Thứ Hai, 27 tháng 9, 2021

Bóng nước hồ Gươm 2

Bóng nước hồ Gươm 2

Chương VI

Mưa ủm thũm dây dưa mấy hôm, hôm nay giời tạnh nắng, đường sá khô ráo, bầu giời quang đẹp, bắt đầu nắng hanh vàng tươi sáng. Cảnh vật như nhuộm thắm lòng người, gợi nhớ đến mùa thi cử trước đây. Năm nay là năm khoa chính. Ở các nơi như Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên, Bình Định, có trường đã thi xong, có trường đang thi…, sĩ tử nô nức nhau đua tài trên trường văn, trận bút vui vẻ lắm. Riêng ở đây, trường thi ngày thường đã hoang vắng, bây giờ càng thêm có vẻ hoang vu, lạnh lẽo. Giá như những khoa thi trước, vào dạo này, nơi bờ hồ này đã đông vui biết mấy, sĩ tử đi lại nườm nượp, dạo chơi, bàn tán, đàm luận với nhau, để ngóng chờ… tin bảng ai vào, ai ra, ai qua được các kỳ vào phúc hạch. Nhưng giờ đây, giữa cái lúc, ba năm mới lại một lần có dịp mở đường cho kẻ sĩ vào hội sênh sang áo mũ, giữa cái lúc vinh dự hằng mong mỏi ấy, thì ở đây, đường công danh tự nhiên vít lối, khách văn chương không còn ai lai vãng chốn này, thành ra cảnh giời càng trong đẹp, người đối cảnh cảm thấy trống trải, hoang vắng. Mấy thầy đồ, thầy khóa trong vùng đã nộp quyển tấp tểnh đi thi, nay buồn nhớ cảnh lều chõng vào trường, rủ nhau đến ngồi ở hàng bác Hai Phúc đây, khề khà chén rượu tiêu sầu, và cũng là gợi chuyện và góp chuyện với bác chủ hàng cũng đang buồn thiu nhớ đến cái cảnh nhộn nhịp trong mấy khoa thi trước, mà nơi quán này đã là chỗ trọ cho những tay danh sỹ hay đến đền Ngọc Sơn lễ lạy cầu thần nằm mộng! Mấy người bàn chuyện thi cử, rồi phẫn uất chuyển sang chuyện thời thế, rồi lại từ chuyện thời thế quay trở về chuyện thi cử mà thường thường thở dài than thân phận, trách trò đời… và chửi bọn Tây dương quái ác. Mấy người khách đang chuyện trò, lơ đãng nhìn mặt nước hồ long lanh ánh bạc, bỗng sửng sốt đứng cả lên, khi ở phía ngoài bờ sông luôn chín tiếng súng nổ liên tiếp như pháo lệnh nổ long giời lở đất, vang ầm cả phố phường và rung chuyển cả nhà cửa. Họ bỏ chén đũa, chạy đổ xô ra cả cửa ô Long Tường hướng về phía tiếng súng. Bác Hai cũng ba chân bốn cẳng chạy theo và chạy vượt lên trước. Kìa trên đê, năm sáu trăm tên lính Khách của Đồ Phổ Nghĩa đang đứng thẳng hàng, bồng súng lên, đặt súng xuống theo lệnh của chỉ huy. Dưới sông, mấy còi tàu đồng thời đang kéo rền lên từng hồi. Trên mỗi chiếc tàu một lá cờ ba sắc tung bay phần phật trước gió, tất cả lính Tây, quân phục chỉnh tề, đứng nghiêm thẳng hàng trên khoang tàu. Một đoàn ba chiếc tàu khác cũng phất phơ lá cờ ba sắc, đang ì ì lượn trước đoàn tàu của Đồ Phổ Nghĩa để vượt lên phía trên rồi mới bỏ neo đỗ lại. Thì ra tên quan đặc phái của Tây từ Sài Gòn đã ra đến Hà Nội, cuộc đón tiếp bày ra ngang nhiên như trên đất riêng của chúng nó. Và tuyệt nhiên không thấy bóng dáng một người lính nào của bên ta, và cũng không thấy quan chức tỉnh Hà Nội động tĩnh gì cả. Quái lạ! Thế này thì loạn thật! Bác Hai nghĩ bụng thế, và gặp ai cũng cứ hỏi quen miệng:

- Cái gì vậy? Cái gì vậy?

- Tây nó đón quan nó đấy mà! Có người đáp.

- Nó làm như ở nhà nó thế à? Bác nói thêm. Ai cho nó làm kinh động mọi người như thế? Nó chửi vào mặt mình còn gì nữa!

- Hơi đâu mà dây với bọn đỉa đói! Một ông thủng thẳng nói rồi đi ngay.

Bác đương định dồn cho cái anh chàng vừa nói ấy một mẻ, nhưng hắn đã đi xa, lọt vào ô Hàng Cau rồi, nên bác không nói thêm câu nào nữa, chợt bắt gặp Bá Kim vừa ở cửa ô Hàng Mắm đi xuống, bác vồ ngay lấy, hỏi xoắn một hồi:

- Thưa cụ, nó làm gì vậy? Nó chực đánh ta à?

- Nó đón đặc phái viên của nó đấy, Bá Kim trả lời.

- Sao nó dám bắn súng làm kinh động nhân dân như vậy? Nó là chủ đất này à?

Bá Kim cắt nghĩa ôn tồn:

- Lão quan đặc phái này to lắm, chức cao quyền lớn, ra đây bảo thế nào là bọn ở ngoài này phải nghe theo một phép, cho nên nó phải đón long trọng. Vả lại, nó đón nó, tức là nó đón mình, vì có cả ba vị quan của triều đình cùng đi ở đấy.

- Nó to chức thế, tại sao bên ta không đón?

- Các quan ta không ai ra đón, vì nó đến đây có việc của nó, nó sẽ phải đền mọi thiệt hại cho ta. Mai nó sẽ vào dinh yết kiến, bấy giờ các quan ta mới tiếp nó chứ!

Thấy bác còn ra dáng ngần ngừ muốn hỏi nữa, Bá Kim liền đưa cho bác một tờ giấy niêm yết khổ rộng chữ viết to, có dấu son hẳn hoi, và giục:

- Giao cho bác tờ giấy thông sức này, bác đem về dán ngay ở cửa hàng cho mọi người cùng đọc, giấy quan trên sức khuyên dân chúng yên tĩnh, không để lộ hình tích gì cho Tây nó ngờ, để đợi đón cuộc thương thuyết giữa ta với đặc phái viên của Tây được kết quả tốt, nó không vịn vào cớ gì mà bắt bí ta được.

Bác Hai vẫn còn nửa tin, nửa ngờ, nhưng phận sự người dưới, đành phải đem tờ thông sức ấy về dán ở ngoài cửa nhà mình để mọi người cùng xem. Đã đi được mấy bước, bác còn ngoảnh lại, thấy Bá Kim đang phát thêm mấy tờ giấy như thế cho mấy người nữa, bác cười một mình tự nhủ:

- Lão này khôn thật, đem giấy ra đấy mà sai đi dán, rõ là được một công đôi việc, đuổi bớt được một số người đứng tụm năm, tụm ba!

Bác lại chợt nghĩ sang chiều khác, mải nghĩ quên cả trả lời những câu người ta hỏi bác, bác chỉ lẩm bẩm một mình:

- Chả biết có ra cơ ngũ gì không, nó có bồi thường đến nơi, đến chốn cho không, chứ các quan ta chu đáo thật, biết sắp xếp ngăn chặn ngay từ trước, không để có thể xảy ra một tí gì không lịch thiệp, làm chạm lòng tự ái của chúng nó.

Bác về đến nhà, đem dán tờ giấy ấy ra ngoài cửa rồi đứng ngắm nghía xem có ngay ngắn không: tờ giấy rộng, chữ đẹp, dấu son chi chít và dấu quan phòng to bằng bàn tay in đỏ chóe, trông đẹp như một bức tranh, bác tuy không đọc được, chỉ gật gù khen chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Có ai hỏi giấy gì, bác đều mời đọc đi và nói qua loa ý nghĩ của mình mong cuộc thương thuyết mau xuôi chuyện. Dân tình yên ổn ngóng đợi, vì ai nấy cũng đã quen chuyện Tây Tàu rồi, không lạ như năm ngoái, khi đoàn tàu Đồ Phổ Nghĩa mới đến, vả lại được các quan đã sức cho mọi người biết có cuộc thương thuyết điều đình, nên không ai dám có lời nói, việc làm gì để có thể bị buộc tội là cản trở việc giao thiệp của nhà nước. Yên tĩnh. Và phố xá vẫn đông người. Hàng bác Hai cũng có thêm khách ra vào, ngồi nói chuyện vui như cố ý tưởng tượng ra thời thế sắp sửa thái bình như trước. Người ta ngồi bàn tán bịa ra mọi vẻ hoang đường về cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa đặc phái viên Tây với các quan ta. Họ thêm thắt cho vui câu chuyện. Rồi ngày hôm sau nữa, bỗng một toán lính ra dọn qua loa trường thi, một ông già ở Vũ Thạch vội chạy đến gọi bác Hai bảo:

- Này sắp thi rồi bác Hai ơi! Hàng bác lại vui đáo để!

- Sao cụ biết? Một người ở trong hàng hỏi ra.

- Lính trong thành ra dọn dẹp đấy, ông cụ đáp.

- Chả phải thi, họ dọn làm gì đấy chứ? Bác Hai nói, thi gì mà chóng thế. Nó vừa mới ra đến nơi mà mọi việc xong cả rồi à?

Ông cụ vẫn giữ ý kiến:

- Muốn thi thì cũng phải dọn dẹp, làm lại nhà quan cư, cũng còn phải mươi bữa nửa tháng. Chắc là nó đã bằng lòng mọi thứ rồi, nên ta mới cho mở lại khoa thi.

- Ai cũng mong như thế, nhưng chả phải đâu. Đời nào nó đã chịu rút đi ngay mà thi với cử, ông khách ngồi trong hàng nói. Hôm qua, nó sấn vào trong thành, nó ẩy bừa cả lính canh ra một bên mà đi, có coi ai ra gì đâu!

Một ông khách nhà cùng ở phía Hàng Khay ở ngoài đi vào với ông cụ, nói có vẻ phân giải phải trái:

- Kể gì bọn họ đằng ấy, hễ tướng của chúng nó thuận nghe theo là được. Có lẽ…

- Quân láo lếu là tại tướng dung túng, ông kia cãi lại. Chúng nó bảo nhau hung hăng để gây chuyện bắt nạt các quan mình.

Mấy người đang mải bàn tán, chưa ai đoán rõ các quan trên cho dọn trường thi làm gì, chợt một toán lính đi hàng ba, có đủ khí giới và xẻng, cuốc, dao búa, rầm rập đi từ làng Cựu Lâu qua ngã tư tiến vào đường Hàng Khay. Toàn là Tây trắng, Tây đen, tóc quăn mũi lõ, râu ria xồm xoàm. Trong cửa hàng bác Hai, mọi người im bặt đứng lên đi ra phía hiên, đăm đăm trông theo đám lính đang đi có vẻ ngạo nghễ trên đường đất của quê hương mình. Mọi người cùng nín thở, nén giận. Có lẽ đây là bọn người lạ mặt đầu tiên nghênh ngang xúc phạm đường phố yên tĩnh của ta. Bọn lính khác giống trông dữ tợn như đầu trâu, mặt ngựa, đi đã khuất quá làng Vũ Thạch rồi, mấy người… đều vẫn im lặng sững sờ, cùng cảm thông với nhau trong mối buồn bực chung, và không ai nói ra, nhưng cùng hiểu bọn lính kia đi đâu rồi. Một lúc lâu, cái ông khách nghi ngờ sự mừng hụt của ông cụ lúc nãy, trở vào ngồi chỗ cũ, rồi mới lên tiếng:

- Cụ ơi! Tây nó đi thi đấy, cụ ạ!

Ông cụ cười gượng, nói:

- Đúng là chúng nó vào đóng trường thi rồi. Nó đi hàng ba, tôi đếm được đúng hai chục hàng, và hai thằng cai đội gì đấy, đi tách ra ngoài…

- Có cả Tây trắng, Tây hung hung, Tây đen, nhưng không có Khách, một ông nữa nói tiếp…

- Hình như có cả mấy ông người Nam nhà mình, bác Hai nói.

- Người Sài Gòn Gia Định đấy, ông cụ làng Vũ Thạch nói. Đất nó chiếm mất rồi, không đi nó cũng bắt đi ấy chứ. Nó bắt ra ngoài này ăn nói với ta cho dễ.

Chợt Bá Kim đi với mấy người lính tuần thành ở phía trường thi đi về, thấy trong hàng có người, lão rẽ vào, trông thấy bác Hai, dặn ngay:

- Bác cứ mở cửa hàng cho tử tế. Bọn lính Tây họ kéo vào đấy, cắm trại xong đâu đấy, là họ kéo nhau ra đây ngay cho mà xem. Họ đến đây như là khách của Nhà nước. Mình cứ việc bán hàng chiều khách, vừa lợi mình, vừa được việc cho quan trên…

- Thưa cụ, thế họ vào đóng ở trường thi à? Bác Hai hỏi.

- Phải, họ vào đóng tạm ở đấy, Bá Kim đáp. Họ tự làm nhà dựng thêm doanh trại lấy, ta phải cấp vật liệu cho họ.

- Bẩm cụ, sao họ không ở dưới tàu, lên bộ làm gì? Một ông khách ở hàng hỏi.

- Họ ra điều đình còn bàn đến nhiều việc, nên phải ở lâu lâu. Họ đi bể nhiều nên muốn lên bộ ở ít lâu. Vì thế nhân có khu trường thi bỏ không, các quan mới cho họ vào đấy cho tiện.

Ông cụ người làng Vũ Thạch nói:

- Thưa cụ, tôi vừa mừng hụt mà bây giờ thành lo thật, tôi thấy lính đến mở dọn trường thi, tôi tưởng lại mở khoa, chả lại hóa ra ngược đời thế, tôi sợ rằng nuôi ong tay áo!

Bá Kim quay lại nhìn, nể ông cụ nhiều tuổi, nói ôn tồn hơn:

- Ấy chết! Cụ chớ nên nói thế, các quan tỉnh cho phép họ vào đóng tạm ở đấy, chứ có phải quyền ở họ đâu.

Rồi lão quay ra dặn riêng chủ quán, mà như bảo chung mọi người có mặt ở đấy:

- Họ có ra đây, mình cũng phải khéo léo, tỏ ra lịch thiệp một chút, nếu nhỡ ra để thất thố điều gì có hại cho quốc gia đại sự, quan trên bắt tội thì rồi đừng có kêu ca và đừng trách chỗ bà con quen biết không bảo trước…

Bác Hai cũng đành phải vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện, tuy lòng vẫn không ưa gì bọn lính Tây mới đến kia. Bá Kim đi khỏi rồi, bác đắn đo suy nghĩ mãi, không biết nên định liệu thế nào cho phải, bác vội lên hiệu Dụ Hưng Lâu, tìm hỏi Ả Chí. Chú này vừa ở trên Hàng Buồm về, nói cho bác rõ tình hình bọn Khách buôn lớn có vẻ phớn phở với dịp lão quan Đại úy tự Sài Gòn ra, chúng nó coi như là triều đình An Nam đã nhượng bộ cho lão quan Tây kia muốn làm gì cũng được, nên bây giờ chúng nó công nhận vệ về thằng Đồ Phổ Nghĩa. Bác Hai thuật lại việc lính Tây đến đóng ở trường thi và lời Bá Kim dặn dò cho Ả Chí nghe và hỏi cách đối xử lúc này. Ả Chí nói ngay:

- Bác không nên lưỡng lự, cứ nên theo lời Bá Kim, rồi dần dà cố làm quen cầu thân với bọn lính Gia Định. Họ cũng là những người như cánh mình, bị bắt buộc cả…

Ngồi lặng một lúc, Ả Chí nói tiếp:

- Nếu họ thực là khách, như Bá Kim nói, chỉ ra ít lâu xong việc rồi lại trở về, thì công phu bác hầu hạ làm quen với họ cũng đáng. Bất đắc dĩ, mà nó có dã tâm lấn cướp mình, thì bác cũng đã giao thiệp được với bọn nó rồi, nếu bà con ta có mưu đồ đánh tụi nó, thì bác lại có thể giúp đỡ được nhiều cho bà con. Về phần tôi, chúng nó đang thích chí, đang vui mừng, nên tôi cũng cần làm hàng lên bán cho bọn chúng nó phè phỡn ăn mừng rồi tùy cơ ứng biến…

Bác Hai suy nghĩ lời Ả Chí nói có lý, liền ra về dọn dẹp cửa hàng cho sạch sẽ khang trang, sắm sửa thức ăn để đón bọn khách hàng mới lạ. Quả nhiên, đúng như lời Bá Kim nói, từ sáng sớm hôm sau, sau mấy hồi kèn te tò te báo thức, bọn lính đã la cà ra quán của bác ăn quà hoa quả, uống rượu và ngắm cảnh hồ. Hàng của bác đông hẳn lên, nhất là vào buổi trưa và buổi tối. Mới vài ba hôm, bác đã quen thân với mấy anh lính người Sài Gòn. Bọn lính mới đến cũng vẫn còn giữ đủ lễ độ, mải chăm chú sửa sang nơi đóng quân, ngoài ra chỉ đi chơi quanh hồ, đi lại rất trật tự, không hống hách nạt nộ như bọn lính của Đồ Phổ Nghĩa, nên bà con quen hàng bác Hai cũng không ngại ngùng e sợ gì, cứ vào hàng bác ăn uống và xem bọn Tây một thể. Bác càng được dịp khoe với mọi người:

- Mọi năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp khoa thi, cứ vào dạo này là hàng tôi đông khách lắm. Sỹ tử tranh nhau nghỉ ở đây. Năm Dậu này tưởng đã ế. Thế mà mấy hôm nay lại đông hơn cả mọi khi, các “thí sinh” Tây và Sài Gòn vào trường thi cắm lều chõng xong rồi, cứ la cà ra đây suốt ngày!

Bác còn nói đùa thêm:

- Chả biết các ông ấy thi đến bao giờ mới xong!

