Thứ Tư, 29 tháng 9, 2021

Tình yêu thánh hóa 1

Tình yêu thánh hóa 1
Khu rừng lau 3

Phần Một

BỐI CẢNH

Chương Một

THÀNH ĐÔI

I

Năm 1954 với những đợt di cư đầu tiên khuôn mặt dân tộc Việt đẹp một cách kỳ diệu - đó là điều Kha vẫn thường lòng tự nhủ lòng. Ra đi để lại mồ mả ông cha phía sau và biết bao nhiêu trường hợp gia đình phân đôi cha mẹ già ở lại con cháu ra đi, ra đi hẹn ngày trùng phùng tuy còn xa lắm nhưng tất nhiên phải có. Cuộc chia tay của gia đình nào mà chẳng “lệ rơi thấm đá tơ chia rủ tằm!” Vào tới miền Nam, đồng bào miền Nam nhân hậu lại hiểu lầm và hỏi mỉa “Ngoài đó chiến thắng Điện Biên Phủ, tổ quốc độc lập vinh quang rồi sao không ở lại mà lại di cư?” Kha nghe kể có người anh là sĩ quan mang tiểu gia đình theo quân đội viễn chinh vào đóng ở Nha Trang trước, người em trai đã vô Nam làm ăn tự mấy năm trước bèn đi chuyến xe tốc hành từ Sài Gòn tới Nha Trang tìm gặp anh, chỉ vào chiếc xe Jeep sơn màu cứt ngựa của quân đội và nói: “Anh quen bơ sữa của giặc nó thí cho, anh ngồi trên chiếc xe Jeep này của giặc anh có thấy nhục không? Rồi bỏ đi liền, lên chuyến tốc hành về Sài Gòn. Người anh đành im lặng. Còn biết nói gì hơn?! Còn muốn nói gì hơn?! Làm sao mà giải thích cho người em hay hoàn cảnh tế nhị của mình cũng như của ngót một triệu đồng bào di cư khác, là vào Nam đề giữ lấy nhân phẩm điều kiện tiên quyết của con người xứng đáng với danh vị đó. Sự kiện hiểu nhầm đầy rẫy giữa những người từ Bắc vô với những người vốn ở miền Nam hoặc sắp từ Nam “chọn tự do” ra Bắc. Người em mắng anh xong rồi ra Bắc, mặc dầu có biết rằng mẹ, chú, bác, cô, dì và các anh em khác cũng đương lênh đênh trên con dường vào Nam bằng đường thủy. Người anh không hề giận em, sự đau khổ vì nhiều từng trải dã khiến anh trở thành bao dung. Cũng như tất cả những ai đã “qua cầu cộng sản,” anh hiểu với tuyệt kỹ bưng bít và tuyên truyền của cộng sản thêm vào những sơ hở ấu trĩ của miền quốc gia thì hình như định mệnh của một số người Việt miền Nam là phải đích thân “qua cầu cộng sản” ngõ hầu mới hiểu bộ mặt thật cộng sản để mà thông cảm với nỗi lòng đau như cắt của tám mươi vạn đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Một niềm an ủi cho người anh, là sang năm 1955 anh nhận được bưu thiếp của người em trong có một câu lờ-mờ như lời xin lỗi. Thoạt anh bỡ ngỡ chưa hiểu, thì một tháng sau nhặn được một bức thư dài gửi thoát qua đường Cao Mên, bức thư đó đoạn sau cùng người em viết:

“... Mẹ bảo các em viết thư ngay cho con biết chừng. Con gởi lời vào chúc bà ngoại, các chú thím cậu mợ, các anh chị bên nội bên ngoại được mạnh giỏi. Con gửi lời thăm bà con chòm xóm đã vào tới đây và mong mỏi chòm xóm mạnh giỏi làm ăn thịnh vượng. Cả nhà nhớ là con đương chờ tin của nhà. Vì công cuộc làm ăn nên con chưa thể tới thăm cả nhà được.

Mẹ ơi con cứ động mơ thấy mẹ là lòng nghẹn ngào nước mắt ứa ra vì ngay trong giấc mơ con đã linh cảm thấy việc đó đâu có thực hiện dễ dàng như thế. Hoàn cảnh đau thương biết là chừng nào!

Kính chúc mẹ mạnh khỏe

Con của mẹ

T.”

Đã có những người vượt tuyến, có người bị giữ hàng tháng, bị tra khảo vì ngờ là phản gián điệp. Trong đám người được thả ra trên đất tự do ấy có người tuyên bố “dù có bị giữ hàng năm và mỗi ngày một trận đòn rồi mới được thả, tôi vẫn thấy là xứng đáng! Đó là thái độ và tiếng nói của những người đã có kinh nghiệm bản thân qua “cầu đoạn trường cộng sản”. Đọc xong lá thư của em, người anh bắt đầu nuôi hy vọng đợi ngày tái ngộ, hy vọng em sẽ trở về giới tuyến của mình qua con đường Lào hoặc Miên.

II

Theo nhà thương, đi cư vô Nam trước, một thực tại tâm linh hằng ám ảnh Miên: nàng luôn luôn ao ước Kha đã tới Sài Gòn. Giấc mơ thành tựu chừng nửa tháng sau. Kha từ Hải Phòng vào Nam bằng đường thủy. Chàng gặp Miên ở tòa báo; buổi họp đó của gia đình Văn hóa có ăn uống. Miên thoạt tránh không để Kha chào, thành thử hai người càng ngượng ngùng dưới những đôi mắt trầm lặng của Khiết, Khóa, hóm hỉnh của Lãng, Luận (ngày đó Hiển chưa ra trường). Miên giúp Cam - vợ Khiết bếp nước, bày bàn. Khi cùng mọi người ngồi vào bàn ăn Miên thấy chân tay lúng túng như thừa, sau cùng nàng có ngước nhìn Kha - nhìn thẳng chớ không liếc trộm - thì có gặp cái nhìn của Kha vẫn cố tình chờ đợi, cái nhìn vẫn man mác sinh lực siêu hình nhưng bớt sức mạnh man rợ, có lẽ vì đôi môi Kha muốn hé nụ cười.

Chè chén xong, vào lúc gia đình Văn Hóa sắp chia tay, Kha tiến lại... Miên run người và một cảm giác mơ hồ làm đau thót bụng. Kha cúi xuống nói khẽ: “Miên, anh đưa em về”.

Hôm đó Miên đã gục mặt khóc trên vai Kha trong xe tắc xi. Rồi Miên có đôi lần đến làng Thăng Long - làng của đoàn

Sinh viên Đại học Hà Nội di cư - thăm Kha. Thời này đoàn Sinh viên Đại Học Hà Nội đang dẫn đầu phong trào chống thực dân

Pháp và cộng sản, và cố lôi kéo anh em sinh viên Nam cùng tham dự phong trào, mặc dầu vào dạo đó anh em Hà Nội có nhận thức thấy trong số sinh viên Nam có nhiều khuynh hướng thân cộng. Sinh viên đại học Hà Nội đã vận động xong cuộc tổng bãi khóa để đòi được chính phủ Pháp trao trả Viện Đại học cho chính phủ Việt Nam. Cũng đã gần tới kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày đất nước chia cắt. Vào ngày 13-7-1955 Kha cùng một số đông các anh em sinh viên và một số đông hơn nữa anh em học sinh đi biểu tình bốn tiếng đồng hồ liền trước các trụ sở Ủy Hội Quốc tế - một ở đường Yên Đổ, một ở khách sạn Galliéni, một ở khách sạn Majestic - phản đối họ đã quá nhân nhượng với Cộng Sản. Vì có sự can thiệp yêu cầu của Thủ tướng - ông Ngô Đình Diệm - đoàn biểu tình tạm giải tán, nhưng cơn căm phẫn - không riêng gì của anh em sinh viên, học sinh, mà của toàn dân - còn kéo dài đến ngày 20 tháng 7.

Sớm ngày 20-7 Miên được nghỉ bèn đến thăm Kha tại làng Thăng Long, tới nơi chỉ thấy những căn lều trống trải. Nàng hỏi anh sinh viên ở lại phụ trách bếp nước, được anh cho hay toàn thể anh em sinh viên đã chia nhau đi biểu tình phản đối Ủy hội Qưốc tế ở ba trụ sở của họ. Miên lên xe theo hút họ ra chợ Bến Thành thấy Kha cầm đầu một trong ba toán. Gọi chàng thì không tiện, nàng về thẳng nhà. Đến trưa Miên hay tin cuộc biểu tình đã trở thành vĩ đại với hào khí ngất ngất có thể át cả cuộc biểu tình tổng khởi nghĩa xưa tại Hà Nội.

Quả thực thế, khối sinh viên di cư, hợp với khối học sinh các trường Chu Văn An, Nguyễn Trãi và khối học sinh còn ở tạm khu lều Phú Thọ cùng ùa tới, rồi cả khối sinh viên học sinh đó thu hút đồng bào các giới... Chính phủ Ngô Đình Diệm vào những ngày đầu di cư này như một cô gái nghèo hiếu hạnh vừa đến tuổi dậy thì với một nhan sắc vừa khích động tình yêu, vừa vừa khích động lòng thương, và lòng ái quốc dâng lên như nén hương lòng thơm ngát... Tin tức truyền đi qua các cửa miệng rất nhanh chóng: “Đoàn biểu tình tới khách sạn Galliéni thấy một tên lính Việt Cộng đứng gác bèn ồ ạt xông vào, tên Việt Cộng bỏ chạy... Một học sinh Chu Văn An bị thương ở mặt phải chở đến nhà thương Chợ Rẫy...”

Tin tức khác về đoàn biểu tình trước khách sạn Majestic:

“Sinh viên cướp súng tiểu liên rồi dùng judo quật một nhân viên Ủy hội, nhân viên Ba Lan trong Ủy Hội trốn biệt tăm. Đồ đạc của khách sạn bị dập phá tan hoang.

Nhớ lại ban sáng thấy Kha đứng ở bùng binh Chợ Bến Thành, Miên không rõ sau đấy Kha dẫn đầu toán đến khách sạn Galliéni, hay dẫn đầu toán đến Majestic. Nàng thuê xe đến cả hai nơi cùng chỉ thấy hai cảnh tan hoang, cửa kính bị đập vỡ, cửa chớp bị phá gẫy, các đồ đạc vứt xuống đường ngổn ngang... Anh em sinh viên thì chỉ đập phá cho sướng tay nhưng một số dân chứng nhân dịp bèn ùa vào hôi của. Khi Miên tới, anh em cảnh sát đã cố vãn hồi dược trật tự và đứng canh gác quanh khách sạn. Miên tới làng Thăng Long, Kha vẫn chưa về.

Buổi sáng hôm đó Kha ở trong toán dẫn đầu cuộc biểu tình đến khách sạn Galliéni. Bầu không khi biểu tình quả có sục sôi nhưng lần này hoàn cảnh đất nước có khác và Kha đã trưởng thành, thái độ chín chắn hơn, chàng làm chủ thời cuộc chứ không bị thời cuộc lôi cuốn đi như ngày tổng khởi nghĩa năm xưa làm chàng quên Vân. Buổi chiều hôm đó chàng đến tìm gặp Miên.

Nửa tháng sau Hiển mãn khóa. Anh em trong gia đình Văn hóa sửa soạn một tiệc trà thân mật để chứng kiến lễ thành hôn đôi bạn họ: Kha, Miên. Khi đó làng Thăng Long đã hạ hết lều, nền khám lớn chuẩn bị xây trường đại học Văn Khoa, các anh em sinh viên di cư dọn xuống khu đại học xá đầu tiên vừa xây cất xong ở đường Minh Mạng, đối diện với nhà thờ Ngã Sáu Chợ Lớn. Đôi vợ chồng trẻ có một căn phòng xinh xắn mỗi bề bốn thước tại dãy ngoài cùng, dãy các sinh viên có gia đình.

Chương Hai

MỘT CHUYẾN BUÔN... VĂN HÓA

I

Tiếng cô nữ chiêu đãi viên hàng không lanh chao, lễ độ và đằm thắm báo bằng ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp là phi cơ còn mười phút nữa thì cất cánh, chuyến bay Sài Gòn - Đà Nẵng dài một tiếng bốn mươi lăm phút và hành khách sẽ được dọn mời ăn điểm tâm trong khi bay.

Phi cơ cất cánh đúng lúc tám giờ, Kha ngồi sát bên cửa kính nhìn ra ngoài, phi đạo thẳng tắp, khoảng giữa, nơi cọ sát với bánh phi cơ khi lên cũng như khi xuống màu sẫm biếc như màu đá mài.

Luận hích tay Kha nói:

- Tao trông con bé hôtesse de l’air quen quá... Bỗng Luận vỗ tay xuống đùi đánh đét:

- A phải rồi, hồi ở Hà Nội em ở sát nhà tao, hồi tao còn cô vợ. Trời, dạo đó em nhỏ xíu, mày!

- Vợ nào - Kha hỏi - cái cô mà cậu đấm một cái, quai hàm lúc chiếu điện thấy có fêlure phải không?

- Cái thằng này nhớ lâu gớm! đẹp:

Nữ chiêu đãi viên đã đến với khay kẹo mời Luận rồi Kha.

Vừa thò tay vào khay lấy hai chiếc, Luận vừa nói với người

- Tói nhớ ra cô rồi, xưa ở Hà Nội cô ở sát ngay nhà tôi. Người đẹp mỉm cười hóm hỉnh:

- Bây giờ ông mới nhận ra em, em thì nhận ra ông ngay.

Luận thốt được câu “thế à” rồi im bặt, vì câu nói đó kèm theo nụ cười mỉm kia nhường như muốn riễu những cảnh lục đục của vợ chồng Luận ngày dó.

Cô chiêu dãi viên đã sang hàng ghế khác. Luận hỏi Kha:

- Mày thấy con bé thế nào?

- Đẹp!

- Khuôn mặt hơi vuông, mày thấy không, lẽ ra trông dữ tướng đấy, nhưng viì cách chải tóc khéo một bên xoã che một nửa má, một bên chải gọn gài mái tai, thành thử trông khuôn mặt nàng hiền như mặt trăng e thẹn sau đám mây che nửa.

Kha phì cười:

- Cứ thế khai triển ra viết được một truyện ngắn đấy. Luận chợt hỏi:

- Mày trông môi nàng thế nào?

Kha không lạ gì câu chuyện của Luận bao giờ cũng chỉ quanh quẩn về đàn bà và luôn luôn có tính cách đâm đãng, chàng ừ hữ...

- Đẹp!

Luận quắc mắt:

- Mày sợ bà Miên ghen hay sao mà làm bộ đứng đắn thế? Mày thì đứng đắn chó gì!

- Thì đã bảo là đẹp rồi, không đủ sao? Cái thằng!

- Tao trông như màu môi nàng chỉ đánh bóng chứ không có son dù là thứ son màu hường thật lợt.

Kha gật đầu:

- Ừ ừ...

- Môi chỉ đánh bóng không, gian lắm nhé, chả là tha hồ hôn không sợ lộ tẩy.

- Ừ ừ...

- Làm thế nào tao phải hôn con bé một cái mới dược.

- Có sợ người ta chửi cho không?

- Ô hồ, tao có chiến lược chiến thuật hẳn hoi, chửi thế nào được.

Luận ấn chỗ tay tựa cho ghế ngồi ngửa về sau một chút, rồi nhin lên chỗ để hành lý nhẹ, vẻ mơ màng nói:

- Môi ấy đáng để mình tương tư một tháng!

Không thấy Kha trả lời, Luận cũng im lặng đôi mắt lim dim. Đương mùa mưa lớn nên phi cơ bắt đầu rập rình và đèn phía trước bật sáng với hàng chữ yêu cầu hành khách buộc dây lưng an toàn.

- Xin ông kéo chiếc bàn nhỏ ra để em để thức ăn sáng - người đẹp nhắc Luận sau khi đã đặt khay xuống cho Kha.

Luận vừa làm theo lời cô vừa nói:

- Năm xưa cô còn nhỏ và xinh, bây giờ cô đã lớn và đẹp.

- Dạ cám ơn ông.

Đoạn cô lanh chao xuống hàng dưới để tránh những lời tán-tỉnh khác của Luận mà cô linh cảm thấy sắp có thể tuôn ra như nước lũ.

- Chiến thuật của cậu khởi sự rồi đấy phải không? Kha hỏi.

- Cặp môi lợt khiêu khích thật! - Luận nói.

Đôi bạn bắt đầu nhỏ nhẻ ăn im lặng. Cô nữ chiêu đãi viên đã tới hai tay cầm hai bình nhôm. Nàng hỏi Kha:

- Thưa ông dùng cà phê sữa hay trà ạ.

- Cô cho tôi nước trà.

Luận hỏi trong khi nàng rót trà cho Kha:

- Cô biết loại hoa hồng Hòa Lan mệnh danh là Brigitte Bar- dot mới trồng ở Đà Lạt?

- Dạ thưa không a.

- Màu hồng lợt, thật lợt giống môi Cô?

- Dạ thưa ông dùng trà hay cà-phê sữa ạ?

- Tùy cô!

Nàng cắn môi giữ nụ cười và nói:

- Thế thì ông dùng cà-phê sữa vậy. Luận lắc đầu:

- Màu cà phê sữa lợt quá.

- Thế ông dùng trà vậy.

Luận đưa cho nàng rót trà rồi làm bộ lắc đầu ngao ngán hơn:

- Màu trà thì lại thẫm quá, có thức uống nào màu hồng lợt không Cô?

Nàng đã xuống hàng ghế dưới. Luận ghé tai Kha nói thầm:

- Mày có thấy lúc môi nàng mím lại, môi dưới hơi thưỡi ra? Chịu rồi ạ!

Kha nói:

- Ai chọn màu vải xanh da trời, ai nghĩ ra cách ăn mặc áo dài, đầu đội ca-lô xanh, tay mang găng trắng cho các cô nữ chiêu đãi viên hàng không Việt Nam, thật Đẹp! Cô gái Việt Nam mặc quốc phục quả đẹp nhất thế giới như những người Âu Mỹ thường ca ngợi...

Luận ngắt lời:

- Nhưng chỉ khi nào các bà ấy mặc quốc phục thôi ông ơi, các bà ấy mà mặc đầm, trông ngán lắm ạ, cẳng chân thì ngắn ngủn đôi khi lại vòng kiềng nữa, thớ thịt bụng đáng nhẽ nên thon thì lại to, ngực đáng nhẽ nên to thì lại có khuynh hướng lép...

Trời bên ngoài vừa hửng nắng khi phi cơ bắt đầu hạ thấp cao độ, nhìn qua kẽ biển mây đã thấy màu xanh của rừng bên dưới, lấp loáng ánh nước và màu đất đỏ đây đó.

- Mời ông xơi kẹo!

Cô nữ chiêu đãi viên đã mang khay kẹo lại mời ăn trước khi phi cơ hạ cánh. Luận lấy kẹo sau Kha. Kha thấy Luận thoạt chọn chiếc bọc giấy thiếc màu xanh rồi bỏ, chọn chiếc khác giấy thiếc màu tím rồi bỏ, cầm chiếc màu đỏ thắm ngần ngừ rồi lại bỏ, sau cùng Luận làm bộ vồ lấy chiếc kẹo có giấy bọc màu hồng lợt, đặc biệt lần này Luận không nói một tiếng nào và không cả ngẩng đầu lên nhìn người đẹp. Kha phải nghĩ thầm: “Cái thằng đến là cao tay!”

Phi cơ dã xuống khá thấp, bên ngoài mây vàng lộng vì có tia ánh mặt trời, tia sáng đó chiếu thẳng chênh chếch, từ phi cơ nhìn xuống chỗ nào gặp nước ánh vàng lại rực lên tưởng như bên dưới mặt nước phẳng tựa gương đó có ai theo dõi phi cơ bấm chiếc đèn pin lên. Đã trông thấy dòng sông Cẩm Lệ và núi Sơn Trà với con đường chữ chi lên tới đỉnh nhòa mây như đèo Hải Vân.

Phi cơ quành ra biển, bóng chiếu trên mặt nước xanh biếc như bóng một con kình ngư vô tình bơi theo cùng đường với phi cơ.

Hàng ghế trên có người nói: “Khoảng biển Nam Ô đó, là nơi làm nước mắm nổi tiếng của Đà Nẵng!” Kha nhìn xuống khoảng biển nhấp nhô những thuyền buồm màu trắng, đây đó những chòi tre lợp cỏ để người ta đêm đêm ra cất vó.

Phi cơ đã hạ cánh. Mọi người sửa soạn đứng dậy nối đuôi nhau đi xuống. Tới gần cầu thang Kha thấy cô nữ chiêu đãi đứng nép bên tấm màn bằng nỉ màu tím thẫm và Luận chùn lại. Khi xuống bực thứ nhất Kha kín đáo quay lại vừa lúc Luận khẽ cúi xuống nói với người đẹp câu gì rồi quờ tay ôm, cúi xuống hôn đại, cô gái dùng tay đẩy Luận và ngửa mặt sâu vào nếp màn nỉ. Khi Luận bước lên kịp, Kha hỏi:

- Có hôn được không?

- Quền quệt một tí. Thế cũng hả, có thế tao mới giúp anh

Khóa trong chuyến buôn này được đắc lực.

Kha mỉm cười khẽ lắc đầu và ngẩng mặt nhìn trời vì mây xám từ biển vừa ùa tới và mưa bắt đầu rơi.

II

Cả Kha lẫn Luận cũng chẳng giúp được gì cho chuyến buôn này.

Đây là chuyến buôn đầu tiên của Khóa từ ngày di cư vào

Nam. Khóa tuyên bố nếu chuyến buôn xi măng này với Nhật mà phất, Khóa sẽ có dư tiền mở một nhà in để gia đình Văn hoá tha hồ mà in báo và tác phẩm của anh em nhà không lo bị người ngoài bắt chẹt. Vốn là một tay buôn lớn và óc tính toán sáng suốt, Khóa nói ngay chương trình của mình. Khi mở nhà in, Khóa sẽ mua một miếng đất thật rộng, ở ngoại ô Sài Gòn cũng được và thoạt xây nhà ba tầng thôi nhưng móng và cột bê tông thì thật lớn và vững để chuẩn bị nâng lên năm sáu tầng khi nhà xuất bản của anh em đã phát triển đại quy mô. Tầng dưới cùng đặt máy in, tầng thứ hai tòa soạn, tầng thứ ba là kho sách báo. Những tầng cao xây thêm về sau cũng chỉ dùng làm kho sách, bởi vì nhà xuất bản Văn hóa theo như ước vọng của anh em sẽ có đủ các loại sách: sáng tác, dịch thuật, khảo luận... khả dĩ cung cấp thức ăn tinh thần cho mọi giới. Thoạt đầu chưa có đủ tiền mua thang máy nhưng căn nhà sẽ chừa trước một khoảng vuông để khi nâng lên năm sáu tầng thì đặt thang máy vận chuyển sách báo cáo tiện. Lúc nhà xuất bản Văn Hóa đã phát triển tới mức đại quy mô thì miếng đất rộng đó ai cấm Khoá sẽ cho xây thêm căn nhà thứ hai, lần này thì hẳn Khóa đã có dư tiền mà xây luôn lên năm sáu tầng và đặt thang máy ngay từ đầu. Khóa tuyên bố sẽ thực hiện bằng được cái hay của người Âu Mỹ: khoa học trong cách sản xuất, khoa học trong cách chi thu.

Hãng xuất nhập cảng xi măng Việt Nhật thành lập, giấy tờ bắt đầu làm để com-măng kịp xi măng về vào mùa khô, nhưng mãi ba tháng sau Khóa mới đi Đà Nẵng.

