Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

Mình lại soi mình 1

Mình lại soi mình 1

THAY LỜI TỰA
Một Giai Thoại Thi Ca

Tôi còn nhớ khoảng năm 1984 phong trào vượt biên đang rầm rộ: hôm nay gặp nhau đó, rất có thể chỉ vài ngày sau đã hay tin chàng A, nàng B… đã vượt biên rồi!

Hôm đó, một chàng đương từ Sài Gòn đạp xe tới thăm bạn ở Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ. Chàng vừa đạp xe tới cầu thì gặp bạn cũng đương từ bên kia cầu phóng sang dự định về Sài Gòn thăm mình. Một trong đôi bạn tức cảnh sinh tình, ngẫu hứng làm được bốn câu thơ:

Lúa Thủ Thiêm ngọn chìm, ngọn nổi

Gió xa lộ lúc thổi, lúc ngừng

Gặp nhau tay bắt mặt mừng

Vui thì vui vậy, biết chừng nào xa.

Rất nhanh, bốn câu thơ chân thành và dễ thương này được phổ biến sâu rộng trong và ngoài giới văn nghệ sĩ. Chính bản thân tôi cũng đã thú vị ngâm nga thầm chẳng biết bao nhiêu lần trong ngày. Ngâm riết rồi bỗng sực nhớ cách đó chừng bốn năm – khoảng 1980 – tôi cũng từng đã tức cảnh làm sáu câu theo thể song thất lục bát nói về cảnh kẻ ở người đi như vầy:

Đỉnh trời vằng vặc gương nga

Long lanh soi tỏ lòng ta, lòng mình

Gương trong mình lại soi mình

Thấy tình thăm thẳm, thấy hình phù du

Nẻo đời gió bụi kì khu

Biết ai còn mất, tình thu võ vàng.

Tường thuật bằng văn xuôi, lời đối thoại của đôi bạn đại ý như sau:

- Ôi chao, gặp cậu đây thật quý hóa. Trông kìa, đồng lúa Thủ Thiêm dưới chân cầu: ngọn chìm ngọn nổi theo gió xa lộ mênh mang lúc thổi lúc ngừng. Mừng thật đấy, nhưng liệu rồi mai đây còn gặp nhau nữa không, hay rồi lại hay tin cậu đã xuống tàu vượt biên rồi!

- Thôi cậu ơi, hãy nhìn trăng trên đỉnh trời vằng vặc kia lấy đó làm gương soi tỏ lòng mình để thấy rằng: xa nhau mà vẫn nhớ nhau là quý. Hình hài cách trở - có xá chi!

Chao ôi, nói vậy âu cũng chỉ dối người dối mình để tự an ủi. Cứ nghĩ cảnh rồi đây mỗi người mỗi ngả, ở tít nơi xứ người xa tắp mỗi lần nghĩ đến nhau chẳng biết ai còn ai mất – thật cũng buồn lắm thay! câu thơ vấn đáp của thiên giai thoại thi ca này và không quên sự kiện ngộ nghĩnh là câu hỏi thốt ra vào năm 1984 mà câu trả lời đã có từ bốn năm về trước – 1980:

(1984)

Lúa Thủ Thiêm ngọn chìm, ngọn nổi

Gió xa lộ lúc thổi, lúc ngừng

Gặp nhau tay bắt mặt mừng

Vui thì vui vậy, biết chừng nào xa.

(1980)

Đỉnh trời vằng vặc gương nga

Long lanh soi tỏ lòng ta, lòng mình

Gương trong mình lại soi mình

Thấy tình thăm thẳm, thấy hình phù du

Nẻo đời gió bụi kì khu

Biết ai còn mất, tình thu võ vàng.

Tôi xin trân trọng dùng thiên giai thoại thi ca này thay cho lời tựa thiên tiểu thuyết mới nhất của tôi mang tựa đề: “Mình Lại Soi Mình!”

Houston, 27-2-1995

Doãn Quốc Sỹ




CHƯƠNG MỘT
Bức Thư Thứ Nhất

1

Một nếp sống cao sang, một địa vị cao sang, những dáng điệu lời nói cao kỳ,

Phượng không còn thấy ngợp ở những thứ đó nữa. Phượng bình tĩnh quan sát những thứ đó y hệt một bậc cao niên từng trải nhìn đàn con trẻ (chẳng gì năm nay Phượng cũng hai mươi tám tuổi), đôi khi còn như một người ngồi hàng ghế khán giả xem một vở tuồng trên sân khấu.

Phượng ý thức được rõ ràng lắm những vàng son giả trá, những danh vọng phù du của cuộc đời. Phượng mang ơn “ông nhà văn” vì chính ông ta đã dạy Phượng đạt được cái nhìn trong suốt đó. “Ông nhà văn!” Phượng vẫn gọi ông ta như vậy cũng như ba luôn luôn luôn dùng hai chữ “ông ta”. Chính ông Nhà Văn đã trực tiếp hoặc gián tiếp hướng dẫn Phượng thấy rằng bất kỳ cái gì cao quý thật sự đều ở tầm tay tất cả mọi người, không hề kiêu kì vòi vọi, chẳng hề biệt lập kín cổng cao tường. Phượng vừa rời Sài Gòn sớm nay, tới khu hẻo lánh này của Vũng Tàu, được dành cho một phòng riêng trên gác xép, tối mai khoảng chín, mười giờ khuya gì đó, Phượng sẽ ra bãi, xuống ghe vượt biên như đã hoạch định. Sáng sớm nay Phượng đã rưng rưng nước mắt lẳng lặng ra đi với một cái sắc nhỏ xách tay thật nhẹ, má và chị Trang hẳn cũng rưng rưng nước mắt tự ý vắng mặt. “Kẻ ra đi mang theo quê hương trong lòng!” Đúng là câu nói cố tình khoa trương để tự an ủi. – Phượng nghĩ vậy – Quê hương là núi rừng, sông, biển, là sắc thái bốn mùa đổi thay, là người thân còn sống, là người thân đã mất!... Cất bước ra đi, vướng mắc như con cá quậy trong vùng lưới bổ vây. Rứt ruột ra đi, hồn đầy thương tích, quê hương còn lại đó muôn đời xa cách, nếu như đó là cuộc ra đi không có ngày về, cuộc ra đi bất hạnh: sống nhờ đất khách, chết chôn quê người!

Tới địa điểm Vũng Tàu, được dành cho căn gác xép vắng vẻ này, Phuợng muốn xin bà chủ nhà cứ để mặc cho mình ở yên, khỏi lo cơm nước. Phượng đã có sẵn sáu chiếc bánh chưng vuông vắn xinh xẻo chị Trang mua cho và một lọ thịt băm má rang mặn thành ruốc sỏi, dư ăn cho đến tối mai đợi lúc ra bãi xuống ghe. Phượng nằm một mình cho sầu khổ lắng xuống, cho trí sáng bừng lên dẫn tới suy tư… Thỉnh thoảng tiếng người, tiếng đồ vật va chạm từ dưới nhà vẳng lên như từ một thế giới – Phượng nguyện thầm – cho sầu khổ lắng xuống, cho trí sáng bừng lên! Nếu chuyến đi trót lọt, gặp lại anh Trung, ông anh ruột, gặp lại Họa, chàng trai theo đuổi Phượng từ thời trung học, cả ba sẽ bàn cách làm giấy bảo lãnh chu đáo nhất, nhanh chóng nhất để ba – lúc đó hẳn đã được Cộng sản thả rồi – để má, để chị Trang ra đi bằng đường lối chính thức.

2

Tối mai Phượng đã ra đi. Đi chui! Bão biển, có thể lắm! Gặp hải tặc, có thể lắm! Chết đói, chết khác, chết kiệt lực phơi thây cùng các bạn đồng hành trên con thuyền bập bềnh chưa lật úp, có thể lắm! Nhưng không sao, điều cần là Phượng đã hoàn toàn cất được gánh nặng đá đeo về những nỗi niềm thắc mắc trước đây trong những bức thư Phượng gửi cho “ông nhà văn” – mười một bức cả thảy – tuần tự gửi vừa trong vòng một năm, tính từ sau ngày Cộng sản chiếm trọn miền Nam cho đến ngày ông ta bị bắt giữ. Phượng đã không sao tự kiềm chế nổi. Phượng phải viết và gửi những bức thư đó. Không một phút nào Phượng thấy là mình làm sai; nhưng lạ thay, Phượng luôn luôn thắc mắc về những bức thư đó, nhiều khi có cảm tưởng như mình đã hy sinh quá nhiều lòng tự ái – lòng tự ái mà đương nhiên người con gái còn son nào cũng phải có. Phượng viết cho ông ta đến bức thư thứ mười một, và dĩ niên nếu ông ta chưa bị bắt giữ, Phượng còn tiếp tục viết nữa. Viết dấu tên mình, viết không hề đòi hỏi một lời hồi âm mặc dầu thâm tâm muốn lắm. Thoạt chỉ vì chứng kiến cảm tình nồng nhiệt của đấng sinh thành ra mình – ba Phượng – mỗi khi mê mải đọc bất kỳ một tác phẩm dài ngắn mới in nào của ông ta, rồi nghe ba đọc cho cả nhà nghe một đoạn sau khi đã tóm lược cả câu chuyện. Mãi sau này khi đã hoàn toàn vào tuổi trường thành, Phượng đích thân đọc những tác phẩm mới ấn hành của ông ta, không quên hăm hở mua ngay vào ngày phát hành đầu tiên mấy nguyệt san và bán nguyệt san vẫn thường có sự hiện diện của ông ta. Phượng mê đọc không kém gì ba, tuy vẫn là mỗi người một cách. Nhưng phải đợi đến ngày Phượng được gặp ông ta lần đầu, nghe ông ta diễn thuyết lần đầu tại ngay trường mình về một đề tài văn chương, Phương mới khám phá thêm một điều nơi ông ta và nơi chính Phượng. Thuở đó các trường đại học có phong trào mời một số nhà văn, nhà tư tưởng tới thuyết trình tại giảng đường cho toàn thể sinh viên nghe bất kỳ một đề tài văn chương hay triết học nào. Ngày đó ông ta đến trường Phượng sớm hơn giờ mời. Ông tới như một sinh viên thế hệ đàn anh tới thăm sinh viên thế hệ đàn em đương thời. Cử chỉ lời nói thật gần gũi, thân mật. Ông trẻ hơn Phượng chừng mươi tuổi. Rồi mọi người vào đại giảng đường… Rồi ông ta lên bục diễn thuyết… Thính đường chỉ có lời nói của ông vang lên, người nghe ngẩng mặt, cúi đầu cũng không tự biết nữa. Tới phần nêu một vài câu hỏi để bế mạc cho buổi nói chuyện, câu hỏi cuối cùng là của một nhỏ bạn cùng lớp thân nhất của Phượng. Nhỏ xin diễn giả soi sáng thêm về tâm trạng phức tạp phong phú của người Việt khi biểu lộ vui buồn. Ông ta bèn nhắc lại vở chèo Tấm Cám. Ông nhắc nhanh thiết tha và gợi cảm hình ảnh Tấm nhịn phần ăn của mình để nuôi con cá bống. Giọng ông ngâm như hát lời thơ lục bát Tấm gọi con cá bống mỗi khi cho ăn:

Bống ơi bống,

Bống lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta

Đừng ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Qua giọng ngâm của ông, Phượng thấy được rõ niềm cảm thông giữa người với vật khi lòng mình trong sạch, hiền hòa, và chí thành. Ông ta lần lượt nhắc lại rất nhanh mấy lần hóa thân của Tấm: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi dệt và sau cùng là quả thị. Khi ông nhắc đến đoạn: Sau bao nhớ thương, hoàng tử nhân một dịp đi săn vào nghỉ quán nước, nhận ra miếng trầu cánh phượng Tấm têm, rồi gặp lại chính Tấm từ quả thị trở lại cõi đời. Nói đến đây – Phượng nhớ lắm – ông ta bỗng ngừng bặt lại dễ đến nửa phút. Cả thính đường nín lặng tưởng có thể nghe được cánh chuồn, cánh bướm vang vọng từ ngoài vào. Rồi ông nói:

- Sau bao oan thác truân chuyên đến như vậy về phần Tấm, sau bao thao thức nhớ thương đến như vậy về phần hoàng tử, tới lúc hai người gặp lại nhau trong trường hợp bất ngờ vạn hạnh đến như vậy, tưởng cả sân khấu bên trên lẫn toàn bộ khán giả bên dưới phải vui òa thành ánh sáng mới phải chứ! Không, niềm vui điển hình của người Việt Nam mang nặng định mệnh suốt dòng lịch sử thể hiện thành tiếng hát của Tấm vào lúc đó. Tấm sờ như pho tượng đá nhớ thương vừa nhúc nhích cựa mình trở lại kiếp người, và Tấm cất tiếng hát, Tấm hát rằng… Và ông ta hát. Trời, cả thính đường sững sờ! Không ai ngờ rằng câu trả lời đã chuyển thành bài hát, bài hát của Tấm khởi sự bằng câu:

“Vì nhớ thương ai, em trở lại đời…”

Điệu hát, giọng hát thê thiết não nề! Ông ta hát trọn bài, đôi chỗ ông kéo dài giọng ca, đôi chỗ xô dồn lời ca, đôi chỗ ngập ngừng đứt quãng, đôi chỗ kèm theo chút điệu bộ như Tấm trên sân khấu. Tất cả cố tình làm như vụng về, nhưng thực ra ông sống hẳn với bài ca, làm chủ điệu hát, tất cả những cái ông cố tình làm như vụng về chỉ để gây bầu không khí chân thành cảm thông với nỗi niềm Tấm lúc đó. Bài hát hết, lại một lần nữa ông ngừng bặt trong một phút, rồi cất giọng khẽ, rất khẽ, nhưng không một ai trong thính đường mà không nghe rõ mồn một. Giọng ông mệt mỏi lạ lùng, nhưng tràn ngập thương yêu trong thổn thức, ông nói:

- Niềm vui của người Việt thường thể hiện như vậy đó, y hệt như mưa lạnh bình minh. Thức giấc trên giường nghe mưa rơi rả rích bên ngoài, nhưng cũng đồng thời nhận thấy ban mai ló rạng vàng lộng ở tít phía chân trời Đông xa xa. Mâu thuẫn không để đâu cho hết được, nhưng cũng phong phú không nói sao cho xiết được, và kiếp người qua định mệnh người Việt cũng do đó mà quyến rũ lạ lùng. Giọng ông bỗng trong sáng hẳn như một người tưởng sắp ngã khuỵu bỗng vùng đứng lên, như ánh nắng chợt bừng sáng khi vừa thoát khỏi khối mây tắc nghẽn, giọng ông còn đượm vẻ hài hước nữa:

- Nhưng thôi, riêng điều này có thể là một đề tài cho một buổi thuyết trình khác, lần này tôi xin phép tạm ngừng nơi đây. Xin cám ơn, cám ơn nhiều lắm tất cả các bạn đã chú ý theo dõi lời nói của tôi hôm nay.

Ông ta cúi chào, vẫn giữ vẻ mặt tươi thật tươi và thốt thêm lần nữa:

- Cám ơn, cám ơn!

Lần đầu tiên gặp mặt, nghe ông diễn thuyết, Phượng khám phá thêm một điều nơi ông và cho chính Phượng: Hãy có được cái nhìn cô đọng, cái nhìn đó soi tới đâu biến nơi đó thành phồn thịnh: phồn thịnh màu sắc, phồn thịnh âm thanh, phồn thịnh ý nghĩa sống, phồn thịnh tình người. Ở trường về hôm đó, Phượng đọc lại bài phê bình một tác phẩm của ông ta. Nói là phê bình một tác phẩm, sự thực bài đó đã nhận định chung cả phương thuật hành văn lẫn tư tưởng trong toàn bộ tác phẩm của nhà văn họ Hoàng cho tới ngày đó. Bài phê bình dài với những đoạn trích dẫn tác phẩm để chứng minh. Phượng gạch đỏ những nhận định chính. Bài phê bình đó Phượng đã cắt ra từ tờ báo rồi xếp vào tập vở ghi những bức thư đã gửi. Phượng mở sắc tay đọc lướt những dòng gạch đỏ.

“… Hoàng Q. vẫn là người thanh niên sống thiết tha với thời cuộc đầy dẫy đau thương, ngổn ngang trắc trở của dân tộc Việt Nam…

Ông sống tất cả những vui buồn âu lo của thế tâm con người…

Ông ghét Cộng sản v ì chúng bạo tàn, khinh cái chính quyền theo Tây vì chúng vô liêm sỉ, thương người nghèo khó bần cùng, ghét tính bủn xỉn, yêu lòng vị tha…

Hoàng Q. tuy không trình bày những tâm trạng độc đáo dị thường, nhưng trình bày với một lòng thiết tha dào dạt. Ông có giọng mê say, lôi cuốn của một thi sĩ trữ tình hơn là một tiểu thuyết gia. Ông tả cảnh, ông bộc lộ cảm nghĩ chủ quan say sưa suốt từng trang dài. Có lẽ vì thế mà ông thích dùng ngôi thứ nhất để kể chuyện. Nhiều nhà phê bình cho rằng đó không phải là kỹ thuật thích hợp nhất cho người viết truyện, nhưng không có gì thích thú cho bằng được nghe một nghệ sĩ phong phú tài hoa như ông Hoàng kể đê mê lan man về cảnh đẹp, người đẹp, về các bản đàn điệu hát…

Ông theo dõi tham dự các biến cố xảy đến trong xã hội với tất cả sự sốt sắng thiết tha, nhưng thay vì để gây những thắc mắc khắc khoải dày vò tưởng như bất tận, thì ông lại khiến lòng ta thơm lên vì hương thơm bát ngát của đạo đức, và ấm lên vì niềm tin nồng nàn vào cuộc đời…

Tóm lại, đọc ông thấy đủ những sắc thái của đời đấy, những nghèo khổ mà không tị hiềm, đói khát mà không thù hận. Trái lại nhân tính được trau chuốt để vươn lên thành khát vọng, hòa đồng với hạnh phúc mênh mông; có tuổi trẻ ham học, có tuổi già bao dung, có tinh thần sung mãn, có những mối tình trang trí cho cuộc đời mang màu vương giả, có những đam mê dạy cho thế nhân một nền thẩm mỹ chan hòa. Khắp các giai tầng khi gặp ngang trái đều biết vươn về thương cảm, nâng đỡ, an ủi, vỗ về...”

Đặt trả lại bài phê bình vào tập vở, đặt tập vở lên chiếc bàn nhỏ đầu giường, Phượng ngả mình nằm xuống, mắt nhắm lại nhưng không phải để ngủ.

3

Tối mai Phượng đã ra đi. Bão biển – có thể lắm! Gặp hải tặc – có thể lắm! Chết đói chết khát, chết kiệt lực phơi thây cùng các bạn đồng hành trên con thuyền bập bềnh chưa lật úp – có thể lắm! Nhưng không sao, điều cần là Phượng hoàn toàn cất được gánh nặng đá đeo về mười một lá thư Phương đã viết, đã gửi cho ông ta. Bản nháp cả mười một lá thư – và cũng là những bản lưu – chính là tập vở trên bàn kia. Nói là bản nháp, kỳ thực những dòng dập xóa rất ít. Tối mai Phượng đã ra đi. Hành trang của Phượng thật nhẹ, hầu như không có gì ngoài một bô đồ mang theo để thay đổi, nhưng tập bản lưu đó bằng mọi giá Phượng phải mang theo. Rất gọn và kín đáo, Phượng ngồi dậy, với lấy bức thư thứ nhất… những dòng chữ quen thuộc, quá quen thuộc của chính mình! Bức thư ghi ngày 7-6-1975. Không gửi bằng bưu điện mà bằng tay – tất cả mười một lá thư đều gửi bằng tay – Phượng đến tận nhà ông ta lẳng lặng thừa dịp vắng vẻ thuận tiện bỏ vào chiếc thùng thư xinh xắn sơn màu xanh lá mạ gắn ngay bên cửa.

Ngày 7-6-1975

Ông kính mến,

Chắc là ông ngạc nhiên lắm khi nhận được thư này.

Tôi đã có ý định từ lâu tới gặp ông, nhưng rồi bỏ ý định đó mà chờ được gặp ông theo thiên thành, mặc cho tự nhiên đưa đẩy. Tôi có cảm tưởng như ngày đó chẳng bao giờ có. Tôi “quen” ông từ ngày tôi còn nhỏ xíu, những ngày nằm hoặc ngồi bên ba tôi, nghe người đọc từng đoạn truyện của ông, đôi khi tôi vừa nhổ tóc sâu cho ba vừa nghe người đọc từng đoạn ngắn mà người cầm lòng chẳng đặng. Người đã cho tôi hiểu tác già là gì.

Tác giả có nhiều uy quyền quá! Và tôi rất ghét tác giả những quyển mà tôi thích nghe ba tôi đọc. Ông biết tại sao không? Để tôi nói nhỏ ông nghe nhé – bởi vì chữ Hoàng tên ông mà ngày nào tôi cũng phải đánh vần lần nào cũng sai. Rồi lớn lên, những tác phẩm của ông là một ám ảnh lớn trong tôi. Rồi trung học… rồi đại học… những ngày dài ở trọ, tôi nghĩ nhiều đến ông, nghĩ đến nhân vật của ông. Và đặc biệt những dòng sông, những bến đò, chao ôi quý giá làm sao, tôi soi thấy trên những dòng sông ấy không chỉ hình bóng của riêng tôi, mà cả thời ấu thơ của tôi với mấy vụ hè liền, vào dịp được nghỉ học theo ba lênh đênh trên sông Tiền, từ Tân Châu (Châu Đốc) đến Sa Đéc. Sông Tiền mặt nước lúc nào cũng mênh mông hậu hĩ mấp mí tràn bờ. Ba năm này, ba tôi chọn nghề buôn theo dòng sông Tiền cốt để che dấu tông tích cho một người bạn chí thân vốn tập kết ra Bắc năm 1945 và đã bỏ ngoài đó trở về Nam qua ngả Lào. Thuở đó, thưa ông, “cô bé” tôi rất thích thú ngắm những nét cau có giận dữ của dòng sông đúng lúc ba tôi khởi sự dùng chèo khuấy động sự yên tĩnh của nó cho thuyền rời bến. Rồi sau này khi đã là “cô gái”, tôi tiếp tục đọc ông. Nỗi ám ảnh về những dòng sông, những bến đò càng lớn ngợp nơi tôi. Ngày ông tới trường tôi diễn thuyết – thượng tuần tháng Mười Một 1974, năm tôi hai mươi tuổi – đó là ngày thiên thành lần thứ nhất tôi được gặp ông như đã hằng mong ước từ bao nhiêu năm. (Có ai ngờ cuối niên học đó, tôi chưa kịp thi tốt nghiệp ra trường thì Cộng sản đã chiếm trọn miền Nam mất rồi.) Ngày đó, lúc thoạt thấy ông qua cổng trường bước vào, tôi xúc động đến bàng hoàng, mấy ngày sau còn giữ nguyên cảm giác choáng ngộp đó. Ông với chemise trắng, cravate màu xanh thẫm. Lúc ấy tôi thấy chỉ có ông và tôi, và tôi tự nhủ thầm nếu tôi gọi thật nhỏ tên ông ông tiếp tục bước tới, còn lại tôi với… với một nỗi niềm chếnh choáng bâng khuâng khó tả. Buổi nói chuyện của ông tại đại giảng đường trường tôi hôm đó, tôi tin tưởng chỉ có tôi là hiểu trọn vẹn những gì ông nói. Những ngày ở bệnh viện mỗi lần đọc lại một tác phẩm của ông là một lần thấy nó mới thêm. Và rồi kể từ ngày 30-4-1975, ngày Cộng sản toàn thắng miền Nam, đổ bóng ngự trị của chúng lên toàn thể đất Việt, tôi tạm rút lui về quê nhà sống những giây phút ngạt thở, nhưng còn cố níu lấy hy vọng tự do. Tôi nằm lẩn trong xó tối nghiền ngẫm lại tác phẩm của ông. Tôi bị má la hoài về chuyện đó, nhưng ba tôi, nếu người có mặt, bao giờ cũng kịp thời đỡ đòn cho tôi, “Đừng mắng con, để nó tự do, sau này nó không còn được…” Nhưng bây giờ thì tôi hiểu rồi ông ạ. Chiến dịch “phần thư khanh nho” của Tần Thủy Hoàng cũ tái diễn dưới hình thức mới “kiểm kê văn hóa”, “bài trừ văn hóa nô dịch đồi trụy!”... Cả một tủ sách của tôi, cả một tủ sách của chị tôi, cả một tủ sách riêng của ba tôi tại phòng khách, tất cả, tất cả sạch sành sanh vét! Lúc đó tôi vắng nhà. Khi trở về, tôi không hỏi. Cả nhà cũng không ai nói. Tại hộc tủ tồi tàn của tôi còn lại ba quyển của ông cùng với La Porte Etroite của André Gide, cuốn Ca Ngợi Cô Đơn của Kahlil Gibran và cuốn Khúc Hát Dâng Đời của Tagore. Gia tài còn sót lại của tôi!

Tiếng đại liên nổ giòn đuổi theo tiếng một chiếc Honda phóng đến hết tốc độ dọc theo một đại lộ tương đối vắng với một hàng cây sao cao vút (hàng bên kia đã bị đốn từ mấy năm trước vào một dịp mở đường). Khoảng chín giờ đêm, có tiếng la của một người nghèo đói đã bị một người nghèo đói nào khác cướp giật.

Tại sao tôi biên thư cho ông? Ông có bực mình? Nếu tôi tiếp tục biên thư cho ông, ông có phiền lòng?

Và hình như tôi chưa nói rõ gì với ông.

Cầu chúc ông có được một vài giây phút thoải mái trong ngày và xin kính tặng ông những may mắn còn sót lại nơi tôi.

Kính thư, Ph.

CHƯƠNG HAI
Ba

1

Sau này lớn lên Phượng đã làm quen nhiều và ưa thích – say mê nữa – những giây phút bâng khuâng nơi ráng chiều rộng lớn mà cô tịch, nơi quãng vắng thê thiết đìu hiu. Mỗi lần như vậy là y như Phượng nhớ đến cảnh sông nước mênh mang, bến đò hoang tịch mà Phượng đã từng sống với ba vào vụ hè thuở còn là cô bé. Nhưng phải đợi mãi sau này khi Phượng đã biết tự động săn đón và tìm đọc những tác phẩm của ông ta, Phượng mới có dịp quan sát để tìm hiểu tại sao ba thích những tác phẩm đó. Phượng chú ý những đoạn văn ba ưa đọc lớn, những đoạn văn mà tới đó nếu đương nằm thì ba vùng ngồi dậy, đương ngồi thì ba vùng đứng lên hơn về một quãng đời nào đó của ba. Từ những dữ kiện đó, Phượng ráp nối, suy diễn và tìm hiểu dần. Duy một lần Phượng và ba nói chuyện lâu hơn cả, chuyện về tù đày tra tấn, đặc biệt chuyện một vụ vượt ngục tại Côn Đảo. Lần nói chuyện đó của ba quá đặc biệt đến nỗi Phượng nhớ hoài, nhớ mãi về sau này. Phượng nhớ cả năm đó – 1970 – Phượng mười bảy tuổi, chỉ còn một năm nữa là xong tú tài để lên đại học. Phượng nhớ cả câu chuyện khởi sự từ sau bữa cơm chiều bảy giờ kéo dài tới mười một giờ khuya. Phượng ngồi nơi bàn học, ba nằm trên xích đu ngay kế bên. Nguyên quán ở Vĩnh Long, gần Sài Gòn thôi, nhưng có mấy khi ba sống ở quê nhà. Ba được nội đưa lên Sài Gòn theo học từ nhỏ, hết tiểu học qua trung học tại Chasseloup-Laubat. Đỗ tú tài xong, ba gia nhập làng báo liền. Ba thuộc hạng ký giả kỳ cựu nhất thuở ban đầu báo chí miền Nam. Ba viết cho báo Opinion của Ngân hàng Đông Dương – Banque de l’Indochine – đặc biệt theo dõi thị trường gạo tại Hồng Kông; hối đoái tại toàn bộ Á Đông: Yokohama, Thượng Hải, Bangkok, Hồng Kông, Manila. Rồi ba trông nom luôn cả tờ Công Luận tiếng Việt. Đó là vào những năm 1938-1939. Hằng năm ba theo ban giám đốc nhà băng đi họp ít nhất là hai lần tại Paris. Vào những dịp đó ba qua thăm Bỉ, Hòa Lan, Thũy Sĩ, Đức… Chân trời nhìn ngắm hiểu biết của ba sớm được mở rộng như vậy nên ba thường xuyên mang căn bệnh “thèm chân trời”. Càng về sau này khi ba không còn dịp may đi đây đi đó nữa, căn bệnh càng dằn vặt ba dữ, thì may thay ba tìm thấy linh dược nơi tác phẩm của “ông nhà văn”. “Trái đất dường như nhỏ xíu với ông ta à,” – một lần ba nói với Phượng sau khi đọc một chương trong đó tả rất kỹ, rất linh động cuộc hành trình của một nhân vật đương di chuyển gấp từ Paris qua Đại Tây Dương để tới New York.

Đời sống của một ký giả như ba – dù ký giả thuở ban đầu đi nữa – vẫn đầy dẫy những nét quyến rũ riêng của nghề nghiệp này: cách sống la cà ở khắp nơi vào mọi lúc thật quyến rũ; ăn uống thất thường nhưng sành sỏi, thật quyến rũ; giao thiệp thân mật, bay bướm, thật quyến rũ… Những điều này ba gặp đầy dẫy trên những trang in của “ông nhà văn”. Ba làm báo cho nhà băng, thân cận giới tài phiệt quốc tế nên rất thích về thời cuộc. Năm 1938, ba đã thấy trước thế nào Đệ Nhất Thế Chiến không sớm thì muộn sẽ phải xảy ra. Quả nhiên! Vì vậy ba khoái những tiên đoán thời cuộc căn cứ trên những dữ kiện kinh tế, chính trị, quân sự cùng đan lát thành một bối cảnh rộng lớn. Trong hầu hết tác phẩm của ông ta, ba tìm thấy những âm hưởng đồng điệu đó. Tuy xuất thân làm báo gần giới tài phiệt Pháp, nhưng ba căm giận chính sách thực dân Pháp tại Đông Dương và chống sự nhượng bộ của Pháp với Nhật vào thời đó. Và ba đã cùng một số chiến hữu quốc gia chủ trương thêm tờ tuần báo Tin Tức Chủ nhật trong khi vẫn viết cho tờ Opinion để vừa giữ thế, vừa lấy tin tức, vừa dùng làm bình phong ngụy trang. Rồi chẳng bao lâu các báo của Cộng sản bị đóng cửa (La Lutte, Dân Chúng), các cán bộ Cộng sản bị bắt giam. Trong khi không ai gặp gỡ luật sư L. người Pháp. Maitre L. là luật sư chỉ định, công khai – avocat désigné, officiel – để sẽ biện hộ cho đám phạm nhân Cộng sản. Ba đã liên lạc và nhờ được Maitre L. thực hiện giúp việc tiếp tế cho những nạn nhân Cộng sản trong nghề ký giả. Ba nói cho Phượng hay là mỗi lần thăm nuôi như vậy tốn chừng năm mươi đồng thời giá. Chính bồi bếp của Maitre L. mua hộ thức ăn và thuốc men cần thiết.

2

Chính những bồi bếp của Maitre L. mua hộ thức ăn và thuốc men cần thiết để gửi vào trong nhà lao.

- Thế là ba đã vào con đường chính trị thực sự rồi. - Phượng đã nói với ba như vậy.

- Nhưng ba không gia nhập Đảng Cộng sản mà vào Nhân dân Cách mạng Đảng, đảng viên gồm tất cả những ai nhiệt thành với sự nghiệp giải phóng đất nước, giành độc lập, chứ không đề cao công nhân như Đệ Tam Quốc tế.

- Ba hoạt động tại ngay Sài Gòn?

- Đúng! Trên bề mặt ba vẫn viết cho báo Opinion để vừa ngụy trang vừa lấy tin tức dồi dào và xác thực, nhưng phụ tá ba là một người bạn chí thân, anh Phác. Ảnh làm con thoi liên lạc với những địa bàn hoạt động khác, thoạt là Tây Ninh – vì giáo phái Cao Đài nơi đây có tư tưởng chống Pháp rõ ràng. Rồi trường hạ sĩ quan của Pháp ở Thủ Dầu Một cũng có một số đồng chí của ba lẩn được vào, rồi từ địa bàn hoạt động dần xuống Vũng Tàu, bắt liên lạc với số lính phản chiến không chịu theo Pháp đánh Thái Lan năm 1940.

Phượng nói như reo:

- Ngay từ ngày đó ba đã biết “kính nhi viễn chi” Cộng sản!