Mấy ngày đầu qua yên ổn, không có chuyện gì xích mích giữa những người mới đến với dân chúng. Mọi người đang hồi hộp ngóng chờ kết quả của cuộc thương thuyết. Chợt buổi sáng hôm thứ năm sau khi bọn Pháp đã đến Hà Nội và đóng quân yên ổn rồi, một bọn lính đem dán khắp các phố tờ giấy lệnh khổ lớn viết một bên chữ nho, một bên chữ quốc ngữ, dưới có dấu son vuông chữ triện hẳn hoi. Mấy tên lính đem dán hai tờ ở ngay cửa hàng, bác Hai vội chạy ra hỏi:

- Giấy gì vậy?

Một anh lính Sài Gòn đáp:

- Giấy tuyên cáo của quan ba Ngác Nhi Ê đem niêm yết để mọi người cùng biết…

Bác hơi chột dạ, hỏi:

- Sao lại dán ở đây?

- Dán khắp mọi nơi, mọi chỗ có người qua lại.

- Chú đọc tôi nghe nào?

- Tôi chỉ đọc được cái chữ ngoằn ngoèo này thôi, còn bên chữ nho không biết.

- Ừ chú cứ đọc bên chữ ngoằn ngoèo rắn bò kia xem nào.

Anh lính làm ra vẻ thành thạo, giơ tay chỉ cho bác coi và nói:

- Đây, cái chữ quốc ngữ này viết theo vần Tây, phải đọc ngang từ bên tay trái sang bên tay mặt, viết theo dòng ngang chứ không viết dọc như chữ nho bên này. Tôi bắt đầu đọc đấy:

“Tuyên cáo dân chúng Bắc kỳ,

Quan Đại úy Hải quân đặc phái viên Súy phủ Phú Lãng Sa tại Sài Gòn, được toàn quyền thu xếp mọi việc ở Bắc kỳ, tuyên cáo cho mọi người đều biết:

Bản quan ra đây trước hết để giải quyết việc buôn bán. Các quan chức bản xứ ở đây ngăn cản các nhà buôn, không cho đến gặp bản quan bàn cách đặt việc thông thương.

Toàn thể nhân dân hãy yên trí làm ăn. Bản quan ra đến đây là để bảo vệ mọi người dân chống lại sự hà khắc của quan chức An Nam. Quyền lợi buôn bán hiện nay và sau này vĩnh viễn được nước Đại Phú Lãng Sa bảo hộ, bênh vực.

Các phó vương Quảng Đông và Vân Nam đều là bạn thân thiết của bản quan, đều hết sức phù trợ bản quan trong mọi công việc ở Bắc kỳ. Dân chúng chớ sợ quan chức nước An Nam dọa nạt, cứ làm ăn yên ổn.

Tương lai người buôn ở xứ này sẽ được nước Đại Phú Lãng Sa che chở hết sức. Kẻ nào còn giao thiệp với chính quyền An Nam sẽ bị trục xuất ra khỏi nước này.

Về thuế thương chính, từ nay chỉ phải nộp thuế cho quan nước Đại Phú thôi.

Viết tại Hà Nội, ngày 11 tháng 11 năm Thiên chúa giáng sinh thứ 1873.

Đại úy Hải quân

Đặc phái viên toàn quyền nước Đại Phú

An Nghiệp đã ký”.

Tên lính đọc xong, hỏi lại bác:

- Tôi đọc hết rồi đấy, bác chủ đã hiểu chưa?

- Sao ông quan ba ông ấy lại tuyên cáo như thế nhỉ?

- Phải tuyên cáo như thế để mọi người biết rằng ông ấy ra đây là để mở rộng việc buôn bán, thông thương đi lại.

- Thế không phải hắn ra để xin bồi thường cho ta những thiệt hại mà bọn Đồ Phổ Nghĩa đã phá phách ở đây à?

- Đền gì? Có nó bắt đền mình thì có. Tây có bao giờ nó chịu đền ai! Anh lính Sài Gòn kéo bác ra một bên và nói nhỏ vào tai. Ông chủ quán ơi, ông thực thà quá. Tây nó khinh mình ngu nên đi đến đâu, nó cũng cứ làm bừa đi, rồi bắt mình phải theo. Nó bảo để khai hóa cho mình. Không nghe, nó cứ cột vào cổ bắt phải theo. Ở trong lục tỉnh, nó đều ức chế như thế cả đấy…

Bác Hai hỏi vớt vát:

- Thế sao ở ngoài này cứ bảo đợi đón phái viên ở trong ấy ra thương thuyết…

- Cũng có thương thuyết đấy chứ, anh lính kia nói, nhưng ông ba đây, ông ấy lại muốn được mọi quyền tự do như ở trong Sài Gòn, chắc là mấy ông quan ở ngoài này không chịu… Nhưng không chịu thì phải thế nào, chứ cứ ỉm đi là nó càng làm già, nó lấn dần, rồi đến cũng như chúng tôi ở trong ấy đấy…

- Min ván sanh 1 có mau lên không?

Nghe tiếng gọi, anh lính vội chạy ra nhập bọn đem giấy đi dán nơi khác, để lại một mình bác Hai đứng đờ đẫn trước tờ yết thị, mắt đăm chiêu nhìn vào cái dấu vuông khắc nổi rõ sáu chữ: “Đại Phú quốc bảo hộ dân” 2 . Bác bỗng bật ra tiếng cười chua chát tự lẩm bẩm:

- Vua quan cũng xoen xoét là bảo hộ che chở dân, bây giờ Tây đến cũng lại nhận là che chở bảo hộ dân. Ai cũng bảo hộ thế thì thằng dân chết bỏ mẹ thằng dân, đến cái khố cũng không còn! Cũng lại tuồng đồ phi nghĩa cả thôi! Phải đi hỏi Ả Chí xem sao.

Bác quay vào bảo vợ coi hàng, rồi trở ra đi một mạch lên chợ Hàng Bè vào hiệu Dụ Hưng Lâu, giữa lúc mấy người khách ăn phở đang bàn tán về giấy yết thị ở các phố. Bác không nghe gì cả chạy thẳng vào bếp, thấy Ả Chí đang mổ mấy con vịt, hỏi ngay:

- Chú Chí đã biết gì chưa?

- Gì cơ? Ả Chí hỏi rồi ngẩng lên nhìn nói tiếp. À giấy dán à? Biết rồi. Sao?

- Chú tính thế nào? Bác ngồi xuống mổ hộ một con vịt và hỏi thêm.

- Chắc nó làm già để ép buộc các quan ta phải nhượng bộ nó. Nhưng chả rõ các ông lớn nghĩ sao, chả thấy làm gì cả, chỉ có một cách là ngăn giữ dân chúng thôi.

- Chú đã xem tờ yết thị chưa?

- Chưa, mới nghe nói thôi!

- Nó làm như đây là đất riêng của nó. Nó cấm dân chúng đi theo quan An Nam.

- Láo đến thế kia à? Chú Chí cười hỏi. Thế mà các quan ta để yên thì quả là các ngài vô mưu, khiếp nhược… À thế thì bác về khẽ bảo cô Xuyến lại đây, bác bảo cháu Hiền nó đi nó tìm cô ấy lại đây tôi bàn cái này…

- Gì vậy chú? Bác Hai ngập ngừng muốn hỏi cho rõ.

- À chả lúc này, bên nào cũng còn lỏng lẻo cả, nó như quân hồi vô lệnh ấy mà, ta cứ phá một cái chơi, ta làm lấy đà rồi các nơi họ sẽ noi theo, họ làm ngay. Ai mà chả tức kia chứ!

- Tôi cũng nghĩ thế. Được, để tôi đi tìm. Bác Hai nói rồi vui vẻ đứng lên đi liền.

Ả Chí nói với theo:

- Mau lên bác nhé. Mà này cố mà bán hàng cho khéo nhá, mà phải bàn bạc cho bà ấy nghe ra, chứ bỏ cửa hàng bây giờ là có đứa nó chiếm ngay mất đấy.

Bác Hai gật đầu rồi đi ngay tìm cô Xuyến và về nhà giục con đi theo cô Xuyến cùng lên gặp chú Chí. Bác thoáng nghe chú Chí nhờ gọi hộ bọn con gái là bác hiểu ngay ý định của Ả Chí, nên bác cũng để ý rình muốn xé tờ giấy tuyên cáo ở trước nhà. Nhưng một là trong cửa hàng vẫn thúc thắc có khách ra vào, và bọn lính Tây chia phiên nhau nghỉ, lúc nào cũng có đứa ngồi la cà ở ngoài hàng này, hai là nơi cửa hàng bác lộ liễu quá, mà lại rõ rệt một mình không tránh lẩn, đổ lẫn vào đâu được, nên bác cũng thấy sờ sợ, không dám liều xé tờ giấy như cái gai trước mắt kia. Bác cứ lúng túng, lóng ngóng, ra ra, vào vào, không được bình tĩnh vui vẻ như mấy hôm trước. Đến xế trưa, mấy tên lính Tây cầm một tờ giấy yết thị bị xé rách đi với một tên thông ngôn, xồng xộc vào hàng, gọi bác ra hỏi:

- Tại sao các quan tuyên cáo bảo vệ dân, mà lại có kẻ cả gan xé tuyên cáo đi thế? Có phải là do các quan trên cho lệnh không?

Bác Hai giật mình, trông ra ngoài cửa thấy tờ giấy vẫn còn, bình tĩnh hỏi lại:

- Xé ở đâu thế?

- Ở ngay cái đình ngoài kia, tên thông ngôn nói, giữa lối đi lại.

- Đấy là dân họ xé đấy, bác Hai nói thản nhiên. Vì dân đây vốn ghét bọn ông Đồ Phổ Nghĩa dối quan nạt dân, nay quan Tây ra lại bênh ông ta, nên họ tức, họ xé…

Tên thông ngôn xì xồ nói lại cho mấy tên Phú nghe, rồi lại hỏi bác chủ quán:

- Thế dân không ghét bọn quan An Nam hà khắc à?

- Quan nào hà khắc thì dân ghét, và cùng lắm thì dân chống lại, kiện lên trên, bác Hai vẫn nói thản nhiên. Nhưng những quan tốt thì dân ái mộ. Còn người ngoài đến mà nạt dân, giết người như ông Đồ Phổ Nghĩa thì dân họ muốn giết ngay hay đuổi đi cho sớm. Chỉ tại các quan ở đây không cho, ngăn cấm không cho họ làm như thế. Chứ không họ đã tống khứ bọn Đồ Phổ Nghĩa xéo sớm rồi.

Tên thông ngôn giảng giải:

- Nhưng các quan Đại Phú Lãng Sa ra đây để bảo hộ dân kia mà.

- Nào họ có thấy bảo hộ đâu? Bác Hai cũng nói hăng hái hơn. Bảo hộ sao không hỏi đến tội cướp của giết người của bọn Đồ Phổ Nghĩa, mà lại chiếm đóng mất trường thi giữa vào khoa thi, con em dân không thi được, bảo hộ lại đi cấm người dân không được giao thiệp với quan chức người Nam!...

Vừa lúc ấy, một tên lính Sài Gòn ở ngoài chạy xổ vào nói hớt hải:

- Tờ tuyên cáo ở đây mà cũng bị xé à? Quân to gan thật, bắt ngay chủ quản truy cho ra.

Bác Hai vừa thoáng thấy con gái bác đi qua cửa lúc bọn Tây vào, bác hồi hộp lo sợ, nhưng trấn tĩnh được ngay, phân trần với bọn Tây:

- Đấy các ông xem, các ông vừa vào tờ giấy vẫn còn, các ông còn đang ngồi đây hỏi vặn tôi, ấy thế mà tờ giấy đã biến mất. Dân họ tức thì họ có sợ gì đâu. Có các ông làm chứng cho đấy. Không có thì tôi đến bị liên lụy oan.

Thấy mấy tên kia còn ngồi im, hoặc nói chuyện riêng với nhau, bác liền hỏi ngay:

- Tôi hỏi khí không phải, các ông dạy cho tôi hiểu ra nhẽ nhá. Tại sao tôi thấy các ông nói quan lớn chủ tướng của các ông tên là Ngác Nhe, mà ở tờ tuyên cáo lại ký tên là An Nghiệp, hay An Nghiệp là tước phong?

Anh lính Sài Gòn cười nhe răng vàng nói:

- Trong quân ngũ, binh lính chúng tôi gọi là quan ba Gác Nhi Ê, vì tên ngài là Phăng Si Gác Nhi Ê 3 . Còn vì sao lại ký tên là An Nghiệp thì xin cứ hỏi ông thông ngôn này.

Hắn cười khì khì chỉ tay sang người thông ngôn đang nói gì với mấy tên lính Pháp. Anh thông ngôn nghe nói, quay ra giảng:

- An Nghiệp là ở yên, giữ yên cơ nghiệp mà làm ăn. Quan lớn ra đây cốt làm cho dân yên ổn, an cư lạc nghiệp, nên mới lấy tên như vậy.

Bác Hai nói:

- Từ khi ông Đồ Phổ Nghĩa đến đây gây ra lắm chuyện rắc rối, dân không được yên ổn. Vậy muốn cho dân an cư lạc nghiệp, chỉ việc bảo bọn ông Đồ Phổ Nghĩa rút đi, đừng để bọn lính khách, lính Tây nghênh ngang ngoài phố, gây chuyện nữa là được, việc gì phải đặt tên ngụ ý, có tên mà không thực cũng chả ai tin.

Tên thông ngôn cáu gắt:

- Anh ngu bỏ mẹ đi ấy! Nói với anh tức anh ách. Người ta đem ánh văn minh đến mở mang trí óc cho mà chẳng biết gì cả. Đồ con lợn! Ưa nhẹ không ưa, ưa nặng!

Thấy bác ngồi im, hắn huênh hoang nói tiếp:

- Tây nó đến đây, nó không chịu về không đâu nhé. Nơi nào còn ngu tối, nó phải đến khai hóa, mở mày mở mặt cho. Không nghe, nó nện cho ấy chứ. Đấy rồi xem.

Bác Hai bỗng cười gằn hỏi:

- À ra An Nghiệp là như thế đấy à? Ngu tối cái gì mà phải khai hóa kia chứ?

- Nhà cửa bẩn thỉu, đường sá lội lặm, tên thông ngôn nói với vẻ tự đắc khinh miệt, ngay như cái hàng của anh đây không có chỗ nào đáng ghé đít ngồi. Chúng nó khổ lắm, nên chúng nó phải ở đây khai hóa dạy bảo cho làm đường sá khang trang, nhà cao cửa rộng, lầu gác nguy nga, để rồi mới thông thương với ngoại quốc được. Đây là nơi cửa ngõ đi lại, nó phải ở lại mở mang cho đẹp đẽ. Bảo không nghe, nó cứ tự ý phải làm, chứ nó sợ à! Rây vào với nó, nó đánh cho mất xác!

Thấy cãi lý với cái tên ăn phải cùi dìa của bọn Tây này cũng vô ích mà chỉ làm cho hắn thêm thù tức, bác Hai đành gật gật ư hữ cho hắn thích chí để hắn dắt bọn Tây đi ra, trong thâm tâm bác nghĩ đúng là cái kiểu kẻ cướp như Đồ Phổ Nghĩa rồi, tự nhiên bác nghĩ đến cái anh lính đi dán tuyên cáo lúc sáng. Bác tự lẩm bẩm:

- Cái anh này còn khá đây! Mình phải làm thân với cậu ta mới được.

Bác liền chạy vào bếp hỏi con gái xem tình hình ở trên phố ra sao. Cô Hiền nói nhỏ:

- Xé hết cả rồi! Chỉ ở mấy phố đông mình mới phải xé trước. Còn ở các phố khác, dân qua đường họ xé cả. Có người còn gan cuộn cả tờ giấy mang đi…

- Có thấy lính tỉnh à? Bác Hai hỏi.

- Không! Đâu lính còn phải ở cả trong thành giữ thành. Có lẽ đến đánh nhau mất!

- Có tìm được cô Cúc à?

- Có. Chỉ có chị ấy và chị Xuyến mới vào được phố Hàng Buồm, nó ngăn canh từ cửa đền Bạch Mã trở ra. Trên kia thì nó giữ cửa ô Quan Chưởng. Chị Xuyến phải dắt con gái chú Hằng Dụ mới đi lọt đấy.

- Tụi Khách thế nào?

- Tụi nhà giàu nhơn nhơn lắm, bọn chúng đang sửa soạn ăn tiệc ở nhà hội quán. Bọn Khách nghèo thì cũng bán được hàng. Chú Chí, chú Sìn bán cả ở trên phố Hàng Giầy… À này thầy…

Bác đã ra ngoài nhà, không nghe thấy con gọi chỉ ngoái lại dặn con:

- Tao phải ở nhà, không thể chạy lên trên chú Sìn như trước được. Mày nhớ gặp chú Sìn hay chú Chí bảo cố xuống đây tao hỏi nhé. Mấy lại, mày cũng liệu cẩn thận kín đáo, chớ có bộp chộp…

Ở ngoài, có tiếng gọi:

- Ông chủ ơi!

Bác vội chạy ra hỏi:

- Bẩm cái gì ạ?

- Ông bán cho mấy quả chuối, bát bún nào!

- Vâng ạ! Bác trả lời và trông ra thấy người lính đi dán giấy ban sáng.

- Chưa đến giờ nghỉ buổi chiều, người lính nói, nhưng xong việc rồi, ông đội, ông ấy rộng cho đi kiếm gì ăn lửng dạ đã rồi tí nữa về ăn cơm.

Bác Hai lấy quà đưa cho người lính và gạ chuyện làm quen:

- Các ông ra lính cho Tây đều lấy tên Tây cả à? Sao nghe gọi khó nhớ quá.

- Gọi theo số ba ngạch đấy, số thứ tự ghi vào sổ lúc tuyển mộ ấy mà, gọi thế để Tây nó dễ nhớ. Min ván sanh là một nghìn hai mươi nhăm. Gọi tên tiếng ta, nó không nhớ được và đọc cũng sai.

- Thế tên ông là gì? Quê ở đâu?

- Tên tôi là Võ Văn Út, người huyện Tân Phước, tỉnh Biên Hòa. Ông chú tôi ngày trước cũng đi lính ra ngoài này đóng ở Sơn Tây. Sơn Tây có gần đây không?

- Sơn Tây cũng không xa lắm. Đây lên đấy độ một ngày đường. Ông vào lính đã lâu chưa? Có phải học tiếng Tây không?

- Nó bắt học chữ quốc ngữ, mà ba năm rồi, tôi đọc vẫn chưa thông đấy!

- Thưa ông, ba năm mà đã đọc được là chóng đấy chứ.