Nửa tháng sau Khiết nhận được thư của Khóa muốn có hai anh em trong gia đình Văn hóa ra Đà Nẵng giúp một tay. Khiết hỏi, Luận xung phong đi, Kha đã hưởng trọn tuần trăng mật với Miên cũng xin đi, cả hai cùng muốn tìm hứng lạ cho những sáng tác mới, một công đôi việc. Theo lời dặn vắn tắt trong thư, ra khỏi phi trường Kha, Luận thuê chiếc xe lô đi bãi biển Tiên Sa mặc dầu lúc đó mưa còn nặng hạt, nhưng khi xe qua cầu sang bên An Hải thì trời lại bắt đầu hửng. Chiếc xe lô đi vào con đường nhựa xinh, hai bên là những cồn cát trắng xóa, cây cỏ khô cằn, nhưng khi xe đi sâu vào tới sát núi Sơn Trà thì màu xanh cây cỏ đã ngợp mắt Kha… Đã lâu lắm, từ ngày dời bỏ Việt Bắc nay Kha mới được đắm hồn vào giữa màu xanh thiên nhiên của núi rừng, chàng mê mải ngắm một chiếc nhà ngói cũ màu rêu xây trên một đỉnh đồi lẩn dưới vòm thông và bàng cùng những cây vô danh khác. Vẻ trầm mặc nghỉ ngơi của căn nhà làm Kha thấy se sắt cõi lòng. Xe men theo chân núi, bên tay trái là một vùng biển thanh bình như hồ phong cảnh thật cẩm tú. Cũng đã lâu lắm nay Kha mới lại bắt gặp những bông hoa mua màu tím, những con bướm nhỏ cánh màu tím phớt bay tung tăng, và những khóm hoa lau phảng phất tím, Kha nhớ đến Miên người vợ hiền thục của chàng với giấc mộng được đi vào khu rừng lau trên núi Sáng thuộc Bỉnh Di...

Xe đã tới bải biển Tiên Sa. Đó là một bãi biển xinh xắn ăn sâu vào ria núi, bãi cát trắng phau với hai hàng lưới đánh cá phơi mầu nâu xẫm.

Tới khách sạn Kha, Luận chỉ còn thấy có người Nhật. Người bạn buôn ngoại quốc này nói là Khóa cũng mới đi khỏi và đưa cho Kha lá thư của Khóa. Kha và Luận cùng đọc:

Anh em gia dình Văn Hóa,

Không biết hai cậu nào ra đây với tôi, tới đây xin cứ nói với ông bạn người Nhật Ma-Si-Ta cho mượn chiếc xe Citroên và người tài xế, đến ngay Hội An, đường Trần Quý Cáp số... sẽ gặp tôi.

Thân. Khóa

Trong thư tuyệt nhiên không có một lời của Khóa nói về áp phe xi măng. Kha ngỏ ý mượn xe và tài xế với người Nhật như Khóa đã dặn trong thư.

Nửa giờ sau chiếc Citroen đã bon về Đà Nẵng, ra quốc lộ số

1 theo về ngả Hội An, đồng thời xuất hiện dưới mắt Kha những hình ảnh đồng quê với lũy tre làng mạc như miền Bắc, những hình ảnh đồng bào đội nón cần cù làm đồng, những hình ảnh đàn bò, đàn bê gặm cỏ bờ ruộng. Có người đàn ông mặc áo đen, đội nón lá cưỡi trâu, có chú bé mặc áo nâu vá vải hoa, đầu đội mũ rộng vành sơn trắng ngồi trên mình con nghé. Cánh đồng lúa bắt đầu ngả sang màu vàng, đây đó những lò gạch mới rỡ màu đỏ chói, những lò gạch còn nung lặng lờ phun khói xám. Xe qua cầu, nhìn xuống bến sông, những người đàn bà tíu tít giặt gịa quần áo, chăn chiếu, thúng mủng. Xe bỗng đi vào một quãng đường hai bên sẫm màu xanh, đó là hai thôn xóm với hai lũy tre dầy và rậm như rừng, giữa là một cánh đồng hẹp vừa ngả vàng màu lúa, vừa xanh màu khoai, sắn, lạc, vừng; chính giữa cánh đồng hẹp, một con lạch nhỏ hơi ngoằn ngoèo như một dòng suối tự nhiên. Trên con đường đất đỏ ven theo một lũy tre là ngọn, hai người đàn bà từ sâu trong thôn cùng khiêng một chiếc thúng lớn rảo bước ra đường cái quan, vì thế cánh đồng hẹp chạy thẳng chênh vênh về phía xa bỗng gợi hình ảnh một thung lũng êm ả thần tiên đến kỳ ảo.

Kha nghiêng mặt hỏi Luận:

- Còn tương tư môi đẹp hay sao mà không nói năng gì? Luận cười:

- Đúng thế!

Kha ngâm khẽ để trêu Luận:

Tương tư không ốm cũng sầu

Con ruồi đậu mép không đau cũng buồn

III

Qua thành Quảng Nam chỉ còn nền - nơi xưa thời Pháp thuộc tổng đốc ở - được một quãng thì xe rẽ về tay trái bắt đầu vào thị xã Hội An. Tới nơi gặp Khóa ngay. Khóa đương nói chuyện rất tương đắc với một cụ đồ nho và hiện là thượng khách tại nhà cụ. Thế là vô hình chung ông thượng khách đó kéo thêm hai ông trung khách nữa. Câu chuyện của hai người tương đắc đến nỗi cụ đồ nho chỉ giữ đủ lễ mời hai ông khách mới an tọa rồi chạy vào trong nhà dặn người nhà điều gì (chắc là dặn làm cơm), khi trở ra cụ tiếp nối câu chuyện với Khóa liền:

- Đất Quảng Nam chúng tôi - cụ nói - vừa nồi tiếng về cách mạng vừa nổi tiếng về hay chữ. Khoa thi Giáp Thìn (1904) đời Thành Thái chúng tôi đỗ một khoa năm tiến sĩ nức danh là ngũ phượng tề phi.

- Dạ cụ có nhớ tên năm vị đó không ạ? - Khóa hỏi.

- Chính cụ tôi đỗ khóa đó với cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Khóa giải thích thêm cho Kha, Luận hiểu ngọn nguồn câu chuyện:

- Cụ đây họ Trần cũng là hậu duệ cụ Trần Quý Cáp.

Thoạt Kha nghe hai tiếng “cụ tôi” của cụ thì đồ rằng cụ là cháu đích tôn cụ Trần về sau mới hay cụ chỉ là người cùng họ, vì nhân cách và cái chết của cụ Trần cao cả quá nên tất cả các hậu duệ xa gần đều coi cụ như ông ruột, cha ruột mình.

Cụ đồ tiếp:

- Tôi chỉ nhớ có hai vị thôi còn ba vị đồng khoa kia quên mất tên. Ở kỳ Hội thì cụ Huỳnh đỗ hội nguyên, cụ tôi đỗ thứ hai cụ Trần Đình Liệu người Thái Bình đỗ thứ ba. Khi vào thi Đình cụ Trần Đình Liệu đỗ đình nguyên, cụ Huỳnh xuống hàng thứ ba còn cụ tôi vẫn đứng thứ nhì. Thành thử khi thi Hội cụ tôi ngồi trên cụ Liệu đình nguyên sau này; khi vào thi Đình cụ tôi lại ngồi trên cụ Huỳnh, hội nguyên trước đây. Vì vậy một bậc thầy có mừng đôi câu đối tôi còn nhớ:

Khởi tố tiến sĩ khước dị, tố cử nhân khước nan, ức ức dương dương vô phi tạo ý.

Năng áp bội nguyên ư đình, áp đình nguyên ư hội, vinh vinh quý quý hà tất nguy khoa.

Nghĩa là: Có lẽ đâu thi tiến sĩ thì dễ mà thi cử nhân lại khó, lúc bị đè xuống, lúc được nâng cao bất quá không ngoài ý con Tạo.

Hay đè được ông hội nguyên ở kỳ thi Đình, lại đã đè được ông đình nguyên ở kỳ thi Hội, như thế là vinh quý chán rồi, cần gì phải đậu hội nguyên với đình nguyên màlàm gì? ‘

Cụ đồ cất tiếng cười sảng khoái. Khóa hỏi:

- Dạ thưa cụ nhà đỗ cử nhân khóa nào ạ?

- Ấy thi Hương cụ tôi chỉ đỗ tú tài.

- Vậy mà cụ dược thi Hội?

- Chả vì lệ ngày đó hễ là giám sinh - học ở quốc tử giám - hay tú tài tứ thập - tú tai bốn mươi tuổi - thì dù tú tài cũng được vào kinh thi Hội, thi Đình... Vì nhà nghèo quá cụ tôi đỗ xong bèn ra nhận chức huấn đạo. Cụ tôi có cái nhìn sâu hơn cụ Phan Sào Nam. Chính cụ tôi bảo cụ Phan: “Ông muốn dùng người Nhật đuổi người Pháp có khác gì đuổi hùm rước beo về? Mình phải tự chữa lấy mình cho mạnh trước đã. Vả lại thằng Tây nó ở đây nhưng nó không ăn gạo, chứ thằng Nhật nó sang nó ăn gạo như mình, mình đói?”. Chính vì thế sau đó cụ tôi mới giúp cụ Phan tuyển lựa sĩ tử cho phong trào Đông Du. Lúc cụ tôi bị tử hình mới ba mươi mốt tuổi, cụ cố bà tôi còn sống.

- Hình như cụ bị xử trảm ở Nha Trang - Kha rụt rè hỏi.

- Vâng, nhưng không phải chém đầu mà là trảm yêu chém ngang lưng. Chả, chả... (cụ khịt mũi) đời vua Tự Đức có ra đạo chiếu là hễ ai đậu tiến sĩ thì vào triều gặp tể tướng cũng không phải lạy, vào trường hợp bị khép tội tử hình thì không bị chém đầu.

Cụ cúi xuống chiếc ống phóng hỉ mũi, rồi rút khăn tay ra chấm nước mắt. Cụ tiếp:

- Để rồi nay hay mai tôi đưa các ông đi quận Điện Bàn thăm mộ cụ tôi.

- Thưa cụ mộ có xây thành lăng không ạ - Luận hỏi.

- Không ạ, mộ cụ tôi chỉ đắp đất cho thật cao thôi, trước mộ có bốn cột đồng trụ, hai cột giữa là đôi câu đối của cụ Phan Sào Nam, hai bên là đôi câu dối của ông Nguyễn Bá Trác, học trò cụ tôi.

Cụ gật gù:

- Đôi câu đối của cụ Phan tôi còn nhớ để tôi đọc hầu ba ông nghe:

Ngọc toái bất ngõa toàn tam tự ngục hàn sơn hải khấp Hồng khinh nhi Thái trọng thiên thu luận định nhật tinh huyền.

Chả trong sách xưa có chữ “ninh vi ngọc toại bất vị ngõa toàn” nghĩa là “thà làm viên ngọc vỡ chớ không làm hòn ngói còn nguyên”, lại thời Tống, khi Nhạc Phi bị Tần Cối sàm tấu hạ ngục chờ ngày hành hình tứ mã phanh thi có hỏi Tần Cối: “Ta có tội gì?”. Tần Cối đã lạnh lùng trả lời bằng ba chữ “Mạc tu hữu” nghĩa là “không cần có”. Toàn ý đôi câu đối cụ Phan nói: “Thà làm viên ngọc tan vỡ chứ không làm hòn ngói còn nguyên, việc xưa ba chữ (của Tần Cối) làm lạnh ngục thất ai ngờ ngày nay lại xảy ra, thì núi biển cũng phải khóc - Có cái chết nhẹ tựa lông hồng, lại có cõi chết nặng tựa non Thái, sự luận định nghìn thu sau này còn vằng vặc như vừng nhật và tinh tú trên trời”

Cụ đồ ngửa mặt nhìn trần khẽ thở dài. Khóa đã đứng lên rất dúng lúc nói:

- Thôi cụ hãy ngồi nghỉ, xin phép cụ tôi đưa hai anh bạn đi xem qua thành phố Hội An cổ kính này một lát.

Cụ vội ngồi ngay ngắn lại giữ lễ rồi nói:

- Vâng rước ba ông đi thăm phố, lát nữa xin mời trở lại dùng cơm trưa với chúng tôi.

Lúc ra tới đường phố Hội An Kha, Luận cùng chờ Khóa nói về chuyến buôn nhưng Khóa lại thuật về cuộc gặp gỡ cụ đồ nho ở bãi biển Tiên Sa.

Cụ đồ đến thăm người cháu chủ chiếc khách sạn xinh xắn đó trên bãi biển. Cụ gặp Khóa ngồi ở phòng khách, đôi bên thoạt trao đổi vài câu chào hỏi xã giao. Bỗng cụ chuyển sang chuyện xem tướng, Khóa bắt chuyện liền vì trước đây có nghiên cứu qua về tướng số. Khóa chủ trương căn bản vẫn ở mình, có tướng mà không có tâm cũng chẳng làm quái gì:

Hữu tâm vô tướng, tướng ẩn tâm sinh

Hữu tướng vô tâm, tướng tòng tâm diệt.

Cụ đồ bắt được tri kỷ mừng lắm bèn mời Khóa về Hội An đường Trần Quý Cáp, nơi cụ ở. Chuyến buôn đã thất bại, Khóa nhận lời và viết thư để lại cho Luận, Kha. Trên xe về Hội An hai người chuyển sang chuyện sấm, Khóa vẫn nắm chủ động câu chuyện (thì bao giờ chả thế.)

- Thưa cụ - lời Khóa - tôi cho là cả tập sấm Trạng Trình chỉ để báo cho chúng ta biết sẽ có một bậc kỳ tài ra nắm quyền bính vào lúc thế nước ngửa nghiêng nhất.

- Xin ông cho thí dụ - cụ đồ hỏi.

- Thưa cụ tỉ như những câu: Thiên sinh hữu nhất anh hùng Cứu dân độ thế trừ hung diệt tàn và tả cả nơi bậc kỳ tài ở:

Thái Nguyên cận Bắc đường xa

Ai mà tìm thấy mới là thần minh...

Lại có những câu:

Song thiên nhật nguyệt sáng soi

Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường

Thông minh kim cổ khác thường

Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài

Cụ đồ gật gù:

- Đúng thế! Các cụ vẫn bảo nước Việt mình có tứ bất tử, trong số có đức Tản Viên hễ mỗi lần thế nước ngửa nghiêng, Người lại thác sinh làm một vị anh hùng cứu quốc, thời Trần là Trần Hưng Đạo, thời Lê Mạt là Nguyễn Huệ.

- Thưa cụ khi bậc kỳ tài đó xuất đầu lộ diện thì:

Thánh ra tuyết tán mây tan. Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi Can qua việc nước bời bời,

Trên thuận ý trời dưới đẹp lòng dân

Oai phong khấp quỷ kinh thần

Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca.

Cụ đồ lại gật đầu:

- Đúng với ý câu tôi còn nhớ:

Chờ cho động đất chuyển trời

Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng.

Khóa tiếp:

- Không sao mà đoán trước được những việc ghi trong sấm Trạng cụ ạ, nhưng theo ý tôi cụ Trạng thật là người có công lớn trong việc giữ vững niềm tin cho hậu thế. Dù lịch sử mình qua những ngày gian lao, khổ ải, đen tối đến mấy mà nghĩ đến sấm Trạng những câu như:

Nước Nam thường có thánh tài

Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường thì cũng thấy vững dạ mà nức lòng tiến tới để đợi ngày:

Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia

Xe tới quận lỵ Vĩnh Điện, cụ đồ chỉ vào con đường nhỏ phía tay mặt nói với Khóa:

- Cứ theo đường dó sáu cây số nữa thi đến mộ cụ tôi. Cụ giải thích thêm:

- Quê cụ tôi ở làng Bất Nhị, khi ra Hội An tôi có khuyên các cháu nên chọn nhà ở đường phố mang tên cụ tôi.

Lúc dó Khóa mới hiểu “cụ tôi” đây là cụ đồ nói đến cụ Trần

Quý Cáp.

Tới nhà hai người rửa mặt mũi xong, cụ đồ tiếp tục nói về cụ Trần Quý Cáp và cũng đúng lúc đó Kha, Luận tìm tới gặp Khóa.

IV

Cho đến lúc đưa Kha, Luận di chơi phố, Khóa cũng chỉ phê bình giải thích về đường phố hẹp với kiểu nhà cổ hai bên của Hội An. Khóa chỉ dãy nhà lợp ngói xưa hoặc thấp lẹt-sẹt hoặc cao nhưng trùng trục và nói:

- Cả thành phố Hội An này đáng ghi vào hàng cổ tích chứ chẳng riêng gì Chùa Cầu kia do người Nhật đầu tiên đặt chân tới đây xây.

Trời lại bắt đầu sa sầm và lác đác mưa. Khóa ngước nhìn trời khẽ lắc đầu nói:

- Cả vùng Quảng Nam, Đà Nẵng này vào mùa mưa đến là chán!

Rồi Khóa kéo Kha, Luận vào quán nước gần đấy gọi ba ly nước dừa. Quán nước khi đó có hai thanh niên một đeo kính trắng, một đeo kính đen, cùng mặt Chemissette bỏ ngoài quần, cùng hút thuốc thơm và thỉnh thoảng cùng giơ tay lên vuốt tóc làm dáng công tử sau khi nói khẽ một câu dí dỏm khiến cô nữ chiêu đãi viên cười rũ. Cô nữ chiêu đãi viên mặc quần đen áo trắng, đùi cao ngực nở, khuôn mặt trắng trẻo, đôi mắt thông minh, cô có thể trở thành một cô gái quý phái nếu đủ tiền ăn học, nhưng nhìn màu son phấn rẻ tiền trên môi, trên má Khóa biết cô thuộc hạng gái nào. Qua màn mưa lất phất mấy nữ sinh đồng phục trắng, tóc đen xén bằng chấm ngang thắt lưng, tay cặp sách đương rảo bước trên đường về. Luận khi đó đương ngắm một cô gái xinh vô tình đứng trước thềm cửa, quần thâm áo cánh trắng muốt chân đi đất. Thấy người đàn ông lạ mặt chăm chú mình, cô gái luống cuống rồi quay vào trong.

Kha gật gù ngâm khẽ:

Hội An mây trắng trời hồng

Thương em hỏi thật có chồng hay chưa?

Luận gật gù theo:

- Cái thằng nầy hôm nay đọc mấy câu ca dao mình đều ưng ý cả. Này anh Khóa, tôi thích các cô gái đi chân đất trong nhà, trông nũng nịu, và mặt áo cánh cài khuy đằng sau cũng vậy, có lẽ mình tưởng tượng đến lúc cô nũng nịu quay lưng lại nhờ mình cài hộ, sau cái... trò đó.

Khóa vỗ vai Luận cười lớn:

- Đúng là “Luận khẩu dâm!”

Cô nữ chiêu đãi viên đã bưng khay lại trên có ba ly nước dừa.

Kha hỏi Khóa:

- Tôi thấy anh từ nãy đến giờ toàn nói những chuyện đâu đâu quên khuấy chuyện xi măng. Thất bại chăng?

Khóa gật gù:

- Cũng gọi là thất bại!

Và tới lúc đó Khóa mới thuật lại ngọn ngành câu chuyện.

° ° °

Người Nhật nầy từng đeo lon đại tá hồi quân đội Nhật còn đóng ở Hà Nội. Mùa thu 1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân đội Trung Hoa đến giải giáp quân đội Nhật, Ma-si-ta lẩn trốn trong đám dân chúng Việt Nam, kết hôn với một cô gái Việt. Thời kháng chiến y có ra hậu phương rồi lại vào Hà Nội. Không hiểu làm cách nào y có về Nhật nhưng chỉ hai năm sau trở lại Việt Nam ngay và luôn luôn giữ liên lạc với người vợ Việt. Di cư vào Nam, vợ chồng y gặp Khóa. Có được một số vốn khá, y hỏi Khóa nên buôn gì vào lúc này cho có nhiều lãi. Khóa đoán là vào những ngày đầu di cư và sau một thời đất nước bị chiến tranh tàn phá, nay giai đoạn kiến thiết bắt đầu thì chỉ có buôn xi măng là chắc ăn hơn cả. Thế là Khóa giúp vợ chồng người Nhật điều khiển một công ty Việt Nhật com-măng xi măng từ Nhật tới. Vốn của Ma-si-ta bỏ ra quá nửa, Khóa và một số bạn buôn, ngót một phân nửa. Nghiên cứu thấy xi măng thường nhập cảng vào thẳng Sài Gòn rồi từ đó mới phân phối di lục tỉnh, cao nguyên và Trung phần, Khóa bèn lập kế hoạch cho tàu cập bến Đà Nẵng để hoàn toàn chia cho miền Trung tiêu thụ, như vậy riêng tiền chuyền chở cũng đỡ được hàng chục vạn. Giấy tờ được làm gấp để xi-măng về kịp chuyến. Người Nhật đứng tên trên giấy tờ giao dịch với một hãng xi măng tại Osaka bên Nhật. Lẽ ra chỉ một tháng rưỡi sau khi làm đủ giấy tờ xi măng đã tới Đà nẵng mới phải, mà sao sau ba tháng mới tới ? Thì ra khi vừa làm giấy tờ xong, Ma-si-ta gặp một người bạn Nhật cũ, người bạn này khuyên nên com-măng xi măng của hãng khác hắn quen, như vậy Ma-si-ta có thể lợi hàng triệu yên. Giấy tờ cũ bèn hủy đi để làm lại hết các giấy tờ mới, vì vậy hàng đến chậm một tháng rưỡi, đúng lúc mùa mưa khởi đầu vào tháng bảy âm lịch. Các dự trù kiến thiết tất nhiên giảm di với mùa mưa và giá xi măng do đó cũng sụt xuống trông thấy. Thêm vào đấy, không ai còn lạ miền Trung khi vào mùa mưa có thể mưa một tháng liền. Mưa rơi rào rào ngày này qua ngày khác. Và đã nhiều ngày qua. Khóa nhận được tin tàu tới trong tiếng mưa rào rào đó. Rồi tàu đợi ngoài khơi năm ngày liền mưa vẫn không ngớt. Khóa viết thư về cho Khiết yêu cầu cử hai anh em ra giúp một tay. Chả tàu - người

Nhật - đề nghị với Khóa đành để cho tàu của ông nhổ neo tiếp tục trên đường đi Sài Gòn, rồi khi trở lại sẽ dỡ xi măng của Khóa lên sau. Nhưng, hay tàu tới, các mối hàng của Khóa đã túc trực cả ở bến Đà Nẵng. Vả lại càng từ nay về sau miền Trung càng đi sâu vào mùa mưa to gió lớn rất ít hy vọng tàu trở lại Đà Nẵng được ngày tốt trời? Vào những trường hợp khó khăn như vậy Khóa thường bất chợt nghĩ đến những điều rất bông lông có thể là câu chuyện tướng số, có thể là câu chuyện tử vi. Lần nầy Khóa bỗng nghĩ đến sấm Trạng Trình. Để một phút dâng trọn vẹn lòng thành lên Trời Phật, Khóa khấn với anh hồn Trạng Trình xin cho bốn ngày ngớt mưa để dỡ hàng. Rồi Khóa quyết định với chủ tàu là hôm sau sẽ dỡ hàng. Chủ tàu trợn tròn mắt hỏi lại:

- Ông quyết định ngày mai dỡ xi măng dưới trời mưa tầm tã như thế này để xi măng kết thành đá trong túi giấy?

Khóa gật đầu:

- Không sao, ngày mai trời sẽ ngớt, ông cứ chuẩn bị cho dỡ hàng.

Rồi Khóa đi giao thiệp với chủ hãng SACRIC người Pháp, cũng bằng thái độ cương quyết như vậy để họ chuẩn bị xà lan cho hôm sau ra khơi Đà Nẵng để dỡ hàng.

Mưa tiếp tục rào rào suốt ngày... suốt buổi tối... quá mười hai giờ đêm... không một phút nào ngớt. Nhưng đến hai giờ khuya mưa bỗng nhẹ hạt... nhẹ hạt dần... Sớm bôm sau trời còn mây khói vần vụ nhưng mưa thì tạnh hẳn, không khí chợt vắng tiếng mưa rơi dường như đượm vẻ ngơ ngác, chỉ có người đáng lẽ phải ngơ ngác nhất vì ngạc nhiên là Khóa thì Khóa lại không ngơ ngác chút nào và bắt tay vào việc đốc thúc đoàn xà lan ra khơi ngay. Sáng nửa ngày thứ ba, mưa bắt đầu lất phất nhưng tổng số ba vạn túi xi măng, không còn lại mấy nữa.

Tuy chuyến xi măng dỡ thoát nhưng giá xi măng lúc đó đã hạ lắm. Theo con tính lúc khởi đầu của Khóa mỗi túi xi măng có thể lãi hai mươi sáu đồng mà rồi rốt cuộc chỉ được lãi có sáu đồng. Công việc vừa xong xuôi thì Kha, Luận tới, cả hai chẳng giúp gì được cho Khóa.

Luận vỗ tay xuống đùi khi vừa nghe xong chuyện:

- Ông anh mình thỉnh thoảag vẫn mystique như vậy. Kha hỏi:

- Anh cho là đã gặp may hay quả là anh tin có anh linh quỷ thần giúp thật?