Ba cải chính liền:

- Không đâu con ơi! Chúng nó tinh ma lắm. Bản chất của chúng như vậy mà. Thoạt ba thấy có một số bạn học xưa của ba từ Hà Nội vào tìm liên lạc với ba. Họ muốn tổ chức mình rồi đó, vì họ thấy ba quen khắp mặt công chức cao cấp, chỗ nào ba vô cũng được. Là ký giả mà! Ba là người duy nhất có thể cung cấp cho họ những nguồn tin phong phú nhất. Vả lại thuở đó nanh vuốt Cộng sản chưa xòe ra, còn hiền lành lắm. Lòng yêu nước thiết tha muốn đánh đuổi thực dân, giành độc lập... là mẫu số chung vằng vặc rõ ràng cho tất cả. Đệ Nhị Thế Chiến đã bùng nổ.

Ngừng một chút rồi ba mới nói:

- Kế đó là vụ Nam Kỳ khởi nghĩa hoàn toàn do Xứ ủy Đảng Cộng sản chủ trương và phát động. Ba bị bắt chỉ là do các đảng viên Cộng sản khai ra. Họ khai những liên lạc bàng hệ để đánh lạc hướng mật thám Pháp mà che chở cho những tổ chức của chính họ. Điều đó cũng là lẽ khôn ngoan thường tình thôi. Nhưng phải đợi đến khi đọc tác phẩm chi tiết.

Phượng ngước nhìn, suy nghĩ lục lọi trí nhớ:

- Con nhớ rồi ba, cuộc Nam Kỳ khởi Nghĩa đã chiếm trọn vẹn một chương.

Ba gật đầu:

- Y như quay lại cả một cuốn phim. Khi đọc xong ba mới biết là viên Xứ ủy miền Nam của Đảng Cộng sản có ra gặp Trung ương ngoài Bắc, nhưng Trung ương cản vì tiên đoán cuộc khởi nghĩa sẽ bị cô lập. Viên Xứ ủy trở lại Sài Gòn, vừa đặt chân xuống sân ga xe lửa thì bị bắt với đầy đủ tài liệu. Sài Gòn bị bố ráp tức khắc và ém nhẹm. Đúng ngày giờ, các tỉnh Vĩnh Long, Cần Thơ, Mỹ Tho, Long An tuần tự nổi dậy, nhưng Sài Gòn – bộ não – thì im bặt. Mười bảy thôn Vườn Trầu của vùng Bà Điểm, Hóc Môn vốn có truyền thống chống ngoại xâm từ thời Trương Định, từng là cái nôi cho những hoạt động Cộng sản từ trước 1930. Vào dịp Nam Kỳ khởi nghĩa này, dĩ nhiên mười bảy thôn Vườn Trầu lãnh trách nhiệm thanh toán các cứ điểm Sài Gòn vào ngày giờ đã định. Có bốn cứ điểm chính: Đánh vào trại lính 11e RIC, vừa để diệt lực lượng bộ binh Âu Phi – xương sống của quân lực Pháp – vừa cướp vũ khí; đánh vào thành Ô-Ma (Camp aux Mares – thuở đó khu này còn đầy dẫy những đầm ao), cũng vừa để đám lính khố đỏ có dịp theo quân khởi nghĩa khỏi phải đi đánh Thái Lan, vừa để cướp vũ khí; phá khám lớn Sài Gòn để giải phóng tù chính trị; và sau cùng chiếm nhà Bưu điện để bảo đảm về thông tin liên lạc. Quân khởi nghĩa xâm nhập Sài Gòn như những dân thường, tập trung rất nhiều dọc theo từ chợ Bến Thành đến Chợ Lớn.

- Không sợ lộ ư ba?

- Lộ sao được, thời đó từ năm giờ chiều trở đi là đường Sài Gòn-Chợ Lớn từ chợ Bến Thành đến khu Đại Thế Giới tấp nập như mở hội, ngày nào cũng vậy. Phương tiện giao thông chính yếu là xe điện và xe thổ mộ. Họ vui chơi ăn nhậu, đánh bạc tại khu Đại Thế Giới suốt ngày đêm mà. Dạo đó Chợ Lớn càng đông rộn vì đám người Tàu chạy loạn từ Hồng Kông, Thượng Hải sang, Nhật đương tiến như vũ bão tại Trung Hoa. Nhưng quân khởi nghĩa đợi đến gần sáng không thấy hiệu lệnh gì, vội rút lui. Tránh sao một số bị bắt.

- Hồi ba bị bắt còn bị tra tấn nữa chứ?

- Tránh sao khỏi. Ba bị tra tấn ở bót Catinat. Ngày nay mỗi lần qua đó ba còn rùng mình nè. Những cuộc lấy khẩu cung thường khởi sự vào mười hai giờ đêm. Thoạt dỗ ngọt không được, nó bắt mình nằm sấp, dùng roi đánh giữa hai bàn chân, dân thần kinh dẫn lên buốt óc. Hôm sau hai chân sưng vù lên, không đi được, phải lết. Giai đoạn hai tới còn “cho đi tàu bay” nghĩa là nó treo mình lửng lơ mà sơi dây trói mình chỉ quấn chặt nơi hai ngón tay cái.

- Trời, làm sao mà treo mình được vậy, ba?

- Khó gì con, khi quấn sợi dây treo vào hai ngón tay cái thì mình còn đứng trên ghế, nó hất ghế đi, thế là mình lửng lơ, chân không đến đất, cật chẳng đến trời, sức mạnh kéo xuống từ hai ngón tay cái, bốn thằng bốn bên thay phiên nhau đánh, đánh ở bụng, ở ngực, đau buốt tới óc, còn toát mồ hôi nữa. Giai đoạn ba tới quay điện.

Phượng nhắm mắt, lắc đầu hỏi, cố tình để lảng câu chuyện sang lãnh vực khác:

- Về phương diện này chắc “ông nhà văn” không bổ túc gì thêm cho kinh nghiệm của ba?

Ba trợn mắt phản ứng liền:

- Có chứ! Thế con quên chương Sáu ở cùng tác phẩm đó à? Nhân vật của ông ta chịu đựng cuộc tra tấn cuối cùng rùng rợn hơn cả, đó là cực hình “đi tàu ngầm”. Nhân vật bị trói chặt từ đùi xuống đến cổ chân liền vào một tấm ván, phần thân trên được hoàn toàn tự do trừ hai cổ tay bị trói quặt về phía sau. Nó bắt nằm ngửa theo thế dốc, đầu thấp hơn chân, rồi khăn mặt nhúng nước đắp lên mũi, mình thở, hít nước vào căng bụng.

Phượng nhớ chương đó rồi và rùng mình trong khi ba kể tiếp:

- Thoạt nó nhúng vào nước vo gạo. Thở hít để bụng căng nước xà-bông tuy đắng nghét xót ruột, nhưng không bốc lộng lên óc bằng nước vo gạo để chua với đủ các gia vị khác là hành tỏi, ớt...

Ngưng lại giây lâu ba tiếp:

- Những cay đắng nhục nhằn đó - điển hình cho một giai đoạn lịch sử - cần được ghi lại cho hậu thế hay, con ạ. Ghi lại dưới một hình thức hồi ký đã là quý, đây lại được ghi lại dưới hình thức nghệ thuật tiểu thuyết sáng tác văn chương - “hết sảy” con ơi! Riêng với ba, ba mang ơn ông ta đó!

- Con nhớ một lần ba đã bảo là thuở đó ba suýt bị kết án tử hình.

- Phải, biện lý đề nghị kết án tử hình, vì ba đã cung cấp bản đồ thành Ô-Ma cho quân khởi nghĩa. May thuở đó sở Mật Thám còn bắt một lô những người thân Nhật vừa chống Pétain, vừa chống De Gaulle. Ba lẫn vào đám “hầm bà lằng” đó mà chỉ bị kết án tám năm khổ sai cộng với tám năm biệt xứ

- nghĩa là sau tám năm khổ sai ở Côn Đảo, nếu ba còn sống trở về, sẽ bị an trí tại các vùng như Cà Mau, rừng U Minh, Đồng Tháp, chứ không được ở tại các thị trấn. Khi bị chở ra Côn Đảo, thoạt ba khoái lắm, nghĩ rằng ở đảo hẳn là cuộc sống tù tương đối tự do hơn. Nằm nghe máy chạy, lúc ở sông tàu đi êm hơn, tới Cap-Saint-Jacques biết ngay. Gặp sóng lớn mà!

Phượng cười khanh khách:

- Ba đã có những nhận xét và tả cảnh theo phong độ của “ông nhà văn”!

Ba cũng cười:

- Đúng vậy! Tàu chạy suốt đêm, khoảng mười giờ sáng tới Côn Đảo. Điều rùng rợn đầu tiên là từng hai đứa tù chung một xích tay, phải nhảy một lượt từ thành tàu xuống xà lan cách đến ba thước cao, hai bên là hai tên cai tù sẵn tay roi quất lia lịa. Cứ như vậy, nhảy đều như một bầy cừu, hai con một. Có cặp nhảy xuống không đúng nhịp điệu, gãy tay hay gãy chân ngay tại chỗ. Ấn tượng địa ngục có từ đấy con ạ. Ba và đám anh em tù chính trị được lùa thẳng về Ban 3 – tức Bagne 3, Nhà ngục 3. Ban 1 có hầm xay lúa, loại tù ở đây là tù cũ lâu năm đã thuần rồi. Ban 2 gồm tù chính trị và thường phạm, phải đi lao động nặng. Ban 3 gồm đám anh em Nam Kỳ khởi nghĩa cùng với đám anh em thân Nhật và đám mới chuyển từ Sơn La, Lao Bảo, Ban Mê Thuột tới. Đây là loại được xếp hạng nguy hiểm nhất. Thoạt tất cả tập trung ở sân thứ nhất để khám xét. Áo quần, tiền bạc, chăn mền bỏ lại hết. Mọi người trần như nhộng. Mỗi tù được phát một bộ quần áo xanh mới lược sơ qua đường chỉ, chưa khâu hẳn, và một chiếc chiếu. Đưa vào sân thứ hai, tù phải sắp hàng để từng người vào từng phòng, một bề bốn thước, một bề tám thước. Trước đó mỗi phòng như vậy chỉ nhốt có hai mươi người, lần này vì tù đông quá nên nhốt tới tám mươi anh. Kể từ đấy mỗi lần sắp hàng để vào buồng từng người một, là một lần phải “múa” Mai hoa quyền. Con có hiểu vì sao không?

- Vì sao ba?

- Cai tù bắt từng đứa vừa chạy vô phòng, vừa phải há mồm giơ tay, giơ chân để kiểm soát xem có dấu gì ở mồm, ở nách, ở hậu môn không.

Phượng cười rũ. Ba tiếp:

- Ngày thứ hai bắt cạo đầu trọc, tù nọ cạo cho tù kia. Không có dao, cạo bằng mảnh sắt mài ở ngay nền xi-măng trong phòng. Buổi sáng tập họp để điểm danh, đến chín giờ tập họp để xem có ai khai ốm, khoảng mười giờ rưỡi tập họp để ra ăn ở ngoài hàng hiên, ăn xong tập họp vào. Hai giờ chiều, tập họp điểm danh chiều; bốn giờ chiều tập họp ăn, rồi tập họp vào. Đó là bình thường, không kể những tập họp bất bình thường để khám xét. Mỗi lần tập họp điểm danh đều có đánh, nghĩa là cai tù cầm gậy tầm vông khỏ lên đầu để đếm từng cặp một. Và mỗi lần tập họp để từ ngoài vô phòng đều phải biểu diễn... Mai hoa quyền. Con có biết không, áo quần mới lược chỉ nên mặc vào được một buổi chiều là tả tơi ra từng mảnh. Vào bữa ăn, anh em bèn phân công người vừa ăn vừa kín đáo cắn mép ca bằng sắt tây, lấy ra sợi dây thép vòng quanh mép ca, kẹp ở tay vừa đủ chiều dài cây kim để không bị lộ khi “múa” Mai hoa quyền vào phòng. Rồi ở trong phòng, có công mài sắt có ngày nên kim. Kim đó sẽ dùng khâu lại quần áo mới phát.

- Chỉ lấy ở đâu, ba?

- Ấy, cắt bớt vải ở áo quần quá dài, quá rộng, gỡ sợi ra se lại thành chỉ. Người bạn tù biết may dạy cho tất cả anh em cách may vá. Chỉ mười ngày sau là ai nấy áo quần vừa vặn đàng hoàng, vừa bề rộng vừa chiều dài. Bọn cai tù thấy vậy bất chợt tới khám phòng. Tìm dao, không thấy; tìm kim, không thấy.

- Kim dấu thì dễ rồi, nhưng dao dấu đâu, ba?

- Cắt vải thì cắt hết loạt vào buổi tối rồi dấu dao vào các khe tường. Bờ tường vốn sơn hắc ín, mình dùng chút cơm nguội nghiền với vụn hắc ín trét vào khoảng đó, làm sao mà nhận ra? Dấu tài liệu cũng bằng cách đó con ạ.

- Tài liệu nào, ba?

- Con ngạc nhiên là phải? Ai cũng ngạc nhiên, kể cả bộ tham mưu Sở Mật thám Pháp. Con nghe đây: người tù đảng viên cũ được tuyển ra giúp việc cho viên xếp Tây ở văn phòng nhân sự - thôi thế là đầu chạy, đuôi lọt rồi. Người đảng viên Cộng sản nào mà chẳng được huấn luyện về các phương thức vận động, tuyên truyền, tổ chức quần chúng và phương thức đấu tranh từ kinh tế thiết thực để quyến rũ mọi người, rồi nhuộm màu chính trị dần, rồi tiến tới đấu tranh bán vũ trang, cuối cùng là đấu tranh vũ trang thật sự. Bởi vậy, khi một đảng viên được tuyển chọn giúp phòng nhân viên, bèn bí mật tự thiết lập ngay một bảng danh sách đảng viên các cấp hiện trong tù. Có được bảng danh sách rồi thì ra chỉ thị bắt đầu tổ chức lớp học chính trị.

- Làm sao mà ra chỉ thị, phổ biến chỉ thị được hả ba?

- Đứng đầu bệnh viện là một bác sĩ Pháp, nhưng ông ta chỉ khám bệnh cho nhân viên Pháp, dưới quyền là một bác sĩ Việt Nam khám cho cả nhân viên Việt Nam và tù. Những người tù đảng viên được tuyển ra giúp bác sĩ đi phát thuốc cho các tù nhân từng trại, có giấy ghi chỉ thị.

- “Chèng đéc”, con hiểu rồi.

- Lớp học chính trị xen kẽ với các lớp văn hóa và học nghề để dễ bề ngụy trang. Thoạt chỉ là phân tích tình hình thế giới, thảo luận về đấu tranh chống áp bức, giành tự do, chống địa chủ phong kiến bóc lột nông dân... Ai cũng thích dự và thích tranh luận. Trong tranh luận phát hiện khuynh hướng, do đó họ nhận ra anh nào có thể kết nạp thành đảng viên sau này, anh nào chỉ có thể vĩnh viễn coi là quần chúng cảm tình, anh nào thuộc phe địch – ngày đó là đám thân Nhật. Phân loại rồi, có những buổi học chính trị tiến xa hơn, do đó họ họp riêng. Qua giai đoạn phân loại, sang giai đoạn thử thách. Hàng tuần hay có những vụ khủng bố để khám xét. Cai tù thét mắng, đánh loạn xạ, bắt xếp hàng lẹ để điểm danh, cây tầm vông khỏ lên đầu những anh đứng hàng ngoài. Kẻ thử thách được phân công bảo vệ cho số chủ chốt, bèn lanh chân xung phong đứng ra hàng ngoài để lãnh cú khỏ tầm vông. Cách thử thách thứ hai là bắt trèo lên vai nhau nhìn qua khe hở theo dõi bọn lính gác đi tuần bên ngoài, trong khi bên dưới tiếp tục học tập; hay một toán khác của bộ phận thông tin cũng đứng trên vai nhau để liên lạc tin tức với phòng kế bên – mỗi dãy gồm bốn phòng. Bất chợt lính gác tới. Không nhảy xuống nhanh, nó bắt được, nhừ đòn là lẽ dĩ nhiên. Bộ phận thông tin hoàn tất nhiệm vụ sẽ cung cấp cho toàn phòng biết tình hình thế giới, tình hình trong nước, tù mới tới có bao nhiêu, tên tuổi là gì. Tất cả tù nhân trong phòng – không kể đảng phái nào – đều rất hài lòng về việc được thông báo cho biết những tin tức sốt dẻo như vậy. Chỉ ba tháng sau là đảng viên Cộng sản nơi Ban 3 đã tổ chức xong xuôi chi bộ.

- Kinh thật!

- Mà con nên nhớ cả bộ não Sở Mật thám

Pháp ngày đó biết vậy mà không sao tìm ra đầu mối.

- Dạo đó ba được chi bộ Cộng sản trong tù xếp vào loại nào?

- Loại quần chúng cảm tình, dĩ nhiên. Dạo đó Cộng sản còn quyến rũ lắm mà.

- Ba ơi, đã đạt được một tổ chức hợp tình hợp lý, chặt chẽ tuyệt hảo như vậy mà họ tranh đấu để xây dựng cho hạnh phúc dân tộc và nhân loại thật thì có thánh cũng không lật đổ được.

Ba cười ngất:

- Nếu được thế thì họ chính là thánh rồi còn đâu!

Phượng bỗng cất tiếng cười thật hồn nhiên:

- Về chuyện tù đầy tại Côn Đảo thì “ông nhà văn” không qua mặt được ba!

Ba ngừng tiếng cười:

- Không đâu con, con quên chương Tám trong tác phẩm đó sao? Chương nói về cuộc vượt ngục bằng thuyền. Con nhớ ba đọc chương đó vào một lúc tâm trạng buồn lạ lùng. Con người có những lúc tinh thần sụm xuống như một cơ thể bị rút hết xương, chỉ còn là một đống thịt nhão, chả ra hình thù gì. Ba đã đọc chương nói về cuộc vượt ngục Côn Đảo này vào lúc có tâm trạng thứ hai. Những chi tiết tỉ mỉ của cuộc vượt ngục, cứ như vậy rót đầy dần, rót đầy dần vào tâm hồn trống rỗng thê thảm của ba lúc đó. Từ 1935 trở về trước, các bậc tiền bối vượt ngục Côn Đảo bằng bè. Bè chỉ biết theo sóng, phó mặc cho may rủi, khó điều khiển, sóng lớn thì bè vỡ. Từ sau 1935, tù nhân Côn Đảo mới rút kinh nghiệm mà tổ chức vượt ngục bằng thuyền có bánh lái, có buồm, điều khiển được, lợi dụng tối đa sức gió. Đây là đám tù nhân đã được tuyển ra khỏi bagne làm nhân công giúp trại sản xuất chăn tằm, nuôi vịt, chăn trâu bò, làm ruộng, làm muối, làm đồ gỗ, đóng thuyền đánh cá, làm nước mắm... Không còn bị kiểm soát ngặt nghèo, được ở ngay trong bagne của sở, hay được ở những chòi riêng để trồng trọt thêm, nuôi gà vịt thêm... Thế là họ tìm hiểu nhau, chọn lựa nhau để về nhân sự thỏa mãn được đủ các nhu cầu: ai biết đóng thuyền làm buồm, ai biết sử dụng buồm, điều khiển tay lái, ai am tường các địa phương mà thuyền có hy vọng dạt vào như Cà Mau, Rạch Giá, Gò Công... Tới địa phương nào biết cách thích nghi với địa phương đó về địa thế, phong tục, tập quán, nghề nghiệp từng vùng, dân địa phương sẽ không nghi mình là mật thám. Thấy mình chống Pháp, người nông dân hào hiệp miền Nam còn che chở giúp đỡ cho nữa, kể cả anh hương quản, một thứ công an địa phương thời Pháp thuộc. Tù nhân không được phép để tóc dài. Do kinh nghiệm bị bắt lại của những người đi trước, lần này phân công hẳn một người phụ trách làm hai mươi lăm mái tóc giả, làm rất đơn giản, bên trong là mũ nồi bằng vải, ngoài là lớp dầu rái – lấy ở cây dầu thường để sơn và xảm thuyền – rồi đính tóc dài lên. Ai đi làm cũng phát gạo hằng ngày, cơm thừa kín đáo phơi khô, dự trữ tại vài kho kín. Kinh nghiệm cho hay chớ dấu vào một kho duy nhất, lỡ chó săn của các thầy, chú – gardiens – đánh hơi thấy là khánh tận lương khô, kế hoạch lỡ dở. Ống bương trước khi đựng nước ngọt phải ngâm kỹ cho hết mùi hôi và phết dầu rái ở hai đầu cho kín. Người đứng đầu điều khiển mọi lao tác này rất can trường, kinh nghiệm vượt ngục đầy mình. Anh vốn là một tướng cướp bị bắt, nhưng là thứ cướp anh hùng hảo hớn đặc biệt của miền Nam. Vị quân sư tổng hợp mọi tin tức tình hình trong đảo là một nhà trí thức. Người nào được cai tù phân công đi rừng làm dầu rái, người đó ăn cắp dầu để quét vào vải bọc thuyền và làm buồm. Vải đó là quần áo dư tháo ra và vải mua thêm nơi gia đình các thày, chú coi tù. Vải chỉ sơn phết hai lần dầu là dầy cộm và cứng như gỗ, nước không thể thấm được. Thuyền hai buồm, buồm lớn bề cao bốn thước. Buồm nhỏ chỉ bằng một phần ba buồm lớn. Cuộc sửa soạn kéo dài tám tháng. Đám nhân vật đó chọn thời gian vượt ngục vào tháng Mười Hai, lợi dụng gió Đông Bắc. Họ tránh mùa gió Nam – từ tháng Tư đến tháng Chín – vì gió này thổi mạnh có thể đưa thuyền lạc hướng ra khơi Thái Bình Dương, chết đói chết khát giữa khoảng trời nước mênh mông ấy, hoặc dạt vào Vũng Tàu đầy dẫy những Tây đầm, hoặc dạt vào Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang cũng vẫn khó tránh khỏi bị bắt lại. Nương theo gió Đông Bắc này, lái khéo, thuyền họ sẽ tới Cà Mau, hoặc nếu như có phải lảng tránh tàu tuần tiễu Pháp mà lãng đãng xuống vùng Vịnh Thái Lan thì khoảng này sóng yên biển lặng, có thể lái vào một đảo nhỏ nào đó thuộc Cao Miên.

Vào một ngày đẹp trời, tổng hợp được đủ dữ kiện thuận tiện về con gió, con nước và tình hình canh phòng bờ biển, nhà trí thức quân sự quyết định ngày vượt ngục vào hai hôm sau. Những cây mây đủ loại thích hợp cho từng loại công việc đã được chú ý từ trước nay được đánh dấu. Mọi công việc sẽ răm rắp theo đúng thứ tự. Kể cả chỗ ngồi của từng người trên con thuyền chưa được làm cũng đã định trước. Đúng hôm đi, năm giờ chiều ăn cơm xong, năm giờ rưỡi điểm danh; tối vừa lên đèn, mọi hoạt động khởi sự như thường lệ: sòng bạc của anh em bắt đầu mở, đám hát bội của anh em sửa soạn trình diễn, đám nấu rượu lậu bắt đầu sửa soạn nồi và ống trắm (gạo nấu rượu ăn cắp của kho). Thế là nhóm vượt ngục kẻ trước người sau, cách nhau chừng mười lăm phút lẳng lặng ra khỏi bagne. Công việc phân công của từng nhóm thực hiện cực nhanh và ăn khớp tuyệt đối. Chặt mây lớn làm khung thuyền, chặt mây nhỏ - mây cát – làm dây buộc và dây khâu vỏ thuyền (vải sơn dầu rái). Chặt hai cây tre cho hai cột buồm. Khoảng mười hai giờ đêm, thuyền đã ráp xong và thả xuống nước. Kiểm soát thấy nước không thấm vào thì bắt đầu chuyển gấp lương khô và nước ngọt lên thuyền cùng mái chèo và các sào chống. Bốn người lên thuyền phía trước, hai người giữ buồm – vẫn còn cuộn lại – tất cả những người khác khom lưng đẩy thuyền. Cho tới lúc thuyền có thể nương sóng mà ra khơi, anh chỉ huy mới ra lệnh từng người lên thuyền ngồi đúng vị trí đã định trước của mình. Bắt đầu bơi thuyền theo gió cho tới khi anh chỉ huy thấy thật đúng hướng rồi mới cho lệnh mở buồm. Tất cả đều biết rằng nếu rủi gặp gió quần và sống cứ đẩy thuyền vào bờ, hai giờ sáng vẫn chưa ra khỏi bờ biển, thì đành phải phá thuyền rồi dìm tạm phi tang xuống biển. Nói là tạm phi tang vì trước sau sóng biển cũng bốc nổi tang vật lên mặt nước, đưa dạt vào bờ dưới mắt các thầy, chú đi tuần hằng ngày. Tại sao hai giờ sáng chưa ra khỏi bờ biển phải phá thuyền ngay? Vì phá thuyền và dìm cho tạm phi tang cũng phải mất một giờ.

Ba giờ sáng ở bờ biển, nhìn lên bầu trời đã bừng sáng dần, phản chiếu xuống ánh nước lân tinh. Nếu như thất bại không vượt thoát ra khơi, đám tù đó phải rảo cẳng về trại tức khắc để lấy lại hơi thở, vẻ mặt điềm tĩnh vào năm giờ sáng là lúc toàn trại đã thức giấc. Nhưng đám nhân vật đó đã thành công trong chuyến vượt ngục! Họ lênh đênh ba ngày trên biển và tới được vùng bờ biển Cà Mau. Thực ra chỉ cần một ngày một đêm, nhưng hải trình họ đi cũng là hải trình của tàu từ Bangkok, từ Singapore đi Sài Gòn rồi Hồng Kông; hoặc ngược lại, những tàu từ Hải Phòng tới Sài Gòn qua Côn Đảo rồi cũng đi Bangkok hay Singapore. Hễ thoáng thấy ống khói tàu ở chân trời là phải lái thuyền lảng xa. Lương khô và nước chuẩn bị cho mười ngày, ba ngày thuyền đã cập bến, thật suôn sẻ. Tất cả những chuẩn bị khi lên đất liền đã thật chu đáo, vậy mà sau đó hai anh bị bắt lại. Hai anh quá chủ quan, từ Cà Mau về Vĩnh Long mon men tìm cách thăm gia đình, bị một anh hương quản bắt được đem nộp quan chánh án Vĩnh Long. Ông chánh án này vào làng Tây nhưng ghét Tây. Anh hương quản thưa: “Bẩm quan làng, chúng con bắt được hai tên Cộng sản!” Ông chánh án quát: “Thế nào là Cộng sản?” Thuở đó hễ nổi dậy chống chính quyền bất kỳ bằng hình thức nào là bị gán ngay cho hai chữ Cộng sản liền. Tù vượt ngục hẳn cũng là Cộng sản thôi, nhưng hỏi Cộng sản là gì thì làm sao mà anh hương quản định nghĩa cho được. Anh ta lúng túng không biết đáp sao, ông chánh án quát: “Thôi về!” Thế là hương quản líu ríu về. Sau đó ông chánh án thả hai anh tù vượt ngục.

Ba ngừng lại mấy giây rồi nói với Phượng:

- Con có biết không, câu chuyện không hề bịa đặt vì ông chánh án đó tên là Khiết, ba có quen từ thuở còn là ký giả viết cho tờ Opinion. Ông ta có tiếng là ngang bướng, dĩ nhiên thực dân Pháp không ưa nhưng chẳng làm gì được, ông là dân Tây mà. Một lần vui câu chuyện ba hỏi lý do, ông đáp tỉnh bơ: “Thì mình không chống thực dân, người ta chống cho mình, còn làm khó dễ người ta làm gì!”

Cuộc nói chuyện giữa hai cha con lần này đã kéo quá dài, từ sau bữa cơm chiều bảy giờ tối – mười giờ khuya rồi! Ba mệt, che miệng ngáp, đu đưa chiếc xích đu như gắng làm cho mình tỉnh ngủ, ba nói để kết thúc câu chuyện:

- Ba đã nói cho con hay rồi đấy, ba đọc chương vượt ngục đó vào lúc tinh thần cực kỳ trống rỗng ,toàn cơ thể như muốn sụp xuống. Những tình tiết của cuộc vượt ngục cứ lần lượt rót đầy ý nghĩa sự sống vào ba cho đến lúc đầy ắp lúc nào không hay. Khi mình về già, mình ưa mủi lòng hoài niệm những gì đã làm, hoặc toan tính làm thuở còn trẻ. Chương Tám thuật lại chuyện vượt ngục này giúp ba sống lại cả một thời bị đầy ải tại Côn Đảo. Ba vẫn nghĩ những hạnh phục, những khổ đau của cả một giai đoạn lịch sử phải được cô đọng, ghi chép lại thành một viện bảo tàng chữ nghĩa như vậy cho chính những người trong truyện nhận lại mình, sống lại mình, cho người đồng thời có được cái nhìn phong phú hơn về thời đại mình sống, cho đám con cháu sau này thấy rõ một giai đoạn lịch sử đã qua của cha ông. Phải thế mới được! Một ngọn đèn có thể chiếu sáng cho ta thấy cả một vùng, một tác phẩm có thế chiếu sáng cho ta thấy cả một thời đại. Riêng ba, thiệt tình mang ơn ông ta vì thế!

Một lần nữa ba che miệng ngáp. Im lặng. Ba thiu thiu ngủ.

4

Chuyện ba còn dài! Có lẽ ba giờ chiều rồi. Một em bé, con bà chủ nhà, mang lên căn gác xép cho Phượng bình nước uống. Bà chủ nhà, cũng là thành viên ban tổ chức, vốn là chỗ rất thân tình với má, vì vậy Phượng mới được dành đặc biệt cho ở căn gác xép này, y hệt một người của gia đình. Phượng nghĩ đến sáu chiếc bánh chưng vuông vắn xinh xẻo và lọ ruốc sỏi trong chiếc sắc mở ngỏ kia, nhưng Phượng chưa thấy đói. Phượng chợt thấy nhớ… mình – nhớ những bức thư mình đã viết đã gửi. Phượng với tay lấy quyển vở. Những hàng chữ quen thuộc! Phượng đọc lá thư thứ hai, sống lại những cảm nghĩ của mình ngày đó.

Ngày 28-6-1975

Ông kính mến, tôi đang ngồi ở góc một căn phòng đầy những tiếng ồn ào cười nói của những người xa lạ. Nhớ đến ông! Ngậm ngùi! Bây giờ ông đang làm gì nhỉ? Có khi nào ông nhớ đến tôi, con bé đã gửi thư cho ông? Ông có ngạc nhiên, ông có bực mình? Có khi nào ông nghĩ: “Ồ con bé vớ va vớ vẩn hẳn đang cần một người thương để làm nũng, cần một người bạn để tâm tình!” Thật ra thì ông nghĩ sao cũng đành chịu vậy thôi, tôi không dám kể lể với ông đâu. Đã từ lâu tôi cắt đứt liên hệ với những bạn xung quanh thân hay sơ. Nghĩ đến ông như một tin yêu mong manh cuối cùng. Nghĩ có thể mình ra đi bất ngờ lúc nào không hay nên đã đột ngột biên thư cho ông. Ông có nhức đầu? Tôi muốn được viết cho ông hoài, viết cho đến ngày… Mà thôi, với những giờ phút còn lại, tôi đang biên thư cho ông, và ông còn nhận, thế là đủ rồi. Ngày xưa tôi vẫn thường ao ước được gặp ông, được đàm thoại với ông, thì ngày nay sau buổi diễn thuyết tại trường tôi, ông nhận diễn thuyết tại thính đường Quốc gia Âm nhạc Viện về một đề tài văn chương khác, dĩ nhiên tôi nghỉ học và đến nghe chứ! Nghe ông lần thứ hai đó, nhỏ bạn ngồi bên đã một lần làm tôi gián đoạn ý tưởng với ông. Nghe ông nói: “Đã đành tờ giấy nguyên thủy trắng phau đẹp hơn tờ giấy ra công tẩy xóa cho không còn vết bẩn. Nhưng với con người thì lại khác, bị bỏng tay rồi sợ lửa ý vị hơn người chưa biết lửa nhưng cố tránh lửa theo lời khuyên của cổ nhân.” Nhỏ bạn biểu đồng tình: “Đúng vậy, lời hay ý đẹp của thánh nhân không thể hoàn toàn dạy khôn được người đời một khi người đời chưa được dịp tự dạy khôn chính mình bằng kinh nghiệm.” Tôi đã gián đoạn ý tưởng với ông để bâng quơ lòng tự nhủ lòng: “Người ta chỉ tìm thấy chân hạnh phúc khi quên hạnh phúc của chính mình!” Khi buổi diễn thuyết sắp kết thúc, thoáng nghĩ trong giây lát tôi sẽ ra về, rõ ràng có nhỏ bạn đi bên mà sao vẫn đơn côi vô cùng. Lúc đó tôi thoáng tự hỏi tại sao mình tới đây ngồi, và cũng không rõ tại sao tự nhiên có giọt nước mắt rơi xuống. Ông ạ, hôm đó tôi ra về bên nhỏ bạn, nó nói huyên thuyên những gì tôi nào có nghe. Bầu trời như thấp hơn và xám hơn. Sao tôi thèm làm cụm cây nhỏ đồng thời cũng thèm một bàn tay vỗ nhẹ trên đầu: “Đời thật khắc khổ, em nhỏ, thật khắc khổ!” Kính chúc ông có một chiều êm đẹp.

