Thứ Hai, 27 tháng 9, 2021

Bóng nước hồ Gươm 3

Bóng nước hồ Gươm 3

Tập 2

Chương I

Buổi sáng đầu xuân quang đẹp. Mặt trời lên cao tỏa ánh nắng vàng tươi ấm dịu làm tưng bừng hẳn bầu không khí sớm mai. Gió hiu hiu nhẹ nhàng từ bên phía Bát Tràng thổi lướt qua sông Cái vào ven đê rung rinh phe phẩy những bụi cây, cành lá bên đường. Những con chim nhỏ bay liệng tắm nắng và lách chách, ríu rít nhảy chuyền qua từng cành, từng bụi cây. Và mải mê với nắng và mồi, chúng rất dạn người, thường đưa mắt ranh mãnh nhìn khách qua đường. Nhưng khách đi đường phần nhiều ở dưới thuyền mới lên bộ, đều vội vã đi ngay, không ai để ý gì đến cảnh vật chung quanh, nên cũng chẳng ai vạ gì hoài hơi đi khua quấy đàn chim nhỏ đang nô giỡn hát vui với ánh mặt trời. Chỉ có người, áng chừng một văn nhân mơ mộng cũng đi từ dưới bãi lên đê, nhưng hễ thấy con chim nào bất kể là chim sẻ hay chim vành khuyên, chào mào hay sáo, con nào cũng tỏ ra bạo dạn, cứ giương mắt ra nhìn có vẻ chế giễu, là ông ta xô đến đuổi ngay làm cho những con chim ấy cuống cuồng bay đi, vừa bay vừa hót như có ý nguyền rủa.

- Chết! Chết tiệt!

Nghe hay hay, người khách bật cười tự nhủ:

- Mày rủa ông chết à? Đầu năm xuân mới mà mày độc địa thế à? Rồi mải đuổi theo ý nghĩ đang nung nấu trong lòng: “Chúng mày sống vui vẻ nhởn nhơ, dễ ông không được sống vui vẻ nhởn nhơ à? Vô lý! Ai cũng có quyền tìm được cách sống sung sướng, chúng mày không được nguyền rủa ông chết! Chúng mày sẽ phải chết trước! Nghe không?”.

Khoái chí vì những ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy, ông vừa đi vừa nhặt những hòn đất rắn, gạch vụn ở đường, vừa ném đuổi những con chim nhảy nhót trên cành hay ở vệ đường làm cho những người qua lại cũng phải phì cười về cái tính lẩn thẩn ấy. Nhưng không phải ông lẩn thẩn đâu. Ông nghĩ thế thật, và ông cứ nhẩn nha như thế đi lên phía Đồn Thủy, định nhân buổi trời xuân trong đẹp này, (vả lại là buổi rỗi rãi không ai biết đến mình) để xem quang cảnh nơi nhượng địa kia thế nào? Mười lần tai nghe không bằng một lần mắt thấy, ta thử đi qua một lượt mục kích xem sao! Dòng suy nghĩ đi xa, ông không ném chim nữa, và cũng đã đến nơi rồi: kìa dưới sông, trên làn nước đỏ sẫm gạch cua chảy xiết, hơn chục cái thuyền ván, cột buồm sừng sững, trên ngọn mỗi cột một lá cờ ba sắc trắng, đỏ, xanh thẫm phần phật bay theo chiều gió, như cố nhoai cho thành một hàng dài. Bên ngoài dãy thuyền là ba cái tàu lớn hai tầng sơn trắng, ống khói tròn như cái cót lúa ở giữa nóc tàu đang từ từ bốc lên một làn khói mỏng. Ở phía mũi tàu quay ra giữa sông một lá cờ ba sắc lớn hơn một cái chiếu đang phất phơ trước gió, trông có vẻ như cờ lệnh của viên tướng chỉ huy, chỉ huy cả đoàn thuyền. Các thuyền đều im lặng tắm trong nắng sớm. Riêng trên những tàu là náo nhiệt những binh lính đi lại, lên xuống, xì xồ và hát nghêu ngao như bò rống. Tiếng hát vọng lên đến trên bờ, thì ở trên này cũng có tiếng xì xồ hát đáp lại cũng như bò rống, hổ gầm, ông khách bật lên tiếng cười chế nhạo, tự nghĩ:

- Thế mà cũng hát với hỏng.

Nhưng ông ngừng ngay vì chợt trông thấy ở trên bãi, bên trong hàng rào tre, rào cánh sẻ có tiếng hô nhịp “ắc đê,... ắc đê” 1 và nhìn thấy từng hàng đội binh lính bước đi đều đặn. Nhìn theo đoàn người nhịp nhàng tiến bước, ông đưa mắt nhìn bao quát cả cái khu nhượng địa mới xây dựng này. Ồ! Cái nơi đất bãi bồi ngoài bến Tây Luông mà mấy năm trước mình đã qua đây chỉ thấy cát và bùn, thì bây giờ đã thành một khu dinh cơ bát ngát và nguy nga: một nhà gạch hai tầng ở giữa cao vượt lên trên hàng cây, từng ô cửa chữ nhật sơn xanh đóng khung lên những bức tường vàng, chung quanh là những dãy nhà ngang dọc, cũng mái ngói tường gạch, cửa xanh trên nền tường vàng... Và bên ngoài nữa, gần sát với đê La Thành, bức tường thấp bên trên cắm rào sắt và rào gỗ cũng sơn xanh, trông thẳng tắp. Tất cả cái khung cảnh xinh xắn, diêm dúa, mới mẻ ấy nối tiếp ngay với đoàn tàu thuyền kia nổi bật lên thành một khu cảnh trí riêng biệt, như một thế giới khác ở bên sông Hồng, sát nách cái thành trì cổ lỗ. Thì ra người Tây họ văn minh hơn mình thật, họ gọn gàng, ngăn nắp, và nhất là cũng đất ấy lại là khu đất ngoài bờ sông dễ lở, cũng những vật liệu ấy, mà họ khéo xây đắp lên một nơi như tiểu thần tiên vậy, không đồ sộ lộng lẫy, nhưng mà đẹp, đẹp hơn cả dinh quan Tổng đốc trong thành. Họ giỏi hơn mình thật, đi đến đâu là họ lập thành cơ ngũ vững vàng hẳn hoi! Ô kìa! Mà sao đến buôn bán mà lại chả thấy hàng hóa gì mấy, mà lại toàn là binh lính và súng ống tập tành thế này? Ông khách gật gù tự đáp, tự cho như là một sự khám phá mới lạ:

- Binh dĩ vệ thương, thương dĩ dưỡng binh 2 .

Đúng rồi! Phải có sức mạnh mới buôn bán được! Làm gì cũng vậy, cũng cần phải có sức mạnh, có quyền, có thế! Mà đây họ lập cơ ngơi cố thổ thế này, lại tập tành rèn luyện thế kia là họ định tạo đủ sức mạnh ở mãi đây đây!

Tự nhiên ông nghĩ đến nước mình, đến dân mình rồi đến bản thân mình, ông nghĩ đến tấm thân nam nhi ngoài ba mươi tuổi mà vẫn chưa thành dân phận gì, nào có phải kém cỏi gì cho cam, cũng có học có tài như ai, rốt cục cũng chỉ vì chưa có thế, chưa có sức mạnh mà thôi. Ông vừa nghĩ về bản thân mình vừa đi sát vào hàng rào xem bọn lính Tây tập. Ông mải mê đi, cứ lững thững đến gần cổng chính mà không biết. Bên trong cổng, một anh lính Tây đã chú ý đến ông từ trước nhất là chú ý đến cái khăn gói đỏ khoác trên vai và cái nón lông đen chóp bạc sáng nhoáng phản ánh tia nắng mặt trời ở trên đầu ông. Hắn để cho ông lại gần, liền chạy xô ra, đứng ngăn trước mặt ông và hỏi bập bẹ bằng giọng Sài Gòn:

- Cái chi?... Cái chi?...

Ông khách hoảng sợ toan ù té chạy, nhưng không kịp nữa, tên lính đã chộp lấy vai ông, rồi một tay nắm chặt tay ông, một tay gỡ cái nón chóp đội lên đầu mình và tháo khăn gói khoác lên vai. Đoạn hắn buông ông ra cười hề hề đi ngoắt trở vào trong cổng. Ông cố chạy theo vào định níu áo hắn lại và đòi:

- Trả nón gói tôi đây! Trả tôi đây!

Tên kia vẫn cười hề hề rảo bước, tên lính đứng canh ở vọng canh bên trong cổng vác súng và lưỡi lê cản ông ra. Thất kinh vì những đồ binh khí sáng loáng ấy ông đứng ra bên ngoài cổng chắp tay vái lấy vái để, xin lại hành lý. Tên lính canh không hiểu tiếng nói, cứ xua tay lắc đầu từ chối. Vẫn điệu bộ ấy đối đáp với nhau mãi. Một người đàn bà gánh rau lên phố bán đi qua trông thấy vậy liền bảo:

- Bác hỏi cái gì vào chỗ nhà “đoan” kia kìa, nhờ người ta nói hộ, ở trong ấy có thông ngôn đấy.

Ông khách vội chạy theo bà hàng rau, và theo tay bà ta chỉ, đi vào cái nhà gỗ lợp tranh liền ngay đấy. Ở đây có đông người ra vào. Ông chạy thẳng đến gần người đang ngồi biên chép ngay cửa vào và nói nhờ giúp hộ. Người ấy ngẩng lên nhìn và hỏi:

- Anh buôn gì?

Ông nói lại rõ sự việc xảy ra và nhờ người ra nói giúp xin hộ nón và khăn gói. Người kia thản nhiên nói:

- Anh lại ô Hàng Cau nhờ ông Cử em.

Ông cứ nằn nì nhờ xin hộ, và cố phân trần rằng chỉ cần biết được tiếng họ là lấy lại được nón, gói thôi. Người kia lạnh lùng nói:

- Đây chỉ có việc tính thuế và khai hàng xuất nhập thôi, anh xê ra cho người ta làm việc.

Ông càng thêm chán ngán đứng tần ngần nhìn lên cái biển gỗ sơn then có hàng chữ vàng “Đại Phú quốc thương chính tòa” viết rất chân phương đĩnh đạc, ông càng thêm bực tức, nghĩ bụng “Thì ra nơi nha môn nào cũng vậy mà thôi, ở đâu cũng thế cả”. Ông lẩm bẩm nói lên thành tiếng như có ý nguyền rủa:

- Tệ thật, hễ là thương chính thì chỉ làm việc buôn bán thôi ư! Không giúp đỡ ai được việc gì nữa à?

Một người đàn ông chít khăn đầu rìu mặc áo cộc nâu năm thân cài dải đang đứng đợi ở đấy nghe thấy vậy nói ngay:

- Ông muốn hỏi gì cứ ra cửa hiệu Lạc Phố mà nhờ ông Cử.

Người ấy ghé vào tai ông, nói thấp giọng:

- ... Mọi việc ở đây, họ xua ra đấy cả. Họ ăn cánh với nhau mà. Đứng đây cũng vô ích!

Thôi đành cũng phải ra đấy vậy. Vốn đã nghe danh đồn đại nhiều về lão Cử này, nay lại phải tự phơi mặt ra với lão, nhờ vả lão, thì xấu hổ chết! Mà lại nhục nữa! Chẳng gì thì cũng là một vị quan của triều đình! Nhưng được cái lão ta chưa biết mặt mình, thì cứ giấu nhận là anh đồ Nghệ nào đó mà chả được, miễn là xong việc thì thôi. Nghĩ vậy, ông khách quả quyết đi thẳng lên phía cửa ô trên, tìm vào cửa hiệu của ông Cử em. Đây đúng là một cửa hiệu buôn. Trước kia, còn ở trên ô Hàng Mắm, hiệu Giai Huynh của ông Cử chỉ là một gian nhà dùng làm nơi để ngồi viết giúp giấy tờ giao dịch với sở Thương chính của ta và sở Thương chính của nước Phú Lãng Sa, mà người ta quen gọi là “nhà đoan”. Nhưng từ năm ngoái, dọn xuống nhà mới ở cửa ô dưới này cho gần với nhà đoan, mở mang rộng thêm, lại bày bán thêm một số hàng ngoại quý giá của Tây và Khách, trông choáng lóe cả mắt. Và tên hiệu cũng được đổi là Lạc Phố cho hợp nghĩa hơn. Ông khách xứ Nghệ đến đúng vào lúc cửa hiệu đang đông khách. Trong năm gian nhà rộng rãi, chỗ nào cũng lố nhố có người. Thường thường nhiều nhất là những người vào xem hàng, cũng có những người vào mua hàng, vào nhờ viết giúp giấy tờ, công việc, có những bạn quen thân đến chơi, bàn chuyện thời thế gần xa. Ông khách mới đến tiến lại gần một người bán hàng, chào hỏi và nói muốn gặp ông chủ. Người bán hàng chỉ vào một ông quần áo chỉnh tề chít khăn lượt chữ nhân ngồi ở đằng sau cái án thư bên trong quầy hàng ở góc nhà đằng kia. Khách còn lóng ngóng chưa biết đi lối nào, thì ông chủ ở bên trong án thư đã trông thấy vội đứng lên chạy ra, chắp tay vái chào và mời tíu tít:

- Bẩm quan lớn ạ! Xin rước quan lớn vào chơi. Mời quan lớn đi lối này ạ.

Khách sững sờ đứng dừng lại ông kia đã chạy ra hẳn tận nơi, chắp tay vái chào lượt nữa rất lễ phép, rồi niềm nở mời khách và đi trước dẫn khách vào, mời ngồi lên cái trường kỷ gỗ gụ đen bóng nhoáng có chấn song con tiện, kê ở gian giữa. Khách chợt nghĩ ra: “Thôi chết! Tú tài Nam Phố! Mình không nhớ ra. Thôi lộ rồi!”. Ông vội tìm cách ứng biến để che đậy ý định thầm kín của mình, liền hỏi:

- Thầy Tú cũng ở đây à? Thầy Tú ạ tôi muốn vào... vào chơi hầu quan phủ Đào... không biết thầy ở đây...

Ông kia đỡ lời ngay:

- Vâng, vâng ạ. Bẩm xin rước quan lớn ngồi chơi. Ông Cử chúng tôi ở nhà trong, chúng tôi xin đi vào mời ra hầu quan lớn ngay ạ.

Khách đã tự trấn tĩnh lại được, ung dung ngồi vào trường kỷ, hỏi:

- Còn nhà trong nữa cơ à? Hiệu của các quan to nhỉ.

- Dạ, bẩm dọn xuống đây có đất mở to. Vả lại nhà ngoài này bày hàng họ, có đông khách ra vào, cũng phải có cái nhà trong cho nó tĩnh, có chỗ nghỉ ngơi.

Ông Tú còn đương đứng nói, thì cánh cửa bên từ nhà trong ra kẹt mở, một người đã đứng tuổi mặc áo nhiễu kép đỏ, quần lụa trắng, chít khăn nhiễu tím, rồi ở trong bước ra, ông Tú vội nói với khách:

- Bẩm quan lớn, ông Cử tôi đã ra đấy ạ.

Rồi quay lại ông Tú giới thiệu với Đào Trọng Kỳ:

- Thưa bác, có quan Giáo thụ phủ nhà đến chơi!

Đào Trọng Kỳ vội chắp tay vái chào và đi nhanh đến trường kỷ, ấn mời khách ngồi xuống, trong khi ông này đứng dậy vái chào. Kỳ vồn vã nói:

- Hân hạnh cho hạ dân quá. Nghe danh quan lớn đã lâu, vẫn khao khát muốn đến bái yết tôn nhan, nhưng bận những việc tầm thường chưa có dịp nào thỏa lòng mong ước. Xin rước quan lớn ngồi.

Khách ngồi xuống ghế, lễ phép nói:

- Bẩm quan lớn, từ khi tôi về nhận giáo chức phủ Hoài Đức này đã hơn một năm, vẫn nghe tiếng quan lớn ở đây quảng giao hiếu khách, nhưng chưa có dịp may nào để đến hầu tiếp, định tết này về quê ra, thể nào cũng sẽ vào hầu quan lớn.

Đào Trọng Kỳ vội ngắt:

- Bẩm quan lớn, xin quan lớn tha thứ cho, xá cho lỗi gọi nhau như thế, vì hạ dân đây là kẻ có tội, bây giờ làm cái mạt nghệ này.

Khách cũng cướp lời:

- Quan lớn nghĩ thế là sai. Đành rằng có tội, nhưng quan lớn có tội với triều đình. Chứ còn quan lớn đã đỗ Cử nhân trước bản chức, làm quan đến Tri phủ, trong khi giao du với nhau, vẫn phải xưng hô như thế mới phải.

Ông Tú đứng bên nói xen vào:

- Hai quan nói đều phải cả, nhưng đệ thiết nghĩ trong làng danh giáo, con cháu đạo thánh cả, ta nên gọi thông thường cho nó thân mật hơn.

Ông Giáo thụ phủ Hoài vội nói ngay:

- Thầy Tú dạy đúng. Nói kiểu cách quá lại hóa ra khách sáo.

Rồi ông nói tiếp, thấp giọng hơn và với vẻ chân thành:

- Đệ định bụng ở quê ra, sẽ vào chơi mừng tuổi quan anh, mà không may, trong bụng lấy làm xấu hổ, lại hóa ra là phải thân đến đây nhờ quan anh giúp việc. Thật là đường đột.

Đào Trọng Kỳ đang bày ngay ngắn lại những khẩu giầu ở trên đĩa cổ cho giầu cau ngay ngắn, cũng lấy làm lạ, hỏi:

- Thưa quan lớn có việc gì kia ạ?

Khách kể lại việc đi qua khu nhượng địa, bị mất nón chóp và khăn gói. Ông Tú chưa nghe hết đầu đuôi, nói ngay:

- Tây nó đùa đấy! Sao quan lớn không chạy theo vào mà đòi, là nó phải trả. Nó thấy người mình hiền nó hay trêu!

Ông Giáo thụ đáp:

- Tôi có chạy theo vào xin, nhưng tên lính canh cổng đẩy tôi ra. Tôi chạy đến tòa Thương chính nhờ hỏi hộ, người ta chỉ cho tôi ra đây... nhờ...

Đào Trọng Kỳ nghiêm trang hỏi:

- Hay là quan lớn có làm gì chúng nó?... Hoặc giả làm cho chúng nó ngờ...?

- Bẩm không ạ, đệ chỉ thấy cái mũ trắng úp sùm sụp như cái lon giã cua ở trên đầu và đôi chân quấn vải chặt như cây gỗ, nên đệ đứng ngây ra mà nhìn...

Phủ Kỳ bỗng phá lên cười oang oang, vỗ tay vào đùi, nói:

- Thôi phải rồi! Phải rồi! Nó lạ cái nón lòng chóp bạc của quan lớn, và cả cái khăn gói nữa, khăn gói vải đỏ chứ gì,... Đúng, nó cũng lạ như quan lớn lạ cái mũ của nó ấy mà, nên nó muốn giữ lấy nó xem. Nó đùa đấy quan lớn ạ.

Người nhà bưng khay chén và nước sôi ra, ông Tú pha chè rót nước đặt lên bàn. Ông Phủ Kỳ đặt một chén nước trước mặt khách và nói:

- Rước quan lớn xơi nước. Mời quan lớn cứ ngồi đây chơi, để tôi nhờ người hỏi hộ. Nó đùa thì nó trả, không ngại.

Ông khách phủ Hoài nói khẩn khoản:

- Vì ngôn ngữ bất đồng, nên đệ phải vào đây nhờ quan anh hỏi hộ, để đệ còn xin phép quan anh phải vào trình quan Đốc học cho kịp lễ khai giảng đầu xuân ngày kia.

- Vâng, rước quan lớn cứ ngồi chơi nói chuyện, chúng tôi sẽ cho người đi hỏi ngay...

Vừa lúc đó ở bên ngoài có tiếng người hỏi vọng vào:

- Ông Cử có nhà không?

Đào Trọng Kỳ trông ra vội đứng lên chạy ra reo:

- A ha! May quá là may, vừa đúng dịp. Xin mời hai ngài vào!

Ông Giáo thụ Hoài Đức, ông tú Nam Phố cùng đứng dậy đi ra giữa nhà đón chào. Hai người khách mới đến vừa lên tiếng hỏi ở ngoài cửa đã bước vào trong nhà. Hai người ăn mặc giống nhau, cũng áo kép dài vải thâm tay chẽn, quần lụa trắng rộng phủ lên đôi giầy da đen kiểu Tây bọc lấy chân, đi gót kêu cộp cộp. Cũng cái mũ vải cứng vành to trên đầu, cũng một cái cổ trắng cao cứng bên trong cổ áo kép; tuy hai người mặc áo dài ngắn khác nhau và có giọng nói khác nhau, nhưng riêng lối quần áo, giầy mũ như thế cũng đủ tỏ cho mọi người biết họ là hạng người thế nào, từ đâu đến. Cho nên ông Giáo thụ, tuy là khách mới đến, cũng rất vui mừng như ông Cử vậy. Hai người vào đến giữa nhà, người thấp bé nói giọng Nam kỳ, đứng sững lại hỏi:

- Nhà có khách lạ à?... Có bận? Chúng tôi xin ra.

Đào Trọng Kỳ vội giới thiệu:

- Bẩm không ạ. Xin mời hai ngài vào chơi. Trình hai ngài đây là quan Giáo thụ phủ Hoài Đức chúng tôi, cũng là bạn thanh khí nhà nho cả...

Ông quay liếc nhìn ông giáo và nói tiếp:

- ... Và cũng đang có tí việc muốn nhờ các ngài, thật may quá, vừa dịp...

Rồi ông quay hẳn lại nói với ông giáo, xòe bàn tay ra, cúi đầu chỉ vào người thấp bé nói giọng Nam kỳ:

- ... Trình quan lớn, đây là quan thông ngôn Lộc người Gia Định Sài Gòn, hàm Tri huyện hạng nhất, thông ngôn đầu tòa ngoại hạng trong dinh quan Công sứ Kê-la-đích ở khu trường Tây Đồn Thủy này...

Và cúi đầu xòe tay chỉ sang người cao hơn, ông giới thiệu tiếp:

- ... Còn đây là quan Giáo sư Lê, người Bắc, giỏi chữ La-tinh, chữ Ăng-lê, dạy ở trường cố bên Ma Cao, về đây là khách của cụ Kê...

Ông thông ngôn người Nam kỳ cúi đầu chào và nói:

- Đã là quan Giáo dạy học, thì là bạn nhau cả, là cùng nghề, là đồng nghiệp, tôi cũng đã dạy học, còn quan Giáo sư Lê là giáo chức cao đẳng, dạy những người ra đi dạy các ông giáo. Ngài biết giỏi nhiều thứ chữ, cũng như quan Đốc học Trương Vĩnh Ký vậy... Chắc ngài cũng nghe nói đến quan Đốc Trương?

- Dạ bẩm thưa hai ngài, có ạ!

Ông Giáo thụ mới trả lời được thế, ông thông ngôn đã nói tiếp ngay:

- Bồng! Tốt. Chúng tôi rất lấy làm sung sướng được gặp một bạn đồng nghiệp... À mà bạn, à quên, quan lớn, xin quan lớn thứ lỗi, chúng tôi quen nói theo lối người Phú Lãng Sa, thưa quan lớn có việc gì muốn sai bảo chúng tôi?

Ông giáo luống cuống chỉ biết chắp tay cúi đầu, nói nhỏ nhẻ không rõ tiếng, ông Cử vội nói đỡ:

- Dạ, xin mời hai ngài ngồi chơi đã, mời quan Giáo ngồi chơi ta sẽ nói chuyện.

Khi mọi người đã ngồi cả vào trường kỷ, hai bên đối diện nhau, Đào Trọng Kỳ mới thuật lại việc ông giáo bị mất nón và khăn gói cho tên thông ngôn nghe. Tên này đứng phắt ngay lên, chìa tay ra nắm lấy tay ông Giáo thụ lôi đứng dậy và nói:

- Tây nó thấy quan lớn ngài hiền, nó đùa đấy. Nhưng cũng là đùa nhả, bọn này phải phạt “cỏ-vê” 3 mới được. Đi, ngài đi với tôi để bắt chúng nó phải xin lỗi ngài...

Quay sang nói với Giáo sư Lê, hắn nói:

- Bác ngồi đợi tôi đây nhé. Tôi ra ngay.

Ra khỏi trường kỷ đến giữa nhà, hắn chỉ cái bàn cờ để trên quầy hàng dặn với lại:

- Ông Cử và ông Tú đem bàn cờ này vào đấu với Giáo sư Lê mấy ván đợi chúng tôi về.

Đào Trọng Kỳ cũng xun xoe chạy ra cửa nói thêm:

- Trăm sự trông nhờ ở ngài cả.

Tên thông ngôn Lộc vội nói:

- Dạ, đó là phận sự của tôi phải làm chứ!

Và hắn vội dừng lại:

- À này quý quán cao danh của quan Giáo thế nào nhỉ? Tôi phải biết để nhờ Tây nó hỏi...

Ông Giáo thụ phải nói ngay:

- Tôi quê ở Hà Tĩnh, tên là Hoàng Văn Khải, hiện làm Giáo thụ ở phủ Hoài Đức này.

- Được rồi, thế ta đi. Tôi nhớ rồi, quan lớn tên là Hoàng Văn Khải. Xin quan lớn bỏ quá cho, cái nghề của tôi nó phải thế.

Hai người liền thoăn thoắt bước xuôi phía Đồn Thủy vừa đi vừa nói chuyện, trông đã có vẻ như đôi bạn thân.

Một hồi lâu sau, hai người trở về nét mặt đều tươi tỉnh phấn khởi. Ở đằng hiệu này, Đào Trọng Kỳ với Giáo sư Lê đang mải mê suy nghĩ, cân nhắc những nước đi, ông Tú ngồi chầu rìa bên Giáo sư Lê, thỉnh thoảng cũng góp ý mách nước. Ba người đang chụm đầu vào bàn cờ, thông ngôn Lộc sồng sộc ở ngoài vào bô bô hỏi:

- Mấy ván rồi? Có lâu không?

Đào Trọng Kỳ ngẩng lên trước nói:

- Chưa được một ván... Thế nào? Xong rồi à? Nhanh thế, có sao không?

Thông ngôn Lộc hỏi lại:

- Chưa được một ván cơ à? Sao lâu thế? Thôi hòa nhá. Cánh này đi tốt lắm. Lấy được cả nón gói về đây, mà Tây nó phải xin lỗi.

Ông Tú nói:

- Thế thì hay! Ta phải ăn mừng.

Giáo sư Lê nói:

- Hòa cũng được. Nhưng chưa hạ được ông Cử, chưa hả.

- Thôi để lúc khác hẵng hay!

Thông Lộc vừa nói vừa lấy tay xoa quân cờ đi, và nói mấy câu tiếng Tây với Giáo sư Lê, rồi hắn quay ra mời ông Giáo, ông Tú cũng cùng ngồi vào trường kỷ, và kể lại chuyện hai người đi vào khu nhượng địa như thế nào. Sau khi biết rõ cái việc đáng tiếc này, quan ba cập-ten 4 coi đội quân ở đấy đã mời quan Giáo thụ vào trong phòng khách, mời quan Giáo uống rượu vang, ăn bánh ngọt, trò chuyện hỏi thăm thân mật rồi bắt tên lính kia phải đem nón và khăn gói vào nộp trả quan Giáo và xin lỗi ngài. Quan ba cũng chân thành xin lỗi ngài về việc đáng tiếc ấy đã xảy ra.

Thông Lộc cầm cái nón chóp bạc giơ lên và nói tiếp:

- ... Và đây là cái nón của quan lớn, lông chim lợn đã đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chóp bạc chạm trổ tinh vi này, nó đã làm cho tên lính say mê đùa nghịch mà bị lỗi, làm mất thể diện của người Phú, đáng lẽ bị phạt nặng lắm. Chúng tôi phải xin mãi, quan cập-ten mới tha phạt “công-sinh” 5 chỉ phạt “cỏ-vê” qua loa thôi...

Đào Trọng Kỳ mỉm cười, nhìn hỏi sang ông Giáo phủ Hoài:

- Thế nào quan Giáo? Xong xuôi êm ấm rồi chứ?

Giáo thụ Hoài Đức đáp:

- Bẩm xong cả rồi ạ. Nón, gói, quần áo, sách vở còn nguyên, không suy suyển. Kể ra người Tây cũng lịch thiệp thật. Chỉ vì ngôn ngữ bất đồng mà sinh không hiểu nhau, chứ hai bên cùng hiểu biết nhau thì làm gì có chuyện xung đột. Ấy nhờ có quan lớn đây thông ngôn cho, Tây họ hiểu ra, họ cứ nắm lấy tay xin lỗi mãi, lúc ra về ông quan ba, ông ấy còn tiễn chân ra mãi đến cổng, và miệng cứ nói tốt tốt...

Rồi ông đứng lên nói với vẻ thành khẩn:

- Thật là may mắn cho đệ, trước hết là được nhờ ơn hai ngài biết tiếng nói giúp, sau là vì cây dây cuốn, nhờ có quan Phủ và ông Tú vun vào cho, đệ được lấy lại đủ nón gói để kịp giờ vào hầu quan Đốc, đệ xin ghi lòng cảm tạ. Giờ xin phép các vị cho đệ được lui về lo liệu.

Phủ Kỳ đứng lên và ba người kia cũng đứng lên theo. Kỳ nói:

- Không được, quan lớn ạ! Nhất kiến như cựu 6 , huống chi lại là mộ danh nhau đã lâu; hai nữa lại mấy khi được gặp hai quan bên tòa Lãnh sự nước Phú Lãng Sa như thế này. Xin quan cứ lưu ở lại chơi với chúng tôi, đến chiều hãy vào dinh học chính cũng chẳng sao.

Ông tú Nam Phố cũng nói:

- Xin mời các vị cứ ngồi xuống cả đã. Tiểu đệ xin thưa thế này ạ: Quan Giáo đến chơi với chúng tôi là một sự vui, quan Giáo lấy lại được nón khăn gói là hai sự vui, lại có cả quan bên tòa Lãnh sự hạnh ngộ thế này là ba sự vui. Chúng tôi xin làm một bữa rượu nhạt cùng họp mặt với các vị để mừng ba sự vui ấy, và cũng là để mừng cái ý nghĩa nó biểu hiện đúng với cái tên “Lạc Phố” của chúng tôi: Lạc Phố chả là bến vui mà!

Đào Trọng Kỳ cũng vui vẻ tiếp lời:

- Quan Giáo ạ, cái lệ ở đây như thế đấy. Chúng tôi làm cái nghề ngọt này chỉ cốt mong được giao du cho rộng mà thôi. Trước kia ở cửa ô Ưu Nghĩa cũng vậy. Bốn bể đều là anh em cả. Chuyển xuống đây cái ý đấy lại càng rõ ràng hơn. Huống chi hôm nay, hân hạnh có quan thông ngôn người trong lục tỉnh, quan Giáo người trong Nghệ Tĩnh, quan Giáo sư gốc gác đâu miền Thanh Hóa, Ninh Bình, ông Tú đây chính quê phố phường Hà Nội, còn ngu đệ thì chính quán ở tỉnh Đông, như thế rõ là bốn bề Bắc Trung Nam xum họp một nhà, chả là điều đáng vui lắm, cho anh em chúng tôi ư! Hẹn chả tầy gặp, mời các quan cứ ở chơi đây đã, bất cứ việc gì cũng xin để lại đến chiều. Chiều quan Giáo sẽ vào hầu quan Đốc. Thế mới là duyên may của cửa hiệu Lạc Phố chúng tôi.

Rồi ông đứng lên quay lại bảo ông Tú:

- Chú Tú đi bảo chúng nó làm cơm rượu thết khách, để tôi ở ngoài giầu nước hầu các quan.

Và quay sang hỏi quan Giáo thụ:

- Quan lớn có thích đánh cờ, mời quan đến với quan Giáo sư Lê, ngài đang cay hạ ngu đệ mà chưa được.

Thông ngôn Lộc đế vào:

- Hay đấy, hai quan Giáo, Giáo sư và Giáo thụ, đồng nghiệp đấu nhau cùng tri thức tâm tư “học nhi bất yếm, hối nhi bất quyện” 7 , thì chọi nhau mới cân tài, cân sức, hay đấy, tôi và ông Cử, chúng tôi xin làm chầu rìa, hầu điếu đóm, có phải không ông Cử?

Đào Trọng Kỳ quay hỏi vị Giáo sư Lê:

- Bẩm quan Giáo sư Lê nghĩ thế nào?

Ông này cười đáp:

- Tôi rất làm sung sướng được thừa tiếp các vị, hầu chuyện các vị là chính, còn việc đánh cờ chỉ là thứ. Tôi nói chân thật như vậy, quan Giáo mà có muốn chơi cờ với tôi, thì tôi cũng xin tuân lệnh chủ nhân ở đây.

Quan Giáo thụ lễ phép nói:

- Quan Giáo sư có rộng phép thì hạ chức may ra cũng xin đi hầu được mấy nước... Nhưng... (quay sang nhìn ông Cử, ông hỏi tiếp) trước khi vào dự cuộc vui, hạ chức muốn chủ nhân cho hiểu rõ thêm về cái tên Lạc Phố, có phải là “bến vui” như ông Tú nói không?

Đào Trọng Kỳ cười đáp:

- Dạ, bẩm có phần đúng như thế, mà cũng có phần khác. Nó là bến vui, vui vì ở đây là bờ sông, ngay ngoài bến, cửa ô mà luôn luôn có người vào ra đông vui thế này, lại có thêm những khách tâm giao tri kỷ, nên hiển hiện ra bên ngoài cũng đúng là bến vui. Nhưng về nguồn gốc chữ thì nó còn có một nghĩa khác nữa, kín đáo hơn. Đó là: Lạc tức là lạc địa, trong câu “danh giáo tự hữu lạc địa” về danh, tự khắc có đất vui riêng, ta tự có riêng đất vui của ta; Phố là làng Nam Phố, bến Hàng Bè cũ đây, chỗ này là đất của ông Tú và của cậu cả con quan tuần Lương Chính là dân làng Nam Phố. Vậy có nghĩa là đất vui của ta trên làng Nam Phố này chứ chả phải ở đâu ra cả.

Thông ngôn Lộc nói:

- Thế là quan lớn ẩn giữa thành thị trên bến dưới thuyền chứ cứ gì mà phải ở lâm tuyền mới là ẩn.

Đào Trọng Kỳ nói ngay:

- Ấy cũng vì thế, nên hễ gặp được bạn là vui ngay, chứ nếu ở lâm tuyền, thì gặp nhau được gặp là khó. Cho nên Lạc Phố ở đây, vẫn cứ là vui. Nào giờ thì đệ xin bầy quân cờ để hai quan Giáo xuất trận chơi vui.

Lão bưng bàn cờ đặt lên bàn nước, giữa hai ghế trường kỷ rồi lại ngồi xuống bày quân cờ ra bàn. Thông ngôn Lộc ngồi vào trường kỷ bên kia, cũng bày quân cờ phía bên ấy, xong rồi nói:

- Nào mời hai ngài ra tay! Cần sai bảo gì thì đàn em xin phụng mạng ạ!

Cả bốn người đều cười vui vẻ. Giáo thụ Hoàng Văn Khải nhường Giáo sư Lê đi trước, nhường nhau mãi, Giáo sư Lê mới chịu đi nước đầu tiên. Rồi kế tiếp nhau mỗi bên đi đã được mấy nước, bên phía Hoàng Văn Khải, xe, pháo, mã đã xuất trận cả, mã đã nhảy sang sông, xe đã nghiến tốt đầu cản bước. Hai người chầu rìa cũng đang chăm chú suy nghĩ theo dõi nước cờ. Giáo sư Lê mải mê chống đỡ những nước cờ tấn công nhanh như gió táp, giờ mới nhận rõ lối đánh của đối phương, gật gù khen:

- Ngài Giáo thụ quả là có tài cầm quân dẹp loạn, đáng lương đống chi tài 8 . Nhưng mà khả dĩ công vị tất khả dĩ thủ, vì ngài đánh như thế có thể phải thí xe, thí pháo, thí mã, mà lúc ấy đối thủ họ còn giữ được toàn quân thì họ có thể quật lại cũng hăng đấy. Tôi thì khác, tôi chỉ cố thủ thôi, cho nên tôi đánh hơi lâu... Và tôi...

Tự nhiên hắn cao hứng ngâm to lên:

Đời chiến quốc có anh tài

Hoàng giang một dải chia đôi sơn hà

Tướng thần sỹ tốt vào ra

Bốn phương hợp lại một nhà mới thôi!

... Đấy là bài thơ vịnh đánh cờ của tôi, và đó cũng là lòng mong mỏi của tôi, sao cho bốn phương hợp lại một nhà mới thôi! Vì thế lối của tôi chỉ là dàn quân bảo vệ:

Đào Trọng Kỳ cười nói:

- Đánh thì có hơi chậm mà vị tất đã ăn chắc. Nhưng thơ thì hay và ý nghĩ cao đấy chứ, có khẩu khí.

Thông ngôn Lộc tiếp:

- Chính tôi cũng sốt ruột nước cờ ăn chắc của Giáo sư Lê. Nhưng tôi cũng thích thơ của ngài như ông Cử vậy. Ngài làm thơ nôm bằng tiếng nói thông thường của ta cả, nhưng tính tình cao thượng và ý nghĩ sâu xa. Ngài làm được cả thơ chữ nho, thơ chữ La-tinh, thơ Phú Lãng Sa khá đấy, vì ngài là nhà bác học.

Giáo sư Lê vội ngắt:

- Sao tự nhiên anh lại đâm ra nói nhiều thế. Để yên cho người ta nghĩ, không rối bét, thua bây giờ đây này.

Thông Lộc cũng chẳng vừa, nói chèn:

- Cậu mà thua là phúc cho người khác, khỏi phải ngồi mà xem, mà ngửi cậu “đủn ìa” ra quần. Lặng thà chịu thua đi, rồi mà ngâm thơ cho nhau nghe còn hơn.

Nhìn qua bao quát cả hai bên, Giáo sư Lê đủng đỉnh vừa đấm tốt biên, vừa nói đầy vẻ tự tin:

- Đối với moa, thì cờ và thơ đều là phụ cả, vừa đánh cờ vừa ngâm thơ cũng được chứ sao. Nhưng mà moa không muốn làm trò cười cho thiên hạ!

Đào Trọng Kỳ vội nói lấy lòng:

- Tuy là phụ nhưng đều cao tay cả. Thưa hai quan lớn, thật là “kỳ phùng địch thủ” 9 thơ gặp tri âm, xin các quan vui lòng vừa cờ, vừa thơ cho thêm phần hào hứng. Rồi sẽ có đàn để thưởng rượu mừng quan.

Thông Lộc nói xen vào:

- Chúng tôi đã được biết ngón đàn của ông Tú. Còn về phần quan Giáo thụ...?

Hoàng Văn Khải ngồi im từ nãy, thấy nói đến mình, vội đỡ:

- Thưa các quan tiểu đệ bất tài cũng xin hầu tiếp các quan, nhưng phận đàn em xin được hưởng thụ là chính.

Mọi người đều cười vui vẻ. Ông Tú đã ở nhà trong ra mời cả bốn người vào phòng khách của ông Cử bên trong. Ông đon đả nói:

- Thưa các quan, xin các quan chuyển cả bàn cờ vào trong thư phòng ở trong ấy sửa soạn xong cả rồi, ta vào trong ấy cho ấm cúng, kín đáo.

Cuộc họp mặt được đưa vào nhà trong, diễn ra trong bầu không khí thân mật hơn. Sau mấy ván cờ đọ sức, thi tài, năm người cũng ngồi vào mâm, uống rượu thù tạc nhau rất là tương đắc. Giáo sư Lê có ngâm thêm hai bài thơ ngụ ý mình. Bài thơ thứ nhất là bài vịnh Con cóc, ngâm khi đang đánh cờ có bốn câu:

Ung dung chễm chệ ngồi chơi,

Gan vàng tiếng kể trong đời khiếp thay!

Muôn dân khổ hạn lâu ngày.

Mong cho thấy tiếng để rày cậy trông.

Bài thứ hai vịnh Cái nón, lão ngâm trong tiệc rượu:

Có người quân tử dựng nên,

Hình dung chĩn chện ngự trên đầu người,

Dân con cảm đức tày trời,

Cứu cơn nắng gắt mưa rơi giữa đồng.

Mọi người khen lời thơ chải chuốt, có khẩu khí cao thượng và giàu lòng thương dân.

Cuộc vui kéo dài đến quá trưa. Chủ khách từ biệt nhau, chứa chan tình thân mật lưu luyến.

° ° °

Non một tháng sau, sang đầu tháng hai, một tiệc rượu nữa được mở ra, không ở hiệu Lạc Phố, mà lại ở nhà khách của Bá hộ Kim, làng Cựu Lâu. Khách ăn chỉ có bốn người: thông Lộc, Giáo sư Lê, Đào Trọng Kỳ và Bá hộ Kim. Chủ nhà là chủ bữa tiệc. Nhưng sáng kiến bày ra cuộc họp mặt thân mật và kín đáo này lại do Giáo sư Lê đưa ra đầu tiên. Ngài giáo muốn gặp ông Bá và ông Cử để nói chuyện tâm sự riêng, không cần văn hoa gì cả. Bá Kim thấy người ta sốt sắng với mình như thế lại càng thêm khấp khởi mừng thầm và phen này có thể được lợi nhiều với bọn Tây, do đó càng hết lòng, hết sức thu xếp cho bữa tiệc thật là thịnh soạn, linh đình và thật là ấm cúng kín đáo. Khách ngồi ăn ngay ở trong nhà riêng của Bá Kim. Qua chuyện buôn bán, chuyện Tây, chuyện Khách, chuyển sang chuyện thời thế..., rượu ngà ngà say, thông Lộc móc ra trong túi một tờ giấy lệnh kẻ ô đỏ gấp tư đưa cho Phủ Kỳ và nói:

- Mời hai ngài đọc hộ cái này.

Đào Trọng Kỳ giơ tay đỡ lấy, hơi run run, hỏi lại:

- Thưa, cái gì vậy?

- Hãy đọc đi đã!

Phủ Kỳ mở to tờ giấy ra, nhìn qua một lượt những chữ viết chân phương trên những ô vuông, chỉ có khác với các tờ giấy công văn là toàn những chữ nôm cả. Lão bắt đầu lẩm bẩm đọc nhỏ rồi dần dần thành tiếng:

“... Dòng dõi chính thống,

Con cháu vua Lê,

Bấy lâu nay xót tôn miếu lìa tan,

Hành động thương con dân điêu đứng.

Nghĩ ta nay non đức kém tài, có đâu dám mở bài mối cả.

Sau vì đau tấc dạ, xót sinh linh, giục giã đêm ngày, nên phải ra tay đem xích tử 10 đặt ngay chăn nệm. Quyết nổi một cơn nồng cháy, trừ thói kẻ gian, dẹp bốn bể sóng càn cho yên trước đã. Ta nay đắp dựng nền Hán xã, chớ có điều chống đỡ thiên uy... Các khanh hãy nhớ đức Lê Hoàng, mau nghĩ đến đắp xây quốc tộ 11 .

Dụ truyền các hạt, cùng biết tuyên hành.

Lê Hoàng Tôn. Đại thiên hành hóa. Lê Duy Bá.”

Đào Trọng Kỳ đọc lướt xong, có vẻ luống cuống sợ sệt, lóng ngóng, đặt tờ giấy xuống, chưa dám nói gì, có lẽ còn suy nghĩ. Thông Lộc hỏi ngay:

- Thế nào? Ông Cử sợ à?

- Dạ!

Lão chuyển đưa tờ giấy cho Bá Kim, ngẩng lên và hỏi Giáo sư Lê:

- Bẩm đây là chỉ dụ của đức Lê Hoàng Tôn, mà có lẽ Giáo sư Lê là người đồng tộc.

Giáo sư Lê vẫn ngồi im, thông Lộc đưa mắt nhìn Giáo sư Lê rồi nhấp nháy, nói với hai người:

- Thì chính là đức Lê Hoàng Tôn đấy, trước mặt chúng ta đây chứ còn ai nữa?

Phủ Kỳ và Bá Kim sững sờ, vội đứng dậy chắp tay toan sụp lậy. Giáo sư Lê cũng vội đứng xuống đất, xua tay nói:

- Xin cứ như thường, các ngài cứ ngồi yên, chúng tôi cũng như các ngài, anh em bốn bể một nhà cả.

Hai người vẫn cứ đứng chắp tay. Thông Lộc cứ điềm nhiên ngồi yên ra vẻ quan sát mọi người và thủng thẳng nói:

- Mời các vị ngồi xuống, ta nói chuyện như cũ, như mọi khi..., như những người bạn chí thân, thì mới dễ nói hơn. Vả lại Giáo sư Lê là người đã chu du nhiều nước, theo lối bình đẳng của phương Tây, ngài không chấp nhận đâu.

Hắn quay nhìn Giáo sư và nói:

- Có phải thế không toa 12 nhỉ?

Rồi hắn ngồi lại ngay ngắn nói tiếp, giọng nghiêm túc:

- Bây giờ ta nói thẳng vào mục đích. Tôi là người trung gian, tôi xin nói toạc móng heo để các vị rõ: Giáo sư Lê chính là Lê Hoàng Tôn, dòng chính của đức Cảnh Hưng, chính tên ngài là Lê Duy Bá người ta còn gọi là Cả Thanh hay Cả Đông. Các vị thường nghe tiếng đồn về hai ông Cả ấy, chính là Giáo sư đây vậy. Giáo sư học rộng tài cao, biết nhiều thứ tiếng ngoại quốc, cờ cao, thơ hay, đàn giỏi, như các vị đã biết, nhưng đấy chỉ là phụ thôi, như ngài thường nói là mưu khôi phục ngôi chính thống của nhà Lê để đem thái bình hạnh phúc cho muôn dân trăm họ...

Hắn nói một mạch dài, thấy hai người vẫn đứng chắp tay cúi đầu lắng nghe, liền ngừng lại, đứng lên dìu hai người ngồi xuống và vồn vã nói tiếp:

- Ngồi xuống đây! Ăn uống tự nhiên đi thì mới nói chuyện được. Không chúng tôi về bây giờ. Các ông là chủ cơ mà.

Hai người liền ngồi lại, Đào Trọng Kỳ xun xoe nói:

- Thật quả hạ dân, người trần mắt thịt, không biết đến thánh nhân, nhưng cũng vẫn phục ngài là bậc độ lượng thương dân thương nước, hạ dân vẫn còn nhớ những câu thơ của ngài: “Muôn dân khổ hạn lâu ngày... dân con cảm đức tày giời...” biết ngay là khẩu khí phi thường...

Thông Lộc cười nói đế vào:

- Khẩu khí chẳng kém gì thơ vua Lê Thánh Tông...

- Dạ, bẩm vâng ạ, đúng là khẩu khí đáng vì thiên tử.

- ... Thì làm quan có mả, thông Lộc tiếp, kẻ cả có dòng mà lị. Cùng dòng dõi với vua Lê Thái Tổ, làm gì mà chả có khí tượng Đế vương. Chẳng qua mấy lâu nay phải im hơi lặng tiếng giấu thân, nên phải nén đi đó thôi. Giờ thì thời cơ đã đến, đã đến lúc xuất đầu lộ diện, nên đối với hai ông đây là chỗ quen thân, đi lại đã lâu, giáo sư có lòng tin cậy, nên cũng muốn nhân dịp nói thật cùng nhau...

Bá Kim ngồi lặng nghe và từ nãy, bây giờ mới lễ phép lên tiếng:

- Dạ, thưa hai ngài, xin hai ngài đại xá cho, hạ dân chúng con chưa biết gọi thế nào cho đúng lễ nghi. Dạ, thưa các ngài thật âm đức cho nhà chúng con lớn lắm mới được các ngài hạ cố bảo ban cho như thế, chỉ sợ chúng con kém đức mỏng phận, không xứng đáng là tôi con của các ngài... lỡ sơ suất để lộ ra làm hỏng nghĩa lớn...

Lê Duy Bá ngồi ngay ngắn, hai tay thu vào bọc, rung rung một bên đùi, è một tiếng, lấy giọng và nói một cách từ tốn, đĩnh đạc và nghiêm nghị, với vẻ người trên rõ rệt:

- Các thầy cứ yên tâm, đừng ngại, việc đã đến lúc cần nói ra cho mọi người đều biết, thì cũng lộ ra cũng không sao. Cho nên cũng cần nói cho các thầy biết để một mặt các thầy có thể đem tài trí ra giúp vào đại sự, và mặt nữa, biết rõ hiện tình mà trấn tĩnh lòng người. Tôi đây bấy lâu dốc một lòng nghĩ đến tông miếu nhà và dân trăm họ nước Đại Việt, tôi chu du các nước, được nước Anh, nước Phú, nước Nhật và nhà Thanh bên Tàu hẹn giúp. Còn ở trong nước, tôi đã đi khắp mấy tỉnh Đàng trong, mấy trấn Đường ngoài, đến đâu tôi cũng thấy trăm họ khổ sở vì hà chính 13 của họ Nguyễn và mong nhớ nước cũ vua Lê, muốn con cháu nhà Lê nối ngôi chính thống. Mà họ Nguyễn bị dân chán ghét; đến nay đất lục tỉnh Gia Định là nơi vốn dĩ của họ nay cũng không giữ nổi nữa là. Khí số đã thay đổi, mọi nơi đã hướng theo, đã đến lúc phải nêu cao cờ khởi nghĩa...

Lê Duy Bá nói một hơi khá lâu, thấy hai người chỉ chăm chú ngồi nghe, thông Lộc nghĩ rằng cần cho họ tin hẳn mới thong thả nói thêm:

- Thời cơ đã đến, vì thế họ Nguyễn càng ngày càng yếu, quan tham, lại nhũng, thần oán, dân hận. Còn đức ông họ Lê đây thì không những được các cường quốc giúp đỡ, mà ngay ở trong nước, ngài cũng được hào kiệt Bắc Hà nhớ đến vua cũ mà theo về như nước. Hơn nữa, đức ông lại được các cha cố hết lòng hướng nghĩa. Cố Phước, cố Hậu đều khuyên bảo con chiên bổn đạo đi theo. Đông đảo dân giáo cũng một lòng tin, biết hợp theo lời các đấng bề trên là một sức mạnh lớn tuyên truyền cho đức ông...