Kha đáp:

- Cũng có thể là tôi gặp may chó ngáp phải ruồi, nhưng lòng thành của tôi hướng về Trời Đất lúc đó có thật. Vấn đề huyền bí về sự giao cảm giữa mình với các anh linh, khoa học nào đã biết! Cũng có thể tâm động quỷ thần tri, cũng có thề trong lúc lòng tôi thành kính muốn giao cảm với thiên nhiên, tôi linh cảm thấy hôm sau trời sẽ ngớt mưa, thành thử việc tôi nguyện với cụ Trạng Trình chỉ là gõ vào cái cửa đã bỏ ngỏ.

Luận chỉ vào chiếc mũ phớt màu xám nhạt của Khóa hỏi:

- Có hôm vào khoảng bốn giờ chiều, tôi thoáng thấy ai như anh đội mũ này ngồi trong tắc xi?

- Ấy chính tôi hôm đi Đà Nẵng. Luận cười ngất:

- Đúng thế, hôm đó tôi nghĩ bụng ngồi trong tắc xi mà còn đội mũ phớt thì chỉ có thể là đại huynh Khóa nhà ta!

V

Chỉ có ba ngày xa nhau mà khi Miên thấy Kha ở Đà Nẵng về, đôi mắt nàng sáng ngời, đôi má nàng đỏ hồng, mừng tưởng như xa nhau đã từ ba bốn tháng. Về phần Kha cũng vậy, chàng cảm thấy lòng rộn rã bồi hồi. Tắm rửa xong chàng ra ngồi bên Miên kín đáo ngắm người vợ trẻ, đôi mắt nàng thật den dưới hai hàng lông mày lá liễu càng đen thăm thẳm trên khuôn mặt trăng mát, đôi mắt dịu hiền với tất cả mọi người nhưng bao ý nghi về tình yêu thì hướng cả về chồng. Lúc đó trời đã về chiều, ánh đèn đường vừa bật lên hiện thành những chấm đỏ yếu ớt lung lay theo tiếng chuông nhà thờ cũng vừa bắt đầu vang lên từng dóng. Kha khép cửa lại ôm Miên vào lòng. Miên ghì chặt lấy Kha trong khi chàng hôn lên môi nàng.

- Em đã nộp đủ giấy tờ xin ghi tên theo lớp học cán sự y tế.

- Em sẽ theo học mấy năm.

- Ba năm.

- Chương trình có nặng lắm không?

- Kể ra khá nặng, đó là chương trình médecin indochinois xưa.

- Em sẽ thành “bà lang trọc” của anh. Cả hai cùng cười.

- Bao giờ em bắt đầu học?

- Ngay đầu niên khóa này.

- Hôm nay thứ mấy, em nhỉ?

- Thứ sáu!

- Chiều mai em có bị phiên gác thứ bảy không?

- Không anh ạ.

- Nếu vậy chiều mai chúng ta đi Vũng Tàu tiếp tục hưởng tuần trăng mật.

- Chúng ta làm gì có đủ tiền, anh?

- Anh Khóa vừa mới phát cho anh.

- Ủa, anh Khóa “phất” rồi!

- Không, thất bại, nhưng dù thất bại cũng đủ tiền cho anh và em đi Cap - (Kha cúi xuống hôn thắm thiết lên môi Miên lần nữa làm nàng rùng mình) - hai ngày thứ bảy, chủ nhật.

° ° °

Đôi vợ chồng sinh viên trẻ đã ra Cap. Họ thuê xe ngựa vòng theo núi lớn lên bãi Ô Quắn. Kha sung sướng huýt sáo theo nhịp chân ngựa nhạc đề bản “Đời nghệ sĩ” của Strauss, tương tự cảnh

Strauss trong phim “Toute la ville danse” vừa chiếu lại ở Sài Gòn.

Rồi họ chụm đầu bên nhau trên hai chiếc ghế bố kê sát dưới mái hiên một quán hàng trên mỏm Ô Quắn. Bên dưới họ sáng ngời màu biển, khoảng gần bờ màu xanh cẩm thạch đôi chỗ quá nông có hằn màu xám hồng của cát, nhưng khoảng tít xa ngoài khơi đều một màu xanh lơ, Kha thấy tất cả những màu xanh chan hòa đó vừa đủ rực rỡ đề thiêu đốt mọi tình cảm bon chen. Đây đó vài cánh buồm trắng nhỏ thanh bình như đứa con nằm trong lòng mẹ; mấy con chim biển ngã nghiêng rỡn mây như nhịp theo với tiếng nhạc cũng dạt dào theo sóng, theo gió của một chiếc transitor gần đấy. Xa, tít phía xa một hòn núi nhỏ nhô khỏi mặt biển chút ít như con trâu nước nghển đầu ngó lắng về phía bờ.

Hai cô gái trạc mười bảy mười tám vừa xuống xe ngựa, dừng lại trước cửa quán, thẳng thắn nhìn về phía Kha, Miên như nhìn vào một giấc mộng mà các cô hằng mong cho sớm thành tựu. Vóc người hai cô suýt soát nhau, nhỏ nhắn kiểu “tròn hạt mít”, cách ăn mặc cũng gần giống nhau, áo dệt đen ôm sát lấy người làm nổi những đường cong bé nhỏ và tròn trĩnh như hai cô, trông ngộ nghĩnh hơn là khêu gợi, hai mái tóc mềm óng cùng được cắt ngắn ngang vai. Hai cô đã chọn hai chiếc ghế bố gần sát với Miên, mỗi cử chỉ cười nói ngửa cổ hoặc cúi đầu lại làm mớ tóc rung rinh hoặc thu gọn về phía sau hoặc rũ rượi về phía trước.

Kha, Miên ở lại ăn cơm chiều ở quán rồi mới lên xe ngựa về khách sạn. Sao chiều bắt đầu mọc trên đầu họ, thấp thoáng sau lùm cây, một ngôi ngự đúng trên đỉnh chiếc pha đã bắt đầu nhấp nháy quét từng bó ánh sáng ra khơi. Sao trời như theo họ vào phòng rửa mặt vì cả hai cùng thấy tia nước xối ra có lấp lánh ánh vàng.

Ôm Miên trên nền nệm trắng tinh, Kha thoạt vuốt tóc nàng. Miên quờ tay lên xoa má Kha và nói:

- Anh của em còn gầy lắm!

Kha lần tay xuống cổ và ngực Miên, bộ đồ ngủ của nàng hàng lụa mịn mát rợi đêm tân hôn:

- “Bà lang trọc” của anh muốn anh tẩm bổ ra sao? Uống thêm vi-ta-min chăng?

Miên nghiêng người hôn lên má Kha:

- Vi-ta-min cần nhưng không đủ, còn phải đồ bổ nữa, mà đồ bổ cho con nhà nghèo như chúng mình chẳng gì hơn trứng, a1iment complet, lại nhiều kích thích tố - hormone - nữa.

- Vì vậy mà “bà lang trọc” của anh lúc nãy com-măng trứng trong bữa ăn? (Chàng ghé thầm vào tai Miên) da thịt em chỗ nào cũng hiền thục như chính em vậy?

Miên hơi nhoài người:

- Buồn em, anh! Tạng anh gầy gầy, tim khoẻ; da anh săn, gan khoẻ; anh ăn trứng nhiều không sao. Ồ, nhột em, anh.

Trước đây vào những lúc sầu khổ, những lúc hoang mang, những lúc muốn có an ủi mà người an ủi xa vắng, Miên vẫn du tâm hồn nàng vào khu rừng lau. Giờ đây nàng sống trong tay người yêu, ngợp trong hạnh phúc, nàng cũng thấy là nàng đương du hồn vào khu rừng lau. Nàng nhắm mắt lại như để chạy trốn ánh sao bên ngoài khi nãy. Khu rừng lau trong tâm tưởng nàng lúc đó là bà tiên khoác tấm khăn choàng tím ngát. Chính bà tiên đó đang ôm nàng vào lòng và đặt tâm hồn nàng lên tấm thảm tím ngát đu đưa như võng, dạt dào như sóng...

Hồi Miên còn ở với Lê nàng có quen bà hàng xóm có chồng tập kết ra Bắc. Bà còn trẻ lắm chưa có con, bà hiện là một nữ giáo sư dạy Pháp văn ở một trường nữ trung học công lập. Tối tối bà còn kèm thêm mấy đứa trẻ học trường Pháp. Tóc bà chải cao nhưng kiểu rất thuần nhã, nước da trắng mịn, khuôn mặt không có gì quyến rũ nhưng nhỏ xinh, nụ cười hơi lộ sỉ. Giọng bà đọc và giảng tiếng Pháp nghe trôi chảy và thanh quý, vì vậy mà Miên kính mến bà, càng kính mến khi biết bà có chồng tập kết. Miên không bao giờ đá động đến chuyện di cư, đến những hình ảnh đấu tố man rợ ngoài Bắc, nàng biết nàng với bà ở hai hoàn cảnh khác nhau. Xa chồng, thiếu niềm ân ái da bà càng thêm trắng xanh, đôi mắt nhiều khi như hoảng hốt, khuôn mặt phảng phất một vẻ gì ủ dột, khô héo. Giọng bà trong quá, đáng yêu quá, bà nói chuyện với Miên hay nói chuyện với bất cứ ai bao giờ cũng lanh chao và dễ thương mà sao càng vào những lúc lời nói tiếng cười đó thật tình Miên càng nghe chúng như biến thành tiếng nức nở vừa ngạc nhiên vừa kỳ lạ tựa hồ vì chúng bị đè nén nhiều nên cố thoát ra ngoài dưới một hình thức hóa trang.

Kha lướt lên môi Miên rồi lên má, bàn tay chàng mơn man:

- “Em anh có bộ ngực tròn và nhọn rất đáng yêu” - “Em giữ cho anh!” - Miên hơi trườn người đáp và nghĩ đến bà giáo sư trẻ măng. Bà hẳn đã từng trao gửi trọn vẹn trong sự ve vuốt của chồng như nàng bây giờ. Miên còn nghĩ đến Ninh, cô bạn gái đã luống tuổi chưa chồng cùng làm với nàng ở phòng mổ bệnh viện Bình Dân. Khuôn mặt Ninh trái soan, xinh hơn bà giáo nhiều, bộ ngực Ninh còn “tròn và nhọn” như một sự chờ đợi nhẫn nại dai dẳng. Những buổi Miên đến bệnh viện sớm trước, nhìn Ninh tự ngoài cổng vào tha thướt trong chiếc áo lụa dài, nàng thấy Ninh còn vô cùng quyến rũ, tới khi Ninh tới gần, một tình thương xâm chiếm nỗi lòng Miên nhè nhẹ nhưng thắm thiết và có thực như bóng tối ùa tới tràn lấn buồi chiều. Nước da Ninh trôi qua nhiều ngày chờ đợi tình yêu mà không được hưởng đã thành tai tái, đôi mắt vẫn mở lớn nhưng đục đi nhiều, một chiếc răng hơi khểnh hồi còn con gái hẳn đượm vẻ tinh nghịch đáng yêu nay vàng xỉn đượm phần ngơ ngác.

Đôi môi Kha đã tìm đôi môi nàng thô bạo. “Đàn ông khi yêu thường thô bạo như vậy”. Miên đoán thầm thế. Miên ghì chặt Kha làm tan mất hình ảnh bà giáo và Ninh. Những hình ảnh tuy biến đi mà còn hiện hữu vì giữa cảm giác mênh mang gờn gợn đê mê đó, Miên thấy rõ rằng ân ái quả là một lễ hiến dâng để vừa cầu khẩn vừa đồng hóa hạnh phúc vào với nhân loại.

Chương Ba

MỘT CUỘC GẶP GỠ

Miên vặn radio nhà vi vẳng từ phòng anh em sinh viên lân cận có tiếng vang giới thiệu Sân Khấu Lớn.

Miên vẫn thích theo dõi Sân Khấu Lớn của Lãng. Trong một buổi họp ăn uống của gia đình văn hóa, Khiết nói đùa với Lãng.

- Tiếng nói của cậu ở mục Sân Khấu Lớn hằng ngày được phát thanh đúng là tiếng nói.... nhân dân đấy (giọng Thiết đứng đắn) anh em nhà có người khoáy sâu vào đời sống siêu hình, cậu sống đời sống đó, có thể sự thống khổ của dân tộc mình mới không trừu tượng (giọng Khiết hơi lơ đãng). Vả lại sự thống khổ của dân tộc mình có trừu tượng anh!

Lãng chỉ vào Miên nói:

- Ấy tôi viết xong mẩu Sân Khấu Lớn nào đều phải đọc cho cô Miên nghe trước đã, hễ cô Miên ưng là được.

Và Miên đã cười nói với Lãng:

- Vặy anh phải chia tiền nhuận bút cho em một nửa, anh

Nghệ Sĩ Còm to lớn hơn Tây ạ.

Thoạt lời giới thiệu Sân Khấu Lớn vang lên như thường lệ:

Màn kéo lên từ ngày thứ bảy của Thượng Đế. Và ta bị ném lên sân khấu khi cất tiếng khóc chào đời.

Vở kịch dài đã khởi đầu và chưa biết bao giờ chấm dứt. Bi ư?

- Không hẳn! Lạc ư? Cũng không hẳn! Chỉ biết rằng có tiếng khóc rũ rượi, lại có tiếng cười nức nở.

Ta xem người và người xem ta trên cái sân khấu lớn này để chau chuốt vai trò của nhau há chẳng là một điều ích lợi ru?

Những mẫu kịch thẳng thắn đơn sơ nhưng chứa đủ tính chất của sân khấu lớn: cười, khóc, giận hờn, yêu thương, tủi hổ....

Lần này vở kịch kéo dài bốn mươi lăm phút.

MỘT CUỘC GẶP GỠ

Lời Nghệ sĩ Còm tự giới thiệu.- Trước đây để tỏ lòng ngưỡng mộ của mình với Chư Công, Đức Khổng Tử có nói với học trò : “Đã lâu lắm ta không mộng thấy Chu Công”. Từ ngày Nghệ Sĩ Còm xách va li “dô” Nam rất nhiều khi mộng thấy ra thăm miền Bắc yêu dấu nhưng chưa hề lần nào mộng thấy... “Bác”. Cả ngày hôm qua Nghệ Sĩ Còm tôi đạp xe máy đi khắp Sài Gòn Chợ Lớn thăm khắp các ngoại ô Cây Mai, Phú Thọ, Hòa Hưng, lại qua cầu sang cả Bình Đông nữa mà chẳng lượm được điều gì hay ho cho Sân Khấu Lớn. Tối đến về nhà mệt quá Nghệ Sĩ Còm tôi nằm lăn quay ra ngủ thiếp trên ghế bố và đã mơ thấy trở về miền Bắc gặp cả Bác cùng bạn cố tri của Bác là đức ông Sanh Ny người Pháp, tác giả cuốn “Hòa bình hụt” và nhà thơ phục vụ nhân... rân của Bác là thi sĩ Tô Hẫu. Nghệ Sĩ Còm nghĩ rằng ngày xưa Trang Tử mơ thấy mình hóa thành bươm bướm, đến khi tỉnh dậy bỡ ngỡ không biết rằng mình giờ đây là thật hay mình khi hóa thành bươm bướm là thật. Mộng và đời hầu như không còn ranh giới nữa. Vì vậy mà Nghệ Sĩ Còm xin phép độc giả chép nguyên văn cuộc đấu khẩu trong mộng kia để chư quý vị nhàn lãm cho vui.

Mở màn lên. Nghệ sĩ Còm đang thơ thẩn trên đường quê hương.

NGHỆ SĨ CÒM - Đúng là đường quê hương của ta đây, vẫn hàng cây cao vút, con đường thẳng tắp ngày xưa (nhìn đồng hồ tay). Mới có chín giờ tối mà sao đường xá vắng tanh thế này (tiến về phía một chiếc nhà có ánh đèn). À, họ đang học tập chính trị thì phải.

Tiếng một cán bộ lãnh đạo học tập tự trong nhà đó thoát ra. - “Nhờ ơn Đảng, Chính Phủ và Bác đã đem lại hòa bình cho nhân dân. Bác đã dạy Bác là con của nhân dân, đảng là đảng của nhân dân, chính phủ là chính phủ của nhân dân. Chúng ta ai nấy đều phải phục vụ nhân dân. Nhớ ơn Đảng, Chính phủ và Bác chúng ta đã...”.

NGHỆ SĨ CÒM (quay ngoắt đi lẩm bẩm) - Tám năm trời chinh chiến, bao xương máu đã đổ ra nhân dân đã được hưởng gì. Ta muốn hỏi mi: có thật Đảng kháng chiến hay chính kháng chiến đã cứu Đảng?

Có tiếng hỏi- Chú vừa nói gì?

NGHỆ SĨ CÒM (ngẩng lên nhìn) - A, nếu tôi không nhầm ông là ông Hồ Chí Minh.

H.C.M- Phải, phải. Còn chú, chú ở đâu đến đây?

NGHỆ SĨ CÒM - Thưa ông tôi là người quốc gia ở miền tự do về thăm quê nhà.

H.C.M - Vậy ra chú...

NGHỆ SĨ CÒM - Ông gọi tôi là anh, bác hay là gì cũng được xin miễn gọi tôi là chú.

H.C.M - Lý do?

NGHỆ SĨ CÒM - Danh từ “chú” ông thường dùng cho ba hạng người. Thứ nhất cho những người cùng trong gia dình “cách mạng vô sản” của ông; thứ hai cho những tên hoạt động chính trị như một tên đê mạt nào lúc toàn dân còn kháng chiến thì bỏ vào Hà Nội, khi hiệp định Genève vừa ký xong thì vội bỏ Hà Nội ra tìm tới suýt soa liếm gót ông mà rằng: “Bây giờ Bác cho chúng con sống thì chúng con sống, Bác bắt chúng con chết thì chúng con chết”; thứ ba cho những người tuy trong lòng thì bất bình khinh Đảng của ông nhưng ngoài mặt vẫn phải làm vẻ phục tùng bởi họ hoặc không thể ra khỏi đất nộ lệ này, hoặc vì lẽ này lẽ khác họ buộc lòng phải ở lại. Thưa ông, tôi là người quốc gia di cư đến vùng tự do này về thăm quê hương yêu dấu, tôi không hề thuộc một trong ba hạng người kể trên.

H.C.M - Thế chú... à thế bác... thế bác...

NGHỆ SĨ CÒM - Vâng tôi còn ít tuổi xin ông cứ gọi như thế, thật là hợp với cách xưng hô của người nhiều tuổi ở miền quê hương ta.

H.C.M - Thế ra bác thuộc loạt những... những người vào

Nam?

NGHỆ SĨ CÒM - Đài phát thanh của ông hằng ngày tuôn ra thao thao bất tuyệt những danh từ “phản động”, “Việt gian” để chỉ những người đó, tiện đây tôi muốn cùng ông thảo luận chút ít. Theo ý ông thế nào là “phản động Việt gian?”

H,C.M - Là những kẻ lìa xa dân, không phục vụ nhân dân, phản bội nhân dân.

N.S. CÒM - Kẻ lìa xa nhân dân tội nặng một phần, kẻ khiến cho nhân dân kinh tởm phải lìa xa mình tội còn gấp trăm. Ngót một triệu người không chịu nổi uế khí chủ nghĩa Cộng sản đã tự ý lìa xa ông, họ không phải là nhân dân chăng? Đảng của ông đã phục vụ gì cho nhân dân trong khi họ nhịn ăn nhịn mặc để đóng thuế nông nghiệp, thương nghiệp? Ông hãy tự hỏi ai là kẻ phản bội nhân dân. Ngày mùng 6 tháng 3 năm nào ai đã ký cho quân Pháp vào? Đó là nước cờ cao của ông đấy giúp ông rảnh tay tàn sát những đảng phái quốc gia đối lập. Rồi những người Pháp mà ông kêu là dân chủ ấy, chúng lật mặt khiêu khích. Thế là rước Tây đến ông đã đồng thời đưa dân tộc vào cảnh máu chảy xương rơi trong tám năm trời để rồi kết thúc bằng hiệp định cắt đôi giang sơn tiên tổ do các lãnh tụ Nga, Tàu khởi xướng, chứng kiến và... bảo đảm. Ngót một triệu người đành tạm rời bỏ quê hương, vào Nam vừa kịp an cư chưa kịp lạc nghiệp thì ông đã liên minh với thực dân thọc gậy bánh xe. Chao ôi, ông liên minh với thực dân, kẻ thù số một của dân tộc trong tám mươi năm trường, kẻ thù mà trong tám năm kháng chiến qua toàn dân đã một lòng đem xương máu dựng thành chống trả. Tôi hỏi ông ai là kẻ phản bội nhân dân?

H.C.M - Chú... à quên bác nên nhớ đường lối chính trị thường khi ngoắt ngoéo khó nói ra lắm, bác làm gì mà nóng nảy giận dữ quá thế, mất bình tĩnh rồi.

N.S. CÒM - Tôi đại diện cho mối căm hờn của ngót một triệu người ly hương về đây làm gì mà chẳng giận dữ!

H.C.M - Bác quên rằng chúng tôi đã đại thắng giặc Pháp ở

Điện Biên Phủ?

N.S. CÒM - Toàn dân Việt Nam đã trực tiếp hoặc gián tiếp đánh bại giặc Pháp trước và sau Điện Biên Phủ. Ông đã từng nghe giọng ru buồn buồn của các bà mẹ Việt Nam. Mẹ nghèo nuôi con khôn lớn, tiễn con lên đường chiến chinh. Tất cả những hy sinh âm thầm và chói lọi đó hầu hết vì quốc gia dân tộc đâu có vì thuyết giai cấp đấu tranh của Đảng ông. Sau hiệp định Genève ông có thấy bao nhiêu cán bộ lìa bỏ ông vào Nam để tiếp tục sự nghiệp cứu nước? Hàng chục vạn người dân hiền đã đua nhau đi dân công trong những chiến dịch kháng Pháp, và bây giờ khi ông đã rơi mặt nạ tay sai cho Nga Tàu thì ngót một triệu dân đã trốn thoát vào Nam tiếp tục sự nghiệp cứu nước, ông thấy rõ chứ?

H.C.M - Bác không nên hiểu lầm thiện chí của nước bạn vĩ đại Trung Hoa!

N.S. CÒM - Tôi hiểu lầm sao được. Mấy ngàn năm trước đây khi tổ tiên mình vừa chân ướt chân ráo đặt chân đến lưu vực sông Hồng thì nước bạn vĩ đại của ông đã nhảy xổ đến đặt nền thống trị. Nhưng ngọn lửa Việt vẫn luôn luôn được truyền nối tự tay các bà Trưng, bà Triệu, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền. Rồi qua những triều đại tự chủ Đinh, Lê, Lý, Trần... đã bao nhiêu dân nước bạn vĩ đại của ông sang đây hòng đặt lại ách thống trị hồi thái thú, thứ sử cũ. Ngày nay kết quả xương máu tám năm trời chiến đấu mà ông đem lại là chém nước tổ ra làm hai khúc, khúc trên ông đã rước những thái thú Tàu tân thời cùng quan thầy Nga đến ngự, khúc dưới ông ngầm liên minh với thực dân nhờ chúng giữ hộ. Tôi có nghi lầm về ông không? Hay vẫn là “đường lối chính trị thường khi ngoắt ngoéo khó nói ra lắm?

H.C.M - Nước Trung Hoa ngày nay khác nước Trung Hoa ngày xưa. Mao chủ tịch đã tuyên bố: “Cách mạng Trung Hoa thành công cũng là nhờ ở cách mạng Việt Nam thành công”.

N’S. CÒM - Chính vì thế nên Mao chủ tịch của ông đã dùng ông như dùng con tốt thí; chính Chu Ân Lai đã giao thiệp với Tây phương để chia chia lãnh thổ nước nhà ra làm hai, ông chỉ việc tuân theo mà ký vào đấy có phải không?

H.C.M - Tưởng tôi khỏi phải nhắc bác, là chủ nghĩa Cộng sản không phân biệt ranh giới quốc gia này với quốc gia khác, dân tộc này với dân tộc khác...

N.S. CÒM - Thật ư? Ai đề xướng ra thuyết đó thế hở ông? Phải, các quốc gia không còn biên giới nữa mà gồm lại thành một quốc gia duy nhất là Nga Sô vĩ đại. Các quốc gia khác cứ việc làm bia đỡ đạn cho Nga Sô vĩ đại. Thưa ông việc chủ trương xóa bỏ các biên giới chỉ có lợi cho kẻ thủ xướng là Nga Sô. Ông tin Nga Sô vĩ đại, ông quý Nga Sô vĩ đại đó là quyền của ông, nhưng ông không có thể cưỡng ép cả dân tộc cũng tin theo ông như vậy. Mặc dầu gặp bao trở ngại bao khủng bố mà đã có ngót một triệu người ra đi, điều đó không đủ nói nhiều với ông sao?

