết!...

- Biết muộn càng tốt, ông Kim Cổ cười, nói chòng, mãi đến bây giờ mới có việc liên can đến cậu, cần tìm cậu để bàn đấy.

- Thế cơ à? Cậu ấm hỏi. Hân hạnh quá nhỉ. Việc gì thế? Lành hay dữ?

- Việc lớn nước nhà hẳn hoi, ông già Tam Sơn nói, nếu muốn trọn vẹn cả tư tình, công nghĩa cũng được.

Rồi ông ôn tồn, thân mật mà nghiêm nghị kể lại mưu kế của Ả Chí và ý định của ông Cử và bác Phúc muốn kéo cô Xuyến giúp vào công việc. Ông nhắc lại ý tình của Bá Kim đối với cậu và tấm lòng trong trắng mộ nghĩa của cô và khuyên cậu nên vui vẻ khích lệ cô ta và hết sức giữ gìn tránh mọi sự đồn đại không hay rất dễ xảy ra đối với cậu. Ông cử Kim Cổ cũng nói:

- Mà cậu phải bỏ cái lối hung hăng hay vặc nhau với ông Bá đi. Ai người ta đã bắt bò cậu. Cậu chỉ hay nóng nảy gây chuyện không đâu, chỉ tổ làm cho người ta oán ghét.

Ông cử Tam Sơn cũng nói:

- Phải, chính lúc này lại càng không nên làm mất lòng ai. Ta cần gìn giữ, đề phòng. Nhưng chớ có lộ liễu làm phật ý người ta.

Ông Kim Cổ nói tiếp, trở lại công việc chính:

- Cái Xuyến, tôi sẽ bảo được vả bảo nó rủ thêm một vài cô nữa. Nên khuyên bảo và dạy cả cái cháu Hiền nhà bác Hai cùng làm nữa cũng được. Cháu nó đã lớn. Tôi xem ra cũng tinh khôn đáo để đấy. Ta nói rành rọt, nó sẽ nghe ra ngay. Được, mai cứ mời các cô ấy lại đây, tôi sẽ nói chuyện ướm thử trước xem sao đã…

Còn một lẽ nữa, tôi thấy nhờ vào Khách trú và để cho bọn con gái hành động lúc này rất lợi và khó bị lộ. Các quan ta tin ở đặc phái viên của nó sắp ra đến đây, nay mai dàn xếp xong, nên cấm ngặt dân ta gây khó dễ với bọn nó, có thể các ngài sẽ bắt giữ bọn nhà nho chúng ta lúc nào chưa biết chừng. Vậy cho bọn trẻ gái nó vùng vẫy thế rất tốt, nếu chúng ta có bị giam giữ, công việc cũng vẫn cứ chạy. À mà này, Ngô huynh và các hiền hữu ạ, trên họ chú ý đến bọn đồng môn chúng ta lắm đấy. Ta chớ có bộp chộp nóng nảy mà lỡ ra họ có cớ buộc tội bọn mình. Cậu Ba nhà mình nên kín đáo, chín chắn hơn nữa đấy cậu ạ.

- Thì từ khi tôn huynh bị giữ đến nay, đệ đã dám hé miệng nói một câu gì hớ hênh đâu, cứ nhũn như con chi chi.

Cậu ấm Tự Tháp từ nãy đến giờ ngồi im nghe hai ông khuyên bảo, mọi ý nghĩa tình cảm đang ngổn ngang trong óc, bề bộn trong lòng, giờ mới lên tiếng phân trần, ông cử Tam Sơn cười, dịu dàng nói đỡ:

- Ấy cũng là dặn phòng xa thế. Không thế thì càng tốt. Ta phải cẩn thận từng lời nói, đừng làm mất lòng ai. Nhưng không phải là sợ sệt không dám làm gì. Đã biết việc làm chính đại quang minh vì dân vì nước, thì thấy điều gì có lợi cho công việc, ta phải quyết làm cho bằng được. Lúc này cần kế sách này, lúc khác cần kế sách khác, không giống nhau, phải tùy cơ ứng biến, không bo bo cố chấp mà cũng chớ có cẩn thận quá mà thành ra sợ sệt. Các hiền hữu nghĩ mà xem, đội nghĩa sỹ của chúng ta cản giặc là rất phải đạo, chúng ta chẳng cần ăn vàng, ăn bạc gì, chẳng mong tranh chức trọng quyền cao gì, cho nên các quan có dọa nạt đi nữa, ta cũng không hề sợ, bắt người này đã có người khác thay. Chỉ sợ ta không biết giữ gìn lấy nhau, để kẻ địch nó mê hoặc được, đánh lừa cho ta cứ ngồi im xem thế sự, cho nó hoàn thành mọi âm mưu của nó đâu vào đấy rồi, rẫy không được nữa, hoặc là để nó lôi kéo được đi theo nó mất. Có sợ là sợ như thế.

- Lão huynh dạy đúng đấy, bác Phúc nói. Mấy hôm nay họ tung tin là bọn đồng môn chống đối triều đình đấy. Nhưng tung thì tung cũng chả ai nghe. Mình làm phải, ai người ta cũng biết và tin theo mình. Kẻ giúp công, người giúp của nhan nhản ra đấy. Chỉ sợ mình không thành tâm, phụ lòng người ta thôi…

Ông cử Tam Sơn nhìn bác Hai nói, chăm chú nghe rồi nói tiếp ngay vào ý ấy:

- Ấy đấy đúng thế, thấy bọn giặc ngoài hống hách lăng nhục người mình ai cũng tức bực, thấy có việc nghĩa cử, mọi người đều hoan nghinh, một kẻ xướng có nghìn vạn người theo. Cho nên tôi lại muốn bàn với các hiền hữu hơi xa một chút. Bọn giặc Tây đến đây viện cớ thông thương mà lấn át khinh miệt dân ta, chực chiếm được nước ta như ở Gia Định, thế mà chúng ta đã tức khí, cùng nhau tụ họp muốn đánh đuổi ngay chúng nó đi cho khuất mắt. Và mọi người dân đều mong muốn như thế cả. Thế thì ngộ nhỡ nó đánh chiếm đất ta thật, các quan thua trận hay đầu hàng nộp thành cho bọn nó, thì anh em ta có cùng với bà con nổi lên đánh nhau thực sự với bọn ấy không?

- Nhất định phải có chứ, cậu ấm Ba nói.

- Nước chưa mất, đã nổi lên hung hăng, ông cử Kim Cổ nói, để mang tiếng chống lại triều đình, lúc nước mất thật, lại không làm gì cả, có ngỡ là người rừng, chó má. Dân chúng người ta chửi cho ấy.