Bá hộ Kim lên tiếng hỏi:

- Lậy đức ông, lậy quan lớn, hạ dân chúng con ếch ngồi đáy giếng, không rõ được tình thế, nên nghĩ sao nói vậy, xin các ngài xá lỗi cho. Dám hỏi ông Kê và người Phú ở đây đối với việc nghĩa này, họ có thực bụng không? Hay họ cũng chỉ đứng ngoài nghe ngóng?

Thông Lộc cười, đáp lại ngay:

- Ông Bá nghĩ gần quá. Ông Kê-la-đích đối với đức ông đây coi là thượng khách, cung phụng đủ mọi thứ cần dùng. Lại tự bỏ tiền ra thuê in hàng vạn tờ dụ này từ mãi bên Hồng Công để phân phát đi các hạt, ân cần như thế, chứ còn gì nữa. Có điều còn vì thể diện ngoại giao nên họ còn phải kín đáo giữ ý chứ.

Bá Kim cũng cứ hỏi thêm:

- Đành rằng bề ngoài thì như thế thật. Nhưng hạ dân nghĩ thiển cận vẫn sợ như việc ông Đồ Phổ Nghĩa giúp một ông hoàng ở Thanh Hóa, rồi sau cũng bỏ đi. Và việc người Phú giúp ông Hồ Văn Vạn tôn phò một vị hoàng tôn nhà Lê đấy, thế mà chỉ ít lâu họ lại giúp các quan nhà Nguyễn dẹp tan đám giặc ấy, bắt cả Hồ Văn Vạn và mọi đầu mục giải vào kinh lăng xử tử.

Thông Lộc cãi:

- Sự đồng thế dị chứ 14 . Ông Kê-la-đích khác ông Đồ Phổ Nghĩa. Đấy ngay như ông Đội Diệu, các ngài biết đấy, bị các quan đòi bắt mãi, mà ông Kê ông ấy có giao đâu. Vả lại cái thế của người Phú lúc bấy giờ khác với bây giờ, mà tình trạng của triều đình Huế ngày nay lại ươn hèn và rối ren hơn trước nhiều. Cho nên mới nói là thời cơ đã đến. Và còn một chỗ vững vàng cho ta nữa là ông Kê dốc lòng che chở, có sao thì chỉ việc nằm lì trong trường Tây hay là tếch vô Sài Gòn...

Đào Trọng Kỳ cũng dựa vào ý của thông Lộc nói theo:

- Bẩm chính thế đấy ạ, việc của ông Đồ Phổ Nghĩa ngày trước chính tại ông Ngạc Nhi làm hỏng, ông Ngạc Nhi muốn dựa ngay vào bọn quan lại của Nam Triều, nên mới bỏ mưu kế của ông Đồ Phổ Nghĩa. Còn việc ông Hồ Văn Vạn lại xảy ra lúc người Phú đang thương thuyết với triều đình về buôn bán... Vả lại cũng chính là vì những người được tôn lên đều chưa phải là người xứng đáng, chưa có ai tin. Chứ bì thế nào được với đức ông đây tài cao học rộng, danh tiếng vang lừng, mà lại là chính hệ 15 .

Thông Lộc khen và nói tiếp:

- Đúng đấy! Cái thế của người Phú bây giờ là thế mạnh, người ta muốn mở rộng buôn bán thu lợi, mà các quan Nam cứ ngăn cản. Cho nên, Súy phủ Sài Gòn lại sắp đưa một đoàn binh thuyền ra đây, bắt phải mở sông Hồng cho thông thương. Nhân dịp này ông Kê muốn tuyên truyền rộng ra để đưa đức ông lên đây làm chủ miền Bắc Hà này. Có danh nghĩa là có dân tôn phù lên, còn sức mạnh chính sẽ do người Phú giúp đỡ cho, thì xoay đổi thời thế dễ như trở bàn tay.

Thấy Bá Kim và Phủ Kỳ ngồi im, ra chiều đã xiêu xiêu, Lê Duy Bá giảng giải thêm cho họ ngả theo hẳn:

- Thầy Bá có ý nghi ngại người không thực tâm giúp, rồi lại hóa đem con bỏ chợ. Nghĩ như thế cũng có lý, nhưng việc bây giờ khác ngày trước. Bây giờ người Phú đã đóng ở đây rồi, chỉ cần mở rộng buôn bán ra toàn cõi Bắc kỳ này. Thế mà các quan của nhà Nguyễn lại cố chấp và bo bo ngăn cản họ. Cho nên họ lại phải đem binh quyền ra lần nữa. Lần này thì họ vững và mạnh hơn trước nhiều. Nếu bọn nhà Nguyễn chống lại, họ sẽ đánh chiếm lấy và lập riêng ra một nước giao trả cho nhà Lê cũ. Lúc đó chúng ta đã có đủ công miếu, xã tắc để cũng buôn bán hòa hảo với người Phú. Như thế là dân được yên, nước được lợi. Nếu nhà Nguyễn chịu nhượng người Phú, mở cửa thông thương, giao cả mọi nơi trọng yếu cho người Phú, thì chúng ta đây, có dân theo, chúng ta sẽ có được những quyền vị đích đáng để giao thiệp với người Phú. Đằng nào thì người Phú cũng không bỏ rơi chúng ta, vì chúng ta nắm được dân, làm lợi cho người Phú. Ở các nơi như Thanh Hóa, Ninh Bình, Quảng Yên, Hải Dương, tôi đều có hộ bạ cả rồi. Do đó, nhân có thầy thông đây quen biết các thầy, đã đi lại chơi thân, tôi cũng muốn nói rõ để các thầy biết, vì sự thanh khí và cũng vì lợi chung cho cả dân cả nước, mà cùng mưu nghĩa lớn...

Thông Lộc cũng nói thêm:

- Chủ trương của người Phú mở rộng buôn bán đã có từ lâu, nhưng tôi chưa dám nói rõ với các ông, vì hai lẽ: nói sợ các ông chờ quá lâu để sốt ruột ngã lòng; vả còn phải thử xem tâm tình các ông thế nào đã chứ. Nay đã biết các ông đều là những người thức thời đạt lý, biết quyền biến nên mới ngỏ cũng nhau; hơn nữa, việc kíp rồi, mai mốt binh thuyền của người Phú ra đây, thế như chẻ tre rồi mới bảo các ông thì hơi muộn và không cần nữa. Các ông có tin hay không, cứ hỏi ông Phạm Quang Diệu sẽ rõ. Các nơi người ta đã theo về như đi chợ cả.

Phủ Kỳ thành kính nói:

- Bẩm tâu đức ông, nhờ âm công, âm đức, hạ dân chúng con được đức ông đoái thương tới, vạch rõ cho biết đường họa phúc, chúng con xin cắn cỏ ngậm vành. Dám mong đức ông truyền bảo cho lệnh phải làm gì từ lúc này.

Lê Duy Bá nghiêm nghị nói:

- Các thầy đã biết ngóng theo cờ nghĩa, thế là tốt. Đáng lẽ phải đợi đến một cuộc họp lớn, tế trời đất, uống máu ăn thề, rồi mới ban bố mệnh lệnh. Song nghĩ tình quyến cố 16 ta cũng tòng quyền tiếp nhận các thầy vào hội nghĩa, và ban phép cho các thầy tuyển mộ thêm người trung nghĩa và dò xét mọi tình hình phòng bị của vua quan nhà Nguyễn ở địa hạt mình. Nếu làm gì có hại cho hội nghĩa, thì gươm thiêng còn đó, phép nước quyết không tha...

Thông Lộc cười vui vẻ nói:

- Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Rốt cục lại chỉ là cổ động lấy thêm người hướng theo nghĩa, cũng như chúng tôi làm hôm nay với các ông ấy mà. Có người rồi có việc. Các ông cần cổ động cho các hào kiệt trong vùng biết rõ tình thế và chí hướng của đức ông đây.

- Bữa tiệc kết thúc giữa bầu không khí vui vẻ, nhất trí, trong đó mọi người đều như là hiểu biết nhau, đã căn dặn nhau những việc cụ thể trước khi chia tay. Ăn tráng miệng và uống nước xong, Lê Duy Bá và thông Lộc đứng lên cáo từ ra về. Đào Trọng Kỳ và Bá hộ Kim đứng lên kính cẩn theo sau tiễn chân ra đến cổng. Khách vừa ra đến giữa sân, cô Xuyến, con gái Bá Kim ở ngoài về không biết có khách, chạy rảo cẳng vào sân, vội đứng sững lại chào hai ông khách, rồi nhẹ nhàng nhanh nhẹn rẽ tạt xuống nhà ngang đối diện. Thấy cô gái ăn mặc nâu sồng, áo đồng lầm quần nái thâm, nhưng duyên dáng và lộng lẫy, Lê Duy Bá nhìn theo mãi, cho đến khi ra đến cổng, còn ngoảnh lại trông vào phía nhà ngang và cười gật đầu chào Bá Kim. Thông Lộc đi nén lui lại sau, đứng bên Bá Kim ghé miệng khẽ nói vào tai:

- Đức ông tuy đã ngoại tứ tuần, nhưng nội trợ kém người chưa có ngôi chính thất, ngài khó tính, nhưng vốn nghe tiếng lệnh ái, nay được thấy bóng hồng, ngài ngẩn ngơ nhìn mãi. Nay mai bốn bể một nhà, cung phi hoàng hậu hẳn là có nơi.

Bá Kim vội nói:

- Dạ, chúng tôi bạc đức, và tiện nữ kém hèn, không dám ngóng trông.

Đào Trọng Kỳ cũng nói xen vào:

- Có phúc thì có phận. Người ta có số cả. Nếu quả được như vậy chúng tôi xin có lời mừng, nhỉ quan thông ngôn nhỉ!

- Đúng vậy! Thôi xin chào hai ông nhé! Cứ thế mà làm, rồi sẽ đủ cả. Có cả vinh thê ấm tử, và con gái hiển đạt trông thấy.

Thông Lộc vừa chào vừa nói dài dòng. Trong khi Lê Duy Bá lặng lẽ gật đầu chào lại Đào Trọng Kỳ và Bá Kim lần nữa. Hai vị khách đi khỏi. Bá Kim và Phủ Kỳ trở vào, đi rẽ qua nhà ngang, thấy con gái ở trong bếp đi ra, Bá Kim gắt hỏi ngay:

- Con nhà chết tiệt! Con gái nhớn như cái bồ mà vô ý vô tứ ở đâu về mà chạy xô cả vào khách...

Cô Xuyến liến thoắng cãi:

- Con tưởng các ông ấy về rồi đấy chứ. Con vội đem cái giấy sức về cho thầy.

- Giấy sức gì? Đâu? Bá Kim hỏi:

- Con để ở tráp trên nhà ấy, giấy quan Thượng sức cho tất cả hàng khoa, hàng hào.

Bá Kim vội mời Đào Trọng Kỳ trở lên nhà khách:

- Mời quan bác vào chơi đã, để ta bàn cho kỹ.

Đào Trọng Kỳ lặng lẽ bước vào nhà khách, Bá Kim bước ngoặt vào trong buồng bên mở tráp lấy ra tờ trát sức, đọc lướt nhanh đến chữ “sức cho tất cả các chức sắc, văn từ Tú tài, võ từ Cai đội, hào từ Bá hộ trở lên hiện đang nghỉ ngơi vô sự ở nhà chưa có chức phận gì, phải củ tập 17 dân đinh nơi mình, đợi lệnh ứng phó với sự tráo trở của bọn Phú Lãng Sa. Dự phòng đầy đủ, mà không để lộ hình tích...” Lão vội chạy ra nhà khách ném tờ giấy sức lên án thư trước mặt Đào Trọng Kỳ, lắc đầu nói:

- Đây này bọn Tây sắp ra thật rồi, các quan ta đã đề phòng chu đáo, bắt mọi người...

Đào Trọng Kỳ cầm lấy tờ sức đủng đỉnh nói:

- Lại cái lối đánh bằng giấy sức, nào ai lạ gì?

Bá Kim ngồi vào trường kỷ đáp:

- Bác hãy đọc cho rõ đã! Quan Thượng Hoàng này khác các quan Thượng trước nhiều.

Đào Trọng Kỳ vẫn không đọc giấy sức, hỏi lại:

- Khác những gì? Bác nói lại cho tôi nghe nào? Xem có đúng.

- Này nhé! Bá Kim nói với vẻ tự tin quả quyết. Cụ lớn ngài rất cương trực, thẳng thắn, không sợ quan trên, không chèn ép người dưới. Tôi biết tính ngài từ chín năm trước khi ngài còn làm Án sát tỉnh Bắc. Ba năm nay, ngài về làm Tổng đốc tỉnh này thì ai ai cũng rõ ngài rất mực trung trực là một. Hai nữa ngài biết trọng vọng các vị khoa bảng, và trấn áp bọn cường hào...

Phủ Kỳ cười ngắt lời:

- Đó lại là điều bất lợi kia chứ. Mười năm trước, khi bọn Đồ Phổ Nghĩa đến đây, cánh nhà nho muốn đánh, nhưng bấy giờ Tổng đốc Bùi Thức Kiên lại khinh miệt bọn họ, ngăn cản họ, rồi bắt bớ, không cho họ đánh, nên tức nước vỡ bờ, họ vùng ra. Còn bây giờ quan Thượng quý nhà nho, nhà nho tin quan Thượng, nấn ná nước đến chân mới nhảy thì có là nhảy xuống sông...

Bá Kim cũng không chịu ngắt:

- Thì bác hãy cứ đọc tờ sức đã nào. Người ta dốc sức cả hàng khoa hàng hào, vạch ra công việc cho mọi người cùng làm, cùng sẵn sàng đối phó kia mà, có như trước kia đâu.

Đào Trọng Kỳ lật đi lật lại tờ giấy, vẫn cười nói:

- Tôi chỉ nhìn qua là biết quan trên sức bắt các thân hào trong huyện Thọ này làm gì rồi, mà lại liệt tên rõ ràng đây nhé. Này Cử nhân Võ Thạch, Cử nhân Kim Cổ, Tú tài Yên Thái, Tú tài Tự Tháp, Tú tài Nam Phố, Cai tổng Bá hộ Cựu Lâu, Bát phẩm văn giai Phất Lộc... một sô một sốc. Bác cho như thế là khác kia trước à?

Bá Kim đáp rắn rỏi:

- Phải! Người ta điều động và khuyến khích được tất cả mọi người danh vọng đứng ra ngăn cản kẻ ngoài lấn cướp.

- Bọn Phú đã ra đến nơi rồi, Phủ Kỳ nói. Tôi thử hỏi bác, cái giấy sức kia đưa xuống cho bác, bác đã đề phòng kịp chưa? Vả lại các ông quan chỉ ngồi ở trên mà đưa giấy xuống giục, rồi chỉ tay năm ngón mặc kệ ai làm thế nào thì làm, thì thử hỏi, ngộ nhỡ các ông quan thua rồi, hay đi theo Tây cả thì bác và các thân hào trong huyện có đánh Tây nữa không? Biết theo ai mà đánh? Hay lại cũng vẫn muốn làm gì thì làm?

- Thế chẳng nhẽ lại không sức gì cả, cứ im đi như mười năm về trước, khi bác làm Tri huyện Thọ ấy à?

- Bác nên biết rằng sức hay không mà các quan cứ ở trên tỉnh, trên huyện, không biết gì đến dân, thì cũng như không cả mà thôi. Các quan phải lăn lộn với dân, bày mưu kế cho dân thì dân mới biết lối mà theo chứ. Hiện nay có thế không? Tây nó sắp ra đến nơi rồi. Mà các quan lại có vẻ lui vào cố thủ ở trong thành, đào thêm hào, xây thêm tường vít lấy cổng, không một vị nào ra ngoài cả. Thế ngộ Tây, nó đánh mất thành rồi thì sao? Lúc bấy giờ dân theo ai mà đánh giặc?

Không thấy Bá Kim nói gì, Phủ Kỳ cắt nghĩa thêm:

- Huống chi ông Lãnh sự Kê-la-đích khôn ngoan quỷ quyệt hơn lão Đồ Phổ Nghĩa nhiều, ông ta nhũn như con chi chi, giao thiệp rất khéo với quan và dân ở đây, không xảy ra điều tiếng gì, cánh nhà nho vì thế mà càng tin quan Thượng, không thấy xôn xao như trước. Rồi đùng một cái, bọn Phú khác ở trong kia ra, nó mới làm già bắt ép cả quan lẫn dân phải chiều theo ý nó, thì thật trở tay không kịp nữa.

- Thế bác bảo tôi đừng làm theo tờ sức này để nó cột cổ tôi lại buộc cho tôi tội phản quốc ấy à? Hay là bác muốn bảo tôi cuốn gói theo ngay Giáo sư Lê.

Phủ Kỳ lại càng cười lớn nói:

- Ông này phát khùng lên rồi! Tuấn kiệt phải thức thời, tự mình nhìn lấy chứ phải nghe ai! Tôi nói như thế để bác thấy rằng thế của người Phú bây giờ vững và lợi hơn năm Dậu trước, còn thế của dân ta thì lại rời rạc hơn, quan không dám tin ở dân, mà cánh nhà nho lại tin ở quan, nên không sôi nổi như trước...

Bá Kim ngồi sát lại gần, hỏi khẽ, có vẻ chân thành:

- Vậy ý bác thế nào? Và bác bảo tôi nên làm như thế nào lúc này?

- Tất nhiên không ai xui dại bác mà bác nghe. Phủ Kỳ nói thong thả và nghiêm túc. Bác không muốn làm lớn, một lúc lên ngay Tổng đốc Thượng thư mà bác cũng không muốn thiệt đến thân. Vậy thì cứ tình thế lúc này bọn Phú thế nào nó cũng ra ngoài này, ít nhất nó cũng chiếm lấy tỉnh Hà Nội với con sông Hồng Hà, rồi sau này nó chiếm cả Bắc kỳ để mở rộng buôn bán. Mưu mô của bọn Phú như kẻ cao cờ, nó cứ đi lấn từng bước làm cho các quan ta không tài nào gỡ được. Đã thế quan trên lại không tin mình, thì ta chỉ ư hử đợi thời, mà đợi cũng không lâu đâu, chỉ là kể ngày kể tháng thôi. Trong khi ấy thì ta nên nghĩ cách ngầm giúp Duy Bá...

Bá Kim đột nhiên hỏi lại:

- Bác có tin người Phú sẽ thực bụng giúp Lê Duy Bá không? Và Lê Duy Bá sau này có thể khôi phục được ngôi nhà Lê thật không?

- Có! Đào Trọng Kỳ trả lời thong thả rành rọt. Vì tôi cho rằng bọn Phú nhất định phải chiếm lấy Hà Nội, mà bọn quan tỉnh, nhất là quan Thượng, không khi nào chịu giao nhượng, tất nhiên bọn Phú phải đánh. Mà nó đã đánh là nó lấy được. Lấy được rồi, bọn nó muốn yên ổn mà buôn bán thu lợi nhiều, tốt, nó sẽ giao quyền cho đức ông Lê Duy Bá lấy danh nghĩa là lập lại triều nhà Lê mà làm vua đất Bắc này. Như thế là ta đã có tay trong giao thiệp được với đức ông nhà Lê ngay từ đầu.

Bá Kim lắc đầu nói:

- Tôi thì tôi không tin như thế. Tôi cũng dự đoán biết nhất định bọn Phú sẽ chiếm giữ Hà Nội và cả toàn cõi Bắc kỳ cũng như sáu tỉnh Nam kỳ vậy. Nhưng tôi không tin bọn nó sẽ giúp cho Lê Duy Bá lên làm vua xứ này. Trước tiên công đức nhà Lê không còn đủ để chiêu tập hào kiệt bốn phương theo về. Lê Duy Tự, Lê Duy Ôn, Lê Duy Uân, trong mấy năm trước đây đã lần lượt nổi lên, lại lần lượt bị giết tất. Thế là khí số của nhà Lê đã hết rồi, quỷ thần không vệ, trăm họ ít theo. Huống chi bọn Phú đến đây cốt mưu lợi cho chúng, chúng cứ lấn dần từng bước chắc chắn, vua quan bản triều cứ nhượng dần, hoặc có ông quan cương trực sắc sói, thì nó tìm cách triệt đi, hoặc là dùng quân lính mà đánh chiếm lấy, rồi sau lại đặt những kẻ nào theo chúng nó lên nắm quyền. Thế thì tội gì nó lại lập ra một nước nữa cho rắc rối.

Đào Trọng Kỳ sừng sộ hỏi lại:

- Thế ông bảo làm sao mà nó lại nuôi và trọng vọng Lê Duy Bá như thế? Nó nuôi cho ăn hại à?

- Ấy, đi đồng đất nước người xa lạ − Bá Kim nói – nó phải phòng xa thế, đề phòng mọi mặt, để ngộ nhỡ lúc cùng ra đi phải dùng đến thì có ngay người lập ngay lên làm vua, để có danh nghĩa mà giao thiệp. Hơn nữa nuôi Lê Duy Bá không khi nào thiệt cả. Chỉ dùng để dò xét tình hình rồi trình bày tỏ thẳng ngay với họ thông qua thông ngôn phiên dịch cũng lợi lắm rồi.

- Thế thì như bác nghĩ, không nên giúp Lê Duy Bá à?

- Không nên! Bá Kim nói một cách dứt khoát, có nể thông Lộc thì cứ ư hử cho qua lời thôi. Chứ làm đĩ chín phương cũng nên để một phương lấy chồng chứ. Tôn phù Lê Duy Bá, lập ra một nước của vua Lê để đánh nhau với vua quan nhà Nguyễn, thì rồi tôi và bác có được lợi gì? Hay là hai bên đánh nhau, dân chúng chết, chúng ta ở gần sẽ bị cháy thành vạ lây, mà chung quy chỉ lợi cho người Phú thôi. Huống chi trong lúc đang có vẻ cấp bách này, mà mình cứ thập thò không khéo là cụ thượng này cụ có thể trừ khử khỏi ngay tức khắc cho mà xem, cho nên, lúc này, đệ cho ngồi yên là thượng sách.

- Thế bác định lờ người ta thật à? Bấy lâu gắn bó vừa có vẻ thề thốt nặng lời mà lờ ngay được?

Bá Kim thủng thẳng nói:

- Lờ được thì cứ lờ. Này nhé, bọn họ vừa nói binh thuyền Phú sắp ra, mà các quan thì sức xuống đề phòng như thế, rõ ràng việc đã đến nơi rồi! Thì ta cứ việc ngồi mà đợi, đâm bổ vào làm gì, vừa khổ cho mình và làm khó khắn thêm cho việc nước. Còn dại nào hơn?

Đào Trọng Kỳ ngồi im lặng suy nghĩ. Bá Kim với cái điếu đóng ở trên yên thư vít xuống để vào môi hút thử kêu sòng sọc. Chợt ở ngoài sân có tiếng người láo quáo. Lão buông xe điếu trông ra. Tú tài Nam Phố Lương Huy Cẩn đã bước vào nhà. Lão vội đứng lên chắp tay chào hỏi:

- Thầy Tú đã tiếp được tờ sức này chưa?

Ông Tú ngồi xuống trường kỷ, mắt trông theo tờ giấy để trên bàn, nói ngay:

- Nhận được rồi! Tôi đến tìm bác Cử để bàn cách luân hành cho phải phép.

--------------------------------

1

Un, deux: một, hai. Tiếng đếm của binh lính đi đều bước.

2

Binh bảo vệ cho sự buôn bán để nuôi quân.

3

. Corvée: hình phạt làm việc lao động nặng nhọc.

4

Capitaine: quan ba.

5

Consigne: phạt giam.

6

Mới gặp như đã biết nhau lâu rồi.

7

Học không chán, bảo không mỏi.

8

Lương đống là rầm và cột – Người tài giỏi ví như rường cột của nhà của nước.

9

Cờ gặp tay tương đương đối địch.

10

Xích tử là con mới sinh ra. Ở đây nghĩa là dân (đối với vua).

11

Quốc tộ: vận may của quốc gia.

12

Toi (đọc là toa) tiếng Pháp, dùng trong cách xưng hô thân mật hoặc suồng sã – (Mày nhỉ! Đằng ấy nhỉ! Cậu nhỉ!...)

13

Chính trị hà khắc.

14

Việc giống nhau nhưng cái thế thì khác.

15

Dòng dõi chính.

16

Tình lưu luyến tưởng nhớ đến luôn luôn.

17

Tụ họp, tập hợp.

Chương II

Phòng khách của tòa Lãnh sự trong khu nhượng địa là một căn nhà gạch rộng và vuông trông ra cái vườn hoa, thẳng ra sông. Phòng bài trí sơ sài theo lối Tây, chỉ có một bộ ghế bành, bốn chiếc kiểu tàu sơn son, tay vịn và lưng tựa đều chạy viền chỉ vàng. Ở giữa có một cái bàn vuông cũng sơn son chạy chỉ vàng. Trên bức tường giữa sát trần, treo một bức hoành sơn then, chung quanh viền chạm nổi thếp vàng đóng khung lấy bốn chữ “Tự viễn phương lai” nét to thếp vàng rực rỡ. Tên Thiếu tá hải quân Hăng-ri Ri-vi-e đang tiếp khách ở đây. Hắn ngồi vững vàng sừng sững lên một chiếc ghế, hai tay để lên tay vịn, hắn rún rún không thấy rung chuyển gì, lấy làm đắc chí, đưa tay lên xoa vuốt hai hàm râu ở hai bên má, cười vui vẻ nói với hai người ngồi ở hai ghế đối diện:

- Vững lắm? Cái thế của chúng ta cũng vững như thế này đấy các vị ạ. Tôi đi đã nhiều, nhưng không biết làm sao, tự nhiên đến đây, tôi lại thích có bộ sa-lông này ở cái phòng khách này, sao mà nó ăn ý thế, ghế thanh thâu mà vững chắc, phòng quang đãng mà cảnh trí nên thơ. Tôi đâm phục ông Kê đây có tài biết chọn những cái hay, cái đẹp ở đây đem hòa hợp với phong độ của ta... làm cho ta đã văn minh, đã đẹp lại càng văn minh và càng đẹp hơn ở đất lạ quê người...

Biết Ri-vi-e vốn hiếu thắng lại có máu văn chương, Kê-la-đích, chủ nhân khu trường Tây này lại lựa lời nói chiều ý:

- Ấy thưa ngài Thiếu tá, xa quê lạ người, thì cũng phải lựa chọn những dụng cụ và lề thói của người ta ở đây mà dùng cho nó đỡ lạc lõng và xa lạ. Bộ ghế này là của Bang trưởng Huỳnh Lục Ký Hàng Ngang mua cho. Còn bức hoành này là của Hội quản Khách trú tặng. Bày biện thế này vừa tỏ sống theo như họ, quý trọng họ và giữ cho họ tin theo mình...

Hắn quay sang nhìn, nói với người ngồi ở ghế bên, ngang thẳng với Ri-vi-e:

- Thưa đức cha, đấy là con tuân lời đức cha dạy bảo và học tập các cha ở bên Nhà chung đấy ạ. Các cha ăn ở như người bản xứ vậy, nhà cửa đồ ăn thức dùng, nhất nhất đều như người dân thường vậy.

Ông giám mục cười, gật đầu và không nói. Ri-vi-e vui vẻ nói tiếp:

- Cảnh trời quang đãng, màu xanh xa xa đằng kia phản chiếu xuống màu nước đỏ, đưa không khí mát rượi vào đây. Khí hậu này là khí hậu Pa-ri. Đây là Pa-ri trên sông Hồng. Bầu trời này là của chúng ta. Tôi được lệnh ra đây để mở rộng và khẳng định bầu trời này là mãi mãi của chúng ta.

Hắn quay ra nói riêng với ông giám mục:

- Thưa đức cha, Chính phủ Cộng hòa và các giới kinh doanh buôn bán sẽ vô cùng biết ơn đức cha và các cha cố đã lặn lội chịu đựng gian khổ mở nước Chúa ở cái xứ Bắc kỳ này, truyền đức tin cho bọn dân nghèo khổ ở xứ này biết hướng theo đức Chúa, đồng thời do đấy giúp cho nhà nước chúng ta mở rộng khu vực buôn bán ở đây, biến nơi xa lạ này làm bầu trời tươi đẹp của chúng ta... Thưa đức cha, đúng như đức cha vừa nói “không có các cha cố và con chiên bản xứ, thì người Phú đến đây cũng sẽ chỉ như con cua mà người ta đã bẻ hết càng”. Tôi mong mỏi được thừa tiếp đức cha chính là để tỏ rõ lòng biết ơn và tin cậy của tất cả cánh quân nhân hiện có mặt trên đất này.

Cố Phước, ông giám mục chính là cố Phước, tức giám mục Puy-gi-ni-ê ở tòa Giám mục Sở kiện, mới được Đội Diệu về mời lên bàn kế hoạch tấn công, đã nghe rõ mọi ý kiến trình bày và những lời tâng bốc, giờ mới lên tiếng tỏ ý nghĩ của mình, vừa nhìn Ri-vi-e vừa đưa tay lên xoăn xoắn vê từng sợi râu vừa nói:

- Ngài Thiếu tá nói được như vậy, Nhà chung và bổn đạo chúng tôi lấy làm hài lòng và cảm ơn. Nhưng xem những điều ngài vừa trình bày có ý dựa vào triều đình Huế, tôi e rằng có thể lại đi theo cái lầm của ông Gác-nhi-ê năm trước chăng?

Ri-vi-e rún mình rung rung trên ghế và nói:

- Vững lắm! Thưa đức cha vững lắm, sẽ không suy suyển gì cả vì thưa đức cha, bây giờ với chín năm trước hoàn toàn khác nhau. Trước hết, tôi gần 60 tuổi đầu phải hơn hẳn anh chàng Gác-nhi-ê mới ngoài ba chục tuổi. Vả tôi đã dẹp tan bọn loạn đảo Tân thế giới, và mới đây tôi đã thuyết phục vua Nô-rô-đôm nước Cao Miên giao toàn quyền mua bán thuốc phiện và toàn quyền kinh tế cho người Phú chúng ta. Còn về thế, thì bây giờ ta có nhiều lợi thế hơn trước. Chúng ta đã có một cơ sở vững vàng cả về vũ lực và về tinh thần ở ngay giữa Hà Nội này rồi. Lại được ông Lãnh sự đây rất khôn ngoan, từ trước đến nay đã giữ hòa hảo được với quan với dân ở đây, dân họ không tức tối như hồi ông Đuy-puy đến. Rồi đùng một cái tôi ra, tôi có làm gì quá mạnh, họ sẽ giở tay không kịp. Về phía vua, quan thì ông ở Huế đã báo cho tôi biết những đề nghị của bọn quan Sơn Tây Hà Nội xin đem quân đóng giữ trung du để bảo vệ đồng bằng đều không được chấp nhận; còn ở Hà Nội này thì lệnh vua bắt phải cử một quan văn và một quan võ cao cấp chia san bớt quân đem ra ngoài thành tìm chỗ đóng quân để cùng với dân tìm kế phòng giữ. Lệnh ấy ở đây họ không thi hành; họ tập trung vào cả trong thành. Đó là điều rất lợi cho ta...

Hắn vội đứng lên mở cái cửa sang phòng bên gọi tên thông ngôn Phong sang, hỏi và bắt thuật rõ việc hắn giao thiệp, dụ dỗ Tôn Thất Bá về nhà, Bá thuyết phục các quan khác như thế nào. Tên Phong kể xong đầu đuôi mọi sự việc, Ri-vi-e đuổi hắn ra ngoài và trở lại nói rõ với hai người:

- Những tin tức trên đã điều tra lại và được xác nhận là đúng cả. Quan Án sát là người hoàng phái, nếu mua chuộc được hắn, ông ta đứng về phía chúng ta thì hay, bằng không thì cứ như thế này cũng lợi lắm. Còn ông Tổng đốc là người cứng cỏi, có thể ông ấy không chịu nghe theo ta, nhưng cách đề phòng của ông thu gọn vào thành như thế, nếu cần thiết, ta cứ đánh vào thành bắt ép ông phải theo.

Cố Phước hỏi:

- Ngài Thiếu tá đã gặp trực tiếp ông ta chưa?

- Thưa đức cha, tôi đã hội kiến với ông ta, một lần xã giao đáp lễ, một lần chính thức nói đến công việc của ta ra đây là đòi mở sông Hồng ra buôn bán và đuổi quân Cờ đen. Ông ấy đều chối và đợi mệnh triều đình. Nhưng tôi vẫn cứ lấn được. Tôi đòi được đóng quân ở trường thi, ở tòa Thương chính trên cửa Ô Quan Chưởng. Ông ấy đều phải nhận cả rồi. Và tàu của ta đi lên Bạch Hạc, đi vào Ninh Bình, họ có dám ngăn trở gì đâu.

Lãnh sự Kê-la-đích hỏi:

- Đã có thế lấn dần như thế, thì việc đánh thành có cần thiết lắm không? Có lẽ tránh đánh nhau vẫn hơn?

Ri-vi-e cười:

- Thưa ông Lãnh sự, việc này tôi làm, tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm, tôi sẽ không làm mất thiện cảm của người An Nam đối với ông đâu. Chính ông đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi đánh thành đấy. Và người ta có chửi kẻ thất tín là chửi tôi, chứ không phải chửi ông đâu tuy ông cũng đã nhiều lần lấn vượt những điều đã ký kết. Nhưng mà sự thể có như thế này: kẻ thù gây khó khăn chính cho chúng ta là bọn Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, chứ không phải quan lại triều đình, chúng ta đã dùng bọn Cờ vàng để trừ Cờ đen, nhưng chỉ phí của tốn công vô ích. Cho nên chúng ta phải dựa vào triều đình, buộc triều đình bắt ép quan lại của họ phải lìa bỏ Cờ đen. Còn ông quan nào ngang ngạnh không nghe thì ta tỉa dần. Đó là chủ trương của Bộ Hải quân và của Súy phủ Sài Gòn.

Hắn đi sang phòng bên cạnh rồi trở lại, tay cầm một tờ giấy vừa đi vừa nói:

- Đây, tôi xin đọc lời quan Đô đốc Đờ-vi-le truyền xuống cho tôi: “... Anh bắt quan triều đình phải nhượng đất để đóng thêm đồn, kiểm soát cả sông Hồng, nếu họ không cho thì cứ lấy, không phải đếm xỉa tới họ, khi nào anh thấy cần thiết. Vả lại tôi tin rằng họ không kháng nghị gì lắm đâu” và “... Đối với chúng ta thì Cờ đen là cướp, anh phải đối phó với chúng như đối phó với bọn cướp, nếu họ ngăn trở, anh bắt họ về Sài Gòn, tôi sẽ đầy họ đi Côn Lôn!”

Hắn ngồi xuống ghế đưa tờ giấy cho Kê-la-đích và nói:

- Đây ông xem, nhiệm vụ của ta rõ ràng như thế, mà cái thế của ta, sau khi đã điều tra kỹ rồi, là có thể thực hiện được nhiệm vụ ấy, thì ta cứ làm chứ. Tôi đã viết thư vào Sài Gòn xin thêm mười vạn viên đạn và 150 cân thuốc nổ, và tôi được phép tập trung cả súng đạn của Sư đoàn Hải quân ở vịnh Hạ Long. Và mấy hôm nay, tàu chiến của ta đi lên Sơn Tây, vào Ninh Bình là vừa để dò xét tình hình và đồng thời vừa để làm sức ép cho các nơi sợ, nếu xảy ra chiến sự ở đây họ sẽ không dám về cứu.

Cố Phước mỉm cười rung rung hàng râu hỏi:

- Lấn dần từng bước vững chắc và đánh tỉa từng tên, như thế rất tốt. Nhưng nếu vạn nhất phải đánh nhau to, triều đình Huế ngoan ngạnh không chịu nhượng thì ta có lập một nước ngoài Bắc này như dự định của ông Đuy-puy trước không? Chắc ông Lãnh sự đã nói rõ với ngài Thiếu tá rồi. Nếu lập nước thì Lê Duy Bá là người tài giỏi hơn những người trước kia nhiều, được hào kiệt các nơi theo đông. Lại tổ chức chu đáo hơn, người nào, việc gì chức vụ quyền hành ra sao, đã xếp đặt cả, động dụng đến là có ngay. Ông thử nghĩ xem.

Ri-vi-e vui vẻ nói:

- Cảm ơn đức cha đã nghĩ xa xôi và xử trí chu đáo như thế. Nhưng về điểm này, như tôi đã nói với ông Lãnh sự mấy hôm trước đây, ta hãy để lửng lơ, thong thả đã. Vì đấy là con bài nằm chờ, để đưa ra cuối cùng gỡ thế bí, chứ bây giờ thì chưa nên. Nếu lập ra một nước khác đối chọi với triều đình Huế thì triều đình nhà Thanh bên Trung Quốc sẽ có cớ đem quân sang cứu nhà Nguyễn. Và nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật cũng lăm le nhảy vào đất này. Rối ren về ngoại giao cũng khó khăn như về quân sự vậy. Cho nên chúng ta phải thận trọng. Cùng lắm ta mới phải đưa cây bài ấy ra. Bởi vậy, tôi đã nói rõ với ông Kê phải kín đáo giữ gìn và kiềm chế cái anh chàng con cháu họ Lê ấy lại. Và nhân đây cũng xin nhờ đức cha nếu gặp cũng khuyên giữ anh ta, chớ để anh ta bồng bột lộ liễu quá sẽ có hại cho công việc chung và thiệt thòi cho chính bản thân anh ta. Thưa đức cha nghĩ có phải không?

Cố Phước đáp thong thả như vừa nghĩ, vừa nói:

- Vâng, đằng nào có lợi chung cả thì phải theo chứ. Kể cũng hơi tiêng tiếc, bao nhiêu công phu mới ra được một người và mới tạo ra được cái thế có lợi như thế, mà không được đem ra dùng, thì cũng uổng phí quá.

- Thưa đức cha không phí đâu ạ! Tên Ri-vi-e cười cười ranh mãnh trông sang Kê-la-đích nói tiếp:

- Vẫn có lợi chứ, ông Lãnh sự nhỉ. Tôi được đem quân ra đàng hoàng như thế này chính là đã nhờ được đức cha và ông Lãnh sự đã tạo cho cái thế vững vàng từ trước. Mà việc nuôi giữ anh chàng họ Lê đã góp vào đấy ít nhiều. Sau này hắn cũng còn vẫn có lợi chứ. Nếu hắn không giúp ta về mặt chính trị, thì hắn giúp ta về mặt văn hóa, kinh tế, tôn giáo và hơn nữa là về mặt trị an đất này, nhất là hắn lại giỏi các tiếng nói Tây phương, khéo nuôi giữ thì rất có lợi cho ta về sau đấy.

Cuộc bàn tính đến đây coi như là kết thúc. Ri-vi-e vui vẻ xoa tay nói với cố Phước:

- Thưa đức cha, hôm nay may mắn được hầu tiếp đức cha, xin trình người rõ mọi tình tiết để chúng ta cùng hành động thống nhất, làm lợi cho nước Đại Phú chúng ta. Những điều này tôi đã bàn kỹ với ông Kê-la-đích cả. Xin trình thêm để người rõ rằng: Tôi ra đây kể đến hôm nay vừa đúng 15 ngày. Một nửa tháng trôi qua vẫn có lợi cho ta từng bước. Mấy lần tôi đi qua thành phố, thấy nhân dân im lặng như đợi chờ một cuộc xung đột. Họ chờ, nhưng họ không thể chủ động, vì quan dân họ không thống nhất như ta, nên họ đã bị động lại càng sẽ bị động hơn, nếu khi xảy ra đánh nhau.

Rồi hắn đứng lên trước, mời hai người:

- Nào thưa đức cha, thưa ông Lãnh sự, trước khi vào dự bữa tiệc thân mật của ông Kê là chủ nhân khu này đãi chúng ta, tôi xin mời ra ngoài này hóng cái mát mùa xuân khí hậu như ở Pa-ri và nhìn con sông Hồng nước đỏ phù sa mà ngẫm nghĩ đến cách chinh phục con sông ấy, làm lợi cho cái Hà Nội này mà là làm lợi cho đất nước Đại Phú chúng ta...

Hắn vịn tay vào cố Phước vừa dìu đi vừa nói:

- Thưa đức cha, chúng ta luôn luôn ở thế chủ động tấn công, nên tôi dám cam đoan với đức cha rằng chúng ta sẽ làm chủ tất cả Bắc kỳ này, và tôi sẽ do con đường Bắc kỳ này mà vào viện Hàn lâm, đức cha sẽ do dịp này mà làm sáng danh Chúa và ban phúc lành cho vạn vạn con chiên đang ngưỡng vọng đức cha...

Hắn cười trông sang Kê-la-đích nói lấy lòng:

- Còn ông Lãnh sự thì trở thành một nhà ngoại giao lỗi lạc...

Kê-la-đích đã đi ra đến vườn hoa đứng lại nói:

- Nhà ngoại giao lỗi lạc là vì nhờ có vũ lực đi trước.

Cố Phước vội chữa cho vui:

- Phải có đủ cả văn võ toàn tài thì mới làm nên sự nghiệp lớn chứ. Chúng ta là người phương xa đến đem đạo Chúa cứu vớt sinh linh, đem văn minh khai hóa xứ này thì phải vừa có ân, có uy, dân ở đây họ mới phục. Cho nên tôi thấy cái bức hoành của người Tàu tặng ông Lãnh sự treo ở nhà khách kia, vẻn vẹn có bốn chữ mà ý nghĩa rất hay. Đó là lấy ở câu nói của ông Khổng Tử: “Hữu bằng tự viễn phương lai bất diệt lạc hồ” là “có bạn từ phương xa đến chẳng cũng vui ư” thì bốn chữ “Từ phương xa đến” kia chính là ngụ ý coi chúng ta là bạn đấy. Là bạn thì phải có sức mạnh mới bênh vực che chở được người ta chứ...

Ri-vi-e vui sướng nói tiếp theo:

- Vâng! Bẩm đức cha dạy đúng quá. Muốn gì thì gì cũng phải có tài khôn ngoan và sức mạnh mới có thể chinh phục được người khác...

Ba người đi dạo chơi vườn hoa, vòng quanh cả khu trường Tây, rồi trở về phòng ăn của Lãnh sự cùng ăn tiệc với đông đủ các quan cao cấp trong tòa Lãnh sự và trong quân đội. Tiệc tan Hăng-ri Ri-vi-e tiễn chân cố Phước trở về Nhà chung và từ biệt Kê-la-đích, rồi quay vào phòng làm việc riêng. Hắn mở cửa sổ ra sông cho gió lọt vào, hắn ngồi vào viết, hai tay xoa râu má ra chiều suy nghĩ. Tự tin ở kế sách của mình, lại thấy đã được những người lão luyện am hiểu địa phương đồng ý hắn lấy giấy bút ra viết bức thư gửi về Pa-ri báo cáo lên Bộ trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa Giô-rê-ghi-bê-ry. Hắn viết nắn nót mấy dòng mào đầu thủ tục:

“Hà Nội ngày 17 tháng 4 năm 1882.

Kính gửi Tướng Giô-rê-ghi-bê-ry

Bộ trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa ở Pa-ri”.

Rồi hắn cóc nhảy bỏ mấy dòng, viết liến thoắng ghi nhanh mấy ý chính thành những câu:

“... Tuy tôi đồng ý rằng cần phải chiếm cứ đồng bằng Bắc kỳ bằng cách từ từ có tính toán, tôi vẫn xem là rất nguy hại, nếu để thành Hà Nội ở trong tay người An Nam vì nó là một uy thế tinh thần và một lực lượng vật chất mà một ngày kia sẽ phải tính đến. Nếu ta lấy thành thì không cần phải giữ, không cần phải ở trong đó. Cứ cách phòng thủ mà ở ngoài khu nhượng địa của ta, dựa vào mé sông và giao thông dễ dãi, thì vẫn là hơn ở trong cái bộ máy cồng kềnh và bất tiện này (1.200 mét mỗi bề). Chỉ cần làm cho thành trở thành vô dụng, bằng cách phá cửa, phá các đại bác, vứt đại bác xuống hồ và phá hai ba chỗ trong vách thành... chiếm giữ thành này rồi, chúng ta sẽ thống trị cả tỉnh về mặt quân sự. Rồi chúng ta sẽ chiếm những cứ điểm Sơn Tây, Nam Định, Bắc Ninh, chúng ta sẽ dễ dàng chiếm cả một vùng lớn dọc theo sông Hồng. Lợi thì to, mà không tổn công gì mấy...”

Ghi lấy điểm chính như trên, đọc lại một lượt, chấm câu cho rõ ràng hơn, hắn lấy một tờ giấy khác, viết lại chép sang thành một thư chính thức gửi trình lên ngài Bộ trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa.

° ° °

Hăng-ri Ri-vi-e đã thực hiện dần từng bước đúng những dự định của hắn. Từ hôm ra tới ngoài này tức là ngày 3 tháng 4 cho đến hôm nay, 24 tháng 4, vừa đúng 20 ngày, hắn đã đòi các quan lại triều đình nhượng bộ từng việc không hề có ghi trong điều ước. Và giờ đây, hắn biết rằng đòi quá mức nữa không khi nào họ có thể chấp nhận, hắn bèn đi đến quyết định cuối cùng như đã báo cáo về Bộ Hải quân, tức là phải đánh chiếm thành Hà Nội. Đêm hôm đấy hắn gọi thông ngôn Phong vào dịch bức tối hậu thư hắn đã viết xong ra chữ nôm để sáng mai gửi kèm với bản chính vào cho Tổng đốc Hoàng Diệu bắt nộp thành cho hắn. Khác với mọi lần trước, lần này hắn cười bảo thông Phong:

- Anh không cần phải giữ giọng khiêm tốn hòa nhã nữa. Anh cứ viết bằng những lời lẽ quyết liệt hơn tiếng nói của tôi để ông ấy không thể nào chịu nhân nhượng được nữa, để có cớ mà đánh thành, đã đến lúc ta cần phải chiếm lấy rồi.

Thông Phong vâng lời dịch tóm tắt mấy ý chính trong tờ thư ra như sau:

“... Thiếu tá Hải quân nước Đại Phú Lãng Sa hạ lệnh cho Tổng đốc tỉnh Hà Nội Hoàng Diệu tuân:

Bản chức đòi ông phải giao thành theo những điều kiện nói ngay đây: Ngay ngày hôm nay, sau khi tiếp được thư này, thì ông phải ra lệnh cho quân đội của ông ra khỏi thành sau khi đã hạ hết khí giới và mở cửa thành. Để cho bản chức tin rằng ông thi hành những điều trên thì ông phải tự nộp mình, cả các ông Tuần phủ, quan Bố, quan Án, Đề đốc, Chánh lãnh binh và Phó lãnh binh phải đến nộp mình ở dinh bản chức đúng 8 giờ sáng.

Nếu đúng 8 giờ sáng, ông không thân hành đến Lãnh sự quán, nơi bản chức đóng với tất cả những viên quan kể trên cho bản chức biết rằng ông đã tuân theo những điều kiện của bản chức, thì quân đội Phú sẽ lập tức tấn công thành”.

Mờ sáng ngày hôm sau, tức là 5 giờ sáng ngày 25 tháng 4 năm 1882, đúng vào quãng ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, bức tối hậu thư ấy được chuyển vào cho Tổng đốc Hoàng Diệu. Nhận được thư quan Tổng đốc ủy Án sát Tôn Thất Bá đem thư ra ngoài thành thương lượng hoãn kỳ hạn trả lời một ngày. Tôn Thất Bá được dòng dây từ trên tường cao tụt xuống ra khỏi thành, cho người đem thư cho Ri-vi-e, rồi bỏ trốn vào làng Mọc. Lấy làm đắc chí, chưa đến 8 giờ Ri-vi-e đã hạ lệnh xuất quân bao vây ở phía cửa Bắc và cửa Đông, ba chiến hạm cũng tiến lên bỏ neo gần phía cửa Bắc. Tám giờ đúng, các đại bác địch nhả đạn bắn vãi vào thành, hướng tấn công chính là cửa Bắc và các ụ súng, pháo đài phía tây và tây bắc, còn ở cửa Đông, toán quân ở Đồn Thủy tiến lên chỉ là phô trương thanh thế để làm lạc hướng và chia lực lượng quân ta ở trong thành. Trong này quân ta bắn trả lại dữ dội. Nhân dân các phố đông tự thiêu hủy các phố nhà lá nhà gỗ bên thành làm thành một bức tường lửa ngăn cản địch tiến và buộc địch mấy lần phải rời ổ đại bác. Nhưng lửa cháy không lâu. Đến 10 giờ rưỡi tường lửa hạ xuống, quân Tây băng qua chiến hào đầy nước và bùn. Tổng đốc Hoàng Diệu cùng với Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng chia đường đốc thúc quân lính chiến đấu. Một phát đại bác bắn vào trúng kho thuốc súng, nổ cháy rực trời làm rối loạn hàng ngũ quân lính. Quân Pháp bắc 40 chiếc thang trèo lên tường thành vào được bên trong, nhưng ở phía cửa Bắc có nhiều tường đất ngăn trở, địch phải dùng nhiều thuốc súng mới phá vỡ được mở đường tiến quân. Thành bị hãm lúc 11 giờ, Tổng đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tử ở vườn Vũ Miếu, Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng bị bắt khi đang chạy đi tìm quan Tổng đốc. Các quan khác chạy trốn cả, quân lính rút hết ra khỏi thành, quân Pháp còn nhặt được 40 người chết và 20 người bị thương.

Được tin đã chiếm hoàn toàn được thành, Ri-vi-e đang ở dưới tàu chiến, vội lên bộ, vào thành đi thẳng vào hành cung nghe các toán quân về báo cáo tình hình chiến sự. Khi nghe nói Tổng đốc Hoàng Diệu đã tự tử hắn không tin, hỏi:

- Các anh đã tận mắt trông thấy chưa?

- Dạ, thưa ngài Thiếu tá, chưa ạ, cũng chỉ nghe nói trong đám loạn quân.

- Thế thì chưa tin được, Ri-vi-e nói, có thể là ông ấy rút hết quân ra ngoài để bao vây ta vào trong rồi cùng các lực lượng nhân dân ngoài đánh vào. Vậy phải chú ý chia cắt quân đề phòng canh giữ các ngả ngay. Và giữ chặt ông Tuần phủ để làm con tin.

Sau khi nghe thuật rõ số khí giới thu được, số thóc gạo trong kho còn nguyên và số tiền mặt như đồng bạc con cò và quan tiền kẽm còn ăm ắp, Ri-vi-e tươi cười nói với Lãnh sự Kê-la-đích lúc ấy mới được mời vào xem.

- Nếu ông Tổng đốc rút lui, mà bỏ lại làm quà cho chúng ta nhiều thế này thì thật chưa phải là con người cầm quân. Có lẽ ông ấy chết thật rồi chăng? Hay là ông ấy dùng mẹo gì đánh lừa ta?