- Không, chậm đấy chứ, cái chữ quốc ngữ học chóng lắm. Có người chỉ học mười hôm là đọc được, viết được. Có tôi là người nhà quê, nông thôn, chân lấm tay bùn quen, đến lượt bắt phải đi lính thì đi, chứ có thiết gì học, nên chỉ võ vẽ.

- Tôi tưởng họ kén chọn lắm, có ai thực bụng tin theo, họ mới cho đi lính chứ.

- Kén chọn gì đâu. Nó cứ theo sổ đinh cũ của các làng, theo số lính đã khai ở sổ mà bắt. Đằng nào rồi cũng phải đi, có ức cũng đành chịu, ngày trước đi lính cho vua cũng thế, mà bây giờ đi lính cho Tây cũng vậy.

Anh lính bỗng nhìn ra cửa nói:

- Ở ngoài này các ông ghê thật. Tây nó đóng kè kè ngay đấy mà giấy tuyên cáo vừa dán xong là các ông xé ngay tức khắc.

Bác Hai vội vàng chống chế:

- Ấy may lúc nãy có mấy ông Tây và ông thông ngôn làm chứng cho đấy, giá không thì đến phải chịu liên lụy oan. Các ông ấy vừa vào trong nhà thì hãy còn mà một lúc sau, các ông vẫn còn ngồi đấy, tờ giấy đã bị xé mất rồi!

- Không, tôi không dọa gì ông chủ đâu, − anh lính cười nói – tôi nói tình thực đấy chứ, dân chúng họ trăm tay nghìn mắt, họ đã định phá cái gì mà chả được.

- Vâng, vâng… bác Hai nói đỡ ngay. Dân họ tức thì họ phá cũng dễ, muôn người như một, họ cùng làm một lúc, làm gì mà chả nhanh.

Bác Hai ngồi ngẫm nghĩ rồi nói tiếp:

- Dân ở đây họ tức cánh ông Đồ Phổ Nghĩa. Nếu các quan Tây ra đây bắt ông Đồ Phổ Nghĩa phải bồi thường thiệt hại cho dân, hoặc bắt ông ấy lui khỏi đây, thì mọi sự yên ổn, dân còn tức vào đâu nữa.

Anh lính Võ Văn Út bỗng cười sặc sụa:

- Ông chủ thực thà quá. Tây nó không chịu lui đâu, nó không khi nào ra đây lại chịu trở về không. Nó sẽ ở ì đây và bênh vực cả lão Đồ Phổ Nghĩa kia đấy.

- Thế họ không thực tâm điều đình thương thuyết à?

- Nó thực tâm ra ở đây đấy, thương thuyết hay không, nó cũng cứ ở đây. Chiếm Gia Định lục tỉnh rồi là nó lần ra đây đấy.

° ° °

Mấy hôm sau tình thế càng có vẻ khẩn cấp hơn. Bọn Pháp đã cho lính đi tuần từ bờ sông đến cửa ô Đông Hà, quành vào Hàng Buồm, và từ cửa ô Tây Long vào đến trường thi. Bọn lính đi tuần được dịp vào hàng bác Hai ăn quà và trò chuyện. Và bác gợi được tin gì hay cũng lại báo lên cho Ả Chí biết. Trước cái cảnh trắng đen không rõ, có vẻ rối loạn đến nơi, bác cũng thấy trong lòng nao núng, mà bạn bè, thân thích đáng tin cậy thì đều xa vắng cả, không biết hỏi ai, bác đã đắn đo nghĩ đến cách chạy đi như người khác, nhưng Ả Chí vẫn khuyên bác cứ ở lại, chưa nên chạy đi đâu vội. Cứ lằng nhăng như thế. Đến một hôm, anh lính Võ Văn Út lại đem đến cho bác một tờ giấy và nói:

- Xin biếu ông chủ một tờ nhé. Hễ ở ngoài cửa kia, người ta có xé đi mất, thì ông đem ra mà dán vào nhé.

- Giấy gì vậy? Bác hỏi.

- Lại giấy tuyên cáo đấy, Võ Văn Út cười thân mật đáp. Bên cứ dán, bên cứ xé, xem bên nào được nào?

- Lại tuyên cáo! Ông đọc cho tôi nghe nhờ một tí nào.

- Đây chỉ có nguyên chữ nho thôi, tôi chỉ biết lõm bõm dăm ba chữ không đọc được. Anh lính lại cười.

Bác Hai cầm lấy tờ giấy, kéo anh lính đứng gần vào bên trong hỏi khẽ:

- Thế nào? Liệu có đánh nhau không?

- Chả biết được! Anh lính tần ngần nói có vẻ suy nghĩ, chúng tôi thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, bảo làm là làm chứ có biết gì đâu. Nhưng Tây nó đã ra đến đây là nó không đi đâu nữa, và nó không chịu lép vế đâu. Nếu các quan ở đây mà chống lại nó là nó đánh đấy.

- Chết nhỉ! Trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết! Bác Hai thở dài hỏi. Chúng tôi phải chạy trước đi chứ nhỉ?

- Việc quái gì mà phải chạy. Chúng tôi đã đóng ở gần đây rồi, còn ai dám đến đây nữa mà sợ đánh nhau. Vả có đánh nhau thì cũng chóng ấy mà.

Một anh lính nữa chạy vào gọi anh Út, nghe lõm bõm câu chuyện, nói xen vào:

- Có thế nào, ông chủ cứ cho gia đình vào trong trại ở với chúng tôi.

Hai người lính đi rồi, bác ngồi bần thần suy nghĩ, ruột rối như tơ vò, đang định đợi con gái về hỏi rõ thêm tình hình và bàn cách tiến thoái thế nào, thì chợt ở bên ngoài một người bước vào cùng với tiếng nói, giọng trọ trẹ lơ lớ miền trong:

- Ông chủ ngơi đá? Ông bán cho tui bát nác.

Bác Hai trông ra, nhìn kỹ, vội reo lên nói tíu tít:

- A! Cậu Ba! Gớm trông cậu ăn mặc khác hẳn đi mà lại bắt chước giọng đường trong. Tôi ngờ ngợ vì không đúng giọng nên nhận ra ngay. Cậu ở đâu về thế?

Ấm Phách Tự Tháp nhanh nhẹn bước vào ngồi trên cái chõng tre bên bác Hai và nói từ tốn.

- Vừa được thả về đây! Các quan sợ bọn văn hội xui dân làm bậy phá rối cuộc thương thuyết, nên các ngài mời tất cả văn hội lại cho đi bình văn, đọc sách ở tận Ứng Hóa. Có gì lạ không?

- Hình như thương thuyết không xong. Bác Hai đáp. Bọn Tây nó yết thị cấm dân giao thiệp với quan. Mọi quyền đều phải do nó cả. Thế có láo không? Ta đã xé đi hết. Hôm nay nó lại cho dán tờ này đây, cậu đọc cho tôi nghe tí.

Bác Hai với tờ giấy cuộn tròn để trên yên thư cho cậu ấm Phách mở ra và nói tiếp:

- Nó cũng ấn son, chữ triện hẳn hoi ra vẻ lắm, chứ chơi đâu, nó lập tâm tư trước nên mới có những thứ này!

Cậu Ba Tự Tháp, đưa mắt nhìn qua một lượt rồi lên tiếng đọc:

“Từ ngày hôm nay, 15 tháng 11 năm 1873, sông Cái được mở tự do từ bể lên đến Vân Nam. Các tàu Phú Lãng Sa, Y Pha Nho, Trung Quốc, các nước Tây dương và Á Đông đều được tự do xuôi ngược.

Mở cửa Hải Cảng, Ninh Hải và Thái Bình.

Thuế thương chính ấn định thống nhất là một trăm phần lấy thuế hai phần.

Hàng hóa đi ngang qua Bắc kỳ lên Vân Nam chỉ đóng thuế một trăm phần lấy một phần.

Hàng hóa của nước Đại Phú Lãng Sa tải từ Sài Gòn lên Vân Nam chỉ phải nộp thuế một nghìn phần lấy năm phần thôi, và đem vào bán ở Bắc kỳ phải nộp thuế một trăm phần lấy một.

Thương nhân các nước vào Bắc kỳ chỉ tùy thuộc các quan Đại Phú, hoàn toàn không thuộc quyền quan lại An Nam.

Các thương nhân ngoại quốc được tự do mua đất làm nhà ở Hà Nội.

Hủy bỏ mọi quyền thương chính của triều đình An Nam ở toàn hạt Bắc kỳ…”

Cậu Ba đọc xong, nhìn đến niên hiệu, chức tước tên ký và dấu son, hỏi bâng quơ:

- Tên thằng này là An Nghiệp à?

- Nó lấy tên chữ nho cho ra vẻ thân dân, bác Hai nói, chứ tên thật nó là Ngác Nhe kia đấy. Thế nào, cậu tính đến phải đánh nhau chứ. Liệu mình có đánh nó không? Đánh cho nó chết nhe răng ra, chứ không thì tức lắm.

Cậu ấm Ba cuộn lại tờ giấy quẳng lên giường, nói thủng thẳng:

- Thương thuyết không xong, có lẽ bây giờ các quan mới biết rõ cái dã tâm của tụi Tây, nên mới chịu thả cánh văn thân ra. Có lẽ đến phải đánh nhau. Hai cụ Cử và cụ Mền định lại ra cả vùng dưới kia tụ tập anh em đánh Tây, nếu chúng nó làm quá…

- Gia đình các cụ có chạy đi không?

- Có, cũng thu xếp cho ra một thể.

- Tôi đây, tôi cũng đang đắn đo định chạy, cậu nghĩ hộ xem có nên không?

Cậu Ba không ngần ngại gì nói ngay:

- Bác không nên chạy. Sở dĩ vừa ra một cái, tôi phải đến đây ngay là để bàn với bác như thế. Bác phải ở lại đây để làm cái trạm bắt mối với chú Khách Dụ Hưng Lâu và báo tin cho anh em bên ngoài. Vả cái chỗ này bây giờ đắc địa lắm, ở ngay sát nách bọn Tây, biết được nhiều tin tức… Bác Kim Cổ bảo tôi ra ngay gặp bác bảo bác cố mà ở lại giữ lấy cửa hàng, không có đứa khác nó ra nó mở tranh mất!

- Ngộ nhỡ đánh nhau thật, Tây nó hung hãn nó giết bừa đi thì sao? Bác Hai hỏi. Nhà tôi mấy hôm nay đâm sợ chỉ nói ra nói vào, đòi rút về nhà quê.

- Không sợ! Cậu Ba nói vẫn một giọng thong thả nhấn mạnh từng tiếng để thuyết phục. Đây ở ngay khu vực nó, nó đã quen biết rồi, thế tất nó phải trọng dụng cửa hàng của bác. Còn bác gái có đòi về cứ để bác ấy với các cháu về nhà quê, nhờ một anh trai tráng nào đến bán hàng giúp bác. Thế là tốt nhất.

Bác Hai ngẫm nghĩ cho là phải, nhưng lại thấy khó tìm người, lẩm bẩm một mình:

- Biết tìm ai bây giờ! Ai người ta dại đâu đâm quàng vào bụi rậm kia chứ mà mong!

Bác ngẩng lên nhìn cậu Ba, nói tiếp:

- Có thằng cháu Tín nhà tôi, để tôi cho gọi nó lên xem nó có ở giúp tôi được không, không thì tôi nhờ nó tìm hộ ở dưới ấy xem có ai không, chứ ở trên này thì khó lắm.

- Bác nghĩ xem ở Trừng Thanh có ai không?

- Có đấy, nhưng cũng khó tin, vả không biết họ có nghe theo mình không?

- Được bác cứ thử xem, nếu cần nói rõ cho họ biết, bác cứ bảo, tôi và cụ Cử sẽ thân đến gặp họ, nói cho họ nghe ra.

- Vâng được thế thì tốt quá. Để cháu Hiền nó về, tôi bảo cháu đi ngay.

- Cháu Hiền đi đâu nhỉ?

- Cháu đi chợ và vào gặp chú Chí một thể!

- Cô Xuyến độ này thế nào?

- Can trường, lắm mưu trí lắm. Xé những tờ giấy của thằng Ngác Nhe hôm nọ là nhờ có cô ấy và cô Cúc trên Vẽ đấy! Hôm nay cô ấy đi vắng, không biết cái của nợ này có rước đi được nhanh không?

Bác Hai vừa nói vừa trỏ vào tờ giấy tuyên cáo để trên giường.

- Cô ấy đi đâu? Cậu Ba hỏi.

- Cô ấy đưa cụ Bá lánh đi ít lâu, sợ để ở ngoài này bọn Khách bang trưởng nó khéo dỗ ngon dỗ ngọt cụ ấy đi với Tây mất.

Cậu Ba cười vui vẻ:

- Lòng cô ấy tốt. Thế cũng hay. Nhưng không biết cô ấy có chọi nổi mưu mô của cụ ấy không, không thì lại trúng kế điệu hổ ly sơn của cụ ấy mất.

Ngừng một lát, cậu nói tiếp, như tin ở sức mình hơn.

- Hễ tìm được anh Tín lên, bác đưa anh ấy lại chơi đằng tôi, tôi nói chuyện riêng với anh ấy nhé. Mà cứ tìm cả cậu nào ở Hà Thanh hay Yên Trung xem. Họ ở ngay đây càng dễ. Nhờ được hai ba người cùng đến giúp việc càng thêm tốt cho mình.

Bác Hai lắc đầu có vẻ ngần ngại:

- Ấy tôi thì tôi sợ hai ba người nhỡ lộ chuyện thì khốn!

Cậu Ba đứng lên gật gật đầu tỏ vẻ đồng ý:

- Thì hẵng hỏi riêng anh Tín thôi vậy.

--------------------------------

1

Không ở địa vị thì không bàn công việc.

2

Mến nghĩa thương yêu tài nhau.

3

Mới gặp nhau một lần như quen nhau từ đã lâu.

Chương VII

Mờ sáng ngày rằm tháng mười. Tiết trời lạnh, nhưng như lệ thường, bác Phúc đã dậy, đang đun nước uống. Thằng cháu Tín với một anh bạn của nó còn đang ngủ ở nhà trên. Bỗng có một tiếng nổ lớn, rồi đì đẹt những tiếng nổ nhỏ tiếp theo, bác vội dập lửa lại, chạy ra sân lắng tai nghe. Tín cũng ở trên nhà chạy xuống sân sau gọi hốt hoảng:

- Chú ơi! Đánh nhau rồi! Chú ạ!

Bác không nói gì, vẫn đứng im nghe. Xa xa vẳng tiếng ồn ào, thỉnh thoảng lại xen tiếng súng nổ, ngoài đường Hàng Khay, tiếng chân người chạy thình thịch. Anh Tín nói ngay:

- Nó đánh rồi! Cháu về đây!

Thế là anh dụi mắt chạy vào gọi bạn rồi mở cửa chạy vụt ra. Bác chạy theo ra cửa gọi với:

- Khoan đã nào! Xem có thực không đã! Mấy hôm nay chả vẫn đì đẹt như thế đấy à!

Nhưng làm như không nghe thấy gì cả. Tín và bạn cứ chạy miết trên đường Hàng Bài rồi khuất hẳn. Ngoài phố vắng vẻ. Lâu lâu mới lại thấy có người hớt hải từ phía trên Vũ Thạch chạy xuống, Bác hỏi:

- Gì vậy?

- Tây nó đánh thành rồi! Người ấy nói nhát gừng rồi vượt qua.

Các nhà bên phố Hàng Khay vẫn đóng im ỉm. Bác Phúc có một mình cũng đành đóng chặt cửa, trở vào bếp, thổi lửa bùng lên đun nước, trong bụng cũng nóng bừng như lửa đốt, bối rối, bực tức lo buồn lẫn lộn. Sao mình lại không đánh nó trước? Sao lại không ngăn cản từ khi nó mới đến? Sao lại để nó kéo quân được vào tận thành nó đánh? Liệu trong thành, quân lính có giữ được không? Các văn thân, văn hội đâu? Sao không đem quân ra cùng đánh? Nó mà vào được thành, có thể cố thủ, thì rầy rà, thêm khó khăn ra, như nó đóng đinh vào giữa trái tim, các quan chạy đi đâu? Bác mải suy nghĩ tự hỏi lan man, không nhìn đến bếp, nước đã sôi sùng sục dào tắt lửa. Bác cời gọn bếp lại đứng lên, đi lên trên nhà lấy cái bình tích sứ đem xuống, rót lấy một bình đem lên ủ kỹ cho nóng. Bác loay hoay một mình dọn dẹp ở trong nhà, xếp gọn đồ đạc, rồi đi đi lại lại một mình, đợi chờ, nghe ngóng. Bẵng đi một lúc đã lâu lâu không thấy thêm tiếng động gì nữa, ngoài đường hình như có tiếng chân người đi và văng vẳng có tiếng người láo quáo vẳng tới. Bác Hai bỗng tự hỏi:

- Quái? Không phải đánh nhau à? Sao đã im thế?

Bác vội hé cửa, lách ra ngoài ngó trông. Phía đầu hồ bên trên làng Trừng Thanh, từ lối ô Hàng Cau đi vào, một toán người trông như một toán lính đang bước đều đặn đi vào đường Cầu Gỗ. Ở dưới này, trên đường làng Cựu Lâu bên trước khu Tràng Tiền cũng thấp thoáng bóng người đi lại. Trong sân đình Bà Chúa, thôn Yên Trường, hình như cũng có người đang thập thò, nấp rình cái gì. Lạ nhỉ! Bác đương cố ức đoán tình hình xem sao, mắt còn mải nhìn về phía Yên Trường, thì ba người lính, đội nón dấu chóp đồng hẳn hoi, xịch đến làm bác giật nẩy mình. Ba người lính, nhưng mặc quần áo dạ vàng, giống như quân lính của Tây đóng ở trường thi, khoác súng và cầm dao mã tấu ra vẻ oai vệ. Tên khoác súng hỏi ra vẻ hách dịch bằng tiếng giọng Bắc rõ ràng:

- Không mở cửa bán hàng, còn thập thò nhìn cái gì?

Một tên giở một cuộn giấy ra lấy một tờ cầm căng cho tên thứ ba quệt hồ vào, rồi đem dán lên vách cửa nhà bác Phúc. Bác hỏi:

- Giấy gì vậy, các ông?

Tên khoác súng nói:

- Đọc đấy thì biết, giấy quan Tây chiêu an 1 đấy!

- Sao? Các quan lấy thành rồi à? Bác hỏi tỏ vẻ sửng sốt, sợ sệt.