- Đúng thế, ông già Tam Sơn nói, mình không làm, mình không dám làm, thì người khác người ta đứng lên người ta đảm nhiệm công việc ấy, chứ một nước mấy nghìn năm văn hiến, đã bao lần đánh đuổi ngoại xâm, thì người dân không chịu lép một bề đâu. Người ta sẽ nổi lên ở khắp mọi nơi. Vậy ta nói giả thử Tây nó đánh lấy mất cái Hà Thành này – ý chúng nó muốn làm như ở Gia Định đấy – tất chúng ta không thể ngồi yên, phải bỏ bút cầm kiếm chứ, mọi người đều sẽ xông ra giết giặc chứ gì? Nhưng còn cách đánh?

Ông ngừng lại nhìn ba người như dò hỏi. Im lặng như tờ. Mấy chén nước ông Cử vừa rót ra còn bốc khói, không ai nghĩ đến uống nữa. Một lát, ông cử Kim Cổ mới nói:

- Đằng nào thì cũng đánh! Quân lính nó đóng giữ mất cả mọi nơi rồi, thì ta phải kéo cả ra ngoài, rồi tập hợp quân sỹ tụ ngoài mà đánh vào…

- Phải thế, ông già nói, ta lại còn phải biết đến cái nước ngoại công nội ứng chứ. Phải biết rõ cả địch tình. Cho nên thế nào cũng phải có người ở trong này. Những người có chút ít tiếng tăm và những người đã vỡ tiếng bị tình nghi rồi thì không thể nào còn ở lại trong này được nữa. Cho nên tôi muốn bàn với các vị thế này: bác Cử và cậu ấm nhất định không thể ở lại trong này được, nếu ở lại chỉ có là đi theo địch thôi, chứ không nó chẳng để cho yên đâu. Còn bác Hai có thể ở lại được, nhưng ngay từ giờ phải khéo, đừng để chúng nó ngờ… Và ta phải tìm lấy những người tốt, bà con thân thuộc chúng ta, để làm tai mắt cho ta sau này. Ta lại cần dựa thêm vào Khách trú. Bác Phúc cứ bám lấy chú Sìn mà làm ăn, mà lưỡng lợi đấy. Còn đối với Ả Chí, tôi thiết tưởng bác cứ nên giao thiệp thân và chặt hơn nữa, để giúp cho mình thông tỏ ngõ nguồn hơn… Đó là mấy ý kiến thô thiển của tôi, các hiền hữu thử xét xem có phải?

- Lão huynh bàn hơi xa nhưng có phần đúng đấy, cậu ấm gật gù khen. Đệ cũng ngài ngại có thể đánh nhau to đấy. Dân phố họ cũng cảm thấy như thế, nên những cánh khá giả, giàu có, họ đã vận của đi về vùng quê, một chốn đôi nơi cả. Họ đã biết phòng xa thế, ta cũng phải phòng xa chứ.

- Người tốt thì có nhiều, bác Hai nói, dân phường phố đều tốt cả. Nhưng cần có người biết quán xuyến mọi việc, đối phó được với mưu mô quỷ quyệt của địch, nó như cái cọc cho mọi người vịn. Hay là lão huynh lâu nay không ở đây, ít người biết mặt, lúc ấy lão huynh ở lại đây, bảo ban cho bà con theo…

- Tôi già rồi lại càng dễ lộ, ông già cười, nối lời bác Hai. Ấy là tôi bàn ra như vậy, còn nếu cần người như cái cọc, thì rồi lúc ấy bác Cử sẽ tìm ra! Còn bác Hai, tôi biết bác bộc trực và thành tâm lắm. Nhưng muốn giúp đỡ lâu dài cho danh giáo, thì bây giờ cũng nên tỏ ra ít sốt sắng với đồng môn, cho người ngoài khỏi ngờ, có bác Cử và cậu ấm đây biết cho lòng bác là được, có phải không Ngô huynh?

Ông Cử cười đáp:

- Phải, chính vì bác tốt với anh em đồng môn quá, nên bọn ở ngoài họ bảo anh em chúng tôi mê hoặc bác và cho là bác hiếu danh, mượn tiếng chúng tôi. Bây giờ bác cứ lãnh đạm như không là chúng nó mừng, mà chúng tôi rõ cả, chúng tôi không dám trách đâu, trừ phi bác đi theo Tây hẳn, bán rẻ anh em chúng tôi. Nhưng không bao giờ chúng tôi ngờ bác như thế. Bác cứ nên nghe lão huynh.

- Đây là nói chuyện lâu dài, ông già Tam Sơn vui vẻ tiếp, ta phải khôn khéo nhìn xa một tí. Còn bây giờ thì ta cứ việc ta hằng ngày ta làm. Năm nay, trên đã ra lệnh hoãn thi, nhưng ta là học trò ta cứ đọc sách, bác cứ rỗi rãi thì đi chơi quanh, bác Phúc cứ xoay xở, hàng họ ế thì ta chung hàng với khách, chả còn ai dám ngờ nữa…

- Thế còn lão huynh thì làm gì? Cậu ấm hỏi.

- Tôi ấy à? Ông già cười đáp. Vô công rồi nghề, mai tôi cần đến gặp Ả Chí một lần nữa, rồi tôi phải về bên Bắc chứ. Ấy là tôi chỉ bàn góp với các hiền hữu thế thôi, còn công việc ở đây xin tùy ở các hiền hữu chứ. Tôi có phải là người ở luôn đây đâu.

- Lão huynh dạy đúng cả, về phần đệ, đệ xin theo. Thôi, ta đi về để hai lão huynh đi nghỉ kẻo mệt.

Bác Hai bỗng đứng lên, nói thế, rồi rủ cậu ấm cùng về. Ông cử Kim Cổ bảo cậu ấm:

- Cậu Ba không bận gì, ngủ lại ở đây cũng được, nói chuyện tí đã.

Ông cử Tam Sơn dặn bác Hai:

- Bác hẹn chú Chí ngày mai đợi tôi vào lúc nào nhé. À này, giá sáng mai mời chú ấy lại đây chơi thì tốt. Lần đầu ta gặp nhau cả ở đây, rồi sau hẹn gặp nhau ở đâu cũng dễ. Bác thử hỏi xem, rồi sớm mai sang bảo cho biết nhé.

Bác Hai vâng lời chào rồi đi ra.