Kê-la-đích nói:

- Nếu ta là kẻ bị động từ xa mới đến thì mới sợ mắc mẹo, còn đây chúng ta là kẻ chủ động tình thế cơ mà. Tôi cứ xin cho ngài Thiếu tá một đêm tốt lành ngủ ở nơi chiến thắng. Mọi việc ngày mai đâu sẽ vào đấy, ta tìm quan Án sát về là xong.

- Vâng, việc đó xin nhờ ông Lãnh sự, Ri-vi-e vừa nói vừa cười. Nhưng mà ông ạ, con nhà tướng cẩn thận vẫn hơn, tối nay tôi cũng xin theo ông về Đồn Thủy cho yên chí đợi đến ngày mai.

Hắn liền đứng lên cùng với Kê-la-đích đi quan sát trong thành, xem xét những nơi công sự chủ yếu. Hắn ra lệnh đặt quân canh giữ từng chỗ cần thiết, rồi giao quyền chỉ huy trong thành cho quan ba Vi-dê, hắn cùng với Lãnh sự trở về khu nhượng địa Đồn Thủy...

Sáng hôm sau, theo thường lệ, hắn dậy sớm và cho mời Kê-la-đích sang cùng ăn điểm tâm và bàn cách đối phó với tình hình mới. Hắn vui mừng nói với Kê-la-đích:

- Thế là một đêm đã đi qua yên ổn... rất có lợi cho ta! Nếu như ông Tổng đốc biết cầm cự đánh nhau với ta đến ngày hôm nay thì rồi các toán quân của dân, của văn thân, của hào lý sẽ tới tấp kéo đến đây tăng viện, sẽ làm cho ta khó khăn rất nhiều...

Hắn quay sang phòng bên gọi thông Phong và hỏi:

- Anh đã tìm được quan Án chưa?

- Dạ đã biết được chỗ ông ấy trốn, thông Phong đáp, cho người đi tìm rồi, thì có lẽ sáng hôm nay họ mới về được. Hắn ngập ngừng nói tiếp: Dạ thưa ngài Thiếu tá, ngài rõ cho: đương là thời chiến sự thế này, sáng nay họ về được đến đây cũng là chóng đấy ạ!

Ri-vi-e cười vui vẻ đáp:

- Xin lỗi, vì một đêm yên ổn quá nên tôi cứ tưởng là đã lâu rồi. Nhưng anh phải cố tìm quan Án ngay tức khắc, càng sớm càng tốt...

Bỗng ở ngoài tiến vào một sỹ quan trẻ đứng nghiêm giơ tay lên trán chào, và báo cáo:

- Thưa ngài Thiếu tá, dân sự kéo vào thành đông lắm xin mai táng ông Tổng đốc, xin ngài cho lệnh đối phó.

Ri-vi-e đứng phắt dậy tiến lại gần tên sỹ quan vui sướng nói:

- Ông Tổng đốc chết thật rồi à? Tốt lắm! Rất có lợi cho ta. Anh đi ngay bảo hễ không có khí giới thì cứ cho họ vào, quân ta phải theo dõi mọi hành động của họ. Khi họ khâm liệm và đưa linh cữu ông Tổng đốc ra, quân lính ta phải đứng nghiêm chào tiễn biệt. Và nếu đám ma có vẻ linh đình, cần thiết ra, ta có thể cử một đoàn đi đưa đám. Làm thế chỉ có lợi cho ta thôi. Anh đi ngay.

Tên sỹ quan đi rồi. Ri-vi-e quay vào ngồi xuống ghế, nói với Kê-la-đích:

- Ông Tổng đốc là người bình tĩnh và kiên quyết, nay ông chết là lợi cho ta lắm. Lòng can đảm và ảnh hưởng của ông, nếu ông sống, chắc hẳn là gây nhiều rắc rối cho ta, nhất là nếu ông liên kết với Hoàng Tá Viêm ở Sơn Tây. Ông chết sẽ có tác dụng giúp ta thắng thêm nữa. Nhưng không phải vì thế mà ta phải giữ nghi lễ với ông. Ta để cho họ làm lễ mai táng, và quân đội ta bồng súng đứng chào là cốt để họ hướng cả về đám tang được đưa đón công khai long trọng ấy mà hết tức ta, không để ý gì đến ta. Và bây giờ thì chúng ta ăn điểm tâm đi rồi vào thành, ông Lãnh sự ạ. Ta sẽ mời cả đức giám mục bên Nhà chung vào cùng bàn.

Hai người cũng đứng dậy đi sang buồng ăn. Kê-la-đích vui vẻ khoe:

- Hôm nay đặc biệt có món chiến lợi phẩm, món chim sâm cầm Hồ Tây nổi tiếng mà ngày trước người ta đem tiến vua. Bây giờ đang mùa chim, các quan bắt dân biếu tích sẵn ở trong nhà. Quân ta lấy được, tôi đem mấy con về quay lên để ngài dùng thử mà xem, ngon và giòn lắm.

- Hay lắm! Ri-vi-e nói, của ngon thế mà họ cũng phải bỏ. Nghĩ mà xem, giá ta đánh sớm hơn nữa cũng vẫn cứ thắng dễ dàng. Họ chuẩn bị đề phòng thế nào mà với số quân đông gấp mười của ta, khí giới lương thực đầy đủ như thế, thành lũy kiên cố như thế, mà chỉ trong nửa buổi đã tan rã, mà phải bỏ lại tất cả mọi thứ thiết dụng. Hóa ra họ chuẩn bị chờ đợi triều đình ký hòa ước nhượng bộ. Họ không nhất trí...

- Vì thế ta mới có được ông Án sát, Kê-la-đích nói, ngài Thiếu tá định giao hẳn thành cho ông ấy chứ.

- Phải nhìn vào công việc, ông Lãnh sự ạ, chính nhờ có ông giao thiệp tốt với các quan tỉnh, nên nhiệm vụ của tôi ra đây đã thực hiện được dễ dàng. Chính vì họ không nhất trí nên ta mới mua chuộc được ông Án sát, nhưng cũng chỉ là vì không nhất trí mà ông ta nghiêng về ta thôi, chứ cũng chưa làm được việc gì thực sự vì ta. Cho nên tôi nghĩ hãy tạm giao cho ông ta để bắt ông ta ép ông Tuần phủ cùng làm việc, giữ yên ổn vùng này, đợi triều đình đối xử ra sao đã, và ông ta xử sự thế nào đã, rồi mới quyết định được.

Hai người cùng ngồi vào bàn ăn, vừa ăn vừa nói chuyện, cùng thưởng thức món chim sâm cầm quay, ra vẻ tương đắc hợp ý nhau lắm.

Khi hai người vào đến thành, thi hài của quan Tổng đốc đã được đưa ra nhà học chính đường rồi, dân chúng đi đưa đám đã kéo về cả đấy. Bên ngoài cửa Nam vắng vẻ chỉ còn mấy chú lính Tây đứng canh ngoài và một số đứng lố nhố ở trên chòi cổng. Án sát Tôn Thất Bá cũng vừa đến nơi, cùng đi với thông ngôn Lộc từ cửa Nam vào, được đưa thẳng ngay vào hành cung. Ri-vi-e, Kê-la-đích và thông ngôn Phong đã đợi sẵn ở đấy.

Ri-vi-e niềm nở hỏi đùa ngay trước:

- Quan Án ngài đi nhởn chơi ở đâu, hôm qua ngủ có yên giấc không?

Thấy có vẻ hơi sỗ và thông ngôn chưa dịch hết câu, hắn nói tiếp luôn:

- Chúng tôi mời quan lớn về giao trả lại thành. Quan lớn là người hiểu biết, không cố chấp, quan lớn thử xét mà xem, với vũ khí và lòng dũng cảm của quân lính của chúng tôi như thế, chúng tôi có cần gì cái thành này. Chúng tôi cần buôn bán tự do và đuổi bọn Cờ đen để buôn bán dễ dàng và dân gian sống yên ổn. Chỉ vì quan Tổng đốc không hiểu, lại tỏ ý chống lại chúng tôi, cho nên vạn bất đắc dĩ đã xảy ra cơ sự này. Bây giờ thì sự đã rồi, đấy quan lớn xem, chúng tôi vẫn thành kính tưởng niệm đến linh hồn quan cố Tổng đốc và tiễn đưa di hài ngài một cách trọng thể...

Án sát Bá vội tỏ lời cảm phục:

- Vâng tôi biết, xin cảm tạ...

- ... Chúng tôi xin để tang lễ quan cố Tổng đốc được tiến hành tự do theo tục lệ An Nam. Và giờ đây chúng tôi giao thành cho quan lớn, với điều kiện là quan lớn giữ được yên ổn cả thành phố và trong tỉnh này. Trong khi đợi được đúng như thế, chúng tôi còn tạm phải đóng lại ở trong thành, quan lớn chỉ được để quân lính dưới quyền mình là 200 người với vũ khí thường thôi. Quan lớn đồng ý chứ?

- Vâng tôi xin nhận.

- Quan lớn giữ được yên ổn và cắt bổ các quan thuộc hạ đâu ra đấy, số tiền thu ở kho chúng tôi sẽ trả quan lớn.

Kê-la-đích nói xen vào:

- Việc trước tiên là quan lớn cố kéo được quan Tuần phủ cùng làm.

Ri-vi-e cười lớn nói:

- Quan Tuần phủ giận chúng tôi, chúng tôi đưa cơm nước đến ngài đều từ chối không ăn, ngài định theo quan cố Tổng đốc xuống suối vàng. Nhưng quan Án ạ, tôi nghĩ quan lớn khôn khéo có thể mời ngài hồi tỉnh lại được vì tôi nghĩ nếu thực bụng chết thì đã chết rồi, như quan cố Tổng đốc ấy, việc gì phải nhịn đói cho khổ cái thân nhỉ quan lớn nhỉ?

Kê-la-đích và hai người thông ngôn cùng cười theo, làm cho Tôn Thất Bá cũng cười. Cuộc hội kiến trở nên vui vẻ thân mật. Tôn Thất Bá nhận mọi điều kiện và được đưa ngay đến dinh Tuần phủ gặp Hoàng Hữu Xứng. Ông này vốn ốm từ trước, sau khi thành bị hãm đã nhịn đói không chịu ăn uống gì cả, bệnh đã trở thành nguy kịch. Thấy Bá đến ông mắng chửi thậm tệ và đuổi đi. Nhưng Bá khóc lóc lạy van mãi và kể lể cái thế của bọn Phú đang cần giao thành trả lại, nếu mình không đứng ra nhận thì tội sẽ lại nặng hơn, chi bằng cứ nhận để đợi quan triều đình ra thương thuyết. Hữu Xứng nghe bùi tai mới gượng dậy ăn chén cháo rồi bàn với Bá cứ tạm quyền nhận thành, cho nên chuyện với người Phú, một mặt tư cho các tỉnh bên biết, nếu trong lúc hoãn binh có thể thừa cơ đem quân về đánh bật được bọn cướp nước đi thì cứ đánh, đồng thời, cùng dâng sớ chung về triều xin chịu tội. Bá đều nhất nhất nghe theo, rồi cùng bàn đến việc chọn người làm Tri huyện Thọ Xương cai quản 36 phố phường. Hai người đồng ý nhau cử Đào Trọng Kỳ làm Tri huyện Thọ Xương kiêm chức Bang biện tỉnh vụ và Bá hộ Kim làm Trợ biện huyện vụ chuyên việc tuần phòng trong phố phường. Vì họ cho rằng cả hai đều là những người có chức tước đã cai quản hạt này và nhất là có cửa hiệu đã giao thiệp với Tây. Như thế là Tây ta đều biết mặt, biết tiếng, rất dễ làm việc. Tôn Thất Bá liền viết công văn đề bạt hai người, cho lính đem ngay đến tận nhà bắt hai người tiếp nhận và giục vào dinh cung chức.

Tên lính chạy giấy đến nhà Bá hộ Kim gặp giữa lúc hai người vừa đi dự đám rước linh cữu quan Tổng đốc sang học chính đường. Bá Kim đang bô bô vui vẻ đùa Đào Trọng Kỳ:

- Không ngờ quan phủ Đào lại là người đứng đầu đi đón thi hài quan Tổng đốc trong thành giặc.

Đào Trọng Kỳ cũng nói:

- Chuyện số cả. Thì bác cũng thế chứ sao.

- Tôi là dân sở tại đằng nào mà chả phải đi. Vả lại tôi còn có cái nghĩa được quan Tổng đốc ngài liệt tên là hào trưởng đi cử hợp dân đinh.

- Ấy thế mà nỡ để cụ lớn ngài chết theo thành, chẳng hề đoái hoài gì đến. Cho nên ông cử Kim Cổ ông ấy mới chửi xỏ cho. Bức trướng to tướng treo trước quan tài đập vào mắt mọi người đấy bác không để ý à?

Rồi lão lấy giọng bình luôn bài trướng.

Người đều như tiên sinh

Hà thành đâu nỗi thế!

Vì đều khác tiên sinh

Hà thành đành thế nhỉ?

Bá Kim nói át đi:

- Thôi đừng đọc nữa cụ ơi! Ông ấy nói cạnh các cụ lớn Tuần, Án, Đề, Lãnh, bỏ chạy đi cả một bầy để mặc Hoàng tướng công một mình thế cô đấy chứ. Còn nếu ám chỉ đến hạng người như tôi, thì chưa đến lượt tôi đâu, ngay ông Cử cũng thế thôi, ông cũng chửa làm được gì chỉ mới có ông Cử Đồng ở Bích Câu đem được một ít quân mới đi đến Quảng Văn đình thì thành đã hãm, lại phải trở về. Giá mà cầm cự được đến hôm nay thì chả gì, tôi cũng mộ được dăm chục, một trăm người vào tăng viện chứ...

- Thôi tôi lậy ông cả nón.

Đào Trọng Kỳ đang chực nói huênh hoang nữa, thấy người lính sai vào liền im bặt. Tên lính vội nói:

- Bẩm hai quan lớn đang bàn tán đến lễ mai táng cụ lớn Tổng đốc.

- Không dám. Dạ! Không ạ. Đào Trọng Kỳ nói chữa.

Tên lính lễ phép thưa:

- Dạ bẩm hai quan lớn. Rồi cũng đến hai tay quan lớn. Bẩm tiểu tốt con đem công văn của tỉnh đến hầu các quan lớn ạ.

Phủ Kỳ và Bá Kim vội đứng lên ngay ngắn, ngoảnh mặt về hướng tây chắp tay đỡ lấy tờ công văn. Người lính đứng tránh sang một bên vái hai vái rồi nói:

- Xin mời hai quan lớn vào dinh ngay, quan lớn cầm công văn này đi qua lối cửa Đông, là Tây nó để cho đi. May quá gặp cả hai quan lớn ở đây, thế là xong phận sự, con xin phép quan lớn con về ạ.

Hắn chào rồi đi ra. Bá Kim xem xong công văn nói:

- Thế là tôi bác tự dưng đều được khai phục và thăng chức cả, cùng một ngày, “cựu lâu kết ngãi” có khác.

Đào Trọng Kỳ đọc kỹ công văn ra vẻ hớn hở hỏi:

- Thôi đừng đùa nữa. Bác đi chứ? Nhờ số cả đấy.

Bá Kim nói thủng thẳng:

- Thì nói đứng đắn vậy. Bác đi thì đi. Tôi chưa đi. Tôi không nhận.

- Sao? Bác nghĩ sao, bác lại không đi? Có lúc như thế này, người ta cần mình mình mới gỡ được tiếng cách bãi chứ. Bình thường thì đâu đến lần.

- Đành rằng thế. Nhưng tôi cho còn cách hơn nhận quyền rơm vạ đá lúc này!

Đào Trọng Kỳ suy nghĩ một lát rồi hỏi đột ngột:

- À phải rồi, hay là bác đợi Lê Duy Bá? Đúng rồi, hôm nọ lão ta chả đã chính thức thân đến hỏi xin cô Xuyến. Phải rồi! Thảo nào! Tôi quên.

- Bậy nào! Bá Kim nói gắt, không phải như thế. Cái Xuyến nó cứng đầu cứng cổ, nó không lấy tôi cũng không thể nào ép được. Đấy là chuyện khác. Đằng này là việc của tôi. Tôi theo vương đạo, tôi không theo bá đạo. Tôn Thất Bá hay Lê Duy Bá đều là bá đạo cả.

- Thế ai là vương đạo? Tây à?

Bá Kim cười đáp:

- Lại bậy nào! Vương đạo đây là nhà vua, là triều đình. Tây nó đánh được thành mà nó không lấy ngay lại giao trả ông Bá là có ý đợi triều đình ra thương thuyết với nó, nó được lợi mà mất ít công. Đấy rồi bác xem, các ông quan triều ra, các ông nắm được Tây rồi, các ông ấy mới ra oai. Vạ gì mình lại ghé đầu chịu báng... Dạo lão Ngạc Nhê trước cũng vậy đấy.

Đào Trọng Kỳ gật đầu có vẻ đồng ý rồi hỏi:

- Ừ cũng phải. Thế thì cứ im đi thôi nhỉ. Chẳng cần vào nữa. Họ làm đếch được gì mình lúc này.

- Ấy bác là quan to, bác cũng nên giữ cho đủ lễ phép một chút. Bá Kim bàn, bác cứ vào nói thẳng là “chúng tôi là người có tội, mọi người đều biết, lại có hiệu buôn bán với người Phú, ra làm việc lúc này, dân sẽ không tin”. Rồi bác biết ai bác cử người ấy cho qua chuyện.

Đào Trọng Kỳ cho là phải, y theo kế ấy vào triều với Tôn Thất Bá và tiện đà câu chuyện, tiến cử luôn quan phủ Hoài mới được quen biết tháng trước. Không còn biết chọn ai hơn, Tôn Thất Bá đành phải nghe theo, viết công văn bổ ngay Giáo thụ Hoàng Văn Khải làm quyền Tri huyện Thọ Xương. Vì Bá cũng đã biết Khải từ trong kinh khi anh này vào ở với bố là Tú tài Hoàng Văn Chính làm Hành tẩu 1 ở bộ Hộ, đồng liêu cùng bộ với Bá. Và khi Khải ra làm Giáo thụ ngoài này, Bá cũng đã gặp lại mấy lần, hắn đã biết rõ lai lịch và nghe thêm nhiều lời bàn tán về viên quan thuộc hạ ấy. Hoàng Văn Khải quê ở Đồng Thái huyện La Sơn tỉnh Hà Tĩnh, học hay chữ đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn năm Tự Đức 21 (1869) mới 19 tuổi.

Nhưng vì còn ít tuổi không được ra làm quan, lại là con nhà quan nhỏ lép vế ở làng, Khải lấy làm ấm ức muốn tìm cách nhoai lên không được, hắn sinh ra chơi bời cờ bạc; đã có lần bị bắt giam vì tội đánh bạc. Đã túng quẫn lại càng túng quẫn thêm. Mãi đến năm 28 tuổi, vì có bố về hưu, hắn mới được vượt lệ bổ chức Hàn lâm điển bạ, làm việc ở viện Hàn lâm. Ít lâu sau bố chết, phải về chịu tang, nhà túng, lại thêm vợ chết Khải phẫn uất đã viết một đôi câu đối giãi bày tâm sự:

Gia biến bất thăng ngôn, nhi phụ một nhi thê vong, lão mẫu lục tuần phương ngọa bệnh.

Khổ tình nan tận thuật, kỳ trưởng si, kỳ thứ ấu, hài nhi tư tuế vị năng hành 2 .

Khải lại đi đánh bạc cầu may, lại bị bắt quả tang được quan Án ăn lễ rồi thương tình tha cho. Và xong tang bố, Khải được bổ ra làm Giáo thụ phủ Hoài Đức, giữ chức cho đến nay mới được hơn một năm. Khải đương phân vân nghĩ lúc hoạn lạc như thế này, thành mất, các quan tỉnh bỏ chạy, dân gian ai còn thiết học nữa, có lẽ lại đến phải khăn gói về quê đợi thời, chịu cảnh túng đói, thì được giấy của Tôn Thất Bá gọi ra làm Tri huyện Thọ Xương, hắn vui vẻ đi ngay. Hắn nghĩ Tôn Thất Bá là người hoàng phái đã đứng ra gọi mình là có thể ra được, tội đã có người chịu; mà ra ngồi huyện Thọ Xương tất phải giao thiệp với Tây thì cách xử sự đối đãi của Tây mình đã biết sơ sơ qua và có thể dựa thêm vào Phủ Kỳ và thông Lộc là hai người bạn vừa được quen biết. Khải liền vào gặp Tôn Thất Bá, đến chào Hoàng Hữu Xứng, rồi tự đổi tên là Hoàng Cao Khải để chính thức đi nhận chức. Đến huyện xem xét qua loa công việc kiểm số nhân viên lính tráng rồi hắn ra ngay hiệu Lạc Phố chào Đào Trọng Kỳ, và lấy danh nghĩa là Tri huyện sở tại, vào thẳng trường Tây gặp thông Lộc nhờ dẫn vào chào Kê-la-đích và các quan trong Lãnh sự quán... Hắn không quên nhắc lại cuộc gặp gỡ thân ái tháng trước. Xong hắn ra về rẽ vào chơi thăm Bá hộ Kim. Công việc của hắn chỉ mới quanh quẩn có thế, còn rồi sau chưa biết ra thế nào, vì phố phường còn vắng vẻ, dân phố chạy loạn cả, mà mọi việc tuần phòng canh giữ vẫn còn do bọn lính Tây đảm nhiệm. Hắn đang băn khoăn nghĩ ngợi xem có thể thi thố quyền hành bắt đầu bằng việc gì thì đùng một cái có tin đoàn khâm sai trong triều đi tàu Tây đã ra tới nơi, hắn được gọi ra đón ở tận Đồn Thủy, trong khu nhượng địa. Đoàn khâm sai gồm bốn người: quan Chánh khâm sai đại thần Trần Đình Túc, quan Phó khâm sai Nguyễn Hữu Độ, quan Tiến sỹ song nguyên, Biện lý bộ công Hoàng Hữu Thường, quan Hoàng giáp Vũ Nhự. Hoàng Cao Khải mặc áo thụng lam đứng sau hai quan tỉnh chắp tay vái chào các quan mà trong bụng mừng thầm tự nghĩ:

- Thế này thì hòa hảo đến nơi rồi, vận ta phát rồi, quan Khâm sai Trần Nguyên là Tổng đốc Hà Ninh hơn bảy năm liền quen thân với ông Kê-la-đích, quan Phó khâm sai đã giao thiệp với Tây ở Hải Dương, quan Hoàng giáp là người sở tại... Thế tất dàn hòa được với Tây. Còn quan Biện lý, người Hương Thủy, Thừa Thiên, lại là bạn với ta. Bọn Tây lại ra đón long trọng thế kia cả ông Kê-la-đích và ông quan năm nữa kìa!

Nhìn theo đoàn võng điều có rèm chân chỉ hạt bột với đòn sơn son thiếp vàng do những người phu áo nâu nẹp đỏ nón dấu chóp đồng khiêng trên vai, kèm bên tua rua những lọng xanh che mát, đi giữa hai hàng lính vác gươm thẳng tắp, với cờ biển khâm sai lọng vàng che đi trước, nhìn cái đoàn võng lọng ấy nghiêm trang oai vệ, tiền hô hậu ủng đưa các quan vào thành, Hoàng Cao Khải đi theo về đến cửa trường thi để rẽ về huyện Thọ, tự nhiên nảy ra ý nghĩ thích thú là sự hoà hảo hợp tác với người Phú sẽ đem lại cảnh thanh bình trang trọng như thế kia và sẽ có lợi cho dân cho nước và nhất là cho bản thân hắn. Hắn cười quay sang bảo anh Đề lại của huyện đang đứng bên đường rẽ đốc bọn lính cơ dẹp đường:

- Đời phải như thế mới được. Nếu làm trái là hỏng bét cả nhỉ thầy Đề nhỉ?

Anh Đề lại không hiểu gì cũng vội đáp:

- Dạ vâng ạ!

Ý nghĩ phải hợp tác với Tây nẩy nở từ đấy, cho nên hắn dốc lòng mong cho việc thương thuyết chóng thành. Và ngày hôm sau hắn được gọi vào dinh Tổng đốc. Nguyễn Hữu Độ trực tiếp gặp hắn và hỏi rõ dân tình ở băm sáu phố phường và cách đối xử của người Phú ở đây trước và nay thế nào. Hắn nói tốt cho Tây và bộc lộ rõ thiện cảm của mình đối với Tây và trình bày rõ lý do nước ta nên hợp tác với Tây. Hữu Độ gật gù khen phải, bởi vì lão cũng có ý nghĩ như thế từ khi lão được giao thiệp với người Phú và nhất là từ khi lão thấy triều đình bác bỏ những ý kiến “nuôi trong dấy ngoài” của lão. Lão là người trong gia miếu huyện Tống Sơn tỉnh Thanh Hóa là nơi quý hương của triều đình. Lão đỗ Cử nhân làm Giáo thụ Kinh Môn, Hải Dương rồi Tri huyện Nghiêu Phong, Quảng Yên. Về ở đây đi lại chơi thân với các cố đạo Y Pha Nho, theo giao du với ngoại quốc, nên lão được cử về làm ở nha Thương chính ở Hải Dương giao thiệp buôn bán với người Phú, rồi thăng Bố chánh sứ tỉnh Hải Dương. Mấy năm gần đây lại được cử làm Tuần phủ Sơn Tây kiêm Tỉnh biên Phó sứ. (Hoàng Tá Viêm là Thống đốc tỉnh biên, Chánh sứ kiêm Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên). Khi Ri-vi-e đem quân ra Bắc, Lãnh sự Lê-na ở Huế đã báo với tòa Thương bạc, yêu cầu cử một vị quan am hiểu ra điều đình. Vị này chưa ra đến nơi, thì Ri-vi-e đánh lấy thành Hà Nội. Lê-na lại bảo triều đình nên cử một vị Khâm sai toàn quyền ra điều đình nhận lại thành. Do đó, có đoàn khâm sai kia, Trần Đình Túc già nua tuổi tác, mọi quyền hành ở cả Nguyễn Hữu Độ. Sẵn có ý nhượng bộ người Phú, lão đồng ý ngay với Cao Khải và cấp bằng bổ hắn thực thụ Tri huyện Thọ Xương, Cao Khải lại đề cử luôn Đào Trọng Kỳ và nói:

- Quan lớn muốn làm được việc ở đây, nên dùng anh này, anh ta có sở giao dịch với Tây đã lâu, chơi thân với Lãnh sự Kê-la-đích. Dùng được anh ta thì Tây càng tin ta. Nhưng dùng anh ta cũng không dễ đâu. Quan án Tôn Thất Bá mời ra mà anh ta từ chối đấy. Bây giờ muốn anh ta tin thì cụ lớn nên gọi anh ta đến, khai phục chức Tri phủ cũ, rồi giao cho một chức gì to hơn, anh ta sẽ vui lòng ngay mà gia công góp sức vào công việc điều đình.

Hữu Độ gật đầu khen phải và làm theo ngay. Cố nhiên Đào Trọng Kỳ nhận và tiến cử cả Bá hộ Kim làm Thương biện huyện vụ. Thế là Cao Khải nhờ có Nguyễn Hữu Độ mà có thêm vây cánh. Tiếp sau đó, một việc quan trọng nữa đến làm tăng thanh thế cho hắn. Vua Tự Đức ban tờ dụ xuống khen: “Hoàng Diệu hết lòng trung chết giữ tiết hơn vượt hẳn bọn tầm thường. Trẫm rất thương tiếc. Sai tỉnh thần Hà Nội lo liệu đưa thi hài về nguyên quán, sai tỉnh thần Quảng Nam đến lập một đàn tế ở mộ, gọi là chút ít an ủi hồn trung, cấp cho một nghìn quan tiền để nuôi mẹ già và chi phí việc tang”. Nguyễn Hữu Độ muốn nhân việc này để gây lại uy tín cho các quan tỉnh và gây thêm tiếng tăm cho mình nên đã xin với bọn Tây cho cử hành đám tang rất trọng thể. Do đó di hài quan cố Tổng đốc đã được quan Đốc học, ông cử Kim Cổ và nhân dân Hà Nội để một ngày ở học chính đường rồi đem tạm quàn ở một cái gò gần đấy, nay được làm ma lại một cách linh đình. Một đàn tế được thiết lập ở trước mả quàn, bên ngoài treo đôi câu đối viếng của quan Khâm sai Trần Đình Túc, Hữu Độ thân ra đứng chủ cuộc tế, rồi quan tài được khai quật lên bọc vải đỏ ở ngoài và đưa xuống thuyền mành để về Quảng Nam. Đám ma được công khai cử hành do các quan tỉnh vâng mệnh triều đình đứng ra chủ trì tiễn đưa linh hài bậc trung nghĩa về nguyên quán, cho nên tất cả các quan lại các nơi đều có đối trướng và lễ vật về phúng viếng, từ quan Kinh lược sứ Nguyễn Chính, quan Kinh lược phó sứ Bùi Di, các quan Tổng đốc các tỉnh, các quan Bố, Án, Phủ, Huyện cho đến cử tri thân hào... Hoàng Cao Khải là Tri huyện sở tại đã cùng với Bá hộ Kim phải thu xếp sắp đặt đám tang sao cho đúng nghi lễ, hắn lại còn phải xem xét thứ tự những bức trướng, đối đặt trước sau theo phẩm tước ghi trong lạc khoản. Đám tang thật cảm động và vô cùng long trọng, có cả câu đối của các bang Khách trú và vòng hoa của Lãnh sự quán Phú Lãng Sa. Đám tang đi từ đàn tế xuống bến đò Trường Tín rất tề chỉnh và nghiêm trang, cảm động. Nhân dân đứng chật hai bên đường vĩnh biệt hương hồn vị chủ tỉnh đã chết trung vì nước. Trong khi đi tiễn đến bến đò trở về thấy nhiều người bàn tán về nhiều câu đối viếng, kẻ khen, người chê ồn cả đường phố, cậu ấm Ba Tự Tháp vẫn là người hăng hái nhất. Thấy không yên tâm về những văn chương chữ nghĩa của những người đã theo giặc cũng góp lời tán tụng, cậu bực tức đến bên ông cử Kim Cổ vừa chỉ các câu ấy vừa nói:

- Đấy, tôn huynh xem, thế còn ra thể thống gì nữa cá mè một lứa cả à?

Ông Cử ôn tồn nói:

- Thôi cũng được. Càng thêm tôn uy linh của Hoàng tướng công.

- Nhưng hôm nọ chúng ta còn lấy đám ma mà chửi rủa bọn úy tử tham sinh 3 − cậu ấm vẫn có vẻ tức nói – hôm nay bọn chúng đã hòa cả một nhịp vào đây mà khóc dài khóc ngắn. Thế chúng cũng như ta, hòa cả làng à?

- Thôi sự thể nó đã như vậy, ông Cử vẫn ôn tồn nói, hòa cũng được, để cho người ta ăn năn hối lỗi với chứ. Dĩ hòa vi quý.

- Cũng phải làm cho rõ trắng đen một phen chứ, cậu ấm nói, không thì tức lắm. Mà cứ thế thì để rồi người ta dương dương tự đắc đi hàng giặc à?

Các quan Khâm sai đã ra hội thương để nhận thành. Ri-vi-e ngoài mặt nói trả thành, nhưng vẫn không giao, bao nhiêu ụ súng lũy phòng đều bị phá hủy cả, quân Tây vẫn đóng ở hành cung. Trần Đình Túc, Nguyễn Hữu Độ vẫn chỉ được giữ 200 quân bảo vệ không được mang súng bắn nhanh như Ri-vi-e đã quy định. Dân tình lại nao nao, thì lại có một tin nữa đến làm trấn tĩnh lòng người trong một lúc. Bọn Khâm sai Trần Đình Túc đi thương thuyết không có kết quả đều phải giáng chức, nhưng vẫn được giữ lại làm việc. Và nhà vua hạ lệnh bắt trói giải các quan tỉnh Hà Nội cũ về kinh chuộc tội, lời dụ được niêm yết cho mọi người biết: “Lúc Hà thành hữu sự Hoàng Diệu thề chỉ cố giữ, có chết không khai, một bầy tôi ở cùng thành nên đua sức liều chết mới nên cái nghĩa tri thân. Thế mà tận trung tử tiết duy một mình Hoàng Diệu, lũ Lê Văn Trinh đều là quan lớn một tỉnh tham sống sợ chết, bỏ thành chạy trốn, Phan Văn Tuyển lại trốn trước tiên lên mãi Sơn Tây thật nhút nhát vô tài quá đáng. Hoàng Hữu Xứng tuy không ra khỏi thành, nhưng không biết cùng thành còn mất. Tôn Thất Bá ra ngoài thành thương thuyết, lại cùng họ kính nhường khéo thoát. Bọn đại thần ngoài biên cương, lúc lâm nạn lẽ nào lại như thế. Lập tức thi hành cách chức, trói giải về kinh xét rõ, để nêu tỏ pháp luật. Còn Phòng thành, Quản cơ, Suất đội, Tri phủ, Tri huyện, Thông phán, Kinh lịch, đều nhất luật giao cho Đốc phủ thần mới xét rõ tâu lên”. Thế là Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Đề đốc, Chánh lãnh binh và hai Phó lãnh binh cũ đều cùng một ngày bị bắt giam để trói gông giải vào kinh. Án sát Tôn Thất Bá vội đến nhờ thông Phong nói với Ri-vi-e xin hộ, tên này từ chối, nói ngay với thông Phong:

- Nó có tội với triều đình nó, mình can thiệp vào thế nào được, nó không phải là một gã được việc để chỉ thêm vướng, người ta tỉa đi như thế là may cho mình. Còn mấy cái tin bí mật cung cấp cho ta, thì tiền bạc lễ vật thù phụng nó cũng quá thừa rồi.

Tôn Thất Bá đành cũng phải chịu trói cùng với các ông quan kia, bị giải từ trong thành qua các phố để đưa xuống thuyền trước mặt mọi người qua đường. Nhân dân đứng xem đông hai bên đường, ai nấy đều lấy làm hả dạ.

Sau mấy hôm, lại có chỉ dụ của nhà vua đưa ra truy tặng viên Suất đội Đỗ Đăng Lâm chức Phó quản cơ và cho con, em hay cháu một người được hưởng làm Chánh cửu phẩm, Bá hộ. Nguyên viên Suất đội này tục gọi ông Cai Trí được quan tỉnh phái ra giữ huyện Thọ Xương, khi quân Pháp đánh thành, có một cánh quân đến đánh lấy huyện Thọ, quan huyện và nha lại chạy trốn cả. Riêng ông Cai đánh nhau với địch đến phút cuối cùng rồi bị hy sinh. Nhân dân phố huyện và phường Kim Cổ đã khâm liệm và mai táng ông cùng ngày với đám ma quan Tổng đốc Hoàng Diệu. Nay lại được chỉ dụ và sắc của vua ban ra, nhân dân lại nô nức muốn làm một đám ma to lại một lần nữa để kích thích lòng người, khêu gợi niềm trung nghĩa giết giặc không sờn. Ông cử Kim Cổ cho mời cậu ấm Ba Tự Tháp đến bàn chuyện, ông Cử nói:

- Đây lại là một dịp ta chửi vào bọn bán nước theo giặc đây, cho cậu bõ tức. Nhưng ở ngay cửa huyện này ta cũng nên nói với ông huyện mới một tiếng. Lão này ranh mãnh sắc sảo lắm, khi ở giáo chức có vẻ khác mà từ lúc là một ông quan đã lại có vẻ khác. Cậu đi vào nói với lão nhé.

Cậu ấm Ba nói ngay:

- Mất gì lời nói, vâng để đệ xin đi.

Cậu ấm Ba về nhà ăn mặc khăn áo chỉnh tề đi vào huyện. Hoàng Cao Khải kéo ghế mời ngồi tiếp rất niềm nở. Cậu ấm nói rõ ý định của dân phố muốn nhân dịp nhà vua truy tặng này, tế ông cai một tuần rượu, xin lập đàn ở ngay ngõ huyện. Cao Khải nghĩ đã có lệnh nhà vua truy tặng thì không có lý do gì mà cấm đoán, và cấm cũng không thể được, chi bằng dựa ngay vào dịp này để lấy lòng dân làm tăng thêm uy thế cho mình, hắn bèn vui vẻ đồng tình và hứa sẽ góp công, góp của vào đàn tế truy tặng ấy. Thế là một đàn tế được lập ngay ở cổng huyện, phía trong đàn là một cái miếu con dựng tạm lợp gianh, thắp hương nghi ngút. Thân hào trong huyện đều đến dự lễ. Câu đối và trướng viếng căng chung quanh kín cả đàn, nói lên mọi ý nghĩa thán phục người trung nghĩa và nguyền rủa, sỉ vả những kẻ đầu hàng theo giặc. Trước cửa miếu ở hai bên bàn thờ treo một đôi câu đối vải trắng dài viết chữ lớn: “Nước nhà lắm việc bọn quan lớn vô mưu, buồn trông non nước hoa tươi, ngứa mắt đàn di khua gót sắt – Sự thể đến đâu lòng trinh trung mới hiện, ai hay võ biền chức nhỏ, liều mình một thác với thành trơ”. Và trong khi tế, cậu ấm Ba Tự Tháp được cử vào đọc văn tế, sau khi đọc những đoạn viết theo nghi lễ thường lệ, đến lòng văn tế, cậu cất cao giọng ngâm nga than vãn đọc lời tế:

Đất nước chông gai, cuộc đời sóng gió

Mồng tám giờ Thìn tháng ba năm Ngọ,

Gớm mặt quân thù, là phường giặc lõ.

Những người dự tế lắng nghe đều lấy làm thích thú lời văn đã nói thay được ý nghĩ của mình, căm thù bọn giặc Tây cướp nước và ghét bọn theo giặc hại dân. Và vì thế những trướng đối và bài văn tế được truyền tụng ra xa mãi, mọi người đều ghi nhớ.

Nhưng trong khi dân chúng mải hào hứng với những cuộc lễ xem ra có vẻ táo bạo bất chấp mọi tai vạ ấy, thì cuộc thương thuyết không đi đến kết quả gì, triều đình bãi bỏ chức Khâm sai, trả Trần Đình Túc về làm Tổng đốc Hà Ninh, Nguyễn Hữu Độ làm Tuần phủ Hà Nội, Hoàng Hữu Thường làm Bố chánh và cử thêm Đào Trọng Kỳ làm Án sát. Các quan tỉnh cùng ở lẫn với Pháp ở trong thành làm việc cai trị dân vừa theo chỉ dụ của nhà vua, vừa theo ý muốn của tên Thiếu tá Ri-vi-e. Rồi đến tháng chín, Trần Đình Túc già nua tuổi tác được Tự Đức cho về trí sỹ, cho Nguyễn Hữu Độ làm Hộ đốc Hà Ninh, cử Thương biện Vũ Nhự làm Tuần phủ Hà Nội, thăng Hoàng Cao Khải làm Bang biện tỉnh vụ kiêm lĩnh huyện Thọ Xương. Từ đấy Cao Khải tuy là quan nhỏ nhưng đã nắm được thực quyền trong thành phố và dần dần làm ra toàn tỉnh, được Nguyễn Hữu Độ rất tín dùng. Quyền hành trong tỉnh ở cả trong tay hai người. Cao Khải liền bàn với Hữu Độ:

- Thưa cụ lớn, lòng người đã đỡ nao nao, ta sẽ lựa chiều mà trấn tĩnh dần. Muốn trấn tĩnh được thì phải có thực quyền. Mà có thực quyền lúc này phi được người Phú tin thì không thể có được. Triều đình còn không trái được họ nữa là ta ở một tỉnh luôn luôn phải động chạm đến họ. Cho nên muốn được họ chuyên tin ở ta, ta không nên để có thêm một kẻ nào khác có thể làm chỗ cho họ dựa được. Ở đây bọn quan Án Đào và Bá Kim quen Tây thì đã về với ta rồi, nhưng còn một người gọi là ông Giáo sư Lê ấy, con xem chừng có ý khác, con nghe hình như ông ấy là con cháu nhà Lê.

Hữu Độ gật đầu khen:

- Phải, tôi có biết. Tên hắn là Lê, được cánh đạo giúp đỡ nuôi nấng.

- Bẩm vâng, Cao Khải tiếp, cái nguy là có bọn đạo che chở đấy. Hắn còn có bà cô họ đứng thắp đèn nhang thờ vua Lê ở miếu Hội Đồng. Người Phú cũng rất kính trọng bà này, cấm quân lính không được bén mảng đến miếu. Vì thế nên xin cụ lớn cần nghĩ cách nào trừ tên ấy đi.

- Tôi đã nghĩ, nhưng cũng khó, vì nó ở ngay trong trường Tây với ông Kê-la-đích.

- Bẩm cụ lớn, hắn chơi thân với thông Lộc, mà thông Lộc lại thân với quan Án Đào, cụ lớn cứ bàn mưu với quan Án xem.

- Được, tôi sẽ bàn với ông Án, nhưng về phần thầy, thầy cũng phải cố hết sức dò la mọi hành động của hắn. Và bây giờ thầy đi mời quan Án sang đây cho tôi.

- Bẩm vâng, con xin tuân.

Cao Khải lạy chào Hữu Độ rồi đi ra rẽ sang dinh Án sát tìm Đào Trọng Kỳ và nói rõ ngay ý Nguyễn Hữu Độ tìm vào hỏi về Giáo sư Lê. Kỳ vội vàng đi vào Đốc bộđường. Hữu Độ đang đợi sẵn ở đấy liền nói ngay với Kỳ ý nghĩ của mình về Lê Duy Bá. Kỳ nghe xong đáp ngay:

- Bẩm vâng, bẩm cụ lớn nghĩ chí lý ạ, người Phú vẫn có ý nuôi Giáo sư Lê để nằm chờ đấy ạ. Họ cũng đã in cả hịch đem phân phát các nơi. Họ có ý nếu thương thuyết không xong, họ sẽ lập lại nhà Lê.

Hữu Độ đang tựa lưng trên ghế, ngồi phắt ngay lại, hăng hái nói:

- Ấy đấy, vì thế ta phải nghĩ cách trừ nó đi để khỏi lo về sau. Nên tôi phải bàn với quan lớn. Quan lớn ở đây lâu, quan lớn lại quen biết hắn, nên vì việc lớn nước nhà mà nghĩ xem có cách gì trừ hắn đi mà không động chạm gì đến Tây đến đạo.

Đào Trọng Kỳ ngồi thừ ra suy nghĩ rồi nói thong thả:

- Bẩm cụ lớn kể thì cũng khéo đấy ạ, chết cái hắn lại được người Phú che chở... à hay là ta nhờ Bá Kim dùng mỹ nhân kế, hắn đang nhờ người đến hỏi con gái út ông Bá.

- Cũng được, Hữu Độ cũng nói một cách thong thả. Nhưng việc phải kín, chỉ nên ta biết với nhau thôi. Nhờ đến người ngoài, lại có đàn bà con gái, nó lộ ra lại thêm rắc rối. Thấy nói quan lớn quen thông Lộc, quan lớn thử nghĩ xem có thể mưu với thầy thông được chăng? Đây là một công lớn đối với triều đình, quan lớn không nên để cho người khác hưởng mất.

Đào Trọng Kỳ tự nghĩ: “Đây là Hoàng Cao Khải mách đây, mình không làm thì họ không tin nữa, đường công danh sẽ vấp, mà làm thì khó khăn, nếu không thành thì lại hóa ra phụ Lê Duy Bá. Nhưng thôi cũng đành cứ thử xem”. Rồi lão lên tiếng đáp:

- Bẩm cụ lớn, vâng, để tôi thử dò la xem. Việc quan trọng xin cụ lớn rộng phép thư thư cho ít lâu để xét cho chắc.

Hữu Độ cười rồi mách nước:

- Cũng được. Nhưng không nên để chậm quá, lông cánh nó mọc vững, càng thêm khó ra. Quan lớn nên nghĩ cách tiến hành ngay càng sớm càng tốt. Quan lớn quen với thông Lộc, mà nay thông Lộc hiện lép vế với thông Phong, quyền và lợi đều về thông Phong cả. Quan lớn nên gợi chỗ cách biệt ấy và vạch cho thông Lộc con đường làm lợi cho ta. Khi anh ta nghe ra thì quan lớn nói ngay đến việc này. Tiền nong và danh vọng, cần gì tôi sẽ cho đủ cả.

Đào Trọng Kỳ vui mừng nói:

- Cụ lớn thật là cao kiến. Cụ lớn đã bày mưu cho như thế, tôi xin cố gắng làm theo cho được việc để khỏi phụ lòng cụ lớn tin cậy.

Hữu Độ vui vẻ dặn thêm:

- Quan lớn cứ quyết tâm làm thì thế nào việc cũng xong, vì quan lớn quen thông Lộc, dễ nói hơn tôi. Nhưng là việc kín, quan lớn có cần ai giúp đỡ thì chỉ cần bàn với thầy huyện Thọ.

Đào Trọng Kỳ lĩnh ý trở về dinh, ngồi suy nghĩ về cách tiến hành công việc. Lão viết thư mời thông Lộc đến dự bữa cơm chiều, trong thư nói rõ là nhờ thông Lộc đến trước là mừng cho lão, sau là bảo cho lão biết cách thức bày tiệc mời các quan Tây nhân dịp lão ăn mừng được thực thụ Án sát sứ tỉnh Hà Nội. Đúng hẹn thông Lộc đến, vào trong phòng khách thấy có mỗi một mình, liền hỏi ngay:

- Có mình tôi thôi à? Quan bác?

Đào Trọng Kỳ vui vẻ mời khách ngồi và nói:

- Vâng ạ, quý vật đãi quý nhân 4 hôm nay có thịt dê lễ tam sinh ở Võ miếu, người ta biếu, nên mời riêng quan bác đến mừng cho tôi, và sau nữa còn nhờ quan bác chỉ giáo cho nghi thức bữa tiệc mời người Phú nay mai...

Thông Lộc cười đáp:

- Gớm có thế thôi mà quan lớn cũng phải bày vẽ ra, quan lớn gọi hỏi lúc nào chả được.

- Ấy chết, đâu có dám thế ạ! Trước kia còn buôn bán xô bồ thì thế nào cũng được. Nhưng may nhờ vua nhờ thánh, được làm quan Án sát một tỉnh, cũng phải cư xử theo nghi lễ chứ, không có quan bên ấy lại trách.

Bữa cơm thân mật bắt đầu bằng những câu chuyện xã giao, chuyển sang cách ăn ở của nước ta và của các nước phương Tây. Đào Trọng Kỳ hỏi về cách thức của người chủ bày tiệc và của những người dự tiệc. Cuối cùng, cơm nước xong Đào Trọng Kỳ mời thông Lộc vào phòng riêng ngả lưng nghỉ ngơi cùng nói chuyện rồi gợi đến tình hình thời thế trước mặt, nhân đấy nhắc đến vẻ hách dịch thắng thế của thông Phong. Rượu đã ngà say, lại bị gãi đúng chỗ ngứa, thông Lộc thở dài nói:

- Cũng là vận số cả. May hơn khôn là thế đấy...

Đào Trọng Kỳ thủng thẳng nói:

- Công là công của quan lớn cả. Quan lớn ở đây đã lâu, quan và dân ở đây quen hơi biết tiếng cả. Ấy thế mà ngài thông Phong theo quan Thiếu tá ra đây vớ được quan Án Bá cũ mà thành ra phỗng tay trên mất mọi công lao. Sao quan lớn lại điềm nhiên để người ta tranh mất công lao như vậy. Ý hẳn quan lớn muốn vô vi như tử.

Thông Lộc nói thong thả uể oải:

- Kể cũng tức đấy. Nhưng cái thế không sao được, chưa thể tranh được. Đến ông Kê cũng tức nhưng chức còn kém ông Năm, vả lại họ đang thắng.

- Đành rằng thế. Án Kỳ hỏi. Nhưng sao quan lớn không tìm cách khác. Cũng còn khối việc giúp cho chúng tôi. Chỉ sợ quan lớn chê không làm.

- Tôi cũng đã nghĩ đến. Thông Lộc nói. Nhưng chả có cách nào. Còn những vụ tẹp nhẹp, thông ngôn dăm ba câu, xin xỏ cái này cái nọ, thì tính tôi khái, có chết đói thì thôi, chứ tôi không thèm làm, quan lớn đã rõ.

- Vâng, tôi vốn biết tính quan lớn cao kỳ, biết trọng nghĩa lớn, coi thường lợi nhỏ, nên mới mạnh dạn ngỏ ý nhờ ngài giúp cho một việc lớn hệ trọng, nhưng chỉ sợ nói ra không biết quan lớn có tin bụng cho không?

- Dạ! Quan lớn dạy quá thế chứ đệ đâu dám.

Đào Trọng Kỳ ngồi sát gần lại, cúi xuống ghé gần tai khách nói thì thầm trình bày rõ tình thế của quan tỉnh lúc này và ý định trừ khử Lê Duy Bá đi để hai bên ta và Tây đều theo về một chiều khỏi sinh lôi thôi rắc rối. Nghe đến Lê Duy Bá, thông Lộc ngồi phắt dậy tỉnh táo, có vẻ ngạc nhiên. Đào Trọng Kỳ cũng ngồi ngay ngắn lại nói rõ:

- Tôi biết quan lớn có vẻ thân với Giáo sư Lê, nhưng ngài ạ, ở đời chẳng qua chỉ cần giàu và sang, mà ngài thân với ông Lê chắc cũng không ngoài mục đích ấy. Vả cũng là do ông Kê mà ngài quen ông ta và cũng may có chút lợi như ông Kê hứa hẹn. Thì nay quan Thượng chúng tôi cũng xin sẵn sàng cung đốn mọi thứ ngài muốn. Chỉ xin ngài vì nhân dân trăm họ nước Nam ta mà giúp cách trừ khử ông ấy đi cho. Giết một người cứu muôn người. Ngài cũng là Nam quốc Nam nhân như chúng tôi cả, nỡ nào để có thể xảy ra cảnh nồi da nấu thịt.

Thấy thông Lộc ngồi im không tỏ vẻ gì cả, Án Kỳ ngừng lại hỏi đột ngột:

- Hay là quan lớn cho là tôi nói quá lời phạm đến tình riêng của ngài thế thì...