- Mất mẹ nó thành rồi còn gì, đánh có dập bã giầu bắt gọn cả một lô, một lốc quan lớn, quan nhỏ…

Tên lính dán xong tờ giấy, ba đứa kéo đi ngay. Bác cũng không dám hỏi gì thêm, trong khi thằng khoác súng còn ngoái lại dọa:

- Phải trông coi tờ giấy đấy, hễ rách hay kẻ nào xé đi là cứ anh mà truy là ra tất!

Căm tức, bác chạy vụt vào đóng sập cửa lại, không thèm nhìn theo. Bác đi lục soát khắp trong buồng ngoài nhà xem có thứ gì gòn gọn, bỏ vào khăn gói gói lại một gói, để đem về dưới làng một thể, định khóa cửa hàng lại, bỏ mặc đấy ít lâu. Gói xong, bác lại mở cửa bước ra hè, mới nhớ đến tờ yết thị, bác đến gần ngắm nghía và cố đọc. Cái tờ giấy này cũng kiểu như hai tờ trước đây, nhưng hơi khác là một bên có chữ Tây viết ngang có dấu tròn màu xanh, một bên là chữ nho viết dọc có dấu vuông in son đỏ. Bác đương tần ngần lẩm nhẩm đọc thì một người trong thôn Vũ Thạch cũng vừa đi ra, xúm vào giục bác:

- Nó dán cái gì đấy? Đọc lên cho nghe một tí xem nào.

Một người ở trên thông Yên Trường vừa bị ba tên lính lúc nãy đuổi chạy xuống, thấy hai người đang đứng bên tờ giấy, mắng ngay:

- Ngu thế! Đọc làm chó gì chữ nghĩa của chúng nó!

Người đàn ông ở thôn Vũ Thạch cứ điềm nhiên:

- Cứ đọc chứ. Đọc xem nó nói gì, giọng lưỡi nó thế nào, mà nó viết chữ “bố cáo” to tướng thế kia.

Bác Phúc không nói gì, ề à đọc:

“Bản quan ra đây cốt ý mở việc buôn bán.

Nguyễn Tri Phương và Phó vương Bùi Thức Kiên làm sai thiện ý của bản quan, không chịu hợp tác. Họ đào hào, xây pháo đài, đầu độc, gọi quân Cờ đen về quấy rối.

Vì vậy, bản quan phải đánh thành, bắt bọn quan ấy giải về Sài Gòn.

Hỡi sỹ, nông, công, thương, các người đều phải yên ổn làm ăn!

Các hành động cứng rắn đối với Nguyễn Tri Phương là sự vạn bất đắc dĩ, là nghĩa vụ đối với dân, là phận sự bảo vệ dân.

Các quan chức khác sẽ được cử ra cai trị dân.

Vậy bố cáo cho mọi người biết: Ai trái lệnh, quấy rối trật tự sẽ bị trị theo quân luật. Kẻ nào ám sát, đốt nhà, hay phụ họa theo, đều bị kết án tử hình!

Nay bố cáo.

Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm giáng sinh 1873.

Đại úy Hải quân

Đặc phái viên toàn quyền nước Đại Phú Lãng Sa

An Nghiệp ký”.

Bác đọc xong, quay lại hỏi ông bạn trong xóm.

- Nghe rõ chửa?

- Rõ rồi, tên ký là gì? Là An Nghiệp à? Ông kia hỏi và ghé sát mắt vào nhìn.

- Phải! Bác đáp, An Nghiệp là ý mong cho dân an cư lạc nghiệp. Bác đã hiểu giọng lưỡi người ta chưa?

- Thưa hiểu lắm rồi ạ!

Ông kia vừa nói vừa đứng lại gần, đưa tay xé soạt tờ giấy, chụm hai tay xé vụn ra, vứt tung xuống đất, rứt nốt mấy đầu giấy còn bám trên vách, rồi ung dung bước xuống đường, đi thanh thả, từ tốn như người đi chơi. Bác Hai sửng sốt cuống lên, nửa thích, nửa sợ, vội bước vào nhà, đóng sập cửa lại, đi tìm chìa khóa và gói chặt khăn gói, rồi đứng thừ suy nghĩ, nên đi ra lúc này, rồi phó mặc cái cơ nghiệp này với giời, hay là hãy cứ ở đây, đi ra nhặt nhạnh những mảnh giấy ngoài kia đem đốt cho phi tang, rồi nằm lì đây nghe ngóng tình hình. Bác đương ngổn ngang trăm mối bên lòng, chưa tìm được lối nào ổn thỏa, chợt có tiếng đập cửa sầm sầm gọi:

- Ông chủ ôi! Có nhà không? Trốn rồi à?

Bác cứ ngồi im. Hình như có người nhìn ngó vào, rồi lại có tiếng đập, tiếng gọi và xưng tên:

- Ông chủ ơi! Út đây! Võ Văn Út đây!

À! Ông con Út Gia Định, bác yên trí mở cửa ra nhìn, reo lên chào. Võ Văn Út hỏi rối rít:

- Sợ à? Ông không dám mở cửa bán hàng à? Tôi đã tưởng ông chạy đâu rồi. Xong cả rồi, chả việc gì mà sợ…

Bác vẫn chưa nói gì. Thấy ở ngoài có tiếng xôn xao xa xa, anh lính người Sài Gòn dắt bác ra ngoài cửa và bảo:

- Ra mà xem họ đưa các quan xuống tàu, đi qua đây kia kìa.

- Bắt hết cả à? Bác hỏi.

- Ừ, trừ có ông gì to lắm bị đạn còn để ở trong ấy.

- Thế định đưa các ông ấy đi đâu?

- Giải các ông ấy vào Sài Gòn, giao cho Súy phủ.

Anh lính thấy bác vẫn có vẻ băn khoăn lo lắng, cứ đưa mắt nhìn quanh, anh ngơ ngác trông theo, thấy có mảnh giấy ở dưới hè, anh chợt hiểu, vội chỉ lên phía trường thi bảo bác và mấy anh lính bạn:

- Kia kìa cả đoàn đang đi đến đấy.

Rồi anh cúi xuống nhặt nhanh hết những mảnh giấy vụn, vê viên bỏ vào túi. Anh ngẩng lên nói với tất cả:

- Toàn quan to cả, nên phải mời các ngài xuống tàu cho nó yên ổn hơn ở trên cạn. Chúng tôi phải ra đây canh dẹp đường đấy. Kìa kìa, sắp đến kia kìa!

Bác Hai thấy anh Út đã nhặt hết mảnh tờ yết thị, càng vững tâm tin cậy ở anh, định tâm sẽ hỏi anh nhiều chuyện, và yên trí nhìn theo tay anh chỉ. Từ phía ngã tư Vũ Thạch đi xuống một đạo quân xếp hàng hai, đội mũ cát trắng, quần áo dạ xám, chân quấn sà cạp đen đi giầy gót đinh sắt, cồm cộp hùng hổ đi xuống, đều đặn nghiêm trang, súng cắm lưỡi lê vác trên vai tua tủa nhấp nhô loang loáng lên xuống theo nhịp bước. Đạo quân đã tiến tới gần, sắp qua ngã tư Hàng Khay và con đường Thập Lý. Ở giữa đoàn quân lẫn vào mấy người Nam búi tó củ hành chít khăn nhiễu chữ nhân, quần trắng ngà ngà, mặc áo kép dài nền nhiễu, có người mặc áo the cặp, đi giầy vải Tàu, lộn xộn lên xuống không ra hàng lối gì; sau đó lại một toán lính đi hàng đôi nữa. Bác Hai buột miệng nói:

- Trông thiểu não quá! Có lẽ chưa bao giờ các ông ấy đi bộ xa như thế!

Rồi bác lẩm bẩm đếm khi đạo quân đã đi qua trước mặt:

- Một, hai ba, bốn, năm, sáu… À có cả một vị đội mũ cánh chuồn nữa! Các quan không đi lọng à?

Bác Hai hỏi. Anh lính Sài Gòn đáp:

- Đã đánh mất mẹ nó thành rồi, đã bị bắt làm tù binh, còn tàn lọng gì nữa. Đi bộ thế là còn tốt, đáng lẽ còn phải trói tay, lột giầy, bắt đi chân không kia đấy! Ai bảo các ông dại, các ông chết!... Kêu mà ai thương, ông chủ nhỉ.

- Thế còn lính trong thành đâu? Chết hết hay đầu hàng, bác Hai hỏi.

- Họ tản mát lẩn vào với dân cả. Còn một ít ở lại hàng phục.

Đạo quân đi qua ngã tư tiến hết vào làng Cựu Lâu rồi, anh lính quay lại bảo bác Hai:

- Thôi xong rồi! Các quan Nam được đưa xuống tàu hết rồi, mọi việc đều trở lại bình tĩnh như thường rồi, ông chủ vào mở cửa ra, đi tìm kiếm xem có quà cáp gì bán cho chúng tôi…

Bác Hai quay trở vào, cầm tay anh Út và mời hai người lính kia:

- Mời ba ông vào xơi nước. Nước nóng và còn mấy nải chuối chín hôm qua còn để lại. Các ông xơi tạm. Rồi đợi im im xem sao, tôi mới mò đi mua được chứ.

Bác mở to cửa, kéo anh Út vào. Hai người kia vẫn khoác súng đứng ngoài hiên nói chõ vào:

- Chả uống nước, thôi, đi đi, để đợi ông có mua được gì ăn, chúng tôi mới vào.

Bác Hai ghé tai anh Út hỏi khẽ:

- Quân lính triều đình không đánh à? Sao mà nhanh thế?

Anh Út không kịp nói, lắc đầu, rồi khoác lại súng chạy theo hai người bạn. Bác bước ra cửa đứng bần thần trông theo ba người nhấp nhô đi lên phía đình Yên Trường. Một sự biến xảy ra nhanh chóng quá, ngoài vòng liệu định của bác. Không ngờ bọn quan tỉnh lại đớn hèn đến thế! Có bao nhiêu là quân lính, khí giới ở trong thành, thế mà lại thua mau nhục nhã đến như thế. Có lẽ họ không đánh chác gì chăng! Họ mở cửa đón Tây vào, rồi bị Tây nó lừa à? Hay là họ nộp thành cho Tây, rồi giả vờ là bị giải đi, để được đưa vào Sài Gòn sống ung dung với số tiền bán nước. Hay là bị bọn Tây lừa dối, họ cả tin, mở cửa cho chúng nó vào họp bàn, rồi chúng nó xuất kỳ bất ý đánh bắt gọn! Dù sao đi nữa thì cũng đáng giận! Lại nữa, các ông văn thân giờ đâu cả, không thấy bóng một ông nào mò về đây mà nhìn tận mắt, mó tận tay, chứ chạy ra tít mãi ngoài xa, rồi trông gà ra cuốc cả, thì rồi đến mất hết cả nước, có lẽ các ông cũng chưa biết. Bác đang ngồi ở ngoài hiên đăm đăm nhìn ra đằng trước mặt như ngồi thiền định, đắm đuối theo đuổi ý nghĩ vào tận cõi hư vô, như không biết gì đến mọi việc ở đời này nữa, đến nỗi một đoàn lính Tây vừa đi áp giải các quan Nam xuống tàu trở về, qua ngã tư vượt lên, bác đều không biết. Một anh thông ngôn với ba người lính Tây vẫn vào hàng bác mấy hôm trước, dừng lại ngay trước mặt làm bác giật mình trở về hiện tại, bác luống cuống ngập ngừng, chân trong cửa, chân ngoài cửa, không dám bước hẳn vào. Tên thông ngôn hỏi dồn:

- Sao không mở cửa? Sao không bán hàng? Sao lại đứng ì ra ở đây? Sao không ra chào đón các quan?

Bác điềm nhiên trả lời:

- Vì phố xá vắng cả, không mua được gì bán, nên không mở cửa.

- Bác cứ mở cửa bán hàng như thường, không sợ gì cả. Đi vào, mở toang cửa ra, có trái bánh chi đem đây bán cho các quan.

Hắn đẩy bác vào, kéo cả mấy tên lính Tây vào nhà, hắn tự đi mở rộng cửa ra, rồi ngồi xuống cái chõng đối diện với bọn lính, nói cười xì xồ vui vẻ lắm. Bác Hai xách cái khăn gói để vào buồng, lấy ra một nải chuối tiêu lớn đặt lên cái đĩa bưng ra, tên thông ngôn đắc ý nói với bác:

- Bác quán ạ! Bác đã thấy rõ chưa! Tôi nói có sai đâu. Bác cứ sửa soạn mở cửa hàng cho to ra. Quân lính Phú Lãng Sa sẽ còn đến đây nhiều nữa. Bác tha hồ mà buôn bán phát tài! Rồi phải làm nhà tây bằng gạch kia chứ!

Thấy bác đứng im tựa cột, hắn kéo bác ngồi xuống chõng giảng thêm:

- Đấy bác xem, bọn Phú nó đánh có một lúc mà cái thành kiên cố là thế đã tơi bời, tan tác! Bọn quan tỉnh bị bắt đem xuống tàu hết. Nguyễn Tri Phương bị thương nặng. Riêng Tổng đốc Bùi Thức Kiên chạy trốn, còn đang cho đi lùng, thế nào rồi cũng tóm cổ được. Chỉ trong một tiếng đồng hồ đã xong đâu vào đấy cả. Đã có đội lính tuần cảnh người Bắc kỳ, người tông ki noa 2 này, đi tuần khắp phố, dân chúng làm ăn yên ổn, người người đi lại lại sắp đông nườm nượp bây giờ. Đấy có phải là người Phú đến là cốt bảo hộ dân bình an vô sự không?

Bác tò mò hỏi:

- Lính ở đâu mà biên thúc 3 nhanh thế? Có phải lính của triều đình ở trong thành?

- Lính mới chứ! Hắn hùng hổ nói. Bọn kia chạy tan tác cả, còn một số hẳn bị giam ở trong trại ấy chứ. Đây là lính người Bắc kỳ. Các quan Phú giúp cho lập riêng một nước Bắc kỳ. Các quan còn đương cắt cử đủ quan chức mới của nước Bắc kỳ để cai trị dân. Rõ ràng ngoài sức mạnh của Phú, còn có giời giúp cho dân ở đây, mọi người nghe theo, mới nhanh được như thế chứ!

Bác hỏi thêm rụt rè:

- Có đủ các quan Tổng đốc, Tuần phủ, Án sát à? Ai bổ? Người Sài Gòn, Gia Định ra à?

Tên thông ngôn gắt:

- Bác ngu bỏ mẹ đi ấy! Người ở đây, người của Bắc kỳ mới làm quan của nước Bắc kỳ chứ. Ở Sài Gòn chúng tôi có người nào ra đây cũng chỉ là giúp đỡ giao thiệp lúc đầu thôi.

Bác Hai hỏi hóm hỉnh để biết rõ những ai đã làm cho giặc:

- Thế sao chưa công bố cho dân biết? Ông có nhớ tên những vị nào xin nói rõ tính danh quan tước để tôi đi biến báo bà con thêm phần tin cậy.

Tên thông ngôn xì xồ nói với mấy tên Tây, rồi quay ra gật gù nói:

- Toàn người Hà Nội cả. Tôi không biết hết. Đâu cũng mới có Bố chánh, Án sát, Đề đốc, Lãnh binh. Còn Tổng đốc, Tuần phủ phải đợi mời những vị nào có danh vọng lớn xứng đáng nhất. Nhưng rồi ngày một ngày hai, các quan trọng nhậm có việc phân xử cho dân, dân khắc biết hết… Toàn là những bậc có chức sắc, danh vọng cả…

- Vậy bây giờ mọi quyền vẫn thuộc các quan Tây chứ?

- Tây người ta chỉ nắm đại cương buôn bán thôi. Về dân sự đã giao cả cho quan Nam, có quan Đề đốc Phạm Quang Diệu đảm nhiệm…

Bác hỏi thêm:

- Thế huyện Thọ này vị quan nào trọng nhậm?

- Đâu cũng vẫn giao cho một vị nào cũ ở đây ấy.

Hắn đứng lên, cùng với mấy tên Phú đi ra, còn nói thêm:

- Thôi chúng tôi vội đi. Yên ổn cả rồi. Cứ mở cửa bán hàng, rồi chúng tôi giúp đỡ, tha hồ mà có lợi!

- Vâng, đợi im ắng hẳn đã chứ. Còn phải có hàng họ, mới bán chứ. Mai, mời các ông ra chơi.

Bác chào, đợi cho bọn kia đi khỏi, lại đóng cửa cẩn thận, đi vào buộc lại khăn gói, định đi về dưới làng. Bác vào bếp hâm nóng ấm nước chè, rót một bát nước nóng uống, ngồi vê viên điếu thuốc lào to hút một hơi sòng sọc, rồi há mồm nhả khói cuồn cuộn, tựa lưng vào cột bếp suy nghĩ. Tính bác nghiện thuốc lào, nhưng mỗi ngày chỉ hút độ dăm bẩy điếu. Khi buồn thì đến cả ngày bác không hút điếu nào. Và khi nào có việc gì suy nghĩ, bác thường vê những điếu to bằng quả táo đặt vào điếu cầy, kéo một hơi dài cho say đứ đừ, rồi sau tỉnh ra mới nghĩ ngợi. Lần này tỉnh thuốc rồi, bác tự hỏi ngay:

- Quái nhỉ, người Hà Nội. Diệu nào nhỉ? Quan Đề đốc Phạm Quang Diệu… Toàn là những người có chức sắc danh vọng cả. Những ai thế nhỉ? Hay là lại chính là bọn các quan ngăn cấm không cho dân đánh Tây? Hay là các ông quan nhỏ? Có lẽ vì thế mà họ không đánh. À Phạm Quang Diệu, có lẽ là Đội Diệu ở trạm Hà Nội do các quan tỉnh sai đi tìm lão cố Phước ở dưới Sở kiện lên làm thông ngôn cho các quan chăng? Đúng rồi chỉ có thằng ấy đi đạo thì chúng nó mới tin, cho nắm hết mọi quyền tuần phòng ở cái nước Bắc kỳ này để chống lại triều đình.

Bác bỗng bật lên thành tiếng chửi:

- Mẹ kiếp! Đi cướp nước mà còn ngu! Nó tưởng tôn người ta lên là cái nước Bắc kỳ là người ta theo nó đấy! Cùng một ông cha, cùng một tiếng nói dễ thường người ta chịu đi theo bọn khác giống ngôn ngữ bất đồng để đi cướp bóc phản dân hại nước à?