° ° °

Phố xá được một dạo yên yên. Việc đi lại từ các phường sang các phố Khách trú, nhất là Hàng Buồm, đã dễ dàng hơn trước, tuy không tấp nập, có những người qua các phố và cả những người ở các xóm làng nông thôn đem sản vật vào bán thẳng cho các hiệu khách. Mọi người đang mong mỏi nếu đúng như các quan thông sức, bọn Tây ở Sài Gòn ra thương thuyết chịu đền bồi mọi thứ, cho người của họ ở lại đây buôn bán, thì dân mình có hẹp hòi gì mà chả vui đón khách bốn phương, thì rồi đâu đấy lại yên ổn làm ăn, cái đất Thăng Long này từ xưa vốn là kẻ chợ họp đủ người bốn bể kia mà! Lòng căm phẫn cũng dần nguôi xuống theo với quãng thời gian yên tĩnh, bọn lính Khách và lính Phú ít đi lại hống hách ngoài phố Hàng Buồm. Các phiên chợ đã có đông người hơn, và hàng bác Hai Phúc ở bờ Hồ Gươm cũng đông thêm khách ra vào ăn quà, uống rượu. Có người đã từ lâu không dám ló mặt ra ngoài, nay lại la cà vào quán, gặp người quen kẻ thuộc, cũng nhăn nhở ra vẻ nói cứng:

- Mình là dân kẻ chợ, mình chỉ ghét tụi côn đồ ăn cướp, mình không chơi với, mình không muốn nhìn thấy mặt chúng nó, chứ nếu đến đây thông thương hòa hảo như thế này, thì đâu mình có lẩn tránh…

Bác Hai cười hỏi:

- Thế bây giờ chắc ông anh định lên Hàng Buồm thăm chừng xem Tây nó mua gì, bán gì, để liệu chừng mà xí phần trước chứ gì? Ông anh có được phần, đừng quên nhà cháu nhé.

Ông kia cũng cười đáp:

- Lợi là lợi chung cả, chứ có riêng ai. Phố xá yên ổn, không đùng đoàng, nhốn nháo như mấy hôm nọ, an cư lạc nghiệp, thiên hạ thái bình là phúc cho bà con mình. Còn buôn bán thẳng với họ thì ai tranh được với bọn Khách lớn, tôi có tiền đâu đọ được với các chú ấy mà bác bảo tôi xí phần… mình chỉ mong được yên thân là thích… Êm ả, ngồi uống chén trà, chén rượu thế này…

Bỗng tiếng trống ngũ liên nổi giật lên ở các làng, làng nọ đáp theo làng kia. Mấy người ở trong hàng xô cả ra ngoài. Bác Phúc còn nói kháy ông khách, cùng vội vàng bước ra ngoài hè:

- Êm ả ngồi uống chén trà đã đi đâu mà vội, ông anh?

- Có lẽ lại chưa yên, một ông khách khác đế theo.

Ngoài đường đã có những người chạy ngược lên và tiếng nói lao xao, hấp tấp:

- Cháy! Cháy! Ở ô Đông Hà!

Và văng vẳng đằng xa vọng lại:

- Ối phường phố ôi! Cháy!

- Ối làng nước ôi! Cháy!

Bác Phúc chạy tót trở vào, xuống bếp lấy cái gầu vẫy, dặn vợ trông hàng, rồi ba chân bốn cẳng băng ra đường chạy theo đám người đang ồ ạt chạy đi cứu hỏa, kẻ mang câu liêm, người mang gầu tưới cải, giơ lên tua tủa. Trống vẫn thúc, người bị ứ lại ở phố Hàng Bè. Có tiếng người nói như quát:

- Chia tản ra nhiều toán, vào cứu làng Thanh Hà! Đừng qua Hàng Buồm. Bọn Khách nó không cho vào đâu!

Bọn người liền tỏa ra hai phía, một toán chạy vòng phía bờ sông, một toán chạy tắt qua phường Đại Lợi lên Hàng Đường để quặt rẽ vào làng Thanh Hà. Đến đầu làng, việc chống hỏa đã đang tiến hành, cả bọn mới đến nhập bọn vào công việc ngay. Một ông đứng ở đầu làng chỉ từng người theo từng toán và giao công việc cặn kẽ: toán lên dỡ mái gianh, toán chuyên nước đổ lên mái nhà, toán dọn đồ đạc trong nhà. Những người mới đến không được xông ra chữa cháy. Lính trong thành đã ở sát ngay đám cháy, một viên suất đội chỉ huy toán lính, giơ roi chỉ trỏ nói với mọi người:

- Cháy dãy nhà lá của ông Đồ Phổ Nghĩa. Lính khách họ không cho bà con ta vào. Bà con đem toàn lực cứu lấy xóm này, không rồi giời hanh này, nó lém được sang đến đây, thì rồi hỏa sinh phong 3 , nó lan ra cả mấy thôn mấy phường quanh chợ Đồng Xuân thì nguy!

Mọi người cố gắng mải miết vẩy nước dập tàn, không cho ngọn lửa ngoài cửa ô loang ra được đến ngoài. Nó chỉ thiêu trụi cái kho chứa hàng của Đồ Phổ Nghĩa. Đám cháy tắt, một số người được mời ở lại lợp nhà và dọn trả đồ đạc giúp xóm Thanh Hà. Còn số đông trở về kéo nhau qua chợ Đồng Xuân, nói chuyện râm ran vui vẻ. Một người nói có vẻ tiếc rẻ:

- Nó dại chứ, nó cứ để chúng mình vào chữa, làm gì mà chẳng dập tắt ngọn lửa, cứu được kho hàng!

- Anh tiếc à? Một người hỏi. Đồ bất nghĩa, cháy cũng đáng.

- Của đời là của chung chứ, anh kia cãi. Vả lại nó đang muốn hòa hảo kia mà, các cậu không xem thông sức à?

- Nó sợ mình vào ăn cướp. Một người khác thêm.

- Thế nên giời mới cướp của nó, nó mới trơ mắt ếch ra!

Vừa về đến ngã tư Cầu Gỗ, thì gặp Bá Kim ở đầu phường Đông Hà đi lại, gọi bác lại hỏi ngay:

- Đi chữa cháy về đá? Có bận lắm không? Đi với tôi xuống chợ mua hộ cái này tí?

- Bẩm mua gì ạ? Sao không lên phố? Chợ bây giờ làm gì có. Bác đứng lại ngần ngừ có ý đợi trả lời.

- Không, đi mua lễ chín, lễ tạ thần Hỏa, Bá Kim đáp.

- À? Thế bẩm cụ sắm lễ chay hay lễ mặn? Bác hỏi. Lễ chay, hoa quả ở trên chợ Đồng Xuân nhiều hơn. Tôi vừa ở đấy.

- Quan huyện bảo sắm lễ mặn, Bá Kim trả lời. Ta cứ vào qua chợ Hàng Bè, nếu không có, ta sẽ lên cả chợ trên. Bác đi với chúng tôi, tôi còn hỏi cái này.

Lão quay lại bảo một anh lính cơ đi theo sau:

- Anh lên Hàng Mã bảo nhà hàng làm cho một cỗ mũ đỏ, một đôi hia đỏ, hàng bà Vân đầu phố ấy, nhà ấy sẵn cả, anh chỉ ngồi đấy đợi họ tô điểm cho thật đỏ tươi rồi đem về nhé. Chỗ nào còn nhờ thì bảo họ phải tô lại cho đẹp.

Anh lính cơ vâng lời, rẽ lối Hàng Đào đi ngược, Bá Kim quay lại bảo bác Phúc và một người nữa đi theo:

- Ta đi tắt vào làng Gia Ngư cho nó gần.