H.C.M - Vậy theo ý bác thế nào là phản động, Việt gian? N,S. CÒM - Chỉ đơn giản là những kẻ mất gốc, mất lập trường dân tộc. Vâng, thưa ông dân tộc là một sự thực chói lọi như ánh mặt trời, người cộng sản có thể viết cả mấy nhà lý thuyết để phủ nhận sự thực đó cũng là công toi. Người ta không thể đốt nến, dù cả ngàn vạn cây, để xóa nhòa ánh sáng mặt trời.

H.C.M - Tình yêu nhân loại rộng rãi của người cộng sản mà là phản động sao?

N.S. CÒM - Ông không nên mang những chữ kêu nhưng rỗng ấy để lòe tôi. Tôi kính nhi viễn chi niềm tin đó của ông.

Ông quên mất luật động trong biện chứng pháp rồi! Năm 1945 ông nói Đảng cộng sản phục vụ nhân loại thì người ta tin, nhưng nay đã trải qua tám năm chinh chiến, người ta đã hiểu “tình yêu rộng rãi” của ông qua những phương pháp bóc lột đến xương tủy nhân dân bằng thuế thương nghiệp, nông nghiệp, đi dân công... Người ta đã hiểu “tình yêu nhân loại rộng rãi” của ông qua những vụ tổ chức đấu tố tối ư tàn nhẫn, vô nhân đạo. Ngày xưa tôi còn nhớ có một lần ông tuyên bố: “Đảng tôi là đảng quốc gia Việt Nam, tất cả những người Việt Nam yêu nước đều là đảng viên”, và thời đó người ta hô “Hồ Chí Minh muôn năm!” Thời đó xa rồi, xa lắm rồi ông ạ. Ông ngẫm xem, ngày giải thích hiệp định mùng 6 tháng 3 ông khóc, sau đó bao lần ông khóc nữa, nhưng chúng tôi đã quá hiểu những giọt nước mắt cá sấu đó. Những ngày cách mạng 1945 ông ôm nhi đồng bác bác cháu cháu, mọi người đều trầm trồ khen ông là yêu trẻ; ngày về tiếp thu Hà Nội ông cũng ôm nhi đồng nhưng đâu ông có gây lại niềm hân hoan cũ? Tội nghiệp cho lòng chí thành của ông khư khư mình buộc lấy mình vào trong cái vỏ giáo điều duy vật óng chuốt lý trí, nhưng thô lậu biết bao với nhịp sống rộng lớn, tinh tế, uyển chuyển của con người của dân tộc, của nhân loại. Lừa một người thì có thể lừa được năm lần, lừa một nhóm người có thể lừa được hai ba lần, nhưng lừa cả một dân tộc ông chỉ có thể lừa trọn vẹn được một lần mà thôi.

Nghệ Sĩ Còm nói xong quay ngoắt người đi thẳng. Qua một gốc cây thấy bóng một người mặc áo trắng. Thoạt tiên Nghệ Sĩ Còm tưởng đó là một vệ sĩ của Bác, song đến khi nhìn kỹ thì thấy người đó khá cao lớn mũi lõ và mắt xanh. Nghệ Sĩ Còm nhìn ngay ra đức ông Sanh-Ny, người bạn Pháp dân chủ của Bác.

° ° °

SANH-NY - Gớm ông thảo luận gì với Hồ Chủ tịch mà lâu thế? Tôi đợi mãi.

N.S CÒM - Thế ra ông đi cùng với ông Hồ trong cuộc vi hành này?

SANH-NY - Cố nhiên! Cố nhiên! Chúng tôi là bạn cũ với nhau mà.

N,S. CÒM (cười khẩy). - Nhiệm vụ của ông ở đây đã đến đâu rồi?

SANH-NY.- Nhiệm vụ của tôi thì vô cùng vì có từng mức, đặt được mức này lại nhằm tiến lên mức khác.

(Ông Hồ Chí Minh thấy Nghệ sĩ Còm đứng nói chuyện với Sanh-Ny như vậy bèn không tiến lại nữa và đi thẳng vào căn nhà có dèn sáng, ý hẳn để xem các cán bộ sinh hoạt chính trị ra sao? Trong khi đó cuộc thảo luận giữa Sanh-Ny và nghệ sĩ Còm tiếp diễn)

N.S CÒM.- Nước Pháp đã ký minh ước Đại Tây Dương lại đi bắt tay với một chú chư hầu Nga Sô, cung cấp cho hắn nào là cán bộ nhân công cùng các nguyên liệu cần thiết cho kỹ nghệ chiến tranh. Như thế có phải là một nước biết trọng tín nghĩa không nhỉ?

SANH-NY (nói lảng). - Tôi chỉ là một cán bộ thi hành đúng chỉ thị của chính phủ nước tôi. Thế thôi, điều ông hỏi ngoài thẩm quyền hiểu biết của tôi.

N.S. Còm.- Ngày triệt thối Hải Phòng, quân đội nước ông có bồng súng, có thổi kèn, có đọc điếu văn và đặt vòng hoa trên mộ các tử sĩ ?

SANH-NY.- Vâng có thế.

N. S. CÒM. - Cảm tưởng của ông thế nào?

SANH-NY.- Tôi thấy chua xót lắm. Biết bao xương máu của chúng tôi đã đổ ra trên đất nây mà bây giò phải rút lui hết cả.

N.S. CÒM.- Ông cũng như các đồng bào thực dân khác của ông có chi là đáng chua xót. Chính những người chết nằm ở nghĩa địa mênh mông và hiu quạnh kia mới thấy chua xót, chua xót vì họ bị các ông lừa đưa đến một cõi chết ô nhục. Chua xót vì đã chết xa quê hương, xa gia đình, xa cha mẹ, vợ con, họ hàng thân thích mà nấm mồ của .họ trên mảnh đất lạ đó còn là một di tích muôn đời về sau cho người dân xứ này vừa nguyền rủa, vừa kiêu hãnh. Ông nghĩ kỹ xem những nghĩa địa đó cũng chỉ là những Đống Đa dưới hình thức khác chứ gì.

SANH-NY.- Để cho người chết an nghỉ, chúng ta nên nói chuyện khác thì hơn.

N.S. CÒM. - Ông tưởng tôi nhắc đến những người chết của ông mà sung sướng sao? Tôi chua xót vì nghĩ đến biết bao làng mạc của chúng tôi đã bị thiêu trụi. Nước ông hồi bị Đức chiếm đóng có một làng Oradour bị tàn sát mà cả nước Pháp ứa lệ xót xa nhắc nhở mãi đến ngày nay, chứ nước Việt của tôi ròng rã tám mươi năm qua từ phong trào Cần Vương qua các cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Yên Bái, Yên Thế, Nghệ An, Đô Lương đã có biết bao nhiêu làng Oradour ? Tôi chua xót lắm chứ, chua xót vì biết bao các anh hùng liệt sĩ cùng các chiến sĩ anh dũng nhưng vô danh của chúng tôi đã phơi thây nơi chiến trường hoặc chết hao mòn trong các chốn tù đày trong khi làm nhiệm vụ thiêng liêng là bảo vệ tổ quốc ngăn bước xâm lăng của các ông. Thưa ông, chua xót như vậy người sống như chúng tôi có quyền được chua xót lắm, vì những người chết của chúng tôi là những chiến sĩ chứ không phải là những kẻ xâm lăng.

SANH-NY.- Thôi chúng ta nên nói sang chuyện khác có lẽ lợi hơn.

N.S. CÒM. - Tôi tưởng không thể có chuyện nào lợi cho các ông hơn chuyện ấy. Ta phải “ôn cố” để mà “tri tân”. Ông hãy can đảm mà nhìn thẳng vào sự thật và can đảm tự thú rằng sự thật chua xót là vậy mà các ông có rút được bài học nào đâu. Cái điều thất bại ở Việt Nam các ông lại tiếp tục thi hành ở Phi Châu. Cũng lại đốt phá, cũng lại khủng bố, cũng lại tuyên truyền xảo trá gọi những nhà ái quốc Phi là những quân phiến loạn. Các ông vẫn tiếp tục xô đẩy đồng bào binh lính của các ông vào cái chết ô nhục của quân xâm lăng. Hội nghị Á Phi họp ở Băng- Đung vừa rồi không làm cho các ông mở mắt ra sao. Rồi đây ở súng, lại thổi kèn, lại đọc điếu văn và lại đặt vòng hoa trên mồ tử sĩ trước khi ra đi, nhưng cái nhục, chua xót, căm hờn lại chính là về phần người dưới đất.

SANH-NY.- Giọng ông cũng đầy vẻ hằn học như hầu hết các đồng bào ông.

N. S. CÒM. - Thưa ông không phải là “hầu hết” mà là “toàn thể”, vì một số nhỏ chịu làm “chó săn chim mồi” cho chủ nghĩa thực dân của các ông thì ít ỏi đến có thể đếm trên đầu ngón tay cũng thừa đủ. Hơn nữa họ đều vào quốc tịch Pháp rồi. Họ đã tự đào thải trên phương diện tinh thần cũng như trên phương diện pháp lý ra khỏi tập đoàn bất khuất của dân Việt chúng tôi.

SANH-NY.- Chúng tôi đã làm gì cho các ông phải hằn học thế? Các ông có thấy chúng tôi thật chẳng khác những giáo sĩ đến truyền bá nền văn minh Tây phương cho các ông. Đến khi hấp thụ được cái văn minh của chúng tôi thì các ông dè bỉu chúng tôi hờn oán chúng tôi.

N. S. CÒM. - Các ông tự nhận là những giáo sĩ truyền bá văn minh vậy tôi xin kể hầu ông một câu chuyện.

SANH-NY. - Tôi rất hân hạnh được nghe câu chuyện của ông sắp kể (đến đây đức ông rút thuốc lá ra mời Nghệ sĩ Còm, nhưng Nghệ sĩ Còm từ chối không hút. Trong khi đức ông đánh diêm châm điếu thuốc của mình thì Nghệ sĩ Còm bắt đầu kể câu chuyện.)

N.S. CÒM.- Xưa đức Phật Thích Ca Mâu-ni muốn đem đạo từ bi bác ái của mình truyền bá sang một bộ tộc bên cạnh để cứu vớt chúng sanh nhưng các giáo sĩ của đức Phật cử sang đều bị thất bại.

SANH-NY.- Bị thất bại ra làm sao kia ông?

N’S. CÒM.- Kẻ thì bị chửi rủa, kẻ thì bị đánh rập mày rập mặt, kẻ thì bị đâm chém đến què lê ốm dệt hoặc đến tử thương.

SANH NY.- Trời ơi, đạo Phật từ bi bác ái cao quí đến vậy mà sao các giáo sĩ của đức Phật lại gặp toàn những chuyện không may đến thế?

N. S. CÒM.- Nguyên vì các giáo sĩ đã đến gần dân chúng bộ lạc đó với vẻ kiêu hãnh của kẻ bề trên hiểu đạo đến giảng dạy cho kẻ bề dưới còn u u minh minh.

SANH NY.- Kiêu hãnh như vậy thì có làm sao?

N.S. CÒM (lắc đầu).- Thưa ông điều đó rất quan hệ, vì người Đông phương chúng tôi theo về đạo học cốt đi đến chỗ mình làm chủ được lòng mình, nghĩa là có được cái đức của thánh nhân trước đã rồi hãy có cái tài của thánh nhân sau đó.

SANH NY.- Dân chúng bộ lạc kia đã bạc đãi các giáo sĩ của đức Phật chính vì lẽ đó?

N.S. CÒM. - Chính vì lẽ đó! Bởi các ông giáo sĩ đến truyền đạo từ bi bác ái của đức Phật mà kiêu sắc còn lồ lộ trên nét mặt nhường kia thì ai mà tin được! Đạo từ bi bác ái của đức Phật đâu có thể nảy nở và có thực ở những kẻ lòng đầy kiêu dục như vậy.

SANH NY.- Vậy có lẽ đức Phật phải đích thân đến truyền đạo?

N.S. CÒM.- Không, Ngài cho gọi một cao đệ của Ngài đến và xin ông hãy nghe cuộc đàm thoại của đức Phật với vị cao đệ của Ngài như sau:

ĐỨC PHẬT. - Con có thể thay ta đến bộ lạc kia truyền bá đạo từ bi hỉ xả?

VỊ CAO ĐỆ. - Thưa thầy con cam đoan thực hiện được việc đó.

ĐỨC PHẬT. - Nếu dân bộ lạc nguyền rủa con thì sao?

VỊ CAO ĐỆ. - Thưa thầy bao giờ con cũng tâm niệm rằng người với người là những nhân với nhân. Người ta nguyền rủa con, con vui lòng chịu đựng vì con nghĩ rằng cái nhân của con đối với người ta hẳn là không ra gì nên con mới hái được cái quả ấy.

ĐỨC PHẬT.- Nếu dân bộ lạc lại đánh đập con thì sao? sướng mà nghĩ rằng thân nào mà không mang nặng nghiệp, người ta hành hạ thân mình, mình vui mà nhận lấy ấy là một phương pháp thần diệu khiến cho mình nhẹ nghiệp.

ĐỨC PHẬT. - Nếu dân bộ lạc giết con thì sao?

VỊ CAO ĐỆ. - Nếu người ta giết con, con sẽ sung sướng mà nghĩ rằng: còn thân thì còn nghiệp, nay theo đạo hỷ xả của thầy người ta diệt thân con đi cũng là giải thoát giúp con khỏi nghiệp.

SANH-NY (hút hơi thuốc lá cuối cùng rồi quẳng mẫu thuốc ra xa, đầu hơi gật gù).- Theo ý tôi tư tưởng như vậy tiêu cực quá.

N.S, CÒM.- Phải có một tinh thần tích cực hàm súc vượt bực mới đạt tới hình thái tiêu cực hỷ xả như vậy ông ạ. Chính người ta ném thân mình lại sau mà lại hóa ra thân mình ở trước. Chính người ta hủy bỏ thân mình đi mà lại hóa ra thân mình còn. Người cao đệ của đức Phật đã đạt được kết quả. Người đi đến đâu được dân bộ lạc niềm nở tiếp đón đến đấy, khi người cất lời giảng đạo ai nấy im phăng phắc nghe! Quý ông hãy tự vấn xem quý ông đến đất nước này có thực với tinh thần của giáo sĩ truyền đạo?

SANH-NY.- Các ông há không thấy vì có chúng tôi đến xứ này mới có nhà cao cửa rộng đường xá cầu cống thông thương suốt từ Bắc chí Nam?

N.S. CÒM. - Thưa ông văn minh nhân loại có những vi ti huyết quản mà thời gian và không gian không thể cắt được. Nước Nhật Bản kia đâu có các ông tới mà cũng theo kịp được văn minh thế giới. Còn ở nước tôi, các ông đến mở mang đường xá cũng là để chuyên chở vơ vét tài nguyên của nước tôi về nước ông nữa chứ và cũng đồng thời còn để chuyển vận binh lính đàn áp các cuộc khởi nghĩa cứu nước của các vị Tán Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học v.v... Nhà cửa, lầu đài, dinh thự các ông xây thì nhân công có chúng tôi, thuế má có chúng tôi và ngự ở đã có các ông. Mới đây các ông lại có nhã ý mở mang quân sự huấn luyện sĩ quan đủ để chúng tôi xông pha chết thay cho các ông. Thưa ông đó là công thực của các vị giáo sĩ truyền bá văn minh theo chủ nghĩa thực dân của các ông.

SANH-NY.- Kiểu của ông nói với chúng tôi cũng như hầu hết các nhà ngôn luận đồng bào ông xét ra không được lễ độ cho lắm.

N.S.CÒM. - Thưa ông điều đó quả có vậy nhưng nếu ông hiểu theo kinh nhà Phật “Gieo nhân nào hái quả ấy”, hay theo lời Đức Khổng Tử “Trước trách mình sau trách người” thì ông có thể thể tất cho chúng tôi được lắm.

SANH-NY.- Nước nào không có kẻ hay người dở, đã đành chủ nghĩa thực dân có làm lắm điều càn rỡ, song cũng có những đồng bào của tôi sang đây giúp các ông với tinh thần vị tha đáng quý. Bởi cái lỗi để lấp cái công rồi vơ đũa cả nắm, tinh thần đại trượng phu Đông phương có thế chăng?

N.S. CÒM.- Thưa ông chúng tôi không hề vơ đũa cả nắm và bới lỗi để lấp công. Có điều nắm đũa của chúng tôi khác nắm đũa của các ông. Ông nói làm tôi nhớ mấy hôm trước đây đi chơi phố Sài Gòn tôi có qua đường Yersin - tên một bác sĩ Pháp mà dân Việt chúng tôi rất quý mến và đã từng gọi một cách thân mật là “người hiền như bụt và tai to như tai voi”. Tôi có đi dọc một đường phố thật lớn và thật dài mang tên một nhà bác học Pháp khác, Pasteur. Tôi lại có đi vào một con đường chéo cũng lớn cũng dài thời thực dân mang một tên thực dân Armand Rous- seau, nay chúng tôi đổi ra là đường J.J. Rousseau, người Pháp đã đặt nền móng đầu tiên cho thuyết bình đẳng xã hội. Hình như đó là những chiếc đũa mà chúng tôi ưng giữ lại. Còn những tên De Lattre de Tassigny De Gaulle thì thưa ông, họ có thể là anh hùng, là danh nhân với các ông, riêng với các ông thôi.

SANH-NY.- Đó là những vị anh hùng kháng Đức của chúng tôi!

N.S. CÒM.- Tôi biết! Tình cảm con người có khuynh hướng yêu cái gì cũ kỹ nhưng đầy kỷ niệm trong đời. Còn cái gì cũ kỹ và đầy kỷ niệm hơn giang sơn tổ quốc của tiền nhân để lại? Xưa khóc nỉ non huống chi những người mất nước. Sao các ông biết cương quyết đánh đuổi quân Đức để chiếm lại giang sơn tổ quốc của các ông mà các ông lại không muốn chúng tôi cương quyết đánh đuổi các ông để chiếm lại giang sơn tổ quốc của chúng tôi?

SANH-NY.- Bởi vậy chúng tôi mới trao trả các ông quyền độc lập.

N.S. CÒM.- Vâng! Đã biết nguyện vọng chúng tôi là chính đáng, sức quật khởi tranh đấu của chúng tôi dẻodai nhưng khi trao trả quyền độc lập cho chúng tôi rồi, sao các ông còn giữ thái độ kiêu căng khinh bạc? Sao các ông còn có những hành động ném đá dấu tay! Chính sách tàn bạo của những tên thái thú, thứ sử Tàu: Tô Định, Lục Dận, Tiêu Tư từ thời xưa sử sách của chúng tôi còn ghi rõ đến ngày nay, các ông đã hiểu người ta không thể chặn được dòng lịch sử, người ta không thể xuyên tạc được lịch sử thì người ta há không thấy rằng ăn ở với nhau trong tình hữu nghị lưu danh thơm chẳng hơn ăn ở phản trắc để lưu danh không thơm sao?

SALNTENY.- Ai chẳng muốn lưu danh thơm, ai chẳng muốn sống với nhau trong tình hữu nghị nhưng tình hữu nghị chỉ có thể thực hiện được do thiện chí cùng đem lại của cả hai bên. Các ông có thái độ bài Pháp sôi nổi mà các ông lại trách chúng tôi có thái độ nghi ngại chẳng hóa ra các ông phê phán một chiều lắm sao?

N.S. CÒM. - Chúng tôi hà tất phải nhắc lại những điều đã nói để chứng tỏ rằng chúng tôi chỉ bài Pháp thực dân. Chúng tôi chỉ muốn nêu lên một câu hỏi: giữa chúng tôi và các ông ai cần tỏ một chút thiện chí trước? Những lỗi lầm của các ông trong tám mươi năm trước, những lỗi lầm của các ông trong tám năm gần đây và cho đến ngày nay nữa có đáng để cho chúng tôi tin cậy không? Một ký giả ngoại quốc đã viết: “bất cứ một người Việt Nam biết tự trọng nào cũng phải có thái độ bài Pháp, Pháp thực dân Cố nhiên! Theo ý kiến tôi đức tính tự trọng mới chỉ là một trong rất nhiều đức tính khác của người ái quốc. Mà như kinh nghiệm bản thân trong tám mươi năm qua, các ông hẳn thấy ngọn lửa ái quốc của người Việt chúng tôi có đức tính là càng rập lại càng nồng?

SANH-NY.- (vẻ suy nghĩ rồi gật đầu) - Vâng, có thế!

N.S. CÒM. - Mới gần đây lại có một ông toàn quyền bên Châu Phi của các ông ngỏ ý muốn mời người Việt chúng tôi sang lập nghiệp tại xứ Congo bên đó.

SANH-NY.- Đó là do lòng tốt thành thực của chúng tôi. N.S.CÒM.- Cám ơn lòng tốt thành thực của các ông, nhưng điều đó chứng tỏ sau tám mươi năm trời miễn cưỡng sống bên nhau chúng tôi thì hiểu rõ các ông lắm, mà các ông thì không hiểu chúng tôi chút nào. Người Việt chúng tôi quý người hơn của, và quý nước hơn người.

Chúng tôi có thể đi khắp thế giới, nhưng đi để rồi về. Không một người Việt nào trong một phút nào đó lại có ý tưởng đi lập nghiệp ở một nơi không phải là đất Việt.

SANH-NY.- Vậy thì đó là quyền của các ông.

N.S. CÒM. - Bây giờ xin phép ông cho tôi được nhắc lại câu hỏi ban đầu: là một nước ký minh ước Đại Tây Dương như nước ông sao còn cử cán bộ liên lạc mật thiết với một chú chư hầu của Nga Sô?

SANH-NY.- Chúng tôi đứng ra ký hiệp đinh Genève chúng tôi có trách nhiệm giao thiệp với cả hai bên quốc cộng ở Việt Nam.

N.S. CÒM.- Thái độ của các ông làm tôi lại nhớ đến một câu chuyện cổ tích Việt Nam, chuyện bắt vịt vàng.

SANH-NY.- Chuyện bắt vịt vàng?

N’S. CÒM.- Vâng! Xưa có một ông trọc phú quí vàng hơn cha mẹ, vợ con, anh em. Một đêm trăng kia ông ra vườn thấy có hai con vịt vàng đi quẩn chân ông một con bị buộc chân nên cứ lạch bạch được vài bước lại ngã chúi xuống. Phú ông rắp tâm đuổi vồ kỳ được con không bị buộc chân đã rồi sẽ quay lại bắt nốt con bị buộc chân sau. Nhưng đuổi đến góc vườn, con vịt đó lại biến mất, khi quay lại thì con vịt buộc chân cũng vừa rứt bỏ được các dây nhợ và bay vút lên đậu một cành cây cao. Con vịt đó khác nào người quốc gia thoát ách thực dân. Dưới ánh trăng, nhìn con vịt vàng vỗ cánh, phú ông thấy nó đẹp như thiên thần. Mà với thiên thần người ta chỉ có thể tiến tới gần bằng lòng thành khẩn chứ không bằng dục vọng đục ngầu.

Thấy ông Sanh-Ny có vẻ suy nghĩ, Nghệ Sĩ Còm giơ tay chào cáo biệt ông. Đi được một quãng, Nghệ Sĩ Còm quay lại thấy ông vào thẳng chiếc nhà có ánh sáng gần đấy. Ý hẳn vào để gặp ông Hồ. Đi gần đến một ngã tư, Nghệ Sĩ Còm quay lại thấy có đám đông chừng mươi người đương cười cười nói nói ồn ào. Liền lúc đó có tiếng một người nói lớn: “Thôi bây giờ xin các anh em giải tán. Tuần lễ sau cũng ngày này, giờ này chúng ta lại họp để kiểm thảo. Các anh nhớ cho rằng văn nghệ phải phục vụ Đảng và nhân dân”. Mọi người ồn ào chào nhau rồi tản về các ngả. Người vừa nói đi về phía Nghệ Sĩ Còm vừa đi vừa cất giọng:

“Vui biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin.”

Trong khi hắn tiến gần về phía Nghệ Sĩ Còm hắn lại cao giọng ngâm tiếp:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một thương ông thương mười.

Rồi nbư cao hứng hắn vung tay lên hô:

Sít-ta-lin muôn năm!