Bác đứng lên đi đến chạn bát lục xem có còn cơm nguội không ăn cào quấy mấy miếng định rồi khóa chặt cửa đi về dưới làng. Nhưng đang vét nồi thì nghe thấy tiếng con gái gọi cửa, bác vội chạy ra mở. Cô Hiền lách vào, đóng sập ngay cửa lại và khẽ nói:

- Bu con bảo thầy đi về!

Rồi cô vừa thở, vừa nói:

- Thấy anh Tín chạy về, con sốt ruột quá, nghe im im một cái, con chạy đi ngay. Mấy lại ngoài đường cũng có người đi…

Bác Phúc nói:

- Tao cũng đang định khóa cửa về đây.

Rồi bác lại đắn đo nói tiếp:

- Nhưng này, con lên hiệu Dụ Hưng hỏi xem chú Chí thế nào? À, hay là để tao cùng đi một thể. Phải đấy, rồi tí nữa cùng về.

Bác cùng với con gái đi cài chặt các cửa ngõ, khóa cửa buồng rồi cùng bước ra ngoài hè, bác khép cửa, móc khóa sắt vào đanh khuy khóa lại. Hai bố con bước xuống đường, đi ung dung như người đi chơi, tay bác cầm cái dây buộc chìa khóa vung lên thành cái vòng tròn quay tít ra vẻ người vô tư lự. Đường vắng vẻ, trên thôn Yên Trường, mấy người đang vo gạo rửa rau ở cái cầu tre bắc ra hồ. Một người đứng lên hai tay vẩy rổ rau, rồi bước lên bờ hỏi:

- Hai bố con đi đâu liều thế?

- Sợ bây giờ mới dám đi làm bữa kia à? Bác Phúc hỏi.

- Làm bữa trưa đấy chứ, người đàn ông đang vo gạo nói. Ngồi ru rú ở nhà sốt ruột, từ sáng đến giờ đã sắp nốc hai bữa đấy chứ. Sửa soạn cơm trưa đây. Đi đâu đấy?

- Lên chợ trên xem có cá mú gì không? Bác Hai nói.

- Có quạ ở chợ ấy!

- Có chúng nó canh ở ngã tư cửa ô vào kia kìa, ông cầm rổ rau vừa rửa đã đi được mấy bước còn đứng lại nói. Đừng lên nữa! Ở đâu ra toàn bọn lính người mình cả, mà nó khám xét đểu giả lắm đấy.

Cái ông đang vo gạo nói thêm vào:

- Ở phía dưới nó canh ở cửa ô Long Tường Tràng Tiền đấy. Về đi, xem có còn gì lục ra mà ăn vậy. Rồi đóng chặt cửa ngồi trong nhà mà nghe ngóng. Con gái mà đi lên mạn trên ấy bây giờ không tiện đâu!

Hai bố con đành đứng lại đắn đo chực gợi nói mấy câu nữa, nhưng hai người kia đã ba chân, bốn cẳng đi tót về rồi, bố con cũng phải vội vàng trở về. Qua nhà nhìn ngắm thấy đóng khóa có vẻ cẩn thận, bác Hai nghĩ bụng có thể yên trí về dưới làng được, liền mở khóa vào lấy khăn gói và xếp một gánh những thứ lặt vặt cho con gánh về một thể. Đóng khóa lại đâu vào đấy cẩn thận rồi, hai bố con lại ung dung như người đi chợ về qua phố Hàng Bài vắng vẻ. Nhưng vừa đến đầu chợ Hàng Bài một toán năm người đã đứng lố nhố ngang đường quát:

- Đứng lại! Ăn cắp phải?

Một tên giữ lấy gánh của cô Hiền, một tên giằng lấy khăn gói, mặc cho bác nói:

- Của tôi! Nhà tôi ở chỗ góc hồ kia, tôi về dưới làng!

Một thằng khoác súng nghênh ngang, cầm lưỡi lê chỉ vào mặt bác nói:

- Im ngay! Để tất cả đấy! Đi trở lại!

Trong khi một thằng khác xách ngay nải chuối tiêu ra bẻ luôn một quả ăn, nhồm nhoàm nói:

- Có tiền, có quần áo, chúng mày ạ!

Bác Hai tức tối cãi:

- Của tôi, các ông không được lấy của tôi như vậy!

Một thằng phá ra cười rũ rượi:

- Của mày à? Các quan, các lính của mày còn vào nhà người ta mà bạch đoạt ấy nghe không! Đây là chúng tao chỉ giữ lại những của khả nghi ở ngoài đường. Ai làm chứng cho mày đây là của mày?

- Cút ngay trở lại, không có lôi thôi!

Một bà thập thò ở trong một cái nhà gianh gần đấy nhận ra bố con bác Phúc, chạy ra nói khẩn khoản:

- Xin các ông, ông Phúc bán hàng ở đầu phố kia kìa đấy mà, các ông để cho bố con ông ấy đi.

Tên khoác súng bỏ lưỡi lê xuống, vỗ tay đánh đét một cái vào báng súng, nói sừng sộ với bà kia:

- Cút ngay! Không ông bắn bỏ mẹ bây giờ!

- Bắn ngay đi xem nào! Bà kia sấn lại nói. Bà con láng giềng lương thiện cả, tôi ra tôi nhận, có mọi người ở đây đều biết.

Năm đứa cùng xúm lại dọa:

- Xéo tất đi! Thế này còn là tử tế đấy. Đáng lẽ chúng ông còn bắt giữ con bé này nữa! Tây nó mà vớ được thì phải biết!

Bà kia liền gào tướng lên:

- Ôi các ông, các bà ơi! Đồ mặt dày! Quân theo đóm bọn Đồ Phổ Nghĩa!

Một ông ở trong nhà gần đấy vụt vác dao chạy ra hét:

- Đánh bỏ mẹ chúng nó đi!

Tức thì quanh chợ và nửa dưới phố Hàng Bè, lố nhố những người chạy ùa ra, mang gậy gộc, gạch đá xông tới. Ba tên lính kia vội vàng ôm lấy khăn gói của bác Hai chạy ngược trở lại phía bờ hồ. Tên vác súng đi sau bắn bừa đoành một tiếng để tự vệ. Dân chúng cũng không đuổi theo, đứng xúm quanh lại hỏi thăm bác Phúc. Một ông cụ hỏi:

- Sao? Mất khăn gói à? Mất tiền? Quân chó đểu, người mình cả mà chúng nó muối mặt như vậy!

- Bọn đầu trâu mặt ngựa đi theo Đồ Phổ Nghĩa đấy mà! Ta phải tụ họp lại để mà bảo vệ lấy nhau mà trị bọn chúng mới được. Một ông ở đầu phố nói.

Bác Hai Phúc đứng lên nói:

- Xin đa tạ các ông, các bà có lòng chạy ra cứu bố con tôi. Xin các cụ về đi không nhỡ bọn chó ấy nó về nó mách bọn Tây, bọn Tây lại kéo đến đánh báo thù, thì thật là mang tiếng vì bố con tôi mà dân làng thiệt lây.

Ông cụ nói:

- Bố con nhà bác về đi, còn kệ bọn nó với chúng tôi. Tây mà đến đây bắng nhắng chúng tôi cũng đánh.

Bác Phúc chào mọi người, cùng với con gái gánh một gánh đồ đạc về dưới làng Phúc Lâm, quê bác, thuộc tổng Kim Liên. Ở trên phố còn nhốn nháo, chứ ở đây xa vắng và nhất là không thấy đánh nhau dai dẳng nên yên tĩnh hơn nhiều. Một số nhà đã xếp gồng gánh chạy loạn, cũng không đi nữa. Bác Hai về đến nhà, chạy ngay đi gặp các người chức dịch và kỳ lão trong xóm bàn cách họp dân làng lại chia thành từng toán cùng với tuần phu trong làng xóm canh phòng chống đánh những kẻ vào cướp hiếp làng xóm. Sáng hôm sau, sốt ruột vì cửa hàng và nhất là muốn tìm cách gặp Ả Chí, bác Phúc lại cố dùng mọi lời lẽ khuyên dỗ và khích lệ anh Tín theo bác lên giúp bác dọn cửa hàng về. Hai chú cháu ăn cơm sáng xong, kề cà chạy đi chạy lại dặn dò bà con ở nhà chia cắt người vào từng toán canh giữ, đến lúc ra đi mặt giời đã chiếu xiên ngang đầu, đi thong thả gặp ai quen biết cũng hỏi thăm trò chuyện, đến đầu phố Hàng Khay, đã nửa buổi non trưa. Bọn lính đóng ở trường thi trước canh ở góc phố, thấy bác về, reo lên chạy ra xúm lấy bác đẩy về tận bên nhà, đợi cho bác mở cửa rồi, ùa cả vào nhà. Anh lính Võ Văn Út nói:

- Chúng tôi canh giữ cho nhà ông nguyên vẹn không suy suyển. Tôi thấy nhà khóa cửa vắng người, nên tôi mới xin với ngài đội ra đây canh đấy. Tối hôm qua, chúng tôi đóng ở cái đình kia, và ngồi ở hiên nhà ông đây.

Bác Hai vừa mở to cửa vừa hỏi:

- Thế các ông không ở trong trường thi à?

- Không! Một anh lính khác nói, đội quân chúng tôi vào cả trong thành rồi. Trường thi giao cho lính của Đức cha ở ngoài này. Chúng tôi chỉ còn phải canh giữ con đường từ bờ sông qua đấy vào cửa Nam.

- Các ông không đi tuần giữ các phố à?

- Không, đấy là lính của Đức cha đấy! Đức cha ngài mới mộ được bốn trăm người ngoài Bắc kỳ này cả, đóng ở trường thi ấy. Ông ra mở cửa bán hàng cho chúng tôi đấy chứ?

- Không các ông ạ, tôi ra dọn xếp cho cháu nó gánh bớt về dưới làng đây, bác nói thong thả đăm chiêu…

Anh Võ Văn Út hỏi ngay:

- Sao? Sao lại dọn về làng, yên ổn rồi mà!

- Tôi sợ các ông lính đi tuần lắm. Bác Phúc đứng ngay người lên trông ra ngoài đường nói với vẻ sợ sệt. Hôm qua các ông ấy lấy mất khăn gói của tôi đấy.

- Đù mẹ chúng nó chứ − anh lính hỏi trước giận dữ nói. Dân Sài Gòn Gia Định chúng tôi không thế đâu. Ông cứ mở cửa hàng bán quà cho chúng tôi. Chúng tôi đóng canh ở đây, đứa nào động đến ông là chúng tôi xé xác nó ra ngay…

Anh Võ Văn Út nói có vẻ ôn tồn hơn:

- Không sợ ông ạ, quân lính của Đức cha toàn vơ những dân tứ chiếng côn đồ, lại hấp tấp ô hợp, nên không có kỷ luật, vả lúc đầu, chưa có mệnh lệnh gì, chúng nó mới làm xằng như thế chứ. Sau này yên tĩnh rồi, chúng nó chả dám thế nữa đâu. Vả còn có chúng tôi nữa chứ, chúng tôi vẫn còn đi lại lối này.

Vừa lúc ấy, Bá hộ Kim cũng vừa đi với hai người lính cơ ở huyện có mang khí giới hẳn hoi, bước vào gật đầu chào bọn lính Sài Gòn, và bảo riêng bác Phúc:

- Bác cứ mở cửa hàng mà bán chứ?

Anh Út đứng lên kéo cả bọn đi ra và nói với Bá Kim:

- Ấy chúng tôi cũng bảo ông ấy như thế, nhưng ông lại đang xếp dọn đem về đấy. Cụ nên khuyên ông ở lại đây cho vui.

- Vâng để tôi bàn với bác ấy.

Bọn lính kéo nhau lên cả đình Hàng Khay rồi, Bá Kim nói rành rọt:

- Bác Phúc ạ, mình là người dân chỉ cốt yên thân thôi. Vả lại họ đã ở gần đây ít lâu, quen hơi bén tiếng rồi, họ đang cần có chỗ đi lại chơi bời, không việc gì mà sợ, có người có ta, mình không làm điều gì trái đạo, mình không sợ ai cả, không sợ tội với trên.

Bác Hai vớ được dịp, hỏi vặn ngay:

- Thưa cụ, giấy quan sức. Và hôm nọ cũng chính cụ đến hẳn đây bảo là Tây họ ra dàn xếp đền mọi thiệt hại cho ta. Thế mà họ ra mới chưa đầy nửa tháng, chưa thấy nói gì đến đền, lại đánh chiếm ngay lấy thành, cho lính đi cướp phá của dân. Thế có phải là lừa dối, lấy sức đè người không? Như thế còn vỗ về được ai? Nói ai nghe?

Bá hộ Kim biện bạch:

- Chỉ tại các quan mình hèn yếu quá, thương thuyết chẳng ra thế nào, lại cứ đòi đuổi người ta đi thì đuổi làm sao được kia chứ! Thôi sự thể đã lỡ ra như thế rồi, mình ở đây cứ tạm thời giữ cho yên dân, đợi xem triều đình xử trí ra sao!

- Thưa cụ, thiết tưởng chỉ vì không cho dân đánh mới hóa ra nông nỗi này! Bác Phúc nói chua chát.

Bá Kim gạt ngay đi:

- Bác này nông nổi quá! Đám dân ô hợp chọi thế nào nổi với súng ống đạn lửa. Đến như quân lính triều đình trong thành kiên cố như thế mà cũng chỉ đánh được từ Dần sang Mão thôi, rồi thành vỡ các quan lớn nhỏ bị bắt gọn, nữa là dân, giở giói ra chỉ tổ chết thôi! Vả người mình lại không cùng chung một dạ kia. Cụ thượng Bùi Thức Kiên và quan đề Tôn Thất Trắc chạy thoát về nhà ông thư lại Tô Phái ở Mọc bị ngay ông cai tổng Đức bắt đem nộp cho quan Phú lấy thưởng hai trăm quan tiền và được bổ quyền Biện huyện vụ huyện Thanh Trì đấy…

Thấy bác vẫn ngồi im, lão kể lể thêm như để khuyên nhủ:

- Đến như tôi mới rày chứ, cái số nó chẳng ra làm sao, đương ở nhà quê với cháu, tự nhiên lại đâm bổ ra từ chiều hôm trước, sáng hôm sau nó đánh thành, nó cho người vào bắt đến nhận chức cũ, có khổ không? Tôi cũng nghĩ chán ra rồi, bác ạ, mình đã vậy, còn bọn dân trú ngụ ở đây, nào Khách, nào đạo, họ ở lẫn với mình, hơi một tí gì khác là họ báo cho Tây ngay, không khéo thì sẽ khổ cả nút. Nên tôi cũng đành cứ giữ công việc như cũ để cho bà con được yên ổn. Tôi chắc bác cũng đã tàm tạm nghĩ như vậy.

Bác Phúc cũng đổi giọng nói ướm ý, lấy lòng:

- Bây giờ đương lúc nhiễu nhương khó khăn, trăm sự trông nhờ vào cụ cả. Cụ lại có lòng đứng mũi chịu sào che chở cho dân. Thật là quý hóa quá…

Bá Kim cũng vui mừng đổi giọng nói sắc sảo hơn:

- Bác nghĩ được thế là tốt lắm. Thế mới là thức thời, đạt lý. Bác cứ mở to cửa hàng ra mà bán quà bánh cơm rượu cho lính Tây, lính ta, có lợi vô số. Nhân tiện để ý xem kẻ nào có ý phá rối trật tự thì ngăn cản đi, nếu bảo không nghe, cứ bảo tôi, hay trình lên các quan mới trừng trị để giữ cho dân yên ổn. Rồi sau có muốn bỏ cái nghề bụi đầu nhọ tay mà bước sang con đường công danh thì cũng dễ…

Bác Hai nghĩ bụng, toan nói:

- Thôi cám ơn cái tử tế của ông, ông chỉ hơn cái lão cai tổng Đức ở làng Mọc một nước, ông không bắt quan, thì ông bắt dân chứ gì? Nghe ông có ngày đào cả mả tổ đổ đi!

Nhưng muốn biết rõ tình hình hơn và dò la xem lão có được bọn Tây nó tin không, bác Hai thủng thẳng hỏi:

- Bẩm cụ, thấy nói có đủ các quan Bố, Án, Đề, Lãnh ở tỉnh, thế có phải là quan của triều đình cũ hay triều đình mới?

Bá Kim gắt ngọt:

- Bác này ngu quá, mà sao lại cứ hỏi oái oăm thế. Còn triều đình nào nữa kia chứ! Mà đã là quan sở tại có quyền hành ở đây thì rồi triều đình nào mà chả phải nhận.

Bác Hai làm ra vẻ chân thật, nói một cách lơ đãng:

- À ra thế. Thấy bảo toàn người Hà Nội cả, không biết có phải không? Thưa cụ, chắc cụ đã biết những vị quan ấy?

- Có, Bá Kim vui vẻ đáp. Đã có giấy sức về huyện rồi đấy: quan Bố chính sứ 4 là ông Tú Nguyễn Tích ở phố chợ Đông Thành, quan Án sát sứ 5 là ông Tú Lê Văn Tốn, phố Hàng Quạt, quan Lãnh binh Đỗ Đình Huyên; quan Đề đốc 6 Diệu… đều là người Hà Nội cả đấy, đều là đã đỗ đạt và có chức tước.

- Thưa cụ, thấy mấy anh lính người Gia Định nói quan Đề đốc Phạm Quang Diệu nắm tất cả quyền tuần phòng, trừng trị, giữ trật tự, có phải không ạ?

- Phải, vì ông ấy còn là Thương biện tỉnh vụ.

- Bẩm cụ, ông ấy đâu chứ ở đây chưa thấy nổi tiếng.

- Ông ấy chính người ở Tâng tức cái làng Yên Phú có cái trạm Hà Phú, ông ấy làm Dịch thừa ở trạm Hà Hồi, rồi cùng đi với cố Phước để làm trung gian cho triều đình thương thuyết với quan Phú, tỏ ra mẫn cán, có tài xếp đặt, nên người Phú thích ông ấy lắm, cần có ông ấy thì mới giao thiệp với người Phú được.

- Vậy ra những quân đi canh phòng các phố đều là quân của quan Đề đây cả?

- Phải! Có quan thì phải có quân, chứ còn lấy quân ở đâu nữa. Thôi bác liệu mà mở cửa sơm sớm!

Lão nói xong, rồi quay trở ra, bác Hai cũng bước ra cửa hỏi theo:

- Bẩm cụ, cô Xuyến có ra không ạ?