Đi được một quãng, lão nói tiếp:

- Đẩy được anh chàng kia đi và lại nhờ được bác Hai đi hộ, nó dễ mua bán. Lúc này, cái áo nẹp với cái nón dấu chóp nhọn ló mặt ra chợ khó mua bán. Lại thêm cái mặt Bá Kim sở tại nữa thì chả ma nào nó muốn bán của tốt cho đâu. Thế nên bác cứ đứng ra mua hộ, rồi giao cho anh lệ này mang về. Được cái bọn lính lệ quần chùng áo dài cũng ít ai chú ý.

Bác Hai vừa đi theo, vừa hỏi:

- Bẩm thế mua những gì ạ?

- Lễ chay thôi mà, Bá Kim đáp. Chọn lấy một con gà sống thiến béo, gạo nếp có rồi. Ta mua thêm nải chuối ngự hay tiêu cũng được, mùa này có cam, ta mua thêm chục cam. Tiền anh lệ này mang theo đấy, có thiếu bác tạm khất, hay tìm tôi ở trong hàng Dụ Hưng mà lấy thêm. Bác chọn mua cho khéo. Lễ đức Hỏa thần cần nhất phải tinh khiết tố hảo 4 .

Bác Hai đã biết rõ việc mình phải làm rồi, lại được dịp nói đến thần Hỏa, bác hí hửng nói ngay:

- Kể thần Hỏa cũng tài thật, ngài thui trụi ngay cái của phi nghĩa. Thấy bảo đâu cháy sạch sành sanh, không còn tí gì. Thế cụ không lên khám xem sao à?

- Đấy là công việc của cụ Đề, Bá Kim nói. Vả đây là khu Khách trú, lại là tài sản của Tây dương, nên phải trên tỉnh ra khám kia đấy…

Ngừng một tí, lão ngẫm nghĩ tỏ vẻ ái ngại, nói tiếp:

- Nhưng này, thần Hỏa có thiêng nhưng mà không khéo, dân ta không bị cháy là may rồi. Nhưng còn bọn Tây, dù nó có bất cẩn đi nữa, nó cũng cứ đổ riệt cho là ta xui người đốt cháy tài sản của nó, rồi nó bắt đền ta, cũng sinh ra lôi thôi đấy. Thành ra, giá không cháy vẫn là hơn. Tôi cho là thế nào rồi hai bên cũng lại sừng sộ nhau cho mà xem.

- Tại sao nó lại không để cho ta vào chữa hộ kia chứ, bác Hai nói.

- Ấy đấy, tại nó ngờ ta, nên nó lại càng có thể vin đấy để xoay trở với ta biết chừng.

Vào đến chợ Hàng Bè, mỗi người tỏa đi một ngả theo như Bá Kim đã dặn. Bác Hai đi lùng mua được đủ gà, chuối, cam giao cho anh lính lệ huyện Thọ Xương mang về. Bác vào hàng Dụ Hưng chào Bá Kim để về, lão Bá khen:

- Nhanh nhỉ? Tốt đấy. Tí nữa lên miếu thần Hỏa dự lễ nhé. Chắc lộn xộn thế này cũng chả mấy ai dám đến. Bác cố lên cho nó vui… À này đợi một tí, tôi cũng đi đây.

Nhưng bác Hai không đợi, bác chào rồi vội đi ngay, bác vội về nhà xem con gái có nhà không, hỏi xem thêm tình hình trên khu phố Khách thế nào.

Cô Hiền cũng đi chợ Đình Ngang chưa về. Mấy người khách ngồi chơi trong hàng đang bàn tán về đám cháy ngoài cửa ô Đông Hà. Ai nấy đều có vẻ thích thú, có người lại quá vui vẻ, tán quá rộng, bô bô rượu vào lời ra:

- Cháy thế mà ngọt, chỉ thui sạch cái của phù vân của đồ bất nghĩa! Còn ngoài ra, giời hanh gió lộng thế này mà nguyên vẹn cả, không “ướt át” đâu cả! Đức thần Hỏa thiêng thật. Đồ Phổ Nghĩa rõ ra đồ phi nghĩa nhá!

- Chuyện! Có người tiếp. Đất Thăng Long là trung chi long, con rồng vàng ở giữa, nó mà đã cựa mình là y như rằng nó tiêu tai trừ hạn, trừng phạt kẻ bạc ác bất nhân!

- Thần thánh nào! Rồng phượng nào! Một ông đứng tuổi vừa đi chữa cháy về nói. Không chữa khéo thì nó chả lan ra khắp làng Thanh Hà ấy à? Kể dân mình bây giờ cừ thật, dọn đồ đạc, dỡ mái ra, chuyển nước lên… bây giờ lại lợp lại mái nhà, dọn đồ đạc đâu vào đấy cả, mất mát, hủy hoại chả mấy tí. Mỗi người một tay, biết lo giúp đỡ nhau trong cơn vận hạn, ngăn được kẻ có lòng tham, dụng tâm đi hôi của là được tất, chứ thần thánh nào? Thần thánh nào phù hộ độ trì được ngọn lửa gần rơm khô củi nỏ nó đừng lan ra. Không có bà con ta, thần thánh cũng chịu chứ gì!

Một ông ở ngoài bước vào nghe được nửa quãng nói ngay:

- Có thờ có thiêng, có kiêng có lành chứ, nói thế không được. Dân ta làm ăn là nhờ thần thánh vua bụt phù hộ độ trì cho thì mới được yên hàn, mở mày mở mặt ra đấy chứ. Còn thằng Tây vô thiên vô địa ở đâu đến đây, nó ngỗ ngược lếu láo, nên các ngài phạt.

- Nó ở ngoài sông ấy, sao không ra đấy mà phạt! Cái ông vừa khoe chữa cháy giỏi, nói tiếp ngay. Suýt nữa thì thiêu cả cái tổng Đồng Xuân, thì số phận ai phải chịu? Tây hay ta?

Bác Hai Phúc thấy cần góp vào câu chuyện để dàn hòa và cũng muốn tỏ ra là mình đã được tham dự vào cả mọi việc:

- Các cụ ạ, tôi thiết nghĩ có giời thì cũng phải có ta, có thần thánh vua bụt giúp, nhưng cũng phải có người làm, không dưng dễ các ngài làm thay à? Như cái vụ cháy cửa ô vừa rồi, cũng phải có sức người ta khéo chống chữa mới tránh được ướt át lây. Tôi cho là tụi Tây tụi Khách nó dại chứ, nó để cho dân ta vào chữa thì đâu đến nỗi cháy trụi! Thần thánh các ngài chỉ ra oai cho mà biết, chứ đã nỡ nào…

Ông vừa vào được người đồng tình, vồ ngay lấy:

- Phải, phải! Bác chủ nói chí phải, các ngài mới phạt nhẹ, giơ cao đánh khẽ cho mà sợ, chứ lòng hiếu sinh ai nỡ giết hại cả đoàn tàu… Thần thánh vô tư chỉ trừng phạt những kẻ có tội và còn mở cho đường chạy lại…

- Vâng, bác Hai nói vội như sợ có người tranh, thế nên huyện ta đã mua mũ áo, vàng hương, xôi gà, oản quả lên lễ tạ đức thần Hỏa đấy! Tôi vừa mua hộ bác lệ trong huyện con gà trống thiến béo nặng trình trịch rất tố hảo, như gà nuôi cân lễ khai xuân của ta ấy.