Thông Lộc cười lớn, tươi tỉnh nói át đi:

- Không, quan lớn ạ, tôi mải suy nghĩ. Thì ra quan lớn dạy khôn cho tôi, làm lợi cho nhiều người có giá trị hơn làm lợi cho một người. Vả bất cứ ở cảnh ngộ nào, nếu mình biết cách làm lợi là làm được cả. Còn tôi với Lê Duy Bá cũng chỉ mới quen do ông Kê thôi. Mà mưu ông Kê cũng thâm thật. Ông ấy muốn cho dân Nam mình chết để ông ấy lợi. Nhưng bây giờ thì ông Ri-vi-e đương thắng thế, ông Kê phải ngồi im. Tôi thành ra lép vế. Nên quan lớn nói tôi đã nghe ra...

Án Kỳ mừng quá nói ngay:

- Vâng quan lớn đã nghĩ thế xin ngài vui lòng giúp cho. Thông Lộc vui vẻ nói ngay:

- Tất nhiên rồi. Nhưng quan lớn ạ, tôi theo Tây học muốn cái gì nói ngay, không đắn đo úp mở, tôi muốn tính toán với nhau sòng phẳng trước, quan lớn định trả công tôi bao nhiêu?

- Dạ, cái đó tùy ý quan lớn. Án Kỳ thân mật vồn vã nói. Việc hệ trọng xin quan lớn cứ nói, tôi sẽ xin trình lên quan Thượng.

Thông Lộc ngồi gật gù một lúc rồi mới nói:

- Thôi thế này nhé, nếu được ta làm ngay quan lớn ạ, làm sớm xuất kỳ bất ý khỏi lộ. Cứ cho tôi một trăm hốt bạc và một kim bài hạng nhất làm kỷ niệm, chứ quan tước thì tôi cũng chả cần.

Án Kỳ mừng cuống quýt đáp luôn:

- Vâng, vâng, tôi xin trình lên quan Thượng tôi, rồi xin thưa lại với ngài sau. Giờ xin ngài cho biết qua ý định hành sự thế nào để tôi nói cho cụ lớn tôi mừng.

Thông Lộc cười ha hả, nói lớn:

- Quan Thượng mà bằng lòng thì ta làm ngay tối mai.

Rồi hắn ghé tai Án Kỳ nói nhỏ. Ông Án dỏng tai lắng nghe, mắt sáng lên, rồi cười đáp lắp bắp:

- Vâng, vâng, vâng. Sáng mai tôi xin đến hầu thưa lại rõ với quan lớn.

- Để tôi đến đây thì hơn. Nó khỏi lộ.

Thông Lộc nói dõng dạc, chắc nịch, rồi lại ngả lưng xuống sập nằm nghỉ.

Tối hôm sau. Một buổi tối mùa xuân đầu tháng hai. Trời quang đãng mát mẻ, nửa vành trăng khuyết không đủ chiếu sáng xuống không gian, mặt đất chỉ sáng lờ mờ. Sao dày chi chít như hạt vừng trên mặt bánh đa. Phố xá nằm im lặng, vắng vẻ, các nhà đã đóng cửa cả. Thỉnh thoảng mới có nhà còn mở hé cửa. Ánh sáng ngọn đèn thầu dầu trên đĩa đèn treo ở giữa nhà hắt ánh sáng leo lắt rung rinh ra ngoài đường. Ở những phố đông đúc nhất cũng đã ít người qua lại. Lúc ấy, từ khu trường Tây có hai bóng người lờ mờ đi lên phía cửa ô Hàng Cau. Tuy lệnh đi đêm phải mang đèn đuốc đã bãi bỏ từ mấy tháng rồi, một người vẫn xách một cái đèn lồng bằng vải xanh đỏ màu sặc sỡ, trong thắp ngọn nến cháy bập bồng. Hai người vừa đi vừa nói chuyện rì rầm, cái đèn lồng cứ lắc lư trong tay người kia làm cho ánh sáng chập chờn. Khi tới gần, người ta nhìn rõ qua ánh sáng đèn hai người đều đội mũ Tây vành rộng và đều đi giầy Tây gót cao nện kêu cồm cộp, nhưng quần áo thì khác. Một người mặc bộ quần áo Tây màu xám, bên hông đeo kè kè một khẩu súng sáu, còn người kia cầm đèm mặc quần áo nam, quần lụa trắng, áo nhiễu tím dài đến dưới đầu gối. Hai người cứ nhẩn nha đi, đường đê vắng vẻ, không gặp một người nào. Qua cửa đền ông Chẩu (tức đền Đức Thánh Quan) ở lối rẽ vào phố Hàng Tre, dưới rặng cây cổ thụ rậm rạp, người kia giơ đèn lên khua đi khua lại soi đường. Thình lình ở trong đền xô ra hai tên lạ mặt cao lớn lực lưỡng bôi đen mặt đẩy bật người cầm đèn ra và chịt ngay lấy người mặc đồ Tây mỗi tên đâm mạnh một mũi dao, người kia chỉ ú ớ mấy tiếng sặc lên chết ngay. Thấy kẻ bị đâm đã chết rồi, một tên còn đâm một nhát dao vào ngực, rồi cả hai bỏ chạy quặt vào phố Hàng Tre biến mất, người cầm đèn lúc ấy mới hoàn hồn đứng lên kêu gào cầu cứu. Từ hàng phố và những làng xóm gần đấy, những đèn đuốc đổ ra vây chung quanh soi tỏ những người bị nạn: Thì ra đấy là Lê Duy Bá và người còn sống sót là thông ngôn Lộc, người mà cả vùng quanh đây ai cũng biết mặt biết tên. Người ta cho đây là một vụ cướp đường, người ta vội khiêng tử thi vào trong đền và cho người đi phủ trình quan huyện sở tại. Đợi cho người ta khiêng tử thi đặt ngay ngắn vào sân đình rồi và giao cho tuần phu sở tại canh giữ, thông Lộc nhờ người soi đuốc đưa về đến trường Tây. Hắn vào báo cáo với Kê-la-đích việc bị cướp đường hành hung và Lê Duy Bá bị nạn. Kê-la-đích nghe xong điềm nhiên nói:

- Anh bình yên vô sự là tốt rồi! Còn ông Lê chẳng may như thế... cũng để đợi các quan An Nam xét xử thế nào! Anh đã cho trình họ chưa?

- Đã ạ. Dân sở tại họ đi trình ông huyện rồi.

- Tốt. Vậy anh đi ra ngay gặp họ, nói với họ rằng chúng ta ở trong Lãnh sự quán hoàn toàn tin theo sự tra xét của họ.

Thông Lộc mừng quá vội cùng với hai tên lính tập đi ra, trở lại ngay đền ông Châu. Ở đây Bá hộ Kim, Hoàng Cao Khải và Án sát Đào Trọng Kỳ, tất cả những người có phận sự tra xét đều có mặt. Thông Lộc chào mọi người rồi lách đám đông vào trước mặt các quan để cung khai mọi tình tiết lúc bị hành hung. Anh ta khai thêm với ông Án:

- Cũng là cái số ông ấy không may, ông ta nằn nì rủ tôi lên hát ở phố Đồng Xuân, rồi trở về vào chơi nhà cụ Bá Kim để sáng mai có thể trông thấy mặt con gái cụ Bá. Tội nghiệp cho ông ấy say mê cô ấy quá.

--------------------------------

1

Chức quan nhỏ không có chuyên nhiệm, làm việc ở các bộ viện, như chức tạm phái.

2

Cảnh nhà gặp tai họa không nói hết lời được, nào cha mất, nào vợ chết, nào mẹ già 60 đang ốm nặng – Cái tình cảnh khổ sở này không kể hết được, đứa con lớn thì còn dại đứa thứ hai thì còn bé nhỏ, còn đứa bốn tuổi lại chưa biết đi.

3

Tham sống sợ chết.

4

Của quý để đãi người quý.

Chương III

- Năm mới, xin kính chúc tôn huynh mạnh khỏe sống lâu, lão đương ích tráng 1 và môn sinh tiến phát đăng khoa võng lọng đến bái môn như mắc cửi.

Ông cử Kim Cổ đang ngồi xếp bằng, thủ hai tay trong áo kép rung đùi, uống nước trà nghe tiếng, vội đứng dậy bước ra cửa chào khách:

- Úi chà! May quá! Chào cậu Ba, năm mới cũng xin chúc mừng cậu... tiểu đăng khoa rồi sẽ đại đăng khoa 2 .

Và không để cho khách kịp nói, ông vừa dẫn khách vào vừa nói trước:

- Năm mới, tôi chưa sang lễ từ đường thầy mà cậu đã sang chơi tôi thế này, thật là thất lễ quá, xin rước cậu ngồi chơi...

Ông khách vừa vào vội nói:

- Xin phép tôn huynh, rồi ngồi xuống sập và nói:

- Dạ, tôn huynh dạy quá ạ, đệ không dám, và cứ hiện tình này thì thưa tôn huynh, khéo mà vẫn không cả đại lẫn tiểu đấy ạ.

Bà Cử bưng hộp giầu ở trong buồng ra, chào khách, đặt cơi giầu xuống sập mời khách, cũng nói xen vào:

- Năm mới em cũng xin chúc cậu ấm cho vợ chồng em uống rượu, và cho vui cửa vui nhà. Có cậu ấm khó tính, chứ cậu hỏi đâu mà chả được... Con giai gần ba chục tuổi đầu rồi đấy cậu ạ.

Ông Cử cũng vui vẻ nói:

- Năm mới, vợ chồng tôi xin mừng thật đấy ạ, việc thi cử còn nhờ ở phúc phận, học tài thi phận, tôi không dám nói, còn việc vợ con là tự mình, thầy cô quá cố đi rồi, các anh các chị cũng chấp kỳ đại cương 3 thôi, tự mình phải quyết lấy. Lúc này lại càng cần có vợ như đũa có đôi ấy, cậu ạ. À này xem chừng con Xuyến nó vẫn có ý đợi đấy, hay là...

Cậu ấm cũng cười đáp:

- Nhưng thưa hai bác, lúc người ta thất thế bị cách, không hỏi, đến nay, người ta được khai phục lại được cử làm Thương biện, mà đến hỏi thì còn mặt mũi nào, nó làm sao ấy...

Bà Cử nói:

- Yêu nhau chín bỏ làm mười, ai người ta để ý chi đến chuyện ấy. Có cậu khó tính thì có... Con gái lớn, người ta đang muốn gả chồng. Cao không tới mà thấp không thông... Đấy cậu cứ nghĩ mà xem.

Cậu ấm phải nói chữa theo:

- Vâng thưa bác, để em nghĩ xem.

Rồi cậu quay sang nói với ông Cử:

- Đệ sang mừng tuổi tôn huynh sớm thế này cũng là một việc phá cách. Đệ về quê Phủ Bình lễ nhà thờ tổ, chiều hôm qua mới ra, không kịp sang hầu tôn huynh, nên hôm nay sang sớm để bàn với tôn huynh một việc: ở quê và các nơi, người ta xôn xao rục rịch đánh Tây ghê lắm. Thế mà ở đây ta cứ rời rạc như không! Tết đã không vui, mà người nào cũng chỉ biết lo riêng người ấy thôi. Đệ sợ rằng những việc đệ bàn với tôn huynh hồi tiễn tống cố Tổng đốc Hoàng tướng công nay đã thành sự thật rồi đấy. Giá mà ta cứ lập Nghĩa hội ngay từ dạo ấy, để cùng với các nơi cùng nổi lên đánh...

Ông Cử thong thả ngắt:

- Tết năm nay kể cũng kém vui thật, nhưng nói ra thì việc đã rồi, chả nhẽ làng mình có người làm quan ở đấy bảo mình mà mình không nghe à? Thôi năm mới, mời cậu uống rượu ăn bánh lấy may đã, rồi ta sang chơi quan Tuần một thể, mừng tuổi và hỏi xem binh tình ra sao? Tôi định sang rủ quan lớn cùng sang lễ bên từ đường thầy...

- Vâng, năm mới, tôn huynh cho uống nước thôi, còn rượu bánh để dành đến khi khác. Ta đi ngay đi, ngộ bận việc quan Tuần không ở nhà được hết ngày hôm nay, lại phải vào thành.

Ông Cử đành phải chiều ông bạn trẻ, con thầy học. Uống nước, ăn giầu xong, hai người cùng đi sang nhà Vũ Nhự ở cùng phường. Vũ Nhự đã đỗ Tiến sỹ, lại đỗ Hoàng giáp khoa, uyên bác, nổi tiếng hay chữ, vốn được bà con hàng phố trọng vọng. Từ khi được cử ra làm Thương biện rồi thăng Tuần phủ, ông tự nhận là người sở tại khuyên bà con nên tin theo các quan, chớ nên ngang ngạnh mà gây thêm khó khăn. Ông Cử là bạn đồng hương và đồng môn, nên cũng dễ nghe theo. Nhưng gần một năm rồi, mà thành vẫn không giao trả, quân Tây không rút đi một mống, lại có phần tăng lên, dân hàng phố kêu ca, ông Cử cũng đâm ra ngán nỗi sự hòa hảo mà các quan hứa hẹn. Ông cũng thích đi với cậu ấm để hỏi thêm cho ra lẽ. Hai người đến nơi giữa lúc ông Tuần vừa lễ từ đường xong sắp sửa trở vào dinh. Hai người chào chúc tết, quan Tuần vui vẻ chúc lại. Ông Cử đáp lễ rồi lựa lời hỏi đến thời thế. Vũ Nhự cười đọc ngay mấy câu thơ:

Thương thuyết không thành luống hổ ngươi,

Ruộng vườn tính chuyện trở về thôi

Quê ta khốn nỗi không vườn ruộng,

Hàng phố bon chen đã chật người.

Rồi ông đưa tờ giấy hoa tiên đỏ viết đặc tám câu thơ cho hai người xem và nói tiếp:

- Còn đây thơ khai bút, cảm tác Đêm trừ tịch 4 năm Ngọ và đón năm Mùi đây.

Cậu ấm đỡ lấy tờ giấy nhìn qua bài thơ, đọc câu đầu: “Tuất trừ biên hoạn thượng nan trừ” (Năm trừ hết, mối lo ngoài biên còn khó trừ) và đọc luôn hai câu cuối:

Vãng hĩ kim niên đa thiểu sự.

Minh niên lai sự cánh hà như.

(Qua rồi cái năm nay nhiều việc ấy, sang năm những việc sẽ tới còn như thế nào nữa). Cậu chuyển tờ giấy cho ông Cử và hỏi:

- Bẩm cụ lớn, cứ như câu cuối thì việc năm nay việc sẽ tới chưa biết sẽ còn khó khăn như thế nào nữa, cụ lớn không thể lường ra được, cho nên những bài thơ nôm cụ lớn vừa đọc, cụ lớn muốn rút lui đi xa...

Vũ Nhự cười hề hề:

- Ấy mình văn quan, trọng tín nghĩa, kém phần quyền biến, lại ở ngay nơi sở tại quê hương mình, nên tôi lại muốn xin về kinh như cũ.

- Thế bẩm cụ lớn có tin người Phú thực lòng hòa hảo không?

- Ấy từ nay trở đi theo như Trung Quốc dịch, và cho nó thống nhất với các công văn của nhà Thanh, ta cũng dùng chữ Pháp thay cho chữ Phú trước kia, nên bây giờ trong khi nói, chúng ta cũng gọi là người Pháp, người Pháp Lan Tây. Họ cũng muốn hòa hảo để yên ổn mà buôn chứ.

- Vâng, cậu ấm hỏi, thế sao họ không trao giả thành?

- Vì họ sợ các nơi đều lăm le đánh họ.

- Thế bẩm, các quan nghĩ về việc các nơi lăm le đánh họ là phải hay là trái?

- Đánh những kẻ lấn cướp, nhưng làm trái mệnh vua để hỏng việc hòa hảo là trái.

Ông cử Kim Cổ cũng hỏi:

- Bẩm cụ lớn thế có phải ở ta đây làm khác với các nơi, ở ta đây mà bàn cách đánh Tây là có cữu, sao các nơi người ta lại xôn xao phòng bị đánh Tây?

- Đều là theo lệnh của đức Hoàng thượng cả. Ở các nơi vì Tây họ chưa đến nên phải đề phòng, còn ở đây, Tây họ đã lấy thành, họ thương thuyết trao trả thành mà mình lại phòng bị đánh họ thì sao họ nghe.

Cậu ấm nói ngay:

- Thưa cụ lớn, vì thế nên mới bị họ lấn, thành ra các quan tỉnh là quan của họ, chứ không còn là quan của dân nữa.

Ông Cử phải nói đỡ:

- Cậu ấm chớ có nói thất lễ thế, đầu xuân năm mới cụ phải quở.

Vũ Nhự nói:

- Không sao! Cậu ấm đừng ngại, cậu không hiểu đấy thôi. Triều đình đã nhờ được nhà Thanh gửi quân sang giúp hiện đã sang đến miền Cao Thái rồi. Nên ở đây, thánh dụ bắt phải giao thiệp khôn khéo, giữ cho ổn thỏa, đừng khích động họ mà làm hỏng việc. Mỗi nơi một khác chứ...

Cậu ấm nói:

- Đệ chỉ sợ bọn nó cứ cố thủ lấy thành tăng thêm quân, rồi tỏa đi đánh các nơi, mình không củ hợp dân, huấn luyện dân thì làm sao mà chọi được với bọn nó. Nó đánh bất thình lình lại đến như thành Hà năm ngoái.

- Bảo cho dân biết thì dân làm náo động lên mất. Vũ Nhự nói, quân Thanh chưa sang đến nơi, mà nó đánh rộng ra thì mình đối phó lại thế nào cho kịp được. Chế ngự nhất thời 5 , rồi để mất đất lại bị trói gô giải về kinh chịu tội cho mà xem.

Ông cử Kim Cổ nói xen vào:

- Vâng kể cũng khó khăn thật, được vừa ý dân thì dễ mắc tội với triều đình.

Cậu ấm nói:

- Bẩm cụ lớn, lần này khác năm Dậu trước, là vì dân tin theo quan cố Tổng đốc Hoàng tướng công. Năm Dậu, các quan tỉnh ngăn cản dân, nhưng sỹ phu và dân chúng cứ họp nhau thành Nghĩa hội nên đã làm cho tụi lõ bị khó khăn, sau phải rút lui. Lần này dân tin Hoàng tướng công sỹ phu không họp thành Nghĩa hội ngay, đến sau này, ông Cử đây thấy cụ lớn về, lại tin theo cụ lớn, bảo dân hãy tin đợi sự thương thuyết của các quan, nên chần chừ không làm gì cả. Bây giờ thì đã muộn. Nên đệ xin trình thực với cụ lớn và bác Cử rằng, chúng ta nên họp Nghĩa hội bí mật.

Vũ Nhự gạt ngay:

- Ấy lỡ ra thì khốn đấy. Tây nó bắt, mà quan ta rồi đến cũng phải bắt. Không bắt thì nó thúc ép, nó tâu lên.

- Đệ cứ nhớ lời bác cử Tam Sơn thấy đúng mãi đến bây giờ, cậu ấm nói, không biết bác ấy đâu, đã lâu nay không thấy đến không gặp nữa...

- Lão gì gàn gàn ở Tam Sơn à? Vũ Nhự giật mình hỏi. Hắn ta bị ghép vào nghịch án 6 cùng với lũ đồ tạo ở Phù Lưu và Cao Bá Thuyên, con Cao Bá Quát đấy, đang có án truy nã, chớ có liên can với hắn...

- Thế à? Thảo nào bẵng đi không gặp, ông Cử nói, tội nghiệp! Thôi chúng ta xin phép đi về đi, để cụ lớn còn vào dinh.

Hai người đứng lên chúc mừng một lần nữa, rồi chào ra về. Vũ Nhự tiễn chân ra đến tận sân, còn nói với cậu ấm:

- Tôi bận chưa kịp sang lễ nhà thờ thầy, mồng ba tôi sẽ xin ra. Nhưng này liệu mà nghĩ kỹ, chớ có nghe dại mà oan gia đấy!

Hai người vái chào rồi đi ra đường. Cậu ấm khẽ nói chuyện:

- Kìa bác trông, phố xá bơ phờ, người đi lễ tết hối hả, có còn ra vẻ tết của dân mình nữa đâu. Tình thế khó khăn, nên quan Tuần muốn cáo lui đi xa... đỡ phiền, nhưng mà thế thì kém lắm. Ở đây, bây giờ chỉ có tôn huynh đấy. Tôn huynh phải đứng ra cho lũ tiểu đệ theo, quốc gia hưng vong thất phu hữu trách, huống chi cánh mình ít ra cũng là nho gia tử đệ, có học...

- Vâng, rồi ra giêng ta sẽ bàn, ông Cử nói, cậu vào chơi để tôi sửa lễ sang lễ thầy một thể.

- Thôi tôn huynh ạ, cứ theo lệ mồng ba nhà thầy, cậu ấm đáp. Đệ xin phép, đệ còn đi đằng này một chút.

- Đi lễ đâu đấy?

- Dạ, đi lễ tổ tiên nội ngoại đã có các anh chị − Đệ chỉ đi vì những việc cần, như lại hầu tôn huynh...

- Thế có lại chơi ông Thương không? Ông Cử hỏi vui.

- Ông Thương nào nhỉ, cậu ấm ngớ người ra hỏi.

- Quan Thương mới huyện ta ấy mà, vờ thế?

- À đệ vô tình không kịp nghĩ ra, cậu ấm cười vui vẻ. Có chứ. Đệ cũng đang có việc muốn sở cậy cô ấy.

Cậu chào ông Cử rồi đi thẳng phố Hàng Bài trở về nhà lấy năm quả cau, một lá giầu, một nậm rượu, bỏ nậm rượu vào túi áo trong, gói giầu cau vào khăn tay, đi ra quanh bờ hồ sang làng Yên Trường tìm vào nhà anh Thạch. Cậu biết anh Thạch từ chín năm nay. Sau vụ di táng ngôi mộ ở Tháp Rùa, thỉnh thoảng cậu có vào chơi, bên bà mẹ anh Thạch đã biết mặt. Anh Thạch đi lễ tết vắng. Bà cụ rất vui mừng thấy cậu đến chơi vào dịp tết năm mới, đỡ giầu rượu để lên bàn thờ, không để cho cậu lễ, ngăn cậu ngồi xuống giường luôn miệng nói:

- Quý hóa quá! Tết năm sớm, cậu có lòng quá bộ lại chơi thế này, thật quý hóa quá, thật rồng đến nhà tôm, cậu ngồi chơi xơi giầu, cháu nó về bây giờ đấy ạ... Quý hóa quá!

Một lúc sau, anh Thạch về, anh mặc chiếc áo thâm Xuân Cầu giãi hạt cau, quần vải nhỏ trắng, cái khăn lượt rối quấn lấy búi tóc củ hành cài trâm xương, trông có vẻ trẻ hơn ngày thường, cậu ấm đứng lên tươi cười chúc ngay:

- Chúc anh năm nay trẻ ra, và đẻ thêm con giai.

Anh Thạch cũng tíu tít mừng tuổi lại. Chị Thạch đã bưng mâm cỗ từ trong buồng ra chào cậu ấm và đặt cỗ xuống giường. Bà cụ cũng theo ra mời:

- Quý hóa quá, tết năm sớm, chả thiếu gì, nhưng cậu đã quá bộ đến chơi mừng mẹ con nhà cháu. Xin rước cậu ngồi xơi chén rượu nhạt ăn bánh lấy may cho nhà cháu.

Anh Thạch cũng nói:

- Quanh năm mới được mấy ngày rỗi, em xin ngồi uống hầu cậu mấy chén, gọi là đầu năm được may.

- Để tôi xin phép vào lễ cụ đã, cậu ấm nói.

- Thôi, thôi xin cậu, cậu tha cho, cụ tôi lù đù hiền lành, cậu mà lễ, cụ tôi sợ, cụ tôi đến xuất ngoại 7 .

Cậu ấm đành ngồi xuống giường vui vẻ uống rượu với anh Thạch và gợi chuyện đưa dần ý định của mình. Sau mấy câu chuyện về làm ăn, cậu hỏi anh Thạch về tết năm nay. Anh Thạch đang vui, nghiêm nét mặt lại nói:

- Cậu hỏi thì em mới nói. Thật tình mình sống gần Tây Tàu đã tám chín năm nay. Nhưng chửa thấy năm nào khó khăn và khó chịu như cái tết năm nay. Tụi lõ nó không hoạnh họe như thời lão Đồ Phổ Nghĩa, lão Ngạc Nhe. Nhưng chúng nó nghi ngờ khám xét lối ra vào, chúng nó lại đông, có sẵn thông ngôn, nên chúng nó canh ngặt lắm, thành ra hàng họ không đem vào được, bà con anh em khó đi lại thăm nhau, có kêu quan ta thì cũng như nước đổ lá khoai, Tây nó cứ làm... Ở đây mình quen đi rồi còn ức thế nữa là các nơi.

Cậu ấm thủng thẳng nói nhỏ:

- Phải các nơi người ta tức lắm nên người ta đang rầm rập chuẩn bị đánh Tây. Hôm trong năm, tôi về Phủ Bình, thấy ở miền tỉnh Đông, tỉnh Nam, người ta xay lúa, rèn khí giới, quyên tiền sửa soạn đánh giặc, vui như hội, có nhà dồn đến năm sáu chục công xay vào xay thóc, có nơi nuôi hàng mấy chục lò rèn ở trong nhà. Ở ta đây thì các quan ta bị lừa cứ nhân nhượng để mong cho nó mau trả thành, cấm dân không được làm gì cả để cho nó khỏi ngờ, sỹ phu văn thân thì thấp cơ thua trí bọn lõ, thấy nó để cho đưa đón linh đình đám ma quan Tổng đốc Hoàng Diệu, tưởng nó đã chịu ta rồi, không cần đánh chác gì nữa, cứ đợi nó trả thành rút quân là xong. Ai ngờ đến ngày nay, nó cứ ỳ ra đấy, mà nó lại trói buộc các quan mình theo như ý nó, làm cho dân ta khổ cực.

- Bọn nó đã lật lọng như thế, thế sao các quan ta không đánh? Anh Thạch vừa rót rượu cho cậu ấm vừa hỏi.

- Vì bị nó kiềm chế trói buộc lâu ngày thành như người của nó rồi. Bây giờ chỉ còn ngồi trông chờ ở các nơi đánh về và mấy chục doanh quân nhà Thanh tiến sang giúp.

Anh Thạch cũng nói ngay:

- Em cũng nghe nói có quân nhà Thanh đã sang đến Bắc rồi, ối dào, lại những ông tướng Tàu ấy thì rồi cũng chả nước nôi gì. Vả việc mình chứ có phải việc người ta đâu mà người ta thiết.

- Phải, cậu ấm vui vẻ nói to lên tỏ ý tán thành, rồi hạ thấp giọng: Vì thế nên tôi mới đến chơi bàn với anh.

- Lại bàn cách lập hội đánh Tây chứ gì? Anh Thạch đang cầm chén rượu chực uống, vội đặt xuống hỏi ngay. Cậu cứ họp đi, em sẽ rủ anh em vào còn đông hơn hồi năm Dậu kia. Dù bây giờ em đã có vợ hai con, em cũng xin ký cả hai tay.

- Tốt quá, cậu ấm cười ha hả nói, năm mới nói chuyện mới, lại có người theo ngay.

- Nhiều người theo ấy chứ lị, mọi người đang tức đây, chúng em đang bàn nhau, cùng ra, cứ một đổi một khử nó đi cho bõ ghét.

- Đâu đã đến nỗi thế. Còn có nhiều người hợp lại nên sức mạnh chứ. Tôi chỉ tiếc giá như ông Cử ông ấy nghe tôi thì ta mưu sự ngay từ sau đám ma quan Tổng đốc. Ông ấy lại nghe quan Hoàng giáp gàn chúng tôi lại.

- Úi chà các ông quan thì các ông ấy sợ dân ta hơn sợ Tây ấy chứ. Sao lại đi nghe các ông ấy. Mình làm thì cứ việc làm, để lâu mèo già hóa cáo lại càng khó.

Cậu ấm tự rót lấy một chén rượu, uống một nửa, còn một nửa, hất xuống đất và nói:

- Uống mừng xuân và mừng nhau thế là đủ, anh nhớ nhé, biến báo cho anh em, và ngay trong dịp tết, có gặp, anh rủ cả anh thợ thêu Tín Mỹ nữa nhé.

Rồi cậu đứng lên trước bàn thờ vái ba vái, chào mọi người để ra về. Bà cụ và chị Thạch ở trong buồng chạy ra đưa trả cái nậm và cùng với anh Thạch tiễn chân khách ra đến tận cổng. Cậu Phách trở về lại lấy lễ vật đi xuống Phúc Lâm, lấy cớ đi chơi tết, vào mừng tuổi bác Hai Phúc gái và tìm anh Tín và em Phú, con giai bác Phúc.

Trong khi ở Hà Nội, những người nhiệt tâm yêu nước đang cố gắng nhóm họp nhân dân, thì một sự thực hiển nhiên đã đến đã làm tăng lòng phẫn nộ của mọi người: Tàu Pháp chở đến bốn trăm lính thêm cho Ri-vi-e. Đoàn quân rầm rầm đi từ Đồn Thủy qua cửa ô Long Tường qua trường thi vào cửa Nam thành, các quan tỉnh phải dọn kho thóc đi cho quân lính nước Đại Pháp đóng tạm. Dân chúng xôn xao, toàn thành náo động. Lãnh sự Kê-la-đích sợ xảy ra biến loạn vội vào thành báo cáo với Ri-vi-e. Tên này cười khoái chá nói:

- Không ngại, ông Lãnh sự ạ, quân đội ta đã đóng yên ổn ở đây một năm rồi. Giờ ta có thêm gấp rưỡi số quân nữa, thì họ không dám làm gì ta đâu. Vả chính các ông quan tỉnh sẽ bảo vệ ta.

Ngừng một lát, hắn nói tiếp:

- Mấy ngày nữa, có cố Phước hay vị đại diện của cố có Kẻ Sở đến đây nói rõ tình hình dò xét và thu xếp ở vùng Nam Định, Ninh Bình cụ thể ra sao, tôi sẽ xin mời ông đến, ta cùng bàn cách mở rộng phạm vi đất đai của chúng ta. Ta tránh sự hấp tấp của ông Gác-nhi-ê ngày trước. Ta đi từng bước chắc chắn, không sợ kẻ địch đánh lại − Ở đây, ông cứ khéo léo, hòa nhã, để giữ lòng dân, tránh mọi sự gây khích nộ, rất có hại cho ta... Tôi hiện đang bận nghĩ cách chiếm lấy vùng mỏ Hồng Gai. Ông Lê-na ở Huế vừa bảo cho tôi biết Lý Hồng Chương nhà Thanh đang điều đình với triều đình thuê mỏ Hồng Gai, nên ta phải chiếm trước, để mất mỏ này không những là mất mối lợi thiên nhiên vô tận, mà còn sẽ gặp khó khăn sau này, vì Lý Hồng Chương sẽ nhờ vào kỹ thuật và tư bản của người Anh, người Anh sẽ vào đây. Cho nên tôi đã phái một trăm quân ở Pháp gửi sang đóng ở Hải Phòng cùng với một số ít quân đã ở Hải Phòng lên chiếm ngay vùng mỏ than và vịnh Hạ Long. Cũng chỉ nay mai là có tin. Tôi nhất định là được vì ở đấy không có đồn lũy gì cả.

Ri-vi-e cười đứng lên thân mật vỗ vai Kê-la-đích:

- Ông bạn cứ yên tâm, cuộc họp sau ta sẽ ăn mừng mùa xuân này của chúng ta... mừng thắng lợi của chúng ta.

Đúng như vậy, Ri-vi-e đã lấn từng bước vững chắc, tiến hành mọi âm mưu một cách nhanh và gọn. Đầu tháng hai ta (3-1883), quân Pháp chiếm đóng Hồng Gai một cách dễ dàng, và đến trung tuần tháng hai cuộc họp tay ba ở phòng khách thiết lập trong hành cung giữa Ri-vi-e, Kê-la-đích và linh mục Nghiêm đại diện của cố Phước, Ri-vi-e đã hào hứng báo tin thắng này:

- Tôi đã giữ đúng lời hứa với ông Lãnh sự: Sự chiếm đoạt cả phía tây vịnh Hạ Long cho ta cái chìa khóa nắm giữ cả mặt bể Bắc kỳ và cho ta chủ quyền trên đất mỏ. Ta được rảnh tay về mặt ấy.

Hắn quay sang phía cha Nghiêm và nói:

- Bây giờ ta bàn đến việc mở rộng ra đồng bằng. Tàu ta đã đi lại được trên sông như thế là hành quân vẫn được dễ dàng. Thư của đức cha nói rõ các vùng dân giáo ở Ninh Bình, Nam Định và miền Nam tỉnh Hà Nội đã được chuẩn bị sẵn sàng đón chúng ta. Tôi sẽ giao súng nhờ đức cha lập quân địa phương và chính quyền địa phương. Nhà thờ là một tổ chức kiên cố và rất có kỷ luật, cho nên sẽ trợ thủ đắc lực nhất cho ta trong cuộc chiến tranh ở xứ An Nam này. Thay mặt quân đội, tôi xin hết lòng khâm phục và tỏ lòng biết ơn đức cha, các cha và các hàng giáo phận đất An Nam.

Sau khi mời hai người uống rượu, lão ta hỏi cha Nghiêm về cặn kẽ tình hình cụ thể ở các nơi, về hoạt động của Phạm Quang Diệu ở Kẻ Tâng, của cha Sáu ở Phát Diệm, hắn đã ghi chép kỹ càng từng điểm, rồi hắn hỏi thêm ý kiến của Kê-la-đích về những tình hình ấy. Cuối cùng hắn trình bày rõ kế sách mở rộng ra vùng đồng bằng sông Hồng một cách rất trơn tru, quả quyết:

- Tôi sẽ cho quân đi từ Hà Nội đánh lấy Ninh Bình, lấy Nam Định, rồi từ đấy ra Hưng Yên. Xong đâu đấy ta xây dựng lại chính quyền theo như mẫu mực tỉnh Hà Nội này, ngoài mặt thì vẫn là chính quyền của họ, quan lại của họ, của triều đình, nhưng thực quyền là của ta. Rồi hai mặt ta tiến đánh Hải Dương, sau đó mới đến lượt Bắc Ninh, Sơn Tây.

Kê-la-đích vẫn tỏ vẻ ngại:

- Nhưng tôi sợ dân tình xôn xao họ cố liều đánh.

- Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Ri-vi-e nói, nhưng không ngại, ông bạn ạ, ta có quân mạnh, tàu nhanh, súng phá dữ, lại có người đánh các nơi. Bên họ tuy dân có sốc nổi, nhưng quan không tin dân, cứ ở lì trong thành, dân thì sốc nổi thường bị triều đình ngăn cấm và lừa gạt không nắm được thời cơ và dễ bị ta làm lạc hướng đánh không trúng chỗ.

Cha Nghiêm và Kê-la-đích cũng nói một ý:

- Dù sao vừa chiếm Hồng Gai xong thì cũng nên để thong thả đã, không thì triều đình Huế thấy ta làm già, có thể gây ra chiến tranh toàn cục huy động toàn dân đánh lại ta thì khó khăn sẽ lớn.

Ri-vi-e vui vẻ nói:

- Họ chưa dám làm thế đâu. Ông Lê-na ở Huế đã gửi thư ra cho tôi rõ nếu ta cứ nay lấy thành này mai lấy thành khác mà không tổng tấn công một lượt khắp nơi thì Tự Đức cũng sẽ không làm gì đâu, mà cứ trông mong ở cuộc thương quyết.

Hắn đứng lên đi lấy bức thư mới nhất của Lê-na đưa cho Kê-la-đích và bảo:

- Thư ông Lê-na viết ngày 17-3 mới năm hôm nay. Đây ông đọc cái đoạn tôi gạch bút chì đỏ này mà xem và để cha Nghiêm cùng nghe.

Kê-la-đích, cầm lấy bức thư đọc lướt qua một lượt rồi đọc to cái đoạn có viết bút chì:

“Ở đây người ta ngồi không và vô tư vô lự trông đợi kết quả của hai phái đoàn. Không có ai tin tưởng lắm đâu, tâm trạng của một người là chắc rằng phải nhượng bộ khi chúng ta đòi hỏi nước An Nam từ biên cảnh Trung Quốc đến Nam kỳ phải trở thành xứ bảo hộ của ta. Nhưng không ai dám nói thẳng với nhà vua cho nhà vua nhìn nhận ngay từ giờ. Người này đánh lừa người kia, bảo nhau tin cậy ở hai phái đoàn, tin cậy ở cái sức cản bên ngoài. Nhưng mà tất cả cái đó đánh lừa được ai họ cũng hiểu với nhau cả”.

Ri-vi-e khuơ hai tay xòe rộng ta và nói:

- Đấy, các ông xem tâm trạng các quan triều như thế đấy. Chỉ sợ các ông Tổng đốc ở các tỉnh và ông Thống đốc Hoàng Tá Viêm thôi. Nhưng mà đã gần một năm nay rồi, mà chỗ chúng ta đóng quân ở đây chưa hề được hân hạnh có vị nào đến thăm viếng.

Rồi hắn đứng dậy vồn vã:

- Vì vậy hôm nay mời hai ngài cùng dự bữa tiệc xuất quân của chúng tôi và mừng thắng lợi của chúng ta.

Hắn dí sát gần cha Nghiêm và nói thêm:

- Mai cha sẽ đi tàu của chúng tôi về đến Kẻ Sở để cha về ngay trình với đức cha, mọi ý định chúng ta vừa bàn để đức cha kịp thời xếp đặt công việc.

Ngày 24-3. Ri-vi-e giao quyền giữ thành cho tên Thiếu tá Vi-lê (Berle Devillers), tự mình chỉ huy đoàn quân xuất phát từ Hà Nội. Đoàn quân gần 500 lính tinh nhuệ đi trên 10 tàu máy và một số thuyền gỗ đi theo sông Hồng vào sông Đáy. Sáng ngày 26 quân Pháp lên chiếm thành Ninh Bình không một tiếng nổ: thành bỏ trống không. Ri-vi-e đóng quân ở đó nghỉ ngơi và gửi thư cho Tổng đốc Nam Định Vũ Trọng Bình buộc phải nộp thành rồi lại tiến quân đi. Sáng 27, súng bắt đầu nổ suốt một giờ rồi quân xông đến cửa Đông. Cuộc đánh nhau kéo dài từ sáng đến đúng trưa thì thành bị hạ, quan năm Ca-rô của Pháp bị đạn chết ở cửa Đông, Đề đốc Lê Văn Điếm bị tử trận ở trên tường thành. Án sát Hồ Bá Ôn bị đạn. Tổng đốc Vũ Trọng Bình và các quan khác bỏ thành chạy, Kinh lược sứ Nguyễn Chính đóng quân ở làng Đặng Xá huyện Mỹ Lộc, không hề ứng cứu, khi được tin thành vỡ liền rút lui về Vụ Bản. Ri-vi-e vào thành thu được 98 khẩu đại bác và các kho tàng khóc gạo, tiền kẽm và đồng còn đầy ăm ắp y nguyên. Hắn chia quân đóng giữ thành xếp đặt việc trị an, trả lương trước cho các cấp quan lại ở lại làm việc với hắn. Và hắn lấy làm tự hào báo cáo với Sài Gòn về sự thắng trận mới này và kết luận rằng: Chiến tranh Bắc kỳ không tốn kém mà lại có lợi: “Một năm rồi, cuộc viễn chinh ở Bắc kỳ chẳng tốn kém gì cho nước Pháp, cho xứ Nam kỳ mà còn đem lại lợi to: Chiếm Hà Nội lấy được 12 vạn đồng, Nam Định 18 vạn đồng, riêng thuế thương chính hàng năm thu vào 18 vạn đồng. Còn số thuế trưng thâu và thuốc phiện là 82.000 quan phờ-răng mỗi năm” và hắn lấy làm thích thú báo tin cho Kê-la-đích bằng một bức thư ngắn:

“Ông bạn thân mến! Bây giờ ở trong cái thành bé nhỏ, bé hơn thành Hà Nội – và kiên cố xinh xinh như ngự trên một quả đồi thấp, tôi đang bận mọi công việc ổn định cái tỉnh lớn ở đồng bằng này, tôi cũng vội báo tin thắng trận cho ông biết. Cuộc hành quân dễ dàng quá sức tưởng tượng. Trên đường đi ở sông chỉ có sự cản trở lẻ tẻ không đáng kể, tàu đi thông thống như đi trên đất nước của ta, đến Ninh Bình như đến chỗ không người. Còn ở Nam Định, mặc dầu có Đại tá Ca-rô bị đạn rất nặng phải đưa về trên ấy cứu chữa, nhưng đó là ngẫu nhiên, không may! Còn thắng lợi thì thật to lớn vô cùng. Xin báo để ông bạn mừng, mừng cho chúng ta: Một cái đặc sắc của nước An Nam này là sự không đồng tình giữa các ông Tổng đốc khi một ông Tổng đốc nào bị đánh, thì ông ấy mới lo, chớ không hề ai lo đến tỉnh gần bị đánh... Vì thế cho nên ta cứ việc sắp đặt, ổn định trật tự trong tỉnh theo như kinh nghiệm và mẫu mực ở tỉnh Hà Nội của ông đấy.”

° ° °

Nhưng bức thư văn vẻ và khoe khoang của gã tổng chỉ huy xâm lược vẫn không đủ trấn tĩnh ông bạn cai trị lâu năm đã hiểu rõ tâm tình chất phác và yêu chính nghĩa của nhân dân Hà Nội. Kê-la-đích lo ngại có cuộc đánh úp Đồn Thủy, nên hắn đã đề phòng nơi này rất cẩn mật. Hắn thân vào thành bàn với Vi-lê và bày cách cho tên này làm nghi binh để đánh lừa dân chúng. Vì hắn đã được tin báo hai đạo quân của hai tỉnh Sơn Tây và Bắc Ninh đang thắt chặt vòng vây quanh thành Hà Nội. Thật vậy, khi ấy ở bên kia sông Hồng, Tổng đốc Trương Quang Đản và Kinh lược phó sứ Bùi Công Niên đã điều động các đạo quân đến đóng ở bờ sông khắp miền Gia Lâm, Văn Giang, Đông Ngàn để sẵn sàng đánh vào Hà Nội. Bọn họ đã dâng sớ về triều nói rằng:

“... Hiện nay hàng trận quân lính mọi đạo đều đã nghiêm chỉnh, nghĩ nên trước hết khởi sự ở chỗ nó đóng ở Hà Nội, may nhờ uy phách của nhà vua, có thể xảy đến nhổ cái Đồn Thủy của nó, rồi một là để quân chiếm giữ lấy hai là chọn mấy đạo quân tinh luyện đi nhanh nuốt đường xuống cứu viện Nam Định, ngõ hầu đuổi kịp cơ sự...”

Ở trong thành phố, nhân dân đã được anh em Nghĩa hội liên lạc lại thấy tướng Pháp đem quân đi, và có tin quân ở các tỉnh Bắc đã về đóng sát ở bên kia sông, mọi người cùng hăng hái bảo nhau chuẩn bị sẵn sàng để phối hợp chiến đấu và làm thanh thế cho quân ở ngoài. Những gia đình đông người, những ông già, những đàn bà trẻ con đã tản bớt về vùng quê. Phố phường xôn xao. Tổng đốc Nguyễn Hữu Độ viết đề thông sức yết thị khuyên dân chúng yên tĩnh làm ăn và cấm hội họp tụ năm, tụ ba. Nhưng mọi người cứ công nhiên đi lại tụ tập. Để thị uy, Vi-lê cho dàn 230 quân súng ống đầy đủ, lưỡi lê sáng quắc đi vòng quanh thành và diễu qua các phố dưới trời mưa tầm tã. Hắn dẫn quân ra tập trận ở trên đê ngắm súng thẳng sang bên kia sông và bắn đạn giả. Hắn lại bắt Nguyễn Hữu Độ ra lệnh cho gọi hết các thuyền ở bên tả ngạn phải rời sang đỗ ở bên bờ này, tập trung quanh chiếc tàu chiến Lê-ô-pa (Leopard). Hắn bắt Tổng đốc sai Đề đốc chia quân canh giữ các nơi trấn áp dân chúng. Nhân dân trong phố vẫn không nao núng, vẫn bình tĩnh chờ đợi. Và suốt ngày đêm nhóm nào toán ấy, với vũ khí thô sơ, vẫn nghe ngóng theo dõi tăm hơi quân ngoài vào để cùng nổi dậy. Đợi không lâu đã được dịp. Thì đúng đêm 17 tháng 2 (26 rạng sáng 27 tháng 3-1883) quân đội của các quan ta từ bên Gia Lâm đã qua miền Tứ tổng chập tối, vượt qua sông vào cửa ô Hàng Đậu, được nhân dân dẫn tắt qua các phố vào đánh cửa Đông, bao vây hai kho thóc, nơi quân Pháp đóng từ mấy hôm trước. Ở đấy, quân Pháp chỉ còn lại một số ít, chống cự yếu ớt, bắn vu vơ mấy phát súng, rồi bỏ chạy rút cả vào trong thành. Vi-lê ngờ ý định của quân ta đánh thành là để dử cho Đồn Thủy đưa quân lên cứu, để thừa cơ sơ hở mà qua sông đánh chiếm Đồn Thủy, nên hắn rút hết quân về giữ quanh thành cung và thúc số quân của Tổng đốc ra đánh nhau giành lại kho thóc. Hai quân của triều đình gặp nhau nghe tiếng nói và trông lờ mờ thấy nhau, chả nhẽ lại đánh nhau, quân ngoài liền kêu gọi quân trong vào vây đánh tiêu diệt bọn Pháp ở hành cung. Bọn quân trong sợ lệnh Tổng đốc và các quan trong tỉnh, không dám theo ý quân ngoài, có kẻ nói lớn:

- Không biết gì cả, xin các anh lui ra. Không chúng tôi bắn đây này! Xuống mà vây đánh Đồn Thủy! Chúng tôi kìm bọn nó ở trên này. Hai bên cứ nhủng nhẳng, nhân dân Nghĩa hội sốt ruột cứ hò reo tiến lên, nhiều người thét lớn:

- Tiêu diệt giặc ở hành cung đã!

- Ai không đánh giặc tức là theo giặc!

Đoàn quân ào ào tiến vào, quân bên trong không dám cản. Vi-lê cuống sợ vội bắt ép các quan tỉnh ra dàn xếp. Hữu Độ liền giục Vũ Nhự, người sở tại, ra hiểu dụ, mang theo cả cờ biển Khâm sai cũ ra làm vai vế. Quả nhiên, quân lính triều đình trông thấy cờ biển của nhà vua và quan Tuần phủ Hà Nội, liền đứng dừng cả lại. Vũ Nhự sai lính cản nhân dân đứng lùi xuống, rồi nói dõng dạc:

- Tôi xin truyền lệnh của quan Tổng đốc xuống cho anh em như thế này: ném chuột phải giữ lấy bình ngọc. Hai bên đều là lính và dân con của triều đình cả. Thế mà kéo nhau vào đánh phá nơi các quan ở thế này, thì tránh sao khỏi tội?

Mấy thanh niên hàng phố nói to:

- Chúng tôi đánh Tây, chứ không đánh các quan!

Vũ Nhự cười cướp lời ngay, nghiêm nghị hơn:

- ... Nhưng mà Tây chưa thấy đâu, chỉ thấy các quan đây thôi. Các quan thương dân không nỡ ra lệnh bắt giết. Làm dân phải biết phép nước chứ... Vậy tôi hạ lệnh cho các người phải ra ngay! Các thầy Quản cơ Vệ úy đâu, dọn hàng quân đuổi họ ra! Quân đội tỉnh Bắc phải rút ngay đi... Không tôi làm sớ hoặc là theo phỉ!

Quân lính bên Bắc vội rút ra trước, dân đành lục đục theo sau, đi ra ngoài thành. Bà con trong phố bàn với mấy vị cai đội chỉ huy quân lính cứ kéo xuống đánh Đồn Thủy. Nhưng họ không nghe lại theo lối cũ, họ vội vã rút quân về bên kia sông. Thế là suốt một đêm, hơn bốn nghìn quân và dân đánh thẳng được vào thành Hà Nội mà không nên công trạng gì!

Sáng ra, yên tĩnh. Vi-lê đem một trăm quân sang sông đánh trả thù. Nó sục sạo tiến vào hai làng Gia Quất và Thượng Cát. Nhưng ở bên trong, nhân dân đã đào hào chiến đấu, quân lính nấp ở trong bắn đại bác ra chặn đánh, quân giặc không vào được. Đến chiều chúng phải rút lui, lại bị quân ta truy kích gây cho chúng nhiều thiệt hại. Hôm sau, Vi-lê lại đem hai trăm quân sang sông, có đại bác ở tàu Lê-ô-pa bắn lên dọn đường trước. Hắn lại tiến quân vào đánh hai làng Gia Quất và Thượng Cát. Hai bên đánh nhau ác liệt. Đến trưa quân và dân ta rút ra khỏi hai làng. Giặc tiến vào phóng lửa đốt cháy trụi hai làng. Giữa lúc ngọn lửa đang bốc cháy thì hai đạo quân của quan Thương biện Nguyễn Cao và của Lãnh binh Hồ Văn Phấn tiến đến đánh chẹn hậu. Giặc Pháp vội vàng vừa đánh vừa chạy, đốt hết các xóm ven sông để che chở lối thoát xuống sông rút về Đồn Thủy.

Bọn Pháp bưng bít kín số thiệt hại ở ngoài không ai có thể lượng đoán được. Các quân tỉnh Bắc đã thắng trận, nhưng không tiến ngay sang đánh bên này, nhiều người nóng ruột, liền lén sang sông thăm dò tin tức, thấy xóm làng bị đốt phá tan hoang, xơ xác mà quân lính đã rời đi xa. Mọi người mới suy đoán là các quan sợ địch đánh báo thù nữa, nên các người không nghĩ đến việc sang Hà Nội. Anh em Nghĩa hội liền họp bàn thấy nên cử người sang tìm gặp hẳn các quan bên tỉnh, trình bày rõ kế đánh thành có dân phố bên trong làm nội ứng. Cậu ấm Ba Tự Tháp tình nguyện xin đi, được mọi người đồng ý, vì cậu đã nhiều lần sang thăm cảnh chiến tràng, và cậu lại là thế huynh của quan Thương biện Nguyễn Cao, vị thủ khoa nổi tiếng của làng Cách Bi, học trò giỏi của quan nghè Tự Tháp và hiện đang là người cương quyết đánh đuổi giặc Pháp. Cậu ấm liền sang bên Gia Lâm lần mò thăm hỏi mãi, mất hai ngày mới tìm được đến nơi quan Thương biện đóng quân, ở một làng trong phủ Thuận Thành. Cậu trình bày rõ tình hình bà con trong thành phố, mọi người nguyện cùng nhau một lòng diệt giặc và mong mỏi các quan tỉnh Bắc tiến quân vào, bà con sẽ làm nội ứng cùng đánh giặc. Nguyễn Cao hỏi rõ thêm từng chi tiết cụ thể ở các phố, tư tưởng của các sỹ phu, của mấy ông Cử quen biết. Sau cùng ông nói:

- Bà con nghĩ như thế là phải. Mà lại biết cử cậu sang bên này trình rõ với các quan lại càng tốt. Nhưng trước hết cậu phải làm hai việc đã: cậu phải đi Sơn Tây yết kiến quan Thống đốc Hoàng Tá Viêm, dựa vào Sơn có thể hơn dựa vào Bắc. Hai là cậu phải bắt mối giao thiệp được với thân tín của Pháp để dò biết mọi hướng hành quân của nó...