Kính thư, Ph.

CHƯƠNG BA
Ngã Rẽ của Ba

1

Nằm bẹp gí trên giường, Phượng thấy như cả thân mình chỉ còn mỏng như tờ giấy. Chính mối sầu nặng thành núi Thái Sơn đã làm nên điều đó. Phượng ý thức rõ: sự mong manh thiếu nữ của mình là sao chống nổi mối sầu quá lớn. Một người con gái mong manh như Phượng làm sao chịu được nỗi thống khổ ra đi không chắc gì có ngày tái ngộ. Ba còn trong ngục tù Cộng sản; má, chị Trang võ vàng lo lắng. Chắc gì rồi đây Phượng còn được gặp mặt những người thân yêu đó. Bỗng Phượng muốn trở về, trở về Sài Gòn tức khắc. Giờ này trở về với má, với chị, đợi ngày Ba được trả lại tự do còn kịp. Tối mai bước chân xuống ghe là bước chân sang một kiếp khác không bao giờ còn tìm lại được những khuôn mặt thân yêu ở kiếp này. Giờ đây còn nằm ở Vũng Tàu, chưa xuống ghe vượt biên, Phượng còn thuộc vào kiếp này. Má! Chị Trang! Sao kiếp người Việt Nam trui luyện thống khổ đến thế?! Tối mai xuống ghe, bước sang ranh giới một kiếp khác, mình như chết đi đối với ba, má, chị Trang, ông nhà văn. Và những người đó cũng như chết đi với Phượng. Thì vĩnh viễn chẳng còn được gặp nhau nữa là chết chứ còn là gì nữa?! Quả thực có nhiều hình thức chết! Chuyện ba còn dài, phải, chuyện ba còn dài, nghĩ tiếp về ba là sống với ba, với má, với chị Trang, với ông nhà văn, dù mình ở bất kỳ đâu. Chưa chết, chưa phải là chết. Mới khoảng bốn giờ chiều, Phượng nào thấy đói. Phượng có cảm tưởng mình có thể vững vàng nhịn ăn như vậy lâu, lâu lắm. Trong bóng tối loãng và bềnh bồng của căn gác xép đóng kín, Phượng thấp thoáng nhìn thấy một khía cạnh khác của mình: tâm hồn Phượng, cơ thể Phượng còn là vùng có lúa trổ bông, có cây trái, có hương hoa… Phượng thoáng nghĩ tới Họa, người con trai theo đuổi Phượng từ thuở cả hai còn theo trung học. Họa đã ở bên kia trời Âu, vẫn liên lạc với Phượng đều bằng những bức thư, những món quà, một năm khoảng ba, bốn lần. Vì một liên tưởng nào đó, Phượng nghĩ đến sự tích Tư Mã Tương Như xưa học rộng đàn hay, đã quyến rũ được người góa phụ tuyệt sắc Trác Văn Quân. Trác Văn Quân càng đẹp não nùng vì là gái góa – chắc chắn vậy. Việc nàng góa phụ đẹp não nùng đó bỏ thủ tiết, theo chàng Tư Mã tài hoa, cả thế giới nhân loại nhiệt liệt tán thành tưởng thưởng. Tình yêu đồng nghĩa với

Đẹp và Đẹp bao giờ cũng là sức mạnh huyền bí của hạnh phúc yêu đương. Đôi cánh trữ tình phơi phới đó của Phượng là tặng phẩm của ông nhà văn đấy, ông ta nào có hay điều đó. Và Phượng cảm thấy yên lòng nghĩ tiếp về ba.

2

Phượng yên lòng nghĩ về ba. Tháng 8-1945

Nhật vừa đầu hàng, chính phủ Trần Trọng Kim bèn điện ra đảo yêu cầu thả một số tù chính trị. Khi quân

Nhật ở đảo bắt đầu rút đi, nhân một chuyến xà-lúp của một số công chức cũng bỏ đảo vào đất liền, ba và khoảng năm mươi người tù khác được họ nhận cho về cùng chuyến. Từ xà-lúp bước lên cảng Nhà

Rồng đã là 28-8-1945, Sài Gòn cướp chính quyền được ba ngày rồi. Ba và đám tù nhân được cam-nhông chở về tòa Đốc Lý, lúc đó là trụ sở Ủy ban

Nhân dân. Nơi đây đương thời hỗn quân hỗn quan, tuy nhiên là tù chính trị ở đảo về, mọi người cũng được tiếp đón nồng hậu, được cấp ngay giấy chứng nhận thay căn cước. Quen nghiệp làm báo cũ, ba lại gặp ngay người bạn thân tín cũ, bác Phác, người đã từng hoạt động như con thoi liên lạc giữ ba với các địa bàn Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu. Ba và bác Phác giúp chính quyền cách mạng chuyển cơ sở hãng thông tin DOMEI của Nật thành Việt Nam

Thông tấn xã. Phong độ ký giả tự do phóng khoáng đi đó đi đây, chè chén tiệc tùng không còn. Không khí thuở ban đầu cách mạng đượm màu khắc khổ và ba còn tin cẩn những người Cộng sản lãnh đạo.

Ba nhận tin tức tiếng Pháp, đối chiếu, cắt xén, dịch; ôi chao làm việc nhiều khi mười sáu giờ một ngày, ấy là thay phiên nhau đấy. Và làm việc không lương. Cơm nhà vác ngà voi! Ngày 23-9-1945 kháng chiến Nam Bộ bùng nổ, Thông tấn xã thoạt dời lên Thủ Đức, rồi Biên Hòa. Lúc đó cả cơ quan đã được tổ chức thành chi đội vừa chiến đấu vừa làm việc.

Ba có chứng kiến cảnh những người nhà giàu chạy thoát khỏi Sài Gòn về lục tỉnh, chính họ cũng không biết là sẽ tản cư bao lâu, họ mang theo ít quần áo sang trọng, đồ trang sức quý, những tập album đẹp, máy hát và những đĩa hát họ ưa thích. Tản cư về miệt vườn không việc gì làm, họ vặn máy hát nghe chơi.

Họ bị bắt giữ về cách sống nhàn hạ xa hoa tương tự. Khi bị thẩm vấn, họ khai lý lích, toàn thuộc hạng nhà giàu, hay công chức các cơ quan Pháp cũ. Các đảng viên Cộng sản từng bị khủng bố trong vụ Nam Kỳ khởi nghĩa tháng 11-1940 biểu lộ ngay thái độ hằn học trả thù. Quân thực dân Pháp tiến theo sự mở đường của đạo quân Anh-Ấn - dưới quyền của tướng Anh Gracey - trong đám những người giàu bị bắt giữ vì ngờ là Việt gian đó, có toán bị lực lượng kháng chiến chuyển tới Thủ Đức, rồi lại chuyển đi Biên Hòa nhốt ở kho đồn điền cao su, bên ngoài du kích gác. Và trong bầu không khí bừng bừng toàn quốc, Quảng Ngãi xử bắn Tạ Thu Thâu, tận diệt những “Việt gian” – công chức thời Pháp. Tại các vùng quê miền Bắc, hễ du kích khám hành trang đám người tản cử thấy quần áo tuy xếp rời mà đủ ba màu xanh, trắng, đỏ - màu cờ Pháp - là ngờ ngay “Việt gian”, có thể bị thủ tiêu liền. Miền Nam dù thẳng thắn khoáng đạt cũng không tránh khỏi những chuyện thủ tiêu tương tự. Do đó mầm phân hóa bắt đầu: Đã sớm có người từ Sài Gòn tới khu Rừng Lá, không tiếp tục tản cư về ngả Phan Thiết hay Thủ Dầu Một, mà ngoặt sang Bà Rịa để rồi trở về Sài Gòn. Ba vẫn tin theo sự lãnh đạo kháng chiến của Đảng Cộng sản và tiếp tục làm việc hết mình trong chi đội Thông tấn xã. Đầu 1946, Việt Nam Thông tấn xã một lần nữa chuyển tới Phan Thiết, ít lâu sau thì giải tán vì thiếu hết mọi phương tiện. Ba sang một cơ quan quân sự phụ trách về thông tin tuyên truyền tại khu Tam Giác Sắt, ba bị lùa vào dịp này với hơn một trăm dân chúng khác. Bị giữ ở Tây Ninh một ngày, đưa về trại thanh lọc Gia Định hai ngày, sau đó ba được tha vì Pháp tin ba là thành phần trí thức cũ tản cư. Điều này phúc lớn cho ba – ba vẫn nói vậy – ba tuột khỏi guồng máy Cộng sản danh chính ngôn thuận. Ba lấy má vào giữa năm

1948 và anh Trung chào đời 1949, chị Trang năm

1951, Phượng năm 1953, đứa nọ cách đứa kia hai năm. Nhưng theo lời kể của ba thì sự chuyển hướng của ba – thật sự biết sợ Cộng sản – là vào hôm ăn sinh nhật đầu tiên của Phượng, có sự hiện diện của bác Lam, người bạn cùng học ở Chasseloup-Laubat, cùng thi và cùng đỗ tú tài với ba.

3

Ba đỗ xong tú tài thì ra làm báo, bác Lam qua Pháp học về kỹ sư công chánh. Được một năm bác Lam gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, viết báo Le Peuple bên đó, đả kích thậm tệ chính sách đàn áp tàn bạo của thực dân kể từ sau vu Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930. Bác bị trục xuất khỏi Pháp. Dĩ nhiên bác không dám trở về Việt Nam, bác sống lưu vong trên đất Tàu khoảng 1936-1941: Thoạt tới Hồng Kông, về Việt Nam vào cuối năm 1941. Bác nghĩ Nhật đã nhảy vào Đông Dương, không còn sợ chính quyền thực dân bắt giữ. Nhưng về đến nước, bác thấy không ổn. Hai chính quyền Pháp-Nhật song song trên đất nước thế kia, anh nọ gờm anh kia, và cả hai cùng gờm những người hoạt động cách mạng chống thực dân và phát-xít, chúng để mình yên sao được! Một lần nữa bác liều lĩnh đi, lần này tới Tân Gia Ba. Bác giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, năm năm sống ở Tàu nói thạo đủ mấy thứ tiếng Quan Hỏa, Phúc Kiến, Quảng Đông. Lần tới Tân Gia Ba này, bác làm quen với một mỹ nhân quê ở Thượng Hải. Người thiếu nữ Trung Hoa đẹp quý phái và có học thức đó thành bác Lam gái. Mãi đến sau cuộc Cách Mạng Tháng Tám – 1945 – hai bác mới về Việt Nam ở ngay quê nhà vùng cửa biển Cần Giờ. Thỉnh thoảng hai bác mới lên Sài Gòn thăm các bằng hữu cũ trong số có ba.

Bác Lam không ở Sài Gòn, không liên lạc với đám Đệ Tam ở đây, như vậy là bác hoàn toàn rời bỏ chính trị. Nhưng phải đợi mãi đến hôm ăn sinh nhật năm đầu của Phượng (1954) bác mới thổ lộ với ba trong lúc ngà ngà say, lý do vì sao bác bỏ chính trường. Bác nói khi bị Pháp trục xuất, bác về Hồng Kông rồi qua Thượng Hải buôn bán kiếm ăn qua ngày, bác còn muốn hoạt động theo khuynh hướng Đệ Tam. Nhưng qua đi một thời gian, đứng ngoài khách quan nhận xét phương châm hoạt động của Đảng Cộng sản Tàu, rồi suy nghĩ về vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh (12-9-1930) tại nước nhà, bác thấy vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh thất bại là lẽ đương nhiên, cũng như Đảng Cộng sản Tàu rồi cũng phải chuyển biến thôi; tất cả những thắng lợi nhất thời của họ chỉ đưa đến sự thất bại cuối cùng không thể tránh được, nếu họ chỉ đơn giản quá đề cao công nông và coi rẻ trí thức. Một chính sách bất bình thường như vậy xây dựng được cái gì dài lâu?! Khi từ Tân Gia Ba trở về Việt Nam, bác Lam ngao ngán thấy Đảng Cộng sản Việt Nam nhất thiết rập khuôn y chang Đảng Cộng sản Tàu. Bác cũng không tán thành chủ trương cách mạng thường trực của Đệ Tứ. Quá khích!

Có thể trước đây ba cũng đã nghĩ như bác Lam. Khi nghe bác Lam nói, ba nhớ ngay đến hoạt động của Cộng sản ở Côn Đảo, cách họ truyền tin, truyền chỉ thị, tổ chức học tập, kết nạp đồng chí, thành lập chi bộ nhà tù… Ba chợt rùng mình thấy hết khía cạnh nguy hiểm, xảo quyệt có tổ chức của họ. Ba ôn lại những trại tù thuở ban đầu của họ, những tin tức thủ tiêu người, hay lập Tòa án Nhân dân nhưng đã đóng sẵn cọc xử tử.

Hiệp định Genève 1954. Các địa điểm tập kết từ miền Nam dân chủ ra miền Bắc độc tài: Trắc Bằng, Rạch Giá cho khu Tám, khu Chín tức các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang; Xuyên Mộc, Phan Thiết cho khu Sáu và khu Bảy, tức các tỉnh miền Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và miền Nam

Tây Nguyên; Quy Nhơn cho khu Nam gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột. Thành phần tập kết ra Bắc: các lực lượng vũ trang, các cán bộ chính trị cấp tỉnh và huyện – thành phần chủ chốt – nhưng đồng thời cũng gồm những thành phần bất hảo, những thành phần Đảng không tin cẩn: đám công chức cao cấp cũ còn uy tín với dân chúng, nếu để lại họ bị địch sử dụng mất, đám gá bạc lưu manh từng lang thang khắp các tỉnh, quen mặt nhiều cán bộ cũng đã từng lang thang trên bước đường công tác, nếu để lại, họ sẽ nhận diện ra những cán bộ được đặt ở lại, hoạt động tại các cơ sở nằm vùng. Những thành phần bất mãn không được tin cẩn này tập kết ra Bắc sẽ được tập trung tại những trại sản xuất ở những vùng thượng du heo hút, thật biệt lập, chẳng qua cũng là một thứ tập trung trá hình mà thôi.

Ba có thể thuộc cả hai thành phần Đảng không ưa, không tin cẩn vì ba trí thức quá, tư sản quá, đã vậy lại quen quá nhiều các nhân vật cao cấp cũ, quen quá nhiều cán bộ Đảng trong thời gian kháng chiến, nắm quá nhiều rường mối tổ chức mạng lưới thông tin. Tháng 9-1954 là đợt tập kết ra Bắc đầu tiên. Ba và Bác Lam đã cùng đồng ý là trong vòng hai năm sau hiệp định chia cắt làm sao mà có thể tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất hai miền. Ngày 20-7-54, ngày ký hiệp ước chia cắt, bác Lam đã tới đón ba về quê bác - Cần Giờ - để lánh những con mắt theo dõi của đám cán bộ Cộng sản nằm vùng mà ba và bác dư biết là có đầy dẫy. Số đồng bào Công giáo thì lẩn mặt vào các khu nhà thờ, nhà Chung. Mãi tới tết âm lịch năm đó, ba mới về Sài

Gòn với má và lũ con. Kể từ đấy trở đi, ba luôn luôn tỏ ý nghi ngờ những gì mang vẻ đao to búa lớn, kinh thiên động địa, mà chỉ yêu những gì hữu ích hiền hòa. Ba chuyển hướng gia nhập một công ty buôn bán bằng ghe lênh đênh trên sông Hậu, từ Tân Châu đến Sa Đéc. Thì cũng toàn là những bằng hữu đã quen từ thuở viết báo. Thỉnh thoảng ba theo đi một chuyến gọi là để thay đổi không khí. Ba không chú ý tới những cán bộ thời kháng chiến cũ, thảng hoặc có gặp một khuôn mặt cũ kỹ nào thì cũng để cho ngỡ ngàng qua đi. Có thể họ là những cán bộ được bí mật đặt lại nằm vùng, có thể là họ cũng nghĩ về ba như vậy.

4

Ba trốn thoát tập kết nhưng bác Phác, người bạn đồng chí cũ của ba thì không. Năm 1948, ba bị lùa từ vùng Tam Giác Sắt về Sài Gòn, bác Phác quê ở Bạc Liêu – anh em vẫn gọi đùa là “Công tử Bạc Liêu” – chuyển công tác tới vùng căn cứ địa Quảng Ngãi và Quy Nhơn hoàn thành các mạng lưới tin tức thu thập từ khắp các quân khu, nhận những tin tức chỉ thị từ Hồng Kông gởi về - bằng mật mã, dĩ nhiên. Bác được kết nạp vô Đảng vào dịp này. Dĩ nhiên bác tập kết ngay tại địa điểm Quy Nhơn từ đầu tháng 9-1954. Tuy được kết nạp, nhưng “công tử Bạc Liêu” chưa được Đảng tín nhiệm cho lắm, nên thoạt chỉ được cắt cử đi tổ chức các cơ sở hải quan ở Đông Hưng, Cẩm Phả, Hòn Gai, Quảng Yên, Hải Phòng. Sau khi thí điểm đấu tố cải cách ruộng đất năm 1953 – miền núi là Thái Nguyên, miền đồng bằng là Thanh Hóa – sang 1956 thì Đảng phát động phong trào cải cách ruộng đất toàn diện. Bác Phác được tuyển đi dự lớp học tập chính sách, đường lối, biện pháp cải cách ruộng đất, rồi được biên chế vào một đội cải cách ruộng đất, địa bàn hoạt động là huyện Tiên Lãng ngay sát thị xã Kiến An. Như vậy là bác được Đảng tín nhiệm rồi đó.

Chết nỗi tính chất “công tử Bạc Liêu” nơi bác, Đảng không tiêu diệt được.

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ

Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.

Rất nhiều người Tàu Triều Châu! Phù sa Cửu Long ăn lan ra biển mỗi năm cả trăm thước. Đất bùn – nê địa – khi rắn chắc, gieo hạt gì cũng chỉ tuần trước, tuần sau là xanh om cả vùng. Ra khỏi thành phố Bạc Liêu đi nề nẻo xã Vĩnh Châu, trời ơi, biển nhãn! Trên trời, dưới nhãn. Người ta giăng lưới cả rừng nhãn đó để giữ khỏi bị chim ăn. Quờ tay đâu cũng thấy gạo thóc. Mùa làm cua muối thì lấy cua làm thứ nước chấm thịt ba rọi hay tép luộc. Thức ăn ê hề, ăn suốt ngày. Đặc biệt có thứ bánh xèo túi làm bằng bột gạo, nhân đậu xanh và giá, trên mặt vài ba con tôm. Khoảng tám giờ tối còn ăn bữa cháo đặc cuối cùng với trứng muối, cải muối – xá pấu – và cá chốt kho tiêu. Làm gì có phân ngôi tớ chủ! Người làm và chủ ăn chung mâm, liên lạc với nhau suốt đời như người cùng gia đình.

Từ ngày được biên chế vào đội cải cách ruộng đất, suốt ba tháng vừa học lý thuyết vừa thực tập, bác sống trong một bầu không khí hừng hực căm thù khác hẳn với bầu không khí hào sảng cởi mở tại quê hương. Thoạt bác cũng tin theo lý thuyết là tính chất của địa chủ thì phải bóc lột, tham tàn, dâm ô, ti tiện. Nhưng đến khi vào thực tập, bác nhận thấy không đúng như vậy. Vào khám nhà địa chủ thì cũng chỉ thấy lèo tèo vài cái áo dài chẳng hơn quái gì nhà anh trung nông. Điểm buộc tội nào bác cũng thấy gắng gượng, ép buộc. Có địa chủ Việt Nam nào hoàn toàn “phát canh thu tô” như bên Tàu đâu! Có địa chủ Việt Nam nào có lực lượng vũ trang riêng trong nhà để chống cướp, chống các lực lượng địa phương khác như bên Tàu đâu! Địa chủ Việt Nam chẳng có người nào có nhiều ruộng đến thẳng cánh cò bay. Với số ruộng họ có, họ cũng vừa làm vừa thuê người làm, chỉ có tiền, có vốn nhiều hơn và có cho vay lấy lãi. Bất quá xếp họ vào hạng phú nông đã là quá. Chết nỗi – bác Phác nhận định – họ hoàn toàn rập theo phương pháp cải cách ruộng đất của Tàu và máy móc theo chỉ thị của cố vấn Tàu là cứ một ngàn dân phải có tỷ lệ bao nhiêu phú nông, bao nhiêu địa chủ.

Bác sinh trưởng ở Bạc Liên, rồi lại ăn học ở Sài Gòn, nếp sống tiểu tư sản thành thị làm bác thấy ghê tởm sự nói dối, sự đóng kịch, sự tuân theo một chiều, buộc tội một chiều. Một bần cố nông gái được đưa ra kể tội địa chủ: “Tôi bưng mâm cơm lên, nó bóp vú, mâm cơm đổ, nó rút guốc đập lên đầu tôi.” Lời tố cáo đó đúng hay không, hay đúng tới mức độ nào – không cần biết! Cả đấu trường hô vang: “Đả đảo địa chủ!” Cách thức lãnh đạo quần chúng như vậy khiến quần chúng còn ngu hơn cả lũ cừu của chàng Panurge nữa. Bác không chịu nổi.

Một thằng lỏi đứng ra kể khổ: “Thằng địa chủ kia, mày hãy ngẩng đầu lên nhìn tao!” (Địa chủ đứng trước tòa án để nghe kể khổ, luôn luôn khoanh tay, mặt cúi gằm.) “Mày bắt tao dậy từ bốn giờ sáng thổi cơm, nấu nước cho lũ con mày, mày còn hắt nước vào mặt tao, con mày cầm luôn cả cái chậu thau đập vào đầu tao cho chảy máu.” Toàn thể đấu trường chỉ đợi dứt lời là hô lớn: “Đả đảo địa chủ!” Thằng lỏi ôm mặt khóc hu hu. Bác Phác chỉ thoáng quan sát là biết nó được học tập chỉ dẫn trước, nói đến chỗ đó là phải khóc. Nó đóng kịch vụng quá, nhưng trong phong trào rộng lớn lúc đó, thuở đó ai mà dám nói. “Đả đảo địa chủ!” Người ta hô vang đấu trường, chỉ cần vậy. Từ tâm của bác Phác – “công tử Bạc Liêu”, tiểu tư sản thành thị - phẫn nộ trước sự bày trò giả dối, dã man đó. Tới phiên bác thực tập, bác không bắt rễ được vì kể cả những người thật là thành phần bần cố nông vẫn không sao tránh được có liên hệ xa gần với địa chủ, phong kiến, chính quyền phản động cũ. Xác định thành phần địa chủ cũng vậy, bác thấy rõ ràng những người giàu nhất huyện Tiên Lãng cũng không đủ tiêu chuẩn để xếp thành địa chủ. Sao nỡ tâm hạ sát người oan uổng như thế được! Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, dân chúng địa phương nào cũng sợ xanh máu mặt khi hay tin đã có cán bộ đội (đội cải cách ruộng đất) tới bắt rễ. Lời nói cửa miệng thời đó: “Nhất đội, nhì trời!”

Những khó khăn không thể giải quyết được (không tìm ra địa chủ, không tìm được bần cố nông đúng tiêu chuẩn để bắt rễ), bác Phác và nhiều người khác nữa xin đội giải quyết giúp. Nghe báo cáo thất bại hoài như vậy, ban chỉ huy đội hằn học, mỉa mai đặt câu hỏi: “Vì sao các đồng chí không tìm ra được tỉ lệ địa chủ như đã qui định?” Và chính ban chỉ huy đội cũng không giải thích nổi những dữ kiện và nghi vấn nêu trên. Điều đó càng làm họ thêm bực mình, không còn cách nào hơn là cả vú lấp miệng em, họ đập bàn quát: “Là đảng viên mà các đồng chí không vững lập trường!” “Các đồng chí có tư tưởng chống đối đường lối của Đảng!” Rồi họ lục hồ sơ của tất cả xem lại. Cả ba chục tên cùng ở thành phố, cùng là dân miền Nam tập kết từ Khánh Hòa trở vô, chẳng ai có liên hệ thân thích gì với người miền Bắc, và hầu hết là con cái đám công chức cao cấp thời Pháp. Sau cùng ban chỉ huy đội tập trung tất cả lại đập bàn hét lớn như hét với kẻ thù: “Các anh (không dùng hai chữ đồng chí nữa) từ khi học tập đến giờ không làm được việc gì cho Đảng cả, chúng tôi trả về cho Ban Cải cách Ruộng đất Trung ương, tùy Trung ương quyết định. Hồ sơ các anh, chúng tôi sẽ chuyển thẳng về Trung ương!” Sau đó cả ba mươi người ra bến xe đò Kiến An. Dân chúng nín thở theo dõi, công an vẫy xe, tài xế đích thân xếp chỗ. Xe về Hà Nội. Tất cả, nào có ai hay lũ “nhất đội, nhì trời” đó bị thất sủng rồi! Về Bắc Bộ phủ, bọn họ họp ba ngày nữa. Trung ương hỏi – họ đáp. Trung ương hỏi thêm cố vấn Trung Cộng, họ đáp bổ sung. Rút cục cũng chẳng giải quyết được gì. “Hồ sơ các anh, chúng tôi sẽ chuyển thẳng về Trung ương!” Lời nói đó của ban chỉ huy đội tại huyện Tiên Lãng còn vang vọng, nhưng không ai dám hỏi Trung ương là hồ sơ đã về chưa, vì ai nấy biết đó là cách thu hồi đảng tịch để đợi hạ hồi phân giải. Bởi vậy riêng đối với bác Phác, khi rời khỏi công tác cải cách ruộng đất – mà bác coi như cất được gánh nặng Thái Sơn trên vai – trở về sở Hải quan Hải Phòng, bác chỉ được xếp vào loại làm các công việc linh tinh, và dự sinh hoạt chi bộ như một bàng thính, không có quyền biểu quyết. Thái độ dè dặt của những người xung quanh khiến bác Phác nghi đã có sự phổ biến ngầm gì đây.

Giá như phong trào Cải cách Ruộng đất chỉ làm ở nông thôn thì dù có xử tử số địa chủ phú nông gấp đôi cũng không bị vỡ lở. Chết cái Đảng chạm vào cả đám cán bộ quân đội xuất thân từ nông thôn. Hầu hết là các cán bộ có công, có đạo đức, được cấp dưới quý mến cảm phục. Bị gọi về địa phương, thoạt họ tưởng được mời về để làm chứng một việc gì, nên có cần vụ và bảo vệ đi theo. Ai ngờ vừa về đến quê hương tới trình diện đội, đội tuyên bố tước quân tịch ngay vì là thành phần địa chủ có nợ (chưa phải là nợ máu) với nhân dân. Họ bị tống giam liền, và kinh khủng hơn nữa là ngay tối hôm đó lập tòa án kể khổ để xử tử ngay. Tất cả dân địa phương vào thời đó không ai dám đi đâu, tất cả túc trực ở nhà. Đội đã sắp đặt sẵn chương trình tòa án, chỉ gọi “ới” một tiếng là răm rắp đầy đủ. Cần vụ và người bảo vệ chứng kiến cuộc xử bắn xong rồi tức khắc về báo đơn vị. Hàng trăm ngàn vụ như vậy, toàn thể quân đội náo động. Tin tức lan truyền rất nhanh vì quân đội thường xuyên có liên lạc với nhau không bị cô lập như nhân dân. Đơn vị nào mất cấp chỉ huy như vậy cấp tốc báo lên Trung ương, đồng thời báo cả tinh thần hoang mang của quân đội. Sự hoang mang nơi quân đội rưng rưng đượm ngay màu khốc liệt cực kỳ nguy hiểm. Quân đội mà hoang mang đổ vỡ hoặc bùng nổ dưới bất kỳ hình thức nào sẽ thành một vết thương quá lớn cho khuôn mặt “vằng vặc” của Bác-Đảng (Bác muôn vàn kính yêu cha đẻ ra Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh). Do đó Trung ương vội cử một phái đoàn đi điều tra. Phái đoàn phát hiện ngay những sai trái tàn bạo. Trung ương thấy cần phải công khai nhận sai lầm để kịp thời xoa dịu, trấn an dư luận. Vì vậy ông Hồ nhân danh Chủ tịch nước (ông quên còn là Chủ tịch Đảng nữa) đứng ra nhận trách nhiệm về sự sai lầm đó. Báo chí, đài phát thanh phổ biến lời xin lỗi của ông. Mặt khác Đảng tổ chức những mít-tinh quần chúng, các cán bộ lãnh đạo phong trào Cải cách Ruộng đất tuyên bố sẽ thi hành kỷ luật những cán bộ có trách nhiệm, đồng thời phục hồi danh dự những người bị xử oan; cất chức Tổng bí thư Đảng là Trưởng ban Cải cách Ruộng đất Trung ương; Phó ban thì bị mất chức Trung ương Ủy viên… Những nạn nhân còn bị giam giữ được thả về, những người đã bị xử bắn, có phái đoàn tới xin lỗi gia đình và bồi hoàn những gì đã tịch thu… Nhưng vết thương thực sự bên trong vẫn rỉ máu, vết thương đó không bao giờ thành sẹo – bác Phác thấy rõ điều đó! Đảng còn bắt chước khẩu hiệu của Tàu “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”.

Các nhà trí thức biết tôn trọng con người, các văn nghệ sĩ bén nhạy tinh thần nhân bản bèn kết hợp lại làm bùng nổ vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Tất cả những vị đó cũng như hàng vạn hàng triệu các nhà trí thức, văn nghệ sĩ khác trên thế giới tự do đều còn quá ngây thơ để quên rằng lời nói của Lê-nin mãi mãi còn đó làm ngôi sao Bắc Đẩu định hướng bất biến: “Cuộc chiến đấu của ta với địch là cuộc chiến đấu sắt máu chỉ có thể một mất một còn!” Mọi nhượng bộ dân chủ, tất cả những chuyện hạ tầng công tác, tước đảng tịch… chỉ là trò bịp bề ngoài để kịp thời ve vuốt, vỗ về, trấn an. Những người trong Nhân Văn Giai Phẩm, cả những người không hề dính dáng tới Nhân Văn Giai Phẩm nhưng có tinh thần chống đồi đều bị lẳng lặng bắt đi an trí tại những nơi xa xôi kín đáo. Bác Phác quyết định rồi! Tuy nhiên phải đợi tới gần giữa năm 1959, nhân dịp bác được cử đi kiểm tra các cửa khẩu ở khu Bốn, khi tới cửa khẩu Ròn thuộc Quảng Bình, bác lên Tân Ấp nói là để xem có nên đặt thêm một trạm kiểm soát nữa không. Địa thế Tân Ấp nằm giữa khoảng rừng núi Trường Sơn trên một trục lộ nhỏ nối liền Lào-Việt, tới đây bác đi thẳng về ngả đèo Mụ Giạ, bắt sang địa phận Lào. Cứ thế dọc theo Trường Sơn về phía Nam gặp đường số 9 bác mới trở về địa phận Việt Nam qua Lao Bảo xuống Đông Hà, Quảng Trị.