- Có cả áo mũ cơ à? Một người hỏi.

- Vâng, đủ cả, bác Hai trả lời, áo đỏ, mũ đỏ, vàng đỏ, màu đỏ tươi, như hồng huyết…

- Phải, phải, ông cụ vào sau nói, thần Hỏa là đức thiên thần Chúc Dong, trị phương Nam, sắc đỏ nên lễ vật đủ như thế là chu đáo tươm tất lắm, dân ta được yên tâm không lo.

- Thế thần Hỏa trị phương Nam là trị cả nước ta nữa à? Một ông hỏi.

- Đúng vậy, ông cụ vui vẻ trả lời. Cả cái thành Hà Nội này nữa. Cho nên mới bảo quan trên sắm sửa lễ vật chu đáo thế là dân ta được yên tâm.

Bỗng cô Hiền đi chợ về nói lao xao về tin quan huyện bị bọn Tây, bọn Khách giữ lại ở Hàng Buồm, mọi người vội bỏ câu chuyện thần Hỏa chạy xô cả ra vây giữ cô lại, không cho xuống nhà vội, hỏi cho ra đầu đuôi ngọn ngành việc vừa xảy ra. Cô phải đặt gánh xuống đứng lại cầm cái nón phe phẩy quạt và kể:

- Bẩm, cháu cũng không được rõ lắm đâu, chỉ thấy trên phố người ta nói quan huyện Thọ với cụ Đề cùng đi với quan quản phòng thành ra cửa ô khám xét đám cháy, bọn Đồ Phổ Nghĩa nó bắt giữ quan huyện và quan quản lại, chỉ để cụ Đề và lính về thôi. Người ta bảo nó bắt giữ quan huyện và quan quản lại để bắt đền thiệt hại, vì nó cho là có người đốt.

- Thế cô có trông thấy không? Có người hỏi.

- Không ạ, thưa cháu chỉ nghe thấy người ta nói thế thôi ạ, chứ có trông thấy nó giữ quan huyện đâu. Mà bây giờ ở trên ấy, nó không cho ai vào phố Hàng Buồm và quanh bờ sông Tô cả, ai vào là nó bắt giữ lại cả.

- Thế ra loạn à? Một ông buông một lời than.

- Thì trước kia nó chả thế là gì? Một người nói tiếp. Ông quên à? Chỉ tại các quan mình cứ nhân nhượng, không trừng phạt ngay từ đầu, để nhu nhơ, chúng nó coi thường.

- Tại các quan mình khiếp nhược thì có, chứ nhân nhượng gì. Một người nữa nói. Giá cứ để cho dân ta cùng với văn hội đánh bỏ mẹ nó ngay hồi tháng trước thì có còn việc gì mà lôi thôi nữa.

- Hay là có người đốt kho của nó thật? Một ông đắn đo nói.

- Đến đốt cả đoàn tàu của nó, cũng không có thói phép như thế, bác Phúc nói, ai bảo nó đến đây mà hành hung cướp bóc, rồi không coi phép vua luật nước ra gì.

Mọi người lại đều như cùng chịu chung một luồng gió giật, đều bừng bừng phẫn nộ, tuồng như muốn xông ra làm gỏi băm nhỏ bọn kẻ cướp ngoại bang ở đâu đến đây chuyên chiếm của giết người, vu oan giá họa! Cái ông đứng tuổi vừa khen dân mình giỏi chữa cháy, hùng hổ nói:

- Đánh bỏ mẹ nó đi chứ chịu à?

- Nhưng quan trên có cho đánh đâu kia chứ! Ông cử Kim Cổ bị giam đấy, bác không biết à? Một ông nói thong thả rít từng tiếng.

- Thì phóng hỏa đốt hết đi cho nó vô tang, hết của là nó phải xéo! Ông kia vẫn tức tối nói tiếp.

- Ấy chết, đường quang không đi đâm quàng đường rậm, bác Hai nói thong thả chắc nịch như cố làm cho ông kia dịu đi. Mình không đốt, nó còn đương đổ riệt vào cho mình, huống chi ông anh bảo cứ đốt sạch đi, nó vin vào cớ cố ý phá hủy tài sản nhân mạng của nó, thì lấy của đâu mà cho vừa lòng tham của chó đói?

- Thế tôi hỏi bác, ông kia sừng sộ vặn lại, coi bác Hai như kẻ có ý bênh vực cho bọn Tây. Nó đánh người, giết người, cướp của bên ta, ta đã bắt đền được nó chưa?

- Ta còn đợi phái viên của nó ra thương thuyết, bác Phúc vẫn bình tĩnh ôn tồn trả lời.

- Vậy thì ta cứ đốt, ông kia nói vẫn dằn từng tiếng nạt nộ. Bao giờ nó đến đây thương thuyết, cùng kỳ lý ra phải đền, ta sẽ đền. Nó có đền ta, ta mới đền nó chứ.

Một ông ngồi im lặng từ nãy đến giờ, mới ung dung lên tiếng:

- Lý thì như thế đấy. Nhưng nó thì hung hăng gây chuyện, còn các quan ta thì cứ lần lữa nhân nhượng cho êm chuyện. Thế nên được đằng chân nó mới lân đằng đầu chứ. Các ông làm như là các ông đã trị được bọn nó, bắt được nó bỏ rọ rồi, muốn làm gì thì làm. Đấy rồi các ông xem, nó lại chả bắt các quan ta đền è cổ ra, rồi nó mới chịu thả quan huyện ra đấy à! Các ông bàn những chuyện không đâu! Tức thì tức, ai người ta cho mình đánh, mình đốt kia chứ…

Một ông đã ngà ngà say vặc ngay:

- À! Anh muốn về hùa với Tây phải?

Ông kia cũng không vừa, cãi lại:

- Tôi nói thật đấy, tôi không sợ đâu, các ông mà nhi nhoe, các quan lớn tỉnh Hà Nội này sẽ cột cổ các ông lại ngay cho mà xem. Thế thì ai về hùa? Tôi thử hỏi các ông có dám làm không nào?