Thấy cậu ấm Ba ngồi ngẩn người ra có vẻ nghĩ ngợi lo ngại, ông cười vui vẻ nói tiếp:

- Việc có vẻ khó, nhưng không khó lắm đâu. Tôi sẽ viết giấy trình cậu với Hoàng Thống tướng. Và khi cậu có được người liên lạc với Pháp thì ông ấy quý cậu đáo để. Việc này thì tùy ở cậu, làm thân với bọn thông ngôn cũng dễ ấy mà. Còn các quan ở đây thì tôi xin hết lòng tỏ bày với các quan rõ lợi hại việc nên tiến thẳng vào Hà Thành. Nhưng mà, có lẽ phải lâu lâu chưa ngay được...

Ông ngừng lại đứng lên đi mở tráp lục lấy một tờ giấy khổ rộng đưa cho cậu ấm và nói:

- Nó thế này, đây cậu xem, sớ của quan Phó sứ Bùi Di đấy.

Cậu ấm đỡ lấy và đưa mắt đọc ngay đoạn chính:

“... Một việc tiễu Hà, đã từng phụng chỉ dụ nghiêm khắc thiết tha sai Thống đốc thần lập tức tiến quân vào bức bách Hà Thành trước khi Nam Định hữu sự, để cho bọn nó trông chỗ này thì mất chỗ kia, không sính chí xuống Nam. Như thế há chẳng là khéo liệu trước ư? Thế mà cứ đóng ở Sơn không tiến đến nỗi nó được nhàn rỗi, định lẽ đánh chiếm được Nam Định. Sự thế thành ra khó thêm. Ví phỏng Lưu Đoàn 8 không đến mà mọi tỉnh Bắc kỳ vạn nhất có ngại, thì Thống đốc thần ấy cũng cứ trơ vậy ngồi trông. Điều độ như thế mà mong thành đại cục thực biết là muôn vạn khó khăn. Nay Lưu Đoàn đã đến, lại đem triệt hết đạo quân ở Bắc về Sơn. Mới đây người Pháp mưu quấy tỉnh Bắc, việc đóng quân giữ tỉnh Bắc là rất khẩn, đã từng đem việc ấy phúc trình lên, mà Thống đốc thần ấy không xét kỹ bàn bạc gì cả, luôn luôn tự đi kéo lấy quân về, tất muốn hậu cho mình mà bạc láng giềng, lại muốn làm trái lệnh trên để nhân cơ hội thêm tội cho người khác. Bậc đại thần mà dụng tâm như thế, thực không thể hiểu.

Gần đây cứ theo lời Lưu Vĩnh Phúc, đáp lại phái viên thì tiến đóng, nhanh, chậm Thống đốc thần ấy cũng chỉ theo Vĩnh Phúc chủ trương, thế là không nghĩ đến việc nước, chỉ biết nắm quyền đè nén kẻ dưới khiến người đó không cất tay lên được và việc đánh ở Gia Lâm thần và Trương Quang Đản cũng làm được dư thưởng, còn Thống đốc thần ấy lại đội ơn được khiển trách nhẹ không khỏi để ý oán giận. Thánh Minh ở trên có hiềm ghét gì ai, thần chỉ biết hết sức mưu báo đền, dám có lòng gì đâu, nhưng thấy sự như vậy nói ra cố nhiên là có tội, không nói ra cũng sợ có tội”.

Cậu ấm đọc lướt nhanh hết cả chính ý trong tờ sớ, để tờ giấy xuống án thư, ngước mắt nhìn ông bạn, người nhỏ nhắn, trán cao và bóng, đôi mắt sáng quắc đang đăm đăm nhìn thẳng ra ngoài sân, như mải theo dõi tình hình ở mãi xa xôi, cậu không dám hỏi mà cũng chưa dám lên tiếng thì Nguyễn Cao đã nói:

- Kể ra thì quan Thống đốc cũng có cữu là chậm trễ thật đấy, nhưng các quan tỉnh Bắc và quan Kinh lược phó sứ cũng cứ nghe ngóng không chịu tiến, tôi đã mấy lần bàn cứ đánh thẳng sang Đồn Thủy, nhưng các quan cứ sợ hao quân bị cữu. Rõ dở quá, chung quy chỉ nghĩ đến riêng mình cả chứ có phải nghĩ đến nước đâu.

Ông bỗng cười lớn:

- Chết cái bây giờ đánh vào Hà Nội không khéo lại hóa ra mình đánh mình, đánh ông Nguyễn Hữu Độ và cả cái ông Vũ Nhự nhà cậu. Cho nên mấy ông quan lớn đại thần có cớ mà chùng chình, dun dẩy nhau. Thằng Tây nó khôn thật, nó đi những nước cờ cao hơn mình nhiều. Nó cứ đem triều đình dọa quan, đem quan nạt triều đình, rồi cứ nhẩn nha lấy dần từng tỉnh một.

Cậu ấm liền hỏi:

- Thế bẩm cụ lớn, sao không thông đồng cả hai bên cả Sơn lẫn Bắc, các đạo quân cùng chia nhau đánh cả vào Hà Nội một lúc.

Nguyễn Cao thở dài nói:

- Ấy tôi cũng đã bàn như thế từ trước kia đấy. Lúc này tôi cũng lại đưa giấy ra, vì nó đã chia quân đi Ninh Bình, Nam Định, thì ở Hà Nội số quân ít đi. Nhưng các quan ở đây còn nghe ngóng bên Hoàng Thống đốc. Vì thế, tôi mới bảo cậu nên đem yết kiến Hoàng Thống đốc ngay. Còn ở đây, nhất định tôi sẽ giục... bằng được. Cứ chùng chình mãi thì có khi Tây nó lấy hết Bắc kỳ...

- Vâng! Cậu ấm nói, dân chúng thì sốt ruột, tức tối lắm, chỉ lo Tây nó lấy dần hết Bắc kỳ, nên mong ngày mong đêm có quan quân kéo đến đánh trừ bọn giặc lõ ấy...

Cậu ngập ngừng, rồi đánh bạo hỏi:

- Thưa cụ lớn, cụ lớn có biết bác Cử già Tam Sơn lâu nay thế nào? Ở đâu không ạ?

- Bác ấy vì bị liên can vào phỉ án 9 cùng với lão đồ Tạo chợ Dầu, quan Thương biện chép miệng nói thong thả, đầy vẻ ngao ngán. Bị truy nã bác ấy đổi tên giấu tích, có lẽ lúc này, bác ấy lại mưu đánh Tây dữ dội hơn bọn mình...

Ông ngồi thừ một lúc lâu rồi mới nói:

- Lực độc thế cô 10 . Thấy việc nghĩa thì làm, chứ còn sợ gì! Cứ binh tình này rồi thì có lẽ những người cứ khăng khăng một mực đánh Tây sẽ hóa ra phỉ đô bị truy nã cả! Cẩn thận... Cẩn thận...

Cậu ấm cũng ngồi ngẩn ra nhìn ông bạn, kính trọng luồng suy nghĩ của ông, không dám ho, không dám hỏi. Một lúc lâu sau, ông đứng lên, tự đi lấy giấy bút ra viết bức thư riêng trình lên quan Thống đốc quân vụ Hoàng Tá Viêm, đưa cho cậu ấm và dặn thêm cặn kẽ mọi điều nữa.

° ° °

Cậu ấm Ba trở về đến nhà liền đi báo tin cho bà con Nghĩa hội. Cậu đi tìm ấm Vẽ, bàn riêng với nhau về cách cầu thân với thông Lộc để thăm dò tin tức của địch như quan Thương biện đã dặn. Có nắm được rõ mọi mưu mô của địch, biết mình, biết người thì mới mong thắng được địch, quan Thương thật là cao kiến. Một việc đơn giản tầm thường như thế, có thể tiến hành lúc nào cũng được, thế mà chả ai nghĩ đến. Bọn nhà nho khí khái không muốn dây với bọn đi làm với Tây, chỉ sợ mang tiếng. Bây giờ thì rõ ràng là cần thiết rồi. Nhưng làm thế nào mà biết được những mưu kế của địch, những tin cụ thể chính xác, nếu không phải là đôi bạn tri kỷ cùng một hoài bão, hoặc là người yêu thương đằm thắm, thì không khi nào người ta thổ lộ hết tâm tình. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Hai người ngồi cùng nhau bàn bạc xem xét rõ tình hình, thấy lúc này có thể dựa vào thông Lộc, vì hắn đương lép vế thông Phong. Mọi quyền hành lợi lộc đều về tay thông Phong cả. Có thể nhân đó mà khích thông Lộc lên. Nhưng muốn moi được những tin bí mật quân cơ thì ngoài tiền tài danh vọng ra còn cần phải có cái gì hơn nữa. Hai người liền cùng nghĩ đến mỹ nhân kế, cùng quyết định phải nhờ đến hai cô bạn gái: cô Cúc, em ấm Vẽ và cô Xuyến con gái Bá Kim, cả hai người đã cùng dự Nghĩa hội. Hai cô sẽ làm quen với thông Lộc, rồi cố gợi làm mối cho hắn một cô vợ trẻ đẹp. Cô vợ ấy phải là người của ta và sẽ nhặt tin dần báo cho ta − ấm Vẽ dặn thêm ấm Tự Tháp. Đằng nào cũng phải dựa vào giai nhân mới xong được việc. Thế thì chú mình liệu mà nói khéo với cái Xuyến, không có nó ngảng ra thì hỏng bét, sẽ lộ mất.

- Được! Phải bắt tay vào việc đã chứ, cậu ấm Ba cười trả lời.

Hôm sau, hai cô được mời đến chơi ở một nhà ở phố Hàng Bát. Đây là nhà bà dì cô Cúc và ông ấm Vẽ. Hai anh em ông ấm thành ra chủ ân cần vui vẻ tiếp hai người khách là cô Xuyến và cậu ấm Ba. Cuộc họp bắt đầu ngay. Cậu ấm Ba thuật lại ý kiến của quan Thương biện tỉnh Bắc và nêu rõ cái khó khăn của sự bắt mối làm quen lúc đầu, rồi cuối cùng đưa ra dự định như hai người đã bàn hôm trước. Cô Cúc nghe xong tỏ ý tán thành ngay và nói:

- Được đấy! Chị Xuyến vốn đã quen biết thông Lộc chị có thể gợi cớ làm thân với hắn. Rồi hắn muốn lấy vợ trẻ thì ta sẽ chọn một cô nào kha khá làm mối cho hắn...

Cậu ấm Ba vốn say mê cô Cúc từ lâu đã định tâm lấy cô, không muốn để cô dây vào cái việc khó khăn khuất khúc này, nên cũng nói đế theo:

- Phải! Phải... Cô Xuyến đã biết hắn và lại có cụ Bá đấy, dễ làm quen, cả hắn lẫn người ngoài đều không nghi ngại...

Vì cậu nói nhanh quá cô Xuyến tinh ý biết ngay tâm địa của cậu, vả cô ngờ họ đã bàn với nhau từ hôm trước, nên cô chối:

- Em xin chịu thôi. Hai cậu và chị cũng biết đấy. Thông Lộc nó ranh mãnh lắm. Chưa chắc nó có thèm lấy vợ Bắc không mà gợi chứ? Ít ra cũng phải khôn ngoan đởm lược như chị Cúc... Em nói thật đấy, vì việc nghĩa, em sợ không khéo lại hỏng cả.

Ấm Vẽ vội dàn xếp:

- Không! Anh em chúng tôi không có ý đóng sống vào cho cô phải làm đâu! Ấy là hãy bàn thế. Nhưng mà xét ra có cụ Bá đấy cô vẫn có thể làm quen với hắn dễ hơn mà không bị nghi ngờ, không bị lộ. Vậy thì cô nên vì nghĩa lớn nước nhà mà nghĩ cách giúp đỡ. Bà con hàng phố xưa nay vẫn quý trọng cô, lại càng kính mến cô hơn, chứ không ai dám nghi ngờ gì.

Cô Cúc cũng nói thêm vào:

- Chỗ chị em nói tình thực cả. Có khó khăn mới phải nhờ đến bọn mình. Vậy chị cứ vui lòng nhận giúp đi. Rồi lúc nào cần phải có em thì chị cứ bảo là em xin theo ngay. Miễn là việc nghĩa.

Cô Xuyến lắng nghe, suy nghĩ rồi nói thong thả:

- Ông ấm và chị nói thế em còn tin, chứ cậu Ba vừa nói, em khó tin lắm. Chả gì em năm nay cũng nhiều tuổi rồi, con gái lớn chưa lấy chồng cũng lắm chuyện lắm. Mà quanh đây, người ta vẫn đồn đại rằng em không chịu lấy chồng là vì có ý muốn ve vãn cậu Ba. Điều ấy chưa biết có đúng hay không? Nhưng đủ ba mặt một nhời đây, em xin cậu Ba hứa với em một điều: em có gần gũi với thông Lộc, cậu cũng không tung điều kia tiếng nọ về em. Còn người ngoài nói năng gì, em cóc sợ!

Cô nói rắn rỏi trân trân một mạch, không ngượng nghịu, làm cho hai anh em ông ấm phì cười và cậu Ba đâm ra bẽn lẽn lúng túng. Ông ấm Vẽ tươi cười giục:

- Đúng đấy! Vì việc nước, hứa đi nào, chú Ba! Phải khuyến khích đại hành bất cố tiểu tiết 11 .

Cậu ấm Ba ra vẻ không bằng lòng, nhất là lại thấy bị phá đám ngay trong mối tình của mình với cô Cúc, nên nói lảng ra cố ý thanh minh với cô Cúc:

- Việc chị chị làm, có liên can gì đến tôi, mà chị bảo tôi phải hứa.

Cô Xuyến cũng thản nhiên nói:

- Thì thôi vậy, em cũng không vạ gì mà xông vào cái việc oái oăm ấy.

Cô Cúc vội đấu dịu với cả hai người:

- Chị Xuyến chị ấy nói thực đấy cậu Ba ạ. Vì việc lớn, cậu cứ hứa đi. Chị ấy vừa vì nước lại vừa vì cậu mà bầy mưu định kế, chả khôn ngoan gấp mười và thành công gấp bội sao?

Cậu ấm vẫn còn tức, nói choãi ra:

- Nhưng mà tôi không thích cái lối ăn nói sỗ sàng đem việc nước ra mà phá đám, bắt bí nhau thế!

Cô Xuyến tức tối to tiếng:

- Tôi nghĩ thế nào nói thế, chứ tôi phá đám bắt bí gì nào? Ấm Vẽ vội nói đỡ, dàn hòa cả hai bên:

- Thôi tôi xin cả hai ông bà, Thiên ngôn vạn ngữ bất quá hồ thực. Cô Xuyến nói thế là chân thực, vừa cả tình vừa cả nghĩa chứ sao! Vậy ông ấm công tử làm sao lại không chịu hứa đi một tiếng. Có hại cho danh giá mình ư? Danh giá của chú hơn việc nước à?

Cậu ấm cùng đường, vả nghĩ đến lời dặn ân cần của quan Thương biện, cũng dịu dần lại và nói thong thả rành rọt.

- Hứa thì xin hứa, miễn là những việc cô làm thật có lợi cho công cuộc đánh Tây cứu nước.

Rồi cậu nói thêm có vẻ nghiêm nghị:

- Nhưng tôi không thích những người cứ trơ ra như vậy không biết gì là ngượng.

Hai anh em ông ấm vui mừng vỗ tay reo lên. Cô Cúc nói đỡ:

- Nói thẳng thế, chả hơn cứ úp mở, mánh khóe, thớ lợ như Điêu Thuyền ấy à!

Cô Xuyến thấy đã gieo được mối hoài nghi vào lòng cô Cúc, cũng vui vẻ tươi cười nói:

- Tôi nói thế để thử xem cậu Ba có thực sự lo buồn vì nghĩa lớn không. Hai nữa là để cậu khỏi vịn cớ ấy khinh em tâng bốc người khác. Còn việc của em tự em định lấy chứ cần gì đến cậu. Đấy rồi cậu xem. Có ông ấm và chị Cúc làm chứng.

° ° °

Việc liên lạc với Sơn Tây và Đồn Thủy đã thiết lập được, tin tức được đưa thường xuyên và nhanh chóng. Vòng vây Hà Nội được khép chặt hơn. Quân của tỉnh Sơn Tây và nhất là quân Cờ đen đã tiến đến đóng ở làng trên ven sông Nhuệ, sát gần thành Hà Nội. Bên bờ sông Hồng, quân của tỉnh Bắc Ninh đóng liên tiếp ở các làng, đêm đêm bắn đại bác qua Đồn Thủy uy hiếp tinh thần quân lính địch. Thấy tình hình Hà Nội như thế, Ri-vi-e lật đật trở về Hà Nội. Hắn xin thêm quân viện. Hạm đội thủy quân Pháp của tân Đô đốc May-e (Mayer) tự Hương Cảng được rời đến đóng ở vịnh Hạ Long gửi thêm tàu chiến và lính lên Hà Nội. Tên Thiếu tá Vi-lê được tiếp viện thêm một số lính bộ từ Hải Phòng lên giúp việc trấn giữ thành Hà Nội. Hắn vạch một con đường phòng ngự nối liền từ Đồn Thủy chạy thẳng vào đến cửa Nam Thành. Hắn bắt các quan Đề, Lãnh phải đem quân đi bắt dân phu về cùng với quân lính triều đình và quân lính Pháp đào giao thông hào và đắp ụ súng trên con đường ấy, nói là để chống giữ quân Cờ đen. Dân chúng phải dỡ nhà cửa, phá hoa màu đi để đào đường hào. Sâu một thước và đắp cao lên một thước, đường hào chạy dài sừng sững như một dãy núi, hai bên lại rào tre chéo cánh sẻ kín mít, ngăn cản không cho dân qua lại, cắt đứt khu vực từ Hồ Gươm trở lên cách biệt hẳn với những làng Vũ Thạch, Phụ Khánh, Vọng Đức ở phía dưới. Sự giao thông đi lại giữa phố phường làng xóm bị chặn lại. Tình thế chiến tranh đã rõ rệt. Các quan tỉnh Hà Nội trơ mặt ra là kẻ làm việc cho giặc. Dân chúng căm phẫn sôi sục, chờ đón quân đội ở ngoài tiến vào. Tin tức hoạt động của địch vẫn được bí mật đưa ra đều đặn. Dân chúng đang mong mỏi thì thời cơ đã đến. Đầu tháng tư (tức ngày 8 tháng 5-1883), quân Sơn Tây dẫn quân Cờ đen tiến đánh mấy đồn dân giáo ở Giáp Bát, tước hết khí giới và đốt phá đồn lũy. Tối hôm sau, được dân Nghĩa hội phối hợp, quân Sơn dũng vây đánh quân lính tay sai của giặc ở nhà thờ Hàm Long là nơi giặc đã giao cho nhiều vũ khí súng đạn để bảo vệ vòng ngoài cho chúng. Đồn bị phá hủy gọn, mà quân Pháp ở trong thành cũng không dám ra ứng cứu. Đương đà thắng, những tối sau, quân ngoài đều vào quấy rối ở gần Đồn Thủy và ở ngoài cổng thành để cho quân Pháp ra đánh. Nhưng chúng đều cố thủ ở trong đồn lũy, không dám thò ra. Xét thấy quân giặc đang sợ sệt, không còn có vẻ xông xáo như trước nữa, nhân dân trong phố liền cử người ra bàn kế đánh chiếm khu Nhà chung cắt ngang đường hầm giao thông, không cho Đồn Thủy thông được vào thành, rồi chia nhau quân Bắc đánh Đồn Thủy, quân Sơn hai mặt đánh thành. Cần phải đánh khu Nhà chung trước là để cắt đôi quân giặc làm hai khúc nhưng chính yếu vì đây là nơi tai mắt của giặc, trong đó có một số lính ăn mặc theo lối tu hành để canh giữ con đường hầm và bảo vệ các khu người Pháp mà dã tâm xâm lược đã quá rõ rệt trước mắt nhân dân Việt Nam. Hoàng Tá Viêm thấy luôn mấy đêm quân Pháp không dám ra ứng chiến những đồn lẻ, liền nghe theo, và quyết định đánh thử Nhà chung để xem thái độ quân Pháp. Lão liền cử một ít lính đi với quân Cờ đen vào đánh, và hy vọng có thể phục kích quân cứu viện.

Trời tháng tư đầu mùa hè đã bắt đầu oi bức. Trăng thượng tuần chiếu ánh sáng trong nhạt bàng bạc. Làng mạc phố xá im lìm trong bóng tối lờ mờ. Bốn bề im lặng, xa xa chỉ văng vẳng tiếng gõ tụng kinh đều đều từ các chùa đưa ra trong dịp lễ Phật đản, mồng tám tháng tư. Thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông rời rạc. Đợi cho trăng lặn, tiếng mõ im dần, đoàn quân xuất trận do Tuyên úy của Cờ đen là Dương Trứ Ân và Cai đội Cơ Sơn dũng tỉnh Sơn Tây chỉ huy từ lối Ô Chợ Dừa tiến thẳng vào địa điểm đã định. Những dũng sỹ của Nghĩa hội do cậu ấm Ba dẫn đầu đưa đường. Đoàn quân đi lối tắt tiến thẳng tới sát đường hào, ào ạt phá hàng rào, vượt qua hào, chạy như lao vào bao vây khu Nhà chung. Tự trong nhà thờ súng bắn ra lác đác, rời rạc. Quân Cờ đen xông lên trước đã châm lửa đốt mấy nhà gianh chung quanh, lửa bốc cháy rầng rậc. Dưới ánh sáng của lửa cháy, quân lính Sơn dũng tìm chỗ nấp chĩa súng bắn vào nhà thờ vu vơ, đì đẹt, bắn cầm chừng để dử cho quân địch bắn trả lại. Dũng sỹ Nghĩa hội bắc loa gọi vào nhà thờ:

- Quân lính triều đình chỉ đánh Tây, bắt Tây và tay chân của giặc. Còn bà con đi đạo nên ra hàng ngay khỏi phải cháy thành vạ lây.

- Hỡi anh em đi đạo! Đừng dại dột đem thân chết oan vì bọn lõ! Đức Chúa có cứu đâu nào!

Tiếng loa kêu gọi cùng nhịp nhàng với tiếng súng bắn. Trong nhà thờ im hẳn tiếng súng. Bên ngoài cũng thôi bắn để nghe ngóng. Tiếng loa vẫn gọi tiếp. Có một hai, rồi ba bốn người từ trong nhà thờ chạy ra. Mấy dũng sỹ quây lại hỏi:

- Tụi Tây đá?

Một người run sợ nói:

- Bẩm... bẩm... bẩm các quan, các cha vào trong thành cả.

- Cha chúng bay chứ cha chúng tao à? Một dũng sỹ quát hỏi. Chúng nó chạy từ bao giờ?

Cậu ấm Ba chạy vội lên mắng gạt đi:

- Không được nóng nảy trêu tức thế. Cậu nói nhỏ lại cho mấy dũng sỹ đủ nghe: trêu tức họ sinh liều.

Rồi cậu hỏi nhẹ nhàng:

- Thế họ chạy từ lúc nào? Mới chạy hay đã lâu rồi?

- Bẩm... bẩm các quan, họ đi từ chiều. Người run sợ nói. Mấy hôm nay cứ tối đến là họ đi.

- Thế ai vừa bắn?

- Bẩm chúng con bắn để giữ thánh đường ạ!

Cậu ấm cười:

- Nói láo! Ngữ các anh mà bắn được!

- Dạ bẩm, bẩm... bẩm, chúng con được bề trên dạy bắn để bảo vệ đạo!

- Láo toét! Ai làm gì đạo mà các anh phải bảo vệ, chẳng qua các anh mê muội đi hầu hạ giữ gìn bè lũ cướp nước.

Một dũng sỹ hỏi xen vào:

- Thế sao không bắn nữa đi để mà giữ đạo? Có chết cũng được tiếng tử vì đạo!

Nhưng cậu ấm đã hỏi át ngay:

- Trong nhà thờ còn ai không?

- Bẩm... bẩm không ạ, xin mời các quan vào xem.

Mấy người vác súng chạy ùa vào. Cậu ấm chạy lên ngăn:

- Khoan khoan đã! Coi chừng bị mắc lừa đấy! Bắt mấy anh này trói lại cho họ đi trước dẫn đường.

Mọi người tuân lệnh ngay. Và một đoàn dẫn những người kia lên thành hình chữ nhất đi vào nhà thờ, mỗi người nấp sau một người đi đạo, lăm lăm cây súng trong tay. Vào đến bên trong cái nhà thờ làm theo kiểu đình cổ rộng thông thống với hai hàng cột thẳng tắp. Tức thì có tiếng súng tự các góc bắn ra tỉa từng người một. Một hai chiến sỹ bị thương ngã xuống. Đoàn người ở ngoài nghe tiếng súng ùa vào, bất chấp nguy hiểm. Cuộc chiến đấu trở nên ác liệt. Người ta vội dồn những người bị thương vào một góc. Đánh nhau giáp lá cà vào sát tường bên nhau, đâm nhau bên từng cái cột. Mấy anh Tây lõ bị dồn đến dưới bệ thờ tượng Chúa sát tường. Rồi tiếng súng im. Mọi người xúm quanh bên bệ thờ, không thấy bọn Tây đâu nữa.

- Có đường hầm! Phá cái bệ này đi! Anh em!

- Lục soát tìm lối đã!

Tiếng anh khác đáp lại. Và mọi người đều đưa mắt tìm kiếm. Có cửa ngách sau bệ. Mấy người ở trong tuồn ra một cái vườn con. Không thấy một thằng Tây, một người lạ nào, chỉ gặp đồng đội đã vây kín nhà thờ. đức Chúa thiêng đã cứu giúp chúng chăng? Không có lẽ. Cậu ấm Ba ra ngoài vườn lại trở vào hỏi mấy dân đạo còn sống sót:

- Tụi lõ biến đằng nào?

- Đức Chúa thánh thần đã cứu! Một tên nói.

- Sao Chúa không cứu chúng mày, cậu Ba tức tối hỏi. Chúng mày là người lương thiện bị mê hoặc mới đáng cứu. Chứ còn chúng nó là bọn dối trá, mượn cảnh Chúa để lừa người, âm mưu cướp nước, thí trẻ con ăn cứt gà! Sao lại cứu tụi nó! Biến lối nào nói mau! Không ông giết tất!

- Giết càng được lên thiên đàng, một tên nói.

Tức thì một tên lính cầm dao ngắn, tiện tay lúc đang bực giơ phạt luôn đầu tên kia rơi xuống. Cậu ấm Ba quát dũng sỹ trói luôn tên lính phạm pháp giết người đã hàng giải ra ngoài. Rồi cậu quay lại ôn tồn nói với dân đạo rằng:

- Đằng nào thì chúng tôi cũng tìm ra được. Cùng nữa chúng tôi sẽ phá bệ thờ, phá tượng Chúa đi, tất phải tòi hầm ra. Các anh là người mộ đạo mà lại ngu ngốc để người ta phá tượng Chúa ư! Rút cục vẫn không giữ được thân, giữ nổi Chúa và cha! Vậy nói mau lên, không Cờ đen họ vào bây giờ, ngôn ngữ bất đồng họ sẽ giết hết!

Một dũng sỹ giục thêm:

- Nói mau! Không chúng tao phá tượng!...

Mấy người kia vẫn lầm lì đứng im. Cậu Ba nghiêm nghị nói:

- Chúng tôi chỉ bắt những kẻ âm mưu cướp nước, chứ không bắt cha, không phá đạo. Các anh không nghe thì chúng tôi phải phá... để tìm bọn kẻ cướp!

Một người làm dấu rồi nhân đà chỉ tay lên tượng đức Mẹ. Cậu Ba chạy lên bệ thờ đến sau tượng, bên tượng bệ có một cái cửa gỗ tròn quét vôi cùng với màu tường. Đẩy cửa ra thấy một lối rỗng tối om. Cậu sai đốt hỏa ném vào trước. Rồi mấy người thắp đuốc nối nhau ùa vào, luồn qua một lúc thì đến mép bờ một cái lạch con, bên ngoài hàng rào, trên cánh đồng làng Tiên Thị. Không thấy một bóng người nào. Họ gọi dân ra tìm kiếm. Lính ở trong cùng phá hàng rào ra chia nhau đi lùng đuổi ở chung quanh Nhà chung. Hai toán quân liền được cử ngay đi đuổi theo hai phía đường hào: cậu ấm Ba dẫn một toán theo đường hào xuống phía Đồn Thủy. Một toán Sơn dũng đi theo một số dũng sỹ Nghĩa hội đuổi lên cửa thành. Vừa đuổi vừa đón chặn đánh quân cứu viện, néo vó. Quân Cờ đen đi vây khám khắp miền quanh Nhà chung.

Nhưng bọn Tây đã chạy thoát. Ra khỏi Nhà chung lần theo con ngòi dẫn nước, bọn chúng lừa lúc vắng vẻ, vùi súng ở đồng làng Tiên Thị, rồi chạy tất cả vào chùa Linh Quan. Bọn chúng cả thảy chín người: ba linh mục Pháp là cố Lan, cố Mỹ, cố Phước (Landais, Rival, Bertrand), một quan một và mấy thủy thủ tàu Phăng-pha (Fanfare) cùng với con mụ Be (Beire). Các cha và mụ Be cùng với mấy tên lính ra trước để tìm lối vào thành, nhưng bị nghẽn cả không đi thoát. Cố Lan và cố Mỹ ở đây lâu, quen biết nhiều, thuộc đường lối, đợi cho cả bọn ra cả ngoài đồng, liền dẫn cả bọn vào chùa gần đấy. Đêm nay đúng ngày lễ Phật đản, cổng chùa mở rộng. Nhưng đêm đã khuya. Các già đến lễ đã về cả. Trong chùa chỉ có mấy vị sư còn đang ngồi tụ tập trước bàn thiêu hương, nghe ngóng và bàn tán về tiếng súng nổ ở phía Nhà chung. Chợt cố Mỹ chạy vào trước hớt hải nói với sư tổ trụ trì:

- Bạch cụ, xin cụ mở lượng từ bi. Quân Cờ đen đánh phá giáo đường, xin sư cụ cứu mạng.

Các sư ngồi im lặng cả. Sư tổ đứng lên nói, hốt hoảng ái ngại:

- Mô Phật! Vào cả đây! Vào cả đây!

Rồi cụ nghiêm trang nhìn thẳng vào mặt từng người và bảo:

- Mấy anh có tóc này chạy nấp vào gầm bệ tượng Tam thế trong kia!

Cụ chỉ vào phía trong và sai một sư bác dẫn vào.

- ... Còn các ông trọc đầu đều có tràng hạt thì ngồi cả vào đây. Cả mụ kia nữa, cởi áo để thay áo khác.

Sư cụ sai sư bác đi lấy áo các sư cho mấy ông cố và gọi bà vãi đem váy áo lên cho mụ đầm. Khi mọi người mặc xong đâu vào đấy, sư cụ truyền các sư lại ngồi vào chiếu. Thẳng hàng cùng với những người mới đến, cử hành một khóa lễ nữa. Tiếng mõ cốc cốc đều đều, tiếng đọc kinh rì rầm, thỉnh thoảng vị sư bác chủ lễ ngồi ở trên cùng lại đưa tay ra mở trang quyển kinh đặt trên cái kỷ thấp soai soải ở trước mặt. Sư cụ bảo mấy người mới đến cứ chắp tay và lễ theo đúng nhịp như các sư. Không khí tĩnh mịch, lờ mờ, trầm lặng và trang nghiêm. Mấy tên lính Cờ đen đi lùng sục đến chùa, thấy cổng mở cứ lanh lẹn tiến vào sân. Trước quang cảnh tôn nghiêm, chúng liền dừng lại ngập ngừng. Cảnh trí yên tĩnh và thiêng liêng quá. Sư tổ già mặc áo cà sa vàng đang đi đi lại lại lặng lẽ ở bên ngoài chiếu lễ. Thêm mấy lính Cờ đen và mấy chú Sơn dũng nữa sồng sộc vào đến sân. Họ đều đứng dừng lại cả. Một người hỏi:

- Sao lễ khuya thế nhỉ?

- Hôm nay Bụt sinh Bụt đẻ. Một anh lính Sơn dũng đáp.

- À phải rồi! Một chú nữa nói. Thảo nào! Thôi A-di-đà-Phật.

Chúng ta đi ra thôi.

Chú quay ra kéo mấy anh lính Cờ đen và nói với họ.

- A-di-đà-Phật. Ngày Phật sinh. Cửa Phật từ bi. Ta chớ nhạo báng.

- A-di-đà-Phật! A-di-đà-Phật!

Cả bọn đồng thanh đọc ngân vang câu niệm Phật rồi quay gót trở ra. Sư tổ chắp tay lên ngang mặt, miệng đọc to câu “na-mô a di đà Phật” đủng đỉnh bước ra sân. Ở trong chùa, những tiếng “na-mô cứu khổ cứu nạn” được đọc ngân vang lên cùng một lượt như để tiễn tống mấy người khách lạ. Bọn này trở về Nhà chung cùng với quân lính ở đấy, sau khi lục khắp nơi không thấy bóng dáng bọn Tây đâu cả liền xếp tất cả đồ đạc tre gỗ, vật liệu, mọi thứ có thể chuyển được, ở ngoài vào trong nhà thờ, rồi phóng lửa đốt. Ngọn lửa bốc lên ở nhà thờ lan sang mấy cái nhà gạch và nhà lá sót lại! Ở chung quanh, ngọn lửa cháy to hơn trước vì có tre gỗ của cố Phước mua trữ để sửa soạn làm nhà thờ lớn. Ngọn lửa lên cao bốc sáng rầng rặng soi tỏ cả vùng Hồ Gươm như cây đình liệu ở trường thi trong những năm trước vậy. Nhưng bốn bề đều im lặng, quân địch không dám ra cứu. Dân chúng cũng không ai muốn đến chữa cháy. Thế là đám cháy cứ mặc sức tung hoành thui trụi cả khu Nhà chung thành một đống lửa đỏ ngòm chỉ còn trơ mấy bức tường gạch loang lổ. Những lính nấp ở đường hào đợi mãi không thấy gì, đều trở về. Cờ đen và Sơn dũng được lệnh rút quân ra, cậu ấm Ba thấy một mình bà con Nghĩa hội không thể tấn công được, đành cũng thu quân về. Cuộc chiến đấu kết thúc, ai nấy đều xuýt xoa lấy làm tiếc không bao vây rộng ra cánh đồng, để sổng mất bọn cáo già. Có ai ngờ đâu các cha cố ở Nhà chung đã được cứu thoát do lòng từ bi bác ai và kỵ sát sinh của sư cụ chùa Bà Đá, nhất là đêm hôm ấy lại đúng vào đêm Phật Đản.

° ° °

Vòng vây quanh thành Hà Nội đã xiết chặt dần.

Quân lính của giặc ở trong thành đang hoang mang lo sợ. Nhưng trái với lòng mong mỏi của mọi người, Thống đốc Hoàng Tá Viêm không muốn đánh thẳng vào thành, chỉ chuẩn bị sẵn sàng đón địch ra là đánh. Địch lại chỉ cố thủ không ra. Lưu Vĩnh Phúc phải viết giấy thách thức nhờ nghĩa dũng đem vào dán ở cổng thành và tìm cách đưa hẳn vào đến bọn chỉ huy khiêu khích Ri-vi-e. Lời khích nộ này có phần nào tác động đến tên tướng xâm lược hiếu thắng. Lúc này hắn đương bàn với bọn tướng lĩnh phải “nới bớt vòng vây cho không khí dễ thở một chút”. Pa-ri và Sài Gòn đã gửi thêm quân ra và cũng đồng ý cho hắn làm như vậy. Cho nên năm ngày sau khi Nhà chung bị đốt phá, hắn nhất định tự đem quân ra đánh Phủ Hoài, nơi có quân Cờ đen và quân Hoàng Tá Viêm đóng giữ. Hắn giữ bí mật kế hoạch hành quân, sáu giờ chiều ngày 16 tháng 5 tức 12 tháng 4 âm lịch mới phát rượu mạnh và thịt tươi cho lính. Ba giờ rưỡi sáng quân lính dậy ăn uống rất êm. Bốn giờ sáng bắt đầu lên đường. Hắn để lại hai trăm quân giữ đồn và thành, còn cho đi ra trận năm trăm năm mươi tên với ba đại bác dã chiến. Đi đầu là đại đội lính thủy đánh bộ do quan ba hải quân Săng-tít (M. Sentis) chỉ huy, giữa là bộ binh với súng đại bác do quan hai hải quân Pít-xe-rơ (Pitsère) chỉ huy. Sau cùng, hậu quân là một đội lính thủy đánh bộ khác. Tất cả đều theo sự chỉ huy của tên quan tư Vi-lê đi với đại quân ở chính giữa. Khí giới đầy đủ, mỗi cây súng có 100 viên đạn. Ri-vi-e ngồi xe ngựa kéo đi kèm bên. Đây là lần xuất quân đông đảo nhất từ khi đem quân đến đất này, nên ngồi trong xe, nhìn theo đoàn quân đi cuồn cuộn như dòng thác, hắn lấy làm khoái chí nói với tên quan hầu rằng:

- Quân nhiều và hàng ngũ nghiêm chỉnh thế này, súng đạn đầy đủ, nhất định ta phải thắng bọn quân ô hợp kia!

Tất cả đoàn quân hùng dũng theo đường Sơn Tây tiến lên phía phủ Hoài tưởng sẽ giữ được thế chủ động đánh úp quân ta trong lúc bất ngờ. Nhưng do nguồn tin của thông Lộc được Nghĩa hội đưa ra, quân dân ta đã sẵn sàng đối phó. Quân ta vội rút khỏi những làng ven đường để làm kiêu thêm lòng quân địch. Tiền quân của chúng chia nhau đi rẽ vào lục lọi các thôn xóm không thấy gì vội tiến mau lên Cầu Giấy tranh giữ lấy cầu. Tiền quân giặc vừa qua khỏi cầu thì súng phục kích của ta nổ lên cách địch chỉ độ ba mươi mét, quét một lượt chết nhiều địch ngay phút đầu. Biết lỡ bước rồi, địch vội bắn đại bác yểm hộ cho quân cố vượt qua cầu, liều chết chiếm trận địa ở trên con đường lớn trên sông Tô, bên làng Hạ Yên quyết. Trên đường đê, chúng dàn đại bác về phía Cầu Giấy bắn qua cầu. Đoàn quân của Săng-tít xông vào Hạ Yên quyết vào bao vây làng này. Một toán đánh vào thôn Dịch Vọng tiền trung quân địch cũng vừa đến nơi. Vi-lê và Ri-vi-e cùng tiến qua cầu đốc thúc quân đánh vào thôn Dịch Vọng trung, nơi đang có súng trường và liên thanh của ta bắn ra tiếp ứng cho Hạ Yên quyết ở đây có lũy tre dầy, có đường hào, quân ta ở trong bắn ra địch không thể nào vào được, hễ tiến đến gần là bị bắn rát, bị thương vong phải tháo lùi. Vi-lê và Ri-vi-e đều bị đạn chết ngay tại trận ở đây. Hai bên bắt đầu hỗn chiến. Bên quân Cờ đen, Tuyên úy cánh tả là Dương Trứ Ân từ Dịch Vọng tiến ra bị đạn chết; Tuyên úy cánh hữu Ngô Phượng Điển lại cũng bị thương phải cõng chạy vào thôn Trung. Thình lình Lãnh binh Lưu Vĩnh Phúc và Tuyên úy Hoàng Thủ Trung xông ra trận, điều ngay cánh tả đánh vào sườn bên phải của địch. Địch chết rất nhiều, bị chặn đứng tại đấy. Địch bắn liên thanh tới tấp đến để bảo vệ sườn bên phải nhưng không ngăn nổi quân của Lưu Vĩnh Phúc. Núng thế, giặc Pháp hối hả cho đi gọi cánh sườn bên trái đang đánh ở thôn Trung ra, sợ bọn này lại bị bao vây. Tất cả đều dồn ra phía cầu. Một toán quân vất vả lắm mới vượt được qua cầu núp sau để bắn yểm hộ cho đại quân của chúng rút qua cầu. Ta liền thổi còi thét xung phong, đánh hăng cả ba mặt bắn xả vào đạo quân của địch dồn chật trên cầu, đang chen lấn nhau chạy thục mạng. Chúng bỏ cả đại bác lại. Bọn võ quan phải xúm lại mà kéo lấy đại bác. Chúng hốt hoảng bỏ chạy không kịp mang theo những người bị thương và tử trận. Nhưng tên chỉ huy sống sót sợ có phục kích ở hai bên đường liền tách một toán quân chạy mau rẽ sang phía đê La Thành cũ, nơi Gác-nhi-ê đã bị chết cách mười năm trước đây, để giữ thế thủ, mở một hỏa tiến thứ hai bắn che chở cho đại quân của chúng hớt hải hỏa tốc chạy về thành.

Quân triều đình đã thắng trận, không truy kích nữa. Chỉ có quân Nghĩa hội trở về chạy ùa vào các làng ven đường giục tuần tráng trong làng đem gạch đá ra ném đuổi những tàn quân chạy qua, làm cho quân địch càng hoảng sợ tán loạn, bị thương thêm một lượt nữa.

Trận này quân dân ta thắng lớn. Giặc Pháp bỏ lại năm sỹ quan chết, 28 lính tử trận và 45 lính bị thương nặng. Hai tên tổng chỉ huy Ri-vi-e và Vi-lê đều phải gửi xác lại ở đầu làng Dịch Vọng và nộp đầu cho quân triều đình. Còn sáu sỹ quan bị thương cùng rất nhiều lính bị thương nhẹ phải khiêng tải về Hà Nội càng làm cho quân lính giặc ở nhà hoang mang lo sợ thêm.

Mọi người đều mong mỏi, ai nấy đều sẵn sàng, cậu ấm Ba lại trở thành con thoi cần thiết... đi thúc giục hành động cho kịp với cái thế thiên thời địa lợi nhân hòa đang có lợi cho ta.

Nhưng cái thế đi nhanh mà đoàn quân vẫn chưa thấy tiến vào như vũ như bão. Bà con cứ phải nóng ruột mong chờ. Chờ mãi, đùng một cái trở tay không kịp! Cái thế đã mất, bàn cờ đã thay: vua Tự Đức chết ngày 16 tháng 6 (17-7-1883) và triều đình ký hòa ước nhận sự bảo hộ của nước Pháp, ngày 23 tháng 7 năm Quý Mùi (25-8-1883). Và đi trước cả hòa ước, ngày 11-8-1883, Bôn-nan đã đến làm Chánh công sứ tỉnh Hà Nội.

--------------------------------

1

Càng già càng khỏe.

2

Tiểu đăng khoa: lấy vợ − Đại đăng khoa: thi đỗ.

3

Giữ gìn, làm theo những điều chính thôi, không nên câu nệ.

4

Đêm cuối năm.

5

Ngăn giữ được một ít lâu.

6

Án làm loạn chống lại triều đình.

7

Chết.

8

Quân Lưu Vĩnh Phúc.

9

Án liên quan đến giặc.

10

Sức có một mình thế thì cô lập.

11

Việc lớn không cần chú ý đến điều nhỏ nhặt.

Chương IV

Một buổi sáng tháng tám giữa thu đẹp giời gió mát thổi lồng lộng từ ngoài sông Hồng qua sông Tô, quạt vào chợ Đồng Xuân mát rợi, lật tung những tà áo tứ thân của các bà các cô đi chợ. Phiên chợ Đồng Xuân hôm nay đã đông hơn mấy tháng trước nhiều vì phố phường dạo này đã nhan nhản những người qua lại đông đúc, không vắng tanh vắng ngắt như trước nữa. Các gia đình chạy loạn đã lục tục về. Nhất là từ khi hòa ước Pháp Nam “giao hảo” được công bố và niêm yết ở khắp nơi, các quan tỉnh cử những vị công sai đi xuống từng làng hiểu dụ, dân các xã ven quanh đô thành và xa một tí, cũng đã qua lại thăm phố phường nhiều hơn và đã tự ý nhớ ngày phiên đem sản vật đến chợ trao đổi mua bán thức dùng. Cho nên phiên chợ hôm nay có lẽ là phiên đông nhất từ sau hồi loạn và sẽ mở đầu cho những phiên sau đông hơn như quan Hộ đốc Nguyễn Hữu Độ mong mỏi cho cuộc sống ở đô thị mau trở lại bình thường. Chợ đương đông. Người các nơi vẫn tiếp tục đến. Bến Hà Thanh cũng tới tấp thêm nhiều thuyền nan, thuyền thúng. Chợ đang náo nhiệt đông vui, bỗng có tiếng ồn ào nổi lên ở dãy hàng gà. Mọi người đổ xô đến. Đám người xúm đông nghẽn cả lối đi. Những tiếng hỏi đáp nhanh gọn vọng ra: − Gì vậy? Con mẹ đội Chóp - Sao? - Thôi đừng dây với tinh. Nó như con trâu lấm bùn, nó vẩy vung lên.

- Ừ, vẩy phải ai nấy thiệt.

Có người lách vào. Cũng có người lảng ra, không muốn dây với tinh thật! Không muốn nhìn đến mặt con đĩ theo Tây. Nhưng một tiếng quát lớn đã giữ mọi người ở lại:

- Nó láo à! Đánh trói nó lại!

Lại có tiếng người khác quát theo:

- Nó cậy thế Tây khinh nhờn cả vua cha à?

Anh Thạch thôn Yên Trường vừa đến nơi vội lách vào hẳn tận chỗ và hỏi giật:

- Cái gì thế?

- Con mẹ Đội Chóp ăn mặc điều đỏ đi chợ, bảo nó, nó còn nói láo.

- Thì cứ trói nó lại giải đến nơi phải trái.

Anh vừa nói vừa chen vào hẳn tận nơi. Một cảnh tượng lố nhăng đặc biệt đập ngay vào mắt anh: Một mụ búi tóc cài trâm bạc, mặc áo đầm xòe sặc sỡ với cái váy màu hồng lòa xòa, hai cô con gái độ ngoài hai mươi tuổi, áo tứ thân đổi vai sang sợi, quần lĩnh chấm gót với cái cạp điều cao đến tấc rưỡi, tất cả quần áo lòe loẹt ấy đã bị xé dọc ngược lên, bay lỏa tỏa như những dải cờ Ngũ hành, ba người phải ngồi thu hình cho khỏi lõa lồ.

- Đánh à? Sao đánh người ta thế? Giải đi chứ! Anh Thạch nói.

- Chúng nó nói láo thì xé cho một mẻ cho biết tay. Chứ không thèm đánh!

Một người đáp. Một người nữa thêm:

- Đang lúc cấm điều đỏ này mà ăn mặc thế. Bảo nó, nó lại cậy có thế Tây.

- Ấy thế mới giải nó đi chứ. Đứng nhìn nhau ở đây, đợi Tây nó đến cướp đi vô tang à. Anh Thạch nói với vẻ thông thạo. Để tôi giải đi cho.

- Quản thị 1 sợ lảng rồi. Họ không dám xét đâu. Một người nói.

- Được bà con giúp tôi một tay thêm ba bốn anh em vào đây áp giải đi. Tôi dẫn trình cụ Cai tổng Đồng Xuân!

Thế là đến chục người trai tráng đổ xô cả vào giơ đòn gánh lên tua tủa, đòi cùng đi áp giải. Một cụ già nói:

- Phải trói ba đứa vào một dây, không nó chạy mất! Tội bất kính với vua đáng lăng trì 2 ấy chứ trói mà thôi à?

Mọi người làm theo lời cụ, lấy thừng trói nối tay ba người cùng một dây, dòng đi theo anh Thạch. Anh dẫn cả đoàn đến đình Vĩnh Trù, báo tuần ra canh giữ ở ngoài, không cho người lạ vào, rồi anh thân chạy vào thôn Huyền Đại tìm cụ Bá Thìn, Cai tổng Đồng Xuân, cụ Bá Thìn vốn ghét Tây, nhưng nhút nhát, ra đến nơi thấy vụ này có dính dáng đến Tây, chần chừ, không muốn làm biên bản, may gặp ngay cậu ấm Ba Tự Tháp, hay tin cũng từ Yên Ninh chạy sang, vừa đến nơi, bảo nên giải đi ngay, cụ mới chịu đứng ra chứng nhận. Hơn nữa mụ Đội Chóp không chịu khai tên thật, còn có vẻ ỷ vào bọn Tây, động chạm đến lòng công phẫn của cụ, càng làm cho cụ thêm cương quyết, nên đơn dẫn trình được viết ngay, gọn và đanh thép, khác với tính tình nước đôi do dự ngày thường.

Cụ đọc to tờ biên bản rồi bảo những người áp giải ghi rõ tên tuổi quê quán vào đấy và cùng ký tên vào. Khi mọi người đã ghi tên ký hoặc điểm chỉ xong, cụ Bá cầm lên đọc vui vẻ nói:

- Đủ cả dân bốn tổng, lại có cả người Bắc Ninh, Hưng Yên nữa kia đấy. Tốt quá.

Anh Thạch cười vui vẻ, nói nửa đùa nửa thật:

- Thưa cụ chúng cháu góp đủ mặt tứ chiếng như con ruồi đỗ nặng đầu cân để cụ khỏi ngại.

Cụ Bá nói:

- Tôi chả ngại. Nhưng lúc đầu tôi không muốn dây... Giờ thì Trương tuần Vĩnh Trù đi với các cậu này giải ngay bọn này xuống huyện nha giao cho cụ Đề hoặc cụ Trợ, rồi mang chữ ký nhận về cho tôi. Thôi đi đi!