Thế là bác đã trở về với ánh sáng tự do miền Nam, nhưng bác vẫn phải tìm một đường dây liên lạc cũ, xuất trình giấy công tác của mình, trong giấy có ghi: “Xin các cấp chính quyền địa phương hãy tích cực giúp đỡ đồng chí Nguyễn Phác hoàn thành nhiệm vụ.” Các “đồng chí” đưa bác vào Huế, cơ sở Huế giúp bác giấy tờ giả mạo hợp pháp có thể đi toàn miền Nam. Tới Sài Gòn bác dự định tìm đường đi Pháp, nơi có nhiều bạn thân, sống tuyệt tích giang hồ chừng ba bốn năm cho tới khi các mạng lưới truyền tin bí mật của Cộng sản ở miền

Nam quên khuấy hẳn… còn bác trên đời. Lúc đó bác mới trở lại sống nốt quãng đời còn lại trên mảnh đất quê hương – có thể là ngay tại Bạc Liêu. Tới Sài Gòn bác gặp ba, tá túc ngay trong nhà, tâm sự hết các nẻo tâm tình. Ba tận lực giúp đỡ, bác được cấp thẻ căn cước hợp pháp, ba lại quyết định trực tiếp trông nom những chuyến buôn đường thủy trên sông Hậu từ Tân Châu, Châu Đốc đến Sa Đéc ba năm liền 1959-1962. Bác Phác lại phụ tá ba như xưa, lần này là phụ tá kinh tế. Hàng mua từ bên Miên chất đầy ghe là lĩnh mỹ-a, bột ngọt, bún tàu (miến), đường thốt nốt, thuốc Bắc từ Trung Quốc bán sang Nam Vang… Những thứ đó theo ghe xuôi dòng sông Hậu từ Sa Đéc tới Tân Châu mang hàng bán sang Miên có thuốc lá Ruby, thuốc Tây, pin đèn, radio, vải… Với sự kín đáo, khéo léo và can trường nữa, bác Phác thỉnh thoảng làm một chuyến thuốc phiện lậu. Nghệ thuật ngụy trang của bác là giấu trong thùng mật ong. Suốt ba năm lênh đênh, ba và bác không hề bị thất bại chuyến nào. Cuộc đời lưu động trên sông nước miền Hậu Giang này giúp bác đỡ phải đi ngoại quốc mà vẫn mai danh ẩn tích cho đến lúc coi như tự xóa được hộ tịch với Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó ba và bác trở về Sài Gòn, cổ phần công ty vẫn nguyên, chỉ thỉnh thoảng đi theo một chuyến làm duyên thay đổi không khí.

5

Đúng vào dịp này, lập trường ghê tởm Cộng sản của ba được dịp tô đậm thêm nét cuối cùng vẫn là dịp ba được đọc tác phẩm của ông nhà văn.

Hai người thật có duyên gắn bó với nhau mặc dầu chẳng một lần gặp mặt. Chất sống nào mà chẳng trào dâng, ngoi lên tìm cách thể hiện. Chất sống nơi ba – và sau này nơi Phượng nữa – tự soi lấy mình hoặc tự khám phá lấy mình trên những trang in, hết trang này qua trang khác, những trang in mênh mông của ông ta. Những sự kiện lịch sử sừng sững chứng tích sống động do một cảm quan bén nhạy ghi nhận và diễn đạt qua ngôn ngữ nghệ thuật.

Nội dung tác phẩm đại ý vào năm 1941-

1942, Tưởng Giới Thạch đang đóng đô ở Trùng

Khánh điều khiển cuộc kháng Nhật của toàn thể

Trung Quốc, tướng Trương Phát Khuê đương là tư lệnh cả vùng Hoa Nam (Quảng Tây, Vân Nam,

Quý Châu…), Việt Nam Cách mạng Đồng minh

Hội gồm các Đảng Dân Chính, Duy Tân Phục

Quốc, Quốc dân Đảng (chủ tịch là cụ Nguyễn Hải

Thần) cũng đương hoạt động mạnh khắp vùng Hoa

Nam. Hồ Chí Minh bị Trương Phát Khuê bắt giữ tại Côn Minh vì thành tích Cộng sản của ông ta.

Ông Nguyễn Tường Tam, lãnh tụ Dân chính Đảng, tới nhà giam Côn Minh nơi hang đá thăm hỏi ông

Hồ nhiều lần trong năm, một lần ngồi thổi saxo- phone bản “Con Thuyền Không Bến” của Đặng Thế

Phong ngay bên nhau, khi cuộc đàm đạo vừa chấm dứt. Trong tập thơ chữ Hán của ông Hồ có bài “Nạn

Hữu Xuy Địch” chính là khởi hứng từ tiếng saxo- phone của ông Tam thổi bài “Con Thuyền Không

Bến” đó.

Nguyên văn bài thơ chữ Hán:

NẠN HỮU XUY ĐỊCH

Ngục trung hốt thính tư hương khúc Thanh chuyển thê lương, điệu chuyển sầu Thiên lý quan hà vô hạn cảm

Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu

Bản dịch thoát ý theo thể ngũ ngôn của nhà thơ Phương Hoa Sử:

NGƯỜI BẠN TÙ THỔI SÁO Người tù giam trong ngục

Bỗng nghe sáo hồn quê

Âm thanh buồn thê thiết

Chợt chuyển khúc sầu tê

Nước non ngàn dặm biếc

Đâu biết bao giờ về

Ngóng chồng lên gác vắng

Bốn phương trời sơn khê.

Sau cùng ông Tam tin rằng ông Hồ chẳng qua chỉ dùng đường lối khác để đạt tới cứu cánh quốc gia. Một lần ông Tam ướm hỏi ông Hồ:

- Ông theo Cộng sản, thân Liên Xô, mai đây ông đưa đất nước theo chính sách Cộng sản e không thích hợp.

Ông Hồ đáp:

- Tôi chịu ơn của Liên Xô mười lăm năm, tôi đã trả đủ rồi.

Ý ông Hồ muốn nói đã từng đi với Borodin tới Trung Quốc thành lập Đảng Cộng sản thân Nga trong nội bộ Đảng Cộng sản Tàu, nay thì không còn dính dáng gì với Cộng sản nữa.

Ông Tam tin ngay, trở về đề nghị với cụ Nguyễn Hải Thần vận động xin thả ông Hồ. Cụ Nguyễn Hải Thần gặp Trương Phát Khuê, Trương bác đề nghị đó. Ông Tam lại khẩn khoản xin cụ Nguyễn hãy tới Trùng Khánh gặp Tưởng Giới Thạch. Cụ Nguyễn đã tới Trùng Khánh, đã được tiếp kiến Tưởng. Chính Tưởng đã nói thẳng với cụ về họ Hồ: “Người này là cán bộ của Liên Xô, y đã cùng Borodin tới đây thành lập cánh Cộng sản thân Liên Xô. Nếu các đồng chí muốn tha cho y thì tôi cũng chiều lòng, nhưng rồi các đồng chí sẽ hối hận về điều này.” Cụ Nguyễn đáp là sẽ kết nạp Hồ vào Mặt trận Đồng minh Hội, do đó vẫn kiểm soát được mọi hành vi của Hồ. Tưởng hạ lệnh tha. Sau đó Hồ có làm lễ tuyên thệ dưới cờ của Đồng minh Hội.

Sau khi đã tuyên thệ, họ Hồ cùng Võ Nguyên Giáp bí mật tìm gặp Patty, đại tá tình báo của Mỹ, xin hợp tác, mỗi tháng lĩnh bốn ngàn đô-la để tổ chức mang lưới tin tức tình báo tại chiến khu Cao- Bắc-Lạng. Mặt trận Việt Minh (Việt Nam Độc lập Đồng minh) của Hồ sau này chỉ khác tên Mặt trận của cụ Nguyễn hai chữ “độc lập”. Đường lối gian giảo, xảo quyệt của Hồ luôn luôn lợi dụng những điểm lập lờ để che giấu gian ý và tận dụng mọi lợi điểm của mọi phe Quốc gia, tận dụng lòng yêu nước rực lửa vô điều kiện của toàn thể người Việt cho mục tiêu Cộng sản. Sau này khi đã khôn ngoan – cũng là khôn ngoan chứ sao, khôn ngoan tuyệt luân đấy - phỗng tay trên được thành quả cách mạng vào ngày 19-08-1945, Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 02-09-1945. Lời thề độc lập vang lên vào dịp này. Nhưng cũng kể từ đấy con người gian ác, xảo quyệt tuyệt luân đó ngầm ra lệnh cho các đồng chí của y, đặc biệt các “đồng chí” công an miền biên giới Hoa-Việt, hễ bắt được bất kỳ cán bộ nào của Đồng minh Hội thì phải giết ngay, rồi báo sau, cốt để triệt hạ bộ não của Đồng minh Hội. công an Cộng sản Tây Bắc (Hà Giang, Lai Châu, Lao Kay) đã thủ tiêu rất đắc lực các cán bộ quốc gia của Đồng minh Hội trong số có Nguyễn Văn Việt là cán bộ trung ương của Việt Nam Quốc dân Đảng. Có một cánh cán bộ của Đồng minh Hội về ngả Hà Giang gồm mười ba người trong số có Đỗ Tốn, tác giả Hoa Vông Vang và một nữ cán bộ duy nhất, chị Lý. May sao đám mười ba người này tuy bị bắt nhưng tên Trưởng ty công an Hà Giang chưa phát hiện ra họ là những cán bộ của Đồng minh Hội nên còn giam giữ đó. Điều may nữa cho cả mười ba người là tin tức phi báo về ngay đến tay cụ Nguyễn Hải Thần tại trụ sở Đồng minh Hội, đường Quan Thánh. Cụ Nguyễn “nói ới” ông Tam: “Xưa đồng chí đã có sáng kiến xin tha cho hắn (cụ chỉ họ Hồ), nay đồng chí hãy lãnh trách nhiệm tới Bắc Bộ phủ gặp hắn xin thả ngay mười ba đồng chí của mình.” Sau mấy lần xin yết kiến mãi tới lần thứ ba ông Tam mới gặp được họ Hồ, trình bày sự kiện. Hồ làm bộ trợn tròn mắt mà rằng: “Sao có thể có chuyện như vậy! Cán bộ địa phương làm láo rồi! Những người từng đã đấu tranh ở hải ngoại sao lại chịu số phận như thế được! Đám người hoạt động trong nước chẳng hiểu gì cả!” Ông Tam xin Hồ một lệnh viết tay để đích thân mang sang sở công an Bắc Bộ. Giám đốc sở công an bèn điện cho Trưởng ty công an Hà Giang hãy đích thân dẫn mười ba cán bộ Đồng minh Hội về Hà Nội.

Cụ Nguyễn và ông Tam theo sát vụ này, khi mười ba người được đưa về sở công an Bắc Bộ, ông Tam mới báo ngay cho Chủ tịch họ Hồ và nhất định ngồi đợi. Hồ gọi điện thoại cho Giám đốc công an. Cả Giám đốc công an Bắc Bộ và Giám đốc công an Hà Giang cùng dẫn mười ba cán bộ quốc gia sang Bắc Bộ phủ. Vừa thấy mười ba người, họ Hồ đứng dậy ôm từng người, rơm rớm khóc, hỏi han, ôn lại vài nét thuở cùng hoạt động bên Tàu. Đặc biệt với chị Lý, ông Hồ vỗ vai, dặn dò bằng giọng cực kỳ ân cần như thể người anh cả xót xa căn dặn người em gái: “Sau bao năm hoạt động cách mạng hải ngoại, giờ đây đồng chí về nước, nhà còn mẹ già, xin đồng chí vẫn phụng dưỡng mẹ già nhưng chớ quên giúp đỡ cách mạng một tay trong công cuộc hoàn tất giải phóng và xây dựng đất nước, gặp gì khó khăn xin đồng chí cứ lên thẳng hỏi tôi.”

Cả mười ba cán bộ quốc gia (lần này con số mười ba thật hên) cùng với ông Tam đứng dậy chân thành cảm tạ và cúi chào chủ tịc họ Hồ trước khi ra về.

Ra tới cửa Bắc Bộ phủ, vào lúc sắp bước lên chiếc xe Citroen 15 cùng với mọi người, ông Tam sực nhớ còn bỏ quên chiếc mũ phớt nơi văn phòng chủ tịch. Tiết thu tháng Chín miền Bắc lạnh, ông Tam quay vội trở lại để lấy mũ. Ông đã phải đứng khựng trước bậc cửa! Từ trong văn phòng, tiếng Hồ chúng nó về đây?” Có tiếng lí nhí thưa lại của tên Trưởng ty công an Hà Giang, rồi tiếng Hồ lập tức sang sảng: “Mật lệnh của Đảng như thế nào? Tại sao mi không thủ tiêu ngay, còn giam giữ chần chừ để chúng nó có thì giờ can thiệp…” Ông Tam quay lại ngay, nhón gót nhưng rảo cẳng ra thẳng cổng, lên vội xe…

Như một người đương trèo cây trên đỉnh núi chói lòa ánh sáng, chợt vin phải cành giòn rơi hẫng xuống vực, sực tỉnh lạnh toát xương sống, ông Tam tự thấy bàng hoàng thấy rõ mãi mãi… mãi mãi về sau, cho đến ngày ông vĩnh biệt cõi đời, thấy rõ thế nào là Hồ Chí Minh, thế nào là Cộng sản. Không còn một chút ảo tưởng, sự thực trần trụi, bánh xe lịch sử quay nốt cái đà ưu thế tàn nhẫn cho Cộng sản. Vô phương! Ông thấy rõ như vậy!

Vào năm cuối cùng đời ông tại Sài Gòn, một lần ôn lại chuyện cũ với người bạn - vừa là bạn làng văn, vừa là đồng chí hoạt động cách mạng - ông Tam còn tự trách mình bằng giọng nhỏ nhẻ đặc biệt của ông, phải lắng tai lắm mới nghe rõ: “Tôi đã quá nghệ sĩ khi nhận xét người… tin người… ngày đó!”

CHƯƠNG BỐN
Nguyện Cầu

1

Phượng rón rén xuống hết bực thang gỗ, tay cầm chiếc khăn mặt còn mới, thoạt bước vào nhà cầu sát đó, khép cửa lại. Dưới nhà vắng hoe. Người lớn đi vắng, lũ trẻ ham chơi bên lối xóm đương la hét om sòm với tiếng trái banh dội vào tường. Từ nhà cầu ra, Phượng múc nước từ hồ ra đổ vào những chiếc chậu tráng men trắng. Đương gục mặt vào chậu nước mát lạnh cho tâm trí thật tỉnh táo, có tiếng chân bước vội, cửa ngõ sịch mở. Phượng giật mình, nghĩ nhiều đến những chuyến đi thất bại của bạn bè trước đây. Nhưng không, bà chủ nhà, chỗ thân tình với má, xuất hiện. Bà đi vắng từ sáng tới lúc đó mới về. Giọng bà ân cần:

- Bác biết cháu đã tới!

- Vâng cám ơn bác! – Phượng đáp.

- Mọi việc trôi chảy, cháu yên tâm.

- Dạ.

- Cháu có cần gì lặt vặt không?

- Dạ không! Bác thu xếp cho cháu chỗ ở như thế này, cháu cám ơn bác nhiều lắm. Cháu có đủ thức ăn cho đến tối mai ra bãi, bác khỏi lo.

- Không được, thức ăn gọn ghẽ đó để dành xuống ghe, không bao giờ sợ dư. Tối nay khoảng bảy giờ em nó sẽ mang cơm lên cho cháu. Cơm nóng, thịt kho mặn, dưa leo, có vậy thôi. Cũng gọn nhẹ thôi mà.

- Dạ, cám ơn bác.

- Bác đảo về chút xíu lại đi ngay đây. Cháu cứ yên tâm, hễ có động, bác báo ngay cho.

- Dạ.

- Năm giờ rồi đó cháu.

- Dạ.

Bà chủ nhà bước lẹ lên thềm vào khuất trong nhà. Phượng rón rén lên căn gác xép, tỉnh táo hẳn. Phượng nhớ… mình, nhớ mình, cần sống lại với mình. Phượng nhớ mấy quyển vở… những dòng chữ quen thuộc của chính mình.

Ngày 26-7-1975

Ông kính mến,

Những xôn xao chờ đợi thắt tim rồi cũng thao thức với hàng ngàn hình ảnh hãi hùng đen tối về trong đầu, những tuyệt vọng ngút hơi, những mơ ước không bao giờ có thật, dù đã biết “sinh ra thì phải hủy diệt, hủy diệt để lại sinh ra, chẳng nên đau buồn với những gì không thể tránh được”. Những lời nói đó của nhỏ bạn ngày nào làm tôi thấy nhói nơi ngực cùng tiếng nấc khô. Bao ý nghĩ, bao câu hỏi. Tôi lo sợ. Lạy trời cho mọi bình yên đến với ông!

Không có biển máu ở Sài Gòn, nhưng đã có nhiều suối máu ở các địa phương lục tỉnh. Họ làm như vậy kín đáo hơn. Đằng nào thì những người còn mắc kẹt ở lại giờ đây cũng như kiến bò miệng chén mà thôi. Chạy đâu cho thoát! Ông cậu họ tôi, nhà dàn cảnh số một của miền Nam, hai tuần trước tự nhiên vào một buổi trưa có người bạn cũ miền Bắc tới thăm. Khi người bạn đi rồi, cậu tôi lững thững ra đường, thoáng thấy như có hai thanh niên lực lưỡng ngồi trên một chiếc Honda rồi phóng vút đi. Ông rụng rời người nghĩ rằng họ đã tìm thấy nhà, đã nhận diện và chắc chỉ từ nửa đêm cho đến sớm mai là cùng, họ sẽ thi hành bản án tử hình. Ông kín đáo dặn dò vợ con hết những điều cần thiết. Nhưng không có gì xảy ra. Cho đến đêm hôm qua họ chợt ập tới khám nhà, và ông cậu tôi ra đi bình thản vì ông đã chuẩn bị tinh thần cho những gì bi thảm hơn nhiều. Họ hiện giữ ông ở Sở Công an đường Trần Hưng Đạo thì phải. Anh tôi thì cũng đã đi trình diện học tập, có còn ở nhà nữa đâu.

Ông kính mến,

Cám ơn ông, cám ơn nhỏ bạn, sáng nay tôi đã được sống những giây phút tuyệt vời. Nhỏ bạn đã cho tôi biết mình còn những tình cảm trong sáng đẹp đẽ nhất đời người. Hình như tôi chưa thật sự nhìn ông thật lâu thật rõ bằng mắt. Dù vậy lời phê bình của người nào đó cho tôi biết rằng điều mình nghĩ quả không sai. Nhưng tôi vẫn xót xa với hoàn cảnh hiện tại với biết bao đe dọa hãi hùng. Còn bao nhiêu ngày tôi ngồi lo lắng, chờ đợi nôn nao như thế này đây? Bây giờ ngày hay đêm, thứ Bảy hay thứ Hai cũng chỉ là những tên gọi. Đời sống của tôi không màu, nhưng tôi không biết phải chạy trốn đi đâu để không nhìn thấy màu đỏ, không nghĩ tới màu đỏ.

Ông thân kính,

Buổi tối trời không sao. Không một ngôi sao chung thủy trên đầu khi tôi lần bước trong đêm tối mịt mù. Ông là ngôi sao chung thủy?

Gió lùa về mơn man trên tóc, trên môi tôi. Gió thì thầm kể lể cho tôi nghe những chuyện từ một ngày xa xưa nào đã mất mát hết rồi. Có một chút êm đềm và một chút xót xa. Nghĩ và nhớ tới ông.

Ông có bằng lòng cho tôi thêm hai phút nữa không?

Mà thôi ông đã cho quá nhiều. Để dành cho lá thư sau, chỉ tuần sau nếu như ông còn…

Nguyện cầu ông có được chút tin yêu nào đó. Kính thư

Ph.

Ngày 5-8-1975

Ông kính mến,

Tối nay trong lúc tôi đang suy nghĩ và nhớ đến ông thì trời đổ mưa. Căn phòng nhỏ của một thời thân thiết học trò giờ đây xa lạ làm sao. Hình như tôi đã mất tất cả rồi.

Chao ôi, đã qua những ngày nhớ ông điên cuồng, đã qua những ngày tôi bằng lòng đổi tất cả để được một giờ ngồi lại nơi đại thính đường nghe lại ông trả lời bằng bài ca trong vở chèo Tấm Cám.

Viết thư cho ông bằng ánh sáng hiu hắt của ngọn nến. Những giọt lệ nến bắt đầu rơi. Tự nhiên tôi rưng rưng muốn khóc. Những ngày qua ông làm gì nhỉ? Ông chắc gầy hơn xưa, xa vắng hơn xưa. Tôi đã về miệt vườn – không xa tỉnh lỵ Vĩnh Long – cùng má, cùng chị Trang, kéo theo nhỏ bạn, vừa để thăm dò tình hình, vừa để thay đổi không khí. Chỉ có ba ở lại Sài Gòn. Dạo này ba có nhiều bạn tới thăm. Tất cả - trừ nhỏ bạn – sẽ ở lại vườn chừng một tháng. Nơi đây tôi vẫn được hưởng mật ngọt thân tình của má, buổi sáng được ăn lại những miếng bánh do chính tay má làm. Nhưng tất cả hình như vội vàng và mong manh. Tôi lo sợ quá, trời ơi, rồi đây khi trở lại Sài Gòn tôi có đủ can đảm đi qua nhà ông, dừng lại nhìn qua khung cửa sổ xem còn bóng ông ở nhà. (Lá thư này tôi nhờ nhỏ bạn mai về Sài Gòn tới bỏ giúp vào thùng thư nhà ông.)

Hôm qua tôi đọc lại một tập vở ghi kỷ niệm cuối niên học năm ngoái, trang cuối là bài thơ trong một truyện dài của ông. Chị Trang ngồi kế bên thoáng thấy và hỏi về ông. Tôi bật khóc nức nở.

Lâu quá rồi chỉ có mình tôi với những thương nhớ âu lo. Bây giờ…

Ông kính mến, nếu còn một lời nguyện cầu nào nơi tôi, tôi xin được dâng tặng ông.

L’eau coule

Comme la vie est lente

Comme l’espérance est violente

Les jours s’en vont

Je demeure…

Nước trôi –

Đời chảy lặng lờ

Hãi hùng – hy vọng – bao giờ cho nguôi

Tháng ngày biền biệt qua rồi

Tôi thành tượng đá – tôi ngồi trơ trơ...

Kính thư

Ph.

2

Không phải đợi viết đến những dòng chữ trên Phượng mới thấy lo cho ông ta. Phượng lo cho sinh mệnh ông ta từ bao giờ nhỉ? Từ những năm

1972-1974, thuở không khí toàn quốc hừng hực những tin tức chiến sự sắt máu, với những danh từ, những địa danh rợn màu hỏa ngục: Đại lộ Kinh Hoàng, Mùa Hè Đỏ Lửa, Charlie, Delta, Barbara, An Lộc, Tàu Ô, Xa Cam... Cộng sản lại khởi sự ám sát những nhà văn, nhà báo lập trường dứt khoát, minh bạch chống đối chúng. Cây súng ngắm bắn cây bút, hơn nữa lại ngắm bắn lén lút bất ngờ thì chắc ăn quá rồi còn gì. Chao ôi, chao ôi, thuở đó, thuở chiến tranh tăng cường độ, nhìn đâu cũng thấy tàn tạ đắng cay, nghe đâu cũng thấy than van rên xiết, quê hương nát bấy bi ai, quê hương truân chuyên thống hận, cách đây thoáng chốc đã gần mười năm trời rồi mà sao với Phượng vẫn như ngày hôm qua. Ngày đó, cứ mội lần được nghỉ phép là Họa lại từ mặt trận về kể thao thao bất tuyệt với ba, với anh Trung – bạn đồng học cũ – những hình ảnh chiến tranh bi hùng nơi chiến địa, thảm đạm tang thương cả vùng chiến tuyến. Họa nói cho Phượng nghe nữa, bao giờ Phượng cũng ngồi gần đấy. Từ thuở Họa còn học cùng anh Trung năm cuối trung học cho đến nay, bao giờ Họa cũng thẳng thắn, điềm đạm, nhưng Phượng thừa biết Họa theo đuổi mình từ lâu rồi.

Từ Đại lộ Hoàng Hôn, chốn tử thủ An Lộc về, Họa nói: “Tôi sống sót trở về mà có mặc cảm như kẻ đào ngũ. Thật kinh khủng và xót xa! Tình chiến hữu đến một độ nào khiến người ta vẫn ghê sợ sự chết mà vẫn không ngại ngần chấp nhận nó, vì trong không khí chiến trường lúc đó hình như nó có một hơi ấm đặc biệt hơn là sự sống cô đơn, bàng hoàng, ngơ ngác.”

Họa đã thốt lời chân tình – Phượng biết – vì Họa đã trở về từ bảy mươi tám ngày hỏa ngục tử thủ, thông cảm đến xương tủy những tàn khốc ngút ngàn của chiến tranh, không quên tám ngàn viên đạn đại bác địch uy hiếp mở màn liền trong hai tiếng đồng hồ của đêm 11 rạng 12. Hầu như chàng trai sớm làm quen với ăn cơm sấy, uống nước hố bom đó luôn tự thấy mình có mặt tại những địa điểm vào những thời gian bi thảm nhất. Nhưng dầu sao thì ra chiến trường trực diện với kẻ thù, Họa có súng; ở hậu phương nếu như phải đương đầu với những kèn cựa lố bịch, xuẩn động của các bạn đồng ngũ, Họa cũng chẳng ngại hiểm nguy bị bắn lén. Nhưng với ông nhà văn, trước sau ông chỉ có ngòi bút. Đã đành người ta không ngượng khi đề cao giá trị một ngòi bút bằng cả một sư đoàn, nhưng người ta thường quên sự kiện ưu thế tuyệt đối của cây súng khi chủ tâm bắn lén cây bút. Một nhà báo trí thức đã bị bắn chặn trên đường từ nhà đến tòa báo, may được chở kịp tới nhà thương cấp cứu, thoát chết. Tin tức chiến trường từ ngày này qua ngày khác vẫn là những cơn bão sắt lửa của cả hai bên và dòng thác lũ biển người phi nhân tới quái đản của đối phương ào ạt chiếm lĩnh trận địa. Cộng sản tung truyền đơn đe dọa sẽ khử một số nhà văn, nhà báo – trong số có ông ta. Cầu bị phá, đường xe lửa bị bóc, đại bác 130 li có thể câu vào thành phố bất kì lúc nào ban đêm, B.40 bắn vào xe hàng chở thường dân, mìn định hướng đặt ngay trong công viên thành phố. Do đó đêm ngủ tại nhà, ngày bước chân ra phố hay có việc phải đi xa, trên nguyên tắc ai cũng có thể chết bất đắc kỳ tử. Cuộc chiến tàn khốc không còn hậu phương nữa. Phượng lo cho tính mệnh của ông ta từ thuở đó.

Trời chiều đã sẫm màu, em gái nhỏ mang lên căn gác xép cho Phượng chiếc đèn Hoa Kỳ ánh sáng khá đủ.

Phượng lật trang vở tìm đọc lá thư thứ năm để tạm trốn những hình ảnh bi thảm, những cảm giác hãi hùng mà Phượng biết mình không thể nào không ôn tới.

Ngày 1-9-1975

Ông kính mến,

Còn hai ngày nữa là tôi phải trở lên Sài Gòn. Thưa ông, sao tôi cứ nghĩ là khó lòng có được những giờ phút êm đềm rong chơi như những ngày xưa cũ. Tôi nghĩ đến những vòng tay thương yêu của gia đình, của bè bạn, nhưng sao vòng tay quá rã rời… Còn hai ngày nữa tôi trở lại Sài Gòn, thâm tâm tôi vẫn mong mỏi sao cho ngày đó tới mau, nhưng sao lòng tôi hoang mang rời rã. Điều mong mỏi của tôi là sớm được biết ông vẫn khỏe, vẫn còn hiện diện ở cái hẻm sạch sẽ đó, trong căn nhà thấp thoáng những sách là sách đó. Nhưng… những tin đồn đầy đe dọa khiến tôi choáng váng, choáng váng…

Cho tôi một ngày ngậm kẹo ngọt thật bình thản, đọc truyện của ông trong một tâm trạng thật thảnh thơi thoải mái, nhưng sao…

Cho tôi một ngày nào đó ngã vào tay ông, nhắm mắt lại cho tất cả những u buồn, những thống khổ theo những giọt nước mắt tan đi, để tôi được kể lể với ông tất cả những chuyện… Khi tôi viết những dòng chữ này, trăng lạnh lênh đênh bên ngoài. Những trái mơ chua… những trái mơ quyến rũ! Từ một ngày thuở nhỏ lên ba, tôi chập chững làm quen với tên ông, từ một ngày thuở ban đầu thiếu nữ, tôi tìm đọc những tác phẩm… Và đam mê lớn dần, lớn mãi.

Liệu có chắc chắn tôi sẽ gặp ông kỳ trở về Sài Gòn hai ngày tới? Sao tôi lo sợ quá? Nguyện cầu ông thật bình anh.

Kính thư, Ph.

CHƯƠNG NĂM
Màu Trời Đỏ Quạnh

1

Phượng cương quyết giữ cho bộ óc “phẳng phiu”, “trắng phau”, không nghĩ thêm gì trong bữa ăn chiều lúc bảy giờ tối. Cơm nóng, thịt kho mặn, dưa leo. Chính bà chủ nhà xách cà-mèn đựng các thứ đó lên gác xép. Vẫn đôi lời đon đả thật thân mật, thật chân tình của bà khiến Phượng cảm thấy bóng tối vây quanh bên ngoài cũng ấm áp hiền hòa. Bà chủ đi ngay, bà bận nhiều, còn bận nhiều, cho đến tối mai khi mọi người lần lượt ra bãi, xuống ghe… “Mọi việc trôi chảy, cháu yên tâm tâm” đó là lời cuối cùng của bà nói với Phượng trước khi xuống khuất cầu thang.

Phượng cương quyết giữ cho bộ óc phẳng phiu, trắng phau trước bữa ăn, không nghĩ gì. Cho đến lúc em gái nhỏ - chắc là con út của bà chủ - mang lên cho Phượng bình trà mới và đem đi cà- mèn hết nhẵn cơm và thức ăn. Bình trà đậm hay lạt, Phượng không chú ý cho lắm, nhưng nóng bỏng, đó là điều Phượng ưng ý. Phượng uống từng ngụm nhỏ, hương lài bốc ngạt ngào. Hồi ức mon men tới. Trong không khí ngày đó, mất Ban Mê Thuột, quân đội rút lui khỏi Tây Nguyên, thế Cộng sản ùa tới mạnh như nước vỡ bờ, thế quân đội Quốc gia có những đơn vị tinh lọc như vàng ròng nhưng quá ít và mong manh, chẳng khác gì đám cháy lớn rút lại chỉ còn những ngọn lửa lẻ loi đây đó trong vùng không khí thoạt hừng hực uất hận rồi lịm dần vào ủ ê tuyệt vọng. Đặt chén trà xuống, cầm cuốn vở lên, nhưng Phượng đọc tiếp lá thư thứ sáu được gửi cùng một phong bì với lá thư thứ năm khi Phượng đã trở lại Sài Gòn và biết chắc là ông nhà văn chưa bị chúng nó bắt. Phượng nằm xuống, đặt đầu lên gối êm, đặt cuốn vở ngay trên ngực mình, mắt nhắm nghiền. “Cuộc di tản chiến thuật, cuộc rút lui của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ Cao Nguyên về Tuy Hòa theo tỉnh lộ 7 là cuộc di tản điêu linh, đẫm máu, ác độc, bi thảm nhất thế kỷ”, Phượng còn kịp rên rỉ nghĩ thầm.

2

Phượng đã không ngoa đâu khi nghĩ về Họa, chàng trai sớm làm quen với cuộc sống nhà binh ăn cơm sấy, uống nước hố bom, luôn tự thấy mình có mặt tại những địa điểm vào những thời điểm bi thảm nhất. Họa đã có mặt trong cuộc di tản chiến thuật từ Pleiku qua Mỹ Thạnh, dọc theo tỉnh lộ 7, qua Cheo Reo, Phú Bổn, qua Củng Giả, An Hòa, về Tuy Hòa. Cuộc rút lui bi thảm còn bỏng dẫy trong trí nhớ Họa hoài hoài đến nỗi nhiều lần, rất nhiều lần sau đó, Họa kể với ba rồi với anh Trung nữa (khi anh Trung từ Đại lộ Kinh Hoàng, Quảng Trị về), kể vanh vách như đọc một trang nhật ký diễn tiến trận đánh Ban Mê Thuột và lịch trình rút lui của quân lực mình, những đụng độ với địch trên đường rút lui, “cuộc rút lui điêu linh, đẫm máu, ác độc bi thảm nhất thế kỷ”. Cho đến bây giờ, Họa ở bên kia trời Âu (Thụy Sĩ), chính nhiều khi Phượng cũng nghĩ rằng Họa còn giữ gìn nguyên vẹn những trang nhật ký đó trong đầu.

- Ngày 1-3-1975 Sư đoàn 968 của Cộng sản đánh mạnh hai đồn trên quốc lộ 19 phía Tây Pleiku và tiếp tục pháo kích sân bay Cù Hanh.

- Ngày 4-3-1975 Đ5 (Trung đoàn 95) E3 (Sư đoàn 3) thuộc T5 (khu 5) tiếp tục làm ung thối quanh An Khê trên quốc lộ 19. Ta điều động sư đoàn 22BB (bộ binh) giải tỏa An Khê. Lữ đoàn Kỵ binh 2 từ Pleiku xuống tảo thanh mạnh. Sư đoàn

10 và Sư đoàn thép 320 – đã từng dự trận Điện Biên xưa – âm thầm tiến về vây quanh Ban Mê Thuột.