Ông cụ tin thần Hỏa thấy hai người nói đều phải cả mà để cãi nhau lúc này thật là vô lý, ông liền nói dàn hòa cả hai người:

- Chung quy tại thằng bạch quỷ Tây dương cả mà bà con mình đâm ra vặn lý nhau ở đây thì thực là thái vô ích. Mà thật đấy, tôi thiết nghĩ mình có định đánh thì lại đánh cho ra trò, như đạo quân nghĩa sỹ hôm nọ, có bị bắt như ông Cử cũng thỏa, chứ nhùng nhằng chỉ tổ các ông quan có cớ buộc tội mình thì uổng. Cái gì chứ cái việc buộc tội bà con mình thì các ông ấy nhanh lắm. Tôi thì tôi chỉ tâm niệm cầu đức thần Hỏa cứ thiêu cho nó mấy bận nữa là sạch sành sanh. Các quan lễ cầu, dân lễ cầu, thể nào ngài cũng phù hộ độ trì. Tâm động quỷ thần tri mà! Thôi các ông đừng cãi vã nhau nữa. Tôi về tôi đi lễ đây!

Ông cụ đứng lên chào mọi người đi ra liền, một bác trung niên chạy ra cười nói theo:

- Bố đi lễ ở đình đền nào thế cho cháu theo với!

- Còn ở đâu nữa, ông cụ không quay lại, đáp gọn lỏn. Anh hỏi lẩn thẩn, ở đền đức thần Hỏa chứ ở đâu?

- Nhưng đền ở chỗ nào? Cháu chưa biết!

- Ở làng An Trung, gần phố Hàng Điếu, anh đi đến trạm Hà Trung rồi đi thẳng lên.

Cuộc bàn tán sôi nổi về đám cháy thế là tan. Giời đã xế trưa rồi, hàng vắng khách, bác Hai để mặc vợ con, chạy vào bếp khẽ hỏi con gái:

- Này mày có thấy chú Chí đâu à? Lúc nãy tao ở đằng hiệu chú Sìn không thấy, đông khách tao cũng không dám hỏi.

Cô Hiền đã toan nói rõ sự thực về đám cháy cho bố biết, nhưng lại sợ bố bộp chộp hay nói để lộ chuyện, nhỡ ra thì khốn cả lũ, cô đắn đo nói:

- Có, sáng con có gặp chú ở phố Hàng Buồm, rồi không thấy đâu.

- Ấy tao nghĩ hay là chú ấy đốt cũng nên, bác Hai nói.

- Thầy biết đâu mà vội đoán thế? Cô con nói lảng sang chuyện khác: À này thầy có biết chị Cúc trên Vẽ không nhỉ, chị ấy là con gái ông ấm gì vẫn thường vào hàng nhà ta ấy mà?

- Trên Vẽ thì biết bao nhiêu là ông ấm, bác Hai nói thẫn thờ có vẻ suy nghĩ. Phải nói tên người ta mới biết chứ!

- Tại các cụ cứ gọi tôn nhau như thế, cô Hiền cười tiếp lời bố, ông nào cũng là ông ấm Vẽ, ông cử Vẽ cả thì ai biết đâu mà lần. Cái ông ấm mà hay đi với cậu ấm Ba bên Tự Tháp ấy mà!

- À ông ấm Cầu! Bác Hai nói reo lên. Cô ấy là con gái út quan Nghè đấy. Sao? Cô ấy cũng xuống đây đi với bọn mày à?

- Vâng, chị ấy ăn mặc giả Khách, chị ấy nói tiếng Khách, đi lại truyện trò với bọn lính Khách, chị biết được những tên chó má nào hay thì thụt với tụi Tây, tụi Khách, chị bày cách bắt cóc quả tang, chị lại bắt được cả mấy chú lính Khách đem đi nữa, mới tài chứ!

- Thế còn cô Xuyến? Cô ấy có biết không?

- Biết chứ! Chị Xuyến thường cùng giúp vào mới được nhiều việc thế. Hai chị quý nhau lắm.

- Liệu ở ngoài có ai biết chưa? Cụ Bá có bảo sao không?

- Cụ có biết đâu mà bảo sao! Chị Xuyến chị ấy kín lắm, đến ngay cùng bọn, có khi chị ấy cũng không cần bảo cho biết nữa là.

- Tao chỉ sợ cô ấy cũng như mày, có bao nhiêu cái hay về hí hửng khoe với bố hết thì rồi ông Bá ông ấy biết, lộ chuyện ra, người ta bắt cho cả nút.

Cô Hiền cười nói có vẻ trêu bố:

- Chị ấy khôn chứ như thầy ấy. Chị ấy giấu không cho cụ Bá biết. Chị ấy lại khéo dựa vào thím Hằng Dụ để nói dối, cụ Bá vẫn tin không ngờ vực gì cả, thế mới tài.

Băn khoăn đứng ngồi không yên, bác Hai bỏ cửa hàng chạy lại hiệu Dụ Hưng Lâu xem có thấy Ả Chí ở nhà không. Đến nơi, Ả Sìn không đợi đã hỏi ngay:

- Ả Chí vừa quẩy hàng đi rồi, chả chắc có bán được không, khéo không lớ ngớ nó bắt đi thì khốn…

- Sao? Bác Hai hỏi có vẻ sửng sốt.

- Nó đang vây giữ cả phố Hàng Buồm và mạn cửa ô, nó ngờ có người đốt nhà nó đấy. Bác không biết à?

- Thế chú đã lên đến đấy chưa?

- Thèm vào. Tôi mới lò dò lên phố Mã Vĩ, thấy nói nó bắt giữ cả quan huyện, tôi vội trở về ngay.

- Sao Ả Chí lại đi, chú không giữ chú ấy lại có được không?

- Ai mà giữ được nó kia chứ! Nó bảo tôi thì được, còn tôi, tôi bảo nó có nghe đâu!

- Tôi đi tìm chú ấy tôi bảo nhé.

- Ấy đừng có mà dại, đừng đi, ngộ nhỡ nó bắt thì biết kêu ai! Đầu chẳng phải, phải tai!

- Được! Tôi đã có cách, thân tôi, tôi phải lo chứ!

Bác Hai nói cứng thế, chào rồi đi ra nhưng trong thâm tâm cũng thấy sợ, bác không dám đi lên phía Hàng Buồm tìm Ả Chí. Bác đi thẳng lối xóm Giang Ngư sang Hàng Đào, lên Hàng Ngang, tạt vào hiệu Hằng Dụ, thử hỏi dò vợ lẽ Huỳnh Lục Ký, may ra có thêm manh mối chăng? Nhưng hiệu Hằng Dụ đóng cửa, bác không dám vào gọi lại vội vàng rẽ sang phố Hàng Quạt để xuôi vào Hàng Hòm định tạt vào Hàng Hài đến hỏi ý kiến ông cử Kim Cổ xem nên đối xử thế nào lúc này cho khỏi. Một điều làm bác hết sức kinh ngạc là ông Cử mới được lệnh quan Tổng đốc vào thành, vừa đi được một lúc xong.

- Sao lại gọi đột ngột thế nhỉ? Lại bắt đi ngay à?