- Yên rồi tôi cũng định cho người về rước nó ra đấy bác cần hỏi gì nó à?

- Dạ không. Xin chào cụ ạ.

Bác Hai đứng tần ngần nhìn theo Bá Kim đi về làng Cựu Lâu. Bác nghĩ:

- Thế này ra chúng nó đi theo Tây cả rồi. Thằng Tú Tích Đông Thành, thằng Tú Tốn Hàng Quạt, thằng Cai Huyên, thằng Đội Diệu đều là những kẻ có chức tước của triều đình hẳn hoi, mà thay lòng đổi dạ đi theo giặc, chỉ là vì đang chức nhỏ được làm nên chức to hơn, có quyền hành nạt nộ dân. Thì ra bọn quan nào cũng thế, cũng đều tham sinh úy tử một phường. Chỉ lạ chúng nó lén lút thì thụt thông đồng với nhau từ lúc nào. À phải rồi, phải có thằng cố Phước, thằng cha Bằng… Phải, chính bọn ấy! Bảo người ta không ghét đạo sao được!...

Càng nghĩ càng rối, càng thêm tức, bác quay vào đóng cửa và giục:

- Cài cả cửa bếp lại, chú cháu ta đi lại chơi chú Sìn tí đã đi!

Tín đang dử bắt mấy con gà, nói vọng ra:

- Dọn mau mà về chứ, chú còn đi đâu?

- Để đấy, cứ cho nó ăn đã. Ta đi lên thăm chú Sìn xem binh tình ra sao, đi cho nó biết, rồi hãy về cũng được.

- Thôi mình chú đi, chú ạ, cháu ở nhà cháu dọn.

- Mình anh ở nhà, ngộ nhỡ chúng nó vào, chúng nó không thấy tôi, chúng nó thấy anh trẻ, chúng nó sinh chuyện lôi thôi thì sao? Cứ bỏ đấy đi đã! Nhất là cái bọn lính mới.

Anh Tín càng sợ gây chuyện, nên nghe ra ngay, đóng cửa lại theo chú đi chơi. Hai chú cháu đi thông thống lên Hà Thanh qua ngã tư vào làng Nam Phố lên chợ Hàng Bè, không gặp quân lính mới, cũng ít gặp người qua lại, chỉ thấy ở mỗi đầu làng, đầu đường ngã ba, ngã tư đều có một vài người đứng hoặc ngồi như kiểu ra chơi hóng mát. Nhiều người quen biết bác chào hỏi vồn vã và bảo rõ tình hình phía đường ở trên. Bác Hai vui vẻ bảo Tín:

- Ra ở đâu, họ cũng đã bảo nhau canh giữ như ở ta cả. Đi lại mình cũng thấy đỡ sợ…

Hai người qua chợ Hàng Bè vắng vẻ, vào hiệu Dụ Hưng Lâu gặp cả nhà chú Sìn ngồi quây quần quanh nồi cháo gà đang sôi sùng sục trên bếp lò. Ả Chí trông thấy hai người đến vội reo lên:

- A ha may quá, hôm nay mới làm bữa cháo thật ngon thết cho gia đình, lại được ông con nhà ông đến chơi! Vào đây ăn một thể cho vui. Bán mãi cho người phải bán cho mình chứ lị.

Ả Sìn nói thêm:

- Yên rồi đấy, ông bang đã giục làm hàng bán. Nhưng hãy nghỉ ăn một bữa hôm nay cho sướng cái đã. Mai hẵng hay. Dưới ông thế nào?

- Chúng tôi lên chơi thăm chú thím và chú Chí, bác Phúc nói, rồi dọn về dưới làng đây.

- Sao? Dọn về làng à? Ả Chí hỏi vội.

- Phải, bác Hai đáp, ở đây tình hình nhố nhăng này khó chịu lắm. Bá Kim cũng vừa đến giục tôi, nhưng tôi nghĩ chán chán là…

Ả Chí múc ra hai bát cháo bỏ đầy thịt, và thêm một đĩa thịt gà xé rời bưng đưa cho bác Hai và anh Tín, rồi mời:

- Ăn đi cho vui đã. Rồi thì nghĩ kỹ đi. Nên ở đây mà bán hàng với chúng tôi có bạn bè đi lại nó vui. Hai nữa, ở đây rồi yên hơn ở làng ấy chứ. Ngoài kia đời nào người ta chịu, người ta còn đem quân vào đánh nhau chứ. Vả lại, ông già dạo nọ dặn thế nào kia mà.

Ả Chí ghé vào tai bác Phúc nói nhỏ mấy câu nữa, rồi lại quay sang bảo riêng anh Tín:

- Còn anh này nữa, cứ ở đây giúp ông Hai, rồi lên đây tôi dạy tiếng Khách cho. Làm giai phải đi đây đi đó, chứ cứ ro ró ở làng làm gì. Giai thời loạn này phải tung hoành, vùng vẫy chứ.

Thím Sìn đi lấy thêm rau thơm ở ngoài vườn về, cũng ân cần thái thêm thịt đem đến mời hai người. Cả nhà ăn uống vui vẻ, chuyện trò bàn bạc đến mọi vấn đề. Cuối cùng ăn xong, bác Phúc quyết định ở lại ngày mai mở cửa bán hàng như thường, và anh Tín được Ả Chí và vợ chồng Ả Sìn khuyên nhủ, cũng bằng lòng theo chú. Ả Chí nói thêm:

- Nếu yên tĩnh và chạy hàng thì cứ cho cả cô Hiền lên nữa, sợ gì.

Hai chú cháu ăn cháo, uống rượu no nê rồi lại cùng Ả Chí và Ả Sìn đi chơi qua phố Hàng Buồm, Hàng Giầy, chơi thăm mấy bạn hàng quen thuộc; đến chiều mới trở về, Ả Chí còn đi theo xuống mãi đến ngã tư, dặn thêm:

- Hễ đông đông khách, cố làm quen thân với bọn lính ta, rủ chúng đi chợ để có cớ mà tạt xuống đây luôn nhé.

Từ hôm sau, hàng bác Hai Phúc ở bờ hồ lại mở cửa bán quà bánh và cả cơm rượu. Bọn lính Sài Gòn và cả lính cố Phước ở trường thi hằng ngày thường rủ nhau lui tới hàng bác nghỉ ngơi ăn quà uống rượu. Bác cố làm quen thân thêm được mấy anh lính Sài Gòn và một số lính của cố Phước. Bọn này thích la cà ra hàng bác và đi chợ theo bác vì bọn chúng nhờ bác mua được cho nhiều thứ, những thứ ở trên này không có, dân vùng quê, không mang vào bán, bác Hai đều cho anh Tín về dưới làng bảo cô Hiền đi lùng mua được đem lên cho. Nên bọn lính nào được rồi cũng thích ra chơi ở hàng của bác. Một hôm bác vừa dẫn một tên lính bước vào hiệu Dụ Hưng Lâu, chợt trông thấy một ông già Khách quắc thước mặt quần áo đen toàn, bác ngờ ngợ reo lên một tiếng như vui mừng: A! Thì ông già nói luôn một tràng tiếng Khách. Ả Chí chạy ra thông ngôn lại bảo bác:

- Ông cụ đây ở Quảng Đông mới sang, là gia khách của quan phủ Lý Ngọc Trì, cụ muốn ăn món thịt chó hầm hạnh nhân, phụ tử. Ông bang Huỳnh Lục Ký cho người đưa cụ ra đây bảo đi mua về làm cho cụ, nhờ bác đi vào các xóm xem có kiếm được con chó nào đem về đây, chứ như hiệu chúng tôi đây thì chịu.

Và chú giục thêm:

- Bác đi với các ông lính này càng dễ. Đi ngay đi xem có được hay không, về báo cho cụ khỏi đợi.

- Phải đấy! Tên lính cũng nói. Đi tìm món “mộc tồn” cho cánh này chén với. Đang thèm nhớ đây!

Bác Hai đưa tên lính ra khỏi chợ, xuống đến ngã tư quặt sang làng Trang Lâu. Tên lính đứng lại, cuống lên nói:

- Thôi mình bác đi thôi, tôi không dám vào xóm đâu. Ông đánh lừa tôi, thì tôi chết bỏ mẹ! Tôi về đây.

Bác Hai rảo cẳng vào làng Trang Lâu, chờ cho tên lính đi khỏi mới quay trở lại hàng Dụ Hưng Lâu. Ả Chí trông thấy bác đến vội vẫy vào trong sân rồi dẫn qua cổng sau, qua phố Hàng Bạc luồn sang một nhà chú khách làm bánh bao ở phố Hàng Giầy. Đến nơi, Ả Chí đưa bác vào một căn nhà nhỏ lụp xụp, rồi khép ngay cửa lại và dặn với:

- Ông cụ đang đợi đấy, nói chuyện xong rồi về ngay đằng tôi, nhớ khi ra đem cả rổ bánh ngoài này về nhé.

Bác Hai vừa kịp vâng một tiếng, đã trông thấy ông già Tam Sơn đứng sững trước mặt, giơ hai tay đỡ lấy bác đang loạng choạng tranh tối tranh sáng. Bác mừng quá khẽ reo lên:

- Lão huynh vào bao giờ thế?

- Khẽ chứ! Ông Cử nói nhỏ. Đừng cuống lên. Tôi vào tối hôm qua, cũng là nhờ bà con ta và Khách che chở cho cả. Tôi đã gặp bác Cử và cậu Ba cùng các bạn bè ở ngoài ấy. Ai vào thì cũng sợ lộ, nên tôi phải vào để biết tình hình ở trong này và báo tin cho bà con trong này vững tâm. Dân chúng ở ngoài ấy cả Bắc lẫn Đoài, miền Hưng Yên, Phú Xuyên, Thường Tín đều sẵn sàng tiến vào cùng với bà con trong này nổi lên giết giặc…

Bác Phúc ngồi ghé vào cái chõng nói vội:

- Trong này nó lập xong tất cả quan quách rồi, Tú Tích chợ Đông Thành, Tú Tốn phố Hàng Quạt đều đã ra làm Án sát, Bố chánh cả rồi, Bá Kim coi huyện Thọ, thằng Cai tổng Đức ở Mọc bắt quan Thượng và quan Đề đem nộp cho Tây được thưởng tiền và được bổ coi huyện Thanh Trì. Thật những đồ phản phúc chó má…

Ông cử Tam Sơn ôn tồn nói:

- Cũng một phần tại mình không biết khéo giữ để bọn Tây nó dỗ được. Đáng sợ nhất là lão cố Phước. Nó đương ở Sở kiện mà nó vội lên trên này từ nửa tháng nay là nó mưu mô sắp xếp mọi việc đấy. Nó khéo lừa phỉnh lôi kéo được đủ người xếp quan đặt chức đâu vào đấy cả rồi, có đủ cả ấn triện khắc rồi. Ở Hải Dương, nó đặt một tên thợ lò rèn đi đạo làm Tổng đốc đấy.

- Ấy ở đây cũng vậy, bác Hai nói tiếp. Nó để tên Đội trạm Diệu quyền giữ mọi công việc cả tỉnh. Tên này đâu ở làng Tâng dưới huyện Thanh Liêm mới đi theo đạo rồi lên làm Đội trạm ở Hà Hồi, thế mà nay làm Đề đốc, Bang biện tỉnh vụ.

- Tên ấy mới thật là nguy hiểm hơn mấy lão Tú kia. Hai lão Tú và Bá Kim chính ra là do các quan ta khinh miệt họ và cánh nhà nho ta cũng coi thường họ, không khéo giữ kéo họ, nên mới xảy ra như thế. Chứ thằng Đội Diệu mới chính là tay chân của cố Phước. Nó được lên giữ trạm Hà Hồi là do lão Phước khéo xin xỏ các quan ta cho nó đấy. Công việc chính của nó là dò xét, dụ dỗ những người nông nổi về với nhà xứ chợ Bằng, được tin gì quan trọng cũng ngầm đưa về đấy chuyển cho lão Phước. Đấy chính là một nơi ổ tội ác chống nước hại dân, che đậy bề ngoài bằng nghi thức thờ Chúa truyền giáo để đánh lừa dân ngay lành tin theo Chúa. Thằng Diệu là đầu mối cho cái ổ ấy đấy.

- À ra thế, nên nó mới sắp đặt nhanh chóng đâu vào đấy như vậy. Nhưng mà cũng vì thế, nói đến lương giáo một lòng vẫn khó nghe.

Ông Cử nói rành rẽ:

- Khó, nhưng vẫn phải tránh. Chỉ đã rối, ta phải gỡ, không nên làm cho rối thêm. Ở đây chúng ta cũng đã có gỡ đấy. Văn hội và nhân dân ở đây đã không để xảy ra xích mích giữa lương và giáo, nên đấy bác xem, ít có người ở đây đi lính cho địch. Ta càng phải tiếp tục làm việc ấy. Cho nên cửa hàng của bác ở chỗ ấy rất lợi, vừa là chỗ dò được tin tức của địch, vừa là nơi thông tin được với bên ngoài. Nhất là nghe đâu lão Phước đã chuyên chở tre gỗ sắp dựng một cái nhà thờ và nhà xứ ngay trước cửa trường thi. Cho nên bác phải hết sức khéo chiều bọn lính Sài Gòn và lính đạo rủ họ đi chợ rất tốt. Người năm bẩy đấng, của chín mười loài, họ phần đông cũng là những người biết nghĩ, nếu ta khéo léo, họ cũng có thể giúp đỡ ra từ việc nhỏ, dần dần có thể đến việc lớn. Vậy cửa hàng này cần thiết lắm đấy, bà con ngoài kia trông cậy vào đấy nhiều lắm. Bác phải khôn khéo, không có lọt vào tay kẻ khác thì phí quá. Phải bám rịt lấy Bá Kim nữa. Cứ luồn lọt lão ta chẳng sao, cốt sao được việc cho mình…

Bác Hai đang ngồi lặng nghe, bỗng phì cười nói:

- Vâng! Suýt nữa đệ đã dại dột vặc lại Bá Kim, lão bảo mở hàng, đệ định không mở, muốn mắng lão một trận cho hả.

- May đấy! Ông Cử nói dịu dàng. Chửa nổi nóng phát khùng với lão, chứ nổi nóng rồi thì chắc chả còn được ngồi ở đây nữa nhỉ. Vậy từ nay, mọi công việc càng phải suy nghĩ chín chắn, không nên nóng nảy nữa nhé. À còn cô con gái lão dạo này ra sao?

Bác Hai cười, đáp:

- Cô ấy về quê ngoại, mãi hôm qua mới trở ra.

- Liệu cô ấy có còn giúp được việc nữa không?

- Để còn phải dò hỏi lại xem.

Ông cử Tam Sơn nói giọng nghiêm nghị thấm thía hơn:

- Bây giờ còn một việc hệ trọng. Tình thế lúc này khó khăn hơn trước nhiều. Hôm nay mới là ngày thứ năm. Mọi việc chúng nó đã dần dần thắt chặt, nhất là rục rịch có tin các nơi đánh về, chúng nó sẽ càng điên cuồng tàn ác, nghi ngờ bắt giữ. Nên những người quen mặt không còn ai ở được trong này nữa, và cũng khó mà vào được một lần nữa. Vì thế bác và chú Chí là tai mắt của bà con ngoài kia đấy. Hằng ngày, bác có thể đi chợ tạt qua vào gặp chú Chí. Còn khi nào cần thiết thì bác gặp một người nữa của ta. Mai bác đến đền Xuân Yên tìm ông từ. Hễ đến nơi, thấy trên cột có dán cái chữ thế này, thì đưa mảnh giấy con này ra, ông từ sẽ dẫn bác đi.

Ông Cử đưa một mảnh giấy bồi vuông cứng cho bác Phúc, bác cầm lấy, nhìn nét chữ trên giấy và hỏi:

- Chữ “đồng” à?

- Phải chữ “đồng”. Chả quanh quẩn đây là phường Đồng Xuân mà. Nhưng “đồng” của chúng ta còn có nghĩa là cùng một chí, cùng một lòng. Hễ chỗ nào có chữ ấy là có người của ta. Phải nhận kỹ chữ đồng này, chữ viết cân đối và hai cánh hơi cong lên trông giống như chữ “hợp”, còn có nghĩa là hợp sức, và cốt để ngộ nhỡ địch có biết đến thì cũng không biết là chữ đồng hay chữ hợp. Bác sẽ thấy ở khắp trong băm sáu phố phường này, rồi chỗ nào cũng gặp được một hai chữ như thế. Trăm họ vốn một lòng, chỉ cần thu xếp cho khéo. Rồi ở ngoài kia, quan quân và dân chúng tiến vào đánh chứ. Đâu phải cứ mãi như thế này!

Cuối cùng, ông Cử đứng lên, đi đi lại lại quanh gian nhà hẹp rồi đứng phắt lại, thân mật dặn bác Hai:

- Bác cứ vững tâm vui vẻ mà làm, nếu có lộ mất người này vẫn có người khác thay. Thiên hạ không thiếu gì Bái công. Tôi phải ra ngay hôm nay để anh em ngoài ấy biết rõ tình hình, anh em mừng. Trong ngoài phải biết tin nhau luôn, bác nhớ nhé. Thôi bác về nhé. Liệu bảo cả cháu gì nó lên giúp đỡ và cố giữ lấy cô gì con gái Bá Kim. Mọi việc sau này cứ theo như sự sẽ bàn bạc ở hiệu Dụ Hưng hay đình Xuân Yên.