Quay sang bọn can phạm, cụ bảo mụ Đội Chóp:

- Tôi không có quyền tha và cũng không muốn tha chị. Chị về huyện đem Tây ra mà nạt quan huyện xứ Nghệ.

Đội Chóp nói gặn:

- Rồi chúng bay sẽ biết! Cụ Thượng chúng bay còn đến cửa tao kia.

- Im cái mồm! Bốp! Bốp! Anh Thạch quát, tát luôn hai tát vào má Đội Chóp, rồi giục: − Đi!

Cả đoàn tức tốc đi một mạch đến huyện vừa gặp ngay Bá Kim ở đấy. Trương tuần Vĩnh Trù đưa trình giấy giao can phạm lấy giấy ký nhận, rồi cả bọn kéo ra về, mới hay rằng chợ đã tan ngay từ sau khi bọn này giải mụ Đội Chóp đến đình Vĩnh Trù. Người nọ truyền tin cho người kia, vui mừng phấn khởi có, nhưng rồi ai nấy lại nghĩ ngay đến bọn lính Tây có thể đến đánh tháo cho tụi con gái kia, mà gây ra cướp chợ chăng. Cho nên, tự nhiên có người thốt lên:

- Coi chừng. Tây nó ra đấy!

Rồi những tin phao đồn đi. Loáng một cái, chợ vãn người dần, rồi tan hẳn, mới cuối giờ Thìn, chợ đã lại vắng ngắt. Và những người đi chợ về đã mang theo tin mụ Chóp bị tuần đinh bắt giải đi với đủ mọi vẻ thêm thắt hoang đường. Và mọi người vô sự ngồi rỗi đang đoán già đoán non mọi việc sẽ xảy ra. Cho nên khi cậu ấm Ba từ Vĩnh Trù về đến nhà ông cử Kim Cổ, đem việc ông bá Đồng Xuân làm đơn áp giải mụ Đội lên huyện kể cho ông Cử nghe, thì ông Cử hỏi ngay:

- Cậu có biết ai bắt giải con mụ Đội?

Và không để cậu kịp trả lời, ông nói tiếp luôn:

- Thật là dở toen toét! Dây làm chi với tinh cơ chứ! Quân bất đẳng ấy có ra gì! Bắt bớ làm chi kia chứ. Để rồi Tây nó bênh, nó trả thù lại khổ dân thôi! Dân lại thêm oán!

- Oán Tây chứ oán mình à! Cậu ấm cãi. Đệ thiết nghĩ, nó phạm pháp vua không bắt, thì cứ để nó ỉa lên đầu lên cổ cũng chịu à?

Ông Cử ôn tồn giảng giải:

- Đành rằng thế! Nhưng con mụ Chóp không phải giống người, nó nanh ác chỉ biết cậy quyền ỷ thế làm càn, nó có sợ ai, còn các quan ta thì... thì sợ Tây nên đều ôm chân nâng váy nó cả, cậu không biết à?

- Đệ biết nó từ lâu kia, bác ạ, đệ biết nó quê ở dưới Hải Dương lên đây vào làm phu ở trường Tây, rồi lấy thằng Đội Tây, được lão Kê-la-đích tin, nên sau khi Tây lấy thành Hà Nội, các quan tỉnh ở đây đều phải kiêng nể nó.

- Ấy đấy, thế thì bắt nó làm gì. Ông Cử nói, đọc luôn một bài thơ của ông bạn Ba Giai...

Rồi nói tiếp:

- Đấy cậu thấy không? Quan Khâm mạng nhất phẩm triều đình là quan Tổng đốc Trần Đình Túc còn phải vâng vâng dạ dạ nó, thì tôi cho là trị được nó khó lắm. Tróc nhân dị phóng nhân nan 3 tha nó bây giờ khó chứ chả dễ đâu.

- Cứ nghĩ vạn toàn như tôn huynh thế thành ra chẳng dám làm gì cả, cứ để cho Tây nó lấn, cho quan bắt nạt mãi à. Đây dân chợ họ bắt, rồi ông bá Đồng Xuân làm đơn giải trình, tội trạng rõ ràng, nếu quan tha, thì dân càng rõ quan là đầy tớ Tây, càng lợi cho công việc mộ nghĩa đánh Tây chứ sao. Đệ chỉ sợ họ không thả bọn ấy ra mới là khó nói cho mình sau này.

Ông Cử ngồi ngẫm nghĩ một lúc, nghe cũng xuôi xuôi, gật gù nói:

- Tôi tưởng cậu có dúng tay vào việc này thì nên liệu liệu cách nói với Bá Kim thế nào để đỡ sinh ra tai vạ cho dân. Hóa ra là người ngoài bắt, ra tự dân, người ta tức, người ta bắt.

- Đấy tôn huynh xem, cậu ấm nói, lòng dân căm tức tụi giặc cướp và bọn theo giặc như thế, mà mình không trị, chả hóa ra mình cũng là kẻ theo giặc à? Cho nên đệ lo bọn họ mà không thả chúng nó ra thì bất lợi cho mình.

- Nhưng làm việc gì cũng cần trông trước nghĩ sau, ông Cử nói, cậu đã không dự vào việc ấy song cũng cần nghĩ đến cách đối phó hộ dân, nếu chúng nó trả thù.

Hai người đang nói chuyện, chợt ở ngoài có một ông khách bước vào sân. Hai người dừng chuyện đón khách. Ông tú Yên Thái phe phẩy cái quạt, cúi chào hai người vừa bước vào nhà vừa nói:

- Khá thật! Lão thương Cựu Lân thế mà khá. Ông ta không thả con Đội Chóp.

Ông Cử vội hỏi:

- Sao? Ông huyện đi vắng? Ông Thương không tha?

Ông Tú ngồi xuống ghế, thuật lại rõ thêm:

- Vừa vào huyện, tôi thấy cha Nghiêm bên Nhà chung đã ở đấy, đem lời cố Phước đến nói với ông Thương xin tha cho con mẹ Chóp. Ông Thương không tha, ông ấy bảo việc này phải có lệnh của cụ thượng, ông ấy mới dám thả. Tay làm việc quan lắm lý sự thật. Hơn cánh nhà nho mình, có khi chỉ cuống lên với Tây, còn đánh chác gì kia chứ.

Ông Cử cười bảo bạn:

- Cậu ấm cậu ấy đang lo các quan ta không thả nó đấy.

- Nói lạ! Ông Tú quay sang hỏi cậu ấm. Thế cậu có nhận ông bá Đồng Xuân bắt giải nó là phải không?

- Thưa tôn huynh, bắt nó là phải, cậu ấm nói, lúc ấy, đệ cũng có mặt ở đấy.

- Thế sao cậu lại mong cho nó được tha? Bắt cũng phải mà tha cũng phải, có họa là ba phải.

- Kể thì lẩn thẩn thật đấy. Nhưng chính là như thế. Cậu ấm nói có vẻ phân trần. Nó phạm pháp mà không bắt thì ra thể thống gì nữa. Nhưng các quan mình mà trị tội nó, không tha nó, thì lại hóa ra các quan mình có thực quyền. Tây cũng phải sợ, mọi người sẽ lầm tưởng là Tây nó tôn trọng mình, không lấn cướp nước mình. Công việc đánh Tây đã xẹp, vì thế lại càng khó khăn thêm.

Ông Cử nói như để dàn hòa:

- Cuộc đời oái oăm thật, trong lúc quốc gia đa sự này, phải biết khôn khéo quyền biến mới được. Không khéo thì bản tâm muốn làm lợi cho nước hóa ra hại nước.

Cậu ấm nói vội:

- Ấy cứ đắn đo thận trọng quá như tôn huynh rồi thành ra thấp cơ thua trí chúng nó cả. Các tôn huynh cứ hay ngăn cản bọn đệ.

Trong khi ấy ở bên nha huyện Thọ Xương, Thương biện huyện vụ nhận được đơn áp giải can phạm, liền đúng lúc cha Nghiêm bên Nhà chung sang xin tha cho chúng. Song lão nghĩ vụ này đã có đủ giấy tờ chứng cớ và Lãnh sự Kê-la-đích không còn ở đây, không có kẻ trực tiếp bênh vực nữa, lão không tha và bảo cha Nghiêm sang bên quan Thượng mà xin, rồi lão quay trở vào, nói với viên đề lại đang đứng đợi lệnh:

- Bác cứ tạm giam chúng nó lại đấy. Việc này là hệ trọng để tôi sang trình với cụ lớn xem sao. Kim chỉ có đầu. Vả bây giờ cụ lớn ở liền ngay đây, tội gì mà không hỏi ngay, có sao, cũng đỡ tội vào mình.

Thương Kim dặn đề lại trông coi huyện nha rồi cầm tờ đơn thân đi sang dinh Đốc bộ, qua phố huyện ra khỏi làng Tiên Thị, thoắt đã tới nơi. Vì dinh thự của quan Tổng đốc hiện ở đầu làng Chân Cầm, cùng trong tổng Thuận Mỹ huyện Thọ Xương gần ngay huyện lỵ và thẳng đường lên phố Hàng Gai. Vì sau khi Ri-vi-e đền tội ở Cầu Giấy, kẻ thay quyền chỉ huy là tên Thiếu tướng Bu-ê, đem thêm nhiều quân đến Hà Nội. Ngày 15-8-1883, hắn chiếm giữ hẳn thành, đuổi các quan chức ở Hà Nội ra ở ngoại thành và sau trận tiến quân đánh báo thù bị thua ở làng Vòng ngày 16 tháng 8, hắn bắt các quan tỉnh Hà Nội phải rời công sở lên đóng ở phủ Hoài (thuộc địa phận làng Vòng). Ngày 20 tháng 8, cửa bể Thuận An bị quân của tướng thủy quân Cuốc-bê đánh chiếm, triều đình Huế đang rối ren từ khi Tự Đức chết (các quan thụ chính bỏ Hiệp Hòa, lập Phúc Kiến, đám tang của Tự Đức chưa cử hành), liền xin đầu hàng. Toàn quyền A-măng cùng với Cuốc-bê vào kinh buộc triều đình phải ký hòa ước 27 khoản, nhận quyền bảo hộ của giặc Pháp. Hòa ước do Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp ký ngày 25-8-1883 tức ngày 23-7 Quý Mùi. Theo hòa ước này, mỗi tỉnh có một quan cai trị Pháp đóng lưu trú để làm cố vấn, kiểm soát công việc hành chính. Hòa ước vừa ký xong chẳng cần đợi hai bên Chính phủ phê chuẩn, giặc Pháp đã bỏ Lãnh sự quán, thăng Kê-la-đích đi nơi khác và cử ngay Bôn-nan đến làm quan lưu trú đầu tiên ở tỉnh Hà Nội, đóng tại một nhà dân trước đình đức Thánh Tản, làm trụ sở công khai. Bôn-nan đến đây từ trước thay Kê-la-đích làm công việc Lãnh sự, nay bỏ tòa Lãnh sự, nhưng sự hoạt động vẫn thế, chỉ thu nhỏ vào trong một tỉnh, nên vẫn được coi như Lãnh sự và gọi theo âm consul thành Công sứ để phân biệt với Lãnh sự trước. Do đấy Bôn-nan mở đầu cho việc dùng tiếng Công sứ. Và cũng do đấy dinh thự Đốc bộ cũng được dọn về đình Chân Cầm để hai bên ở gần nhau dễ thương thuyết bàn bạc. Rồi chỉ trong chưa đầy một tháng, các dãy nhà tơ tào ở hai bên, và trại lính tùy tùng đã làm xong cả, một bờ rào tre chéo cánh sẻ vây kín xung quanh. Bên ngoài hàng rào là cái cổng gạch mới xây quét vôi trắng toát, trên là chòi canh trông ra tứ phía. Trong cổng, một người lính đội nón lá chóp đồng, mặc áo cánh chẽn thắt đai da, đeo bao đạn, bồng cây súng trường bên vai canh lối ra vào. Thương Kim là quan chức sở tại đi lại nhiều lần, mọi lính canh đều quen mặt, nên đi vào tự nhiên, không bị hỏi han lôi thôi. Lão rẽ sang nhà tào nhờ viên Kinh lịch đưa tờ áp giải vào trình quan Thượng. Nguyễn Hữu Độ đang ngồi ở phòng khách trong công đường tiếp một người bên tòa Công sứ, liền chạy ra hồ gọi với xuống:

- Thầy Trợ Thọ vào đây!

Thương Kim vội bước lên hè, vừa kịp chắp tay lạy chào, đã bị hỏi ngay:

- Thầy không giải can phạm sang à?

- Bẩm cụ lớn ngay gần đây, nên con hẵng tạm giam ở bên huyện. Thương Kim trả lời. Vả bên Nhà chung cha Nghiêm có sang xin tha cho chúng, con không dám mạn phép, nên cứ giam đấy để đợi lệnh cụ lớn. Vì thế con thiết nghĩ chưa tiện giải ngay chúng nó sang đây.

Hữu Độ đi vào phòng khách vừa hỏi:

- Ý thầy nghĩ thế nào? Hay thầy muốn tránh tiếng với họ mà quy cả quyền hành ở tôi!

Bị hỏi vặn bất ngờ, Thương biện huyện Thọ không hề lúng túng, cứ thẳng trả lời theo ý nghĩ:

- Dạ! Bẩm cụ lớn không phải thế ạ! Chứng cớ rành rành quá, con nghĩ không nên tha, tha cho chúng tức là phạm điều cấm của triều đình, ta còn bảo được ai nữa. Và bẩm cụ lớn, con mụ Đội Chóp có phải là Tây đâu. Mà quan Chánh công sứ bây giờ lại là người mới... Mình tha, là mình tự giảm quyền mình, họ lại cười cho...

- Vâng, bẩm cụ lớn không tha là phải, không nên tha.

Tiếng người khách ngồi khuất sau cái cột nói ngắt lời Thương Kim, khiến lão quay lại nhìn, nhận ra người quen khẽ cúi chào, nói nhỏ:

- Kính chào thầy bát Đông Thành.

Bỗng lão vụt nghĩ: “À tay lang thuốc này khôn thật, giờ đắc thời đắc vị hơn cả bọn Tú Tích cùng làng. Thế mà từ trước mình vẫn coi thường”... Nguyễn Hữu Độ lại hỏi ngắt đứt luồng suy nghĩ của lão:

- Thầy Bát cũng nghĩ như Trợ Thọ à? Thầy thấy bên tòa Công sứ họ sẽ coi vụ án này như thế nào? Người khách tức Bát phẩm ở làng Đông Thành đáp:

- Bẩm cụ lớn theo ý con, vụ này không có liên can gì đến Tây cả, họ sẽ mặc kệ mình. Bẩm cụ lớn, con xin về bên ấy nói rõ sự thể với các quan Tham biện, quan Đốc phủ để nói thẳng lên với cụ lớn Bôn-nan.

- Thầy nên nói ngay.

- Bẩm cụ lớn vâng, nó xúc phạm đến vua quan mà để yên thì còn ra thể thống gì nữa. Tây nó cũng phải giữ thể diện cho các quan ta chứ. Cho nên con xin cụ lớn cứ xử trí chúng nó theo pháp luật của triều đình.

Thương Kim hỏi ngay:

- Không những không tha, mà còn trừng trị theo luật phạm cấm? Nhưng bẩm cụ lớn, bên Nhà chung họ cố tình xin tha cho chúng nó thì sao?

Bát phẩm Đông Thành nói ngay:

- Bẩm cụ lớn, họ có xin hộ, thì cho chúng nó được giảm đẳng là tốt lắm rồi. Cần nói cho họ rõ thế. Và hạ chức chúng con xin hết sức nói cho họ hiểu ra.

Nguyễn Hữu Độ gật đầu khen phải và vui vẻ nói:

- Được, ta cũng nhân dịp này làm cho dân chúng biết đến uy quyền của các quan chứ, bấy lâu họ chỉ biết có Tây. Vậy thầy Bát về trình bày rõ cho bên tòa sứ biết, còn thầy Trợ về cứ cho áp giải bọn chúng nó sang đây tôi cho gọi quan Án đến định tội.

Hai người khách đều chắp tay lạy chào Nguyễn Hữu Độ, lui ra. Đi khỏi công đường rẽ xuống dãy nhà ngang, người khách khen Bá Kim:

- Cụ Trợ giỏi thật, không nể cha và cũng không sợ kẻ bất đẳng! Không tha bọn nó là đúng. Nhưng cũng phải là tay cứng.

Bá Kim nói nhún:

- Chứng cớ rành rành, chúng khẩu đồng từ 4 , quan huyện đi vắng tôi lại chỉ biết thừa hành. Tôi đâu có được quyền...

Lão ngừng một lát đi lướt nhanh qua dãy nhà ngang, nói khẽ:

- Tôi chỉ hơi lạ, quan Bát mà cũng xin trị mụ Chóp!

Ông Bát kia thấy lời nói có vẻ soi mói, liền chống chế:

- Việc quan thẳng tắp như mực Tàu, phép nước không thân. Vị nể tình riêng là những kẻ chỉ mưu tư lợi, không nghĩ gì đến dân đến nước. Ở gần Tây mình phải làm sao cho họ phục nước mình chứ.

Bá Kim cười vui, nói như tán đế vào:

- Vâng, quan lớn có lòng nghĩ đến nước thế thì phúc cho dân quá. Thảo nào thầy bói Thịnh chả bảo vận quan lớn còn là hoạnh phát tợn.

Ông Bát đứng phắt lại quay mặt nhìn thẳng vào Bá Kim, hỏi:

- Nó nói với cụ thế à? Cái thằng mù ấy chỉ được cái ba hoa nói láo, để phải trị cho nó một mẻ mới được!

Và vì đã đến cổng rồi, ông ta trở lại niềm nở chào:

- Thôi, chào cụ về nhá. Tôi cũng vội về bên tòa trình lên quan Công sứ rõ sự thể.

- Vâng kính chào quan lớn về nhà.

Bá Kim vái chào người khách và đứng lại bên ngoài hàng rào vái nhìn theo hắn đang thoăn thoắt đi lên phía Hàng Gai, tự nhủ:

- Mày mà dọa được ông à? Ông mà luồn lọt theo cái ngữ mày, thì bây giờ ông ngồi ngang hàng với cụ thượng. Ông không thèm làm thế nghĩ còn để đức cho con...

Trông theo cái dáng đi có vẻ dương dương tự đắc kia, lão chợt nhớ đến mới năm nào, hắn còn là cái anh hàng thuốc quèn ở chợ cửa Đông. Anh ta là Vũ Văn Hoạt, người thôn Đông Thành tổng Thuận Mỹ này, có học đòi nghiên bút đi thi mấy khoa không vào lọt nhất trường, quay sang học thuốc, làm thầy lang bán hoàn tán ở chợ, không ăn thua gì mấy, anh ta kiêm cả buôn gà, do đấy người ta quen gọi là Lang Gà. Bọn Pháp đến chiếm đóng khu Đồn Thủy, anh ta đem gà vào bán ở trường Tây rồi đi lại quen thân với mụ Đội Chóp, nhờ mụ cho buôn bán với Tây kiếm được nhiều lời trở nên giàu có. Khi Pháp đánh chiếm Hà Nội, Trần Đình Túc, Nguyễn Hữu Độ ra nhận chức cần người đi lại đưa tin giữa các quan ta và quân đội Pháp, mụ Đội Chóp tiến cử lang Hoạt, Nguyễn Hữu Độ dùng và phong thưởng cho sắc Bát phẩm văn giai, dân chúng gọi hắn là Bát Gà. Đến nay, thi hành hòa ước mới ký tháng trước, tòa Công sứ Hà Nội đã thiết lập, Bát Gà được cử sang giúp việc từ hàn 5 và làm con thoi liên lạc giữa quan Tổng đốc với bên tòa sứ. Hắn tự coi mình là một tay quan trọng và giờ đây, vớ được vụ này, hắn muốn giật dây thị uy nạt kẻ đã làm ơn cho mình để nâng thêm tiếng tăm cho quan chức Nam triều mà hắn cũng mới được dự phần. Bá Kim từ trước vốn khinh thường hắn, biết rõ tâm địa hắn, giờ lại biết thêm dụng ý của hắn, lão càng không ưa, nên lời khen trên kia, lão thực bụng thốt ra và thực bụng lão không thấy sợ gã lang thuốc quay quắt ấy. Lão đứng nhìn xem gã kia đi khuất mới đủng đỉnh đi về bên nhà.

Đội Diệu thấy bọn Đội Chóp bị giải sang dinh Đốc bộ đợi làm án, liền vội chạy vào Nhà chung van xin cố Phước đi bắt các quan Nam phải thả bọn chúng ra. Cố Phước thấy cha Nghiêm vào huyện không được việc gì, án tại hồ sơ mà lại không bưng bít bỏ đi được, để phải chuyển lên trên, mọi việc vỡ vung ra, khó bề bắt dập im đi. Vả đường đường một viêm giám đứng đầu cả giáo hội thừa sai ở Bắc kỳ, có rất nhiều công trạng lớn với nhà nước Đại Pháp mà lại tự hạ sang nói với một anh quan Tổng đốc tỉnh về một sự nhỏ mọn, đâu có đáng công xứng vị. Nên lão chần chừ mãi. Cuối cùng do Đội Diệu kêu nài, lão mới quyết định sang tòa sứ yêu cầu Bôn-nan ra lệnh cho các quan Hà Nội thả bọn can phạm. Lão sai đánh cái xe kiểu ma-la-ba Ấn Độ ra, cái xe bốn bánh gỗ thấp, bành vuông như một cái ghế tựa hai tay vịn xòe như hai tay ngai. Lão ngồi lên xe, tự cầm dây cương lấy, cho ngựa lọc cọc kéo xe vòng qua bờ Hồ Gươm, qua làng Bảo Khánh rẽ vào Hàng Gai ung dung bệ vệ như đi chơi mát. Đến trước cửa nhà Bôn-nan, cố Phước dừng xe ở cổng đình đức Thánh Tản, lanh lẹn bước xuống đường đi rẽ thẳng vào nhà. Hai tên lính Tây canh ở trước cửa, đứng nghiêm bồng súng lên ngang ngực đón chào. Lão giơ tay đáp lễ, rồi bước lên bậc hè. Bôn-nan đã bước ra hẳn ngoài hè vồn vã chào hỏi. Cố Phước giơ tay cho Bôn-nan hôn nhẫn, rồi bắt tay Bôn-nan dắt vào nhà. Bôn-nan mời lão đến phòng khách ở gian giữa, mời lão ngồi lên cái ghế bành gỗ, còn hắn ngồi ở chiếc ghế đối diện hầu chuyện. Cố Phước hỏi qua về tình hình tổ chức trong tòa sứ, về cách thức giao thiệp với quan chức An Nam, với bọn Khách trú, về sự xếp đặt cai trị sau này, sau cùng dẫn đến việc xin tha cho bọn mụ Đội Chóp. Bôn-nan ứng đối rất lễ phép, trình bày rõ công việc đối xử hàng ngày và hướng tiến rộng nay mai lên đức cha soi xét và luôn luôn ca ngợi công ơn đức cha đã ban giúp cho quan quân nước Đại Pháp. Nhưng đến việc Đội Chóp, Bôn-nan đang nói thao thao bất tuyệt tán dương đức cha, bỗng ngừng lại suy nghĩ một lát, rồi mới lựa lời từ chối một cách khéo, nói rất chậm chạp:

- Thưa đức cha, con thiết tưởng việc này là việc riêng của người An Nam. Con có biết từ hôm qua. Nhưng con thấy quan An Nam phải có quyền với dân An Nam. Vả lại điều quan trọng nhất là những người An Nam ấy và cái pháp luật An Nam ấy không có liên can gì đến người Pháp của chúng ta và không có hại gì đến uy tín chúng ta cả...

Cố Phước lắc đầu cười xòa, xòe năm ngón tay luồn qua râu vuốt rẽ tỏa ra như một cử chỉ tỏ ý bác bỏ, rồi thong thả nói:

- Quan Công sứ lưu trú nghĩ nhầm rồi, quan ngài ạ, quan là người thay mặt nước Cộng hòa Đại Pháp thường trú ở đây, quan có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi nước Đại Pháp, quan có bổn phận phải bênh vực những người đã chiến đấu vì quyền lợi thiêng liêng ấy. Những người này là tôi con của đức Chúa, họ có quyền đòi quan ngài phải che chở...

Bôn-nan cố phân trần rất ôn tồn lễ phép:

- Thưa đức cha, nếu là hàng giáo phẩm, hay là những quan chức có tiếng tăm làm việc với người Pháp chúng ta thì dù cho đức cha chưa truyền bảo, con cũng phải hết sức bênh vực. Đằng này mấy con mụ đàn bà hạ cấp đê tiện này không phải là kẻ ngoan đạo, chỉ là một bọn đĩ thõa, bị người An Nam ghét bỏ. Nếu ta dây vào chỉ mang tiếng cho nước Pháp.

Cố Phước đã nổi nóng nháy nháy mũi làm phập phồng chòm râu, nói có vẻ gay gắt, mất hẳn giọng từ tốn ban đầu:

- Ấy chính những người đê tiện ấy và đã mở đường dọn cho quan ngài đến đây đấy. Họ tin đạo. Họ mở rộng nước Thánh, làm sáng danh Chúa. Nếu không bênh vực che chở họ thì không còn lý do để các quan lưu trú đại diện nước Pháp ngồi ở đây nữa. Và ai đưa các quan đến đây kia chứ?

Giá như là một kẻ chân thành mộ đạo, tin ở Chúa, hơn nữa, giá ở vào tình cảnh trước mấy tháng, khi tướng Bu-ê mới đến thay Ri-vi-e làm tổng chỉ huy, thì Bôn-nan đã phải phát hoảng lên vì lời nói chỉ trích ấy và tất nhiên “con” sẽ ngoan ngoãn vâng theo “cha”. Nhưng Bôn-nan lại là tay chính trị thực dân sành sỏi lõi đời, và tình thế lúc này lại khác hẳn với mấy tháng trước. Bác sỹ A-măng, một anh quan văn làm Cao ủy toàn quyền cho quân đánh thẳng vào Huế với ý định dùng áp lực chính trị với triều đình đã thu được kết quả quá sự mong muốn. Hắn liền thay đổi chiến lược, chỉ thị cho các quan Công sứ mới đặt và các tướng lĩnh quân đội phải khéo dựa vào các quan chức triều đình, phải biết nâng cao uy danh của họ và đồng thời, không chỉ hoàn toàn tin vào lực lượng của dân giáo và cha cố. Bôn-nan thấm nhuần đường lối ấy và lại càng rõ tình hình cụ thể ở đây, nên trước lời nói khích nộ của cố Phước, hắn vẫn bình tĩnh lễ phép đáp:

- Thưa đức cha, con nói là có chứng cớ và có đắn đo suy tính. Những con mụ kia là cặn bã xã hội, theo đạo cũng theo giả dối, trong nhà mụ Chóp có điện đồng bóng thờ tạp thần nhảm nhí. Ngay đối với người Pháp chúng ta, bọn chúng cũng chỉ là những con đĩ không hơn không kém. Thì làm sao đức cha cứ muốn chúng ta phải quan tâm quá mức đến chúng nó.

- Ngay việc làm đĩ của họ cũng là vì lợi ích của người Pháp chúng ta. Cố Phước cố ý nhấn mạnh.

– Vâng thưa cha, điều đó thì tất nhiên con phải hiểu hơn cha. Bôn-nan vừa nói vừa cười ranh mãnh, với vẻ tự tin đắc thắng. Nhưng cái lợi nhỏ nhặt và nhất thời. Làm việc lớn phải biết nhìn cái lợi to lớn và xa rộng. Thưa đức cha, ông Han-ri Ri-vi-ê-ra phải hy sinh bỏ rơi Tôn Thất Bá cũng vì nhìn xa thấy cái lợi to lớn hơn. Xin đức cha cứ để cho con làm theo ý con để nâng danh giá ông Tổng đốc lên, chắc chắn rồi ông cũng sẽ làm lợi cho chúng ta, cho nước Pháp và cho nhà thờ nhiều nhiều hơn nữa.

Cố Phước không còn đủ lý chọi được với viên quan cai trị này, đành ngồi im một lúc rồi đứng lên hậm hực từ biệt ra về. Bôn-nan đứng lên tiễn chân cố nói vớt:

- Thưa đức cha, xin người xét lại cho, con chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của người Pháp, chứ không dám có ý gì khác.

Đành rằng thế. Nhưng đức cha vẫn không thấy hài lòng. Lão ngồi trên xe giật dây cương cho ngựa bước nhanh lộc cộc lộc cộc phóng qua phố Hàng Gai rẽ vào đường làng Chân Cầm qua Thiên Trị không dừng một bước nào. Đi qua cổng chùa Lý Quốc Sư, lão buông lỏng dây cương cho ngựa đi thong thả, đến khu chân tháp Báo Thiên lão cho ngựa dừng xe lại ở dưới bờ giậu duối. Ngồi trên xe, lão nhìn bao quát cả cái khu cây cối hoang vu, lão gật gật đầu lấy làm đắc ý, lão nhìn thẳng con đường thôn Tự Tháp ra đến bờ Hồ Gươm, miệng lẩm bẩm một mình:

- Phải làm sáng danh Chúa, tỏa ánh hào quang của Chúa sáng ngời khắp vùng này. Rồi cũng phải cần đến nó... Chỗ này rất tốt. Gió nhẹ từ ngoài hồ thổi lướt nhẹ vào đến khu chân tháp, rung rinh những cánh lá tung bộ râu của lão bay lòa xòa, lão xòe năm đầu ngón tay vuốt râu mỉm cười miệng lắp bắp:

- Tốt lắm! Tốt lắm!

Trong khi ấy, những người quanh vùng Nhà chung đi qua, chắp tay cúi đầu vái chào lão, vẫn tưởng là lão khen mình. Gió mát và niềm vui đã xua tan nỗi bực dọc của lão, nghĩ đến dự định xa xôi, lão hả lòng hả dạ, lão ung dung nhàn nhã, giật cương cho ngựa bước đủng đỉnh từng bước cộc cộc cộc... về phía Nhà chung.

Hôm sau Án sát tỉnh Hà Nội Nguyễn Xuân Duẩn đã làm xong bản án đệ lên Tổng đốc Hà Ninh. Nguyễn Hữu Độ cho đem thi hành ngay trước mặt công chúng. Ba can phạm được giải đến khu đất rộng trước Quảng Văn đình. Hoàng Cao Khải, Tri huyện Thọ Xương kiêm Bang biện Hà Nội được chỉ định làm giám xử. Hai hàng lính nón dấu chóp đồng áo vàng nẹp xanh, đai xanh đứng chống đồng giáo canh giữ trật tự. Một hồi ba tiếng trống tiêu cổ báo hiệu bắt đầu xử quyết. Hoàng Cao Khải đứng dưới lọng xanh, truyền lệnh tuyên đọc bản án. Đề lại Thọ Xương đứng ra giữa bãi đọc vắn tắt những án đã xử:

“Quan Tổng đốc đại thần tỉnh Hà Nội xử phạt: Tên thị Chóp 50 tuổi ở ô cửa Tây Luông phạm điều cấm điều đỏ để tang tiên đế, lại có những lời lẽ xúc phạm, nay phạt đánh bốn mươi roi, tiền một trăm quan. Tên thị Là ba mươi tuổi cùng ở ô Tây Luông; tòng phạm luật cấm điều đỏ, nay phạt đánh 20 roi nộp tiền 50 quan. Thị Lượt 28 tuổi cũng cửa ô Tây Luông, tòng phạm luật cấm điều đỏ, nay phạt đánh 20 roi nộp tiền 50 quan. Án này giao cho huyện nha Thọ Xương đem xử quyết công khai để treo gương cho dân chúng”.

Viên Đề lại đọc xong, một hồi trống tiêu cổ nữa vừa dứt, hai người lính lần lượt giải từng can phạm ra giữa bãi, nọc nằm sấp sóng soài, cho thầy Đội lệ cầm roi mây vụt tới tấp xuống mông bị can đủ số roi đã phạt. Kẻ tội nhẹ được dẫn vào trước, kẻ tội nặng bị đánh sau cùng. Đánh xong mỗi tên lại có một tiếng trống tiêu cổ báo dứt. Đánh xong cả ba tên, một hồi trống dài kết thúc cuộc xử quyết. Can phạm được thả ngay tại chỗ. Dân chúng đứng xem thích chí reo hò vang cả lên, kéo nhau tản về các ngả, bàn tán xôn xao khắp dọc đường. Vì dân thành phố vốn ghét cái bọn đánh đĩ với Tây ấy từ lâu. Họ đã từng đặt những câu hát mỉa. Nhất là từ khi giặc đánh chiếm thành, bọn này dựa vào thế Tây càng ra vẻ hống hách dương dương tự đắc, các quan cũng phải kiêng sợ, dân phố càng thêm khinh ghét bọn đĩ rởm ấy, nay mụ Đội Chóp, đàn chị của bọn ấy, bị đánh ở giữa nơi công cộng, mọi người đều thấy hả lòng hả dạ. Và tự nhiên họ khen ngợi quan Tổng đốc công minh cứng cỏi dám trừng trị cả những kẻ tôi tớ thân yêu của Tây. Có người cao hứng đã phỏng theo câu thơ mỉa Trần Đình Túc “nhất phẩm...” làm thành câu thơ tán thưởng Nguyễn Hữu Độ: “Quan thượng ra oai tiếng khét vang”. Do đó một số người thêm tin phục vào quyền thế của các quan tỉnh. Độ-Khải-Kim nhất thời được tiếng là đã có gan giữ được thể diện cho nước nhà. Bà con đường phố nhẹ dạ cả tin lại có thêm cớ ngả theo lời dụ đường mật của Độ-Khải-Kim. Riêng Bát Gà đứng ngoài đã thu được hai điều lợi: Được Độ khen thưởng và tin dùng thêm, đặc cách tư cho những hàm Hàn lâm điển tịch và mặt khác dựa vào phép nước trị được con mụ Chóp, ân nhân của hắn, để rồi lại xum xoe ve vãn giả vờ che chở và mách nước cho con mụ đã lão luyện trong nghề chiều khách, nhưng lại quá hợm đời.

Vụ án Đội Chóp cũng đã nâng cao thêm tiếng tăm bọn quan chức triều đình trước bà con hàng phố mới chạy loạn trở về. Và đúng như cậu ấm Tự Tháp nói nó có phần nào cản trở mọi hoạt động của Nghĩa hội. Những người can tràng kiên quyết phần đông còn ở bên ngoài hoặc đi theo đội quân của Thống đốc Hoàng Tá Viêm. Những người ở lại và những người mới trở về, tuy cũng có lòng tham gia vào việc nghĩa, nhưng vẫn còn đắn đo đợi thời và nghe ngóng cách đối phó của các quan tỉnh để lựa chiều. Mấy ông văn thân có uy tín lại không nhất trí với nhau và thái đội cũng không rõ rệt. Công việc chung hóa ra không được hướng theo một ngả dứt khoát. Dân chúng luống những trông chờ. Trong khi ấy giặc Pháp tiếp viện thêm quân đến Hà Nội. Không đủ trại trú quân, chúng mượn cớ chiếm đóng yên ổn và lễ phép những đình chùa quanh Hồ Gươm và đền Thánh Trấn Vũ trên Hồ Tây hình thành một vành đai bảo vệ khu trung tâm thành phố có tòa Công sứ, tòa Thương chính và công sở của các quan tỉnh. Đô đốc hải quân Cuốc-bê thay làm tổng chỉ huy đến Hà Nội, vạch kế tiến đánh Sơn Tây. Hắn thân cầm quân đi đánh từ 14 (12-1983) đến ngày 16 (tức ngày 16-10 Quý Mùi) chiếm hẳn được thành Sơn. Về phía đông hắn cho quân đánh rộng lên tỉnh Bắc. Thành phố Hà Nội được bọn giặc bố trí thành một cơ sở kiên cố của chúng. Cuốc-bê tự coi Độ là Kinh lược sứ, yêu cầu Độ bổ Tổng đốc và Tuần phủ Sơn Tây để mượn tiếng nhà vua làm việc cho chúng, Độ cử hai người trong tỉnh là Nguyễn Khuyến và Thành Ngọc Uẩn, nhưng hai ông không nhận. Hắn lại cử Tú tài ngũ phẩm Nguyễn Trần Cáp lên làm việc, và Phó quản lý thương chính Nguyễn Hậu làm Bố chính Sơn Tây, có tên lang thuốc Lương Văn Đạt giúp việc đều là dân giáo. Độ nghiễm nhiên trở thành Khâm mạng duy nhất của triều đình có quyền hành tuyệt đối ở đây. Tuy vẫn với danh nghĩa của triều đình, nhưng lão không hề nghe theo lệnh của nhà vua, mà chỉ vâng theo kế hoạch của Tây. Phái đoàn khâm mạng Đoàn Văn Hội, Nguyễn Hữu Thường ra đầu năm 1884 đòi lão về kinh, lão đã nhờ tướng Mi Lộ cho lính Tây đến canh cổng và nói thẳng với các quan triều rằng:

- Hạ chức không thể tuân lệnh được, vì nhà hạ chức ngày đêm bị cái lũ mọi Tây nó canh giữ không cho rời khỏi nhà.

Ấy thế là Tổng đốc Hà Nội vẫn cứ ung dung ở lại Hà Nội trực tiếp cắt cử những quan chức ở địa phương ngoài Bắc này, mỗi khi quân Pháp đánh chiếm được. Và do đó lão được bọn Pháp rất trọng vọng; lão lại càng tỏ ra mẫn cán sốt sắng làm theo mọi yêu cầu của Pháp mà giữ vững địa vị và uy quyền. Lão không bỏ lỡ một dịp nào có thể làm vừa lòng bọn chủ mới.

Đầu xuân năm ấy, sau khi đã tiễn tống đoàn đi rồi, lão ung dung mở một bữa tiệc mừng xuân rất linh đình vui chung với cả bọn Pháp gồm đủ các trò vui. Lại có cả nghi lễ bái vọng đức Vua được đông đủ các quan chức Pháp tham dự. Uy quyền của quan Tổng đốc đã thành tuyệt đối không còn ai dám ho he dị nghị nữa. Cố Phước nhận thấy rõ điều đó trong ngày hội mừng xuân, liền nghĩ cách lợi dụng cái uy quyền ấy vào công việc riêng của mình. Hôm sau, lão sai linh mục Nghiêm đem lễ vật đến mừng riêng quan Tổng đốc. Họ vui vẻ tiếp đón người của nhà xứ và để tỏ rõ lòng kính phục và tin cậy đức cha, ngay từ phút đầu, lão đã ngỏ ý mời khách ở lại ăn cơm để cùng nói chuyện thân mật. Cố Phước chỉ mong mỏi được như thế và đã dặn cặn kẽ cha Nghiêm phải tìm mọi cách để cầu thân. Cho nên khách được mời đã không ngập ngừng từ chối như thường lệ mà nhận nhời ngay. Và nhập gia tùy tục, khách tỏ ra rất thông thạo những lề thói đầu năm bằng một gia đình quan cách, khách đi lại đứng ngồi nói năng rất từ tốn lễ phép biết tránh trước mọi điều kiêng kỵ. Độ rất bằng lòng về thái độ cang thuận ấy, đứng lên đi trước thân mời khách vào phòng khách riêng để nói những chuyện quan trọng đến nước nhà. Trong gian phòng kín đáo ấm cúng xa hẳn mọi tai mắt tò mò, cha Nghiêm lanh lẹn trình bày mọi thắng lợi của Tây, của đạo và dự định “mở mang” của bọn chúng sau này. Sau cùng hắn đưa câu chuyện đến mục đích chính của cuộc gặp gỡ: việc làm nhà thờ đạo ở trong thành phố. Độ vui vẻ nói ngay:

- Thế còn gì bằng! Quý hóa quá. Đạo là đạo chung, ở giữa nơi phố phường cố đô này phải có một nhà thờ thánh đường thờ đức Chúa để dân chúng cùng ngưỡng mộ thì mới xứng. Đốc bộ đường chúng tôi xin đem hết sức mình góp vào công việc hoằng đạo 6 ấy.

- Vâng, xin bái tạ cụ lớn. Cha Nghiêm lễ phép nói tiếp: Đức cha và các cha bên Nhà chung tin chắc rằng cụ lớn và các quý đài 7 sẽ hết lòng giúp đỡ dân đạo làm thánh đường. Thưa cụ lớn, vật liệu và công sá thì không lo, chỉ khó khăn nhất là nơi dựng. Xa thì không tiện mà gần thì không có chỗ nào vừa ý. Được một nơi khoáng đãng trung độ khả dĩ chọn làm nơi linh địa 8 để tụ tập tín đồ thì lại đang còn mắc mứu, nên đức cha muốn trình lên cụ lớn, nhờ cụ lớn...

- Chỗ nền tháp chứ gì? Độ hỏi ngay và nói tiếp. Quan Chánh công sứ cũng mới nói với tôi. Kể ra đức cha cũng giỏi địa lý, tinh phong thủy lắm nhỉ! Cái nền ấy là chỗ ông thánh Nguyễn đời Lý, ông ấy cắm đất xây cột tháp Báo Thiên đấy.

– Vâng thưa cụ lớn ấy chính vì thế mà đức cha tôi mới sai tôi đến trình lên cụ lớn, mong cụ lớn tìm cách giúp đỡ thế nào cho ổn thỏa. Chỗ đất ấy bây giờ bỏ hoang, cây cối rậm rạp, để không không sao, nhưng nay chúng tôi lại đụng vào sợ lại mang tiếng là đất chiếm của đạo Phật, rồi sinh ra thù nghịch tôn giáo thì không lợi cho cả đôi bên.

Thấy Độ còn đang đắn đo suy nghĩ, cha Nghiêm nói cứng cỏi nhấn mạnh thêm:

- Thưa cụ lớn. Sở dĩ phải trình với cụ lớn là vì đức cha muốn để quyền cho cụ lớn chứ như quan Công sứ nói đã trong lúc tình trạng chiến tranh này, Nhà chung vẫn có quyền chiếm cái khu đất bỏ hoang ấy, nhất là khu đất ấy lại ở trong khu vực quân đội Pháp đóng giữ... mà.

Hữu Độ vội nói tỏ ra giọng kẻ cả:

- Phải phải, tôi biết cả, quan Công sứ cũng đã bảo tôi biết như thế. Tôi đương nghĩ làm thế nào cho được cả lý và tình, cái chỗ đất bỏ hoang ấy chiếm lúc nào mà chả được. Cái khó là tìm ra cái lý công nhận cho mình chiếm. Có lý rồi sẽ có tình, không lo.

Cha Nghiêm vội vồn vã:

- Thưa cụ lớn, thế nên đức cha tôi mới cần phiền đến cụ lớn.

– Chết cái nơi ấy lại là đất quý của cố đô. Độ nói vẻ làm cao. Mọi người đều biết cả. Tìm ra được lý cho xuôi không phải dễ.

Cha Nghiêm càng tỏ vẻ nịnh nọt và gợi ngay vào công việc:

- Bẩm vâng thưa cụ lớn, có khó mới phải nhờ đến cụ lớn, gặp mấu vầng mới hay búa sắc 9 , chắc cụ lớn đã có cao kiến tìm ra được cái lý chính đáng để đức cha và dân giáo chúng tôi mãi mãi được nhờ công cụ lớn.

Độ cười ra vẻ đàn anh thắng thế:

- Khó nhưng mà cũng dễ. Nhưng bên phía các ngài phải làm. Thế này nhé. Tôi sẽ sức hỏi kẻ kế thừa hai khu đất ấy, tất nhiên dân họ sẽ khai là vô thừa nhận, vì ông Nguyễn Minh Không là nhà thiền sư tu hành làm gì có con cháu nối dõi, đất ấy trở lại là quốc gia công thổ. Còn cái chân tháp đổ nát kia thì các ông về bảo dân Nhà chung rủ thêm mấy người dân ở Tự Tháp, Tiên Thị cùng làm đơn đệ lên quan trên xin dỡ đi cho khỏi vương vãi gạch ngói vào khách bộ hành qua lại. Đơn ấy đưa qua huyện Thọ sang đây, cho phép phá đi đem gạch ngói bán đấu giá. Sau đó Đốc bộ đường tôi sẽ làm giấy bán khu đất ấy cho đức cha. Như thế được chứ?

Cha Nghiêm ngập ngừng thưa:

- Bẩm cụ lớn, cụ lớn dạy như thế cũng gọn, nhưng...

- Nhưng sao? Độ hỏi ngay. Các ông chỉ phải bảo dân họ ký vào đơn mà thời buổi này những kẻ nào còn quanh quẩn ở lại làng là cũng dễ mua chuộc, điều đó các ông tất rõ hơn tôi. Vậy mà các ông còn ngại gì?

- Dạ thưa cụ lớn, không ạ. Cha Nghiêm lễ phép phân trần. Nhà chung chúng tôi chỉ còn hơi sợ đơn từ khai báo như thế có lâu quá không?

Độ cười lớn đáp:

- Lâu hay chóng là do các ông ấy chứ. Tôi hỏi là hỏi cách làm như thế có được không? Được thì về làm đi rồi lên đây, Đốc bộ đường tôi làm giấy báo cho.

Cha Nghiêm vội nói lấy lòng:

- Bẩm cụ lớn, cụ lớn hết lòng giúp đỡ cho như thế. Tôi về thưa lại với đức cha, đức cha sẽ hết sức cảm động và ghi nhớ công đức cụ lớn mãi mãi. Sự giúp đỡ ân cần của cụ lớn, thật sánh đôi ngang hàng với sự giúp đỡ của quan Đô đốc toàn quyền Cuốc-bê. Tháng trước đây, quan Đô đốc vừa ký giấy cho phép Nhà chung mở cuộc đánh số một vạn đồng để xây nhà thờ.

Hắn lấy ở trong túi ra một mảnh giấy chữ nhật có hình vẽ đưa trình Nguyễn Hữu Độ và giảng:

- Thưa cụ lớn, đây là tấm phiếu đánh số đấy ạ. Phiếu mới in tại Hương Cảng đưa về. Giá mỗi phiếu là một đồng nên trên phiếu có in chữ nho: “nhất nguyên” và con số một chữ La-tinh, một bên là hình nhà thờ lớn có hai tháp vuông và cây thánh giá, một bên là hình đức Thánh Giô-se là ông thánh đỡ đầu nhà thờ này. Đức cha cho in một vạn phiếu để mọi người cùng dự đánh số...

- Sao lại gọi là đánh số?

- Dạ thưa cụ lớn, đánh số như là đánh bạc, tiếng Phú Lãng Sa gọi là Loterie 10 , nghĩa là trong một vạn phiếu ghi số từ 1 đến 10.000, người ta định mức mấy số trúng, và ngày mở số. Khi mở, người ta quay hay gắp rơi ra những con số nào đấy. Phiếu nào đúng với con số ấy là trúng, được cuộc, nhận được tiền hay đồ vật.

Độ cười vui vẻ:

- À, thế cũng là đánh bạc, ai cũng chơi được mà ai cũng may trúng, cũng như lối chơi gắp thăm của ta.

- Thưa cụ lớn vâng ạ. Như cuộc đánh số một vạn bạc này đức cha đã ấn định một giải nhất trúng 1.000đ, hai giải nhì trúng 500đ và 20 giải ba trúng 100đ. Như vậy người nào may mắn được Chúa ban phước cho trúng giải nhất thì chỉ phải bỏ ra có một đồng mua phiếu mà được những 1.000 đồng vị chi là 5.000 quan, của trời ban đến tự nhiên phút chốc trở giàu lớn.

Hắn đứng hẳn lên nghiêm trang đĩnh đạc hai tay nâng tấm phiếu kính cẩn trước mặt Hữu Độ, nói rằng:

- Thưa cụ lớn, Nhà chung chúng tôi mong rằng con người may mắn ấy phải làm lớn, nên đức cha nhờ tôi chuyển dâng lên cụ lớn tấm phiếu này.

Hữu Độ vội chối:

- Ấy để tôi mua một phiếu chứ. Có bỏ tiền ra mua mới có may chứ ai lại may ăn người. Vả cũng gọi là có chút ít cúng vào việc xây dựng giáo đường.

Cha Nghiêm đã ngồi xuống ghế, ung dung thong thả nói:

- Dạ thưa cụ lớn, cụ lớn giúp cho nơi dương cơ đã là cúng nhiều lắm rồi. Công đức ngang với núi sông. Vả Nhà chung còn muốn dựa vào uy thế của cụ lớn để bán một số phiếu này. Đức cha đã chia 5.000 phiếu này cho quân lính Pháp, 4.000 phiếu cho dân giáo, còn 1.000 phiếu dành lại muốn nhờ cụ lớn cho chuyển bán cho bên lương để làm duyên.

- Được, Độ nói rất thản nhiên. Cũng là dịp để bên đạo bên đời thân nhau, may ra Chúa ban phước cho trúng giải thì càng tốt, thân lại thêm thân. Để đấy tôi mua cho 10 phiếu, các quan tỉnh mua cho một ít, còn thì giao cho sở tại đem bán cho hàng bang và hàng phố, việc công đức chắc ai cũng vui lòng.

- Vâng! Thưa cụ lớn, cụ lớn định bố trí công đức như thế, kể cũng tiện và chu đáo lắm. Nhà chung lại được nhờ ơn cụ lớn thêm lên trăm phần nữa.

Chợt bên ngoài có tiếng gõ cửa. Độ lên tiếng hỏi và trông ra. Một người lính tại phòng đẩy cửa thò đầu vào báo có Thương biện Thọ Xương xin vào hầu. Lão vui mừng hẳn lên truyền:

- Dẫn hắn vào đây.

Rồi lão thích chí quay lại nói với linh mục Nghiêm:

- Cho hắn vào đây, giao cho hắn làm ngay những công việc này, khích hắn lên để hắn sốt sắng được việc.

Người lính gõ cửa mở ra đưa Thương Kim vào, lão lạy chào Hữu Độ, vái chào cha Nghiêm. Độ đẩy ghế cho Thương Kim ngồi và nói ngay:

- Thầy hỏi việc gì có cần không? Không thì hãy để đấy, nói sau, bây giờ ta hãy nói đến việc bên nhà xứ nhờ chúng ta đây này.

Thương Kim quay lại hỏi linh mục Nghiêm:

- Thưa cha việc gì ạ?

Linh mục Nghiêm thuật lại tường tận gọn gàng hai việc vừa trình bày với Hữu Độ và quyết định của lão.