Mao chủ tịch muôn năm!

Hồ chủ tịch muôn năm!

Tới đây hắn qua mặt Nghệ Sĩ Còm. Hắn ngoái cổ lại nhìn và gặp cái nhìn lạnh lùng của Nghệ Sĩ Còm. Hắn bỗng đứng dừng lại.

HẮN.- Đồng chí vừa đi họp về?

N.S. CÒM. - Anh vừa hát hai câu thơ nào đó? Có phải là những câu thơ dịch ở tiếng Nga?

Vui biết mấy nghe con tập nói, Tiếng đau lòng con gọi Sít-ta-lin.

HẮN.- Trời! Đồng chí không hiểu gì cả. Đó là hai câu của chính tôi: Tô Hẫu.

N.S. CÒM. - À ra anh là thi sĩ phục vụ nhân dân Tô Hẫu của Bác.

TÔ-HẪU (gật đầu). - Chính thị!

N.S. CÒM.- Tiếng đầu lòng của con anh khi tập nói có gọi

“Sít-ta lin?”

TÔ-HẪU.- Anh không phải là người văn nghệ có khác, anh chẳng hiểu gì về hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn nghệ.

N.S. CÒM.- Hiện thực xã hội là nêu lên những cái thực của xã hội?

TÔ HẪU. - Nêu lên những cái thực của “Chủ nghĩa xã hội”. Có khi nó không có thực hoặc chưa có thực nhưng mình phải gợi lên nói hộ lên theo hướng lên của chủ nghĩa xã hội.

N.S. CÒM.- Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin.

Tức là anh gợi, anh nói hộ những trẻ nhỏ Việt Nam theo hướng lên của chủ nghĩa xã hội?

TÔ HẪU (trố mắt nhìn Nghệ Sĩ Còm).- Đồng chí vừa đi họp về?

N.S. CÒM. - Còn câu:

Thương cha thương mẹ thương chồng

Thương mình thương một thương ông thương mười. cũng là gợi theo hướng lên của chủ nghĩa xã hội. Và ông đây là ông Sít-ta-lin?

TÔ HẪU.- Đồng chí vừa đi sinh hoạt chính trị ở đâu về? N,S. CÒM.- Tôi đã di cư vào miền Nam, nay về thăm quê hương một lát rồi lại ra đi ngay để sửa soạn cho một ngày về vinh quang và vĩnh viễn gần dây.

TÔ HẪU.- A, đồng chí đã di cư vào Nam!

N.S. CÒM. - Tôi đã di cư vào Nam thì đồng chí với anh thế quái nào được. Hay là đó cũng là cách xưng hô “gợi lên hộ” “nói lên hộ” theo hướng lên của chủ nghĩa xã hội?

TÔ HẦU.- A, có thật đồng chí, à quên anh, anh định riễu tôi phỏng ? Anh đã di cư vào Nam? Thảo nào giọng anh sặc mùi phản động!

N.S. CÒM.- Giọng tôi không phải là giọng phản động mà là giọng nói của dân tộc. Giọng nói của dân tộc tuy thật dồi dào, tuy phát hiện theo muôn hình thể nhưng không bao giờ lại cất tiếng ca lạc loài và vong bản như anh:

Vui biết mấy nghe con tập nói Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin. Thương cha, thương mẹ thương chồng,

Thương mình thương một, thương ông thương mười.

Ông Sít-ta-lin. Than ôi!

TÔ-HẪU.- Nga Sô thành trì của vô sản thế giới! Đồng chí Sít-ta-lin lãnh đạo cuộc tranh đấu của vô sản thế giới chống tư bản phản động quốc tế bóc lột, đem lại bình đẳng cho nhân loại. Anh cấm những người giác ngộ giai cấp chúng tôi thương xót ông à?

N.S. CÒM. - Anh hãy so sánh đời sống các cán bộ đặc táo từ Mao Trạch Đông cho đến Lê Quý Ba với đời sống anh em chiến sĩ và nhân dân ta. Anh hãy so sánh đời sống của những trùm đỏ từ Boulganine, Molotov cho đến những Malik, Lavrichev với đời sống các anh em chiến sĩ và nhân dân ta. Anh có thấy sự khác biệt sâu xa đến nỗi không có thể tìm đâu ở trên thế giới này một sự khác biệt khác khả dĩ có thể so sánh nổi. Anh là người giác ngộ giai cấp ca ngợi Nga Sô và đồng chí Sít-ta-lin anh hãy trả lời câu đó.

TÔ HẪU. - Chúng tôi là những phần tử giác ngộ quyền lợi nhân dân, chúng tôi mỗi người có một bổn phận riêng do nhân dân giao phó cho, chúng tôi chỉ biết hoạt động phục vụ nhân dân. Chúng tôi không hề để ý đến vấn đề đó.

N.S. CÒM. - Tôi hỏi anh câu ấy để muốn anh nhìn lại thực trạng của dân tộc. Từ khi cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc chuyển sang cuộc chiến đấu giai cấp, đảng cộng sản của anh đã lượm được cái gì? Các nhà văn nghệ phục vụ giai cấp đã nói lên được những gì là sâu sắc? Anh nói:

Vui biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin

Anh ơi, trẻ Việt nào, dù là con anh, do anh giáo dục đi nữa, mà lại có thể quái thai đến nỗi tiếng đầu lòng không gọi cha, gọi mẹ, gọi ông, gọi bà mà lại gọi Sit-ta-lin.

TÔ HẪU. - Chúng tôi ca ngợi tinh thần quốc tế xã hội, chúng tôi muốn giáo dục con người có được một tình yêu nhân loại rộng rãi.

N’S. CÒM.- Anh ạ, nếu vợ con ta ta còn chưa biết yêu thì ta yêu làm sao được nhân loại. Cái tình yêu mà các anh tự hào là rộng rãi bao trùm cả nhân loại chỉ là một tình yêu mất rễ, giả tạo, máy móc. Những tên trùm đó thường đem cái tinh thần quốc tế xã hội ra để che lấp cái vị kỷ tư đục bên trong của chúng.

Tinh thần quốc tế xã hội đâu, tình thân ái đồng chí đâu, ở những hành động tàn bạo của Staline khi hắn ra lệnh hạ sát các đồng chí khác của hắn như Trotsky, Boukhanine cùng các thống chế khác trong hồng quân? Tinh thần quốc tế xã hội đâu, tình thân ái đồng chí đâu ở hành động thâm độc của Malenkov khi hạ sát Béria?

TÔ HẪU.- Béria là một tên phản động!

N.S. CÒM.- Phản động mà sống qua được biết bao lần thanh đảng để được luôn luôn ở sát Staline, điều khiển bộ nội vụ? Kỳ lạ cho cái chính thể Cộng Sản của anh là những tên phản động thường thường toàn ở hàng chóp bu. Thời kháng Đức các anh ca ngợi Tito hết lời, sau thời kháng Đức các anh mạt sát Tito cạn lời. Bây giờ những trùm đỏ Nga Sô lại đích thân sang Nam Tư nối lại tình giao hảo cũ.

Tất cả chân giá trị lời nói cùng việc làm của người cộng sản là thế đó và đó cũng là chân giả trị của kẻ mà các anh tôn làm thánh sống. Anh lại mớm lời cho con anh, cho vợ anh mà anh cũng muốn vong bản như anh:

Yêu biết mấy nghe con tập nói Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin Thương cha thương mẹ thương chồng

Thương mình thương một thương ông thương mười.

“Ông” Sít-ta-lin, Than ôi!

TÔ HẪU. - Anh không thể hiểu chúng tôi, những chiến sĩ vị giai cấp, qua tinh thần dân tộc hẹp hòi của những người quốc gia!

N.S. CÒM. - Dân tộc đâu hẹp hòi, dân tộc bao trùm lên giai cấp. Với một truyền thống văn hóa, với một quá khứ thăm thẳm súc tích, dân tộc đã chau chuốt cho tâm hồn anh tế nhị, cho tình cảm anh sâu sắc. Năm nay tôi cho là anh 40 tuổi. Anh ta đời vào lúc bên kia trời Âu ông Sít-ta-lin của anh đương hoạt động ráo riết bên cạnh Lê Nin để chuẩn bị cuộc cách mạng tháng mười lật đổ Nga Hoàng! Trong khi người mẹ Việt nâng niu bú mớm anh, và cất tiếng hát ru:

Ru ơi, ru hỡi, ru hời

Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông,

Núi cao biển rộng mênh mông,

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi. thì có lẽ là thời ông Sít-ta-lin của anh đương bị đầy ở Tây Bá Lợi

Á. Hắn có công gì trong việc dưỡng dục anh?

TÔ HẪU. - Người Cộng sản đâu có quên cha mẹ, người

Cộng sản chỉ mở rộng tình yêu của mình.

N.S. CÒM. - Anh không quên ơn cha mẹ? Để đền đáp công ơn cha mẹ, anh đã gián tiếp dạy vợ, dạy con anh theo “hướng lên” của chủ nghĩa hiện thực xã hội:

Vui biết mấy nghe con tập nói, Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin Thương cha, thương mẹ, thương chồng,

Thương mình thương một, thương ông thương mười.

Ông Sít-ta-lin. Than ôi!!!

TÔ HẪU (cù nhầy) .- Ông Sít-ta-lin đã sao?

N.S. CÒM. - Rồi trong khi anh khôn lớn lên giữa vùng thiên nhiên cỏ cây phồn thịnh của nước Việt thì ông Sít-ta-lin có lẽ đã dời khỏi Tây Bá Lợi Á, đang âm thầm mưu sát các đồng chí để củng cố chính quyền độc tài của mình. Ông Sít-ta-lin của anh có công gì với anh nói riêng và với nước Việt nói chung để đến nỗi người đàn bà Việt phải cất giọng hát:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng,

Thương mình thương một, thương ông thương mười.

Ông Sít-ta-lin. Than ôi!!!

TÔ HẪU. - Anh không thể hiểu chúng tôi qua...

N.S. CÒM. - Có lẽ làng anh, cũng như phần nhiều các làng Việt khác, ở ven sông, có cỏ cây xanh tốt, có dòng nước quanh co:

Làng ta phong cảnh hữu tình,

Dân cư giang khúc như hình con long.

Anh đã từng sống những đêm trăng thơ mộng của dân tộc:

Sáng trăng vằng vặc đêm rằm,

Nửa đêm về sáng trăng nằm đọt tre.

TÔ HẪU. - Anh không thể hiểu tinh thần phục vụ giai cấp của...

N.S. CÒM. - Anh đã khôn lớn lên bồi hồi trứơc tiếng hát phiêu phiêu trong gió chiều:

Đêm đêm tưởng giải Ngân Hà

Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn.

Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.

Anh đã khôn lớn lên trong những lời ca hào hứng đầy tinh thần tự lập:

Nên ra tay kiếm tay cờ,

Chẳng nên thi chớ chẳng nhờ tay ai.

Anh đã khôn lớn lên như vậy trong lòng nhân ái mênh mông của tâm hồn dân tộc phong phú. Dời bỏ lòng dân tộc các anh còn gì? Trí thông minh của anh trở nên nông cạn dẫm vào không ngập hết gót giầy:

Thương cha thương mẹ thương chồng,

Thương mình thương một thương ông thương mười.

Ông Sít-ta-lin!!!

TÔ HẪU.- Các anh chưa được Đảng huấn luyện, các anh chưa nhuần thấm tinh thần phục vụ của Đảng thì các anh không thể hiểu chúng tôi được.

N.S. CÒM.- Người con gái Việt dịu dàng thắm thiết:

Qua cầu ngả nón trông cầu

Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.

Đây là hình ảnh người con gái Việt trước khi dời gian đình xuất giá:

Ra đi ngó trước ngó sau

Ngó nhà mấy cột ngó cau mấy buồng.

Đây, hình ảnh người con gái Việt hiếu hạnh khi đã về nhà chồng:

Chiều chiều ra đứng cửa sau.

Ngó về quê mẹ ruột đau chiều chiều.

Và anh hãy tưởng tượng những trưa hè có tiếng võng kẽo kẹt với tiếng hát ru. Giữa những màu sắc dân tộc làm tê dại cõi lòng ấy, có thể nào người đàn bà Việt cất tiếng hát ru:

Thương cha thương mẹ, thương chồng,

Thương mình thương một, thương ông thương mười.

Ông Sít-ta-lin!!!

TÔ HẪU.- Các anh chưa được tẩy não, hoán não nên tư tưởng côn lạc hậu. Chính nhờ ơn Đảng, chính phủ và Bác mà nhân dân ta ngày nay vinh quang biết bao.

N.S. CÒM.- Và thực là độc lập, Tự do, Hạnh phúc phải không anh? Cho nên nhân dân đã ca ngợi thuế của Bác.

Thuế đâu có thuế lạ lùng

Thuế cao hơn cả non Nùng thuế ơi. và :

Thuế nông nghiệp đóng đã xong

Ô hô rỗng tuếch bồ trong bịch ngoài

Vợ chồng ăn độn ngô khoai

Nhà nông nước mắt chảy dài như mưa.

TÔ HẪU.- Đấy là tiếng nói của kẻ phản động mất lập trường nhân dân.

N.S. CÒM.- Không, đấy là tiếng nói của nhân dân nguyền rủa kẻ phản động mất lập trường dân tộc. Anh hãy nghe tiếp lời nói thốt tự lòng dân Việt “ca ngợi” hạnh phúc của Bác đem lại:

Tiếng loa réo rắt đêm ngày

Dân gian điêu đứng vì mày loa ơi,

Bao giờ loa mới im hơi,

Cho làng yên ổn cho tôi thanh nhàn.

Anh hãy nghe tiếp lời dân Việt ca ngợi tự do của Bác đem lại:

Đi đâu, đứng đâu, ngồi đâu

Người ta như cũng gờm nhau rình hoài

Vì đâu cơ cực hỡi trời,

Bao giờ tôi đứng tôi ngồi tự do?

Và đây là cảnh dân Việt tưng bừng tiếp đón cái tự do, hạnh phúc của Đảng. Chính phủ và Bác của anh em lại:

Nhìn nhau thuận vợ thuận chồng,

Bỏ làng, bỏ hiệu xuống Phòng, vô Nam.

TÔ HẪU.- Còn đứng ở lập trường quốc gia dân tộc nhỏ hẹp và phản động các anh không thể hiểu lập trường quốc tế của những người Cộng Sản được.

N.S. CÒM.- Anh hãy đợi đến đêm khuya là lúc vạn vật hòa vào nhau thắm thiết, trong không trung hương và âm thanh lẫn lộn quay cuồng, rồi anh hãy lắng lòng lại để cho ý thức con người của anh đi sâu vào vạn vật. Anh sẽ cảm thấy trong vũ trụ mênh mông, trong cái dại thiên địa vô cùng này, vạn vật đều khăng khít dính líu với nhau...

TÔ-HẪU.- ĐÓ là luật vạn vật tương quan đã có trong học thuyết Mác-Lê!

N.S. CÒM. - Anh sẽ cảm thấy ý thức như tỏa ra một khả năng kỳ diệu ôm ấp lấy vạn vật, anh sẽ nghe thấy những tiếng nứt rạn, tiếng bước nhẹ, tiếng cười lén. Đó là tiếng của cây cỏ trổ búp dâm bông, mầm non chớm nở. Trong lúc đất trời tràn đầy ý niệm nhiệm mầu của đức sinh thành tái tạo ấy, anh sẽ thấy con người ly khai làm sao được với gia đình, tổ quốc!

Tinh yêu nhân loại ươm mầu ở tình yêu tổ quốc và tình yêu tổ quốc bắt nguồn ở tình yêu gia đình. Cả một hệ thống yêu thương đó kết hợp lại là một, như cây kia, rễ bắt sâu vào lòng đất, hút nhựa mang qua thân, chuyển lên cành cho lá xanh, hoa nở, quả lớn.

TÔ HỮU.- Đó có lẽ là luật “lượng đổi thành chất” của Mác-Lê.

N.S. CÒM.- Vắt tay lên trán anh thử nghĩ lại xem ngày mới kháng chiến các anh bước theo triều sóng lớn của dân tộc, các anh đã là những người giữ nhịp cho bản ca lịch sử oai hùng và lời các anh chỉ đậm đà thắm thiết, đi sâu vào lòng mọi người khi chính các anh được đắm trong hơi ấm của hồn dân tộc. Chúng ta trang điểm tự trong lòng dân tộc để dắt tay nhau bước vào hội loài người luyến ái. Từ ngày các anh dời bỏ lòng dân tộc mênh mông thắm thiết để bước vào miếng đất khô cằn của giai cấp đấu tranh, tiếng các anh nhọn hoắt căm hờn, tiếng các anh trở nên kệch cỡm, bỉ ổi đê tiện, hèn hạ. Một người Việt tự trọng có bao giờ lại nói:

Vui biết mấy nghe con tập nói, Tiếng đầu lòng con gọi Sít-te-lin. Thương cha, thương mẹ, thương chồng.

Thương mình. thương một thương ông thương mười.

Ông Sít-ta-lia. Than ôi!!!

TÔ HỮU.- Tiếng nói của anh thuộc loài bất trị, không thể giác ngộ được!

N.S. CÒM.- Còn tiếng nói của các anh chỉ bảo hiệu kinh hoàng chết chóc!

Các anh gieo căm hờn, thứ căm hờn vay mượn của thuyết giai cấp đấu tranh ngoại lai, để gây chia rẽ trong một dân tộc có truyền thống thương yêu nhau như anh em một nhà:

Khôn ngoan đã đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Ông cha ta với đoàn quân phụ tử đã từng phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, bại Thanh gìn giữ giang sơn gấm vóc đến ngày nay. Các anh đã làm gì để đền đáp công ơn các người?

Nếp sống của dân tộc có biến đổi với thời gian nhưng nói đến thời gian là nói đến dòng lịch sử. Trên dòng lịch sử bao giờ dân tộc cũng là một thực thể để sống, nhân loại là một thực thể để hòa đồng. Phủ nhận sắc thái dân tộc anh côn gì để hòa đồng? Thực thể dân tộc là hình, sự hòa đồng với nhân loại là bóng, anh vượt khỏi thực thể dân tộc bảo là để vươn tới nhân loại rộng lớn hơn, có khác chi anh phủ nhận hình để đạt tới bóng, nhưng khi hình không có thì bóng cũng chẳng côn!

Anh hãy nhìn lại cái phương pháp ngu dân mà Đảng, Chính phủ và Bác của anh đang áp dụng. Anh lại nhìn đến mức sống của những người dân cần cù nhẫn nại đáng quý kia. Họ đã không từ một hy sinh nào và độc lập, tự do, hạnh phúc mà Đảng, Chính phủ và Bác anh mang lại là thế đó. Phương pháp thu thuế, phương pháp tịch thu ruộng đất, phương pháp đấu tố của Đảng, Chính phủ và Bác anh chứng tỏ đảng Cộng sản chỉ là một đảng cướp, và tên trùm khát máu của đảng cướp quốc tế đó là kẻ mà anh uốn lưỡi cất lời ca:

Vui biết mấy nghe con tập nói,

Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin (!!)

Quê hương Việt Nam là quê hương của những kẻ bất khuất. Trẻ Việt trong trắng hồn nhiên, anh làm nhục trẻ Việt sao nổi?

Thương cha, thương mẹ thương chồng,

Thương mình thương một, thương ông thương mười (!!)

Quê hương Việt Nam là quê hương của những mẹ hiền dâu thảo, anh làm nhục người đàn bà Việt Nam sao nổi. Anh về đi và đợi khi đêm thật khuya, anh lắng hồn lại để cho những câu thơ đó vang lên trong trí anh. Khi đó nếu anh còn thấy xấu hổ ấy là một điều đáng mừng vì con người cấu tạo bằng tình cảm của anh chưa mất hẳn. Nếu trái lại anh thấy lòng trơ trơ không mảy may cảm động thì quả anh đã lùi được một bước lùi “vĩ đại vượt bực”. Không phải anh lùi trên một bình diện mà lùi trên một hình cầu nghĩa là anh vừa lùi vừa xuống thấp. Anh đã xuống thấp ngang hàng sắt đá. Sắt đá làm nên con đường Hà Nội - Mục Nam Quang. Sắt đá đè nát được thịt người. Nhưng sắt đá không có tình cảm!

(Nói đến đây Nghệ sĩ Còm nghẹn ngào. Đầu óc bâng khu- âng và chợt thấy mình như bị bao bọc bởi một làn sương mờ dầy đặc. Hình ảnh rừng xanh miền Bắc, núi và đất nghèo miền Trung, đồng bằng phì nhiêu miền Nam cứ lẫn lộn quay cuồng trong trí. Nghệ sĩ Còm nghe như có tiếng rên la uất ức, tiếng nguyền rủa căm hờn của các đồng bào đương bị sống dưới gót sắt của một đảng sắt sau bức màn sắt. Rồi Nghệ sĩ Còm rơi vào một trạng thái không mộng. Khi tỉnh dậy, Nghệ sĩ Còm vội thắp nến lên ghi vội những dòng mà các bạn vừa nghe trên đây.)

Chương Bốn

NGƯỜI EM RA BẮC

I

Chính Khiết là người đã kể cho Kha nghe chuyện người anh là sĩ quan theo quân đội viễn chinh vào đến Nha

Trang thì bị người em đến mắng. Người anh sĩ quan này - tên là Ly - có họ xa với Khiết. Ít lâu sau Ly đổi về Sài Gòn, Kha gặp Ly và được Khiết giới thiệu ở ngay tòa soạn Văn hóa. Ngày đó Ly vừa nhận được bức thư dài của người em (đã hiểu thế nào là cộng sản) và đưa Kha, Khiết cùng đọc. Bức thư gửi qua đường Cao Miên. Rồi Ly hỏi Khiết:

- Anh Khiết còn nhớ Bảo con ông giáo Tạ làng nhà?

- Có, “chú bé” đó qua Pháp du học mà. (Bảo còn ít tuổi lắm so với Khiết và dáng người bé nhỏ).

- Vâng chú theo học kỹ sư điện tại Paris và đỗ thủ khoa kỳ thi ra năm 1954, đúng năm ký hiệp định Genève. “Chú bé” đỗ xong được chừng nửa tháng thì nhận được mảnh giấy do chính tay Hồ Chí Minh viết:

Cháu Bảo,

Cháu thành tài, hãy về với thầy mẹ.

Bác Ly tiếp:

- Anh biết không, chú về đến nơi thì cũng vừa hay tin cha mẹ bị “nhân dân” bao vây cô lập, căn nhà thờ năm gian lợp ngói không được ở, phải xuống ở căn bếp lụp sụp. Tôi không rõ chú bé nghĩ gì, dù sao vở kịch đến đó cũng hạ màn rồi, cá đã chui vào rọ!

Hôm đó Khiết mời Ly và Kha đi ăn hiệu, lúc về tạt vào nhà

Ly ở một đường gần chợ Bến Thành.

Lần này đến thăm Tân không gặp, Kha bèn tiện thể tạt vào thăm Ly.

Những gian lao và những phản bội của thời kháng chiến với Kha giờ đây chỉ còn là những kỷ niệm mơ hồ, Kha muốn vậy

- nhớ đến chúng để làm gì? Nhưng mỗi khi Kha gặp một trường hợp có sự tranh chấp ý thức hệ giữa phe quốc gia với phe cộng sản, chàng không bỏ lỡ dịp tìm hiểu ngọn nguồn câu chuyện. Kha muốn tìm lại hình ảnh xa xưa của chính chàng!

Ly vồn vả mời Kha ngồi. Kha thân mật hỏi ngay:

- Anh có nhận được thêm tin tức gì về gì về chú em ngoài đó không?

Ly lẳng lặng mở ví lấy ra tờ thư gấp bốn viết trên pelure mỏng chữ nhỏ lí nhí đưa cho Kha:

- Đây anh đọc bức thư thứ hai nầy em tôi vừa gửi, cũng qua đường Cao Miên.

Kha đưa mắt lướt trang thư:

Kính mẹ, anh chị cả, anh chị hai hai và các em.

Mấy tháng trời về đây con luôn luôn đợi tin tức của mẹ. Con luôn luôn mong được gặp mẹ già cùng toàn thể gia đình. Các anh chị kính mến của em, các anh chị có khỏe không, làm ăn thế nào? Mẹ già của chúng mình ra sao? Ở đây em rất mong tin tức của mẹ, của anh chị và cả gia đình. Bà con ta bên đó làm ăn ra sao?