- Ngày 6 và 7 tháng 3 quân lực ta được tung về Ban Mê Thuột truy tầm E320. Sư đoàn 23BB đã đánh tan một lực lượng khá mạnh của địch quanh Thuần Mẫn.

- Ngày 9-3 tất cả lực lượng địch dồn đánh

Thuần Mẫn, Đức Lập, Đắc Soong, Núi Lửa.

- Hai giờ sáng 10-3 đặc công Cộng sản đánh vào sân bay Hòa Bình, hậu cứ Trung đoàn 53, sân bay thị xã và kho đạn Mai Hắc Đế. Sư đoàn 23BB phản công dữ dội, đánh chiếm từng thước đất tại vùng sân bay Hòa Bình và kho đạn Mai Hắc Đế. Bảy giờ sáng chiến xa T54, PT74 tiến quanh thị xã.

17 giờ 50 quân Cộng sản chiếm Tiểu khu, nhưng tại sân bay Hòa Bình còn đánh. Tiểu đoàn 72, 96 Biệt động quân và Đại đội 23 Trinh Sát đánh tới người cuối cùng tại kho Mai Hắc Đế.

- Chiều 11-3 còn những cuộc đánh lẻ tẻ trong thị xã bởi những đơn vị tử thủ. Phi cơ dội bom dữ dội.

- Ngày 12-3 lúc 18 giờ Ban Mê Thuột thất thủ hoàn toàn. Hai trung đoàn 45 và 53 của sư đoàn 23BB cuối cùng rút lui ra khỏi vòng đai Ban Mê Thuột lúc 18 giờ ngày hôm sau, 13-3, bằng cách đánh cận chiến dao găm, lựu đạn với số địch đông gấp bội có chiến xa yểm trợ. Lúc 18 giờ lực lượng tăng viện được trực thăng vận tới quanh Ban Mê Thuột chừng năm cây số. Các trung đoàn 44, 45, 53 của sư đoàn 23BB, Liên đoàn 21 Biệt động quân cũng được đưa lên tăng cường – phi cơ yểm trợ tối đa – đánh sát vào thị xã. Nhưng…

- Sáng 14-3 có lệnh rút lui khỏi Ban Mê Thuột.

Ông Thiệu đã họp hội đồng tướng lãnh tại Cam Ranh chiều 14-3-75 nói rằng Mỹ ngừng quân họ, nên mình cũng làm áp lực lại bằng cách “di tản chiến thuật” khỏi Tây Nguyên.

Danh từ “di tản chiến thuật” được sử dụng một cách hài hước kể từ sau đó. Những người đại diện cho cái triều đại thối nát đến tởm lợm đó ý hẳn cho rằng Mỹ không bao giờ dám bỏ Việt Nam. Trái lại, những vị tướng lãnh trong sạch, những bậc thức giả cũng như ngoài nước đều không quên lời ông Kissinger trong tập tài liệu bí mật của Ngũ Giác Đài – Pentagon Paper – đại ý: “Nếu như người dân miền Nam Việt Nam muốn có một chế độ Cộng sản thì Hoa Kỳ không có lý gì để ngăn cản.” Cũng theo ý kiến của những vị tướng lãnh trong sạch và những bậc thức giả thì một khi cấp lãnh đạo Hoa Kỳ đã chấp nhận phương châm của ông Kít “vũ khí nguyên tử chỉ là cái khiên để che, không là cái mũi nhọn để đâm”, nếu cấp lãnh đạo Việt Nam mà tiếp tục thối nát, tồi tàn như bây giờ thì chẳng sao tránh khỏi số phận quân cờ thí. Trong khi đó những cuộc biểu tình phản chiến ngờ nghệch lọt vào bàn tay giật dây của Cộng sản với những khẩu hiểu “Người Mỹ hãy cút đi!”, “Americans, go home!” Chính một viên cố vấn Mỹ đã một lần thân mật nói với Họa từ

1972, “Lực lượng của thế giới tự do đành phải tạm bỏ Việt Nam. Cứ như hiện tình, tiền của và người đổ vào bao nhiêu cũng vô ích”.

Chính thể tham nhũng thối nát từ chóp đỉnh lại được trang trí thêm bằng các bà tướng, bà tá vừa đánh tứ sắc, vừa điều khiển buôn lậu, vừa gián tiếp tham dự chính quyền điều động quân sự mọi ngành. Cấp lãnh đạo Việt Nam khăng khăng tin rằng túi dầu lửa của Việt Nam trước thềm lục địa mênh mông như vậy, Mỹ bỏ Việt Nam sao được. Vì vậy mà có quyết định di tản chiến thuật, bỏ Tây Nguyên để bắt bí Mỹ, bất chấp mọi hậu quả cực kỳ bi thảm đã xảy tới tức thì.

Có ba đường rút quân được đề cập để tùy nghi chọn lựa. Rút quân về Quy Nhơn theo quốc lộ 19 phải qua đèo An Khê: cực kỳ nguy hiểm! Rút quân theo quốc lộ 14, ngược về Kontum. Rút từ Pleiku theo quốc lộ 14 một quãng, tới Mỹ Thạnh sẽ rẽ theo tỉnh lộ 7 qua Cheo Reo (Phú Bổn), Củng Giả (An Hòa) để về Tuy Hòa: đường rút quân này hoàn toàn tạo yếu tố bất ngờ, do đó đạt được an toàn tối đa với điều kiện rút nhanh và thật bí mật.

Nhưng làm sao mà giữ bí mật cho được! Sáu mươi ngàn dân – phân nửa là gia đình binh sĩ – đã hốt hoảng bám theo quân đội tạo yếu tố bất ngờ không phải cho địch mà cho chính mình: cuộc rút lui đẫm máu nhất trên chiến trường Đông Dương trong thế kỷ này. Chuẩn bị cho cuộc rút lui cho các lực lượng đã được chuẩn bị như sau:

- Toàn bộ tham mưu Quân đoàn 2 rút về Nha Trang bằng phi cơ thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương; Liên đoàn 22 Biệt động quân rút khỏi Kon- tum về PleiKu bảo vệ lộ trình rút lui về Tuy Hòa; Liên đoàn 6 Biệt động quân đi hậu tập. Suốt lộ trình dài ngót 300 cây số hầu hết xuyên qua một vùng rừng núi thâm u, mặt đường hư nát tới sáu mươi phần trăm rồi.

Dưới đây là những cuộc đụng độ lớn:

1. Cao điểm 1028 sát quốc lộ 14 thuộc bản Plei Poo Ngo thuộc dinh điền La Sơn, cách Pleiku 25 cây số về phía Nam.

2. Cầu Plei Koang, trên tỉnh lộ 7 khoảng 30 cây số về phía Tây Bắc.

3. Giao tranh dữ dội quanh thị xã Phú Bổn rồi rút nhanh ngày 18-3.

4. Bị phục kích đẫm máu tại bến đò Bản Thoát trên sông Ea Pa.

5. Bị phục kích đẫm máu tại đèo Tu Na trước khi vào Củng Sơn.

6. Giao tranh đẫm máu suốt từ núi Hòn Hàn – xã Xuân Điền, Củng Sơn đến cao điểm 276 (Long Ước) sát sông Đà Rằng mặc cho bom dội trên đầu, họ để đoàn di tản rút nhanh về Thạnh Nghiệp, cách Tuy Hòa 20 cây số về phía Tây.

7. Tại ngay Thạnh Nghiệp đụng độ dữ dội một lần cuối cùng.

Tuy Hòa mất vào ngày 1-4-1975.

3

Quả thực Phượng đã nhớ được lịch trình chi tiết cuộc rút lui đẫm máu như trên, nhưng cho đến nay trí nhớ Phượng vẫn còn bỏng dẫy nguyên vẹn về một số hình ảnh – cũng do Họa thuật lại – của cuộc rút lui thiên thảm địa sầu ấy:

- Trên một chiếc thiết giáp, hay trên một chiếc xe Jeep hay trên một chiếc xe dân sự bất kỳ loại nào, số người bám vào kín đặc, và tất cả rồ máy lớn, phun khói nhiều, nhưng chỉ có thể nhích nhích từng bước nhỏ trên quốc lộ.

- Trong khi cả dòng người mênh mông chen lấn nhau theo chiều xuôi xuống Tuy Hòa thì có người đàn bà thiểu não, tuyệt vọng lách mình trườn lên ngược chiều, tay ôm đứa nhỏ, miệng khản giọng gọi một đứa trẻ khác bị lạc.

- Người già, trẻ nít chết dọc đường, xe cán lên, chân xéo lên nát bấy thành bùn rồi.

- Những trẻ nít lạc mẹ, lạc cha, không còn ai đủ khả năng từ bi hỉ xả, thì giờ, sức lực, trí sáng cúi xuống giơ tay ôm vớt mang theo – tất cả bị bỏ lại cùng bầy chó hoang, mèo hoang và chắc chắn đám bất hạnh đó sẽ chết trước bầy chó hoang, mèo hoang vì hoàn toàn thiếu khả năng chịu đựng, chống đối và thích ứng.

- Không kể những đụng độ lớn, chỉ cần ở bất kỳ một địa điểm cao khuất nào có vài ba tên lính Cộng sản nhả một tràng liên thanh, câu vài trái mortier là đủ gây náo loạn kinh hoàng cho cả hàng vạn người trên quãng đường đó. Giữa đám người thất lạc tinh thần, thất tha thất thểu, đi mà như bơi chới với giữa kinh hoàng đó, có người chồng chôn một người vợ bị thương để chừa lại khoảng đầu vì người vợ tuy hôn mê nhưng chưa chết hẳn, khóc sụp lạy vợ rồi ôm con tiếp tục theo dòng người chảy xuôi về hướng Tuy Hòa còn xa lắc xa lơ.

Chỉ mấy ngày sau Đà Nẵng thất thủ. Trước đó một tuần, hàng đoàn trực thăng đáp xuống bãi cát cửa biển Đà Nẵng: Không quân di tản chung với các đơn vị Thiết kỵ, Thủy quân lục chiến, Biệt động quân, Bộ binh và Bịa phương quân với cũng lại một phần nửa là dân chúng và gia đình binh sĩ. Tàu lớn đậu ngoài khơi, tàu nhỏ vào đón bị pháo kích ngăn chặn. Dân chúng lội ùa ra, bơi đại ra, tàu nhỏ không vớt kịp, đạn pháo kích rớt trúng, chết biết bao nhiêu mà kể. Phi cơ không dám đáp xuống phi trường Đà Nẵng để thực hiện những cuộc di tản không vận nữa. Trước đó toàn là những chuyến di tản đi dây với tử thần, quân và dân ùa lên phi cơ gấp đôi ba trọng lượng an toàn, phi công cũng đành cầu trời cầu Phật, cầu Chúa trước khi liều cất cánh phó mặc cho rủi may định mệnh, thôi thì “chết một đống còn hơn sống một thằng”. Một trường hợp làm xúc động cả thế giới: Một người dân đã trốn vào khoảng lõm dưới phi cơ; phi cơ cất cánh, bánh xe gập lại ép nạn nhân chết cứng trong đó; đến khi phi cơ hạ cánh, dừng lại thì xác nạn nhân cũng vừa rơi xuống. Máy thu hình của một phóng viên ngoại quốc đã thu trọn hình ảnh đó để trình bày trước dư luận quốc tế nỗi kinh hoàng của Việt Nam trước nạn Cộng sản. Sau cùng một phi cơ hạ cánh, mọi người kéo ùa lên, những người không còn chỗ bèn nằm lăn thành dãy dài trên phi đạo. Chiếc phi cơ bị mắc kẹt. Mọi dự định không vận bị bãi bỏ.

Trên mặt biển mênh mông, mỗi tàu lớn kéo theo rất nhiều xà lan theo sau, trên xà lan la liệt kín mít nam phụ lão ấu chạy nạn Cộng sản. Có những người không chịu được khát, uống đại nước biển, phát điên. Sau ba bốn ngày phơi nắng da ai nấy phồng lên. Thì đúng là cháy nắng còn gì! Trên tàu lớn có những màn cướp của, hãm hiếp. Khi sắp tới Vũng Tàu, những kẻ cướp vàng bạc và hãm hiếp đều lẩn xuống các xà lan, quấn băng giả làm các thương binh, lẩn thoát theo dòng người. Những bóng người lần lượt lảo đảo bước xuống bãi Vũng Tàu; những người đàn bà không còn nước mắt nhưng nức nở khuỵu xuống cùng đứa trẻ thơ cháy bỏng; cả dãy trẻ thơ cháy bỏng được sắp nằm dài trên bãi biển, những trẻ thoi thóp miệng ngáp ngáp như hệt những con cá mắc cạn hấp hối, được chở vào trại cấp cứu tức khắc.

Chị Trang vừa tốt nghiệp khóa nữ y tá cấp tốc có mặt ngay tại trại tị nạn Vũng Tàu, chị hoạt động hết mình, hoạt động tưng bừng – Phượng đã chứng kiến, Phượng biết – chị hoạt động như con cá vẫy vùng ngoài khơi. Những chuyến tàu chở người tị nạn tiếp tục dọc theo duyên hải. Những hoảng sợ, những lo âu làm cơ thể suy nhược, có những người chết lả trên xà lan. Thủy táng. Dư luận báo chí tại Sài Gòn phanh phui những vụ cướp vàng, những vụ hãm hiếp đã xảy ra và đang tiếp tục xảy ra trên những chuyến tàu chở người tị nạn. Tất cả những chiếc tàu chở người tị nạn được lệnh chở thẳng ra Phú Quốc để cô lập tụi ăn cướp. Đã có một chuyến tàu vừa cập đảo Phú Quốc, bèn bắt và xử bắn ngay mười hai tên cướp tại bãi Dương Đông. Các trại tiếp cư cấp cứu được thành lập quanh phi trường và dùng cả những trại cải huấn cũ – những trại giam tù binh Cộng sản. Dĩ nhiên chị Trang có mặt tại đó. Phượng mãi sống với mình, mãi tới ngày đó Phượng mới chợt nhận ra khuôn mặt tích cực của chị, khuôn mặt của một Bồ Tát hạ thế để thực hiện đại nguyện tế độ chúng sinh, khuôn mặt mà chính anh chàng điêu khắc gia Mạnh đã vẽ chị bằng bút chì than treo ngay tại phòng khách. Nghệ thuật sáng tối của bức họa thật độc đáo, thoạt nhìn thấy ngay ba điểm nổi bật, trộn không lẫn của chị Trang: Dưới hàng lông mày đen, đôi mắt chị mở lớn ngước nhìn về một phía với hàng lông mi tỏa rộng; đôi cánh mũi đương độ phập phồng; sau cùng miệng chị cười hé lộ bốn chiếc răng cửa phía trên thẳng đẹp, bốn chiếc răng dưới nhỏ xinh. Cả khuôn mặt hiền hòa sáng láng của chị cũng như lọn tóc quăn phía trước trán của chị, cũng như cả mái tóc lòa xòa che lấp hai bên vành tai của chị đều được vờn bằng những nét mờ ảo. Rõ ràng là khuôn mặt hiền hậu do một bàn tay say mê minh họa, đượm vẻ huyền ảo của một Bồ Tát giáng trần. Bức tranh được chính Mạnh chọn khung lồng kính và đóng đinh treo trên khoảng tường tuy kín đáo mà vẫn lọt vào mắt mọi người ngay tại phòng khác của gia đình. Cũng mãi tới ngày đó Phượng mới nhớ thêm chuyện trước ngày theo học lớp y tá cấp tốc, chị hằng ngày tới nhà bà dì – em má – sống suốt ngày với cô con dâu mới của dì. Cô em dâu tươi đẹp như hoa lấy chú em Khôi hiền hậu nhưng cao lớn, thô lậu lại bị chột một mắt, tuy đã sang Nhật chữa thành mắt giả trông như bình thường. Chị Trang đến giúp dì góa bụa, làm vui cùng em dâu ban ngày, chiều trở về nhà với má, cho tới ngày chị thấy ân ái tình nồng đã khiến cô em dâu không còn lưu tâm đến nhược điểm thể chất của người chồng hiền lành nữa. Việc này với bao nhiêu việc khác tương tự, mãi cho đến ngày đó Phượng mới hốt hoảng khám phá ra ý nghĩa để hiểu rõ nếp sống tâm linh của chị.

4

Khám phá ra nếp sống tâm linh của chị, thế là Phượng tìm ra cho mình một điểm tựa vững chắc. Rõ ràng Phượng thấy bớt cô đơn trong những thấp thỏm, dằn vặt, những lo âu hãi hùng cho ông nhà văn.

Kể từ sau khi thất thủ Đà Nẵng, hầu như mỗi sáng sực tỉnh lại hay tin một tỉnh, hoặc một thị xã, hoặc một thị trấn của mình rơi vào vùng kiểm soát của Cộng sản. Tội nghiệp cho những người cầu sương điếm cỏ ở các vùng ngoại ô Sài Gòn, hay màn trời chiếu đất ngay tại Sài Gòn nơi chân tường nhà thương Từ Dũ, dọc hàng rào công viên Tao Đàn… Những người đó bỏ quê hương miền Trung vào tị nạn miền Nam những mong qua những ngày tạm bợ, sớm được an cư lạc nghiệp tại vùng đất lành chim đậu này, giờ đây viễn tưởng cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản không còn là điều đáng ngạc nhiên nữa, trong thâm tâm những người đó ê chề biết chừng nào. Cho đến chiều ngày 29-4-75, một buổi chiều màu trời đỏ quạnh, đỏ như máu trào lênh láng từ một vết thương không bao giờ lành được nữa. Phượng còn nhớ rõ những âm thanh, những màu sắc, những mẩu chuyện điển hình quanh biến cố lịch sử này.

Màu trời đỏ quạnh như máu suốt chiều 29-4.

Tiếng máy bay rù rì không ngớt mấy ngày nay rồi để thường xuyên yểm trợ cho những trực thăng hạ cánh tại những địa điểm rút quân. Tiếng súng lớn ì ầm vọng lại, người ta nói đương có giao tranh dữ dội tại xa lộ Biên Hòa. Đài FM vẫn phát thanh nhạc nhẹ. Sáng 30-4 lúc 5 giờ, đài FM tắt ngấm. Quân Mỹ đã rút hết. Ông nhà văn còn ở Sài Gòn, Phượng biết. Nhưng Họa đã đi rồi, đi ngày hôm trước, ngay đúng lúc có đợt ì ầm rộn rã nhất. Họa cũng như anh Trung vào hạ tuần tháng Tư năm đó đều có mặt tại Sài Gòn và bị cắm trại. Buổi trưa ngày 29, Họa xuất hiện đột ngột trước ba và Phượng, tay cầm chiếc vợt tennis nhãn hiệu Wilson. Ba hỏi đi đâu vậy, thì Họa đáp: “Thưa bác cháu đi đánh tennis.” Cứ như thể là Sài Gòn không thể mất được, nhưng Họa đã nói khẽ riêng cho Phượng nghe là ngay sau đó Họa và một số bạn Hải quân sẽ theo tàu ra khơi.

Suốt sáng ngày 30-4 Phượng nằm sát chân tường nghe tiếng súng nổ rền bên ngoài. Thực ra khoảng 8 giờ sáng lối xóm đã có người chạy xe Ves- pa ra đường sem ,thiên hạ đang đi hôi của – công sở hay nhà gia chủ bỏ đi ngoại quốc – phản ứng dân chúng: nhiều nhà cha mẹ đã lo khóc vì có con đi lính. Nhiều người còn chạy tới Tòa Đại sứ Pháp xem còn có thể đi được không. Mười giờ, vặn radio nghe bản tuyên bố đầu hàng của tướng Dương Văn Minh. Cờ Mặt trận Giải phóng đã phấp phới đầy Sài Gòn. Binh sĩ vứt súng ống, quân phục đầy đường, chuồn lủi về nhà hay về nhà người quen. Nhưng lính Dù mũ đỏ, lính Thủy quân lục chiến và Biệt kích mũ xanh thì giữ kỷ luật đến phút tập họp cuối cùng trước khi giải tán.

Đơn vị 81 Biệt cách Dù – đã từng tử thủ ở An Lộc – ngày 30-4 tử thủ tại Tòa Hành chính Bộ Tổng tham mưu, bắn cháy hai chiếc T.54 của địch ngay trước cổng, một số tự sát tập thể, một số rút ra ngả đường Chi Lăng rồi biến dạng.

Tướng Nguyễn Khoa Nam, vị tướng ăn chay trường, tư lệnh Vùng IV, thoạt quyết định sẽ biến vùng này thành chiến khu. Với quân số, với vũ khí, với lương thực, với hai con sông Tiền, sông Hậu ngăn chặn xe tăng địch… ông nghĩ mình có dư điều kiện thực hiện quyết định. Nhưng thế nước trời bỏ, người bỏ, hoàn toàn vỡ lở mất rồi, sức một vài người không thể cứu vãn nổi. Lệnh đầu hàng thu băng được quay đi quay lại lải nhải trên đài phát thanh đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Cộng sản cho người tới liên lạc với ông. Ông đòi tướng ngang hàng tới nhận bàn giao ngay tại Bộ Tư lệnh (Cần Thơ). Bàn giao xong, ông vào phòng riêng cùng với một tùy viên, tự bắn vào đầu.

Tướng Lê Văn Hưng, tướng tử thủ An Lộc, từng dư sức chịu đựng hằng ngày hơn mười ngàn trái đại bác rớt vào An Lộc, phó Tư lệnh Vùng IV, cánh tay mặt của ông Nam, cùng tâm trạng y hệt ông Nam. Xưa Lưu Bị có cả Ngọa Long Cẩn Phượng Sồ mà nào có thu được thiên hạ về một mối; Vùng IV có các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn giữa vùng cá gạo ngút ngàn mà vẫn đành cam chịu buông xuôi tay bất lực. Nhà tướng thất trận thì phải chết, ông Hưng nghĩ vậy. Ông từ giã vợ con rồi lên lầu tự bắn vào tim.

Đại tá Hồ Ngọc Cẩn xuất thân từ Thiếu sinh quân, thuần túy nghiệp võ, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện bị Cộng sản bắt giữ sau ngày 30-4. Khoảng tháng Tám, tháng Chín, Tòa án Nhân dân đầu tiên đem ông ra xử tại sân banh Cần Thơ. Ông bận bà ba đen, lúc nào cũng tươi cười. “Tôi không có tội gì hết! Ở đây chỉ có kẻ thắng người bại, thế thôi!” Đó là cách ông dứt khoát trả lời Tòa án Nhân dân. “Anh muốn nói gì với đồng bào không?” Đó là lời tòa hỏi ông trước khi tuyên án, nhưng khi ông sắp cất lời, công an Cộng sản đã vội tọng giẻ vô miệng, và tòa tuyên án tử hình. Và người ta kéo ông tới chiếc cọc đã đóng sẵn từ bao giờ. Cho đến lúc bị cột chặt vào cọc rồi, ông vẫn giữ nguyên nét mặt tươi tỉnh bình thản. Cộng sản thiệt tình vô chính trị cho trực tiếp truyền hình vụ xử án này. Cái chết của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã gây xúc động cả bề sâu lẫn bề rộng. Đồng bào miệt vườn, trước đây nuôi và che chở cho Việt cộng nằm vùng, giờ đây không được phép mang gạo lên tiếp tế cho đám con cháu ở Sài Gòn, đã phản ứng chửi thẳng cán bộ, công an, binh sĩ Cộng sản tức khắc – đúng tác phong bộc trực của người miền Nam!

Trở lại ngày 30-4, binh chủng Biệt động quân đóng tại khu Trần Quốc Toản, có một toán tự vẫn tập thể, sau khi một vị tướng lãnh ra lệnh kéo quốc kỳ lên rồi tự bắn vào đầu ngay dưới cột cờ.

Cũng chỉ 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư, anh

Trung đã có mặt ở nhà. Má nói với anh, “Mày phục vụ trong ngành Quân y chắc không sao đâu con ạ.” Ba ngồi ngay đó, nhìn sâu về phía trước như nhìn vào cõi siêu hình nào, mấy phút sau ba mới nói đủ cho anh Trung và Phượng nghe:

- Kể từ ngày mất Ban Mê Thuột, ba đã biết đại sự hỏng. Thực ra đó là điều ba đã biết sợ từ lâu, nhưng mãi đến khi quân lực mình quyết định rút khỏi cao nguyên, thì ba biết điều mình sợ từ lâu đó sắp thành sự thực mất rồi. Từ trước đến nay ba vẫn khinh lũ chính quyền Quốc gia này, chính chúng đã là đồng minh đắc lực nhất của Cộng sản với sự tham nhũng tồi tệ vô liêm sỉ của chúng. Nhưng bây giờ nếu chúng tử thủ, ba sẵn sàng tử thủ với chúng, bởi dầu sao chúng vẫn thuộc phe mình. Giờ thì mình khánh tận mất rồi các con ạ, cả vật chất lẫn tinh thần!

Anh Trung đáp lời ba, giọng anh - Phượng nghe thấy trưởng thành hẳn - lạ thế:

- Không khánh tận đâu! Không khánh tận đâu, ba ơi!

Ba nhìn anh ưu ái hỏi:

- Con nghĩ thật vậy sao?

- Dạ! Sáng nay trước khi có lệnh đầu hàng, tất cả những băng tần của Đài Sài Gòn đều phát ra những lời thiết tha nhất, chân thành nhất của một đảng phái chính trị nào đó thống trách Cộng sản đã bỏ lỡ bao nhiêu dịp hưng khởi quốc gia. Năm 1945 nếu như Cộng sản đừng đi vào quỹ đạo Cộng sản, mở cửa giao thiệp với cả hai khối, thì với trí thông minh ấy, với tổ chức ấy, quân lực thiện chiến ấy, cả hai khối đổ xô lại ve vãn mình, giúp mình tận tình. Họ tự kiềm chế lẫn nhau, mình chỉ việc tập trung các đầu não sáng suốt nhất điều khiển việc xây dựng đất nước y hệt Nhật tại Á Châu này, Tây Đức bên Tây Âu đó. Hai mươi mốt năm đi vào con đường bị vùi dập xác xơ như vậy; nhờ lòng ái quốc, nhờ sức chịu đựng tuyệt vời của dân tộc, giữ cho được không ngã gục. Thế giới tự do đã không dám phiêu lưu tìm mức chịu đựng cuối cùng của một dân tộc bất hạnh mắc kẹt vào khe răng của Cộng sản, miền Bắc bây giờ có bề ngoài được cuộc, miền Bắc bây giờ có bề ngoài trúng lô độc đắc, nhưng miền Bắc đâu có được “lĩnh tiền mặt”, mới chỉ là một “mảnh chi phiếu” chênh vênh. Cả Nga lẫn Tàu, cả Mỹ lẫn Nhật Bản cùng sẵn sàng giúp Việt Nam xây dựng lại xứ sở đổ nát tan hoang sau ba mươi năm chiến tranh, nếu như người Cộng sản không phản bội Tổ Quốc, không phản bội giống nòi, “Đảng trên hết”. Chúng ta đã bỏ lỡ một nước cờ tuyệt vời: Việt Nam trung lập trong một Đông Nam Á trung lập để tự thực hiện và đóng góp cho cả thế giới nền văn minh đặc thù của riêng mình. Phản bội giống nòi, phản bội Tổ Quốc, mắc kẹt giữa Liên Xô và Trung Cộng, kể từ nay bắt đầu sự suy sụp không cho riêng chúng, mà cho cả khối Cộng sản nói chung. Đó là bước đi tất yếu của lịch sử.

Vừa là lời kết án Cộng sản trước tòa án lịch sử, vừa là lời công bố đường lối chính sách với quốc dân. Phượng nghĩ ngay tới ông nhà văn. Ông ta còn ở đây – nhỏ bạn thông cảm với nỗi niềm lo âu của Phượng đã cho hay như vậy chiều hôm qua. Nhưng hôm nay thì sao, có thể ông ta đi được rồi. Ông ta phải đi, phải đi để còn giúp những người phục quốc sau này về phương diện tuyên truyền và văn hóa.

Ba nghe anh Trung nói, lặng ngắt giây lâu mới phát biểu:

- “Lâm cục giả mê!” Chúng nó không biết tri túc, tri chỉ, những lời nói thiết tha đó cũng như đàn gảy tai trâu. Có điều với hệ thống đan kết chặt chẽ của chúng, thường xuyên bám chắc lấy mọi tầng lớp dân chúng, thì rồi đây tới ngày chúng sụp đổ chúng kéo cả dân tộc sụp đổ theo.

Anh Trung quen khá nhiều đám thanh niên làm báo, vừa lúc đám bạn trẻ đó từ làng Báo Chí trên xa lộ Biên Hòa tới. Họ cho hay từ đêm 28 tháng Tư có một Việt Cộng, chú nhỏ trẻ măng, không rút kịp đồng đội, đi lớ ngớ giữa làng Báo Chí. Có người khuyên chú nhỏ nên ra hàng, chú lắc đầu đáp: “Cháu không hàng đâu!” Người ta bèn chỉ cho chú nhỏ qua đêm tại trường tiểu học ngay đấy. Một bà còn cho chú số tiền hai ngàn rưởi đổng để tiêu dọc đường khi chưa tìm thấy đơn vị. Người ta không hề nhìn chú như kẻ thù mà như kẻ tị nạn.

Một ký giả trên tứ tuần từ làng Báo Chí nhìn lên cầu xa lộ hồi 10 giờ ngày 30 tháng Tư: Một chiếc xe tăng bốc cháy, quân phục, mũ, súng ống vứt bỏ ngút ngàn dọc theo xa lộ. Có tin một toán quân Dù của mình tự sát tập thể ở quãng Hàng Xanh kề bên xa lộ. Vẫn ở làng Báo Chí, một người hỏi một người khác tới ba lần mà người kia ngồi im như tượng gỗ, không trả lời. Buổi chiều thịt một con gà, hai người ngồi đối ẩm tiêu sầu, người kia nâng ly rượu lên bỗng đặt xuống ôm mặt khóc rống như trẻ nít. Suốt từ 10 giờ sáng đến chiều, đủ các loại xe trưng dụng được chở kín quân đội Cộng sản chiến thắng về Sài Gòn. Một người dân Sài Gòn đứng trước Sở Thú lắc đầu ngao ngán, “Họ ăn mặc xập xệ quá à, đi đứng ngơ ngác, họ có quân kỷ mà không có quân phong, vậy mà họ thắng mình – kỳ thật!”

Buổi chiều 30 tháng Tư có anh lính Cộng hòa cũ ngồi uống la-de ở quán, nguyền rủa Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Một người miền Bắc di cư vào miền Nam từ 1954, nhìn một chiếc xe chở những người lính Bắc đã đứng tuổi vừa qua, vẻ mặt bâng khuâng nói với bạn bên cạnh: “Lâu lắm tôi mới được gặp lại nét mặt của những người nông dân miền Bắc. Có những nét đặc biệt trộn không lẫn anh ạ.”

Mấy ngày sau, những người lính Việt Cộng đi chợ mua thức ăn, họ hỏi giá nhiều thứ nhưng rút cục không thể mua thứ gì ngoài rau muống. Họ ít tiền quá, tội nghiệp!

Những chàng ký giả bay bướm, trước đây chửi Cộng sản, diễu Cộng sản, hô hào Bắc tiến, nay trong bẽ bàng như chim gãy cánh, cá mắc cạn, tìm khuây nơi men rượu. Một chàng lè nhè với bạn vừa tới thăm: “Còn rượu không mày? Chúng mình thua chúng nó là phải, chúng chỉ biết đánh nhau, chuyên phá hoại, coi rẻ con người!” Nói xong anh chàng tự rót đầy một ly rượu đế ngửa cổ uống ực một hơi, mặt nhăn lại vì đắng cay, nấc một tiếng khan, hơi rượu bốc lên từ dạ dày. (Một tháng sau anh chàng này chết, chắc chắn anh đã tự sát từ từ bằng rượu. Cuộc sống chẳng còn gì quyến rũ anh nữa.)

Ông nhà văn còn ở Sài Gòn. Ông chưa đi hay là không muốn đi?