Hữu Độ nói thêm:

- Tôi bảo với ông ấy như thế đấy. Về việc thứ nhất, có phí tổn tiền nong gì các ông bên nhà xứ phải chịu cả, ta chỉ giúp đỡ giấy tờ thôi. Về việc thứ hai, các quan sẽ mua cho một số, còn bao nhiêu, thầy chịu khó giao Bang trưởng và Tổng lý bán cho các nhà giàu... À này, bên tòa sứ vừa có giấy báo sang bảo làm bằng thăng bổ thầy làm Tri phủ phủ Thường Tín rồi đấy. Thầy tuân hành nhanh xong việc này để rồi mà đi cung chức. Cũng là một dịp thân tình chót với Nhà chung.

- Bẩm cụ lớn, còn thân tình mãi mãi chứ, cha Nghiêm đỡ.

Thương Kim nói vồn vã lễ phép:

- Dạ bẩm cụ lớn, việc công đức thờ Chúa cũng như việc quyên giáo thờ thần cúng Phật hạ chức chúng con xin làm ngay. Thần thánh chúa bụt, các ngài cao xa ở trên đầu trên cổ, chúng con đều một lòng thờ kính, không bao giờ dám trễ nải việc gì. Còn việc bán phiếu này cũng dễ, cúng mà còn mong có lợi ai mà chả cúng.Có thể còn cúng nhiều là đằng khác.

Linh mục Nghiêm thấy mọi việc đều trôi chảy cả cần phải nói lấy lòng cả hai người:

- Thưa cụ lớn, quan Thương nói đúng. Việc là việc công đức nên Nhà chung chúng tôi mới được cụ lớn và các quan hết sức vê tròn quả phúc. Nhà chung chúng tôi sẽ cử đại lễ cầu nguyện đức Chúa. Lời ban phước lành bằng yên cho các quan và ban diễm phúc cho quan lớn và quan Thương trúng giải đánh số.

Thương Kim nói để nịnh Hữu Độ:

- Bẩm cụ lớn, cụ lớn được cả phúc cả danh, dân đạo ở đây sẽ nhớ mãi công cụ lớn cắm ngôi đất này làm Nhà thờ và dân phố cũng sẽ lấy làm thích nơi Kinh đô cũ, bên cạnh Hồ Gươm này sẽ có thêm một tòa đền đài nguy nga tráng lệ làm đẹp cho cả phố phường hơn cái tháp Báo Thiên ngày trước nhiều.

Cha Nghiêm mỉm cười gật đầu và tán nịnh thêm:

- Vâng chính thế. Dân giáo chúng tôi sẽ rất lấy làm sung sướng có nơi thánh đường để giảng kinh ngắm Chúa cho lọn đức tin ở Chúa và ở đức Mẹ thánh thần. Và như thế tất nhiên sẽ nhớ đến cụ lớn và quan Thương.

Hữu Độ nói như kết luận:

- Thôi được! Thế là ổn. Việc phúc đức thờ Chúa cũng như thờ Phật, Đốc bộđường đều phải trông coi cho chu đáo để mong các ngài phù hộ độ trì cho trong tỉnh được vật phú dân khang, ông về nói với đức cha rằng mọi việc có chóng vánh hay không là đều do bên phía đạo chứ không phải là do bên tỉnh chúng tôi.

Linh mục Nghiêm phải tỏ ra chân thành cảm tạ một lần nữa:

- Đức cha rất lấy làm cảm ơn cụ lớn và xin cụ lớn tin cho rằng trong bất cứ cuộc lễ nào, đức cha và các hàng giáo phẩm chúng tôi cũng đều cầu nguyện đức Chúa thánh thần hằng ban phước lành lọn đời cho cụ lớn và ban bằng yên phú túc cho toàn tỉnh. Đức Chúa thánh thần hằng ngự trị xua tan mọi tai vạ chăn dắt chiên lành.

Hắn làm dấu chữ thập rất nghiêm trang tin tưởng. Hai người kia đều ngồi im lặng, chắp tay có vẻ thành kính và thỏa mãn.

--------------------------------

1

Người chức việc trông coi chợ.

2

Cắt tay chân, xẻo từng miếng thịt cho chết dần (một hình phạt dã man thời phong kiến). (BT)

3

Bắt người thì dễ, tha người thì khó.

4

Trăm người như một đều nói như nhau. (BT)

5

Việc giấy tờ, văn phòng.

6

Làm rộng cái đạo lý.

7

Tên xưng hô tôn kính.

8

Đất thiêng.

9

Mấu thành vầng, rất khó bổ (củi, gỗ).

10

Lô-tơ-ri nghĩa là đánh xổ số.

Chương V

Ngày mồng hai tháng năm, năm Ất Dậu.

Tiết trời nóng bức. Nhưng buổi sáng hôm nay trong vắt như pha lê tươi đẹp và có gió nồm hây hẩy dịu mát từ ngoài sông tỏa vào bờ phe phẩy ngọn cây cành lá rung rinh. Quanh bờ hồ đã sửa dọn quang đãng, sạch sẽ, rải rác và đều đặn, cân đối, những cột cờ thẳng tắp mang những lá cờ tứ phong và đuôi nheo năm màu sặc sỡ cùng xen với những lá cờ ba sắc đua bay lượn phất phơ như viền lấy mặt hồ xanh thẳm, càng tô cho quang cảnh bừng sáng thêm. Nổi bật bật bên cái khung cảnh rực rỡ ấy, dinh thự của quan Kinh lược đại sứ Bắc kỳ vừa mới xây xong ở trên nền trường thi cũ, tường vôi trắng, ngói mới đỏ, tươi tắn như muốn át cả màu xanh của cây cối chung quanh. Cái lầu vọng khuyết 1 ở ngoài cổng xây hai tầng cao vượt lên trên ngọn cây, nhìn thẳng đến tận hồ, bên trên lại kéo một lá cờ vuông tứ linh thêu rồng phượng lồ lồ, càng tăng thêm vẻ tôn nghiêm. Ngang giữa lầu, bên trên tầng dưới lối ra vào, bốn chữ đại tự “Bắc phương tỏa thược” 2 , nét to ba tấc, ánh mực đen nhánh hòa hợp với màu giấy đỏ và trang kim mới kết khung trang trí hôm nay khiến cho ai nấy đều phải chú ý đến một cách kính cẩn mà nhớ đến uy quyền của nhà nước. Trên con đường từ đấy chạy thẳng tắp qua ngã tư Vũ Thạch, ngay từ Hàng Khay, Tràng Tiền đến cửa ô Long Tường vào Trường Tây hai bên cắm đều đặn và cân đối, và xen kẽ, những cây cờ ngũ hành và cờ ba sắc đang cùng phe phẩy là là trước gió hớn hở đón chào. Và khi mặt trời đã lên cao, cứ giữa hai cây cờ mỗi bên đường lại thêm một người lính cơ của tỉnh mặc áo vàng, khăn đại xanh, đội nón dấu chóp đồng, bồng súng đứng túc trực. Đúng giờ Mão, hai cỗ xe song mã bánh to vành sắt, mui vải xanh có rủ rèm chân chỉ hạt bột 3 leng keng lốc cốc từ trường Tây đi ra tiến vào cửa ô Long Tường, hai bên có hai hàng lính kỵ binh đi kèm. Mỗi hàng là sáu lính đội mũ bon-nê mào bông đỏ, mặc áo quân phục trắng thắt đai da, quần mốt dọc đỏ, đi giày đinh, ngang lưng đeo súng, một tay cầm kiếm giơ lên, một tay ghì cương ngựa. Trên mỗi xe ngoài người lính đánh xe, có ba người ngồi, một Nam và hai Tây. Cả đoàn xe ngựa ấy đi đều đều nhịp nhàng thẳng đến trước nha Kinh lược thì dừng lại. Hàng ngựa bên trái đứng tại chỗ quay dồn thành hàng ngang ở bên phải vọng khuyết lâu. Hàng ngựa bên phải tiến lên mấy bước, đứng dàn thành hàng ngang quay đầu ra ở bên trái. Trong khi ấy tiếng trống trên lầu nổi ba tiếng giục giã. Một viên quan đại thần mặc áo triều phục nhất phẩm đội mũ cánh chuồn thêu chỉ vàng, nghiêm trang đĩnh đạc bước xuống bậc cổng, đi ra giữa mặt đường chỗ xe đứng vái chào. Sáu người trên xe đã xuống cả đường. Trong khi mấy người Tây rảo bước đến cúi chào và bắt tay đáp lễ, người Nam thông ngôn nói:

- Bẩm quan Kinh lược đại sứ, quan Thống tướng toàn quyền nước Đại Pháp thân mến mừng lễ Hưng quốc khánh niệm của nước ta.

Kinh lược sứ Nguyễn Hữu Độ vội nói:

- Vâng, quan lớn nói giùm là bản nha chúng tôi rất lấy làm vinh hạnh và đã chuẩn bị đủ cả.

Rồi lão dang hai tay chỉ vào phía cổng, nói mấy tiếng Tây mới học lỏm được để tỏ vẻ thân mật:

- Me-sừ hô péc-son-na, a-lê 4 đi...

Mấy người Tây mỉm cười vui vẻ bước vào cổng lầu, lên bậc bước vào sân. Một hàng dài các quan Nam áo mũ hia hốt chỉnh tề đang rung rung tay áo sắp xếp cho phẳng nếp toan sụp xuống lạy, mấy người khách đã vội xua tay chạy ào cả tới, miệng nói: “no.. no.. no” 5 . Thông ngôn nói lễ phép:

- Xin các quan miễn lậy. Tây họ bảo đừng.

Hữu Độ mời mọi người vào nhà bái đường. Trước hương án và ngai vàng bái vọng vua, một bàn dài với hai dãy ghế tựa hai bên bày theo lối Tây đã được trang trí thanh nhã, có khăn giải bàn trắng muốt, có bình hoa, có tách cốc pha lê, có khay khảm đĩa bạc. Hữu Độ mời khách ngồi hàng ghế trong, năm người Tây ngồi liền nhau, lão ngồi ghế đầu bên trái, thông ngôn ngồi ở ghế đầu bên phải. Ở hàng ghế ngoài có tám vị quan lớn lần lượt ngồi vào. Thông ngôn đứng lên nói trước:

- Bẩm thưa quan Kinh lược đại sứ, thưa các quan lớn, theo lối Tây, người ta cần giới thiệu cho nhau biết họ tên chức tước, nên tôi xin phép giới thiệu các quan Tây trước, rồi cụ lớn Kinh lược giới thiệu các quan Nam.

Rồi hắn chỉ lần lượt từng người và nói:

- Quan Thống tướng toàn quyền ngồi bên cụ lớn Kinh lược là quan Đại tướng Đờ Cuốc-xy coi mọi việc binh lương hành chính ở cả hai xứ Trung và Bắc kỳ. Ngài là bậc văn võ toàn tài thay mặt nước Đại Pháp có mọi quyền tiện nghi hành sự ở bên nước ta. Ngồi liền đấy là quan tướng Bờ-ri-e-đơ Lin, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc kỳ. Đến quan Công sứ Bôn-nan mà các quan đã biết cả. Rồi đến quan Phó công sứ Ha-le mới được cử kiêm cả chức Hiệp lý Hà Nội. Còn đây là Trung úy Giôp-phờ-rơ, quan võ hầu cận quan Thống tướng.

Hắn giới thiệu xong, ngồi xuống còn nói thêm:

- Giờ đến lượt cụ lớn.

Nguyễn Hữu Độ cũng đứng lên và nói:

- Tôi trước là Tổng đốc Hà Ninh, giờ là Kinh lược sứ Bắc kỳ, các quan Tây đều đã biết. Còn đây, từ trái sang phải là quan Tổng đốc Ninh Thái Nguyễn Tư Giản, quan Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên Nguyễn Trọng Hợp, hai quan đều là người quê quán gần ngay đây, đều là những bậc văn học lão thành đỗ cao, có chính tích lớn, có lòng thương yêu dân, nên vừa mới lại ra lĩnh chức; rồi đến quan Tổng đốc Đinh An Phan Đình Bình, Tiến sỹ hội nguyên, quan Tổng đốc Hà Ninh Nguyễn Khắc Vĩ Cử nhân, quan Tuần phủ Hà Nội Lê Đinh Tiến sỹ, quan Án sát Hà Nội Cao Xuân Dục Cử nhân, đều đã làm quan lâu năm ở tỉnh này, quan Đề đốc Đặng Văn Tại, người đã dẹp được nhiều đám phỉ ở tỉnh này và tỉnh Sơn. Sau cùng ngồi liền nhau kia là quan Bố chánh sứ Hoàng Cao Khải và Án sát Nguyễn Hữu Luân mới được cử lên trọng nhậm tỉnh Lạng Sơn, sắp sửa lên đường cho kịp với khi quân đội nhà Thanh rút lui hết.

Rồi lão quay lại nói với Đờ Cuốc-xy:

- Bẩm quan Thống tướng toàn quyền, xin phép quan lớn cho phép được nổ pháo mừng ngài. Đáng lẽ theo lễ nước của chúng tôi, pháo phải nổ ngay khi khách mới đến, nhưng vì ngài mới ở xa đến, lại trong một nước chưa thật được ninh thiếp, sợ có gì thất thố chăng nên bây giờ xin các quan cho được tỏ nỗi vui mừng chung.

Thông ngôn phiên dịch. Đờ Cuốc-xy đồng ý gật đầu mỉm cười. Hữu Độ đưa mắt ra hiệu cho một quan Tri huyện đứng đầu ở gian bên. Lập tức một tràng pháo dài hơn chục thước được treo trên cửa nhà ngang tả vu, châm ngòi nổ vang vọng giòn giã. Các quan Tây đứng lên vỗ tay rối rít, các quan Nam cũng đứng lên vỗ tay theo. Tiếng pháo vừa dứt, Đờ Cuốc-xy vẫn đứng, khuơ tay nói luôn. Công sứ Bôn-nan đứng dịch ra tiếng Việt:

- Quan Thống tướng vừa mới đến rất là sung sướng được đến chúc mừng quan Kinh đúng vào dịp lễ mừng dựng nước của quý quốc. Quan Thống tướng và quan chức Pháp nhân dịp này có lời kính chúc đức Hoàng thượng An Nam sống lâu muôn tuổi và các quan lớn An Nam mạnh khỏe thăng quan tiến chức làm lợi cho dân, cho nước. Hòa ước Pa-tơ-nốt ký ngày 6 tháng 6 năm 1884 đến nay vừa tròn một năm. Ngày 9 tháng 6, vừa mới cách đây bốn hôm, Tể tướng nhà Thanh là Li Heôn Seng đã phải ký hòa ước xin rút hết quân khỏi Bắc kỳ.

Thông ngôn chữa thêm cho đúng âm chữ Hán:

- Lý Hồng Chương.

Công sứ Bôn-nan nói tiếp:

- Vâng... Lý Hồng Chương phải rút hết quân Thanh. Tỉnh Lạng Sơn giao trả lại quan An Nam. Nước Pháp sẽ giúp các quan khai hóa thành một nước thịnh vượng... Mai đây quan Thống tướng sẽ vào kinh bái yết đức Vua và xếp đặt mọi việc ở trong ấy cho có trật tự, tiện việc khai hóa.

Đờ Cuốc-xy và Bôn-nan nói xong ngồi xuống, tất cả mọi người đều ngồi xuống. Các quan hầu dâng trà, rượu quả và bánh ngọt. Hữu Độ mời khách dùng các thức ăn chay. Qua một tuần nước lão đứng lên nói mấy lời cảm tạ. Các quan Pháp và Nam lại đều đứng cả lên theo nghe lão nói. Lão ầm è lấy giọng nói:

- Bẩm thưa quan Thống tướng toàn quyền đại thần, bẩm thưa quan lớn Đại tướng thống lĩnh Bắc kỳ đại thần, thưa quan Công sứ đại thần, thưa các quan đại hiến, tôi xin thay mặt các hàng quan lại Bắc kỳ cảm tạ quan Thống tướng toàn quyền và các quý quan đã đến chúc mừng ngày lễ Hưng quốc của bản quốc. Từ khi quan Toàn quyền Ba Đức Nô ký hòa ước với quan Hình bộ thượng thư Phạm Thân Duật công nhận quyền bính của vua quan triều đình ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân năm ngoái, không kể tháng nhuận thì đã được quá một năm rồi. Một năm giao hảo đã có nhiều phúc lộc cho hạ quốc. Thành phố đã được mở mang. Nay quan lớn Thống tướng sang đây làm Toàn quyền, dốc tâm vào khai hóa nước này, chắc sẽ có lợi nhiều nữa. Vậy xin chân thành dâng lời chúc đức Đại Hoàng đế nước Đại Pháp 6 và Đức Đại hoàng đế nước Đại Nam thánh cung vạn tuế, vạn thọ vô cương, kính chúc quan Thống tướng toàn quyền đại thần và các quan đại hiến bách phúc biền trăn thiên tường vân tập 7 để làm lợi nhiều cho hạ quốc chúng tôi.

Thông ngôn dịch xong, các quan tây vỗ tay. Mọi người lại cùng vỗ tay theo. Bôn-nan nói thêm bằng tiếng Việt:

- Hôm nay, ngày 13 tháng 6 năm 1885, nhân ngày mừng dựng nước của nước An Nam, để mừng một năm ký kết Hòa ước 1884, và mừng thắng lợi việc quân Thanh phải rút hết khỏi Bắc kỳ, quan Thống tướng có cho mở cuộc đua thuyền vui chơi ở Hồ Gươm chiều nay, cho quân lính vui chơi. Và tối nay, có mở tiệc chiêu đãi. Xin kính mời cụ lớn Kinh lược và các quan lớn tới dự cùng vui chung. Xin phép mời trước, lát nữa sẽ có thiếp mời gửi đến. Thôi kính chào cụ lớn, chào các quan lớn, chúng tôi xin về.

Mọi người đều đẩy ghế đứng ra ngoài. Các quan Tây lần lượt đi chào bắt tay từng người. Các quan Nam đi theo tiễn các quan Tây ra đến tận xa. Lại vái chào và bắt tay một lần nữa. Rồi đoàn xe lại nghiêm chỉnh hàng ngũ như trước tiến theo con đường mới sửa thẳng tắp vào tới cửa Nam. Các quan Nam vẫn trang trọng trong bộ áo triều phục đứng dưới vọng khuyết lâu cho mãi đến khi đoàn xe ngựa khuất hẳn, mới lui và cởi áo thoát khỏi cái nóng bức tháng năm. Cuộc đón tiếp vừa đúng nửa giờ.

Hôm ấy, bờ hồ đông vui nhộn nhịp khác với ngày thường. Khắp bốn phía đều có Căng-tin 8 của nhà binh mở ra bán giải khát và quà bánh cho quân lính. Từ phía trên, ở khu vườn dừa mới quét dọn sạch sẽ, những lều vải dựng lên trắng xóa. Ngã ba Bảo Khánh và ngã ba Tự Tháp bị rào vít lại. Khu đất trống ấy dùng làm nơi đấu võ và đánh vật. Ngoài phía bờ hồ đều có lều vải căng-tin. Ở đình Phúc Tô, nơi chỉ huy sở của tiểu đoàn phụ trách an ninh cảnh sát đóng, việc trang hoàng bố trí lại càng đẹp đẽ quy mô hơn. Mỗi một trụ ngoài tường hoa đều đặt một cái đèn lồng sặc sỡ. Trong sân đình, bàn ghế bày đặc cả, trên mỗi bàn đều có một lọ hoa đủ hoa tươi thắm cả sắc lẫn hương. Suốt phố Hàng Khay mới mở rộng, các nhà đều căng đèn kết hoa và treo cờ ba sắc. Và ở đầu phố gần ngã tư, hiệu thuốc Bờ-lăng mới mở, nhà gạch hai tầng, sơn mầu xanh sáng rực đèn lồng và cửa kính. Một lá cờ ba sắc dài hai thước treo ngang trên hiên nhà bay phất phơ ra giữa phố, liền đấy trên các nhà mới một tầng rộng rãi, cửa hàng giải khát của mụ Bảy, một mụ đầm Pháp đến đây từ thời Đồ Phổ Nghĩa mới sang năm Dậu, cửa hàng lúc nào cũng đông khách ra vào tấp nập. Căn nhà rộng và sâu, tường vôi trắng toát, ngoài hiên treo cái biển sơn vàng kẻ chữ đỏ Café Beire, bên trong lố nhố những cô gái người Việt mặc áo bờ-lu trắng, đội mũ nồi trắng, quàng tạp dề xanh đi đi lại lại thướt tha, uyển chuyển. Bên này đường, trên bờ hồ, cũng căng sẵn mấy cái lều vải trắng. Leng keng! Leng keng! Lộc cộc!.. lộc cộc lộc cộc lạch cạch lạch cạch xịnh! Hai con la khổng lồ kéo một toa xe gỗ bốn bánh gỗ vành sắt, chạy trên đường ray sắt từ cửa Nam xuống đỗ xịch trước cửa hàng cà phê. Người đánh xe đánh một hồi chuông ngắn gọn. Xe dừng hẳn. Hai mươi người ở trên xe mở cửa nhảy xuống chạy ùa vào hàng cà phê ồn ào và tíu tít. Mấy cô hầu bàn trong hiệu cũng chạy ra cười nói với những người mới đến và nhảy lên toa xe ngồi, cười nhăn nhở, vẫy tay lung tung. Anh phu đánh xe vừa dẫn hai con la lại đằng này để đối chiều hỏi vọng vào trêu chọc:

- Mấy bà cô tổ đi đâu đấy? Muốn vào thành cho Tây nó mần tuông các cô à?

- Ê! Phải gió nhà anh! Chúng tôi đi lấy hàng. Thế không xuống Đồn Thủy à?

- Được, các cô cứ ngồi đấy, tôi chở luôn vào thành. Xe tôi hôm nay chạy luôn sáu chuyến từ đây vào cửa thành, chiều tối mới chạy suốt đến Đồn Thủy.

Anh kia đã mắc ách vào lừa xong, vừa nói vừa nhảy lên xe ngồi cầm cương và cầm dùi gõ vào chuông ba tiếng. Người lái xe Tây ở trong hiệu chạy ra nhảy vội lên xe, giục:

- A-lê đi!

Mấy cô hấp tấp nhảy ào xuống, cười rúc rích. Một cô nói với theo:

- Mẹ kiếp! Mọi ngày có ba chuyến. Hôm nay chỉ riêng buổi chiều đã sáu chuyến. Cho là chết lử cò bợ.

Xe đã leng keng, lạch cạch, xịch, đi nhanh, anh phu còn ngoái cổ ra nói quẳng lại:

- Lử nên phải để em cho Tây hôn.

Xe vút đi. Người vào, những đám người đi bộ kéo đến. Trước cửa chùa Quan Thượng, đông binh lính tụ tập đợi lĩnh tiền và vật thưởng. Vì đây là trụ sở anh-tăng-đăng 9 . Ở đấy được trang hoàng rực rỡ nhất. Những đèn lồng các màu được treo đăng đối khắp trong hiên và ngoài tường ra đến ngoài cửa tam quan. Từ đây đến đình bà chúa thôn Yên Trường, cờ tam tài ba sắc hẹp ngang, dài hơn một thước được treo trên cột sơn ba màu cắm nối cách hai ngũ 10 một. Đình Yên Trường đã được sửa sang chia ngăn thành sở Hiệp lý Hà Nội 11 . Ở đây chiều nay, các công chức nghỉ việc để trang hoàng trụ sở góp vào cuộc vui chung. Ở đây cũng là nơi chỉ huy sở của ban tổ chức ngày vui thắng lợi hôm nay do quan Đại tá Pec-nốt và quan Hiệp lý Ha-le đứng đầu. Từ đấy nối sang đền Bà Kiệu lại một hàng cờ tam tài cắm liền như dăng phía chùa Quan Thượng. Đại tá Pec-nốt chỉ huy binh đoàn bộ binh dã chiến, đã đóng Bộ tham mưu của binh đoàn ở đây, và đã nhờ chủ thầu Nguyễn Sơn Tăng chữa lại cho vừa ý. Nguyễn Sơn Tăng là một chú Khách từ Sài Gòn ra chuyên xây nhà cho quân đội Pháp và đã xây dinh Kinh lược. Hắn đã ngăn nơi thờ cúng này thành từng phòng riêng và làm thêm mấy nhà phụ thuộc. Binh đoàn đã hành quân đi xa, Bộ tham mưu không còn ở đây nữa, đền này trở thành nhà riêng của Pec-nốt dùng làm nơi lui tới hội họp của mấy mụ vợ theo chồng sang thuộc địa. Hôm nay một tiệm đăng-xinh 12 được mở ở đây dành cho các sỹ quan cao cấp đến khiêu vũ. Ở giữa Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn được chăng đèn lồng vây chung quanh. Sở truyền tin và báo chí của nhà binh đóng ở đấy gần một năm nay, chiều nay được giao cho trang trí chỗ Trấn Ba Đình thành một lễ đài để quan Thống tướng với các quan khách tới dự. Cho nên cờ và đèn được treo khắp từ đây theo cầu Thê Húc ra đến đài Nghiên và tháp Bút. Trên tháp Rùa một lá cờ tam tài lớn bằng ba cái chiếu bay là là tỏa ánh hồng xanh xuống mặt nước. Trên mặt hồ, một trục thuyền bơi nan và hai thuyền ván, hai thuyền nan lớn thả lỏng lững lờ trôi, đợi binh lính đến bơi đua và dạo chơi. Quanh bờ hồ đều đã quét dọn sạch sẽ, cỏ cắt, cây nhỏ bị chặt đi. Các cầu rửa nhô ra ven hồ không còn nữa. Thuyền bơi đi lại như thoi không còn vướng mắc. Cờ ngũ hành, cờ tứ phương, cờ tam tài, đèn lồng, đèn xếp hoa dây hoa cài sáng rực cả hồ.

Đúng năm giờ chiều, mọi lối đi vào khu bờ hồ đều vít hết, có quân lính Pháp và lính tỉnh cùng đứng canh. Chỉ trừ lối đường ray sắt có xe la đi và cốt để cho lính Pháp ở trong thành ra và ở trường Tây lên. Rất ít người Nam và người khách được vào dự. Ai có mặt trong này đều phải có một tấm vé có dấu chứng nhận của tòa Hiệp lý. Những dân các làng quanh bờ hồ như Tự Tháp, Bảo Khánh, Yên Trường đều vào dự đông hơn, nhưng đều phải có vé cấp của tòa Hiệp lý giao cho hương lý chia cấp. Những người được cử vào hầu thuyền, khuân vác và dọn dẹp đều đeo băng tam tài riêng ở cánh tay trái.

Sáu giờ. Không khí đã mát dịu. Một tràng pháo nổ chào mừng quan Thống tướng và quan Kinh lược đến mở đầu cuộc vui. Đờ Cuốc-xy, Bờ-ri-e đờ Lin, cố Phước, Nguyễn Hữu Độ đã có mặt ở Trấn Ba Đình. Chuông trống ở đền Ngọc Sơn nổi lên một hồi ba tiếng báo tin cuộc đua thuyền. Mười thuyền bơi trên mũi cắm một lá cờ ba sắc do năm người lính Nam và năm người lính Pháp cởi trần mặc quần cộc, cầm dầm bơi sắp thẳng hàng trước Trấn Ba Đình, nghe tiếng còi lệnh đều ào ào khua dầm bơi vút vòng quanh Tháp Rùa ven theo bờ quanh thôn Bảo Khánh vòng trước cửa đền Bà Kiệu men cầu Thê Húc, quanh đền Ngọc Sơn trở về Trấn Ba Đình. Đoàn lính Việt về nhất, đoàn lính Tây về sau một phút có một gã bị lật thuyền, thuyền hộ vệ phải quăng phao xuống cứu. Sau đó, mười cô hầu bàn ở cửa hàng mụ Be được cử ra đi bơi thuyền diễu hành. Mười cô chít khăn vành dây vàng, mặc áo cánh trắng nõn, váy xòe đổ xuống thuyền từ cầu Thê Húc uyển chuyển bơi dầm vào trước Trấn Ba Đình xếp thẳng hàng dọc giơ dầm lên chào quan khách được tất cả mọi người hò reo vỗ tay khen ngợi. Một hồi còi lệnh mười cái thuyền đều quay mũi rẽ ngang tỏa ra bốn phía rồi lượn quanh ven hồ đuổi nhau gặp nhau và tranh nhau theo đường rắn lượn, cuối cùng chụm lại cả ở Trấn Ba Đình. Các quan Tây đứng lên vỗ tay khen, vẫy tay gọi: vẻng-xi-vơ-nê-i-xi 13 đòi các cô lên bộ. Các quân lính đứng hầu vội chạy ra đỡ giữ lấy thuyền cho mười cô bước lên lễ đài, đứng xếp hàng trước quan khách. Đờ Cuốc-xy và Bờ-ri-e đờ Lin thân ra bắt tay các tay và ôm hôn mấy cô tỏ vẻ khen thưởng trìu mến. Mọi người lại vỗ tay reo vui. Đoàn bơi thuyền nữ đi khỏi, các quan cao cấp ở lễ đài cũng đứng lên theo quan Thống về trường Tây dự tiệc. Cuộc vui ở đây vẫn tiếp tục, quân lính được tự do vui chơi theo ý thích. Các cây đèn kính thắp dầu hỏa và những đèn lồng thắp nến đều đã thắp sáng. Những lều căng-tin sáng rực. Những cô bán hàng ăn mặc cùng một kiểu, áo bờ-lu trắng, mũ nồi trắng trùm kín đầu vấn tóc, đi lại tíu tít. Quanh bờ hồ, quân lính đi lại nườm nượp. Những khu đấu kiếm, khu đánh vật, khu đăng-xinh đều chật ních những người vây quanh. Những lính tranh nhau xuống thuyền bơi dạo mặt hồ. Hai thuyền nan thúng và hai thuyền ván đều đầy ắp lính, mỗi thuyền đều do con gái chèo, đưa đi chơi hồ. Mỗi khi thuyền ghé vào bờ, bọn lính dưới thuyền chưa lên hết, bọn ở trên đã ào nhẩy xuống, làm thuyền chòng chành, bọn nào cũng không quên xì xồ trêu chòng mấy cô lái, có cô còn sấn sổ đấm và tát bọn lính túi bụi. Bọn này càng thích chí cười ngặt nghẽo. Trong các lều giải khát cũng vậy, bọn lính Tây cứ sán lại xúm quanh những cô bán hàng.

Giời tối đã lâu. Bờ hồ sáng rực ánh đèn ánh đuốc. Trên cạn, dưới nước đều lập lòe như đom đóm. Người đi lại tấp lập. Cây bông cây hoa do Bang biện Phạm Quang Diệu thuê làm đưa đến giúp vui đã được đốt phóng ở bên tháp Bút, đang bắn phọt lên những màu xanh, đỏ, tím, vàng. Và pháo thăng thiên nổ chạy vút lên cao như sao bay ngược... Cuộc chơi đang vui và náo nhiệt. Bỗng ào ào hốt hoảng ở một góc hồ với tiếng kêu “Ô sơ cua! Ô sơ cua!” 14 . Mọi người dồn đến. Ở giữa mặt hồ hai thuyền nan chòng chành, đang chìm, lính nhẩy ào ạt ra ngoài, và mấy cô lái đò đang vác dầm chèo phang vào lính túi bụi. Tụi lính ở thuyền ván xô đến cứu đồng bọn và dìm chết mấy cô lái. Chúng ôm cả các cô lái ở thuyền ván quẳng luôn xuống hồ. Mấy cô này cũng đã phang dầm chèo đánh túi bụi và sau cùng cô níu lấy một hai tên lính cùng ngụp theo. Trong khi ấy, chợt một phát súng nổ ở hiệu cà phê mụ Bẩy. Một cô hầu bàn nằm chết giãy đành đạch ở giữa sàn. Ba bốn cô khác đang vác chai lọ quẳng vào đầu Tây. Lính tuần cảnh ập vào bắn lia mấy phát súng nữa. Đạn nổ. Hai cô nữa chết. Lính tuần cảnh vào bắt hết các cô hầu bàn đem sang giam ở bên chùa Quan Thượng. Ngoài kia lẻ tẻ ở mấy lều mấy cô bán hàng cũng đã vác chai lọ dao thớt đánh bổ vào bọn Tây, mặt hầm hầm, miệng luôn luôn chửi rủa bọn cướp nước hôi tanh đểu giả.

Trống ngũ liên nổi lên báo động, đình chỉ cuộc chơi. Tiếng còi tập hợp quân lính nổi lên inh ỏi. Lính tới tấp chạy về xếp hàng ở những chỗ đã quy định. Cửa hàng cà phê, chùa Quan Thượng, đình Yên Trường, đền Bà Kiệu, đình Tô Mộc thôn Phúc Tô. Những người ngoài dự cuộc bị dồn lên cả phía vườn dừa. Các ngã đường bị vít chặt. Lính tuần cảnh đeo súng cầm lưỡi lê tiến đến canh giữa thềm các lối ra vào. Chợt một đám cháy bốc sáng rực ở phía góc đông bắc Hồ Gươm. Tiếng kêu ồn ào và tiếng trống ngũ liên vọng tới. Mọi người nhốn nháo. Tiếng loa hô cả bằng tiếng Pháp và tiếng Việt nhắc mọi người ai nấy tập trung tại chỗ không được chạy hốt hoảng. Đội quân mới kéo đến đóng ở đền Bà Kiệu tỏa ra ngăn kín lối đi lên phố và ra phía bờ sông. Chúng giơ súng và lưỡi lê đâm thẳng vào những ai chực chạy đi chữa cháy. Một người lính Nam cầm loa vung lên luôn luôn gọi:

- Không ai được ra cả! Việc chữa cháy đã có dân phố và quan quân tỉnh.

Chúng không cho một ai ra ngoài. Một mặt chúng cho dồn ngay các cô hầu bàn về hàng cà phê Hàng Khay, bắt giam thêm một số cô. Một mặt cho cứu chữa những lính bị thương, khâm liệm những người bị chết đuối. Số quân canh giữ các nơi đã tăng nhiều với đầy đủ súng đạn và được phân bố chu đáo. Bọn chỉ huy, ban tổ chức thấy giải tán ngay cuộc vui có thể gây ra lộn xộn nguy hiểm, mà để tập trung đông đúc tại chỗ cũng không tiện. Và đám cháy đã ngớt, bên ngoài mọi nơi đều trở lại yên tĩnh, chúng báo xuống trường Tây xin cho tiếp tục cuộc vui. Chúng cho rằng vì bọn lính Tây say rượu trêu chòng các con gái hầu bàn quá nhả nhớt làm cho bọn họ quá tức giận, liều chết chống lại mà gây ra như vậy. Nên chúng dồn hết con gái bán hàng về trả mụ Be và thay lính vào bán hàng. Chúng cũng cho liệm quàn những cô bị chết và băng bó mấy cô bị thương để xoa dịu người bản xứ. Và cuộc vui lại bắt đầu.

Lúc ấy bữa tiệc chiêu đãi ở phủ Thống tướng cũng vừa xong. Quan khách đang ăn tráng miệng. Câu chuyện đang vui. Bỗng tin lộn xộn ở ngoài bờ hồ báo vào Nguyễn Hữu Độ muốn tỏ rõ sự quan tâm của mình để bảo vệ người Pháp, liền xin phép cho các quan Nam trở về dinh để đi kiểm soát việc canh phòng và đôn đốc quân lính ra trấn áp. Nhưng Đờ Cuốc-xy lại nghĩ khác, hắn muốn giữ tất cả bọn quan này làm con tin, nên làm ra vẻ bình thản và niềm nở nói:

- Việc thường thôi! Quân canh đã bố phòng cặn kẽ. Xin mời các quan cứ ở lại đây.

Và hắn quay sang khẽ nói với Công sứ Bôn-nan. Tên này nói tiếng Nam như ra lệnh:

- Chỉ mình quan Đô đốc về đi tuần!

Đề đốc Đặng Văn Tại vội đứng lên chắp tay vái chào mọi người. Trung úy Giôp-phờ-rơ đưa Đề đốc ra ngoài sân giao cho hai lính Tây và hai lính Nam dẫn đi như áp giải một người bị bắt. Đề đốc đi khỏi rồi, quan khách trong này vẫn cứ ung dung ăn bánh uống nước và nói chuyện đối đáp nhát gừng, chứ không được chân thực như trước nữa. Vì ai nấy đều đang ngóng tin ngoài bờ hồ và mải lo lắng đuổi theo ý nghĩ của mình. Đờ Cuốc-xy cố vồn vã nói lấy lòng Nguyễn Hữu Độ đồng thời để lung lạc mấy ông quan to:

- Mấy hôm nữa vào kinh, tôi sẽ đòi triều đình giao hẳn mọi quyền quân dân ngoài này cho quan Kinh lược. Hai quan phụ chính không biết rõ hiện tình ở đây. Không thể quyết định công việc ở đây. Chỉ có thực quyền của quan Kinh lược kết hợp với sức mạnh của quân lính chúng tôi mới làm cho xứ này yên ổn thịnh vượng. Cho nên mới đến đây, đi xem xét mọi nơi tôi rất lấy làm hài lòng về việc quân Pháp đã bắt quan Tổng đốc Hải Yên tháng trước đây đưa vào Gia Định. Quan Kinh lược ạ, những kẻ chống lại quan lớn cứ bắt giao cho tôi đem đày đi Côn Đảo. Sức mạnh sẽ bình định hết cả.

Bôn-nan nói xen vào:

- Chính quyền hai bên vững mạnh thì tình giao hảo mới lâu bền.

Cuộc nói chuyện rời rạc quanh chính quyền và sức mạnh. Thấy ngoài bờ hồ đã yên tĩnh, cuộc vui đã tiếp tục, Bôn-nan nói với Đờ Cuốc-xy nên để các quan trở về. Đờ Cuốc-xy liền đứng lên nói rất lễ phép và từ tốn:

- Bẩm quan Kinh lược và các quan lớn, bữa tiệc vui trong quân đội chúng tôi sẽ còn kéo dài đến nửa đêm, đáng lẽ chúng tôi cố giữ các quan lớn ở lại vui chung cùng với chúng tôi. Nhưng bấy giờ đến cuộc khiêu vũ, các quan lớn chưa quen với cách nhảy, nên chúng tôi thiết nghĩ nên để các quan lớn lui gót, có lẽ sẽ tự do hơn là ngồi lại xem các trò mà mình chưa quen, chưa thích. Có phải không à?

- Dạ bẩm quan Thống tướng toàn quyền, chính phải ạ. – Hữu Độ trả lời thay.

- Đấy cụ lớn xem, Đờ Cuốc-xy nói tiếp, còn nhà võ chúng tôi rất thẳng thắn tự nhiên không muốn gò bó ai. Đến đâu là cũng chỉ có mục đích đem an ninh và phước lành cho ở đấy.

Bôn-nan cũng đứng lên hỏi:

- Bẩm cụ lớn Kinh lược, bẩm các quan lớn, cụ lớn và các quan lớn đã không định ở lại dự hết cuộc vui đêm nay với chúng tôi, chúng tôi đã xin sắp đủ xe để đưa cụ lớn và các quan lớn vô dinh. Xin kính mời cụ lớn và các quan lớn ra xe.

Mọi người đều đứng lên đi ra sân. Các quan Nam vái chào. Đờ Cuốc-xy bắt tay Nguyễn Hữu Độ và lần lượt các quan Nam, vái và bắt tay hết lượt. Chúc nhau bon-nuy 15 . Bốn người lính xách đèn dẫn ra xe. Một hàng lính đứng thẳng bồng súng chào. Đờ Cuốc-xy thân tiễn Nguyễn Hữu Độ và ba quan Tổng đốc mời lên xe trước. Còn các quan khác ngồi ở xe sau. Quan hầu Giôp-phờ-rơ lên theo xe thứ nhất. Hiệp lý Ha-le lên xe thứ hai, đi tiễn các quan về tận dinh. Lại vái và chào nữa. Các quan Tây gật đầu, giơ tay vẫy. Lộc cộc, lạch cạch... két, hai xe song mã chuyển bánh ra cổng. Hai lính bồng súng chào chia làm hai đi thẳng hàng kèm hai bên. Đờ Cuốc-xy và bọn Pháp đứng trông theo đoàn xe đi khuất mới trở vào.

Cuộc họp của bọn chỉ huy cao cấp lúc này mới chính thức bắt đầu. Ở đây, không có khiêu vũ, không có diễn kịch. Đờ Cuốc-xy nghe Pec-nốt tường trình về cuộc vui từ đầu đến cuối xong, hắn tươi cười nói:

- Tốt! Tốt! Cho tiếp tục vui hơn, náo nhiệt hơn. Đốt thêm đuốc cho thật sáng! Thiếu chất đốt cứ cho quân lính vào các làng quanh đây khuân tất cả những thứ nào có thể chất đống mà đốt được. Không sợ gì cả. Tôi đã đưa cả các cấp khiêu vũ ở đây ra dự vui ở nhà Đại tá đấy. Và màn kịnh đặc biệt định diễn ở đây tôi cũng đưa cho ra nhà anh-tăng-đăng. Đại tá ra ngay đi, truyền lệnh thế nào cho sắp xếp thật vui thật đẹp. Đó là một cách thưởng công tốt nhất cho quân lính ta. Và cũng là cách tỏ cho dân An Nam biết chúng ta rất vững vàng, không hề nao núng với bất cứ sự quấy rối nào nếu có. Vậy Đại tá nên đi ngay. Xong việc sẽ trở lại đây nhé.

Péc-nốt đứng nghiêm chào, đi ra. Ba lính hầu xách đèn hộ vệ soi đường đưa đi. Trong phòng còn lại Đờ Cuốc-xy, Bờ-ri-e đơ Lin, Bôn-nan và mấy Trung tá sỹ quan tham mưu. Đờ Cuốc-xy nói ngay:

- Giờ chúng ta bàn vào việc ngay thôi. Trước hết cuộc vui hôm nay thế nào? Anh em ở đây lâu có nghi ngờ gì về vụ lộn xộn lúc nãy không?

Bôn-nan nói trước:

- Thưa Thống tướng đúng như ngài vừa nói, cuộc vui tổ chức thưởng công cho quân lính ta rất đúng lúc, mà nó lại khiến cho các quan và dân Nam biết rõ sự thắng thế và vững vàng của chúng ta. Còn việc lôi thôi vừa nãy theo tôi chỉ là một sự không may xảy ra, do lính ta quá say nghịch nhả nhớt quá, xúc phạm quá đáng đến cả bọn gái đĩ cũng không chịu nổi. Bọn này lại là bọn gái đĩ, bị xã hội ghét bỏ, bị các quan lại An Nam bắt đi cung phụng hầu hạ bọn lính Tàu mấy năm trước, và trong những ngày hội chung. Bây giờ chúng được chị Be của chúng ta thu dụng, nuôi nấng dạy dỗ để làm vui cho quân lính chúng ta. Chị đối với chúng rất tử tế, nên chúng nhớ ơn lắm, chắc không phản lại chúng ta đâu, cái bọn không nhà không nước ấy. Cho nên tôi nghĩ nên răn quân lính ta không nên quá sỗ sàng thô bạo với bất cứ hạng người An Nam nào.

Bờ-ri-e đơ Lin nói đắn đo hơn:

- Tôi là nhà binh, thấy những vụ lộn xộn, tôi phải ngờ có địch nhúng vào. Mà ở đây, tôi cho tất nhiên là có. Nhưng nhờ sức mạnh của ta, nhờ sự phòng bị chu đáo của ta nên địch có âm mưu cũng không làm gì được. Cho nên sau cuộc vui này tôi xin ngài Thống tướng khen thưởng cho Trung tá chỉ huy đơn vị bảo vệ Hà Nội.

Đờ Cuốc-xy nói với vẻ quả quyết:

- Tôi cũng nghĩ như Trung tướng vậy. Dù không phải là một âm mưu đi nữa, tôi cho là dám xúc phạm đến quân lính của nước Đại Pháp hùng cường cũng là một tội lỗi phải trừng trị, phải dập tắt sự chống đối ngay từ trong trứng. Cho nên những đứa nào đã bị bắt cứ giam đấy. Mai tòa án binh phải đem ra xử công khai làm oai với kẻ khác.

Hắn ngừng lại hỏi:

- Các ngài cùng nghĩ thế chứ?

Rồi không đợi ai nói gì, hắn nói luôn:

- Về đại cục, như tôi đã bàn với Trung tướng buổi sáng nay, chúng ta đã làm xong, quân Tàu phải rút hết, chúng ta đã chiếm giữ được hết các tỉnh lỵ và các địa điểm chiến lược. Như vậy, ở đây, tôi rất hợp ý với kế sách bình định chi tiết của Trung tướng chỉ huy đạo quân Bắc kỳ. Tôi chỉ cần nói thêm là việc bình định cần phải hợp các quan An Nam bắt các ông ấy phải đem hết sức làm việc cho ta, nếu ông nào có vẻ ngập ngừng ta cứ cắt chức đi, quá nữa thì cho đi Côn Đảo. Tôi đã nói hở cho ông Kinh lược biết thế. Đối với bọn An Nam này, quan cũng như dân, phải nện vào đầu họ, cho họ biết sức mạnh và uy quyền của ta. Tôi sẽ vào Huế, bắt cái triều đình ở đấy phải làm theo đúng ý chúng ta. Đó là mặt quân sự chung, còn giờ đây tôi xin nói chuyện chính trị với quan Công sứ. Chúng ta nhất thiết phải mở mang ở nơi đây một nơi thủ phủ của hai xứ Bắc kỳ và Trung kỳ này, một thành phố, một khu phố riêng của người Pháp chúng ta.

Bôn-nan nói:

- Thưa Thống tướng, chúng tôi đã có ý định mở như thế, đã vạch ra những phố, đã có dự định làm những công sở. Nhưng mọi việc ban đầu còn bề bộn, nên từ từ.

- Tốt! Đờ Cuốc-xy nói. Nhưng cần khẩn cấp hơn nữa. Cuộc vui vừa rồi bị lộn xộn, báo cho ta biết phải cần làm nhanh hơn nữa, không làm thế thì ta đóng không yên.

- Vâng tôi cũng biết thế, thưa Thống tướng, nhưng cũng phải có cái lý gì để dựa, mới thúc bọn quan An Nam làm nhanh như Thống tướng vừa nói, phải làm sao cho ông Kinh lược có toàn quyền, không cần đến triều đình. Hơn nữa phải đòi cho cái thành phố thuộc hẳn về ta như cái khu nhượng địa này.

Đờ Cuốc-xy vui vẻ nói:

- Đúng quá! Tất nhiên sẽ phải như thế. Cái thành phố này mai mốt sẽ phải là một thành phố riêng của ta, có quan chức riêng của người Pháp, chứ không cần có ngạch quan Nam. Nhưng chúng ta phải đi trước thế kia. Chúng ta cứ làm xong trước đi, việc đã xong đâu vào đấy, pháp lý sẽ công nhận sau. Như cái đường Hồ Gươm vòng quanh vạch ra từ thời tướng Bu-ê mà đến nay vẫn chưa làm xong. Thế là quá chậm. Đáng lẽ cứ phải làm bừa đi xong rồi để còn mở rộng ra. Đối với dân xứ này, không cần bàn bạc gì cả, chúng nó biết gì đâu, cứ làm đi, rồi chúng nó chịu. Đứa nào chống thì cứ giết hoặc cho đi tù.

Bờ-ri-e đơ Lin cũng nói:

- Tôi cũng bàn với ông Công sứ Bôn-nan dự định cắm cái khu phố mới cho người Pháp chúng ta. Nó sẽ nối từ thành ra đến khu Đồn Thủy, bao gồm cả khu Hồ Gươm ra đến bờ sông. Nhưng bận công việc bình định, nên việc mở phố còn phải dần dần.

Đờ Cuốc-xy nói với vẻ tự phụ:

- Bây giờ khác rồi! Ta đã thắng và đang thắng thì ta càng phải mở phố nhanh để cho người của chúng ta đến ở. Các vị cũng cùng một ý đấy chứ? Vậy thì ta nên bàn đến cách thi hành tỉ mỉ. Tôi cho là trong lúc còn đang tình trạng chiến tranh bình định này, mọi cách tiến hành để lấy đất mở rộng đường đều có thể làm được cả. Và nếu có cần đến mệnh lệnh, nghị định của tôi, tôi đều xin ký. Tất quan Công sứ đã có quy hoạch về mở phố từ lâu, ông thử nói qua những cách ông đã làm và dự định làm.

- Thưa Thống tướng, Bôn-nan đáp, đồ bản các phố đã dựng xong, nhưng phố thì chưa có phố nào thành hình. Chỉ mới có con đường đặt ray từ cửa thành xuống Đồn Thủy là làm xong và khúc đường này từ đầu phố Hàng Khay qua Tràng Tiền ra cửa ô đã là thành một phố lớn có dăm ba hiệu Tây. Mà mở đường phố này dễ làm, dân ở đây họ sợ, họ đã đòi đi nơi khác cả. Còn đường quanh Hồ Gươm thì chưa xong được vì các chủ đất ở đấy họ không chịu bỏ đất ra.

Đờ Cuốc-xy nói ngay:

- Ấy đấy, để cho họ chịu bỏ đất ra thì có đến đời mục mả. Cho nên tôi nghĩ thế này: chúng ta cứ cho mở đường. Chỗ nào chủ đất không chịu, ta cứ bắt giam nó lại, rồi cứ làm cho xong hãy thả ra. Nhưng điều cần nhất là những đất thổ cư làm nhà. Vậy tôi bàn ta nên làm thế này. Trên những phố đã vạch, làng nào họ bỏ đi cả hay gần hết ta cứ chiếm lấy mở phố xây nhà luôn, như cái phố Tràng Tiền ấy, còn những chỗ khác ta bắt quan Nam sức dân dời đi, đổi lại đất cho ta theo giá nhất định. Mà ở những chỗ cần làm ngay ta sẽ dùng cách bắt phạt cả làng đuổi đi nơi khác lấy đất ấy sung công thuộc của nhà nước... mà phạt thì thiếu gì cớ lúc này.

Một Trung tá tham mưu góp ý:

- Những nơi dân bỏ đi thì dễ mở phố. Vậy nên để cho lính vào quấy ở các làng có lợi là vừa làm vui cho lính, vừa dễ đuổi dân.

Bơ-ri-e đơ Lin khen:

- Hay đấy! Có chỗ giải buồn cho lính mỗi khi đi trận về. Mà những nơi nào ta muốn ban ơn cho dân ở đấy tin phục ta, thì ta treo biển cấm quân lính đến đấy...

Đờ Cuốc-xy quay sang hỏi Bôn-nan:

- Thế nào? Quan Công sứ!

- Kể thì cũng hay. Nhưng e rằng sẽ gây thêm cho dân oán ghét như thời ông Đuy-puy mới đến.