Bác hỏi anh cháu ông Cử, đang đứng bần thần ở ngoài cổng, nhưng cũng chính là để hỏi mình. Anh cháu ông Cử đáp:

- Nào ai biết, có lẽ người ta sợ các ông ấy lại đánh Tây như dạo nọ chăng? Họ gọi cả cậu Ba bên Tự Tháp đi…

- Thế à? Bác Hai hỏi vội vàng, càng sửng sốt thêm. Họ đến gọi hay cho người đến bắt?

- Người ta cho lính đến mời, nhưng cũng như là bắt giải, anh cháu nói có vẻ hài hước. Vì có lính tráng đến theo hầu, mời đi ngay. Kẻ đón người đưa có vẻ tiền hô hậu ủng linh đình lắm!

Bác Hai Phúc đờ đẫn cả người không kịp chào nữa, đi thẳng vào thôn Bảo Khánh để quành bờ hồ trở về nhà, trái với tính thường hay đi tắt cho nhanh. Vừa đi bác vừa lẩm bẩm một mình:

- Thế này thì loạn à! Tây bắt người, Khách bắt người, quan ta cũng bắt người! Ra chỉ chết thằng dân thôi! Không khéo Ả Chí cũng đến bị bắt mất!

Rồi bác bỗng mím môi dằn lên thành tiếng như mới tìm ra chân lý:

- À ra đời loạn thật, hễ ai có ý bênh nhau chống lại sự bất công cướp bóc là bị bắt giữ cả! Chó má thật!

Bác vội rảo bước về nhà có ý quyết định làm một việc gì. Nhưng về đến nhà không thấy con gái, bác lại sốt ruột hỏi vợ:

- Cái Hiền đâu?

Bác gái xếp dọn, đóng bớt cửa, hỏi lại:

- Thầy mày đi đâu về đấy? Chỉ chạy nhong nhóng không lo lắng gì việc nhà cả. Ở ngoài kia người ta bắt bớ lung tung cả, không biết à?

- Tôi hỏi cái Hiền đi đâu cơ mà? Bác hỏi có vẻ gắt.

- Nào tôi biết! Nó đi tìm thầy mày hay đi đâu đấy. Bố con nhà ông đi đâu có thèm hỏi tôi bao giờ kia chứ. Bác gái nói có vẻ chì chiết thêm:

- Không xem ngoài đường người nào người ấy, người ta đều vội vội vàng vàng về nhà người ta đấy, người ta đang bàn tán xôn xao đấy, mê à?

- Có đông khách vào hàng không?

- Ai người ta còn vô tâm vô tính như ông mà vào ngồi hàng. Người ta còn về lo việc nhà người ta chứ!

- Dễ người ta đây, người ta không lo đấy, bác Hai cười ra vẻ dàn hòa với vợ. Thế bu mày thử nói xem người ta bàn tán gì nào?

- Trên phố thì Khách bắt người, ở đây thì các quan bắt cụ cử Vũ Thạch, cụ cử Hàng Hài đấy.

- Cả cụ cử Vũ Thạch? Bác Hai hỏi giật.

- Hai người lính với một ông Đề đến mời cụ đi, bác gái nói tiếp giọng dịu và nhỏ đi có vẻ lo lắng. Người ta bảo rằng các quan giữ các ông tư văn lại để khỏi sinh chuyện đánh nhau. Tôi lo quá, thầy mày dây dưa với đồng môn liệu có việc gì không?

- Việc gì! Rõ vớ vẩn! Bác Hai gắt. Bắt đến mình thì bắt hết à? Thế cái Hiền, thằng Hiển đi đâu cả?

- Thằng Hiển nó đang ở trong bếp ấy chứ đâu. Còn cái Hiền tôi sai nó đi tìm thầy mày.

Bác lại vội chạy văng ra ngoài định lên chợ Hàng Bè tìm con. Nhưng ra đến đầu làng Yên Trường gần đền Bà Chúa, bác lại thấy sờ sợ, đi từ từ lại thẫn thờ nhìn ra mặt hồ. Bỗng có tiếng gọi từ phía làng Trừng Thanh đi xuống, tiếng con gái:

- Bác Hai ơi bác Hai!

Bác vội quay lai, mừng quá, cuống quýt thốt ra:

- A cô Xuyến!

Cô Xuyến hỏi ngay:

- À này, họ mời hai cụ Cử lên dinh có việc gì bác có biết à? Liệu có về không?

- Tôi cũng chả biết ra sao nữa, đang định nói nhờ cô thử hỏi cụ Bá thử xem. Bác Hai nói giọng nghiêm trang thành thật. Tôi đoán là họ mời các cụ lên đấy bảo các cụ khuyên dân đừng gây sự với Tây, Khách hoặc là bảo không được, thì giữ các cụ lại ít ngày, như cụ Cử dạo nọ ấy mà.

Cô Xuyến cũng nói giọng thân mật chân thành:

- Tôi cũng nghĩ thế bác ạ, nên tôi không thấy lo. Chỉ có vắng các cụ, thành ra mình như mất cái đầu, không hiểu được cách đối phó lúc này thế nào cho phải…

- Cô cứ liệu hỏi dò cụ Bá xem sao nhé, có thế nào khang khác, cô bảo cho tôi biết với…

Bác bỗng lại trở nên bông đùa, nói có vẻ trêu ghẹo:

- Khéo lựa lời mà hỏi đấy nhé. Hình như cả ấm Phách cũng bị gọi lên dinh kia đấy. Cố hỏi xem binh tình ra làm sao?

- Cậu ấm có liên can với bác thì bác lo, chứ động gì đến tôi mà tôi phải hỏi.

Cô nói rồi ngoắt đi ngay về phía sau chùa Liên Trì để về làng Cựu Lâu. Bác Hai cười nói đuổi theo:

- Không động gì mà sao đã vội dỗi nguẩy đi ngay!

Trông theo không thấy cô gái nói gì nữa, bác Hai thong thả đi về, trong lòng thư thái mừng thầm. Ả Chí chưa việc gì cả, Bá Kim chưa ngờ vực ngăn cấm gì con, thế tất là công việc phá ngầm bọn Tây do Ả Chí cùng làm chưa bị lộ như mình đã lo. Thế là tốt, nó cứ bắt, mình cứ phá được nó, cho nó biết rằng dân chúng ở đây căm ghét nó, không ưa cái lối lừa lọc hống hách, vừa đánh trống, vừa ăn cướp của bọn nó. Bác sực nhớ đến lời dặn của ông cử Tam Sơn khi bàn đến việc mời cô Xuyến vào giúp sức với Ả Chí, bác chột dạ nếu mình không cẩn thận kín đáo, có thể sẽ gây ra tiếng xấu cho cô Xuyến thì nguy, bác hối đã nói mấy câu bông đùa hơi quá. Và tự nhiên, bác ước ao giá lúc này có ông Cử ở đây để mà hỏi rõ phải trái trong cái mớ bòng bong Tây, ta, Khách đang giở mọi lý sự quần nhau, mình phải cư xử thế nào cho phải đạo làm người. Ông cụ ấy nhiều tuổi, học nhiều, lại đi nhiều, biết nhiều chuyện; có khi không hợp với các quan, nhưng xem ra các điều ông ấy nói đều là hợp với dân cả, thiết thực chứ không viển vông. Giá bây giờ có ông ấy ở đây, thì dễ dàng biết mấy!