Phượng thiếp đi lúc nào không hay giữa những hình ảnh bề bộn hồi niệm trước và sau quanh ngày 30 tháng Tư. Lúc Phượng sực tỉnh mệt mỏi, trời đã sáng rõ. Phượng uể oải xuống thang. Nhưng sau khi rửa mặt nước lạnh, Phượng tỉnh táo hẳn, đón chào một ngày mới, một ngày cuối cùng nơi quê hương. Thật chua chát, nhưng Phượng thấy mình có bổn phận phải thức tỉnh. Em gái nhỏ mang xôi lạp xưởng lại. Phượng nhắc em thay cho bình nước trà nóng, thiệt nóng. Phượng ngồi ngay ngắn trên căn gác tĩnh, đôi mắt nhắm, miệng nhấp ngụm trà nóng… Và suy nghĩ, suy nghĩ…

CHƯƠNG SÁU
Đường Lên Mặt Trời

1

Hồi niệm lại những biến cố chỉ để đặt những lo âu của mình vào đúng bối cảnh; nhưng sao những biến cố lịch sử đó nặng nề như thác lũ, như núi đổ không tương xứng với những dòng thổ lộ tâm tư trong suốt của Phượng gửi cho ông ta. Tâm tư như cánh bướm, bềnh bồng ve vuốt biến cố như giông bão dập vùi. Phượng đọc tiếp lá thư thứ sáu gửi cùng chung phong bì với lá thư thứ năm:

Ngày 4-9-1975

Ông kính mến,

Buốt cả hai vai. Cóng cả đôi môi. Ông nào có hiểu ở một vùng tối đen thăm thẳm có một con bé đương ngồi ôm đầu tự hỏi trên vòm cao hun hút kia có hành tinh nào có người ở không nhỉ, có con bé nào vớ vẩn như mình không nhỉ. Buổi chiều tôi ngủ thiếp gục đầu trên bàn học và mơ màng nghe:

Trong ta là núi là rừng

Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi

Có phải là tôi bây giờ? Thời gian sao như cách xa vời vợi.

Ông ạ, hôm tôi trở lại Sài Gòn, bà chị tôi trao cho gói quà với lời dặn khi tới Sài Gòn mới được mở ra. Gói quà gồm toàn những vật dụng cần thiết rất thực tế nhưng có kẹp thêm tấm carte của chị với nét chữ quen thuộc – Il y a deux tragédies dans la vie: la première, c’est de n’avoir pas ce que son coeur désire, la second, c’est l’obtenir.

Chị biết ông mãi mãi là một ám ảnh lớn phủ chụp lấy tinh thần yếu đuối khốn khổ của tôi.

Ông ạ, tại sao trong những năm tháng quá ngắn ngủi kia lại có những giờ phút quá dài dằng dặc như thế này. Gửi đến ông một lần đường-lên-mặt-trời-nhớ-thương.

Kính thư, Ph.

Úp vở lên ngực, Phượng mỉm cười rất bằng lòng nhớ lại ngày đó chính Phượng đã ngẫu hứng dịch bài thơ tứ tự theo sát ý những dòng Pháp văn của chị Trang:

Bi kịch cõi đời

Hai chiều đối cực:

- Mơ chẳng chìu người!

- Ước thành sự thực!

Hôm gặp lại chị tại Sài Gòn, Phượng đọc cho chị nghe, chị cười hiền thiệt, mãi chị mới dịu dàng nói:

- Mi dịch cô đọng quá, tao muốn nới hai câu cuối thành:

Một là mơ chẳng chìu người

Hai là mộng đạt được rồi, chán chưa!

Rồi hai chị em cùng ôn lại những chuyện vui miệt vườn mà cả hai cùng sống trọn một tháng qua. Má còn dưới đó. Ngày má lên Sài Gòn thế nào mà chả mang theo nào vú sữa, nào mít tố nữ, nào lê-ki-ma. Nhà cửa, vườn cây trở về bàn tay săn sóc của ông chú bà thím.

2

Là sinh viên Quân y, năm 1974 học xong bệnh lý, anh Trung đi phục vụ chiến trường liền, anh phục vụ ngay tại Đại lộ Kinh Hoàng, Quảng Trị. Mồ chôn tập thể những người dân Quảng Trị rút về Huế chết dưới hỏa lực Cộng sản hai năm trước (1972) vẫn ngổn ngang gò đống hai bên vệ đường. Xác xe cộ đủ loại – xe du lịch, xe hàng, xe nhà binh… cháy đen cũng vẫn nằm ngổn ngang hai bên vệ đường. Nhưng câu chuyện ma anh gặp vào thời này, mãi tới tháng 6-1975 anh mới kể cho bằng hữu ký giả nghe – trước ngày anh khăn gói đi học tập khoảng một tuần thì phải. Chính câu chuyện kể vừa vui vừa lạ của anh – mà Phượng được nghe ké – đã giúp Phượng khuây khỏa được phần nào những lo âu cho ông nhà văn vào dịp đó. Anh Trung vẫn có tài kể chuyện!

- Tới Đại lộ Kinh Hoàng – lời anh vào chuyện với các bằng hữu ký giả - tớ được cử ngay làm Y sĩ trưởng tại đơn vị phẫu thuật tiền phương nằm ở cửa biển Gia Đẳng. Làng Gia Đẳng thì bị san thành bình địa từ hai năm trước rồi. Phòng ở cũng như phòng mổ cấp cứu đều được che tạm bằng tôn hay vải dù trên những bờ tường trơ trụi. Anh em tiếp đón tớ niềm nở lắm và nói ngay là “đã có phòng riêng cho đại ca!” Đó là một phòng nhỏ ngay bên phòng mổ cấp cứu, chỉ cách nhau có hai cánh cửa lửng như các tiệm rượu trong phim cao bồi. Sau một ngày di chuyển, mệt!

Mười giờ tối tớ đã lên giường ngủ. Chợt thấy một cô gái đúng sau hai cánh cửa lửng, tì tay lên cánh cửa.

- Đẹp không? – Một anh cười hỏi.

- Cô mặc toàn đồ trắng và tớ có cảm tưởng là đẹp.

- Sao lại có cảm tưởng thôi?

- Quả thực là danh từ chính xác nhất tớ dùng đó. Chỉ có thể nói là có cảm tưởng mà thôi. Có cảm tưởng là cô gái khoảng mười chín, hai mươi tuổi, có cảm tưởng là cô đẹp, có cảm tưởng cô đang nhìn mình cười. Thoạt tớ giật mình sợ Việt cộng cho đặc công tới ám sát. Thấy cô vẫn tì tay vào cửa đứng im thì lại nghĩ lính đưa gái điếm từ Huế vô. Có thể thế lắm! Tớ bèn quát, “Ai?” Không biết có phát ra âm thanh hay không, chỉ biết khi tớ quát “Ai?” lần thứ hai thì cô gái đẩy cửa bước vào. Tớ rút khẩu rouleau

6 viên định bắn báo động nhưng không kịp, cô gái đã nhảy tới ôm ghì lấy tay.

- Bở! – tiếng người bạn vừa cười vừa giễu.

- Tớ cố vùng vẫy, đẩy văng cô ra cửa. Tỉnh hẳn. Vặn đèn dầu cho sáng hơn. Tuy nhiên lúc đó cảm nghĩ còn mông lung lắm, chưa dứt khoát suy luận có đầu có đuôi để nghĩ rằng đó là người hay là ma. Sau khi đã vặn đèn cho sáng hơn, tớ để khẩu rouleau ngay tầm tay, rồi nằm xuống, bắt đầu kéo chăn lên vừa tới ngang ngực, thì lần này không phải một mà là ba cô nhào vô, vẫn cô áo trắng thêm hai cô áo đen nữa. Một cô ôm chân, một cô ôm người, một cô chụp cái gì lên mặt mình. Lập tức tớ chân đạp, tay đấm, miệng la. Ba bóng ma vụt bỏ ra ngoài. Lại thấy ánh sáng trong phòng, đồng thời thấy một đệ tử đang lay gọi mình. Tên đệ tử nói: “Em thấy đại ca miệng ú ớ, đôi mắt mở nhưng không có tinh thần, khi thấy đôi mắt đại ca vụt sáng, lúc đó biết đại ca đã thực tỉnh rồi!” Trong khi đó phòng bên có tiếng khúc khích cười và tiếng nói vọng sang, “Đại ca bị nó đè rồi!” Đó là những tên đã ngủ trong phòng này và đã trải qua kinh nghiệm. Ba tháng sau, đúng hôm tớ sắp trở lại Sài Gòn trình luận án Y học, tớ gặp một Trung úy Thủy quân lục chiến đã từng dự chiến dịch sáu mươi ngày tái chiếm lãnh thổ đánh ngược từ tuyến Mỹ Chánh lên tới Cổ thành Quảng Trị, anh cho biết khi đội quân của anh tái chiếm tới căn nhà này, anh có thấy xác một thiếu nữ tóc dài, thân thể lõa lồ, ngang ngực có chiếc áo trắng, nằm chết vắt ngang bậc cửa.

Câu chuyện có duyên mà lại rờn rợn của anh Trung đã đánh lạc ý nghĩ lo âu của Phượng ít ra là mấy ngày. Anh Trung không hề đọc ông ta, nhưng tới đây thì Phượng đã đủ trưởng thành để khám phá thấy nghệ thuật đa dạng, phong phú ở tất cả mọi nơi, và qua câu chuyện kể của anh, Phượng như rút được bài học: Dù pha trộn hỗn hợp hay biến cải mọi trào lưu xô đẩy nhân loại, vẫn là chẳng có cái gì có thể ngăn chặn sự thông cảm tương giao giữa tâm hồn và ngoại vật.

Sau khi đám bạn anh Trung về, Phượng hỏi anh:

- Anh ơi, anh có thích dùng lý trí để soi sáng mọi chuyện?

- Lý trí? Những kẻ chỉ biết đơn thuần xưng tụng lý trí dễ biến thành một thứ điếm, một thứ thầy cãi ma cô ngụy trang lòe loạt những tội lỗi tày trời của mình. Em cứ nghe tụi Cộng sản lý luận, đúng là con đĩ lý trí cặp kè với thằng thầy cãi ma cô, chúng nó soi sáng đủ thứ, trừ chân lý!

Phượng rụt rè hỏi anh thêm câu nữa:

- Hồn ma cô gái trêu anh. Nếu quả có hồn ma, anh nghĩ gì về tình trai gái?

- Ờ, cô đã đủ lớn để anh nói cho nghe. Hình như trong đoạn đầu của Kinh Cựu Ước, quan niệm của Thiên Chúa giáo cho đó là tội lỗi nguyên thủy. Còn bên Phật giáo thì coi cha mẹ là những con kinh vận hà, nhờ đó các linh hồn có phương tiện đi đầu thai cõi trần, do đó tình dục, sinh lý giữa nam nữ có một ý nghĩa thiêng liêng cao quý.

Ngày 24-6-1975, anh đến trường Chu Văn An trình diện. Tưởng là đi học tập sáu ngày, ai ngờ thành hai năm rưỡi. Mãi đến cuối năm 1977 anh mới được tha về.

3

Phượng vẫn ưa chuyện ma, ưa đọc Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh. Lần này Phượng đọc lại bức thư số bảy của mình thoải mái hơn.

Ngày 1-10-1975

Ông kính mến,

Biển máu đã không xảy ra ở Sài Gòn, nhưng quả thực đã có nhiều suối máu đổ ra ở lục tỉnh, nhất là ở các vùng quê hẻo lánh. Nghe nói chúng sẽ xử tử biểu diễn một nhà văn ngay tại Sài Gòn để uy hiếp tinh thần toàn thể giới văn nghệ sĩ miền Nam. Ước mơ duy nhất của tôi là ngày ngày vẫn được thấy bóng ông thấp thoáng nơi phòng khách nhà ông. Ngót một năm qua rồi, kể từ lần đầu tiên tôi nghe ông diễn thuyết ở đại giảng đường trường tôi. Ngày đó sao vẫn còn xa lạ với tôi, mặc dầu đôi lúc đã từng có những giọt nước mắt rơi khi tôi ôn lại kỷ niệm ngày đó. Buổi sáng nay tôi tới trường sớm, ngồi đúng chỗ cũ trên sân trường ngày nào, thoạt thấy ông qua cổng trường bước vào làm tôi bàng hoàng choáng ngộp.

Sao tôi sợ quá, sao tôi thèm có một bờ vai của người thân để ngả đầu vào, nhắm mắt lại, xóa hết mọi phiền muộn thống khổ. Ông ạ, tôi thèm được sống lại những ngày học thi bù đầu, mệt nhoài cả người. Dù đã biết những kỳ thi làm mình mụ người, nhưng nếu không có những ngày thi mình cũng không biết làm gì.

Buổi tối nhỏ bạn lại chơi. Nó biết tôi đơn côi, bất kỳ lúc nào có thể tới chơi là nó tới để sưởi ấm cho tôi. Tối nay nó ngồi sát bên tôi và cất tiếng hát nho nhỏ tưởng như cố ý ru tôi. Để tôi ghi lại lời ru đó ông cùng nghe với tôi:

Nhiều khi tôi như đứa bé không mẹ Nhiều khi tôi như đứa bé không mẹ Xa vắng âm thầm tái tê

Nhiều khi tôi như đi mãi không về Nhiều khi tôi như đi mãi không về Xa vắng âm thầm não nề

Nhiều khi tôi như sợi tơ trắng bay hoài Nhiều khi tôi như sợi tơ trắng bay hoài Xa vắng âm thầm khôn nguôi.

Nhỏ bạn ra về, còn lại mình tôi ngồi nguyên chỗ cũ. Trời bỗng nổi cơn mưa bất ngờ, bất ngờ với thiên hạ, nhưng rất chờ đợi với chính tôi. Cứ vậy tôi lẻn ra đường không đội nón. Tôi nhẩm ca lại bài hát của nhỏ bạn vừa rồi, và tôi cười một mình, khuôn mặt nhạt nhòa cả nước mưa lẫn nước mắt.

Tôi không còn sợ ông bực mình nữa, không ngại làm phiền ông nữa, dù là đã hơn một tháng qua, bây giờ - hơn mười hai giờ khuya rồi – tôi mới cầm bút viết tiếp gửi tới ông bức thư này. Tôi ôn lại ngày ngồi ở đại giảng đường, tưởng như nghe lại lời ông nói thật rõ ràng. Nhưng sao tôi không vui? Xin phép được đọc bài thơ nhỏ của chính tôi:

Ông đi ngang đó Ông về ngang đây (Có nhìn ra tôi) Như con chim nhỏ

Khóc trong vườn gầy

Ông đi qua đó

Ông về ngang đây

(Có nhìn ra tôi)

Mây chiều lãng đãng

Sầu đong vơi đầy.

Xin gửi đến ông thêm một lần đường-lên- mặt-trời-nhớ-thương.

Kính thư, Ph.

4

Hơn một tháng qua… Tin sẽ xử tử một nhà văn tại Sài Gòn nguôi ngoai đi. Chắc họ đã bỏ ý định đó, sợ thất chính trị. Nhưng tất cả nhà tù khắp miền Nam đều chật ních. T20 – trại tù Phan Đăng Lưu – đã được cấp tốc mở rộng, xây thêm một trại nhỏ gồm đủ một nhà giam tập thể cùng những phòng biệt giam. Biết bao cơ quan cũ, khách sạn cũ được cải biến thành nhà tù mà vẫn không đủ chỗ nhốt người. Tại một khách sạn cải biến thành nhà tù kia hết chỗ nhốt, đành phải nhốt tạm hai cô gái trong cầu thang máy. Một cô mót đi tiểu quá đành nhăn nhó với người đàn ông phía dưới “Chú ơi, cháu kẹt quá, chú tha lỗi cho cháu nhé” rồi tiểu. Người đàn ông phía dưới đã kịp né mình sang một bên...

Ngày 10-12-1975

Ông kính mến,

Tôi không biết phải nói như thế nào để ông không cho là tôi yếu đuối, để ông không nghĩ là tôi kể lể.

Ông ạ, ông đã cho tôi sức mạnh, niềm tin, đồng thời cũng đã cho tôi sự yếu đuối. Và với ông, tôi đã xóa hết tự ái, nhưng cũng với ông tôi tự ái nhiều hơn hết.

Đêm qua tôi chứng kiến cảnh một đám công an ập tới kiểm soát nhà một quân nhân cấp tá mà chúng nghi là chưa trình diện. Tiếng hét xẵng bắt phải bật đèn cấp tốc, tiếng gọi xách mé, cao ngạo, vô lễ… Ông ạ, bây giờ thì tôi thực hiểu địa ngục. Không cần phải chết xuống âm phủ mới biết, địa ngục lúc nào cũng có thể được chứng kiến nhỡn tiền: địa ngục ở bất kỳ hành tinh nào trong vũ trụ cũng chỉ là mưu cơ khủng bố, lừa lọc, gian ác, đàn áp, sợ hãi… Tôi thấy nghẹt thở và lẻ loi dễ sợ. Để ngăn cho mình không suy nghĩ, dịu bớt cơn đau đầu, để có chút tin yêu – dù niềm tin yêu quá mong manh trong đêm tối có đám công an Cộng sản đang vây bắt – tôi nghĩ đến ông. Tôi cắn chặt ngón út, nghĩ đến nụ cười và ánh mắt của ông, nghĩ đến những tình cảm trong sáng nhất đời người của tôi dành cho ông.

Sáng sớm nhỏ bạn đã tới. Phúc đức! Tôi đương cần nhỏ bạn, đức Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thế của tôi! Chúng tôi cùng tới ăn hủ tiếu Nam Vang, tiệm ngay bên hẻm nhà ông. Trời ơi, tôi đã xô ghế đứng dậy, nhỏ bạn nắm ngay tay tôi, nắm chặt đến bây giờ còn buốt: Ông vừa xuất hiện từ trong hẻm bước ra đường lộ, ông đi khoan thai, buồn vời vợi bên một người bạn có nét đăm chiêu khắc khổ hơn. Tôi không kịp nhận ra mình, không kịp nhận những phản ứng của mình và của những người xung quanh, tôi ngồi phịch xuống ghế, không rõ nhỏ bạn nói những gì. Ông và người bạn đã khuất sang phố khác. Một giấc mơ nhỏ bé nhất của tôi cũng không thực hiện được!

Hoàn cảnh âm u, ngày dài dằng dặc, ông vẫn còn đó thật gần gũi mà cũng vô cùng xa xôi.

Không còn được bao lâu nữa đâu. Tai nạn sụp đổ bất ngờ. Dập tắt. Cắt đứt. Tôi biết. những lúc trở lại tình trạng thê thảm não nề, tôi nghĩ đến ông, chút tin yêu cuối cùng duy nhất. Phải như tôi được gặp ông bây giờ, không cần có nhỏ bạn.

Kính tặng ông tất cả mong muốn còn sót lại của tôi và thêm một lần nữa gửi đến ông đường-lên-mặt-trời-nhớ-thương.

Kính thư, Ph.

CHƯƠNG BẢY
Hờn Giận Đong Đưa
Cơn Khóc Ngọt Ngào

1

Ngày 15-2-1976

Ông kính mến,

Có những lúc như thế này tôi mới thấy thật sự mình đã cố khoác cho mình một bề ngoài cứng cỏi và bất cần. Gặp lúc thanh vắng như thế này, chỉ có mình nói với mình như thế này, những lớp sơn phết rơi rụng lả tả, chiếc mặt nạ rớt xuống tan tành, và những giọt nước mắt bất ngờ rơi…

Đáng lẽ tháng Năm năm ngoái tôi thi ra trường để thành cô giáo trung học thì họ vào. Thế là họ bắt học thêm năm nay, nói là để bồi dưỡng nghiệp vụ, kỳ thực để nhồi nhét chính trị, nhưng vô hình trung họ đã tự triển lãm hết cái ngu dốt, bất tài, bất lực của họ. Thật ra, tôi và nhỏ bạn đâu có thiết học nữa, nhưng vì vào những ngày đầu “cách mạng” này, bọn tôi cũng chưa biết phải làm gì, thôi thì cứ đi, ngày ngày xem bức tranh vân cẩu ở ngay tại trường. Riêng tôi, có đến trường thì tôi mới có dịp cùng nhỏ bạn tới ăn hủ tiếu Nam Vang ngay đầu hẻm nhà ông và hy vọng thấy ông ra đứng trước cửa hoặc cùng bạn ra đường lộ rồi khuất dạng đi đâu đó.

Ông ạ, chiều nay tan học, khi một mình tôi

– nhỏ bạn nghỉ học – đạp xe ngang qua hẻm chợt thấy ông vừa ra tới đường lớn, tôi muốn chạy lại ông, nắm tay ông để có thêm chút tin tưởng, chút chịu đựng, và khi thấy ông quay lại cười với người bạn cũng vừa bước tới, tôi muốn khóc, tủi thân và muốn giận mình… giận mình sao không còn giữ niềm hãnh diện tối cần thiết, dù chỉ là niềm hãnh diện bi đát không ai hiểu ta. Ôi, sao tôi không là một con nhỏ cao ngạo ở một góc trời. Nhưng tôi đã tự an ủi được ngay và rất hữu hiệu bằng cách nghĩ rằng như vậy còn hơn hay tin chúng đã tới… và không biết tới ngày nào mới được gặp lại ông.

Ô hay, không hiểu sao mỗi khi gặp ông bất ngờ như vậy, bao giờ tôi cũng có cảm tưởng là mình vừa ngửng phắt đầu lên thì thấy ông. Có phải ông bao giờ cũng là ngôi sao chung thủy trên đầu khi đường tôi đi đêm tối mịt mù?

Mấy ngày nay tôi lo sợ, lúc nào cũng hốt hoảng, chờ đợi… Bây giờ thì không riêng gì tôi mà cả dân chúng miền Nam đều hiểu rằng với tụi này bất kỳ việc gì, dù tàn nhẫn đến mấy, chúng đều làm được hết. Những vụ bất ngờ ập tới khám nhà, nửa đêm ập tới bắt cả nhà người ta đi vùng kinh tế mới, bất ngờ đổi tiền, phát cho mỗi nhà mấy trăm bạc, còn bao nhiêu phải gửi quỹ tiết kiệm. Những người uất ức treo cổ tự vẫn, uống độc dược tự vẫn, nhảy từ lầu cao xuống tự vẫn. Chúng vẫn lừng lững tiến hành, hoàn tất mọi độc kế không mảy may xúc động. Tôi lo lắng nghĩ về ông, nghĩ về ông hoài… Đã hơn một lần có những buổi chiều như hôm nay, đi học về, tôi thay vội chiếc áo ngắn tay rồi ra đường lang thang… đôi lúc chợt tỉnh cơn mê, giật mình không rõ vừa rồi mình sang đường mấy lần. Tôi không bao giờ nghĩ mình có ngày yếu đuối như vậy. Nghĩ lại những bức thư đã gửi tới ông, hình như lòng tự ái của tôi lại lên tiếng, và từ cùng thẳm tâm tưởng, chợt thấy chút giận nôn nao… Cũng may tư tưởng dàn hòa không bao giờ thiếu. Ông nhỉ, có phải người ta khen mình, mình không thích bằng nghe người ta ca ngợi những gì mình yêu quý?

Kính thư, Ph.

Ngày 9-4-1976

Ông kính mến,

Buổi sáng nay, bất ngờ hết sức, đứng một mình, ngồi xuống một mình – cho dễ khuất lấp – tại một góc sân trường, con nhỏ tưởng như lòng thôi không còn những xúc động, trò chơi đã chấm dứt – dù là trò chơi với tất cả tâm não. Nhưng con nhỏ dư biết đó chỉ là ảo tưởng. Hình như trong một lá thư nào viết vào lúc mê hoảng nhất và cũng tỉnh táo nhất, tôi đã e có thể mình quấy rầy ông. Thì cứ cho là tình cờ đi, nhưng chẳng có sự tình cờ nào là khi không cả! Mỗi một chi tiết, dù nhỏ nhặt đến đâu, trong đời sống, đều có một nguyên nhân sâu xa thầm kín nào đó mà ta không biết tới và cũng không thể cắt nghĩa nổi đó thôi. Và ông ạ, bao sự tình cờ đã tuần tự tới, đôi khi ập tới, làm tôi yếu đuối hẳn đi. Đôi lúc tôi giật mình thật nhiều vì cái tự kiêu ngất trời của tôi biến đâu mất. Có một người mà ta thương yêu, mà ta tin tưởng chẳng chút dối lòng, điều đó quá đủ để xóa nhòa tất cả mọi tủi hổ, ngộ nhận. Quả thực trên đời, con người bao giờ cũng dư sức hy sinh tất cả cho những gì mình yêu quý. Huống chi cái tôi yêu quý lại thuộc lãnh vực của Nghệ Thuật, của Đẹp ông nhỉ. Ấy vậy mà đôi khi con nhỏ vẫn không ngăn được mình giận hờn mình, ao ước như những nhỏ bạn cùng lớp, dễ hòa hợp, dễ chấp nhận; ao ước làm một đứa con gái thật bình thường, đúng hơn, thật tầm thường. Tôi đã cố gắng đấy, ông ạ, nhưng thất bại… thất bại hoàn toàn. Bầu trời có sụp, sự chết có tới thì vấn đề vẫn đó, luôn luôn kêu gào, chờ đợi lời giải đáp của mỗi người. Sao tự dưng tôi thèm được đọc thư ông. Tôi có đòi hỏi quá đáng?

Ông kính mến, Gió lạnh, bóng đen, tiếng guốc… tất cả đều làm tôi tỉnh táo và khuyến khích tôi nuôi dưỡng hoài, nuôi dưỡng mãi nỗi khát khao ngự trị trong sâu thẳm tâm hồn tôi, nỗi khát khao dành riêng cho những ai biết chắt chiu cô đơn, biết vỗ về đau khổ. Bao giờ tôi cũng tin tưởng rằng ông luôn luôn nghĩ và mong cho tôi được hạnh phúc. Tôi sẽ cố gắng như đã cố gắng trong những năm qua để xứng đáng với những tình cảm quý giá đó. Ấy vậy mà hôm qua tôi giận ông đến phát khóc, và gây sự luôn với nhỏ bạn. Ông thấy có tức cười không?

Đêm nay trời không một vì sao, tự nhiên tôi thấy mình lẻ loi và nhỏ bé quá, nhỏ bé đến như vô nghĩa trong bóng đêm. Tuần này tôi sẽ trở về miệt vườn Vĩnh Long, chắc sẽ đi chuyến xe cuối cùng về chiều. Chuyến Vĩnh Long lần này không được thích cho lắm vì thiếu nhỏ bạn và thiếu cả chị Trang nữa. Bà dì được một người thân tín cho hay có thể bị kiểm kê tài sản trong dịp đánh tư sản đợt đầu sắp tới, vì vậy chị đã tới ở luôn với dì để trấn an, giữ vững tinh thần dì. Dầu sao thì tôi cũng về hưởng gió quê tuần này, tâm trạng nửa thênh thang, nửa khổ não.

Kính thư, Ph.

Ngày 20-5-1976

Ông kính mến,

Gió đầy trời, nhưng buổi tối quê nhà lần này buồn thê thiết. Tôi không hề được những phút thoải mái để mơ mộng, tận hưởng những êm ả của đêm sâu một mình như lần trước. Rặt những toan tính để rồi đưa đến những lo âu và kết thúc bằng sự nhận chân ra nông nỗi bất lực thê thảm của mình. Làm được gì lúc này? Tay còn quá mềm với sách vở, hồn còn quá ướt với những giấc mơ tuyệt vời nhưng… không tưởng. Trop beau pour être vrai! Và tự nhiên thấy tiếc nuối những ngày ngọc ngà xa xưa.

Nghĩ đến ông để thấy hồn dịu bớt những cơn đau, để còn có thể sống mà không mất niềm kiêu hãnh. Bao giờ tôi cũng nghĩ đến ông khi làm một việc gì. Không nhìn thấy ông bằng xương bằng thịt như ngày nào nghe ông diễn thuyết ở đại giảng đường, nhưng vẫn luôn luôn có ông trong ý nghĩ. Đối với tôi tiếng “ông” để gọi ông đượm vẻ dịu dàng huyền hoặc.

Đã ba giờ sáng rồi đấy, thưa ông. Vậy là tôi đã qua một thời gian khá dài nghĩ về ông.

Giá như sau một lần chợp ngủ khá lâu, khi thức giấc thấy có ông ngồi cạnh. Trời, như vậy thành truyện cổ tích rồi còn gì! Lúc nào trong đầu tôi cũng có điều duy nhất muốn nói với ông…

Ba giờ sáng. Còn là đêm khuya, chưa là buổi sớm. Gió lạnh ghê ghê… Nhớ buổi ông nói chuyện ở đại giảng đường, nhớ giọng ông hát bài ca của Tấm, bài ca buồn… buồn thê thiết… Nhớ những buổi tối một mình co ro đi rẻo theo những đường-của-riêng-tôi-nghĩ- về-ông. Nhớ vô cùng những giây phút nhuốm màu xa xưa đó. Ông ơi, với tôi những kỷ niệm đó là những hành trang thơm mát ngọt ngào tôi sẽ mang suốt cuộc đời. Tự dưng nhớ buổi nào giận ông dễ sợ, và bây giờ vẫn còn gờn gợn. Lạ ghê. Và con nhỏ khóc ngọt ngào. Còn là đêm khuya, chưa phải là ban mai đâu ông ạ. Mong ông có được nụ cười thoải mái trên môi.

Kính thư, Ph.

2

Phượng đọc một mạch ba lá thư cuối cùng, không ôn lại chút gì về bối cảnh thời đó – Phượng cố tình muốn vậy – như người muốn uống rượu nguyên chất!

Bà chủ nhà đích thân mang cơm đến cho

Phượng. Vậy là đã mười một giờ rồi đó. Vẫn dáng điệu đon đả bà nói:

- Lại thịt kho, dưa leo, cháu! Cho tiện mà. Cần nhất là cơm nóng!

- Dạ, cám ơn bác.

- Cháu ở riêng biệt thế này là nhất đấy cháu ạ.

- Dạ cháu biết lắm chứ ạ. Cám ơn bác nhiều lắm.

- Xóm này phần lớn theo đạo Chúa. Bác phải thuê đều các nhà cho từng tốp ở. Mình không khéo cư xử, thuê nhà này bỏ nhà kia, trâu buộc ghét trâu ăn, có thể họ ngầm báo du kích, phiền lắm cháu ạ.

- Thưa bác mọi sự êm đẹp chứ ạ?

- Rất êm đẹp, cháu cứ yên chí! Chỉ mong ra khơi trời yên biển đẹp, gặp tàu ngoại quốc nhận mình ngay là cháu thoát đó.

- Vâng cháu cũng nghe nói nhiều khi tàu ngoại quốc lánh mình như lánh… hủi.

Bà chủ nói mấy lời khích lệ cuối cùng trước khi rời căn gác xép. Phượng ngồi lại một mình bắt đầu ăn, trí óc thoạt lộn xộn hình ảnh má, chị Trang, ông nhà văn, y hệt cơn gió chợt ùa đến trong đêm khuya làm xao xuyến hoa lá trong vườn.

Nhưng rồi sau bữa ăn, sau một lần tắm rửa buổi trưa (lần tắm rửa cuối cùng trên đất nước quê hương? - Phượng tự hỏi thầm xót xa), trí óc Phượng trở về quy tụ nơi đề mục chính. Bức thư cuối cùng – bức thư thứ mười một, bỏ vào hộp thư nhà ông ta được hai tuần, sau đó Phượng hay tin ông bị bắt giữ.

Đó là chiến dịch quy mô cuối cùng, bắt nhốt hết các nhà văn hóa từng giữ vững tinh thần chống đối chúng từ trước tới nay. Việc phải tới đã tới, Phượng hết còn lo âu hồi hộp, tâm tư chuyển sang thế cờ mới, theo dõi những tin tức trong nhà tù, nơi trại cải tạo và hy vọng ngày anh Trung, ông nhà văn được trả tự do. Và cũng kể từ ngày đó Phượng dứt khoát bỏ học, nhỏ bạn cũng bỏ theo. Ba cười, nói với Phượng, “Ờ thôi, nghề giáo với một chính thể gian dối này, con bỏ cũng phải.” Và Phượng lăn xả vào giúp má từ đan móc kiếm tiền đến công việc bếp nước, đồng thời cùng chị Trang tích cực yểm trợ bà dì vào những ngày sóng gió nhất của đợt hai đánh tư sản. Cuộc đời Phượng lật sang trang mới với những suy tư mới, hành động mới. Gần chị Trang vào dịp này, đôi khi chị đã giúp Phượng quên được những lo âu về ông nhà văn. Mà còn gì phải lo nữa. Bị bắt thì ông ta đã bị bắt rồi. Chỉ còn mong chờ ngày ông ta và anh Trung được trả tự do nữa thôi. Chị Trang đã giúp Phượng như giúp đôi cánh chim bằng xòe rộng mở đều nhau để bay được cao. Phượng đã cùng chị Trang giúp dì đối phó mọi đòn phép gian manh xảo quyệt của cán bộ Cộng sản như một thứ lửa thiêng âm ỉ cháy không bao giờ chịu tắt, luôn luôn bình tĩnh làm chủ được tình thế. Nhiều khi Phượng đã mỉm cười vô cùng bình tĩnh khi quan sát đám cán bộ Cộng sản tán loạn quay cuồng trong thất bại cay đắng muốn hạ nhục bà dì mình. Sau này ôn lại, Phượng nghĩ tâm lý mình dạo đó đúng là ở trạng thái cũng muốn xông xáo đương đầu với Cộng sản y như ông nhà văn trong chốn ngục tù.