Bác Hai Phúc đứng lên chào ông bạn già ra về, trong lòng phấn khởi và càng thêm kính phục ông bạn quý lúc nào cũng giản dị bình tĩnh, và nhất là can tràng, len lỏi như xuất quỷ nhập thần. Bác nguyện noi gương ông bạn và cố gắng làm theo như lời ông dặn. Bác càng thấy sung sướng nghĩ đến ông cử Kim Cổ và cậu Ba Phách ở ngoài kia sẽ thông tin tức được luôn luôn với trong này và biết được công việc bác đang làm ở trong này. Càng nghĩ càng thêm vững lòng tin, bác vui vẻ cắp rổ bánh về qua hiệu Dụ Hưng gặp Ả Chí, rồi đi thẳng vào các làng Trang Lâu, Trừng Thanh, ra mãi làng Thất Thi gần ngoài bờ sông mới mua được một con chó đem về làm thịt sửa soạn thành mấy món ăn ngon, hẹn bọn lính đóng ở trường thi ra nhắm rượu. Sáng hôm sau, theo đúng lời dặn, bác lên chợ Đồng Xuân mua mấy thứ vặt vãnh buộc thành một buộc, rồi xuôi trở về vào đình Xuân Yên, tìm gặp được người bạn mới, một ông thợ may đang ngồi khâu áo ở phố Hàng Quạt. Ông bạn xếp kéo vạch lại, mời bác ra thăm cái vườn con ở bên trong sân trong, nói chuyện qua loa với bác, hẹn những ngày giờ gặp lại sau rồi tiễn chân bác ra cửa, lại ngồi vào giường lấy quần áo ra khâu. Từ đấy đêm nào cũng nghe thấy có tiếng tù và, tiếng trống ngũ liên nổi lên lẻ tẻ ở nhiều nơi, tiếng súng nổ ở các đồn trại của giặc. Bọn lính ngụy không dám đi tuần lẻ tẻ như mấy hôm đầu. Thỉnh thoảng có lửa bốc cháy ở ngay đồn địch. Cuộc vui của bọn Đồ Phổ Nghĩa mở ra để khao thưởng bọn quan Tây ở nhà hội quán Hàng Buồm bị tan nửa chừng, vì ngoài phố có tù và báo động, có đám cháy ở phường Hà Khẩu, kế đến một đêm, trại quân Khách của tên Tri phủ Hồ Quảng Lý Ngọc Trì ở ngoài cửa ô Thanh Hà tự nhiên bốc cháy dữ dội, thiêu hủy tan tành cả trại, cháy lan ra cả chung quanh, bọn lính phải chạy cả về nhà hội quán. Rồi kho hàng của Đồ Phổ Nghĩa mới làm thêm cũng bị bốc cháy. Ban ngày mệnh lệnh của các “quan tỉnh” đưa xuống không được tuân hành. Dân chúng lấy cớ bà con còn đi lánh nạn chưa về, không góp phu, không làm hàng, không bán hàng. Bọn “quan tỉnh” phải cho lính đi từng nhà bắt phu đi vận tải, sửa chữa nhà cửa, dọn dẹp dinh cơ. Bọn Pháp thấy tình hình mỗi ngày một rối thêm, bèn quyết định nghiêm trị những kẻ nào bị tình nghi, để triệt hết mọi mầm chống đối của dân chúng. Đồ Phổ Nghĩa bàn với cố Phước nên triệu tập một cuộc họp bí mật giữa những người đã cộng tác với Tây và có chức quyền trong tay để tìm cách đối phó với tình thế. Cố Phước mà bọn lính Sài Gòn thường quen gọi là đức giám mục Puy-gi-ni-ê (Puginier) là người đã đến đất này từ gần hai chục năm nay, đi lại đất Hà Nội này nhiều lần, nói sõi tiếng Việt Nam, biết rõ phong tục và tính tình nhân dân. Lão đã đóng tòa giám mục ở Kẻ Sở thuộc huyện Thanh Liêm trên bờ sông Đáy. Từ khi Gác Nhi Ê ra đến đây, các quan tỉnh Hà Nội sai một viên tu vụ đi với Đội Diệu ở trạm Hà Hồi về tận Kẻ Sở tìm lão lên làm thông ngôn phiên dịch cho quan ta. Lão được công nhiên đi lại bàn bạc với bọn Tây, và xin dựng một cái nhà thờ nhỏ ở ngay trước cửa trường thi, trên cánh đồng làng Tiên Thị, cái nhà gianh ba gian có rào nứa chung quanh để làm nơi cầu nguyện cho bọn lính Tây và những dân đi đạo ở phố. Khi quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội, quân lính của Pháp rút vào đóng cả ở trong thành, trường thi thành nơi đóng quân của cố Phước, một đội hơn năm trăm quân lính đi đạo do Đội Diệu và Cai đội Huyên đã mộ từ trước. Sẵn người, sẵn của, lão lại cho đi lấy gỗ, gạch ở các nơi về xây một cái nhà thờ mới tường gạch lợp lá gồi năm gian như kiểu đình, thượng thực hạ hư. Chỉ làm trong ba hôm là xong, khu nhà thờ đã nghiễm nhiên sừng sững bề thế, tường vôi trắng toát trước cửa trường thi. Hai bên lại dựng thêm hai dẫy nhà gianh cho lính đóng canh và cho những gia đình đi theo đạo đến ở. Nơi nhà thờ này đã thành nơi trung tâm nối liền An Nghiệp, Đồ Phổ Nghĩa với bọn ngụy quan ngụy quân, rồi do đấy mà tỏa đi những mệnh lệnh. Trước tình hình mỗi ngày một lộn xộn thêm mà quân lính của lão phối hợp với quân lính của Pháp cũng không ngăn cản lại được, chỉ càng làm cho quân của lão thêm sợ hãi đóng cố thủ ở trong trại, trong đồn, không dám xông xáo ra đi tuần nữa, lão cố Phước đã phải triệu tập Đội Diệu, Tú Tích, Bá Kim, Huỳnh Lục Ký là những người đang giữ chức phận cai trị ở đây đến họp bí mật ở ngôi nhà thờ mới này để bàn cách đàn áp dân hàng phố. Cao lớn, nét mặt hồng hào, hai gò má hơi cao bên hai mắt sâu mà sáng ánh, lão ngồi nghiêm trang bệ vệ trên một ghế bành mộc đơn sơ, hai tay tì lên hai tay vịn, cái áo dài thâm may theo lối Việt Nam phủ kín hai đầu gối đến gần cổ chân. Khi ba người kia đã ngồi ngay ngắn trên ba cái ghế đẩu ở bên một cái bàn vuông trước mặt, lão giơ tay lên làm dấu phép, rồi nói thong thả một cách rầu rầu ỏn thót, là lối lão thường dùng nói với con chiên mộ đạo mỗi khi hành lễ. Lão nói:

- Lạy Chúa ban phước lành bằng an cho dân con ngu tối đang bị bọn quỷ sa tăng cướp đoạt giam hãm mất phần linh hồn. Chúng ta phải thể theo ý Chúa mà cứu lấy những linh hồn ấy. Các con nghĩ thế nào?

Đội Diệu thưa trước:

- Bẩm lậy đức cha, phải tìm cách nào bắt cho hết và trừng trị những tên xúi loạn…

Cố Phước bỗng ngồi thẳng lên, gật gật đầu, đôi mắt sâu tròn sáng ngời lên lóng lánh, đưa tay vuốt bộ râu sồm dài phủ lên cả cây thánh giá bạc đeo óng ánh trên ngực, mấy ngón tay luồn vào, rẽ từng sợi, vê vê những sợi râu loăn xoăn, lão cười rung rung và nói dõng dạc:

- Chúa thánh thần sẽ ban phước lành cho các con, vì các con đã biết nghĩ đúng theo đường của Chúa: muốn cứu người dân ngay lành phải trừ hết bọn quỷ dữ. Xử tội thật nặng bọn côn đồ làm loạn gây ra đói khổ là làm điều phước theo tiếng gọi của Chúa. Dân chúng được sống yên ổn sẽ đời đời nhớ ơn các con. Vậy bây giờ ta phải bắt ngay những đứa tình nghi là cầm nọc xúi dân…

Ngừng một lát, lão đưa mắt trừng trừng nghiêm nghị nhìn mọi người như dò xét, rồi hỏi đột ngột:

- Các con có thể đoán được những đứa nào không? Đồng môn Tự Tháp còn có tên nào ở nhà không? Bọn học trò trường Vũ Thạch, trường Kim Cổ có tên nào ở nhà mà đáng nghi không? Học trò Đốc Mọc có tên nào ở trong này không? Có đứa nào người nơi khác mà bây giờ lẻn vào ở trà trộn trong này không?

Lão hỏi luôn một thôi, một hồi, rồi ngừng lại như chờ đợi. Tú Tích suy nghĩ một lát, trả lời trước:

- Trình đức cha, cánh đồng môn Tự Tháp có dăm ba người, họ chạy ra ngoài kia. Chỉ còn Hai Phúc ở hàng cơm góc Hàng Khay là đày tớ hầu hạ cụ Nghè trước. Còn học trò trường cụ cử Vũ Thạch thì có bác Án Tốn đấy. Cụ cử Nguyễn Huy Đức xưa nay chỉ biết dạy học thôi, không muốn can dự đến việc đời, mũ ni che tai, việc ai chẳng biết, nên học trò cũng ít theo đòi. Còn học trò ông cử Kim Cổ chạy theo thầy cả.

Bá Kim cũng nói chen vào:

- Học trò quan Đốc ở đây thì còn nhiều, quan Bố, quan Án đấy cũng là môn sinh cả. Còn Hai Phúc ở bờ hồ, tuy là môn sinh cụ Nghè, nhưng phận hèn, có học hành gì đâu, vả hắn biết điều hầu hạ quan quân ta đắc lực lắm. Con thiết nghĩ, phải xét cho kỹ, chứ nếu cứ tình nghi không đúng càng dễ làm cho nhiều người lo sợ, thành thử lại đẩy họ đến chỗ liều lĩnh tìm cách chống lại ta.

Cố Phước cười gằn, tỏ ý bác bỏ lời Bá Kim, nói rõ hơn:

- Các quan Bố, Án, Phủ, Huyện của ta đây cũng là nhà nho môn sinh cả, nhưng đã đi hẳn ra một chiều, một con đường thẳng. Các quan là những người công minh chính trực. Nói xô bồ như quan huyện thế là không được. Nguy hiểm là bọn đồng môn. Thằng Hai Phúc càng cần phải để ý, nếu hơi có vẻ gì khang khác là cứ bắt.

Quay sang phía Đội Diệu, lão nói như ra lệnh:

- Mà cái ngôi hàng ấy ta cần tìm cách chiếm lấy mở to thêm ra để riêng cho quân lính ta lui tới, quan Bang biện ạ: Phải tìm sẵn người trông coi quán xuyến.

Lão lại nói riêng với Huỳnh Lục Ký:

- Còn về phía Khách trú thì dễ, có phải không quan bang trưởng? Ta cứ xét những tên nào mới đến gần đây mà không phải là lính của ông Đồ Phổ Nghĩa là cứ bắt giam, cứ buộc cho là quân Cờ đen, đem ra xử tất. Có ra uy như thế, chúng nó mới sợ, có phải?

- Vâng, cũng đến phải làm như thế mới xong, Huỳnh Lục Ký đáp.

Cuối cùng, cố Phước quyết định công việc phải làm và dặn dò chung cả:

- Bây giờ các con về phải đi khám xét ngay. Về phía dân Nam, các quan tỉnh, huyện chia nhau thân đi từng xóm, từng phố, từng phường xét hỏi rất bất ngờ và chóng vánh. Quan bang cắt lính đi vây giữ các nơi trước khi khám. Hễ thấy ai không phải là người ở đây cứ bắt, đứa nào khả nghi, bắt tất. Khẩn cấp lắm, phải làm nhanh mới cứu vớt được dân. Và các con cũng nên nhớ rằng, nếu để sổng mất những loại quỷ dữ ấy, tất nhiên chúng nó sẽ tìm cách ám hại các con trước. Còn như cha đây, vâng theo mạng của đức Chúa Trời, lại có quân lính của nước Đại Phú Lãng Sa hùng cường và nhân đạo giúp đỡ, cha lúc nào cũng nghĩ đến cứu vớt linh hồn đau khổ và mở rộng nước Chúa, đem lại bằng an cho con chiên, nên rồi thì đằng nào cũng vậy, với đức tin ở Chúa Trời và lòng trinh khiết trong Đức Mẹ, cuối cùng cha cũng làm trọn phần việc cao quý ấy. Các con nghe theo lời cha, hãy cố làm như những điều cha dặn. Cha luôn luôn cầu nguyện Đức Chúa thánh thần ban phước lành bằng an cho các con về cả phần xác lẫn phần hồn. Các con nhớ rõ chưa?

Tú Tích nói nịnh khen mưu trí lão cố:

- Thưa đức cha, có quyền bính trong tay rồi mà muốn vỗ về cho dân được yên ngay, cũng phải nghĩ đến mưu kế như đức cha là thượng sách. Nói riêng về phần đời thôi, cũng đến phải làm như thế mới được.

Cố Phước gật đầu, nở nụ cười tươi trong những sợi râu mép lưa thưa, đôi mắt nheo lại rồi mở to sáng ngời lên dịu dàng tỏ ý bằng lòng, lão đứng lên nói riêng với Đội Diệu mà như dặn tất cả:

- Thôi, công việc có thế, quan Đề ạ. Về bảo nhau làm ngay đi.

° ° °

Sau cuộc họp riêng ấy, Đội Diệu chia quân cho bọn chúng đi vây lùng khám xét ngay. Huỳnh Lục Ký cố tỏ ra tận lực tìm kiếm khắp cả hai hàng bang Quảng Đông và Phúc Kiến, cũng chỉ bắt được có mỗi mình Ả Chí ở hiệu Dụ Hưng là đáng tình nghi, vì trước kia cũng đã đáng ngờ, đã bị các quan An Nam bắt hỏi mấy lần. Ả Sìn là người đã chứa chấp Ả Chí và bác Hai Phúc, người hay đi lại mua bán ở hiệu Dụ Hưng, cũng bị bắt lây. Bọn ngụy quan vây khám khắp mấy nơi không bắt được người nào tình nghi cả, cuối cùng Tú Tốn vây khám xóm chùa thôn Yên Ninh bên hồ Trúc Bạch, bắt được một ông thầy cúng ở trong chùa Phúc Viên mà Tú Tích nhận diện ra là ông Cử nhân Tạ Văn Đình, đỗ cùng khoa với hắn. Vì thế sư cụ chùa Phúc Viên cũng bị bắt. Đội Diệu cho giải ngay những người ấy sang cho cố Phước và Đồ Phổ Nghĩa tra xét. Bọn chúng cho đem tra tấn, dụ dỗ, nhưng không ai chịu khuất phục, khai nhận gì cả. Thấy cần phải xử tội nặng để khủng bố tinh thần dân chúng, đe nẹt mọi người đang ngấm ngầm chống lại chúng, cố Phước liền xui Đồ Phổ Nghĩa bàn với quân Pháp lập một tòa án công khai đặc biệt để xử tội mấy người bị bắt. Ngạc Nhi mải bận đem quân đi đánh Nam Định đồng ý để cho Đồ Phổ Nghĩa mở phiên tòa đặc biệt ấy ở ngay đình Tô Mộc thôn Phục Cổ trông ra Hồ Gươm, thẳng sang phía nhà hàng của bác Phúc. Vào khoảng đầu giờ Thìn buổi sáng ngày hai mươi chín tháng mười một, giời nắng hanh trong sáng soi tỏa chan hòa mặt hồ im phăng phắc nghiêm như giận, dân chúng trong mấy phố phường thôn xóm bị xua đến dự phiên tòa đã đứng kín đặc ở ngoài sân đình. Trong cái đình ngoài năm gian rộng thông thống, ở giữa, bên ngoài cái hương án vàng son rực rỡ, Đồ Phổ Nghĩa và Tú tài Nguyễn Tích ngồi liền nhau trên hai cái ghế bành quang dầu, đằng trước có cái yên như sơn son thiếp vàng, trên đặt cái đỉnh đồng và một ống bút sứ, ngoài nữa là cái sập gụ chân quỳ giải chiếu cạp điều, trên để hai cái gối xếp, Án sát Lê Văn Tốn và Lê Bá Châm thông ngôn hàm Tri huyện hạng nhất ngạch hành chính Nam kỳ cùng ngồi xử án. Một tên quan Tư vụ ngồi trên một cái ghế tựa kê sát sập, gần bên Lê Văn Tốn. Hai hàng lính Tây tóc quăn mũi lõ quân phục gọn ghẽ, dây lưng da quấn chặt ngang lưng, giầy đinh nện cồm cộp, bồng súng cắm lưỡi lê sáng loáng, đứng thẳng hàng ở hai gian bên, oai vệ hung ác trông dữ tợn như hung thần, đến thành hoàng đình Tô Mộc cũng phải xuất ngoại! Ở sân, một toán lính Sài Gòn đứng làm hàng rào ngăn dân chúng ra hai bên sân. Một số khác cũng nai nịt gọn gàng lăm lăm súng và lưỡi lê trên tay đi lại bao vây mọi lối ra vào. Ở ngoài đường, một cơ lính của tỉnh, tức là lính của Đề đốc Phạm Quang Diệu, dàn ra vây kín canh giữ khắp chung quanh. Đúng chín giờ, Đồ Phổ Nghĩa ra lệnh cho bắn chín phát súng chỉ thiên mở đầu cuộc xử án, chính là để ra oai nạt nộ dân chúng. Trước hết, chúng cho gọi tên và giải năm bị cáo vào sân, bắt quỳ trước cái sập gụ của quan Chánh án và trước mặt dân chúng. Những người này cứ đứng ngang nhiên không chịu quỳ, mặc dù bị bọn lính dúi ngã xuống, họ lại đều đứng ngay dậy, thẳng sừng sững. Bọn chúng liền cho gọi tách riêng Cử nhân Tạ Văn Đình lên trước sập Chánh án. Tên Tư vụ mở quyển văn án ra đọc dõng dạc:

“Tạ Văn Đình, bốn mươi nhăm tuổi, người làng Nga My, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn năm Tự Đức thứ hai mươi mốt, vô hạnh, không được đi làm quan, mới đây đã mộ bọn côn đồ cùng với tên Cử nhân Ngô Văn Dạng ở huyện Thọ Xương mưu giết người Phú Lãng Sa. Hiện nay quân đội hùng cường của nước Đại Phú Lãng Sa đã đem lại an ninh phúc lành cho dân ở phố phường thành Hà Nội, giao quyền chính cho người bản quán ở đây lập lại nước Bắc kỳ, tên Tạ Văn Đình vì lòng ganh ghét, hiềm thù cố tật, không được cất nhắc lên như những người tài đức, vả lại quê ở xa thành phố, ít người biết mặt, nên đã ngầm lẩn lút vào đây tụ tập bọn côn đồ du thủ du thực, xui giục bọn dân đen ngu tối đi đốt nhà, bắt người, cướp của. Chính tên này là thủ phạm gây ra những cuộc đánh phá đốt cháy ở trong thành phố này, phạm vào điều cấm đã được nêu lên rõ ràng trong bản tuyên cáo của quan Hải quân Đại úy, đại diện nước Đại Phú Lãng Sa hùng cường. Nhưng đạo giời chí công, lưới giời lồng lộng, kẻ làm ác phải chịu tội, nên tên này không chạy đâu thoát được, quan quân truy nã ráo riết đã tóm cổ lôi ra đây xử tội, cốt một lần nữa đem lại an ninh trật tự cho trăm họ yên ổn làm ăn”.