Mấy hôm sau, phố xá lại yên tĩnh, nhưng vắng hẳn đi. Hàng của bác cũng lác đác vẫn có khách, chứ không vắng hẳn như dạo lộn xộn trước kia, khách ở trên phố đi bách bộ xuống chơi, vào hàng ăn một bữa rồi về, khách ở vùng làng xóm ra thăm binh tình phố xá ra làm sao, rồi cũng vào hàng ngồi chơi ngắm cảnh hồ, chén một bữa thật cơm no, rượu say, thịt quay ăn đủ… rồi có chết cũng đáng đời. Mọi người hầu như cũng như bác, đang chờ ngóng một cái gì khang khác, tuy ý nghĩ mỗi người có khác nhau. Nhưng nhất định phải có cái gì khác, chứ không thể như cái giọt bọc thế này được. Bác yên trí như thế, nên một hôm, Bá Kim ở trên huyện về, rẽ vào thấy hàng đông khách, khen bác đã chăm chỉ và gặp vận, bác đã đáp ngay:

- Dạ, bẩm cụ, vận nhà cháu thì có khá hơn dạo trước, nhưng xem ra tình hình bà con làng nước như riêu cua, mỡ váng cả… ai nấy bỏ công việc đến đây ngồi ăn một bữa cho nó trót đời, nghe ngóng xem sao!
- Ấy rồi cũng sẽ đâu vào đấy cả, Bá Kim nói chắc nịch, tình thế sẽ yên và cửa hàng của bác lại vẫn đông, đông thực, chứ không riêu cua đâu!
Rồi hình như cần tuyên truyền hay khoe khoang công lao của mình, Bá Kim oang oang trịnh trọng nói tiếp:
- Quan huyện Thọ về rồi, phái viên của Tây ra gần đến nơi nó sẽ điều đình đền cả mọi thứ. Mình cần phải bình tĩnh và yên ổn đợi chúng nó đến cho chúng nó không trách mình vào đâu được.
- Thưa cụ, vì thế nên nó phải thả quan huyện ta ra? Một ông khách nghe lỏm hỏi.
- Phải, nó được tin thế và quan Khâm mạng ra đến nơi bảo cho nó biết, nên nó phải thả. Bá Kim nói và gật gù đắc ý nói thêm: Tôi vừa mới cùng với ông bang Hằng Dụ đi theo quan Bố đến gặp lão Đồ Phổ Nghĩa đòi được quan huyện về đấy.
Mấy người ngồi ăn bỗng cùng reo lên thán phục:
- Ồ quý hóa quá nhỉ! Cụ Trợ có công với dân, với nước quá. Bá Kim chợt gọi riêng bác Hai ra ngoài hiên trông ra hồ, nói khẽ:
- Này tôi hỏi thực bác, bác có gặp con Xuyến nhà tôi đi với một cô Khách nào bao giờ không?
Bác hơi chột dạ, nghĩ bụng có lẽ vỡ lở chuyện cô Cúc rồi chăng, nhưng nhớ lại dịp gặp cô Xuyến hôm mới rồi, bác bình tĩnh trả lời:
- Thưa cụ, tôi có gặp hai bận cô nhà đi với cô con chú Hằng Dụ.
- Ừ, tôi cũng đoán thế. Bá Kim gật gật tiếp, thế mà lúc sáng khi gặp bọn Đồ Phổ Nghĩa, Lý Ngọc Trì, nó cứ đổ riệt là cái Xuyến nhà tôi cùng đi với một cô gái Khách lạ mặt. Nó ngờ là chính mấy đứa con gái ấy đã lừa bắt người của nó và đốt nhà nó. Nên nó mới bắt cóc quan huyện để bắt đền thiệt hại hai mươi vạn lạng bạc đấy.
Vì quan Khâm mạng ra lệnh bắt phải giữ được mọi vẻ yên thấm đợi phái viên nó ra, nên quan Bố tạm thời bằng lòng nhận bồi thường cho nó đấy…
- Ra có đến xin đền hai mươi vạn lạng bạc nó mới thả quan huyện về à? Bác Hai kinh ngạc hỏi.
- Ấy là tạm nhận thế cho yên ổn, để đợi độ ngày mai ngày kia là lão quan ba đặc phái của nó ra đến đây. Bá Kim giảng giải cho rõ hơn. Ta xoay nhau với thằng bề trên nó, chứ không hơi đâu mà giằng co với nó. Cũng vì muốn giữ yên ổn, nên các quan có ý mời các cụ Cử ở trên dinh…
Rồi như để tránh bị vặn hỏi thêm nữa, lão đứng dậy ra về, vừa khuyên một câu lấy lệ:
- Bác cứ sắm thêm gà, lợn, món ăn mà bán. Chỉ mấy hôm nữa là lại đâu vào đấy cả. Quan Khâm mạng Phan Đình Bình nhận chiếu chỉ của nhà vua thân ra đây trước để dẹp ngăn mọi nóng nảy của nhân dân là cốt lo cho dân được yên ổn làm ăn đấy. Chứ cứ ồn ào, lộn xộn luôn luôn thì còn ra thể thống gì một nước nữa. Mà rồi mọi người ai cũng cuống cuồng lên, ngồi không yên, đứng cũng không yên, còn làm ăn gì được nữa. Người dân chúng mình chỉ mong làm sao được an cư lạc nghiệp.
Bác Hai đi theo tiễn chân lão Bá ra tận ngoài đường, còn ngập ngừng hỏi thêm:
- Nhưng ngộ chính phái viên của nó ra đây lại cũng trở mặt quay quắt như thằng Đồ Phổ Nghĩa
thì sao?
Bá Kim đã bước ra giữa đường còn quay lại nói:
- Không lo, người lớn cả, đại diện một nước, họ phải đúng mực. Vả khi nào quan Khâm mạng lại lừa dối dân. Tất nhiên là phải đúng chứ.
Chú thích:

1.

Cây cỏ đều là quân lính.

2.

Ỷ dốc: dựa vào nhau.

3.

Coi thân cùng như nhau.

4.

Một vụ làm phản còn đương xét.

23/11/1966
Chu Thiên
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Sự nhập cuộc của một nhà thơ lão thành qua trường ca Corona 5 Tháng Mười, 2022 Từ những năm bản lề thế kỷ XX vắt qua XXI đến nay, Xuân...