Lần đầu đánh tư sản mại bản, chúng có đến kiểm kê nhà dì một lần và chúng tuyên bố, “Bà không phải là đối tượng của Nhà nước, bà cứ yên chí làm ăn!” Các vua nhập cảng máy cày, lốp ô-tô, sách in, chủ rạp ciné… đều lần lượt vô khám vào dịp này, toàn bộ tài sản bị tịch thu. Đó là vào đầu năm 1976.

Lần thứ hai vào tháng 3-1978, (anh Trung đã đi cải tạo được ngót ba năm, ông nhà văn ngót hai năm), lần này chúng đánh tư sản thương nghiệp. Nhưng trong nền văn hóa Hồ Chí Minh, nền văn hóa hiện thân của gian dối, tàn bạo, chúng còn tung hỏa mù để gây bất ngờ tối đa. Đã ba năm qua rồi, dân miền Nam thật sự am hiểu Cộng sản, lũ sa-đích (sadique). Chúng nhấm nháp nỗi dằn vặt, kinh hoàng, đau khổ của toàn dân như một đại tửu đồ nhấm nháp thức nhắm ngon với rượu thượng hảo hạng. Trước ngày 23-3-1978, ngày phát động phong trào đánh tư sản, khoảng một tuần, phong phanh sẽ có lệnh tập trung sinh viên ở trường, công nhân viên chuẩn bị ứng trực. Chúng tung hỏa mù: sẽ đổi tiền và kiểm kê văn hóa phẩm đồi trụy. Vài ngày sau nữa chúng cho năm sáu phường kiểm kê văn hóa phẩm thật. Trước một ngày, mới có tin tiết lộ có thể là kiểm kê tư sản. Tuy nhiên trong hiểm nguy, người ta cố vớt vát hy vọng là chỉ kiểm kê vài nhà tư sản gộc thôi.

Sáng ngày 23-3-78 ngành giáo dục được lệnh đi học chính trị, dự trù học một ngày. Mười một giờ trưa có lệnh tất cả học sinh, sinh viên ở lại trường không ai được về. Đúng lúc hai giờ chiều,

Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố xuất hiện trên Đài truyền hình tuyên bố chính phủ kể từ giờ phút này xóa bỏ tư sản thương nghiệp chuyển sang sản xuất. Ngẫu nhiên lúc đó Phượng đạp xe dọc theo đường Lê Lợi qua chợ Bến Thành. Tất cả các sạp hàng đều đóng cửa, đây đó từng đám con nít bu lại xem kiểm kê một sạp nào đó. Tò mò Phượng đạp xe dọc theo đại lộ Trần Hưng Đạo. Xe cộ ít hẳn, một vài chiếc chạy hối hả. Không khí nửa tang tóc, nửa khủng bố. Thuận đà Phượng đạp xe theo đường Đồng Khánh, Chợ Lớn. Các cửa hàng người Tàu chỉ còn mở hé, phía trong thấp thoáng các kiểm kê viên đương làm việc, một vài bà già Tàu đứng ngoài đống nhang, miệng lẩm nhẩm khấn vái, hẳn là cầu cho sớm tai qua nạn khỏi. Nơi đây hoàn toàn có sự hiện diện của hung thần và vầu không khí một đại họa vừa chụp xuống. Radio đọc thông báo bằng ba thứ tiếng Việt, Quảng Đông, Quan Thoại. Một số cán bộ đang dán những bích chương bằng chữ Tàu để cho người Trung Hoa biết. Tới lúc đó Phượng mới chợt hốt hoảng nhớ ra rằng có thể vào giờ này nhà dì cũng đương bị kiểm kê. Phượng quẹo qua đường Hồng Bàng, dọc theo đường Minh Mạng, sang đường Phan Thanh Giản tới nhà dì. Quả nhiên họ đương kiểm kê. Tất cả người nhà tập trung tại phòng ngủ lớn trên lầu.

- Chị có liên hệ gì với chủ hộ? – Một nhân viên kiểm kê hỏi Phượng.

- Đây là nhà dì tôi. – Giọng Phượng lạnh lùng.

Cuộc kiểm kê tiếp tục. Tên cán bộ trưởng đoàn nhấn mạnh hướng về dì:

- Có của gửi đâu bà phải khai cho hết, chính phủ ghi cho biết, không lấy của bà đâu.

Người nói dư biết người nghe chẳng hề tin, nhưng vẫn nói, người nghe không tin nhưng vẫn cố tìm cách trả lời lững lờ mà hợp lý. Người nào cũng sống theo hai nhân cách, một bên trong, một bên ngoài. Thói quen giả dối, với thời gian, biến thành thiên tính. Đó, nếp sống Cộng sản!

Dì trả lời:

- Tôi làm gì có của chìm, của nổi mà gửi người nào. Ngay từ sau ngày giải phóng, cửa hàng bán xe đạp của tôi đã dẹp bỏ, tôi chỉ còn cái tủ bán thuốc lá kê trên vỉa hè đó.

- Bà không nói đúng, tôi cho đào tường, lột mái nhà, nếu phát hiện được bà giấu của, bà sẽ vô tù, lúc đó hối không kịp đâu!

- Các ông cứ việc đào tường, dỡ mái nhà.

- Gia đình bà hằng ngày sinh hoạt ở đâu?

Vì tởm lợm Cộng sản, Phượng tởm lợm luôn cả những danh từ của chúng. Bà dì chưa quen nên đượm vẻ ngơ ngác:

- Ông nói “sinh hoạt” gì? Phượng giải thích cho dì:

- Ý ông ấy hỏi gia đình nhà mình thường hội họp nói chuyện với nhau ở đâu.

Bà dì cười thông cảm cho nỗi niềm khinh khi kín đáo của cô cháu gái:

- Gia đình nhà tôi có thể ngồi họp bàn chuyện gẫu bất kỳ chỗ nào trong nhà này, ở ngay phòng ngủ này, hay ở phòng khách, cũng có thể ngay dưới bếp quanh bàn ăn.

Tên cán bộ kiểm kê chỉ hỏi để mà hỏi, y đã quyết định rồi:

- Không được chuyển bất kỳ cái gì ở phòng này sang phòng khác!

Dù cố tự nén, Phượng vẫn còn chút sẵng:

- Thế chúng tôi ngủ bằng gì?

- Các người tự khắc phục!

Đưa mắt nhìn tên cán bộ, Phượng thông cảm một thực tại tối như đêm, dày như đất về tình người, một khuôn mặt phi nhân của… của gì nhỉ, Phượng chưa tìm ra lời nhưng không phải của gỗ đá, bởi Phượng thoáng nhận chân rằng gỗ đá vẫn còn hồn riêng với những nét đáng yêu riêng của chúng.

Phượng về ngay sau đó báo tin cho ba má và chị Trang hay. Sau vài giây suy nghĩ, chị Trang nói khẽ với Phượng:

- Mai hai chị em mình lại sớm với dì. Trong ngày hôm nay tới cũng vô ích thôi, chúng chưa quyết định gì đâu!

Tám giờ sáng hôm sau Phượng theo chị

Trang tới nhà dì, trước cửa vẫn tên trong đoàn hôm trước lai hỏi liên hệ gia đình hai chị em với gia chủ. Chị Trang và Phượng bước vào phòng khách có bàn thờ, cuộc kiểm kê lục soát đồ vừa tới lúc gay cấn nhất. Tên cán bộ trưởng đoàn kiểm kê vạch ngang, vạch dọc bằng bút chì xanh lên một tấm ảnh khá lớn của dượng Hai – chồng dì – rồi ném xuống đất nói: binh!

- Đây là ảnh tên phản động đương duyệt

Hiền lành như Khôi mà cũng tức khắc lên tiếng quát trong khi dì nhặt vội tấm ảnh lên:

- Các anh không có quyền làm thế. Ba tôi là sĩ quan Quân y, sáng thứ Hai nào cũng tới nhà thương sớm dự lễ chào cờ. Duyệt binh gì!

- Gì thì cũng là sĩ quan cấp tá Ngụy quân.

- Ba tôi – vẫn lời Khôi – trông nom ngành Dược trong Quân y không hề có nợ máu với các anh. Ba tôi đã học tập được ba năm rồi, giờ đây hẳn đã là con người mới, các anh làm như thế này chỉ có hại cho Nhà nước. Tôi đã học tập chính trị tại cơ quan, tôi biết (Khôi làm tại một cơ quan kinh tế).

Phượng vừa định tiếp lời em thì dì đã lên tiếng, giọng rất bình tĩnh chứng tỏ dì hoàn toàn làm chủ được tình cảm trong dịp đối phó này:

- Các anh làm như vậy các con tôi sẽ nghĩ là ba nó đi tù chứ không phải đi học tập cải tạo như chính phủ vẫn tuyên bố. Chúng nó xót ba chúng nó, đây chỉ là tấm ảnh mà các anh còn đối xử như thế huống chi là người thật. Chúng tôi quý tấm ảnh này là quý tình người, vợ quý chồng, con quý cha. Thà là các anh cứ việc tịch thu tấm ảnh mang về sở rồi quẳng vào thùng rác, vào nhà cầu khuất mắt chúng tôi thì không sao.

- Bà nói ngọt lắm, nhưng bà chửi khéo cách mạng.

- Làm sao tôi chửi cách mạng cho được.

Hai em chồng tôi tập kết ra Bắc năm 1954, từ ngày đó vẫn thư từ đều đều cho tôi, và đã hai, ba lần về đây với chúng tôi, làm sao tôi chửi cách mạng cho được?!

Biết gặp phải một gia đình cứng đầu, chúng luôn luôn đưa mắt làm việc bảo nhau hãy cẩn thận trong mọi hành động và lời nói, nhưng vẫn luôn luôn nắm thế chủ động khủng bố tinh thần kẻ đương bị điều tra và có thể bị xếp vào thành phần tư sản thương nghiệp cần diệt trừ để chuyển sang toàn dân sản xuất.

3

Suốt ba tháng trời, chúng đóng chốt trong nhà dì. Tổ công tác của chúng gồm sáu đứa: bốn trai, hai gái. Chúng chiếm trọn căn phòng ngủ trên lầu. Tuần đầu chúng lật nệm ghế, xé nệm giường, chúng tập trung hết các giấy tờ, thư từ, đọc lại hết. Ngay hôm đầu, khi thấy dì xách giỏ đi chợ, một tên đứng ra chặn lại:

- Bác đi đâu?

- Tôi đi chợ.

- Bác không được đi đâu hết.

- Ô hay, thế tôi là tù giam lỏng sao?

- Cấp trên đã quy định chủ hộ không được đi đâu hết!

Từ đó, hoặc Phượng hoặc chị Trang, hoặc vợ Khôi đi mua thức ăn. Chúng sợ chuyển của, ai xách giỏ đi chợ, chúng kiểm soát đáy giỏ. Vĩ – em Khôi – ngày ngày đi học, chúng cũng kiếm cớ lục soát cặp. Đồ đạc trong nhà, chúng bắt đầu cho xe chở đi: TV, tủ lạnh, bàn ghế, giường… chúng nói là để Nhà nước thanh lý. Chúng dọa Nhà nước sẽ trưng mua nốt nhà.

Rồi chúng kín đáo đánh tiếng cho dì hay nếu đưa cho chúng mười ngàn đồng, chúng sẽ rút chốt về, trả lại thành phần như cũ, không phải là tư sản thương nghiệp. Dì bàn với chị Trang. Chị tính với số tiền đó có thể mua được tám lạng (cây) vàng, chính chị đứng ra đề nghị xin bớt. “Không bớt! Không mặc cả!” Chúng làm bộ vùng vằng cương quyết trả lời. Đồ đạc, TV, tủ lạnh, trong nhà chúng đã cho xe chở đi hết, chúng cho biết Nhà nước đã thanh lý đồ đạc đó, trị giá bảy trăm đồng, trừ tiền thuế, và công chuyên chở ba trăm đồng, còn lại bốn trăm đồng.

Thấy dì lẳng lặng nhận bốn trăm đồng, thái độ quá nhẫn nhục, Phượng hỏi mỉa tên đưa tiền:

- Nhà nước chở đồ đạc của chúng tôi đi mà còn bắt chúng tôi đóng thuế và tiền chuyên chở sao anh?

- Lẽ ra tịch thu đấy.

- Sao lại tịch thu hở anh? Dì tôi còn là công dân mà, có phải ra tòa, có bị kết án tước quyền công dân đâu?

Chúng nhớ ra rồi. Nên thận trọng lời nói hơn trong cái gia đình này. Câu chuyện được đánh lạc hướng với dì:

- Chúng tôi sẽ rút chốt đi, chính phủ đề nghị bà bán nhà này cho chính phủ.

Dì đáp ngay:

- Không bao giờ tôi bán nhà này. Bán đi, con cháu tôi ở đâu? Tôi đâu phải là tư sản thương nghiệp…

- Chúng tôi còn đương xét mà.

Tối đến, đám người lớn năm mẹ con dì cháu ngồi bàn kín với nhau. Vợ chồng Khôi nhận định trước là chưa biết đến bao giờ chúng mới chịu chính thức trao trả nhà cùng những giấy tờ cần thiết. Trang và Phượng cùng nhắc tới cảnh hai chị em đã từng chứng kiến hai lần cùng vào khoảng một hai giờ sáng, hai xe cam-nhông công an tới khu phố, nói hai chị em ở cùng ba má, cưỡng bắt hai gia đình tư sản thương nghiệp – một là hãng nhôm, một là hãng thầu nhà cửa – phải dời đi vùng kinh tế mới. Sau đó Trang, Phượng được biết thêm là tới vùng chỉ định, xe cam-nhông ngừng ngoài đường lộ, thả người xuống, quẳng đồ đạc xuống, mặc kệ người nhà xoay xở tự khiêng lấy vào khu chỉ định làm nhà, sâu tít phía trong. Nghe xong, dì quyết định cùng một bà bạn mua một miếng đất miền quê Phú Mỹ thuộc Bà Rịa để phòng khi chúng bắt đi kinh tế mới thì mình có cớ xin về đó là nhà mình.

Chúng rút chốt khỏi nhà, nhưng chúng mượn cả tầng dưới thoạt làm phòng Thương ng- hiệp, rồi làm Nhà trẻ, sau cùng làm kho chứa cá khô cho Phòng Lương thực của quận. Cá khô khắm lặm bốc lên bao phủ cả một vùng mấy nhà hàng xóm. Nói là cá khô, kỳ thực còn ướt, nước cá chảy ra, dòi bọ lổn nhổn, ruồi nhặng bâu đen kịt từng đám không khác gì nhà tiêu công cộng. Vừa lúc người em ruột tập kết của dượng Hai, cán bộ kỹ sư luyện kim đã từng đi Liên Xô, Hung Gia Lợi, có công tác vô Sài Gòn – Chú Vĩnh! Ông đã sớm thấy rõ bộ mặt thật của Cộng sản ngay từ thuở mới ra Bắc tập kết được mấy tháng.

- Em chán chúng nó – chú thủ thỉ tâm sự với dì ngay buổi đầu gặp mặt – em chán sống, bởi vậy suốt mấy năm Mỹ ném bom miền Bắc, em toàn xung phong vào những công việc, những chỗ nguy hiểm nhất. Chết đi cho rồi! Không chết (chú cười) nên thành dũng cảm, được cho đi tu nghiệp một năm rưỡi ở Liên Xô và ở Hung. Về nước vừa tháng

5-1975. Miền Nam tự do vô tổ chức, không tự giữ nổi mình, thì khối đặc bóng tối nhày nhụa miền Bắc tràn vào, ráng chịu vậy chứ sao!

- Sao mà chú không chịu lấy vợ? – Dì hỏi.

- Ối chao, lấy vợ thì phải có con, con em mang dòng máu của em mà còn phải sống dưới chính thể xã hội chủ nghĩa này thì hoặc là héo hon, hoặc là phát khùng, hoặc nổi loạn, đằng nào cũng chết, chị bảo có vợ có con mà làm gì?

- Ô hay, thế chú sống nhăn răng ra đấy, điên khùng đâu?

- Chị ơi, phúc bảy mươi đời đó, đúng lúc em xông mãi vào chỗ chết thì không chết cho, sắp điên và nổi loạn đến nơi rồi thì được đề cao là dũng cảm, được đề cử đi tu nghiệp ở ngoại quốc. Hoàn cảnh khôi hài đó có tác dụng tưới nguội khóc óc của em, hơn thế còn giúp em tìm ra ý tự khích lệ là hãy ráng mà sống, chống mi mắt lên mà chứng kiến những đổi thay sớm muộn ắt phải có. Bởi vậy khi về nước em bèn có con.

- Ủa chú lấy vợ bao giờ?

- Không đâu! Đó là con nuôi. Ấy chị nói chuyện với em phải đề phòng câu chuyện khật khưỡng như thằng điên vậy đó. Gặp may như vậy mà em còn điên điên khùng khùng, chị bảo em lấy vợ làm gì cơ chứ! Chuyện em nhận con gái nuôi cũng vui. Như vậy là bây giờ em thành ông ngoại của ba đứa cháu nhỏ.

Dì trợn tròn mắt trong khi vợ chồng Khôi, chị Trang và Phượng cùng tủm tỉm cười. Dì nói:

- Chú còn là ông ngoại nữa, thật không? Hay là giỡn chị? Không khéo chú khùng thật!

- Thì em vẫn bảo chị phải đề phòng mà! Nguyên do là thế này: Tu nghiệp về nước em được thăng chức phó Giám đốc một Cơ xưởng luyện kim đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội; trong khi Nguyệt, đứa con gái duy nhất của một người bạn thân cũng tập kết từ miền Nam như em nhưng đã chết, làm ở Cơ xưởng đúc máy nổ trong Hà Đông. Nguyệt nó vẫn coi em như chú kể từ ngày ba nó chết và nó đẻ đứa con thứ hai. Chợt một sáng Chủ nhật nó tìm tới em khóc thút thít kể rằng nó vừa bị viên giám đốc Xưởng khiển trách về tội “phá vỡ kế hoach của Cơ xưởng”. Em hỏi cái gì mà to chuyện vậy? Chị không thể tưởng tượng được khôi hài đến mức nào đâu. Nguyên là đồng chí giám đốc Cơ xưởng đó nhất định chủ trương: Các nhân viên trong Cơ xưởng chỉ nên có tối đa là hai con mà thôi, con bé lại trót có mang lần thứ ba. Đồng chí giám đốc kết tội con bé phá vỡ kế hoạch của Cơ xưởng là vì thế mà đòi con bé: hoặc phá thai, hoặc bị sa thải. Em bèn bảo con bé: “Cháu về bảo với thằng giám đốc đó rằng tập tục gia đình nhà tôi không bao giờ phá thai, ba tôi bảo vậy.” Con Nguyệt nhắc em là ba nó chết rồi. Em bảo em là cha nuôi nó từ đấy. Nó cứ nói với thằng giám đốc là ba nuôi nó là Vĩnh, phó Giám đốc Cơ xưởng luyện kim đường Trần Hưng Đạo. Tên đó dư biết những thành tích dũng cảm của em nên thôi không hối thúc con bé phá thai nữa. Trước một ngày em vô đây, nó đẻ. Mẹ tròn con vuông! Thằng bé xinh đáo để chị ạ.

Tới đây cả nhà mới hòa vào câu chuyện. Tuy thư từ, ảnh gửi ra gửi vô thường xuyên, nhưng mãi đến ngày hôm đó chú Vĩnh tập kết mới trở lại miền Nam lần đầu, và trong câu chuyện hàn huyên hôm đó chú mới hiểu rõ hoàn cảnh dì đương phải chịu đựng.

Phượng nói đùa:

- Thoạt gặp một Việt cộng dép râu nón cối là bao giờ bọn cháu cũng đầy thành kiến, ác cảm và đề phòng. Nhưng gặp chú thì khác hẳn.

Chú Vĩnh cười:

- Các cháu có biết khẩu hiệu của bọn họ bây giờ ra sao không? “Nhất kết, nhì sư, tam cư, tứ ngụy!” Nghĩa là chúng kỵ nhất bọn tập kết, rồi các nhà sư, rồi đến đám B54 – Bắc Kỳ di cư năm 1954 – sau cùng tới đám ngụy quân ngụy quyền đó, các cháu.

Chú tá túc tại nhà suốt một tuần nóng bức nhất, nghĩa là mùi cá khô khắm lặm nhất, quần áo phơi trong nhà mặc ra đường nồng nặc như hệt mùi chuột chết. Chú chỉ cách dì làm đơn khiếu nại tới Phòng Lương thực, viện cớ Nhà nước đương khuyến khích dân chúng sống vệ sinh. Chú cũng chỉ dẫn dì cách làm đơn khiếu nại trường hợp dì bị mượn nhà, bị lấy mất đồ đạc trong khi không phải thuộc thành phần tư sản thương nghiệp. Chú đích thân đi gửi bảo đảm tới Viện Kiểm sát Nhân dân, Ban Cải tạo Trung ương, Ban Thanh tra Thành phố. Chú bảo phải gửi nhiều nơi một lúc như thế, đám nọ gờm đám kia, chúng không thể cấu kết mà nghỉm đi. Chú hứa khi trở về Hà Nội còn đích thân nộp một đơn tại Văn phòng Quốc hội nữa. Một lần chú chứng kiến cảnh viên Chủ tịch Phường và mụ phó Chủ tịch Phường tới hạnh họe dì.

Chủ tịch Phường quát tháo: “Bà phải tử tế với những người coi kho lương thực ngoài nhà, bà nên nhớ bà không còn quyền ở cái nhà này.”

Dì: “Sao tôi lại không có quyền ở nhà tôi? Tôi đâu thuộc thành phần tư sản thương nghiệp? Rồi chính phủ sẽ trả lại giấy tờ cho tôi! Tôi đã làm gì mấy người coi kho mà bảo tôi không tử tế?”

Mụ phó Chủ tịch: “Bà khóa cửa không cho người vô nhà trong, làm sao mà có nước uống, làm sao mà đi cầu.”

Dì: “Phòng Lương thực muốn mượn nhà ngoài thì tôi cho mượn nhà ngoài. Thiếu nước tôi đã cho mượn lu trữ nước, đi cầu tôi đã cho mượn bô. Sống mỗi người một nhà, chết mỗi người một mồ, không thể chung đụng được. Bà thấy đấy, chồng tôi đi học tập, nhà hầu hết là phụ nữ, cũng là chị em phụ nữ với nhau, bà thông cảm.”

Mụ phó Chủ tịch (quát): “Ai chị em với bà, chị em cái gì?”

Dì: “Tôi xin lỗi bà, tôi bối rối quá nên nói lầm, tôi quả không chị em gì với bà thật.”

... Thời gian chú Vĩnh công tác ở Sài Gòn, chú còn tới thăm một gia đình miền Nam tập kết khác đã vượt biên định cư ở Úc, được đọc lá thư của người bạn đó viết từ Úc về cho gia đình, nội dung chú còn nhớ để kể lại. Phượng hỏi đùa:

- Chú có định vượt biên không chú?

- Gặp dịp thì vượt chứ. - Chú đáp tỉnh bơ. Chú rời Sài Gòn sớm hơn một ngày để còn đi Xuyên Mộc, Phan Thiết thăm dượng Hai – thăm anh – bị nhốt ở đấy. Chú đi rồi, chị Trang phát biểu với dì:

- Nhà mình thế là may mắn đó, tuy anh em từng ở hai phe mà rút cục cùng chung chính kiến. Nhiều nhà hai phe trắng đỏ phân minh, không buồn gặp mặt nhau; nếu có thì ông nói ông phải, vãi nói vãi hay.

Viện Kiểm sát Nhân dân nhận được đơn của dì rục rịch cho điều tra. Cả một đường dây thông báo cho nhau, một mặt quận đổi Chủ tịch và mụ phó Chủ tịch sang công tác ở quận khác, một mặt Ban Cải tạo quận đạt giấy mời dì tới, yêu cầu dì ký vào một biên bản đã viết sẵn. Chúng bảo nếu ký vào thì còn được ở nhà, nếu không ký chúng sẽ ra lệnh bắt giữ luôn dì và đuổi tất cả ra khỏi nhà. Dì đọc nội dung biên bản ghi là tất cả đồ đạc tịch thu trước đây vẫn do chủ hộ quản lý. Dì rên rẩm nói với chúng:

- Tội nghiệp tôi quá các ông ơi, tất cả đồ đạc của tôi các ông cho xe chở đi hết, bây giờ lại bảo tôi quản lý, rồi đây Nhà nước hỏi, tôi lấy đâu mà đền? Các ông làm vậy ác quá, thà tôi mù chữ.

Chúng cương quyết dọa:

- Bà không ký, chúng tôi yêu cầu công an bắt giữ bà ngay tại đây.

- Vâng thì các ông đưa tôi ký.

Nhưng trước khi ký dì ghi một dòng: “Tôi không hề nhận được thứ gì kê khai nơi đây!”

Tên cán bộ đọc xong vỗ bàn:

- Ai bảo bà ghi thêm hàng chữ này?

- Khổ quá tôi có phải mù chữ đâu, sự thực các ông biết đấy, tôi nào có giữ cái gì.

Tên cán bộ đành phải nói gỡ thêm:

- Sao không ký đã, muốn ghi chú gì thì ghi bên dưới.

- Tôi ghi bên dưới, nhỡ có người không ưa xé bỏ khoảng đó thì tôi biết làm sao?

Tên cán bộ cứng họng những cũng thuận đà quát:

- Bà không ký thì thôi, trả tờ giấy mời đây rồi về.

Bao giờ công an Cộng sản cũng thu hồi giấy mời để phi tang và đề phòng mọi trường hợp khiếu nại, tố cáo. Trong khi dì đưa trả tờ giấy mời, tên cán bộ nói:

- Bà có người em nộp đơn cho bà ở Hà Nội chứ gì. Em bà như vậy là còn tư tưởng hưởng thụ, bao che tội lỗi cho người nhà chống đối chính phủ.

Dì bình tĩnh đứng dậy và đáp liền:

- Tôi mất hộ khẩu, mất lương thực, sống không cửa không nhà, tôi chống đối làm sao mới được cơ chứ!

Về tới nhà dì đã có giấy Công an Phường gọi họp. Buổi họp gồm toàn những người có thể xếp vào thành phần tư sản thương nghiệp như dì. Chúng khuyến khích mọi người nhận đi vùng kinh tế mới. Chúng nêu mười hai địa điểm: Long An, Cần Thơ, Sông Bé, Cửu Long, Long Khánh… Mọi người nói muốn đi xem thử địa điểm Phù Đổng thuộc tỉnh Đồng Nai vì thấy địa điểm này tương đối gần Sài Gòn, chỉ qua hai phà Thủ Thiêm và Cát Lái. Chúng nói nếu đóng cho chúng 2.000 đồng sẽ được cấp nhà làm sẵn ngay. Phượng đã thay dì đi với đám người tới tham quan địa điểm Phù Đổng.

- Trông mà rơi nước mắt dì ơi - Phượng tường thuật lại với cả nhà khi trở về - căn nhà làm sẵn của chúng là túp lều vuông bốn thước một chiều, trét vách bùn mùi hôi thối như cầu tiêu, cỏ tranh mọc lởm chởm đầy nền nhà. Người thì rơm rớm nước mắt nói với nhau, “Chúng mình mà phải ở nhà này à?” Người thì chỉ lắc đầu im lặng. Có một bác người to lớn cất tiếng oang oang: “Nếu chúng ta ưng cùng ở địa điểm Phù Đổng này, thì Phù Đổng sẽ vươn lên, chúng ta sẽ làm lò gạch, lò ngói, xây dựng cả địa điểm thật khang trang, chúng ta dư tài tổ chức mà!”

Sau đó cũng đã có một số người nhẹ dạ đóng cho chúng 2.000 đồng, dì chỉ nộp có mấy trăm lệ phí gia nhập xã viên Hợp tác xã Phù Đổng. Chúng thu được một số tiền lớn, rồi tập thể được thông báo Hợp tác xã Phù Đổng bị giải tán vì những người tổ chức đã trốn ra nước ngoài.

Sau vụ đánh tư sản thương nghiệp này, chính quyền hoàn toàn phô bày bộ mặt ăn cắp và ăn cướp, dân chúng khinh khi họ ra mặt. Một tên công an bị dân chúng nắm cổ, dìm đầu đánh cho thập tử nhất sinh ngay trước cửa chợ Trương Minh Giảng; một tên khác bị một bà ném cả rổ vỏ sầu riêng vào mặt ngay giữa chợ Cầu Ông Lãnh. Mỗi lần có cuộc xô xát như vậy, dân chúng đổ xô lại bu quanh, sát khí đằng đằng; các công an, bộ đội quanh đấy vội lảng đi. Mất tự do, mất tài sản, bị đè đầu cưỡi cổ bởi một lũ ngu dốt tham tàn, dân chúng tự động vùng cả chết.

Sau ba năm giải phóng, miền Bắc đã nhìn thấy rõ miền Nam để phối kiểm các lời tuyên truyền của Đảng và Bác trước đây, đồng thời miền Bắc cũng đã chứng kiến các ông bà tướng tá chuyển của miền Nam về nhà, buôn lậu gần như công khai chuyến này qua chuyến khác. Ca dao, chuyện tiếu lâm châm biếm chua cay thấm thía bắt đầu phồn thịnh và truyền miệng cho nhau nghe, xuất phát từ miền Bắc rồi lan rất nhanh vào miền Nam. Tại Sài Gòn – không ai gọi là thành phố Hồ Chí Minh – trong các hẻm, trẻ em hát nhại một bài hát Cộng sản: “Như có Bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán” – nhà thương điên. Người ta truyền miệng cho nhau những bài ca dao như:

Bác Hồ chết phải giờ trùng

Để cho con cháu nửa khùng nửa điên

Đứa giỏi thì nó vượt biên

Những đứa ở lại không điên cũng khùng

Ba mươi năm đời ta có Đảng

Bốn ngàn năm ta lại là ta

Từ trong hang đá chui ra

Vươn vai một cái rồi ta lại vào.

Mất mùa: đổ tại thiên tai

Được mùa: ấy ấy thiên tài Đảng ta

Và danh sách các vị bộ trưởng trong một nội các đích thực có chất lượng điển hình Cộng sản:

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Tôn Thất Tín Bộ trưởng Bộ Tài chính: Tôn Thất Thu Bộ trưởng Bộ Giáo dục: Tôn Thất Học Thủ tướng: Tôn Thất Bại…

Xa, thật xa rồi thuở Bác là thần tượng đến mức một anh bộ đội từ Trường Sơn xuống Nha Trang, mở đọc lại những báo chí “ngụy” trước đây của miền Nam, bỗng ôm mặt khóc nức lên. Anh không thể tưởng tượng nổi Bác lại có thể bị bôi nhọ đến như thế ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Hiện tượng đó sau ba năm “giải phóng thống nhất” không còn nữa, tuy rằng quân, dân, cán bộ còn những người tương tự bám vững lấy tư tưởng “đời đời nhớ ơn Bác muôn vàn kính yêu”, là cha đẻ ra “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh”.

Sau vụ giải tán Hợp tác xã Phù Đổng ngay từ thuở còn trong trứng nước, phường lại đạt giấy triệu tập dì và những người khác, dụ mỗi người đóng

5.000 đồng thì sẽ được nhà và một mẫu đất vỡ sẵn ở vùng kinh tế mới Sông Bé. Ai nấy tuyên bố hết tiền rồi và cuộc họp giải tán bẽ bàng. Trên đường về, một ông trong nhóm tư sản thương nghiệp nói:“Tội ng- hiệp, chúng bị Bác và Đảng nhấn chìm trong cảnh nghèo túng khốn cùng bao nhiêu năm, lại trang bị cho hai ‘đức tính’ ngu và vô liêm sỉ, bây giờ xin các bác quan sát kỹ cung cách chúng ăn cắp, ăn cướp và lóa mắt trước cảnh tiền rừng bạc biển của miền Nam. Tội nghiệp!”

Chị Trang và Phượng cùng giúp dì tạm về

Phú Mỹ, Bà Rịa, trồng khoai sắn, đậu phụng. Lại những cuộc họp ở nhà quê, phòng họp không bàn, không ghế dưới túp lều trụ sở, cán bộ để giấy lên đùi ngồi viết biên bản buổi họp. Chúng thúc tổ trưởng đi thu thuế theo nguyên tắc ai trồng gì đóng thuế thứ đó. Tổ trưởng, người địa phương miền Nam, cười hô hố: “Thôi đi cha nội, người ta trồng, người ta ăn, ỉa rồi, bây giờ bắt tôi thu thuế, người ta đánh cho bể đầu!” Một buổi họp khác, chúng bắt đóng tiền cho Ban bảo vệ an ninh. Lần đó Phượng họp thay dì, cũng từ chối đóng tiền như những người khác và tuyên bố: “Chúng tôi chẳng có cái gì để bảo vệ cả, nghèo quá rồi mà!” Có những người dân nghèo phải đi làm than lậu ban đêm, chính quyền xã cấm, du kích xã đón bắt bị đập đèn pin lên đầu. Thế là đèn pin thành một thứ quốc cấm, không ai được sử dụng đèn pin – kể cả ban đêm đi cầu, đi tiểu cũng không được dùng đèn pin.