Tháng trước con có gửi thư sang mà không thấy trả lời. Con rất mong thư của mẹ già. Kính thưa mẹ, phần con ở đây vẫn khỏe mạnh. Cả nhà nhớ là nhận được thư này thì trả lời ngay cho con biết chừng. Mẹ nói với các anh chị là tự tay viết thư cho con, chứ đừng để một người thay mặt viết, ai cũng phải gửi cho con mỗi người một cái ảnh hay là cả nhà chụp chung cũng được. Ngày giỗ cha sắp tới, ở đây con cũng làm.

Các anh các chị của em, trong khi đợi ngày gia đình đoàn tụ như xưa, các anh các chị phụng dưỡng mẹ già dùm em. Các em - không được họp mặt với các em, anh rất nhớ, anh dặn các em một điều là phải nghe lời mẹ cùng các anh các chị phụng dưỡng mẹ già, làm sao ăn ở với anh em bà con cho thật tốt, nhường nhịn, quý trọng thương yêu, giúp đỡ thật thà với mọi người. Cậu chúc các cháu của cậu ngoan ngoãn.

Thưa mẹ, một lần nữa con gửi lời kính chúc mẹ già. Con rất mong thư của gia đình, nhận được thư này cho con được biết tin ngay.

Con kính mong mẹ già khỏe mạnh.

Thôi con ngừng bút ở đây, con ôm tất cả vào lòng. Con của mẹ

Em của các anh chị Anh của các em Cậu của các cháu.

Biết Kha đã đọc xong, Ly nói:

- Tình cờ mà tôi đã tìm ra manh mối vì sao em tôi hùng hổ tới Nha Trang buông lời khinh khi tôi như vậy.

II

Tháng 10-1945 quân kháng chiến miền Nam của ta từ Quán Tre đến Cầu Bông phần lớn dùng gậy tầm vông vót nhọn chống nhau với Tây. Kháng chiến tiêu thổ, tự đốt nhà khói bốc ngút trời, buổi chiều vác gậy tầm vông chạy rầm rầm ngoài đường diệt Việt gian quẳng xác ngay bên vệ đường rồi rút về những nhà tranh dựng giữa rừng tre.

Sang 1946 lính chà chốp về đóng nhiều ở ngoại ô Sài Gòn - Gia Định (lính đen, rạch mặt, đỉnh đầu có khoảng tóc xoắn tít). Tụi chà chốp xông xáo tới những xóm lân cận bắt gà, bắt heo, giết người, nhưng chúng cũng biết thân lắm không dám đi quá sang bên kia Cầu Mới, đường Hàng Xanh. Ngã Ba Hàng Xanh lề cỏ xanh um, lúc nước ròng lên mấp mí hai bên đường. Dưới hai hàng xanh bên lề đường là hai hàng ghế xi măng, trước đây thời bình chiều chiều dân chúng Gia Định vẫn tới ngồi chơi hóng mát. Nhìn nước ròng mênh mông như hồ hai bên đường, người dân Bắc vẫn thường gọi đây là đường Cổ Ngư của miền Nam. Giờ đây đường Hàng Xanh cả vùng hoang vắng, hễ có tiếng súng tất có xác người quẳng lại bên vệ đường. Giai đoạn 1947 giai đoạn, giai đoạn bình định của lính Anh, lính Pháp và Chà chốp. Các ông làng (như hội đồng xã bây giờ), các công chức trở về cộng tác với Pháp. Một ban ám sát được thành lập, đặc biệt tuyển lựa trong số thiếu niên mười lăm hay mười sáu tuổi là cùng. Đó là tuổi chỉ biết hành động thật hăng không cần suy nghĩ. Người điều khiển ban ám sát này, tụi P.S.E của Pháp - Police spéciale de l’Est - mệnh danh là Trưởng ban vô hình (hành tung rất bí mật không bao giờ thấy bóng). Có ban hội tề mười hai người thì mười một người bị ám sát. Nhưng rồi Trưởng ban vô hình cũng bị lộ hành tung. Lính Pháp và Chà chốp ập tới bao vây An Phú Đông bắt được. Đó là một thanh niên đã đỗ tú tài tên là Xuân. Thoạt Xuân bị giải về Công an Gia Định, đường Hàng Thi, nhưng chỉ một ngày sau Xuân bị giải về Sở Công an đường Catinat Sài Gòn, nơi đây có bốn phòng tra... đầy đủ tiện nghi hơn. Xuân tuần tự được cả bốn phòng tra... tiếp đón, nào dìm vào hồ nước, nào treo ngược lên sà nhà đổ nước mắm vào mũi, nào bị đánh bằng chày vồ đầu biêu lên từng cục, mặt mũi xưng húp, nào bị quật túi bụi bằng matraque (làm bằng cao su dầy hình chữ nhật có cán gỗ, bị đánh bằng matraque dù có đến hộc máu, mình mẩy nạn nhân cũng không để lại thương tích gì trầm trọng cho lắm) Xuân bị quật bằng matraque túi bụi bất kể trước ngực sau lưng đến nỗi mỗi lần thở mạnh bọt máu lại phòi ra hai bên mép.

Một mặt tra tấn cực kỳ dã man như vậy, một mặt chúng dụ dỗ, chúng dụ dỗ nếu Xuân chịu khai, chúng sẽ cho Xuân làm điều tra viên - enquêteur - ngang với chức người Pháp, ngay tại bót Catinat này. Xuân không chịu, chúng dọa đưa đi Cầu Sơn. Cầu Sơn cách ngã ba Hàng Xanh không bao xa, nơi chúng thủ tiêu những cán bộ kháng chiến. Chúng đưa Xuân đi Cầu Sơn thật, trên một chiếc xe Jeep. Nhưng tới đó chúng chỉ quẳng những chĩnh nước mắm xuống sông rồi bắn cho vỡ tan để uy hiếp tinh thần, rồi lại mang Xuân về tiếp tục dụ dỗ.

Thường mỗi lần tự phòng tra về, Xuân lại được các bạn đồng cảnh ngộ pha nước muối cho uống. Kinh nghiệm cho hay phải uống nước muối thư vậy để máu lưu thông mạnh, chóng lành những khoảng thịt dập nát. Có bạn tù giàu kinh nghiệm hơn bảo Xuân là qua thời gian chịu đòn như vậy, qua thời gian da thịt tím bầm khắp nơi như vậy, đi tiểu thấy vàng khè hoặc đỏ như máu, nhưng rồi sau đó các tế bào cùng máu huyết trong cơ thể hoàn toàn đổi mới và người sẽ trở nên cường tráng, yêu đời.

Xuân lại bị gọi lên phòng tra. Người bạn tù lần này dúi vào tay Xuân một lọ dầu nhị thiên đường để có thể thoa ngay vào những chỗ dập nát khi ở phòng tra ra. Nhưng chúng đưa Xuân lên xe Jeep cùng với hai người nữa. Xe chạy theo con đường đưa tới Cầu Sơn. Linh tính báo cho Xuân hay lần này chúng bắn thật.

Nguyên do khoảng năm giờ hôm trước ba người lính thủy Pháp quá chủ quan ở lực lượng bình định, vui chân qua cầu Thị Nghè, tới ngã ba Hàng Xanh. Dân chúng quanh nhà dưỡng lão Thị Nghè bỗng nghe có tiếng liên thanh. Bảy giờ chiều, một cô gái quê trên đường về đồng Ông Cộ bỗng chùn bước lại: ba người lính thủy quần áo trắng còn cựa quậy xây qua xây lại trên bờ cỏ um tùm, nước ròng rềnh lên mấp mí. Người con gái nghĩ thầm: “Giờ đó mà còn nằm chơi chờ ghẹo gái sao”. Cô chợt nhớ tới loạt liên thanh trước đấy hai giờ. Xe nhà binh Pháp và xe hồng thập tự cũng vừa tới, ba nạn nhân được chở về Sài Gòn thì chết. Xuân bị đưa lên xe Jeep thẳng tới Cầu Sơn lần thứ hai cùng với hai người bạn tử tù khác là vì vậy, Oeil pour oeil, dent pour dent. Xác ba người cũng bị quẳng trên bờ sông.

Sáng hôm sau có một cô gái lai Pháp đưa một thanh niên hai mươi tuổi tới bót Catinat yết kiến viên cò Pháp xin được nhận xác Xuân về chôn cất. Người thiếu nên hai mươi tuổi đó tên là Hoằng gọi Xuân bằng cậu. Cô gái lai Pháp đó tên cũ là Joséphine, tên Việt là Bích. Câu chuyện khá rắc rối ở đây.

Mẹ Joséphine là đầm lai lấy một người Việt vào làng Tây sinh ra Joséphine. Người chồng Việt mất, bà tái giá với một người Pháp để rồi năm năm sau theo người này về mẫu quốc, tỉnh Roubaix miền Bắc Pháp. Bà gửi Joséphine lại cho một người bạn thân, một mụ đầm già ở thuộc địa đã lâu năm mới từ Hà Nội vào. Từ đấy Joséphine gọi mụ là ma man. Thời gian quân đội viễn chinh Pháp bắt đầu bình định Nam bộ, Ma man mở một tiệm giải khát bán công khai ngay tại nhà cho lũ lê dương, Joséphine thường phải chạy đi mua rượu mỗi khi nhà hết.

Xuân tuy là vai cậu Hoằng nhưng chỉ hơn Hoằng chừng năm sáu tuổi. Khi Xuân được ban tham mưu Thành (những người cộng sản chính cống) cử giữ chức trưởng ban ám sát, Hoằng có xin cậu cho gia nhập, nhưng ban tham mưu cản không cho vì Hoằng quá lớn tuổi - hai mươi - tuổi đã biết đắn đo suy nghĩ, nhất là vào trường hợp phải giết người, như vậy hành dộng sẽ kém phần cương quyết mau lẹ, do đó vô cùng bất lợi cho tổ chức. Nhưng ban tham mưu cũng không bỏ lỡ dịp sử dụng lòng nhiệt thành của Hoằng, ban ngầm cấp vốn để Hoằng mở một tiệm rượu cho lính Pháp tại dường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng bây giờ) lấy tên là buvette Le Coq. Đây cũng là một hoạt động kinh tài của đoàn thể. Mỗi khi nhà hết rượu Joséphine lại đến tiệm Le Coq mua về.

Joséphine năm đó mười bảy tuổi. Là một cô gái lai một phần tư, Joséphine hầu như tập trung được cả hai vẻ đẹp Đông phương và Tây phương. Mũi dọc dừa hơi cao một chút, tròng mắt phảng phất xanh, nước da trắng mát, thân hình đã hoàn toàn nảy nở, tuy học ít nhưng nói tiếng Pháp rất trôi chảy, giọng đầm tất nhiên đó là phần ảnh hưởng Tây phương. Joséphine rất nhớ mẹ bên Pháp và cũng như tất cả nam nữ thanh niên có đôi chút kiến thức Tây phương đương thời, sau tám mươi năm hiện diện của người Pháp trên xứ sở này, ai lấy khao khát được qua Ba Lê và mặc nhiên công nhận Ba Lê là trung tâm văn hóa của cả thế giới. Niềm khát vọng được qua Pháp gặp mẹ khiến đôi mắt Joséphine luôn luôn tràn ngập nhớ nhung, phảng phất u sầu, đó là phần Đông phương đóng góp. Vẻ đẹp đó tất nhiên làm xúc động chàng trai chủ tiệm Le Coq ngay từ buổi đầu gặp mặt.

Một lần đã mười giờ khuya, Joséphine tới gõ cửa mua chai Rhum. Hoảng hốt Hoằng hỏi: “Chết, mười một giờ đã giới ng- hiêm rồi! Nhà cô có xa đây không?”. Joséphine cho hay nhà nàng ở một hẻm đường Richaud (Phan Đình Phùng bây giờ) cách chừng 500 thước. Lần đó Hoằng đích thân đưa Joséphine về tới nhà, nghe bên trong ồn ào tiếng lê dương cười nói, chạm ly giữa âm thanh rộn rịp của một bản Valse musette chạy đĩa. Tới lúc đó Hoằng mới biết rõ hoàn cảnh Joséphine. Hoằng khuyên nàng nên dời bỏ ngay nếp sống đó về làm Caissière cho tiệm Le Coq, Hoằng sẽ trả lương một ngàn một tháng. Joséphine nhận lời. Để làm tăng giá tri cho Joséphine, để tụi lính Pháp vào uống rượu không dám sàm sỡ quá đáng. Hoằng giới thiệu với chúng Bích (Joséphine mang tên Bích từ đó) là cô em họ của mình - Elle est ma cousine!

Trong đám khách lính bỗng có một anh Tây lai cao, trẻ, đẹp trai xuất hiện, anh làm ở sở lục lộ và ngày nào cũng hai ba lần đến ngồi quầy rượu vừa uống vừa tán tỉnh Bích. Bích xem ra xiêu lòng, Hoằng ghen cự nự: “Cô nên biết thằng Tây lai ở Bắc vào chẳng tử tế gì đâu, nó thuộc loại đá cá lăn dưa mà!”

Thoạt Bích có nể lời Hoằng.

Dạo nây Hoằng đã viết thư bắt được liên lạc với mẹ Bích ở Roubaix. Vì thâm tâm đã phác họa cảnh lứa đôi với Bích, nên Hoằng tuần tự hỏi bà về cách sống ở Pháp, theo học agent tech- nique về điện ở Pháp (Hoằng thích ngành này (thì phải mất mấy năm và mỗi tháng phải chi tiêu chừng bao nhiêu. Bà viết thư trả lời nếu Hoằng muốn học thành agent technique điện phải mất ít nhất ba năm và mỗi tháng tiêu chừng mười bảy ngàn quan là đủ (tức là ngàn tiền Đông Dương). Hoằng mừng lắm, Hoằng khám phá ra được cách pha rượu rất rẻ, không phải mua rượu Anisette quá mắc của Pháp nữa, mà mua alcool và essence anis tại hiệu thuốc Tây về pha lẫn với nhau vốn chỉ chừng mười đồng bạc. Có Bích ngồi ở caisse lính Tây đổ xô đến. Dạo này chúng đã bị phục kích chết nhiều. Có tên nói với Bích: “Tao vừa đi hành binh bị Việt Minh phục kích về đây. Hai thằng bạn tao chết rồi! Tao có muốn đánh nhau ở đây anh! Bao giờ đến lượt tao chết?!”.

Gọi rượu chúng dùng toàn tiếng lóng :

“Eh, donnez moi un perroquet!” (anisette)

“Eh bien, champagne breton!” (rhum pha với limonade cho thêm cục nước đá)

Mỗi lần có tên mãn hạn lính về nước là một lần có chầu mời rượu tất cả các bạn - une tournée pour tous! Lẽ tất nhiên trong bầu không khí nồng nàn mùi rượu có bóng giai nhân đó thiếu nhạc sao được. Tụi lê dương hoan nghênh nhất đĩa valse Le petit vin blanc.

Hoằng lại buôn thuốc lá lậu hàng va li Lucky, Camel, Phil- ip, buôn bằng giá rẻ mạt, bán thật đắt. Trong vòng có ba tháng Hoằng vẫn nộp đủ tiền cho ban tham mưu như thường lệ, anh còn để ra được ngót hai vạn bạc. Có thể tính chuyện đi Pháp mang theo cả Bích được rồi.

Nghe chuyện tụi lính Pháp đến uống rượu, Bích rất cảm phục những người kháng chiến và ao ước được gặp họ. Nhưng người Bích hằng gặp lại là tên Tây lai vẫn ra công tán riết nàng, Bích xiêu lòng hẳn. Mặc cho Hoằng rày la, Bích đi xi-nê với hắn. Sau một lần to tiếng kịch liệt, Bích dự định thôi không làm caissière. Hay tin này, Xuân đích thân từ An Phú Đông lần về dàn xếp. Không phải Xuân sợ Bích đi quán Le Coq sẽ ế khách, mà vì Xuân thấy cần phải có một cô gái lai Pháp như vậy ở cửa hàng mới khiến tụi Công an không để tâm dòm ngó. Đó là lần đầu Bích gặp Xuân. Bích biết ngay Xuân là một thứ “người hùng kháng chiến” và lập tức yêu chàng thứ tình yêu “sét đánh”, nàng không dấu diếm điều đó với Hoằng. Lần này mới thật đau khổ cho Hoằng, người mình yêu vụng dấu thầm trong bao lâu, nay lại say mê cậu mình. Và cũng lần này thêm một người đau khổ, đau khổ còn nấu nung hơn Hoằng, đó là Hòa (tên người tên Ly). Nhà nghèo, Hòa nhận lời vào Nam làm thư ký cho một hãng xuất nhập cảng chủ là một người Tàu. Hãng xuất nhập cảng đó đối diện với bar Le Coq nhưng mãi đến khi Bích gặp Xuân, Hòa mới gặp Bích và trong khi Bích bị tiếng sét ái tình với Xuân, thì Hòa bị tiếng sét ái tình với Bích. Theo mưu kế của ban tham mươi Xuân đành giữ chút ít liên lạc với Bích để Bích khỏi bỏ tiệm Le Coq. Tên Tây lai thấy Bích tự nhiên lạnh nhạt thì cũng lập tức bỏ đi tìm nhân tình khác, chỗ của y giờ đây Hòa đến thay, nhưng đã yêu Xuân, Bích ngạo nghễ khinh Hòa ra mặt. Càng bị Bích khinh khi Hòa càng tha thiết yêu Bích, sầu tình ngày càng chất ngất như núi như non. Một lần kia, Bích hỏi mỉa Hòa: “Này anh Hòa, thanh niên thời loạn mà anh cam tâm ngồi làm thư ký quèn cho ông chủ Tàu không nhục sao?”. Hòa quả có thấy nhục lắm, càng nhục vì thâm tâm Hòa cũng đồng ý Bích là vẻ đẹp chàng trai thời loạn này phải là vẻ đẹp xông pha trong hàng ngũ kháng chiến. Hòa và Hoằng trở thành bạn thân là vì vậy, không một điều gì Hòa giấu Hoằng.

Rồi Xuân bị lộ tung tích, bị bắt ở An Phú Đông, bị tra tấn ở bóp Catinat, bị bắn thí bỏ xác ở Cầu Sơn, hôm sau chính Bích đưa Hoằng đến gặp tên cò Pháp tại bóp Catinat nhân danh cũng là cháu xin xác Xuân an táng. Hoằng ngỏ ý sẽ đưa Bích sang Pháp gặp mẹ, Hoằng cũng sẽ ở liền bên ấy theo học về điện. Bích ưng. Hoằng bắt đầu các giấy tờ cần thiết.

Một lần ở nhà giây thép ra Bích gặp Hòa. Hòa mời Bích cùng lên xích lô máy với mình về nhà. Hòa lên nhưng lần này Hòa nhận một nhát chém tối hậu, nhát chém đó là lời nói thốt ra từ miệng người đẹp. Khi bác xích lô máy cho xe dừng lại trước tiệm Le Coq, bác nhổ một đống nước bọt xuống đường. Bích cười khanh khách nói đủ cho Hòa nghe trước khi xuống xe vào nhà: “Giá trị của anh cũng không hơn gì bãi nước bọt kia!!!”

Hay tin Hoằng định qua Pháp, ban tham mưu cử người về thuyết phục. Lời thề kháng chiến xưa không đi lính cho giặc, không hợp tác với giặc mà nay lại lời qua Pháp, dù là qua Pháp học, như vậy có phải là giữ đúng lời thề không? Cậu vừa bị bắn chết, cháu đã quên hoạn nạn mưu lợi cho cá nhân, như thế có nên chăng?

Lúc đó phong trào kháng chiến đang hăng, trai gái đưa nhau đi hậu phương, trong số có tới tám mươi phần trăm học sinh, còn là các giới công, nông và công chức. Sự thực Hoằng còn yêu Bích lắm nhưng lấy lý trí mà xét Hoằng thấy rùng mình chẳng nên thiết tha với Bích làm gì nữa. Hoằng bèn thu xếp giấy tờ gấp cho Bích qua Pháp một mình, số tiền để dành cho Bích tất cả (thái độ tình yêu lý tưởng tuổi trẻ), buvette Le Coq trao lại cho ban công tác thành rồi ra hậu phương. Thoạt có người đưa Hoằng tới Bà Rịa, một người khác đưa Hoằng từ Bà Rịa đi Long Điền, một người khác nữa đưa Hoằng từ Long Điền vào Long Mỹ, đây đã là chiến khu rồi. Tại Long Mỹ Hoằng đặc biệt theo học lớp Quân dân chính mười lăm ngày, thụ huấn xong được cử đi Phan Thiết, đường xuyên qua Sóc Mọi, Đất Đỏ, Cò Mi, La Ghi. Tại chiến khu Phan Thiết, Hoằng phụ trách một tiểu đội gồm toàn những đồng chí người Nghệ An, Hà Tĩnh. Quân Pháp càn quét xục xạo luôn, tiểu đội Hoằng thường xuyên lưu động. Quân trang, quân dụng, bao gạo tổng cộng chừng hai mươi lăm kí trên người, không ngày nào đi dưới hai mươi cây số, khi thì tổ chức tuyên truyền, khi thì tổ chức gây căm thù. Phan Thiết nghèo chẳng kém gì Nghệ An, Hà Tĩnh thêm cái khổ hiếm nước, nhiều lần lấy nước dự trữ đầy bi đông rồi, Hoằng còn khuyên anh em nhúng giấy thấm vào nước rồi cho vào miệng ngậm. Khả năng văn hóa cao, thái độ lại rất gương mẫu, qua đi một năm Hoằng được đi dự lớp Huấn Chính ba tháng, ra làm đại đội phó trong bộ đội chủ lực, trung đoàn 303 của khu 7 (gồm các tỉnh miền Đông: Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Gia Định...) Vừa đúng lúc đoàn thể tung ra khẩu hiệu “luyện quân lập công”. Hoằng huấn luyện quân đội mình ở ngay dưới chân núi Thị Vải, và trú quân tại khu rừng Phú Mỹ. Quân đội Pháp chỉ dám ra khỏi Long Thành sáu bảy cây số là cùng, ngoài ra bộ đội Hoằng mặc sức tung hoành hoặc phục kích lẻ tẻ ca nô địch đường thủy, ô tô địch đường bộ, hoặc vào rừng sát thu thuế củi đước. Khẩu phần ngày đó mỗi người ba đồng một ngày (hai đồng gạo, một đồng thức ăn), Hoằng tổ chức cho bộ đội trồng rau, bẫy thêm thú rừng, đánh thêm cá ở sông Thị Vải... Luôn luôn Hoằng tỏ ra là cán bộ gương mẫu hăng say hoạt dộng. Nhưng cũng vì vậy mà Hoằng bị đuối sức dần. Đồng tiền ngày một hạ giá, ăn uống ngày một kham khổ, gạo mục, mắm muối giã với củ xả (Bà Rịa chỉ có muối với rừng, gạo tiếp tế bằng đường biển từ Gò Công lên) anh em ai nấy gầy dóc đi, những trận sốt nóng lạnh tới “thăm” luôn. Một sớm kia Hoằng thấy ngứa họng, ngửa cổ ho, khạc ra một cục đờm có tia máu. Hoằng bị lao ! Cấp trên rất cưng Hoằng cho về ngay Thủ Dầu Một nghỉ dưỡng sức, cấp dưỡng tăng lên một trăm phần trăm. Nghỉ được một tháng thấy kha khá, Hoằng nhớ anh em xin trở về đơn vị. Chẳng được bao lâu, Hoằng lại trụy, lần này bệnh tình nặng hơn. Trở lại Thủ Dầu Một nghỉ dưỡng sức lòng dạ bồn chồn, nhóc nhách được chút ít Hoằng xin về đơn vị ngay. Nhưng lần thứ ba này Hoằng gục thật sự. Chính trị viên phải cho Hoằng nằm riêng một nơi, sợ lây sang anh em khác. Bác sĩ quân y cho hay Hoằng không vào thành không thể sống được, chỉ ở trong ấy mới đủ thuốc. Hoằng xin với chính trị viên cho được ôm bom lao vào hủy kho đạn của địch ở Bà Rịa. Chết như thế cho oanh liệt. Chính tri viên giải thích với Hoằng là chiến tranh trường kỳ có khi kéo dài hai ba mươi năm. Đoàn thể tin ở năng lực và lòng trung kiên của Hoằng nên để Hoằng vào thành tự chữa. Việc ôm bom để cho người nào khác đoàn thể nhận thấy thích hợp hơn. Cứ cho là năm năm sau mới khỏi hẳn, Hoằng cũng còn cả một khoảng thời gian dài tham gia cuộc chiếu đấu trường kỳ chống đế quốc. Hoằng về thành với tâm lý anh hùng kháng chiến. Hoằng tìm đến Hòa, được Hòa đưa đi bác sĩ rút nước phổi phải, bơm hơi phổi trái. Hoằng ăn giả bữa, có lần năm tô hủ tíu liền, rau sống ăn hàng dĩa, cơ thể chả thiếu chất tươi mà, Trong thời gian dưỡng bệnh, Hoằng trở về với kế sinh nhai cũ. Hòa nhường cho Hoằng gian ngoài cùng sát với đường phố để Hoằng mở tiệm giải khát. Chẳng bao lâu tiệm của Hoằng đã khá đông, tuy không đông bằng xưa nhưng cũng phát tài đủ để Hoằng thuốc thang, tẩm bổ, trả tiền nhà, nộp thuế. Tuyệt nhiên không viết thư cho Bích. Coi như hết!