Đờ Cuốc-xy cười nói tiếp:

- Bây giờ khác chứ. Bây giờ chúng ta đã thống trị ở đây rồi, bắt dân thế nào dân phải theo thế. Vả ta chỉ tấn công vào những nơi nào ta định mở phố làm nhà thôi. Ta quấy rồi lại có giấy sức đổi đất để trả tiền tất nhiên dân họ so sánh, họ sẽ đòi đi cho mà xem. Còn thằng nào bướng thì bỏ tù.

Bờ-ri-e đơ Lin nói thêm vào:

- Vâng phải dùng đủ mọi cách, tùy cơ ứng biến chứ, miễn là được việc, cũng như đánh địch vậy.

Đờ Cuốc-xy nói như đắc thắng:

- Quan Công sứ vui lòng chứ?

- Dạ, thưa quan Thống tướng, tôi xin tuân hành.

- Vậy thì ngay từ phố quanh hồ nhé. Phải làm sao cho cái hồ ấy phải thuộc về chúng ta, phải là của chúng ta để chúng ta được vui chơi tự nhiên. Và để sau này những người Pháp ở đây sẽ mãi mãi nhớ ơn chúng ta, nhất là quan Công sứ Bôn-nan.

Bôn-nan cũng nói:

- Bẩm Thống tướng cả người bản xứ nữa chứ, rồi người bản xứ sẽ phải nhớ ơn chúng ta, nhất là nhớ ơn Thống tướng.

Mọi người đều cười vui vẻ.

Cuộc dạ hội chơi thuyền và vui đùa ở quanh Hồ Gươm kéo dài đến mãi quá mười một giờ đêm, đã có kết quả mỹ mãn như ý muốn của bọn quan Pháp. Nó có vẻ khích lệ tinh thần quân lính đồng thời nó tỏ rõ hẳn sự thắng thế của bọn chúng đối với dân chúng phường phố ở đây, sự đắc thắng của kẻ xâm lược văn minh đã làm chủ được cái đất nước, dân trí còn bán khai này, theo như chúng nghĩ. Và tất nhiên bóng tối trùm đến xóa nhòa ánh sáng. Cuộc thắng lợi của đêm vui đã làm xẹp hẳn mọi hoạt động bí mật của anh em Nghĩa hội trong thành phố. Bao mưu mô cố gắng đến đây hình như bọt nổi mặt sông. Nhiệt tình của những người tham gia đã giảm sút càng nguội lạnh thêm. Và những người trong cuộc càng căm tức tiếc cho công phu uổng phí từ bấy lâu nay, nhất là từ đầu năm nay, Pháp đã đặt xong tất cả các quan chức ở mấy tỉnh quanh nơi cố đô này, mà phần đông đều là người sở tại và là đồng môn Tự Tháp: quan nghè Kim Lũ Nguyễn Trọng Hợp làm Tổng đốc Sơn Hưng, quan Hoàng giáp Dụ Lâm Nguyễn Tư Giản, tiếng tăm vang lừng trong triều ngoài nội, làm Tổng đốc Ninh Thái, quan Bảng làng Ném Dương Danh Lập làm Tuần phủ Thái Nguyên. Còn ở Văn hội Thọ Xương, Lương Huy Ý, Hoàng Xuân Kỳ đều có chức vụ mới. Tú Tích, Tú Tốn, những người bị can năm Dậu trước nay đều làm quan ở tòa Hiệp lý. Đồng môn và văn hội không còn đủ danh nghĩa tập hợp khuyên răn được ai. Làng Đông Ngạc, nơi quê hương mà ấm Vẽ dựa vào để cổ động lôi kéo anh em các nơi thì nay đã theo về Nguyễn Hữu Độ rồi. Làng này đã quyên nhau được một nghìn quan tiền cúng vào việc xây sinh từ của quan Kinh lược và cử người cùng làm hưng công với Bát Gà, lúc này đã được bổ Tri huyện, đi mua vật liệu và coi thợ thuyền xây đền. Họ trở vào phố buôn bán và làm hàng bán cho Tây. Quân viễn chinh Pháp thường trú đóng ở Hà Nội là một nguồn tiêu thụ lớn. Mặt trận mở rộng, hành quân đi xa, việc cung cấp đòi hỏi thêm nhiều thứ thiết dụng. Phường phố Hà Nội trở thành nơi tiêu dùng cả mọi thứ hàng cần thiết và xa xỉ. Đồ thêu, đồ khảm, đồ gỗ bán chạy. Phố Hàng Hòm, Hàng Gai, Hàng Bông, Hàng Hài, Hàng Sắt... trở lại sầm uất. Nhiều người đứng ra mở hiệu, mộ thợ sản xuất thêm nhiều thứ hàng mới, hợp với sở thích của Tây. Mọi người mải làm ăn. Thành thử việc chống Tây không còn sôi nổi nữa. Người ta chỉ thường bàn đến chuyện ông này ra nhận chức, ông kia được mời đi ăn tiệc, ông nọ mới làm bộ ghế quý cho quan Kinh lược... để che giấu nỗi lòng tự cho phép mình nghỉ ngơi không dự vào việc nước nữa. Từ mùa xuân năm nay, sống giữa những người mải mê công việc mới như vậy, ấm Cầu làng Vẽ càng thấy chán nản không còn hăng hái như trước nữa, không còn dám nói thực với ai, ngoảnh đi ngoảnh lại, coi ai cũng như người xa lạ, liền mò xuống Tự Tháp tìm cậu ấm Phách để cùng bàn bạc cách đối phó lúc này. Ở dưới phố này cái vẻ thanh bình phồn hoa bề ngoài lại còn rõ rệt hơn ở trên làng. Tây đóng giáp làng, đi lại luôn ngoài phố, người người coi quen mặt, những người nào kiên quyết chống giặc đã bỏ đi hẳn. Còn những người ở lại hay mới trở về đều nghĩ cách yên thân, không bận đến Tây Tàu để sống riêng với hạnh phúc gia đình. Cậu ấm Ba cũng đang ngán ngẩm với thế sự nhân tình, chưa biết tìm mưu kế gì ứng phó được cả với quan ta và giặc Pháp. Cậu đang băn khoăn bức bối thì gặp ông ấm Vẽ đến chơi. Ông vốn vui tính nói trêu ngay:

- Nước nhà đang bề bộn mà tráng sỹ lại nằm khoèo ro ró ở nhà. Mong mất mặt không thấy đến. Thế thì còn gì là việc nghĩa nữa. Thôi lấy vợ đi để về nhà mà hí hú cho vui.

Ấm Phách cũng nói thẳng:

- Nhưng bây giờ thì chẳng ma nào nó muốn lấy mình nữa.

- Thế thì đi chơi với tớ nào! Đi!

- Đi đâu.

- Đi đâu thì đi, đi bàn việc nghĩa. Cứ đi khắc biết.

Ba Phách vui vẻ theo ấm Vẽ đi ngay. Hai người đi thẳng lên phía Hàng Hài. Ba Phách đang nói về chuyện cố Tây làm nhà thờ, thấy đi theo hướng này hỏi ngay:

- Vào bác Cử à?

- Không! Để im cho ông già ấy nghỉ. Ấm Vẽ nói thủng thẳng. Cứ đi sẽ đến. Cứ đi khắc biết.

Hai người luồn sang Hàng Quạt, lên qua đình Xuân Yên, lên Hàng Mã qua chợ Đồng Xuân, không dừng vào đâu cả. Ấm Tự Tháp sốt ruột hỏi:

- Đi đâu mà xa vậy? Mà len lén len lén như cun cút chẳng kịp chào hỏi ai.

- Vào xóm vui xuân! Ấm Vẽ trả lời một cách dõng dạc:

- Chết tiệt, ấm Ba đấm vào lưng bạn và nói. Thế mà bảo là việc nghĩa.

- Chứ lại không à? Ấm Vẽ nói một cách thản nhiên. Thấy cậu buồn chẳng ma nào nó lấy, tớ rủ đi chơi cho vui. Vả lâu nay không đến người ta nhớ mong nể lòng phải đến tạ lòng.

- Vào nhà ai? Đào Huệ hay đào Cúc?

- Chú mình chỉ được cái thế. Thích nơi nào lắm đào trẻ. Chúng ta vào nhà đào Nhung. Mụ này quen biết nhau đã lâu lại có vai vế ở đây.

- Rõ vẽ chuyện đi hát còn cần vai vế. Để tôi về tôi mách bác gái cho mà xem.

- Được, thách đấy. Nhưng có vào không đã.

- Có chứ, đã là việc nghĩa thì đệ xin theo.

Hai người đi sang phố Hàng Giấy. Từ khi không thi hương ở đây nữa và từ sau khi quân Pháp chiếm giữ thành phố, việc học chữ nho bỏ bê, việc bán giấy ở phố này không còn sầm uất. Xóm cô đầu đã ở lấn vào, có nhà dọn ở ngay cả ngoài phố. Hai người thủng thẳng đi giữa phố, đến một ngôi nhà lá có ba chuồng cửa bướm đóng kín, một cửa ngách ở bên hé mở. Ấm Vẽ đẩy cửa bước vào, tranh tối tranh sáng trông thấy lờ mờ lố nhố những người, vội kêu:

- Ô! Sao lắm khách thế này? Nhỡ bét cả rồi!

Hai người cùng bước vào đứng sững. Một mụ đàn bà nạ dòng quấn khăn nhiễu tam giang bỏ đuôi gà chấm vai, hai tay nắn lại khăn vội chạy ra miệng cười duyên dáng, nói:

- Nhỡ gì ạ? Thưa hai cậu, lâu lắm mới lại được hầu tiếp hai cậu, ngỡ là hai cậu cứ mải lo việc nước, quên cả chúng em, chúng em cứ nhớ nhớ là.

- Thật à? Thề đi nào! Ấm Vẽ nói.

- Cậu bảo nhỡ em bảo nhớ, làm gì mà phải thề!

- Rõ ỡm ờ! Nhưng đông người thế kia còn ngồi kề cà vào đâu được mà chả nhỡ. Chị Nhung đâu?

Người đàn bà mỉm cười, cúi đầu, xoay người giơ tay vào phía trong nói ngọt ngào:

- Rước hai cậu vào ạ. Đây là người nhà cả, mà cậu đã giận rồi! Thưa cậu ngồi chơi, em đi gọi chị Nhung em. Chị em đang có việc nhờ cậu giúp đấy. Chị em ra ngay.

Một cô gái mặc áo tứ thân hai vạt thắt chéo, tóc vẫn cài lược xương trắng vội chạy giải ngay ngắn cái chiếu đậu cạp đỏ cho đúng mép sập, bưng một trống con đặt lên chiếu, để chiếc dùi lên mặt trống, đon đả mời:

- Rước hai cậu ngồi chơi, thưa trống đây, cậu khai dùi ra lệnh. Chị Nhung em phải ra ạ!

Ba Phách vẫn không nói gì cả bước vượt hai bước nhảy ngồi tót lên sập, vớ lấy cái dùi và trống đánh luôn một nhịp xuyên tâm tom chát tom rồi lại để dùi nằm ngay trên mặt trống. Đào Nhung vừa ở nhà trong ra đến cửa vội reo lên:

- Tưởng quan lớn nào mà ác thế! Hóa ra hai cậu, may quá thật phúc bằng bố tôi sống lại!

- Chúng tôi sẽ ở lỳ đây ám ảnh suốt từ nay cho đến mai, chị có thù tiếp được không?

- Chỉ sợ các cậu mải lo việc vua việc quan, việc Tây việc Tàu các cậu lại đi ngay. Đào Nhung đáp, chứ các cậu cứ ở đây một tháng chúng tôi cũng xin vâng.

Rồi mụ tíu tít đuổi mọi người:

- Vào đi, vào nhà trong, chúng bay vào cả đi để chị ngoài này nói chuyện với các cậu. Em Lan, em Can ở đây chị bảo.

- Sao nhà đông thế? Có đám khách nào? Đón Tây à?

- Đón các cậu đấy. Đào Nhung cười rất tươi. Và đón cả Tây nữa đấy.

- Ô, thế thì thèm vào, ta đi nhà khác, ấm Ba nói.

- Nhà nào thì bây giờ cũng thế cả, các cậu chưa biết đấy thôi. Chứ nói giấu gì hai cậu, nhà em hôm nay đông thế này là có việc gả chồng cho cô em nó, nên các bạn đến mừng đấy ạ.

Đào Nhung nói xong, quay ra giục hai cô em:

- Các em đi quạt nước pha chè mời hai cậu đi.

Hai cô đi sắp bàn chè, ấm Vẽ ngạc nhiên hỏi:

- Lạ nhỉ, gả chồng cưới ngay ở nhà cô đầu à?

- Vạn bất đắc dĩ cả. Vì thế may quá em muốn nhờ các cậu. Chả biết các cậu có đánh chữ đại xá đi cho, em mới dám nói.

- Được cứ nói, ấm Ba nói lạnh lùng. Nên thì giúp, dở thì thôi.

- Nhưng thưa hai cậu, đối với hai cậu có lẽ cho là dở, em cũng xin cứ nói. Chả là cô Tín nhà này được ông quan ba Tây cập-tên là Đa-giăng ông ấy cứ nằng nặc đòi lấy, không gả không được. Mà cái ông ấy chả trách tên là đa điếc có khác, ông ấy cũng đa đoan đa sự thật, lại bắt phải ra tòa làm giấy giá thú, họ nhà gái phải có người đàn ông thay mặt ký tên vào đấy, nên em muốn phiền hai cậu hạ cố đi dự giúp cho...

Cậu ấm Ba đang nằm dài trên sập, ngồi nhỏm dậy, cười lớn:

- A ha! Ấm Vẽ có con gả chồng... là bố vợ Tây.

- Im tao nói chuyện nào, ấm Vẽ gắt, rồi nói riêng với đào Nhung. Chị muốn thuê tôi ra ký vào giấy chứ gì? Thuê bao nhiêu? Thuê thế nào?

- Em nhớ hai cậu, gặp hai cậu em mừng quá. Đào Nhung nói ỏn thót. Em mới dám nói tình thực như thế. Còn hai cậu thương cho được phận nào em nhờ phận ấy, hai cậu bảo thế nào em xin theo thế, em có dám nói thuê đâu ạ!

Cậu Ba Tự Tháp nói dắm dẳn choãi ra:

- Chị nói dễ nghe nhỉ, các con em nhà chị quyền quý lắm đấy, mà bảo chúng tôi phải vác mặt ra tòa Hiệp lý để cho bọn Tú Tồn, Tú Tích, Bát Gà chúng nó... vỗ tay reo à?

Ấm Vẽ hỏi một cách bình thản hơn:

- Tôi hỏi thật nhé. Chị có thích việc này không? Và chị em ở đây có coi đó là một sự danh giá không?

- Ối giời ôi! Khổ cho chúng em ấy chứ, đào Nhung kêu giãy nảy lên. Bọn chúng em bị mọi người đứng đắn ghét bỏ, khinh bỉ, chỉ mong sao được yên thân, thế mà hết quan bắt, Khách bắt, nay lại đến lượt Tây bắt. Cùng bất đắc dĩ phải chiều nó cho xong chuyện.

- Dù sao thì cũng nên mừng, ấm Ba nói. Đây là một đám cưới đầu tiên giữa hai giống người Nam, Tây được các quan chứng nhận giữa lúc nhà nước đương thi hành lưỡng quốc bang giao hòa hảo.

- Vâng. Đào Nhung phân trần. Vả lão cập-tên này sang ta đã lâu từ thời loạn năm Dậu, nói sõi tiếng ta, lại rất lễ phép, say mê con Tín, ngoan lắm, bảo sao lão nghe vậy.

- Được! Ấm Vẽ nói đĩnh đạc. Vậy chị hãy đi vào nhà trong để chúng tôi thử bàn xem có thể giúp được gì không? Một lúc thôi. Rồi chị ra ngay, tôi bảo.

Đào Nhung ra khép chặt cửa, trở vào, gọi cả hai cô em cùng vào. Ấm Vẽ liền tươi cười bảo bạn:

- Việc nghĩa đấy, bàn đi! Mình phải giúp họ, họ mới giúp mình chứ. Ông có mất chân giò bà mới thò chai rượu.

- Thôi, xin nhường phần anh, cậu ấm Ba nói có vẻ giận dữ. Anh đi mà kết nghĩa với Tây, để mà hết nạc vạc đến cả xương.

Ấm Vẽ ghé vào tai bạn nói khẽ:

- Ngu như bò ấy, người ta nói thật lại dỗi. Này bọn Tây nó đang mê và tin bọn này, ta nên nhân dịp khích lệ tụi này giúp ta trừ bọn lõ một phen. Vậy cao kiến thử nghĩ mưu đi nào! Nghĩ không được lợi thì thôi, nào ai bắt bò mà đã dỗi.

- Nhào! Cậu ấm Ba nói. Chuông khánh còn chẳng ăn ai, huống chi mảnh trĩnh vất ngoài bờ tre. Tụi nó lại ton hót ngọn ngành với Tây thì có mà lại tự nhiên lạy ông tôi ở bụi này.

- Vì thế mới phải bàn, ấm Vẽ nói nghiêm nghị. Cứ thử dò xét khích lệ họ xem. Chả hơn cứ nằm dí ở nhà mà trông bọn Tây chúng nó hoành hành à? Còn nước còn tát.

Ấm Tự Tháp ngồi im. Ấm Vẽ thủ thỉ bàn kế hoạch: cửa trong kẹt mở, bức màn hoa cuốn lại một bên. Đào Nhung bước ra tươi cười chưa kịp nói, ấm Vẽ đã hỏi ngay:

- Chị có ghét Tây không?

- Thưa cậu, khác giống, khác hơi, lại hay nạt nộ chúng em, bảo chúng em không ghét sao được. Đào Nhung đáp.

- Thế chị có biết bấy lâu nay chúng tôi thường làm gì không?

- Dạ, nghe nói các cậu cùng văn thân văn hội họp nhau đánh Tây, mưu đuổi Tây đi.

- Thế sao lại mượn chúng tôi đi ký giá thú với Tây?

- Vì các cậu nghỉ rồi, văn hội nghỉ cả rồi, các ông Cử, ông Tú dạo này lại hay đến đây, các ông ấy đều nói thế.

- Sao chị không mượn các ông ấy?

- Vì hạnh ngộ có các cậu đến. Việc hôn nhân lại vừa mới ngã ngũ tối hôm qua. Mà chiều nay đã đón dâu rồi. Vả chúng em quý các cậu hơn, có các cậu, chúng em cũng được thơm lây.

Ấm Tự Tháp hỏi xen vào:

- Văn thân nghỉ rồi, bây giờ các chị mới lộ rõ mặt thích Tây ra đấy nhỉ. Cháy nhà mới ra mạch chuột!

- Ối giời ôi! Đào Nhung lại kêu giãy nảy lên. Cậu đổ chết cho chúng em như thế, còn giời đất nào. Chúng em là hạng người bỏ đi, động một tí là họ bắt đi hầu hạ, phải đi ngay. Mấy chị ở bên Bắc năm ngoái bị cụ thượng Bắc bắt đem nộp cho quan lính Tàu, trốn bỏ về đây lại bị gọi đi hầu lính Tây đấy, không đi không được. Lệnh cụ thượng ban xuống, rồi quan huyện Thọ với chị Bảy suốt ngày ở đây xem xét, đòi hỏi, chả triệu được đứa nào! Rõ quỷ tha ma bắt cậu bảo còn thích nỗi gì.

- Chị Bảy nào? Ấm Vẽ hỏi.

- Mụ đầm Bảy, hiệu cà phê bờ hồ ấy mà, đào Nhung nói. Mụ ta tự nhận là chị Bảy cho nó ra vẻ An Nam, nên chúng em cũng quen gọi thế.

- Vậy các chị có muốn đánh Tây với anh em chúng tôi không? Ấm Vẽ hỏi đột ngột.

Đào Nhung ngớ người ra một lúc mới dám nói:

- Thưa cậu, chúng em là hạng người bỏ đi, ai lại đi bàn việc đánh Tây với chúng em. Chính bọn Tây nó cũng biết thế đấy. Cho nên hễ cùng bất đắc dĩ, thằng Tây nào hoạnh họe giày vò quá là tức lên chỉ thụi cho nó mấy quả, nện cho nó một trận, tát cho nó hộc máu mồm ra, rồi muốn ra sao thì ra. Đã có ba bốn đám như thế đấy.

- Thế thì được! Ấm Vẽ nói giọng quả quyết. Tôi định hỏi ướm chị, nếu chị biết nghĩ, tôi sẽ mượn người hàng phố ra tòa cho chị. Nhưng nay đã thế, tôi bàn với chị thế này nhé, chị mà bằng lòng, tôi sẽ xin đứng ra ký cả hai tay hộ chị.

Ông hạ giọng nói thầm riêng với đào Nhung một lúc, rồi lại nói to lên như bàn thêm với ấm Tự Tháp:

- Chỉ sợ để lộ ra lại hại lây đến cả nhà chị và chúng tôi.

Đào Nhung nói ngay không đắn đo gì cả:

- Chả ai họ để ý gì đến chúng em đâu mà sợ. Mà chúng em để lộ thì được lợi cái gì. Vả lại có chị Bảy đi lại đây em sẽ càng dễ ứng biến. Còn tin hay không là tùy quyền ở các cậu chứ.

- Được rồi cứ thử xem đã. Hễ chị phản chúng tôi, chúng tôi sẽ có cách trừng trị.

- Gớm nhỉ ghê thế. Đào Nhung cười nói tiếp. Vâng sau việc này, mai em sẽ chọn một số cô bàn riêng với nhau, rồi hai cậu phải khích lệ chúng nó nữa chứ.

Ấm Vẽ nói rất cởi mở thân thiết:

- Thế bây giờ chúng tôi cứ ở lì đây đến chiều nhé, tùy ý chị muốn bảo làm gì cũng làm, không nề hà, người nhà mà.

- Vâng, đào Nhung đứng lên đi vào vừa nói. Hai cậu cứ ở đây đến mai. Chỉ sợ không ở được thôi. Trống phách đàn hát cái gì cũng xin có đủ. May quá, để em vào em báo chúng nó mừng.

Thế là thoáng một cái, cả bọn đào và kép ùa cả ra nhà ngoài reo lên vui vẻ ồn ào. Có cô reo to:

- A ha! Có bố vợ rồi. Tín ơi đi ra nhận bố đi!

Mọi người cảm thấy vui như ngày tết.

Sau cái đám cưới Pháp Nam đặc biệt này, cả thành phố đồn rầm lên việc ông ấm Cầu làng Vẽ làm chủ hôn cho nhà hát cô đầu, được Tây chiều chuộng đủ điều. Những người lâu nay giấu mặt buôn bán với Tây và những người hám lợi nhưng còn sợ mang tiếng chưa dám hành động gì, nhân dịp này đã công nhiên đi tìm thế lực cố làm quen được với Tây. Người ta hùa nhau đặt thêm điều chê trách ấm Vẽ để giữ lấy tiếng thanh cao, đức độ cho bản thân mình. Mặc! Ấm Vẽ vẫn đi lại phố Hàng Giấy, ra vào xóm bình khang như thường, để ngoài tai mọi người bóng gió. Cả ấm Tự Tháp cũng vậy. Một hôm hai ông lại dẫn thêm hai người bạn gái nữa đến nhà đào Nhung. Một số chị em được báo trước đã đến họp cả ở đấy. Đào Nhung ra đón khách cài chặt cửa lại, rồi mời bốn người vào ngồi lên sập khách và nói:

- Bây giờ thì nội bất xuất ngoại bất nhập, giầu chè thuốc bánh đủ cả rồi không phải chạy đi đâu cả, xin hai cậu cứ bàn tính cho kỹ, xem xét cho tường.

Ấm Vẽ vui vẻ cười mời mọi người ngồi gần lại và nói tiếp:

- Hôm nay xin dẫn thêm hai bạn gái đến bàn thêm với các chị, các chị biết đấy, bọn đàn ông chúng tôi vô dụng, vỡ tiếng lộ liễu cả rồi, nói chẳng ai nghe mà Tây thì nó cứ lấn, nên phải núp đằng sau các chị mà giật dây vậy.

Một cô đào nói rào đón trước:

- Thưa các cậu, các mợ, chúng em...

- Ấy chết chớ! Ấm Vẽ vội nói. Chớ gọi thế, mợ mà đến được đây chết cả nút, chết cả tôi, cả chị. Đây là cô Cúc em tôi, đây là cô Xuyến con gái cụ Thương Kim hiện bây giờ là Tri phủ Thường Tín. Đều là con quan mà hăng hái đi làm việc nghĩa cả đấy. Hai cô đi lại nhiều, quen biết nhiều, biết rộng địa thế, biết cách sắp xếp, tiến lui, sẽ chỉ vạch rõ cách đánh và đỡ. Vả có cô Xuyến là con quan đương làm việc, nhỡ có lộ cũng không ngại lắm.

- Vâng, thưa hai cậu và hai cô, cô đào kia nói tiếp. Chúng em thất thố xin hai cậu, hai cô đại xá cho. Chúng em là hạng đê tiện cỏ rác mang tiếng là làm tan cửa nát nhà người ta. Chả ai thèm đếm xỉa đến, xưa nay vốn dĩ đã thành lệ, lấy quan cách, lấy Khách Khách về Tàu, lấy nhà giàu nhà giàu hết của. Thế mà nay các cô các cậu là con nhà quyền quý lại có lòng đoái tưởng đến chúng em, dạy bảo mở đường cho chúng em biết làm việc nghĩa, thật là ơn tầy non Thái. Các cô lại thân đến đây với chúng em thế này, không sợ điều tiếng gì, chúng em rất là xúc động, nguyện dốc một lòng theo các cô.

Cô Cúc nói vẻ thân mật khích lệ:

- Các chị bất tất nói đắn đo quá lời như vậy. Vì thằng Tây đến đây quấy rối làm cho bà con ta mọi người đều khốn khổ, nên toàn dân ta đều muốn đánh đuổi tụi nó đi. Các chị cũng vậy, chị em chúng tôi cũng vậy. Đã cùng chung một chí hướng thì không nên đắn đo khách sáo với nhau. Tôi xin nói tình thực, các chị đừng giận, mất lòng trước hơn được lòng sau. Trước khi bắt tay vào công việc, chị em ta nên rõ lòng nhau đã. Tôi chỉ sợ nửa chừng hoặc vì Tây nó dụ dỗ, hay đe dọa đánh đập mà rồi bỏ chúng tôi, làm hại chúng tôi thì chả bõ...

- Thưa cô, cô đào kia nói đỡ, các cô tin hay không, đó là tùy ý các cô chứ bụng chúng em có phải là bánh thì chúng em bóc cho cô xem. Đằng nào thì thân chúng em cũng vẫn vậy, cũng phải chịu cay chịu đắng chứ có lợi lộc gì đâu. Không làm theo các chị thì chúng em cũng vẫn bị Tây nó khinh rẻ đánh đập, có khi tức nước vỡ bờ, đánh lại là bị nó giết ngay. Đã có hai ba đứa bị bắn chết rồi đấy. Mạng chúng em không bằng mạng con ngóe, chết có ai thương. Đằng nào cũng chết. Theo các cô các cậu, có làm được việc gì có lợi cho nước, cho dân, các cô các cậu biết cho, có chết cũng mát lòng mát dạ đỡ tủi cái linh hồn ăn cháo lá đa, chúng em có ăn ở hai lòng xin giời tru đất diệt.

Đào Nhung nói xen vào:

- Thật đấy các cô ạ. Chị Huệ này ở Bắc sang đấy, đã bị bắt đi theo Tàu theo Tây đủ cả, và mấy cô đây này cũng vậy, có cô đã vác cả dùi đục đánh Tây mà còn thoát chết về đây đấy. Cho nên điên tiết lên, thì Tây, quan, Khách, chúng nó đánh tất. Chỉ cần mưu kế của các cô các cậu là chúng nó đánh tất. Bây giờ xin em làm người giữa em bàn như thế này nhé. Nếu đã tin nhau trông cậy nhau thì xin bàn ngay vào việc: con Tín, nó được yên thân, được chồng nó chiều, ta cứ để nó nằm yên đấy, dùng nó để bòn mót tin tức và của cải của Tây. Còn chị Huệ, chị Hoa, chị Bưởi đây đã được chọn đi hầu ở hàng chị Bảy, các chị sẽ phải đốc suất mọi đứa hầu hạ trong ấy. Chị Huệ phải cố làm sao cho con mụ Bảy nó tin mình. Rồi cần gì, cần người cần của, thì tôi xin xoay. Xếp đặt ở ngoài xin do các cô các cậu.

Cô đào Huệ nói ngay:

- Các cô các cậu có tin chúng em thì xin cứ bày cách cho chúng em làm. Hiện mẹ Bảy nó đang bảo em về bảo chị Nhung tìm thêm con gái bán hàng hầu hạ cho nó. Mai nó sẽ đến đấy. Tụi Tây sắp mở hội thắng trận ở bờ hồ đấy. Có đủ trò vui, mà bọn con gái chúng em cũng là một thứ trò vui cho chúng nó. Thế nào rồi cũng có Tây say rượu, có đánh nhau.

Ấm Vẽ vội hỏi ngay.

- Thế à? Chị phải hỏi lại cho rõ mọi kẽ tóc chân tơ nhé. Và chị Nhung cho gọi cô Tín lại, dặn nó hỏi dò thêm nhé. Giờ ta hãy bàn sơ qua, chia tạm mỗi người mưu một việc, hai cô sẽ đem các bạn gái cùng hành động ăn nhịp với các chị, còn chúng tôi sẽ đem dũng sỹ Nghĩa hội thừa cơ quấy rối lộn xộn mà tấn công vào phá cuộc vui...

Đào Nhung chăm chú nghe rồi trông sang cô Cúc nói:

- Các em, chúng nó ngu dốt, không biết ứng biến đâu. Hai cô đây đứng chỉ huy là chúng nó tin và sướng lắm đấy, chết chúng nó cũng không sợ. Chỉ cần các cô giao cho mỗi đứa từng việc một và dặn nó cặn kẽ phải làm như thế nào và ăn nhịp với ai, nghe theo hiệu lệnh nào?

- Đúng rồi! Phải thế. Ấm Vẽ nói. Nhưng phải đợi chị Huệ báo cho biết rõ cách tiến hành các trò vui của tụi nó thế nào. Bây giờ chúng ta chỉ bàn xem ba cánh chúng ta đây, mỗi cánh nhận công việc gì, cử ai đứng chỉ huy liên lạc và hẹn ngày và nơi gặp nhau.

Mọi người đồng ý như vậy, phác qua việc mỗi bên phải sửa soạn và định cuộc gặp gỡ sau.

Qua mấy lần họp, việc chia cắt đã rõ ràng, việc chuẩn bị cũng chu đáo. Các đội đều sẵn sàng. Nhưng như chúng ta đã biết, đêm hội vui của giặc chỉ bị gián đoạn một lúc vì có sự ẩu đả lộn xộn rồi lại tiếp tục yên ổn và tưng bừng cho đến mãi khuya. Bọn Tây đã thắng ở ngoài mặt trận, lại thắng lớn ở đêm vui này. Biết bao mưu mô bàn bạc và đem ra khuyên nhủ nhau từ hơn tháng nay đến đây đã tiêu tan hết. Lại có người bị chết, người bị thương, người bị giam nữa. Ơ! Hỏng quá! Hẹn hò gì mà làm dở dang, đánh rắn giữa khúc như thế kia chứ! Mà sao hôm nay đã hẹn rồi, mãi đến giờ cũng chưa thấy lại? Hay là lại có chuyện gì? Cô Cúc thấy mọi người đến đủ, chỉ còn thiếu có ấm Tự Tháp, liền giục anh Thạch ở Yên Trường đi tìm cho được mới về. Những người có mặt cứ họp, bàn ngay về công việc đã làm hôm qua. Chị đào Huệ được mời nói trước. Chị bán hàng ở cửa hiệu cà phê, được mụ Be tin cậy, đã chia cắt các cô hầu bàn và bán hàng ở khắp bờ hồ đêm hôm ấy theo như sự sắp xếp đã bàn bạc trước. Các cô này đã làm đúng được như dự định. Nhưng vì không có sự tấn công kết hợp của các đội khác, nên kế hoạch bị bỏ dở, có bốn cô bị giết chết, ba cô bị thương, bốn cô hiện còn bị giam. Chị Huệ thuật xong, đào Nhung nói thêm:

- Em đã bảo con Tín nói với chồng nó xin tha cho mấy cô kia. Nhưng nghe đâu, chồng nó bảo quan trên cứ bắt xử tội để làm gương cho người Nam không được động chạm đến người Tây. Được cái trong bọn có con Bưởi, nó đủ mồm mép cãi lý được với Tây.

Chị Huệ cũng nói:

- Chị em chẳng ai cung khai gì cả, nên con mẹ Bảy nó cũng không nghi ngờ chúng em. Nó bảo vì bọn Tây say rượu nhả nhớt quá, nên con hầu nó đánh lại mà thành to chuyện. Em chỉ tiếc sao các đội khác không ùa vào tức khắc, lúc ấy mà đánh túi bụi thì chúng nó trở tay không kịp. Đằng nào thì cũng phải có người chết, em chỉ thương mấy chị em chết uổng.

Cô Cúc nói khuyên giải:

- Việc nhỡ ra như thế, chính là lỗi chung của anh chị em chúng tôi. Chị không nỡ trách, chúng tôi cũng rất lấy làm đau xót. Chúng tôi xin cố hết sức tìm cách đền bù lòng cao cả của các chị ấy. Ngay bây giờ xin chị Nhung cố nói với chị Tín tìm mọi cách xin tha cho các chị bị giam, nếu cần cả anh ấm cũng phải thân đến nói với chồng chị ấy, cũng phải đi cho được việc. Nếu chưa lộ mà chỉ là một cớ để giữ thể diện cho lính Pháp thì ta bày vẽ cách phạt thế nào cho xong chuyện thì hơn, cho các chị ấy đỡ bị oan tội nghiệp. Còn về cánh anh chị em chúng tôi, chúng tôi cũng phải truy cho ra lỗi chậm trễ lỡ việc vì ai? Việc là việc lớn mà như trò đùa, thế là không được. Bác ấm ở ngay đấy mà cũng để ra cơ sự như thế thì lạ thật.

- Bọn tôi ở trong này có mười người chia cắt đâu vào đấy cả rồi chỉ đợi ở ngoài đánh vào làm cho chúng nó lộn xộn xuất kỳ bất ý chúng tôi đánh tung ra, trong ngoài cùng hợp sức làm cho chúng nó rối loạn. Nhưng đợi mãi không thấy, lỡ mất thời cơ chúng nó đủ thì giờ tập hợp đề phòng, bọn tôi phải vội rút mau, không thì lộ mất. Thế mà cũng có mấy anh múa gậy phang cho mấy thằng Tây bị thương nặng rồi trốn thoát ra đấy. Còn hỏa mù, thuốc nổ và thuốc cháy chưa kịp phóng, sợ lộ.

- Thế thì lỗi tại ông tướng Tự Tháp rồi. Cô Cúc nói, ông ấy lóng ngóng để lỡ dịp, hỏng việc, ông ấy không dám đến họp. Được thế nào cũng mời cho ông ấy đến bằng được. Bác ấm phải đi tìm cho được ông ấy về đây. Cô Xuyến và tôi ở trong này giúp các chị, khuyến khích các chị, khi không thấy tiếp ứng đúng hẹn, cô Xuyến nhanh trí đã ra ngoài cùng với mấy chị em ở ngoài phóng lửa đốt luôn dãy nhà lá của tụi lính Khách Phúc Châu để báo hiệu thúc giục cánh quân nghĩa dũng sỹ vào đánh úp. Ấy thế mà cũng lỡ, hỏng việc, uổng quá, thành thiệt thòi riêng cho mấy chị em của chị Huệ, chị Nhung. Tội quá. Thật chúng tôi lấy làm xấu hổ. Xin các chị đừng giận và nói lại với chị em thế nào cho chị em đừng trách oán chúng tôi.

- Không sao đâu, cô ạ, chị Huệ nói. Chị em chúng em là hạng người bỏ đi, nay được các cậu các cô coi ngang hàng thân thiết như người nhà khuyến khích chúng em làm được việc có ích lợi cho giống nòi, thế là chính chúng em phải biết ơn các cậu các cô. Cho nên dù có mệnh hệ nào, chúng em cũng không có ân hận oán trách gì. Xin các cô các cậu đừng lấy làm nghĩ ngợi, chúng em sẽ bảo nhau, chúng em chỉ tiếc là chưa giúp làm nên trò trống gì.

- Hỏng việc là lỗi tại chúng tôi, ấm Vẽ nói. Còn các chị đã giúp được nhiều việc đấy chứ. Không kể mấy chị đã liều chết bỏ mình làm theo mưu kế của chúng tôi. Chị Huệ đã đưa một số anh em chúng tôi vào hầu ở đám hội có đủ giấy má hợp lệ, băng tam tài. Chị Tín nói với chồng cấp giấy cho tôi được vào vui chơi... để mà chỉ huy. Chị Nhung đã đi lại biến báo và khuyên nhủ chị em vững lòng tin ở chúng tôi.

Đào Nhung bưng dứa và nước chanh quả ra mời mọi người, rồi nói:

- Thôi thưa cậu và hai cô, không cần phải nói nhiều đến chị em của chúng em. Chúng em vốn khéo thớ lợ với khách chơi, còn về việc này chúng em rất thực lòng có thế nào xin nói thế không ân hận gì cả. Chỉ xin cậu và các cô đừng có khinh thường chúng em. Vụ này chưa lộ, các cô các cậu vẫn có thể bày cho chúng em làm những việc khác nữa.

- Vâng, nhất định rồi. Ấm Vẽ vội đỡ lời. Thế nào chúng tôi cũng phải nhờ đến các chị. Dù sao chúng tôi cũng phải tìm ra cái lỗi của chúng tôi quy xem tội về ai để mà tránh chứ. Binh cơ phải linh hoạt, sai một li đi một dặm, chậm một nháy mắt là thời cơ tiêu tan không thể cứ để trì trệ như thế nữa.

- Giá cậu ấm cứ cho phóng hỏa mù và thuốc nổ ngay lúc ấy lại hóa hay. Đào Nhung nói, nhưng chưa dứt câu đào Huệ đã cãi:

- Ấy chết, thế thì chết cả nút, nếu thế thì Tây nó bắt hết, giết hết, vỡ vung ra rồi, nó triệt hạ cả xóm này ấy chứ.

- Thế thì vẫn là tội cậu ấm bờ hồ chúng em à? Đào Nhung cười hỏi lại. Cậu ấy đem quân đánh vào được kịp thì cũng đã vỡ vùng ra rồi. Tây nó không bắt giết hết à?

- Nhưng đó là đánh nhau thực sự có chết cũng đáng. Mà nó không thể ngờ từ đâu ra. Cô Cúc giảng giải. Và như thế Tây nó mới sợ ta, mới khua động được lòng dân. Ta phá được đêm vui thắng trận của bọn nó làm cho bọn nó và bọn quan Nam không còn khoe huênh hoang được nữa. Ta mới có đà mà đi cổ động mọi người đánh Tây. Cho nên bỏ lỡ mất thời cơ lúc này vẫn là có tội, đáng trách. Chúng ta phải đợi cậu Ba Tự Tháp đến nói rõ đầu đuôi xem sơ suất vì đâu.

Vừa lúc ấy anh Thạch đưa ấm Phách đến. Cuộc họp im lặng, trở nên nghiêm trang. Ấm Vẽ ngồi ngay ngắn lại cất tiếng hỏi dõng dạc từ tốn mà nghiêm trách:

- Chú mình có hai tội nặng, không ứng công đúng lúc, lại tự ý rút lui, đến cuộc họp không đúng hẹn để phải cử người đi tìm. Hai lần đều chậm trễ, sai trái. Vậy chú mình nên tự xử đi.

Ấm Phách thản nhiên cãi:

- Ở ngoài, Đề đốc lãnh binh chúng nó đưa quân đến dàn kín cả, thằng Nguyễn Hữu Độ nó cho canh giữ kỹ hơn giữ mả tổ nhà nó. Lúc động thì trong ngoài chúng nó đã đề phòng cả rồi, súng ống sẵn trong tay, tôi mà đánh vào, có mà nó làm cỏ.

- Phải đánh nhanh, đánh xuất kỳ bất ý, khiến chúng nó đang hoảng hốt trở tay không kịp chứ! Ấm Vẽ nói nhấn mạnh.

- Làm cỏ thì làm chứ. Cô Xuyến nói khích. Chỉ có tiến chứ không lùi. Đã hẹn cùng đánh là phải cùng một lúc, nó mới sợ...

- ... Đã thế, ấm Vẽ tranh ngắt lời cô Xuyến, sao hôm nay lại sai hẹn để người ta phải chờ đợi, phải đi tìm. Dễ thường không có người tìm không đến chắc?

- Tôi tưởng việc không thành, chưa cần họp vội cho chúng nó khỏi ngờ. Ấm Ba trả lời ngay không úp mở.

- Việc quân không thể trẻ con thế được, ấm Vẽ nói. Tôi với cậu chỗ tình thân cái chấy bửa làm đôi có nhau. Nhưng việc nghĩa phải vô tư. Ngày trước Khổng Minh khóc mà chém Mã Tắc, thì bây giờ tôi cũng phải nén tình riêng mà xử phạt cậu để tạ tội với chị em.

- Việc Mã Tắc khác mà việc tôi bây giờ khác. Ấm Ba cãi. Tôi mà cho đánh vào lúc ấy thì Tây nó giết hết cả rồi, còn đâu mà ngồi đây để hỏi tội tôi. Phải tùy cơ ứng biến chứ.

- Trí ư tử địa nhi hậu sinh 16 . Cô Cúc lúc này mới lên tiếng. Cùng rồi tất biến. Mưu trí là ở đấy. Bốn mặt cùng đánh dồn vào trong lúc bất ngờ thế nào cũng thắng. Thế mà cậu lại tự ý bỏ chạy. Còn những người bị chết trong ấy thì cậu bảo sao?

Ấm Phách ngồi im chưa kịp cãi, anh Thạch đã nói:

- Tôi chỉ tiếc công lao chị Huệ uổng phí. Hai cậu ấm đều có lỗi cả. Lỗi chính là ở cậu Ba. Cậu đã không cho quân đánh vào để mọi người đều ngóng chờ lỡ cả việc. Nhưng cậu Vẽ cũng chả ra sao, cứ cho mấy anh em chúng tôi đánh vung lên, đánh túi bụi cho chúng nó chết một mẻ, có phải sướng không? Cậu cứ bắt đợi lệnh, rồi sau lại cấm chúng tôi đánh. Rõ chán quá!

- Ấy các cô ở đây cũng vừa bàn thế, đào Nhung nói. Nhưng chị Huệ chị ấy bảo không đốt là phải. Đốt đánh to ra mà ở ngoài không đánh vào được, Tây nó ngờ có mưu mô chống nó, nó sẽ giết hết và bắn vung ra nhiều người thì hỏng hết mọi việc sau này.

Cậu ấm Tự Tháp được thể vơ ngay lấy dịp cãi:

- Đấy tôi mà đánh vào còn vỡ vung nữa. Nó sẽ quét sạch vùng này chứ chả chơi: công chửa thấy đâu, đã thấy tội.

- Ấy là nói trong hồ chứ, đào Huệ thanh minh, còn ở ngoài mà đánh vào thì lại khác. Đằng nào cậu Ba cũng vẫn có lỗi.

- Các chị thì biết gì, ấm Ba cáu tiết nói gắt. Chỉ được thế nói theo.

Ấm Vẽ vội mắng át đi:

- Chú không được nói láo! Lỗi sờ sờ ra đấy không nhận, còn coi khinh ai? Thế những ai bị chết ở trong hồ kia?

Anh Thạch thấy mọi người ngồi im thủng thẳng nói:

- Bọn chúng tôi chỉ muốn nện thôi rồi ra sao thì ra. Bọn ở trong thế. Anh em bên ngoài cũng thế. Thằng Tấn Thuận Mỹ nó bảo chính cậu Ba cấm không cho chúng nó chạy vào thành, chùng chình mãi. Mấy lần nó xông lên đều bị cậu cản lại, nó tức lắm, nó bảo cậu ấy sợ chết mất cô Cúc.

Thấy nói chạm đến mình, cô Cúc vội thanh minh:

- Ơ hay! Can gì đến tôi kia chứ.

- Nó bảo cậu Ba bắt đợi hễ thấy cô Cúc ra mới cho đánh. Thành thử bọn Tây và bọn lính ta mới kéo đến vây kín.

- Nói láo! Cô Cúc nói tiếp, thế còn cô Xuyến và các chị đây thì sao?

- Nó bảo chả vì cô Xuyến là con cụ Thương, Tây nó biết nó không nghi. Còn cô Cúc, người xa lạ. Anh Thạch nói rõ thêm.

Cô Xuyến từ nãy vẫn ngồi im chạm lòng tự ái, liền nói sấn sổ:

- Cậu ấy chỉ cần giữ gìn cho chị Cúc thôi, vì cậu ấy rắp ranh lấy chị ấy, còn ai chết mặc ai.

- Cậu ấy muốn lấy cả cô Cúc và cô Xuyến kia đấy. Anh Thạch nói một cách tự nhiên. Tôi thấy nhiều người đồn đại thế.

- Nói thế mà nói được! Cô Cúc gắt. Mà chị cũng đến là hồ đồ.

- Đấy, chị thử hỏi cậu ấy xem. Cô Xuyến nói. Chả thế sao lại ngồi thừ ra đấy không nói năng gì. Sao lại rút lui không đánh vào đúng lúc. Đằng nào cũng là lỗi nặng, phạm quân luật cả. Nhát sợ hay tư tình đều là hạng bỏ đi cả, đều là hèn nhát. Những người ấy có chó nó lấy.

Cậu ấm Phách tức phát khùng lên:

- Làm ăn dở toen toét lại đổ lỗi cho người ta rồi lại còn nói láo. Tao không thèm dây với các người! Nghĩ quý quyền lắm!

Ấm Vẽ vội xua tay nói ôn tồn:

- Không được, Không được! Sao đương việc nọ lại sọ ra việc kia thế này. Chú mình phải điềm tĩnh mà nhận lấy lỗi mình chứ. Tri quá cận hồ dũng 17 đã nhỡ ra thì phải biết can đảm nhận lấy lỗi sơ suất, lòng riêng có vấn vương gì thì cũng phải chân thành nói ra người ta mới có thể tất cho chứ.

Ấm Tự Tháp bị thẹn đã quá nóng, được giận mất khôn, nói toáng:

- Tao dại, tao nhát, tao cũng chẳng cần đến ai. Nó dồn cho chết cả nút. Tao không đánh vào là cứu sống cho đấy. Đã không biết thì thôi, còn nói láo, đã thế tao đếch cần, ai thiết gì các người...

Cậu gườm gườm nhìn ấm Vẽ rồi mở cửa bước ra ngoài.

Im lặng một lúc, ấm Vẽ nhìn theo ra cửa mãi mới lên tiếng nói phá bầu không khí nặng nề, trong khi cô Huệ đi ra cài cửa:

- Để rồi tôi bảo nó.

Cô Cúc cũng nói theo:

- Đâu lại có người nông nổi nóng nảy thế. Mà cũng tại chị Xuyến nói chạm vía anh ta.

- Tại à? Tại anh ta chỉ chăm bề toan tính lấy chị rõ rành rành ra đấy còn gì nữa.

Cô Xuyến trả miếng lại nói móc.

- Thôi thôi xin các bà, ấm Vẽ vội dàn hòa. Nói làm chi đến thằng dở hơi ấy. Ta hãy trở lại bàn việc của ta.

Chị Huệ sốt ruột, vẻ lo lắng:

- Em sợ cậu ấy tức, cậu ấy đi nói toạc ra lạy ông tôi ở bụi này. Tây nó biết lại khổ bọn chúng em.

- Không! Không đời nào, ấm Vẽ nói với vẻ quả quyết để yên lòng mọi người. Thẹn thì phát khùng lên thế, chứ con nhà gia giáo nghĩa khái, long đong mười mấy năm nay vì việc nước. Nỡ nào!

Đào Nhung tiếp lời, giọng từ tốn vừa có tình có lý:

- Việc riêng của các cô với cậu ấy thế nào chúng em không dám biết. Nhưng hai việc công tư bỗng nhiên vỡ lở liên tiếp nhau. Cậu ấy tức giận bỏ đi, ngộ nhỡ do đấy xảy thêm chuyện gì nữa ta phải phòng trước. Nên em xin bàn thế này. Chúng em cứ đi chạy lo cho mấy cô em bị giam mau được tha, và nghe ngóng xem nó có bắt bớ thêm ai, xem có bị lộ không. Nếu cứ thế này im đi không thấy động tĩnh gì thì xin các cô các cậu cứ lui tới đây chúng em làm được việc gì có ích là chúng em làm ngay để cảm tạ tấm lòng quý hóa của các cô các cậu đã tin yêu chúng em.

Chú thích:

1.

Trông cửa nhà vua.

2.

Then khóa ở cửa phương bắc.

3.

Tua bằng chỉ màu có kết hạt trang trí, thường được đính vào mép các bức thêu. (BT)

4.

Monsieur hout personnage, aller: Ngài nhân vật cao cấp, đi... (Tiếng Pháp nói sai ngữ pháp).

5.

“No” hay “non” (nông) tiếng Pháp, nghĩa là không. Ở đây là đừng...

6.

Nước Pháp lúc này không còn chế độ quân chủ. Nhưng bọn thực dân thường gọi thủ tướng Pháp như là Hoàng đế để lừa bịp bọn phong kiến Việt Nam.

7.

Trăm phúc kéo đến nghìn lành như mây tụ về.

8.

Cantine: Quầy ăn uống.

9.

Intendance millitaire: Hậu cần nhà binh.

10.

Đơn vị đo lường cũ của Việt Nam. Ngũ hay tầm dùng để thay cho từ bộ (5 thước), 1 ngũ = 5*0,32 = 1,6 mét. (BT)

11.

Như tòa thị chính hay UBHC thành phố ngày nay.

12.

Tiệm nhảy.

13.

Lại đây, Venez ici. Vẻng-xi tức là Vơ-nê-i-xi đọc theo cách nói của bồi bếp làm cho Tây. Cũng đều nghĩa là lại đây.

14.

Au secours! Cứu tôi với.

15.

Bonne nuit: chúc ngủ ngon.

16.

Đặt vào đất chết mà lại sống được.

17.

Biết lỗi đã gần dũng cảm rồi.

23/11/1966
Chu Thiên
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt 2 Tháng Chín, 2022 Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là co...