Nhìn ra toàn quốc nơi nào cũng là chính quyền vờn dân như mèo vờn chuột, đặc biệt miền Nam là cảnh chú mèo quá gầy gò – cả về mức sống kinh tế với trình độ văn hóa – vờn một chú chuột quá to con và quá… bộc trực. Lại đặc biệt hơn nữa, tại vùng quê thường xảy ra những cuộc đối thoại kỳ dị, tức cười đại loại như sau:

- Báo cáo nhân dân, chính quyền sẽ cho người tới làm nhà tiêu công cộng đó.

- Cho ai tới? Lại cắt cử chúng tôi tới chứ ai! Làm chủ tập thể mà!

- Thì làm nhà tiêu công cộng chứ sao.

- Để quản lý phân hả?

- Nhà nước có kế hoạch ủ phân mà còn có thêm khí đốt nữa.

- Báo cáo anh, nhân dân chúng tôi toàn ăn khoai mì mà còn đói, làm gì có… phân.

- Nhân dân hãy đóng góp mỗi người 50 đồng, Nhà nước bán thóc giống cho.

- Chúng tôi chỉ có sức lao động thôi, làm gì có tiền.

- Nhà nước đã khuyến khích và bán cho giống bo bo sao không thấy có thu hoạch?

- Gieo rồi đấy nhưng mưa trôi hết rồi! (Sự thực họ vãi cho gà ăn, không đem gieo.)

- Sản phẩm trồng trọt của địa phương cấm bán chợ đen bên ngoài đó.

- Tôi nói thật cho cán bộ biết cấm cách mấy dân chúng cũng bán chợ đen. Nhà nước trả rẻ quá mà.

- Phạm nội qui là tù đó.

- Nói thật với cán bộ chúng tôi như thế này là tù rồi chứ còn gì!

- Ai hết hạn tạm trú thì đăng ký gia hạn.

- Hàng năm cứ tạm trú hoài không cho hộ khẩu, giờ thì cứ ở, không khai nữa!

...

Viện Kiểm sát nhận được đơn khiếu nại của dì đã cho người tới điều tra. Những kẻ tịch thu tài sản của dì đã chuyển công tác sang các quận khác và chối không biết gì về việc này. Dì sợ chúng cấu kết với nhau và thù dai nên cũng lờ đi không dám khiếu nại thêm, những mong chúng sẽ để mình yên thân mà nào có được. Ban Cải tạo Quận đáng tiếng nếu chi cho chúng bốn cây – bốn lạng vàng – chúng sẽ trả nhà, trả hộ khẩu. Dì một mực đáp mình hoàn toàn khánh tận rồi.

Phòng lương thực đã thôi không trưng dụng căn dưới làm kho cá khô nữa, phó Chủ tịch phường mới tới nhậm chức đòi dì cho mượn nhà làm trường học. Dì cương quyết khước từ. Dì nói thẳng là nhà dì chật hẹp, không thể đủ tiêu chuẩn làm trường học. Rồi chúng đòi mượn nhà để phục vụ rau quả vào dịp tết, chúng đòi mượn nhà để làm kho chứa cám heo, dù chúng biết mình từ chối. Mỗi lần chúng bước chân vào nhà đều cố tình gây chuyện bắt mình phải bận tâm đối phó. Một lần khác dì vừa từ Phú Mỹ về, mụ Bí thư phường tới đưa mắt soi mói nhìn quanh nhà rồi sẵng giọng hỏi:

- Chiếc tủ áo kê ở góc đây đâu rồi?

- Bán rồi! – Dì cũng đáp trống không.

- Bà xin phép ai?

- Đồ của tôi mà. Nhà tôi đâu có bị Nhà nước niêm phong, sao tôi không có quyền bán?

Quả thực lũ người Cộng sản họ đã tự tạo thành một loại bệnh hoạn sadique, tìm lạc thú trong việc hành hạ người khác. Phượng nghĩ là kể cả giữa họ với nhau. Bây giờ thì Phượng đã hiểu bằng kinh nghiệm “thực mục sở thị” những gì ba đã nói và ông nhà văn đã viết. Ôi, cây nhân sinh với trái đắng Cộng sản trên ba mươi năm lịch sử Việt Nam –

1945-1978. Quả thực trong bầu không khí độc tài thì độc tài tởm lợm nhất của nhân loại là thứ độc tài Cộng sản Việt Nam, do một lũ vì ngu dốt mà nghèo đói, vì ngu dốt mà tàn bạo, vì ngu dốt mà giày xéo, vít thấp biết bao phẩm giá con người.

Mải suy nghĩ, Phượng giật mình nghe có tiếng bước chân ai vội vã lên cầu thang. Bà chủ tươi cười bước vào ngồi xuống ngay bên Phượng:

- Chương trình hơi thay đổi chút ít. Hoãn chuyến đi một ngày cháu ạ.

- Như vậy, thưa bác, đêm mai mới đi?

- Vì biển động là một. Và chiều mai thì đám công an ác ôn nhất sẽ rời duyên hải Vũng Tàu sang tuần tiễu bên duyên hải Gò Công. Chỉ có vậy thôi. Cháu đừng sốt ruột, ráng đợi nghe.

- Cháu không sốt ruột đâu bác. – Giọng Phượng chợt trầm buồn – Như vậy là còn được sống thêm một ngày trên dải đất quê hương. Rồi đây ra đi, nào biết có ngày về, thưa bác.

- Ôi chao, đi rồi về chứ cháu, tụi quỷ này còn tồn tại được bao nả, cháu! Cứ tin bác đi. Mấy giờ rồi cháu?

- Mới ba giờ, bác.

- Thôi bác đi nghe.

- Dạ, bác đi.

4

Đúng vậy, được nán lại thêm một ngày trên dải đất quê hương, Phượng cảm thấy thảnh thơi hẳn. Phượng sẽ nhẩn nha ôn lại những gì Phượng đã sống với “giải phóng” với “cách mạng”, ôn lại thuở gặp lại anh Trung được thả về trước, gặp lại ông nhà văn được thả về sau. Phải ôn lại, đúng hơn phải sống lại thêm một lần nữa những ngày ấy mới thật trọn vẹn. Tề Thiên Đại Thánh “đằng vân giá vũ “hết mình cũng chưa ra khỏi bàn tay Phật, kinh nghiệm của Phượng dù có phức biệt đến mấy cũng chưa vượt khỏi bối cảnh mênh mông mà ông ta đã cống hiến cho toàn thể độc giả.

Cứ như vậy, chị Trang và Phượng, hai chị em thay phiên nhau khi thì ở nhà với ba má, khi thì tới giúp đỡ gì trong những ngày hoạn nạn. Phượng thấy mình trưởng thành hẳn, Phượng học được thái độ bình tĩnh, dũng cảm của chị Trang và tầm nhận định sáng suốt của ông nhà văn khi thông cảm cùng dì những chướng tai gai mắt, đắng cay.

Hôm đó Chủ nhật, đến giờ ăn cơm trưa không thấy em Vĩ về. Nghĩ rằng thằng em ham chơi, Phượng để phần cơm. Phượng đâu có ngờ Vĩ cùng năm đứa trẻ trong lối xóm đi bắt dế khoảng cống gần trụ sở công an phường, bị bắt cả lũ.

Suy theo nếp giáo dục Cộng sản, mấy tên công an xúm lại thẩm tra, một tên hỏi:

- Ai xui tụi bay đến đây rình rập?

- Tụi em đi bắt dế mà!

Quả thực lũ trẻ em “ngụy” nghĩ sao nói vậy, có quắc mắt hạch sách thì cũng như ném sỏi xuống hồ, mất tăm… Chúng bèn hỏi lý lịch ba má các em. Những em khai, ba đạp xích-lô, đạp xe ba gác, làm thợ hớt tóc, thợ mộc, thợ hồ... Chúng thả về nhưng chúng giữ Vĩ lại vì ba Vĩ là sĩ quan học tập. Chúng dìm đầu Vĩ sát miệng cống, vừa đánh Vĩ bằng báng súng vừa nghiến răng nói:

- Chúng tao đánh chết mày, ấn xuống cống này. Ba mày là sĩ quan ăn thịt người.

Khi nghe lũ trẻ được thả về cho hay tin, Phượng chạy vội tới trụ sở công an phường, thấy Vĩ ngồi cúi gằm mặt ở một góc phòng, hai môi mím chặt, mắt ráo hoảnh, không khóc. Phượng nói với tên Trưởng đồn công an:

- Dì tôi đi tăng gia ở quê Bà Rịa chưa về, vợ chồng em tôi sang bên ngoại, nhà vắng vẻ không còn ai, em tôi đây còn nhỏ nghịch dại, tôi đến xin cho nó về để còn học bài mai đi học.

- Chúng nó phá quá, nghịch quá. – Hắn cau có nói.

- Vâng để tôi về tôi răn bảo em nó.

Trên đường về nhà, đứa trẻ mười hai tuổi học lớp Bảy đó – Vĩ – đã biết nói với chị:

- Em nhớ đời trận đòn báng súng nó đánh em. Nó bảo: “Bố mày là sĩ quan ăn thịt người.”

Tới lúc đó Vĩ mới bật khóc, nấc lên, không kể là giữa hè phố đông người qua lại. Câu nói bất bình đó của đứa em nhỏ tuổi ám ảnh Phượng, ám ảnh Phượng… đến nỗi đêm ngủ rơi vào ác mộng. Phượng mơ thấy mình gia nhập một đám rước kì dị, chị Trang hiền hậu hóa trang để râu mép. Tất cả đám rước bỗng hội lại ngồi thành hình móng ngựa để quan sát một đám người đương đào một nấm mồ. Quan tài lộ ra, người ta bật nắp, bên trong là xác một thiếu phụ bị mổ, lòng ruột phủ lấp thân mình. Người thiếu phụ xin vứt xác mình xuống biển. Hỏi vì sao. Đáp để cho cá ăn. Hỏi cá ăn mất xác không sợ sao. Đáp cá ăn xác tôi rồi cá chết, tôi trở lại kiếp người, kiếp tái sinh hạnh phúc chứ không sầu khổ. Và Phượng bừng tỉnh vào lúc này.

Vĩ đi học bị bà hiệu trưởng trù hoài. Chậu cây cảnh đổ khoảng gần nơi sân trường có Vĩ chơi, Vĩ bèn bị kết tội là xúi giục bạn làm đổ chậu cây. Khi trong trường xuất hiện truyền đơn chống chính phủ, bà hiệu trưởng cho ngay là thế nào cũng có bàn tay Vĩ dính vào. Bà gọi Vĩ lên văn phòng, căn vặn Vĩ hết sẵng lại ngọt. Vĩ nào biết gì.

Vĩ bị gọi lên văn phòng, bị chỉnh vì tội không đeo khăn quàng đỏ khi tới trường. Vĩ bị chỉnh vì không chịu chú ý nghe vào giờ giảng chính trị, còn nói cười với bạn bên cạnh. Tới sáng thứ Hai kia, Vĩ không đứng nghiêm lúc chào cờ bị bà hiệu trưởng – dĩ nhiên là đảng viên và từ miền Bắc vô – bắt ngồi làm bản tự kiểm ngay tại chỗ. Vĩ viết đơn giản là trót cười khi chào cờ, từ lần sau xin không tái phạm nữa. Đọc xong bà hiệu trưởng lắc đầu quầy quậy, bảo là viết chung chung như vậy không được, phải viết cặn kẽ trong tuần nào đó ngày nào, giờ nào làm gì, ở đâu, với ai.

- Bà ta định gài con để công an bắt con đó má. – Vĩ nói với má vừa từ Phú Mỹ về - Trường con cũng có công an đó má.

Hôm sau dì tức tốc tới trường gặp bà hiệu trưởng, nói:

- Xin bà thông cảm cho cháu nó bất mãn từ hôm bị công an đánh bằng báng súng và bị nhiếc là bố sĩ quan ăn thịt người. Con nít không bằng lòng thì biểu lộ ngay, không biết thâm hiểm để bụng như người lớn. Cháu nó nhỏ tuổi thì cũng chỉ biết viết tự kiểm nhận lỗi và hứa tự sửa lỗi đó ngày đó. Còn những ngày khác trong tuần nó có làm gì đâu mà phải khai.

- Nó bướng bỉnh lắm – bà hiệu trưởng cong cớn nói – đã bao nhiêu lần tôi gọi nó tới văn phòng đây cảnh cáo.

- Thưa bà, thật tình cháu nó ở nhà bảo sao nghe vậy, nhiều công việc nó tự động làm để đỡ đần mẹ, tôi không hiểu sao tới trường nó lại bướng bỉnh thế.

- Giờ học chính trị, nó không nghe, nói chuyện cười với bạn.

- Điều này tôi có hỏi cháu nó, thưa bà. Nó có nghe đấy, hôm đó bài học chính trị nói về chính sách của chính phủ không động đến cây kim sợi chỉ của dân; nhưng ngày nhà chúng tôi bị kiểm kê tài sản, nó chứng kiến cảnh khám từ chiếc bít tất, chiếc quần si-líp, nó chứng kiến cảnh đồ đạc, TV, tủ lạnh bị cho xe chở đi đâu hết, nó chứng kiến cảnh ảnh ba nó bị gạch chéo mặt và vứt xuống đất…

- Bà có biết ngay lúc chào cờ nó cũng không đứng nghiêm mà cười nham nhở.

- Thôi thì bà thông cảm cho cháu nó trẻ người non dạ không biết nhìn sâu, nó chỉ biết từ ngày có lá cờ đó thì ba nó đi học tập vắng nhà, cửa nhà hai lần bị kiểm kê, đồ đạc…

- Nó như vậy tôi đuổi liệu có kêu oan không?

- Tôi mong bà giúp tôi từ từ dạy nó dần, chắc chắn rồi nó sẽ hiểu mà vào khuôn vào phép như các em khác. Bà đuổi nó thì chẳng khác bà dồn nó vào bước đường cùng.

Mặc dù câu chuyện giữa dì và bà hiệu trưởng đi đến chỗ dàn xếp nguôi nguôi, cuối tháng đó Vĩ vẫn nhất định xin nghỉ học ba ngày giữa tuần để đi với má tới Xuyên Mộc thăm ba. Nhận xét của dì, sau chuyến đi, thủ thỉ với Phượng:

- Tai nghe mắt thấy người ta sỉ nhục ba, nó biết xót. Con trai ít nói nên xót xa càng thấm sâu, bởi vậy nó đòi đi thăm ba bằng được. Thoạt nhìn thấy bố ăn mặc rách rưới, gày gò đen đủi, nó thấu biết cảnh lao động cực khổ, bệ rạc của ba, tư tưởng chống đối “phản động” càng hung hãn trong nó. Bởi vậy, mặc dầu nó đã chịu nghe lời dì bớt thái độ chống đối tại trường, chịu mang theo khăn quàng đỏ tới cửa trường thì – dì cười – quàng quếnh quáng vào để tránh bị soi mói, nhưng dì thấy cũng tội cho nó. Không mẹ nào muốn dối con, mà dì cũng đành…

- Dì sửa soạn cho em đi chui? – Phượng hỏi.

- Chính vào dịp thăm nuôi vừa qua, dượng cháu cũng khẩn khoản với dì là hãy tìm mọi cách cho nó tạm rời khỏi đất nước để được học hành ra hồn, được sống ra sống và cũng có thể tham gia hữu hiệu hơn vào cuộc lật ngược thế cờ sau này. Dượng nói có vẻ am hiểu tình thế bên ngoài hơn cả dì nữa, rồi đây việc nào có người nấy, hiện giờ thì nơi nào Cộng sản chiếm, người không còn được là người, đất nước không còn là đất nước của mình nữa.

- Vậy dì sửa soạn cho em Vĩ ra đi bằng cách nào?

- Tuyến, em ruột của dì đó, nó tổ chức đóng thuyền, sửa soạn ra đi trước với hai thằng con trai lớn sắp đến tuổi quân dịch, nó nhận mang thêm thằng Vĩ.

- Bao giờ đi hở dì?

- Ai mà quyết định trước được! Chỉ biết có thể sang tháng sau. Điều này riêng đám người lớn nhà mình biết kín với nhau thôi, đừng để cho Vĩ nó biết.

Kể từ giờ phút đó, có lúc nhìn Vĩ mà Phượng thấy rưng rưng muốn khóc. Đứa em nhỏ tuổi khẳng khái đó nhất định sẽ tới ngày ra đi, biết bao giờ gặp lại nó. Phượng không bỏ dịp thủ thỉ với Vĩ để tranh thủ những phút còn được gần em. Anh Trung, ông nhà văn ở trại học tập xa, Phượng chắc chắn có ngày gặp mặt, nhưng Vĩ một khi ra đi rồi, biết bao giờ mới tới ngày gặp lại. Nghĩ vậy, một lần Phượng phải quay mặt đi để Vĩ không biết rằng Phượng vừa khóc. Đúng lúc đó Vĩ với trên bàn một nguyệt san thời “ngụy” nói lớn:

- Em đọc cho chị nghe truyện này nè. Chộp ngay lấy niềm vui, Phượng gật đầu:

- Ờ, em đọc lớn cho chị nghe nào

Và Vĩ đọc lớn “Truyện Người May Áo”. Giọng Vĩ trong trẻo, chậm rãi, hồn nhiên. Phượng lần theo câu chuyện đơn sơ, đôi lúc tưởng như mình đương kể cho chính mình nghe.

“Ngày xưa, có anh chàng qua một thời ưa suy nghĩ vớ vẩn, anh sa sút dần, rồi tới lúc nghèo rớt mùng tơi chỉ còn cái khố che thân. Anh lớn tiếng kêu Trời. Bất đắc dĩ Trời hiện ra thật, hỏi: “Con gọi gì ta?” Anh chàng thưa ngay, “Bẩm Ngài con nghèo quá, Ngài thấy đấy, chỉ còn mảnh khố che thân. Con không phải là kẻ tham của Trời, chỉ xin Ngài ban cho một tấm vải để may quần áo thế thôi.” Trời bèn cho ngay anh chàng một tấm vải. Chắc chắn tấm vải do Chức Nữ dệt bằng mây trời, mịn làm sao! Óng ánh muôn màu như hệt mây trời! Anh chàng lạy tạ Trời, khi ngẩng lên, Trời đã biến mất. Đó là một đêm tháng Bảy, tiết Ngâu, buổi chiều mưa rào rào rồi tạnh; chập tối, ngẩng nhìn, ngay xế đỉnh đầu, sao Ngưu, sao Chức sáng ngời. Nhưng suốt đêm đó, anh chàng loay hoa với tấm vải mịn và óng ánh, vì anh chợt khám phá ra rằng tấm vải hoặc chỉ đủ may một chiếc quần, hoặc một chiếc áo. “Hóa nhi đa hí lộng!” Anh đâu có quên câu nói cửa miệng đó của cổ nhân. Tuy nhiên anh vẫn thành khẩn tin rằng mọi cảnh trớ trêu do Hóa công bày ra, mọi con toán Ngài đặt ra, đều có bao hàm lời giải, có điều mình ngu dốt, hay thiển cận, hay lười không chịu suy nghĩ nên không tìm ra được đó thôi. Và anh chàng cương quyết tìm cho ra lời giải lần này. Suy nghĩ suốt đêm đó và hai đêm sau nữa, trước mắt luôn luôn là tấm vải mượt và óng ánh của Chức Nữ dệt, của Trời cho, miệng anh chàng luôn luôn mỉm cười – anh vốn vui tính – tự hình dung trong trí cảnh anh may xong áo thì như Táo Quân phía dưới, hay may xong quần thì trần trụi bên trên. Sang đêm thứ ba anh chợt nghiêm chỉnh hẳn, nhớ tới mẹ xưa. Việc gì nặng nhất, cụ làm cho các con; chỗ nào bẩn thỉu, dơ dáy nhất, cụ dọn dẹp cho các con; miếng ngon nhất cụ nhường cho các con. Và cụ luôn luôn vui vẻ, khỏe mạnh, mãn nguyện. Hình ảnh mẹ chiếu rực tâm thức và anh hiểu rằng niềm an lạc rộng lớn và trường cửu là niềm an lạc của việc làm cho hạnh phúc bên ngoài cái ta.

Thế là sớm bình minh hôm sau, anh chàng cầm tấm vải Chức Nữ sang một căn nhà khu xóm có một em bé tóc xõa, mắt đen. Anh đích thân đo, cắt và khâu. Em bé được một bộ áo xinh ơi là xinh, vừa vặn như in. Anh vui niềm vui chan hòa của em bé tóc xõa, mắt đen, anh đi sâu nữa vào khu xóm. Anh đo, cắt và may ngay cho một chú học sinh nghèo bộ bà ba mặc nhà, màu trắng mát như sữa. Anh đi sâu nữa vào khu đông dân cư, đo cắt và may biếu một cụ bà bộ bà ba đen mềm mịn. “Già được bát canh, trẻ được manh áo!” Không hẳn thế đâu, dung lượng hạnh phúc của trẻ và già khi được manh áo mịn, mới, xem ra nhiều và dạt dào bằng nhau.

Anh chàng cứ thế và từ đấy miên man đi sâu… đi sâu… vào các khu dân cư. Và đo, cắt, và may những bộ áo quần mát, mịn cho đủ các hạng người, các cỡ tuổi, với các màu thích hợp. Bộ nào cũng vừa xoẳn như in, không dư một mảnh mụn.

Trong khi miết mải vui với việc mình làm vậy, anh cố ôn lại cuộc đối thoại của anh xưa với một người cùng cỡ tuổi anh vô tình được gặp một lần trên đường phiêu bạt:

- Này anh, tu là gì? – Anh hỏi người bạn.

- Một viên kim cương cáu bẩn: bùn, phân bám kết bên ngoài. Tu là ngồi kiên nhẫn cạy dần, cạy dần với nguyện vọng một ngày kia cạy được hết không còn một gợn bùn nhơ bẩn bên ngoài, trả lại màu sáng nguyên thủy cho viên kim cương.

Người bạn trả lời anh như vậy, còn ân cần dặn thêm:

- Nhưng điều khó, vô cùng khó, cực kỳ khó là anh phải làm công việc đó mà như không biết mình làm công việc đó. Bởi chỉ một sát- na anh kiêu hãnh nghĩ rằng mình đương làm công việc đó và cúi xuống ngó xem kết quả tới đâu rồi, thì bao nhiêu phân, bùn dính kết anh đã cạy ra, lập tức bám trở lại viên kim cương dày đặc như cũ. Dù ngày mai anh chết, anh vẫn còn cả hôm nay vô tư cạy bùn cho viên kim cương. Thấy ánh sáng viên kim cương dù chỉ ló ra từ một điểm nhỏ cũng là cả một diễm phúc đó anh ơi.

Ngày đó khi nghe dứt lời khuyên của bạn, tự nhiên nước mắt anh tuôn ra xối xả mà lòng thì nhẹ tênh, y như người tu hành thoạt nhiên đốn ngộ. Người bạn tình cờ chia tay tức khắc. Khi người đó mất hút, anh ngẩng nhìn đúng lúc mặt trời vừa phá vỡ một khối mây, gieo tóe ánh sáng, biến thành dòng máu luân lưu trong huyết quản của anh.

Trong khi mải mê đo, cắt, may, anh cũng chẳng chú ý thấy điều kỳ dị là tấm vải trước anh định may cho anh thì chỉ được áo mà thiếu quần, hoặc được quần mà thiếu áo, nay may cho ai thì cũng vừa, màu sắc cũng tùy người mà thay đổi cho hợp với tính tình, tuổi tác. Anh cũng chẳng chú ý thấy rằng cứ may xong tấm vải này thì trong tay đã có tấm vải khác, tựa như trời vừa trả công anh may xong cho người trước. Anh cũng chẳng chú ý thấy rằng tựa như mỗi bộ áo quần anh may xong cho ai đều trở thành một bóng dáng hư ảo trở lại che đậy cho chính cơ thể anh. Những bộ quần áo nhiều màu khác nhau, nhưng khi chồng chất bao phủ mơ hồ lên anh thì giao hòa với nhau thành một màu cũng hư ảo, người ngoài nhìn, chịu không biết gọi là màu gì cho đúng.

Là nói chuyện người quan sát thì thấy như vậy, còn anh cứ mải đo, cắt, may có biết quái gì đâu.”

Đọc xong, Vĩ nói:

- Câu chuyện ngộ ha, chị Phượng ha.

- Ờ ngộ thật! – Phượng đáp và lại muốn ứa nước mắt vì rồi đây khi Vĩ đi rồi, bao giờ Phượng được nghe lại tiếng nói đó.

5

Trung tuần tháng sau quả nhiên Vĩ đi. Một tháng rưỡi trời dì không đi Phú Mỹ thăm vườn khoai, sắn, không đi thăm dượng ở Xuyên Mộc, suốt ngày ngong ngóng đợi điện tín, đợi thư báo mọi người đã được vớt ra ở đảo nào. Dì gầy sút hẳn đi đến bốn, năm kí, nhưng đến khi nhận được tin, nhận được thư, đặc biệt thư của Vĩ thì dì khóc suốt tuần lễ gày sọm đến nỗi đi lảo đảo. Chú Tuyến có viết thư về cho dì, cả nhà đặc biệt thay phiên nhau đọc đi đọc lại thư của Vĩ. Dì khóc, dì sút thêm mấy kí, suýt ngã bệnh vì đọc thư này.

Kính gửi Má, chị Trang, chị Phương

Anh chị Khôi yêu quý,

Sau đây con xin kể hết cuộc hành trình ra đi cho má và gia đình biết. Trưa ngày 5-9-78 thì bọn con đến bến xe Trà Vinh. Con đã đói bụng nhưng phải lên xe đi Cầu Quan. Một lúc sau tới Cầu Quan người ta mới nấu cơm cho ăn. Ăn xong bắt đầu lên tàu nhỏ chở ra sông cái để lên tàu lớn. Đến điểm hẹn thì đã mười giờ khuya, chờ khoảng hai tiếng sau thì tàu nhỏ chúng con bắt đầu cho ăn cơm, ăn ngay trong tàu, tối quá à, ăn với tôm khô, chẳng có muỗng đũa gì hết, mò mẫm lấy tay bốc ăn trong tối thui. Ăn xong thì chúng con được tuần tự qua tàu lớn. Chúng con công nhận là bãi đó tổ chức rất an toàn. Họ cấm không được nói chuyện. Chỉ có một cây đèn dầu ở trong hầm máy. Rồi tàu bắt đầu ra biển. Đi được một lúc thì chúng con nghe nói tàu bị vướng cồn. Mọi người hết hồn. Đến khi phá được cồn thì tàu gặp sóng to gió lớn, nước tràn vào ướt hết đồ đạc. Lúc đó ai nấy đều say sóng hết, không còn biết gì nữa. Nửa đêm thì ai nấy cũng nôn mửa tùm lum. Thằng Phát, người Tàu, bằng tuổi con, nằm ngay cạnh con mửa ra đờm xanh, riêng con không ói mửa gì cả vì con không ăn gì, bụng trống rỗng à, mửa chẳng ra. Những người lớn trong có chú Tuyến, thay phiên nhau múc nước đổ xuống biển suốt đêm. Lúc đó con quên phứt cả hai em - con chú Tuyến - nằm ở phía gần mũi tàu. Khi mặt trời mọc thì có một chiếc tàu hải sản rượt theo tàu mình. Tàu mình nhỏ hơn chạy khá nhanh nên tránh được chiếc hải sản, nhưng lại bị lạc hướng vì sóng to quá. Mấy người lớn có ý xin tài công quay trở lại, tài công không chịu. Lương thực thì chỉ có một bao cốm dẹp đổ chung với tôm khô để trên những thùng dầu – làm sao ăn? Bên dưới còn thêm túi củ sắn, một bao nếp, mấy quầy dừa và năm can nước sông. Bấy giờ con mới biết là trên tàu có cả thảy 25 người: 16 người thanh niên, 7 phụ nữ và 2 đứa con nít. Sóng to, nước vào nhiều quá, tất cả chúng con, trừ đàn bà và trẻ nít, đều phải thay phiên nhau tát nước ra ngoài. Tôn che nóc bị bay xuống biển cả rồi, không có vải bố lợp để che nắng, che mưa. Ra khơi được hai ngày thì máy tàu hư, rồi gặp liền hai trận bão nữa, con tưởng không tài nào sống sót đến ngày nay đâu, má ạ. Qua mấy ngày bão tố, bấy giờ thì tàu hoàn toàn lạc hướng. Máy hư, đành để tàu chạy theo con sóng cho khỏi bị lật. Con đói thì ăn cốm dẹp, khát thì ăn củ sắn, qua ngày thứ tư là trên tàu cạn sạch không còn gì để ăn cả. Ngày nào cũng gặp tàu ngoại quốc, mà vẫy tay, kêu la ầm ĩ làm sao cũng không được vớt. Có lần gặp một chiếc tàu vào ban đêm xa thật là xa. Tàu chúng con bèn phát hỏa cầu cứu, nó vẫn chạy luôn không thèm vớt. Trên tàu mọi người khóc quá trời. Thằng Phát, người Tàu, nằm cạnh con vừa mếu máo vừa nói với con rằng lẽ ra chuyến này anh Mành nó đi chớ, vì nó cãi lộn với má nên mới xin Mành có (Mành ca = anh Mành) nhường cho đi. Một người Tàu khác, Điều có (anh Điều) cũng nằm gần đấy chia bánh in, lương thực mang riêng, cho con và Phát, nhưng ăn chẳng thấm tháp vào đâu cả. Tới ngày thứ mười 15-9, Điều có bị đi kiết, hôm sau thì chết, phần vì đói khát phần vì lo sợ. Cả tàu đói khát mấy hôm rồi.
Bắt đầu từ lúc tàu có người chết vứt xuống biển, con nhớ má, nhớ gia đình quá. Không phải riêng con đâu mà là cả tàu đấy. Thằng Phát vừa khóc vừa nói với con là có đi xa rồi mới biết nhớ má à. Nửa đêm hôm đó nó khóc tỉ tỉ rồi nói: “Con hồi còn ở nhà có gì lầm lỗi má bỏ qua nhé má… Xa má rồi con nghĩ mới biết thương má… Mà má kỳ quá à, xin đi chơi má cũng không cho.” Thôi để con xin kể tiếp cuộc hành trình gian khổ của con. Một ngày của con bấy giờ dài bằng một thế kỷ không ngoa đâu má. Hết nước phải uống nước tiểu đó má, nút nước vỏ dừa, ăn xác dừa. Sau Điều, có đến hai đứa trẻ lần lượt chết. Hai hôm sau thêm một người lớn nữa chết vì đói và khát. Hơn một tuần lễ qua đi, máy hư, thuyền lênh đênh và sóng gió dữ dội. Nhiều người mê man, cả con cũng nửa mê nửa tỉnh rồi, mà trong lúc nửa mê nửa tỉnh con vẫn nghe thỉnh thoảng có tiếng người: “Ê mày đái cho tao một miếng coi… Trời ơi nước đái cũng không có mà uống nữa…” Con thì nằm chết lịm nhưng vẫn cầu Trời Phật mưa xuống để hứng nước nước uống. Rồi hai bên tai con chỉ còn như tiếng ong bay vù vù, con nghĩ là mình chắc chắn chết rồi thì có tiếng ồn ào. Ồn ào một lúc thì con thoáng nghe có tiếng nói “Tàu vớt”, rồi người trên tàu như loãng ra, rồi chính chú Tuyến tới vực con ngồi dậy và nói bên tai: “Mình được tàu Tây Đức vớt rồi!”

Thế là chú Tuyến cùng hai con trai và Vĩ, và tất cả những người còn sống sót trên tàu được cứu lên tàu Tây Đức để đưa về trại tị nạn Tân Gia Ba.
Thật yên tâm về thằng em Vĩ, Phượng nghĩ đến ông nhà văn, nghĩ đến những trang viết mênh mông thống khổ. Cây nhân sinh với trái đắng Cộng sản! Phượng ôn lại buổi chiều nào giận ông ta dễ sợ. Phượng ôn lại những cơn khóc ngọt ngào trước đây.
Sài Gòn, 14-12-1981
Doãn Quốc Sỹ
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm nhận thơ Nguyễn Hồng Linh

Cảm nhận thơ Nguyễn Hồng Linh Kể từ thi hào Nguyễn Du thắp ngọn đuốc lục bát soi sáng linh hồn thi ca Việt đầy chất triết lý của đời sống ...