Hòa nhìn Hoằng mà thèm, Hoằng đã đạt được giấc mộng kháng chiến, Hoằng trở về như một anh hùng kháng chiến trong khi Hòa vẫn chỉ là một tên thư ký quèn, chủ Tàu, giá trị không hơn gì “bãi nước bọt của bác phu xích lô”. Hoằng hiểu tâm lý bạn lắm. Hồi ở chiến khu Long Mỹ, Hoằng có biết một bà chuyên buôn thuốc Tây từ thành ra khu, nay Hoằng gặp bà trong chuyến trở lại Sài Gòn. Hoằng hỏi Hòa có muốn ra chiến khu Hoằng sẽ viết thơ giới thiệu và nhờ bà buôn thuốc Tây dẫn đường cho. Hòa ưng ngay và xin thôi đúng lúc ngoài đó vừa tung khẩu hiệu “Chuẩn bị tổng phản công!” Hòa phải gia nhập kháng chiến để tự thanh toán mọi mặc cảm tự ti. Rủi cho Hòa lần này đi trót lọt đến Long Điền thì bị viên Tây đen trưởng bót bắt giữ, bà buôn thuốc Tây lẩn thoát. Viên trưởng bót tây đen nói thẳng với Hòa “Vu khỏi phải khai man với moa là sẽ đi Phước Hải buôn nước mắm. Moa biết các thanh niên đến Long Điền chỉ để đi chiến khu Long Mỹ. May cho vu gặp moa, moa chỉ bắt đi căng (camp). Vu mà gặp bên hiến binh, nó bắn vu ngay”. Nhưng Hòa không phải đi căng, vì chữ nghĩa khá Hòa được viên trưởng bót giữ lại giúp việc giấy tờ ngay tại văn phòng. Viên trưởng bót này có người vợ Việt, người vợ Việt lại có một cô con riêng đã đến tuổi trưởng thành, Hòa phải dùng kế bắt chim cô ta để rồi cậy cô ta nói dùm với mẹ, mẹ nói dùm với dượng trưởng bốt tha cho trở lại Sài Gòn. Kế hoạch đó phải ba tháng mới thành công, Hòa trở về thấy cửa hàng của Hoằng đã khuếch trương khá lớn, có bán cả điểm tâm. Thế là giấc mộng được gian díu với kháng chiến của Hòa vẫn chưa thành tựu. Lời nói của viên trưởng bót Long Điền còn vang rõ bên tai. “Vu mà gặp bên hiến binh, nó bắn vu ngay”. Hòa biết là viên trưởng bót không nói dọa. Gia nhập kháng chiến, cái chết phải coi nhẹ như lông hồng Vì vậy Hòa càng ao ước địa vi làm người kháng chiến, lý tưởng nhất là địa vị của Hoằng: kháng chiến tận tình để rồi trở về thành tự túc xoay xở dưỡng bệnh. Mai đây khỏi hẳn, tất nhiên Hoằng trở ra chứ. Hòa tự nhủ ráng đợi tới ngày đó sẽ theo Hoằng ra một thể, chắc hơn. Tiếc thay cuộc kháng chiến sớm chấm dứt sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngoài Bắc. Hòa sững sờ như mất lạng vàng trên tay. Hòa vẫn chưa được kháng chiến! Khuôn mặt kháng chiến Nam Bộ còn thuần túy quốc gia như vậy trách nào khi hay tin anh di cư vào Nha Trang, Hòa chẳng nổi giận! Không bao giờ, không bao giờ Hòa quên câu nói sâu độc thốt ra tự miệng người dẹp: “Giá trị của anh cũng hơn gì bãi nước bọt kia!!!”

Nghe thuật lại xong câu chuyện, Kha hỏi Ly:

- Hoằng hiện còn ở Sài Gòn không anh?

- Chính vì tôi gặp Hoằng nên mới rỏ đầu đuôi câu chuyện.

- Hoằng đã khỏi bệnh lao?

- Hoàn toàn khỏi và hiện là chủ một tiệm ăn lớn. Hoằng bây giờ là tư bản rồi!

- Anh có ngờ Hoằng còn liên lạc với những tay cộng sản nằm vùng?

- Chính tôi cũng có ý nghĩ tự hỏi như vậy khi nói chuyện với Hoằng lần đầu. Mấy lần sau, tôi cố ý gợi hỏi khéo, Hoằng quả đã tỉnh mộng. Vả lại, anh thấy không, Hoằng có đầy đủ điều kiện để tỉnh mộng. Lần nói chuyện sau cùng mới đây Hoằng nói với tôi: “Lúc xông pha gian nguy mình không thấy và không sợ gian nguy, nhưng nay nghĩ lại nhiều khi rùng minh sởn gáy”.

Tôi có đặt câu hỏi: “Nghe đồng bào di cư nói về chính sách đấu tố dã man của cộng sản ngoài Bắc anh có tin không?”. Hoằng đáp: “Thoạt tôi có ngờ ngợ nhưng rồi suy ra những chính sách trước đây tôi đã từng “theo chỉ thị áp dụng” thì việc đó có thể có được”. Tôi hỏi chính sách Hoằng đã từng “theo chỉ thị áp dụng” ra sao. Hoằng thuật lại rành mạch, giọng kể bình thản của một người tỉnh mộng kể lại một giấc mơ: “Đó là thời kỳ tôi công tác ở Phan Thiết. Nhận thấy địa phương nào lừng khừng không theo bên này chẳng theo bên kia, đoàn thể bèn cử vài tiểu đội về thay phiên nhau tổ chức mít tinh, bắc loa tuyên truyền, diễn thuyết, kịch, nhạc để lôi kéo. Nếu địa phương vẫn giữ nguyên thái độ lừng khừng đoàn thể ngầm cắt cử từng tiểu đội tới mở những trận phục kích lẻ tẻ quanh đó. Thế là Pháp tưởng chúng tôi đã thiết lập được mật khu bèn mở chiến dịch càn quét. Chúng tôi lẩn vào giữa đám nhà dân chúng bắn dứ ra, khi tụi Pháp gọi được đại bác câu vào thì chúng tôi đã rút đi xa. Có khi chúng tôi lẩn ở trong rừng bắn ra, bộ đội Pháp bắt buộc phải tỏa rộng lội xuống mùa màng hòng bao vây. Có chiến dịch càn quét như vậy là có hiếp dâm, có người chết, có trâu bò chết, có dày xéo mùa màng, có đốt cháy nhà cửa... Pháp rút lui, chúng tôi trở về diễn thuyết, giải thích”. Thế là chính sách gây căm thù thành công...”

Kha khẽ lắc đầu và thở dài. Ly ngừng lại nhìn Kha rồi nói:

- Ấy khi Hoằng kể đến đây cũng thở dài y như anh. Chắc vì được lùi xa một khoảng thời gian, lại ở hoàn cảnh có tiền của nên ngày nay Hoằng nhận thấy hết cái thâm độc của chính sách gây căm thù. Khi nghe tôi nói: “Chỉ chết dân!” thì Hoằng gật đầu nhắc lại: “Vâng, chỉ chết dân!” Và Hoằng kết luận rất sáng suốt với tôi: “Cần phải đi xuống gấp với dân chúng, ở sát bên dân chúng, làm lợi cho dân chúng, có thế cán cân mới nghiêng về phe quốc gia được”.

Ly kể dứt câu chuyện, cả hai cùng yên lặng ngả lưng lên thành ghế ngửa mặt nhìn nóc nhà. Tiếng tí tách đều đều của chiếc đồng hồ treo gần đây vang lên rất rõ giữa khoảng im lặng của căn phòng. Đã khuya lắm.

Nhà Ly không có trần, Kha thấy nóc cao như giáo đường. Hai cánh cửa chớp sơn màu xanh lá cây nham nhở, cửa kính có miếng bị rạn vỡ gợi hình ảnh một căn nhà bị hơi bom. Mưa bỗng rơi lác đác sau đó tạnh ngay nhưng cảm giác nặng nề còn kéo dài. Qua cửa sổ Kha nhìn thấy những đỉnh cây ở phố xa thấp thoáng, những đỉnh cây cao vượt mái nhà hai tầng mà cũng chỉ gợi trong Kha một cảm giác bức bối nghẹt đất sống của đô thành, những đỉnh cây bị cắt ngang bởi mái ngói và màu xanh trở thành xám đen dưới ánh đèn đường không gợi chút nào hình ảnh thoải mái của thiên nhiên. Tiếng sấm ầm ì vọng lại từ xa, trời càng tối sầm, tiếng nước bên hàng xóm xối mạnh xô dồn xuống rãnh, buồn đến não nề.

Cả hai vẫn im lặng ngửa cổ nhìn nóc nhà.

Chương Năm

CÂU CHUYỆN ĐIỆN BIÊN PHỦ

I

Tiếng Miên reo đậm sắc như ngọn lửa chalumeau:

- Anh!

Kha cũng cảm thấy tâm hồn bừng sáng và chàng đứng vụt dậy:

- Anh Hiển.

Ra trường Hiển đeo lon chuẩn uý, phục vụ quân đội tại một đồn biên giới vùng cao nguyên, từ sau ngày cưới Kha Miên, đây là lần đầu Hiển về phép. Nhìn khuôn mặt cương nghị của Hiển trán rộng cằm vuông, Miên thấy Hiển vẫn như hệt xưa, nhưng khi chàng quân nhân bắt tay chàng văn nhân thì Kha thấy cặp mắt nhìn thẳng, cái miệng mín chặt, nụ cười thân ái đó có đượm một thi vị đậm đà riêng.

Hiển khoát tay chỉ căn phòng đại học xá mỗi bề bốn thước hỏi Kha:

- Có thế này thôi à?

- Cũng có chỗ anh ngủ chớ sao - Kha đáp - Chúng tôi ngủ trên phản gỗ gõ này, anh trên chiếc ghế bố sẽ ngả ra.

Tiếng chuông bên nhà thờ bắt đầu gióng giả. Hiển hỏi:

- Căn phòng của cậu đối diện với nhà thờ, nghe tiếng chuông có làm việc được không?

Miên cười đáp:

- Lúc anh ấy viết lách thì cứ như Phạm Ngũ Lão ngồi đan rổ, đừng có gươm đâm vào đùi anh ấy cũng chẳng biết.

Hiển gật đầu:

- Thế thì được. Kha hỏi:

- Chỗ anh đóng có yên không?

- Có gì mà chẳng yên, họ tập kết cả rồi! Ngừng một giây Hiển tiếp:

- Nhưng chúng mình lạ gì cộng sản, trong này quốc gia không gây dựng cơ sở dân chúng gấp, chúng lật mặt lúc nào biết dâu.

Kha hơi nghiêng đầu đưa mắt nhìn ra ngoài hai hàng sao thẳng vút như muốn tìm hình ảnh thiên nhiên để tránh câu chuyện phải nhắc đến cộng sản hiện thân của phản bội. Hiển không để ý đến điều đó, hỏi cả hai vợ chồng Kha:

- Kha Miên này, còn nhớ buổi chiều nào bọn mình tới bến

Lời chuẩn bị sang sang sông về tề?

Miên thì nhớ lắm, nàng nhớ hình ảnh người con gái vẫy nón xuống đò sang ngang trong buổi chiều hiền như ca dao ấy khiến nàng có cảm tưởng tới đấy để tiễn cô bạn cùng làng về nhà chồng bên kia sông; nàng nhớ hình ảnh dòng sông lúc đêm tàn lấp lánh lạnh như dòng sông âm phủ. Với Kha, câu hỏi đầm ấm của Hiển gợi lại trong ký ức chàng hình ảnh xa xôi hơn. Cái dĩ vãng mà Kha không thiết ôn lại làm gì bỗng hiện lại đầm ấm và thân thiết như chính giọng hỏi của Hiển. Kha nhớ lại ngày khi đôi bạn đã dời thoát Phụng Minh Thôn, một lần Kha gục mặt rất lâu vào ngọn nguồn con sông Lô để cho hơi hướng của mình được xuôi theo dòng mà về nước trước. Sự cô độc của Kha trong dĩ vãng càng giá băng thì hơi ấm của Hiền khi xuất hiện càng ấm áp càng quý giá. Kha vừa ngước nhìn, Hiển đã nói:

- Kha còn nhớ anh chàng đỗ một phần tiến.sĩ kinh tế rời thành đi hậu phương ngày đó gặp bọn mình trong quán?

- Ồ em nhớ rồi - Miên đáp như muốn cướp lời Hiển - em nhớ khoảng hai giờ sáng, lúc anh em mình sắp lên đường, anh có viết mấy dòng chữ gài lên túi blouson của anh ta treo trên mắc.

Hiển gật gật đầu:

- Đúng! Đúng! Tôi vừa gặp anh bạn ở bến xe lục tỉnh, cùng hàn huyên với nhau đến hai tiếng đồng hồ trong quán cà phê, nếu không tôi đã về đây từ sớm.

Kha ngửa cổ nhìn trần thở phào:

- Thế là anh chàng cũng sớm tỉnh mộng mà vào đây chót lọt, thật may!

- Anh bạn có tham dự trận Điện Biên Phủ đấy cậu ạ.

- Vậy sao?

- Rồi về Hà Nội tiếp thu, rồi từ Hà Nội lẩn xuống Hải Phòng trên chuyến xe hỏa mùng một tết.

- Anh chàng có trong đợt xung phong chiếm Điện Biên Phủ.

- Không, nhưng anh bạn ở trong Quân báo bộ Tổng Tham

Mưu nên biết nhiều chuyện về Điện Biên Phủ lắm. Nhưng thôi cậu để tôi đi tắm cái đã, lát nữa tôi thuật lại cho mà nghe.

II

Anh bạn có đá động đến những dòng chữ ngày đó anh viết lén cho anh ta không anh? lời hỏi đầu tiên của Miên vào chuyện Điện Biên Phủ, sau bữa cơm chiều và ánh đèn đã lấp lánh đều toàn khu đại học xá.

Hiển gật đầu:

- Có chớ! Anh ta tâm sự nhiều với tôi cũng vì những dòng chữ đó.

- Em không hiểu ngày dó anh viết những gì.

- Có gì đâu, đại khái vắn tắt là: “Thế giới Cộng sản chỉ mầu mỡ ở lý luận vâ lề lối tuyên truyền bề ngoài, đi sâu vào mới thấy cái bất nhân phiến diện và nông cạn của nó. Nên tìm đường thoát khỏi ngay khi đã biết rõ chân tướng!”

Hôm sau - vẫn lời Miên - đọc tờ giấy đó xong anh ta mới hiểu là anh em mình dinh tê?

- Năm hôm sau mới đọc! Tới Việt Bắc được cử vào làm việc ngay trong cục Quân Báo sâu tít giữa rừng Bắc Kạn. Trong một buổi họp đầu tiên được giới thiệu, kế đó là cuộc sinh hoạt tối như thường lệ, anh ta mới tẩn mẩn thò tay vào túi rút ra mảnh giấy nhỏ gấp tư, điềm nhiên mở đọc (Miên so vai, thè lưỡi) may dưới ánh đèn dầu lạc nên không ai thấy anh biến sắc mặt, anh rút một điếu thuốc đưa lên môi ngậm rồi soắn mảnh giấy làm đóm châm. Thế là phi tang!

Kha bật cười:

- Hú vía! Ngồi sinh hoạt trong cục Quân Báo Bộ Tổng Tham Mưu mà lại điềm nhiên mở đọc những dòng phản tuyên truyền đó!

Hiển giơ tay lên vuốt tóc:

- Chính anh bạn đọc những dòng đó trong trường hợp đặc biệt như vậy nên lời cảnh cáo của tôi đã gây một ấn tượng sâu xa. Anh bạn chú ý quan sát ngay từ những buổi đầu, anh hiểu ngay tổ tam tam chế là để dò xét anh, những lý luận nông cạn một chiều anh thấy “không ngửi” được ngay. Cục Quân Báo một lần chuyển cơ quan đến khu đồn điền mà họ không ngờ chủ nhân là cha anh. Họ tổ chức một buổi kể khổ tên “địa chủ vắng mặt”. Họ thêu dệt cha anh có đủ những tội điển hình của một tên địa chủ phong kiến phản động, lý thú nhất là họ tố cáo con trai trưởng tên địa chủ (tức là anh) một ngày hiếp dâm ba vợ tá điền, hai người có chửa. Sự thực cha anh có hai đồn điền, một ở Phú Thọ anh có về chơi vào dịp hè trước khi đi Pháp, một ở miền ranh giới Tuyên Quang Bắc Kạn đây anh chưa hề tới. Lúc đó bắt đầu chiến cuộc Điện Biên Phủ và anh bạn đã ao ước nếu cục Quân Báo dời dần về mạn dưới anh sẽ tìm cơ hội “sang sông” như bọn mình. Tuy nghĩ thế nhưng anh cũng ở lại phục vụ cho đến khi trận Điện Biên Phủ kết thúc rồi theo bộ Tổng Tham Mưu về tiếp thu Hà Nội đóng trong Thành. Tới đó anh mới tính chuyện trốn xuống Hải Phòng để vào Nam. Mấy chủ nhật anh về Hàng Đẫy thăm gia đình đều có đủ bộ ba trong tổ tam tam chế cũng đi nên anh chỉ có thể lén trao đổi rất ngắn vài lời để gia đình chuẩn bị. Người em anh đến nhà thờ Nam Đồng thưa với vị cha xứ là có một sĩ quan Việt Minh muốn trốn đi Hải Phòng xin cha giúp đỡ, tiếc thay lúc đó cha xứ đã ngại việc Việt Minh gài bẫy nên đòi đương sự phải đích thân tới nhà thờ. Anh làm sao một mình lẩn đến nhà thờ Nam Đồng được? Phải chờ đến ngày đầu xuân Ất Mùi (1955) anh mới bố trí được một cuộc “hành quân chớp nhoáng” đi thoát cả gia đình. Ba mươi tết năm đó, tất cả những ai trong bộ Tổng Tham mưu có gia đình ngay tại Hà Nội đều được phép về nhà ăn tết ba mươi sáu tiếng đồng hồ, về nhà một mình, không có tổ tam tam chế đi kèrn. Tối ba mươi tết anh về thăm nơi chôn nhau cắt rốn một lần chót - làng anh cách ngã tư Sở mấy cây - thăm một số bà con thân tình. Lễ giao thừa tại chùa làng xong anh trở ra Hàng Đẫy bắt đầu hóa trang. Tóc bộ đội Việt Minh hớt ngắn, anh chải bết brillantine lại đội thêm chiếc mũ phớt mới. Bên thái dương phải có cái sẹo anh vờ dán thuốc cao lên. Anh diện một bộ complet, cravate, giày dôn ra phết công tử. Anh bọc thêm một bộ pyjama, một cuốn tiểu thuyết, mang theo thẻ căn cước của người em (gương mặt hai anh em giống nhau) rồi đi cùng với người chị ra ga Hàng Cỏ. Mua vé xong họ khárn xem có ai mang theo vàng hay tiền Đông Dương. Anh đàng hoàng lên toa như một công tử tạch tạch sè xuống Cảng du ngoạn.

- Anh ấy đi thoát đứt đi rồi - Miên nói. Hiển gật đầu:

- Nhưng công việc kíp lắm. Đến ga Phú Thái, ranh giới hai miền, người chị phải trở về Hà Nội ngay, trả thẻ căn cước cho cậu em thứ. Sớm hôm sau, mồng hai tết, cả nhà “nhổ neo”, cửa vẫn bỏ ngỏ, hương nến vẫn sáng choang như thể một gia đình gương mẫu hân hoan đón xuân độc lập của “Bác” mang về thủ đô.

Hiển với chiếc bản đồ Việt Nam treo trên tường xuống ngắm nghía một phút rồi tiếp:

- Anh bạn có phân tích: Thực là mâu thuẫn, mình đi theo Vìệt Minh đánh Pháp, giờ đây Vìệt Minh thắng, mình lén trốn khỏi vùng họ, sang được vùng quốc gia thấy những người lính Pháp đầu đội mũ sắt có hai chữ P.M. (Prévoté militaire) thì mừng. Không bao giờ ưa thực dân nhưng thấy rằng cộng sản còn ghê tởm và nguy hiểm hơn nhiều, đã đến lúc phải thay đổi chiến tuyến! Đến Hải Phòng anh bạn khai thẳng với Công an quốc gia mình là sĩ quan Việt Minh trốn sang, xin cho điều tra ngay và cấp thẻ căn cước để sống bình thường như dân. Một tháng sau anh xuống tàu cùng gia đình di cư. Vì anh là sĩ quan quân báo nên khi vào tới Nam, an ninh quân đội quốc gia có mời anh 1ại hỏi thêm về chiến thuật chiến lược Việt Minh; bộ Tham mưu Pháp cũng mời anh tới thành Ô Ma hỏi về việc kế hoạch Navarre bị tiết lộ trước đây do Nga hay do Trung Cộng cấp cho? Anh trả lời làm sao mà biết những điều đó được, anh chỉ là một sĩ quan cấp dưới.

Một luồng gió lạnh lùa vào phòng rồi bên ngoài mưa ụp xuống, cả khu Đại học xá bị bao trùm bởi màng nước trắng xóa khiến tiếng nhạc radio từ dãy các anh em sinh viên độc thân gần đấy càng lan rộng ra xa. Miên rót một tách trà đặt tới trước Hiển trên chiếc bàn học dài của sinh viên.

- Câu chuyện có vậy mà kéo dài của anh hai tiếng đồng hồ?

- Kha hỏi.

- Không, đó là câu chuyện sơ khởi (Hiển chỉ lên dòng chữ

Điện Biên Phủ trên tấm bản đồ cầm tay) câu chuyện chính là chuyện này. Vì làm ở phòng nghiên cứu cực Quân Báo anh bạn đã theo dõi đầy đủ chiến cục Điện Biên Phủ từ đầu đến cuối, cách phân tích của anh thông minh lắm.

III

Năm 1952 Việt Minh đánh Tây Bắc, Pháp bỏ Yên Bái, Lao Kay, chạy ngược về phía Lào đóng lại ở Lai Châu, Sơn La, Nà Sản, Hòa Bình. Cuối 1952 Pháp rút quân từ Sơn La về Nà Sản rồi từ Nà Sản phần lớn rút bằng không vận về Hà Nội. (Thời đó Hiển có ở mặt trận này). Tây Bắc vào tay Việt Minh, chỉ còn Lai Châu địch phải tiếp tế bằng phi cơ.

Sang năm 1953 tướng Pháp De Lattre de Tassigny đã thiết lập xong vòng đai bunker - ligne de bunker - dọc theo Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Việt Trì, Sơn .Tây, Hà Đông, Phủ Lý. Bao vây trung châu xong De Lattre dùng quân lực lưu động - groupement mobile - để phối hợp với mọi hoạt động chiến trường. Cuối năm 1953 tự Pháp gửi thêm viện binh sang chín tiểu đoàn nữa, tại Việt Nam địa phương quân được thành lập tăng cường để chống du kích do tiền Mỹ viện trợ thêm. Về phía Việt Minh, Trung Cộng đã viện trợ nhiều hơn, hậu tuyến Việt Minh dựa vào Trung Cộng, tướng tá cố vấn Trung Cộng tràn ngập trong quân đội Việt Minh, thậm chí tổ chức cấp dưỡng cũng có cố vấn. Việt Minh muốn tìm cách cướp lại kho nhân lực vật lực ở đồng bằng, báo chí Nga Sô và Trung Cộng nêu vấn đề triệu tập hội nghị tại Genève để giải quyết chiến tranh Đông Dương (Lúc nầy bọn Hiển, Kha, Miên vừa về thành).

Pháp có hai chủ trương. Một là dùng quân lực lưu động mở rộng vũng đồng bằng, tấn công Tuyên Quang Phú Thọ theo hướng Tây Bắc, như vậy con đường tiếp tế của Trung Cộng từ Lạng Sơn xuống sẽ bị tắc. Lực lượng Việt Minh tại Liên khu ba, cũng như tại miền Trung và miền Nam sẽ bị cạn dần vũ khí. Chủ trương thứ hai nặng về chính trị: Pháp vừa ký hiệp ước với Lào, được hưởng nhiều quyền lợi, cần phải bảo vệ miền Bắc Lào - vào lúc đó, cuối 1953 - rất sơ hở. Thống chế Juin tự Pháp sang thị sát chiến trường, chấp nhận kế hoạch Navarre, thực hiện theo chủ trương thứ hai, nhảy dù xuống Điện Biên Phủ giữ Lai Châu, chiếm lại trục giao thông Nà Sản, Sơn La, Hòa Bình. Pháp càng tin ở chủ trương thứ hai vì đồng bào thiểu số Tây Bắc (Mán, Mèo, Thái) vốn ghét Việt Minh, trước đây Pháp vẫn thả dù những đơn vị phản du kích xuống. Nhưng lần này kế hoạch Navarre bị tiết lộ. Đầu chiến dịch đôi bên chỉ vờn nhau. Quân Pháp tỏa rộng ra, Việt Minh để mặc.

Đến khi Pháp đã nhảy dù khá nhiều xuống Điện Biên Phủ, hụt quân lực lưu động để bảo vệ hữu hiệu đồng bằng, Việt Minh mới một mặt vây hãm Điện Biên Phủ một mặt cho du kích xâm nhập làm ruỗng nát vùng đồng bằng. Pháp bắt đầu lâm tình trạng khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào, không đủ cả quân để thiết lập trục giao thông Lai Châu, Sơn La, Nà Sắn, Hòa Bình.

° ° °

Điện Biên Phủ là một lòng chảo, xung quanh núi cao, con sông Nậm Hu chảy qua, cánh đồng cao nguyên nơi đây bát ngát, tương đối là vựa thóc của Tây Bắc. Khi làm ruỗng nát đồng bằng xong, Việt Minh quay sang tập trung lực lượng chuẩn bị diệt

Điện Biên Phủ. Hai sư đoàn 358 và 316 với rất nhiều hỏa lực phòng không bắt đầu đào hầm sâu một thước rưỡi vây quanh

Điện Biên Phủ và cứ dùng chiến thuật đào hầm như vậy khép dần vòng vây. Hỏa lực phòng không cản trở rất nhiều việc thả dù tiếp tế của Pháp. Đơn vị tham mưu của đại tướng Võ Nguyên

Giáp thoạt túc trực ở Sơn La rồi tiếp lần vào gần Điện Biên Phủ chỉ huy cùng các cố vấn Trung Cộng. Con đường từ Lạng Sơn đến Điện Biên Phủ qua Thái Nguyên, Đèo Khế, Tuyên Quang bị phi cơ địch oanh tạc suốt ngày đêm hòng cắt đứt mạch tiếp vận. Nhưng dân chúng đã được huy động túc trực suốt hai bên dọc đường, bom phá quãng nào lập tức sửa đường sửa cầu ngay quãng đó, không vượt được thi tăng-bo. Đồng thời hàng vạn dân công mở thêm một con đường song song nữa từ chợ Chu (Thái Nguyên) sang Tuyên Quang. Trong khi đó từ Lạng Sơn xuống, từ Vinh lên, hằng chục vạn dân công trùng trùng điệp điệp gánh, vác, khuân, thồ... bằng đòn cáng, bằng xe đạp, bằng xe ba bánh nào súng, đạn, nào gạo, cá, mắm, muối (đã có thêm gạo tiếp tế vì phá vỡ được mặt trận đồng bằng). Pháp thua sau này một phần cũng vì không thể ngờ Việt Minh huv động được dân công nhiều ngoài sức tưởng tượng như vậy để thay thế cho máy móc vận chuyển. Bên kia biên giới đầu súng, ô tô, súng đạn từ Bakou trên bờ biển Caspieane tiếp tục ùn ùn trờ tới Trung Cộng. Những võ khí đạn dược đó tiếp tục chất lên từng đoàn Molotova ngày đêm chở tới Điện Biên Phủ qua đường Lạng Sơn, Đèo Khế, Tuyên Quang.

Hạ tuần tháng tư 1954, 11.000 quân Pháp bị vây chặt trong khu lòng chảo đó đường kính chừng một cây số.

Những xe tăng trở thành vô dụng được chôn sâu xuống thành những lô cốt nhỏ. Quân Pháp nằm chết dí dưới hố cam chịu những trận mưa đại bác tự bốn bề rót vào. Một lính Pháp dã thốt lời nói đùa trong lúc thập tử nhất sanh đó: “Nơi này về sau biến thành mỏ sắt mất”.

Trời mưa tầm tã ngày này qua ngày khác.Nước con sông

Nậm Hu mà tràn lên thì nằm hầm cũng không được nữa.

Ngày 1-5 hồi mười giờ khuya giữa “hồ bùn” Điện Biên Phủ mở màn một trận giáp lá cà đầu tiên. Rạng đông vị trí Huguette thất thủ, các vị trí khác Dominique, Eliane, Isabelle tiếp tục bị uy hiếp mạnh. Ngày 3-5 thêm một trăm năm mươi quân tình nguyện nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, thật chẳng khác gì muối bỏ bể. Những trận giáp lá cà từ vị trí này qua vị trí khác tiếp tục ngày một ác liệt. Năm giờ chiều hôm 7-5 De Castrie còn gọi điện thoại về Hà Nội cho Cogny trong khi cuộc chiến đấu giáp la cà đạt tới mức ác liệt tột độ. Khoảng tám giờ tối quân Việt tạm ngừng xung phong. Đạn trọng pháo rót vào như thác đổ liên tiếp hai tiếng đồng hồ. Trận mưa đêm bắt đầu ào ạt và kiên trì, đoàn người xung phong cũng ồ ạt và kiên trì như vậy. Từ khoảng bùn nhô lên từng đợt... từng đợt... ôm bộc lôi nhảy xổ vào phá tung phòng tuyến dệt bằng 500 ngàn ki-lô dây thép gai. Cuộc ác chiến giáp la cà lần này diễn ra từng khoảng thước vuông một, những người lính đều đã biến thành những khối bùn. Lựu đạn cho nổ hết rồi, dao găm gẫy đến cán rồi, đôi bên trần trụi vật lộn nhau, bóp cổ nhau, dập đầu nhau, trộn lẫn với nhau mồ hôi, máu, nước mắt, kẻ chết sau tiếng ằng ặc cuối cùng, kẻ sống cũng khặc khừ gục xuống tự chết hoặc bị một kẻ khặc khừ khác chộp lấy cho một đòn tối hậu... Sang ngày 8-5 các vị trí rụng dần.

Rồi tiến tới thanh toán nốt Isabelle . . . Khi có tin đã bắt được bộ chỉ huy địch, cuộc đâm chém còn tiếp diễn một giờ nữa. Rạng đông ngày 10-5-54 chiến cuộc Điện Biên Phủ mới thật kết thúc sau 168 ngày vây hãm, 57 ngày chiến đấu thực sự và 30 giờ địa ngục như các tài liệu của cả đôi bên sau này cho biết rõ.

Nghe Hiển kể dứt, kể bằng một giọng say mê như thường lệ, Miên thoạt thấy choáng váng đầu. Các chi tiết nàng quên hết - làm sao mà nàng nhớ được - nhưng nàng tự nhủ “anh vẫn có tài kể chuyện như ngày nào mình còn nhỏ” và nàng thốt với Hiển:

- Lẽ ra anh phải là văn sĩ kể chuyện... chuyện cổ tích chẳng hạn.

Hiển cười:

- Cô nói đúng tôi vẫn có ý định kể truyện nước Việt đau khổ của chúng ta dưới một hình thức cổ tích.

Kha nói:

- Sau đó những tập sách in của Pháp tường thuật lại về Điện

Biên Phủ tôi vẫn đọc thấy những dòng đại loại:

La France est généreuse . . . .

Une gloire nouvelle à l’honneur de nos arme...

Và vẫn gọi bên mình là rebelle (loạn quân).

La remontée d’ imporlante forces rebelles sur la Rivière Noir...

L’avion fut détruit par le feu des mortiers rebel1es . . .

Mưa bên ngoài đã tạnh. Cả khu Đại học xá chìm trong im lặng tuy ở một vài phòng còn ánh đèn chiếu ra. Ánh trăng khuya vằng vặc đã có thể cạnh tranh với ánh điện đường. Đồng hồ của một căn nhà sát Đại học xá rõ mười một tiếng rãi rệ. Ba anh em chưa ai thấy là đã khuya.

Có một điều là Kha không hề biết tới số phận của mấy người bạn đồng khóa với chàng (lục quân khóa 7) trong phong trào tam phản tại Phụng Minh Thôn xưa cũng có mặt tại Điện Biên Phủ. Đặc biệt là Uy và Duy Hoàn tự sau phong trào tam phản bèn xin sang Mông Tự (Lao Kay) theo lớp huấn luyện về pháo binh, bộc lôi.

Chủ bé Uy lương tâm ray rứt sau ngày Đồng người bạn chí thiết từ thời thơ ấu của chú tự vẫn, chú đã từng nói với Hãng, người anh trưởng: “Em không tự tử như Đồng, em phải làm một việc gì đích đáng!” Chú có mặt ngay trong trận giáp lá cà đầu tiên hôm 1-5-54 hồi 10 giờ khuya. Chú ôm bộc lôi cùng các bạn đồng đội xông vào phòng tuyến dây thép gai. Bộc lôi nổ tung, xác chú thoạt vắt ngang trên một đường dây thép gai, đợt xung phong sau ùa tới xô chú xuống lát đường cho khoảng bùn ngập vỏng nước mưa.

Duy Hoàn người đã hát bài Kim tiền khiến phòng kiểm thảo chợt tràn ngập ánh trăng khuya lãng mạn, thanh bình, êm ả, và làm cho tên phó chính ủy Lê K. tẽn tò trong mấy giây phút cuối cùng của khóa hội thảo, Duy Hoàn có mặt trong đêm cuối cùng của trận Điện Biên Phủ. Lách bước chân giữa đống xác chết quanh vị trí Eliane, Duy Hoàn hô lớn: “Rendez vous les Francais, vous ne serez pas malheureux!”. Một lính Pháp nằm vờ chết giữa đống xác người ngổn ngang của đôi bên; đợi Duy Hoàn bước tới vừa hô dứt câu địch vận trên, y vùng lên và nhanh như chớp chiếc dao găm gãy nửa của y đã cắm ngập vào cồ họng Duy Hoàn.

IV

Ba người giữ im lặng trong vài phút rồi Kha lên tiếng hỏi:

- Thế anh bạn giữ vai trò gì trong chiến cuộc Điện Biên

Phủ?

- Tham mưu trung gian! - Hiển đáp. Trong khi đại tướng Giáp ở tiền đồn trực tiếp bắt tin tức những biến chuyển của mặt trận, ta cắt đứt liên lạc được những đâu, địch điều động quân như thế nào, phi cơ thả dù ra sao... thì ở hậu cứ anh bạn theo dõi quân đội Pháp di chuyển ra sao, rút quân tại các tỉnh nào miền Trung và miền Nam, ước lượng khả năng Pháp có thể tiếp cứu Điện Biên Phủ chăng; nghiên cứu những tài liệu mật của Anh, Pháp, Mỹ mà tình báo của mình lượm được từ Hà Nội đưa ra, đối chiếu với những tài liệu khác từ Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh đưa về để đoán xem chủ trương âm mưu địch như thế nào mà điện thoại cho Võ Nguyên Giáp ngay; đồng thời giúp tài liệu đấu tranh chính trị cho phái đoàn của thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu tại hội nghị Genève. Khi bộ Tổng Tham Mưu về tiếp thu Hà Nội , đóng trong Đường thành, viên cục trưởng Quân Báo được tuyên dương trước ba quân là đã cung cấp tài liệu rất kịp thời và rất đầy đủ cho phái đoàn tranh đấu chính trị tại hội nghi Genève. Công đó chính là công của anh bạn.

Lúc đó Miên mới phát biểu ý kiến:

- Em còn nhớ dáng người và cách nói chuyện của anh bạn ở bến Lời. Hoạt bát, thông minh!

Hiển gật đầu tiếp:

- Trong khi làm việc ở bộ Tổng Tham mưu anh bạn có làm quen được với một số trí thức cùng tâm trạng, có người tuy không ưa Việt Minh nhưng đã hợp tác với họ tự thời bí mật, bởi dầu sao Việt Minh trong giai đoạn đó còn nắm được chính ng- hĩa đánh thực dân giành độc lập cho xứ sở. Là đồng thanh tương ứng thì tìm tới nhau thôi, chứ vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến này Việt Minh đã biết triệt để phân tán những người trí thức tiểu tư sản, cùng một cơ quan như phân tán ra các trung đội khác nhau, tiểu đội khác nhau hoặc cử sang Tàu theo lớp huấn luyện chính trị để “hấp đỏ”. Nếu quả Pháp thực tâm sớm trao trả độc lập cho Việt Nam thì Cộng sản không sao có đất mọc, miền Bắc không mất, đất nước không bi chia đôi như ngày nay. Khi cuộc kháng chiến mới bùng nổ tất cả những người quốc gia trong vùng Pháp kiểm soát đều sẵn sàng giúp tài liệu cho Việt Minh. Có những tài liệu nguyên bản họ đánh cắp được gửi ra hậu phương, đó là những bản ký kết giữa Bảo Đại, giữa Nguyễn Văn Xuân với Pháp về các vấn dề quân sự chính trị, tài chánh... Đến khi Bolaert tuyên bố ở Hà Đông trả độc lập cho Việt Nam, những người quốc.gia thừa biết thứ độc lập đó còn là giả hhiệu, nhưng họ đã thấy thoải mái, họ đã tìm thấy một chính phủ quốc gia để nương tựa, để gửi gấm niềm tin, để khởi đầu một cuộc tranh thủ độc lập thật sự và toàn vẹn cho chính nghĩa quốc gia, thì lập tức những tài liệu tình báo gửi ra hậu phương nghèo nàn xơ xác hẳn. Ngay cơ sở tình báo tại Hòn Gay là nơi công nhân nhiều nhất cũng sụp đổ còn nói chi đến các cơ sở ở Hải Phòng, Hà Nội, Hà Đông...

Hiển bỗng ngừng lại giây lâu rồi mới chép miệng tiếp:

- Tụi thực dân Pháp ngoan cố đến phút cuối cùng nên Việt Minh mới lợi dụng được đến phút cuối cùng mọi khả năng quốc gia mà xây dựng riêng cho thành quả cộng sản của chúng. Cứ nhìn vào thế giới mà xem, nơi nào có những loại thực dân như chúng là có phân bón cho cây cộng sản, khi cộng sản đã làm ruộng xứ đó, thực dân không ở được thì chúng quẳng lại đi nơi khác, và “già Sam” tới lượm mà vá víu. Khi buộc lòng phải ký hiệp định Genève với Việt Minh, Pháp cử một tên tướng vô danh ra ký Hiệp định Genève chưa phải là một hiệp định chính trị vì không có chữ ký của Mỹ, Anh và Việt Nam Cộng Hòa. Pháp ký xong cũng chẳng đưa ra cho quốc hội chuẩn y, liền đó ký ngay với Anh, Mỹ và mấy nước Á châu là Thái Lan, Đại Hồi, Phi Luật Tân một hiệp ước liên minh bảo vệ vùng Đông Nam Á trong có Việt, Miên, Lào, tức là đối phó ngay với hiệp định đình chiến chúng vừa ký trên. Tuy thế chúng vẫn ngả nghiêng ve vuốt Việt Minh gạ gẫm buôn bán với Hà Nội. Cùng một lúc con thò lò lật tới... bốn mặt!

Kha nhìn Hiển thương hại vì chàng không lạ gì những suy tư dằn vặt của bạn từ thuở xa xưa sau chuyến đi du học hụt bên Nga về đôi bên gặp nhau ở Phụng Minh Thôn. Nỗi dằn vặt dai dẳng Hiển không giữ trong lòng mà nói luôn miệng, khi còn ngoài đó, khi vào vùng quốc gia:

Lúc nào nước Việt cũng có thể bình đẳng với bất cứ cường quốc nào về phương diện tinh thần. Trong khi chờ đợi đất nước thanh bình để có thể đuổi kịp nước ngoài về kỹ thuật, những đức tính tinh thần của dân tộc phải được triệt để bổ sung và phát triển ngõ hầu người mình vẫn có thể ngang nhiên nhìn mọi tiến bộ kỹ thuật bên ngoài mà không mảy may tự ti mặc cảm. Chúng ta chỉ có thể tự trọng, hiên ngang, giữ được bình thản khi biết tự tin và tận lực phát triển những đức tính tinh thần của dân tộc. Nước Việt quyết không chịu làm con tốt biên cho bất cứ một cường quốc nào, nước Việt phải là một nốt nhạc có ý thức trong bản hợp tấu của nhân loại....
Kha vẫn nhìn Hiển và Hiển vẫn hơi cúi đầu, tia nhìn đặt sâu vào hư vô, miệng mím thành một đường thẳng. Kha không ngạc nhiên về việc Hiển nhớ từng giai đoạn chính trị đất nước, nhớ từng vi trí, từng đơn vị trong chiến cuộc Điện Biên Phủ.
Hiển đã ngẩng đầu và cất tiếng trầm hơn:
- Tôi có cùng anh bạn thảo luận về nguyên ủy sâu xa hiệp định Genève.
Ngày đó hội nghị Genève họp, chính phủ Laniel Pháp đổ, Chính phủ Mendès France lên lên hứa với quốc hội chỉ trong vòng hai mươi hôm giải quyết xong vấn đề Đông Dương, nếu không sẽ từ chức. Sự thực tới Điện Biên Phủ thì cả hai cùng kiệt sức và đồng ý bám vào nhau để chặn ảnh hưởng Mỹ. Mỹ muốn Pháp tăng cường thêm đoàn quân viễn chinh đồng thời trả độc lập thực sự cho Việt Nam, Mỹ sẽ viện trợ thêm rất nhiều nữa, đặc biệt tăng cường hải quân và không quân. Pháp chiến đấu để bảo vệ quyền lợi thực dân, Pháp đâu chịu ý thức một cuộc chiến đấu trên bình diện lý tưởng? Tiếp tục chiếc đấu ở đây mà lại trả độc lập thực sự cho Việt Nam thì chiến đấu làm gì? Pháp bằng lòng ký hòa với Việt Minh để giữ nguyên tình trạng nội bộ giữa Việt Minh và Pháp. Ngăn ảnh hưởng quân sự Mỹ xâm nhập như vậy Pháp hy vọng chấm mút ảnh hưởng kinh tế của cả đôi bên. Nhưng làm xong nhiệm vụ đó Pháp vẫn phải cuốn gói, trả lại quyền hành cho phe quốc gia do Mỹ đỡ đầu (Chẳng lẽ lại trả cho Cộng Sản!!!) Về phía Việt Minh cũng cần níu lấy Pháp mà cầu hòa. Nếu sau trận Điện Biên Phủ , Việt Minh tiếp tục đánh Pháp tất nhiên dồn Pháp vào thế chân tường phải mở cửa Đông Dương cho Mỹ vào, Cộng sản lại phải đương đầu với trận Triều Tiên thứ hai là điều mà cả Nga lẫn Trung Cộng cùng không muốn. Dạo đó tại bộ Tổng Tham Mưu anh bạn phải luôn luôn theo dõi xem Mỹ đã cho quân đổ bộ lên Việt Nam chưa, Mỹ có chở bom nguyên tử đến vịnh Hạ Long không? Lẽ ra sau Điện Biên Phủ, Việt Minh đòi cắt đất đến Quy Nhơn, nhưng rồi nhân nhượng cho xong chuyện để khỏi bẽ mặt nhau, nâng lên vĩ tuyến thứ 17. Ý Mỹ muốn cương quyết theo đuổi chiến tranh để sẽ dùng hải quân và không quân thật mạnh tiêu diệt lực lượng Cộng sản. Pháp không chịu đã đành, Anh cũng lảng ra vì Tân Gia Ba, Mã Lai của Anh còn xa vùng này. Mỹ thấy tiếng nói của mình lẻ loi đành ưng theo giải pháp chia cắt.
Lại qua một phút im lặng Hiển mới tiếp:
- Chung quy chỉ tội nghiệp cho những người quốc gia. Lúc cuộc kháng chiến bùng nổ, một số ở lại đâu có phải để theo Pháp mà để chờ Pháp vì tình thế phải trao trả độc lập cho quốc gia; những người ra đi, không ưa Việt Minh mà vẫn theo Việt Minh còn nắm được chính nghĩa đánh thực dân giành độc lập, nhiều kẻ theo nửa chừng rồi vào thành “chùm chăn” đợi thời. Những người theo Việt Minh đến ranh giới cuối cùng - Điện Biên Phủ
- thì bắt đầu đổi căng. Từ nay cuộc chiến tranh đuổi thực dân giành độc lập chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn một cuộc chiến đấu lý tưởng giữa Cộng sản và quốc gia, giữa độc tài và dân chủ. Sau Điện Biên Phủ, người mẹ Quốc.gia nhận nhũng đứa con lạc đàn cuối cùng chạy về đùm bọc lấy nhau, chắt chiu lấy niềm hy vọng cuối cùng trên mảnh đất cuối cùng này. Thế giới chưa có dân tộc nào từng trải đau khổ và sống giữa đầy rẫy mâu thuẫn như dân tộc mình trong giai đoạn vừa qua. Nghĩ đến Điện Biên Phủ người ta kiêu hãnh mặc dù chiến thuật biển người hoàn toàn là một chiến thuật ngoại lai vô nhân, trái ngược hẳn với truyền thống quân sự của ông cha xưa; nghĩ đến Việt
Minh phản bội người ta căm hờn; nghĩ đến thực dân người ta hả lòng mát ruột, con cháu Napoléon đến bao giờ rửa cho hết cái nhục Điện Biên Phủ; nghĩ đến chia cắt người ta ứa nước mắt ra đi hầu hết với hai bàn tay trắng...
Tiếng Hiển lại ngừng, lần này như muốn ngừng hẳn. Nhưng âm thanh lời Hiển còn vang vang trong Kha, trong Miên và trong chính Hiển. Cả ba cùng ôn lại những hình ảnh gần đây: vào đến miền Nam người ta tưng bừng tái lập cuộc đời với ánh sáng miền Nam, với nhạc hội kỷ niệm năm thứ hai trăm sinh nhật Mozart, với triển lãm lực lượng quân đội, với ngày biểu tình 20-7-55 đập phá khách sạn Galliéni, khách sạn Majestic...
Hiển còn ở lại đại học xá với kha, Miên suốt ba ngày nghỉ phép kỳ đó, đi thăm các anh em trong gia đình Văn hóa rồi trở lại Ban Mê Thuột. Không một ai trên cõi đời này, từ những người can trường nhất đến những người lòng dạ độc địa nhất nỡ ngờ rằng người dân Việt còn phải trải qua một cuộc phản bội lịch sử nữa. Cả một tập đoàn, cả một guồng máy tay sai vô liêm, vô luân, những cặn bã tư tưởng và tín ngưỡng nhân loại đúc kết nên những hiện thân đó - chúng dìm cả một dân tộc xuống vũng chỗ chính quyền do chính chúng mặc sức vừa ăn vừa bài tiết. Càng đê nhục muôn phần là những thối nát đó đều “tái bản” y hệt - có phần thậm tệ hơn - vết xe đổ thời thực dân hay thời thống chế Tưởng Giới Thạch còn ở lục địa sắp ra Đài Loan. Người dân Việt vẫn nhẫn nhục... vẫn cam nhẫn nhục...ôi, đó là ưu điểm tuyệt đối hay nhược điểm tuyệt đối ?? Có điều không ai chối cãi được là người dân Việt vẫn sống - nhiều khi sống ngắc ngoải - nhưng vẫn là sống, một sự sống kỳ diệu đợi tái sanh.
Nhưng đó là chuyện về sau này.
Năm 1965
Doãn Quốc Sỹ
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Những mất mát lớn của văn chương thế giới 28 Tháng Chín, 2022 Chỉ trong hai tuần vừa qua, văn chương thế giới chứng kiến những sự mất ...