Tên Tư vụ đọc xong bản cáo trạng, tên thông ngôn ngoảnh lên nói với Đồ Phổ Nghĩa rồi quay xuống phiên dịch thêm lời buộc tội hống hách của Đồ Phổ Nghĩa sỉ vả sự phá rối trật tự và khoe khoang sức mạnh của nước Đại Phú Lãng Sa, cốt ý tỏa triết tinh thần dân chúng đang bị dồn ở ngoài sân. Sau đó Chánh án Lê Văn Tốn hỏi cung, nhắc lại ý Đồ Phổ Nghĩa:

- Anh là người có học sách thánh hiền, không nhớ cái lẽ nước nhỏ thờ nước lớn hay sao? Vả lại nước Đại Phú Lãng Sa sang đây cốt mong giữ hòa hảo giúp đỡ nước ta, giúp người Bắc kỳ ta, công việc đã làm nhanh chóng như giở bàn tay như thế, không phải là sức người, phải có giời giúp mới được thế, một mình anh chống lại thế nào được mà cứ mê muội ghen tức vô lý? Anh mưu mô những gì? Với ai? Khai ra!

Ông cử Tạ Văn Đình đứng ngay người lên nói lớn:

- Đánh lại bọn cướp nước chiếm thành là làm theo đúng sách thánh hiền. Còn thì trừ mấy đứa chúng mày ra, tao mưu việc đánh Tây với tất cả mọi người dân đứng ở ngoài kia kìa, việc tao làm chính đại quang minh như thế, sao lại bảo có một mình tao?

Đồ Phổ Nghĩa nói một thôi, tên thông ngôn Châm dịch lời buộc tội thêm và hỏi:

- Anh không phải người ở thành phố này, anh lại là một ông Cử, vậy anh lẩn lút ở đây làm gì? Nếu không phải là đem cái danh Cử nhân ra mê hoặc xúi bẩy dân chúng chống lại quan trên?

Ông cử Đình không trả lời câu hỏi, trừng mắt trông cả bọn, hỏi lại:

- Chúng bay có biết đất này của ai không? Là của Vua và dân nước Đại Nam, tao là người Đại Nam, tao ở trên đất Đại Nam, sao lại bảo là lẩn lút? Tao lại là người tỉnh này. Cướp trộm vào nhà, mọi người trong nhà đều phải đánh, tao bảo người trong nhà đánh bọn kẻ cướp, sao lại bảo là chống quan trên? Quan trên gì lũ chúng mày, bọn ăn cướp và mấy thằng đày tớ? Ở trong này, tao phải giấu họ, giấu tên, giấu cái Cử nhân đi, vì có bọn đỗ đạt cũng đi làm chó ngựa như chúng mày, nên tao lấy làm xấu hổ, sợ người ta ghét lây đến cái Cử của tao, sao lại bảo đem cái danh Cử nhân ra mê hoặc?

Tú Tích, bạn học cũ của ông Cử, dụ ngọt:

- Bác Cử ạ, tuấn kiệt phải thức thời! Thời buổi này, là thời buổi bốn bể một nhà, mình chống họ không thể được rồi, triều đình, các quan, binh nhiều tướng lắm cũng đành chịu bó tay! Vận nước nó thế, hung hăng lúc này vô ích, bác cứ ôn tồn nói cho ra nhẽ, chúng tôi, chỗ bạn bè cũ, có thể nói xin tha cho bác.

Ông Cử quát:

- Tao chẳng bạn bè gì với chúng mày, đồ đi theo giặc hại dân. Đã thấp cơ lỡ bước, tao không thèm nói gì thêm với chúng mày…

Huyện Châm phiên dịch, trao đổi với Đồ Phổ Nghĩa và Tú Tích, rồi ghé tai Tú Tốn nói nhỏ. Tên này đỏ mặt lên hùng hổ tuyên án:

- Tội trạng đã rõ ràng, phạm vào điều cấm của tuyên cáo, tử hình!

Đến lượt Hai Phúc bị dẫn lên. Bác rất bình tĩnh, đi đứng đoàng hoàng. Nhận ra cái người mình đã gặp hai ba lần ở Hàng Quạt, ở đình Xuân Yên, chính là ông cử Tạ Văn Đình, khẳng khái, cứng cỏi, đứng trước mặt đây, bác càng thêm kính trọng ông, và mừng rằng bọn giặc chỉ bắt bâng quơ may mà trúng, chứ chưa biết tí gì về anh em “chữ đồng” cả, bác càng vững tâm nguyện noi gương ông Cử, có chết thì thôi, chứ không để lụy đến ai, làm hại cho việc lớn nước nhà. Lời khai của ông Cử đã nâng bác vượt lên mọi suy nghĩ tầm thường về vợ con ở nhà, bác bình tĩnh vững vàng đứng thẳng người, nhìn thẳng vào bọn địch. Tú Tốn hỏi có vẻ hách dịch hơn lúc nãy:

- Tên Nguyễn Hữu Phúc kia! Cửa hàng mày được các quan trên hạ cố lui tới, buôn bán đang có cơ phát đạt. Các quan đãi mày không bạc. Sao lại cố tình nghe dại, theo bọn đồng môn, chực âm mưu ám hại người của các quan? Thật mày là đồ vô phúc!

Bác Hai nhìn thẳng vào mắt Tú Tốn hỏi lại:

- Ông lấy bằng chứng gì bảo tôi đi theo đồng môn?

Tú Tốn cười gằn nói:

- Hừ! Mày còn vờ không biết à? Lại đòi chứng cớ mới chịu nhận à? Chứng cớ là ở đây chỉ có bọn đồng môn Tự Tháp mới ra mặt ghen ăn, chống lại quan Tây. Và chính mày đã bảo với quan Tây rằng các quân lính Tây phải rút khỏi đất nước này đấy thôi.

Bác Hai cười:

- À ra thế? Ta có nói thế với mấy người Phú thật đấy. Họ hỏi ta, thì ta nói thế. Vậy thì anh buộc ta tội gì?

- Tội âm mưu giết hại quân lính, chống lại quan trên. Mày ăn nói hỗn láo trước mặt các quan như thế cũng đủ tỏ làm bằng chứng cho âm mưu của mày!

Biết cãi lý với bọn chúng cũng chẳng được nào, bác Hai cất tiếng buộc tội chúng một cách nghiêm trang đĩnh đạc:

- Chúng mày nói láo! Tao không có ý gì giết hại quân lính. Mấy hôm trước, quân Tây còn đóng ở trường thi, tao cũng như mọi người dân, tuân theo lệnh của triều đình, cả tin ở cái việc thằng An Nghiệp Ngạc Nhe ra dàn xếp, nên tao không thù ghét bọn lính Tây, còn hầu hạ tử tế nữa, chính bọn họ biết đấy. Ngày nay lính Tây đã vào cả trong thành rồi, ở trường thi, ra vào hàng tao chỉ còn rặt bọn lính đạo của đức cha và thỉnh thoảng mới lại có bọn lính Sài Gòn ở trong thành ra chơi. Bọn lính đạo do cố Phước và thằng Đội Diệu mộ về, họ đều là Nam quốc Nam nhân với nhau cả, đều bị bọn cướp nước mê hoặc, tin ở Đức Chúa, thành ra phản lại dân mà không tự biết, tao không nỡ giết, nếu tao chủ bụng giết, thì chỉ một liều thuốc độc, ít ra chúng bay cũng chết đến quá nửa rồi!

Tú Tốn tức giận quát:

- Thế mày tự xét xem mày tội gì?

Bách Hai cũng tức mình quát lại:

- Cái tội muốn trừ bỏ kẻ cướp cho dân được yên ổn, chứ tội gì nữa? Tao giận là chưa giết được bọn thằng An Nghiệp, Đồ Phổ Nghĩa và đồ đi bám đít theo giặc như mày!

Tú Tốn quay lại hỏi Tú Tích và huyện Châm, rồi tuyên án:

- Thế là rõ tội rồi! Chém bêu đầu! Tịch thu tài sản!

Hắn gọi đến sư cụ chùa Phúc Viên và hỏi vặn sao lại chứa chấp kẻ bạn nghịch ở trong chùa. Sư cụ đã gần bảy mươi tuổi đứng phải chống gậy, nói run run, nhưng đĩnh đạc:

- Hôm ấy ngày tuần, ông ấy là cung văn đến lễ Phật, cửa từ bi rộng mở, ai ở cũng được. Tôi không biết ông ấy là Cử nhân đi mưu việc khác đấy. Nếu tôi biết, có lẽ tôi đã lập cách cho ông ấy khỏi bị bắt.

Mọi người ở ngoài tự nhiên cười reo lên vui vẻ. Tú Tốn tức quá tuyên án ngay cộc lốc:

- Trượng năm chục, tù một năm!

Đến lượt hai người Khách trú cùng bị dẫn lên trước sập quan án. Hai người đều bị buộc về tội phụ họa với người Nam chống lại quân lính Phú Lãng Sa, phạm vào điều cấm trong bản tuyên cáo của An Nghiệp. Tú Tốn hỏi Ả Sìn trước:

- Mày chơi thân với tên Phúc, mày có ý định đánh giết quân đội Phú Lãng Sa và quân lính Quảng Đông, Vân Nam, lại còn âm mưu ám hại những người Khách giúp đỡ quan Phú, có nhận không?

Ả Sìn đáp, giọng hơi run sợ:

- Bẩm các quan, tôi mũ ni che tai việc ai không biết, tôi không chống Nam, không chống Khách, còn tôi với Hai Phúc là bạn hàng nên quen nhau.

- Thế mày có chống các quan Đại Phú Lãng Sa?

- Tôi cũng chưa trông thấy người Phú, chưa nghĩ đến chống người Phú như thế nào?

- Thế mày có chứa chấp tên này trong nhà không?

Chánh án Tốn chỉ vào Ả Chí, Ả Sìn bình tĩnh đáp:

- Có, tôi có nuôi trong nhà, vì là cùng quê hương, cùng cánh áo ngắn với nhau cả.

- Nó là kẻ giết người, đốt nhà đấy, mày biết không?

Tú Tốn quay lại hỏi ý kiến huyện Châm và Tú Tích. Huyện Châm nói lại với Đồ Phổ Nghĩa, mấy người trao đổi với nhau một lúc, rồi Chánh án lên tiếng:

- Chứa người gian phi chống lại nhà nước, trượng 100 gậy, tù lao dịch ba năm.

Hắn hỏi tiếp sang Ả Chí:

- Mày đến đây từ bao giờ? Đã làm những gì? Nhớ không?

Ả Chí điềm tĩnh nói:

- Tôi đến đây đã ba tháng. Tôi bị quan Nam, quan Thanh bắt tất cả ba lần, nhưng rồi họ lại thả tôi ra. Tôi về ở với Ả Sìn, hai anh em lần lữa bán hàng kiếm ăn thôi. Lần này lại bị bắt nữa là bốn.

Tú Tốn lắc đầu nói lớn:

- Mày nói láo! Bang trưởng đã trình rõ lai lịch, mày là người của bọn Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc cho về đây để giết hại người Khách và quan Đại Phú. Vụ cháy ở phố Thanh Hà là do chính mày gây ra, vụ các quan Nam xử tử các ông Tống Tài, Sâm Ký, là tại mày vu cáo.

Ả Chí cười nói bác bẻ đi:

- Chúng mày đoán mò, bịa ra tội, đem xử án bọn tao để ra oai với dân chúng. Tao tiếc rằng tao không làm được như lời mày buộc. Nếu tao giết được bọn giặc cướp nước để người Khách, người Nam cùng được sống yên ổn làm ăn, không bị bọn tham tiền vụ lợi, bán nước hại dân, rước giặc ngoài về giầy xéo, thì còn vinh dự gì bằng! Còn việc Tống Tài, Sâm Ký, mày hỏi các quan An Nam ấy, chứ có việc gì đến tao? Tao chỉ biết rằng những thằng ấy chết đi, các Khách trú hàng bang ở đây đều hả dạ cả, vì chính bọn chúng dắt bọn Tây về đây lục lọi ăn quẩn cả dân Nam và
dân Khách.

- Thì đấy, tội mày rành rành ra đấy. Tú Tốn nói, mày đã nhận rồi đấy!

- Mày bảo đấy là một tội, Ả Chí nói nghiêm nghị, thì tao cũng mong làm thêm được một tội nữa là muốn trừ được một đứa vô liêm sỉ hại dân, hại nước như mày!

Tú Tốn tức quá, không cần hỏi ý kiến quan thầy, hùng hổ tuyên án ngay:

- Được! Mày muốn thế, tao cho thế! Mày là thủ mưu tất cả mọi vụ, xử chém ngang lưng bỏ chợ!

Thế là xử xong cả năm bị cáo. Vừa lúc ấy, cố Phước ở bên nhà thờ sang, đi qua ngoài sân nhìn chăm chú năm bị cáo, rồi bước lên thềm đình. Tất cả bốn người đều đã đứng lên ra cả ngoài hè đón, lão niềm nở bắt tay, rồi cùng với Đồ Phổ Nghĩa đi thẳng vào bên trong hương án, dưới cửa võng chính tẩm, đứng bàn riêng với nhau. Một lúc sau, tất cả năm người đều ra đứng cả trên hè, bên ngoài cái sập gụ giải chiếu cạp điều. Hai hàng lính Tây đã đứng dàn ngang ra theo hai bên cửa đình, lính Sài Gòn đứng án ngữ ba mặt sân, năm bị cáo bắt buộc phải ngồi ở dưới sân trước mặt dân chúng sau một hàng rào lính bao giữ. Ở ngoài đường, những lính cơ của Đội Diệu đứng xếp hàng thẳng tắp, súng bồng và gươm giơ lên tua tủa. Trong cái quang cảnh trang nghiêm và im lặng vì lính đông hơn dân, Đồ Phổ Nghĩa bắt đầu nói và huyện Châm dịch ra tiếng ta:

- Hỡi dân chúng. Có vụ án này là do lòng thương dân của nước Đại Phú, của quan Đại úy An Nghiệp muốn cho dân được yên ổn làm ăn, an cư lạc nghiệp. Các quan đã bắt được những kẻ gian phi phá hoại, đã lập tòa án xét xử công minh. Nhưng thể theo lòng nhân từ của đức cha giám mục Puy-gi-nhi-ê, người xin chỉ trừng trị nặng những kẻ đầu sỏ thủ mưu mà khoan nhẹ những kẻ tòng phạm, và để tỏ rõ độ lượng khoan hồng của nước Đại Phú, bản án đã tuyên nay đổi lại như sau: Hai án thủ phạm xử tử hình của tên Tạ Văn Đình và tên Lâm Chí vẫn giữ như cũ. Ba án được đổi lại như sau: án tử hình của tên Nguyễn Hữu Phúc giảm đẳng xuống đày viễn châu tức là vào Hà Tiên mười lăm năm; án trượng 100, tù lao dịch ba năm của tên Ả Sìn giảm xuống trượng 60 gậy, tù lao dịch một năm; án trượng 60 gậy tù một năm của sư cụ chùa Phúc Viên vì xét đến tuổi già, giảm xuống đánh 20 roi mây cho nhớ tội. Như thế để tỏ rõ cho dân chúng biết rằng, trừng trị là để cải hóa, chứ không phải là giết chóc để trả thù, càng để tỏ rõ thực tâm của nước Đại Phú Lãng Sa muốn giúp đỡ người Bắc kỳ lập lại nước cũ của mình, nước của vua Lê ngày trước. Quan Đại úy An Nghiệp đang tiến quân đi bình định các tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình, Nam Định, Sơn Tây. Quan quân đi đến đâu là thu hồi đất về đến đấy, và quan chức được thiết lập ngay như ở đây. Chỉ trong tuần nhật, toàn cõi Bắc kỳ này sẽ thu hồi và giao trả con cháu vua Lê là Lê Duy Đồng, lập lại nước cũ của người Bắc kỳ. Vậy cái ngày xử án hôm nay, chính là bước đầu để xây dựng cái nước cũ độc lập ấy, giữ gìn trật tự cho thành một nước hùng cường như nước Đại Phú Lãng Sa và là bạn của nước Đại Phú Lãng Sa. Và cái án được giảm nhẹ này cũng là để tỏ rõ cái mục đích lớn lao như các ấn dấu của các quan ở đây đã in rõ: “Đại Phú quốc bảo hộ dân”.

Ngừng lại một lát, hai tên giặc lấn cướp lại lần lượt nói tiếp:

- Bản án này cần phải thi hành ngay để giữ được hiệu quả tốt trong dân chúng, nên đức cha đã thân đến đây làm lễ rửa tội cho hai kẻ tử tội, còn những bị cáo kia cho giải về trại quân để thi hành tội trạng. Phép nước vô tư, tất cả dân chúng hãy coi gương này mà giữ gìn trật tự, góp phần tái lập một nước Bắc kỳ vững mạnh.

Ba phát súng bắn chỉ thiên chấm dứt lời khuyên nhủ của Đồ Phổ Nghĩa. Thế là kết liễu vụ án chống đối, dân chúng lại bị xua ra về giữa hai hàng lính súng gươm tua tủa đứng hai bên đường bờ hồ bên ngoài đình Tô Mộc, mọi người đều lặng lẽ đi bên nhau, không ồn ào, không chen chúc như lúc mới đến, nô nức đi ngó cho biết rõ mặt tên Đồ Phổ Nghĩa mắt sâu râu rậm thế nào, giờ đây ai nấy đều như cố nén một nỗi thổn thức đau thương đượm màu tang tóc mà ngay lúc ấy không có cách nào cứu vớt, vì ngay lúc ấy, sau khi cố Phước hỏi qua loa mấy câu rồi làm lễ rửa tội lấy lệ, cốt là để lừa dối dân chúng và lừa phỉnh bọn lính đạo, hai vị liệt sỹ Cử Đình và Ả Chí đã bị đưa ngay ra vườn dừa ở phía bắc Hồ Gươm trước đền Cổ Vụ để xử quyết. Dân chúng đang xôn xao nháo nhác quanh hồ, ai nấy đều ngậm ngùi, không ai bảo ai, mà chẳng ai đi qua vườn dừa trên đầu hồ nữa, mặc cho cái sọt tre đựng cái đầu ông cử Nga My với một tờ giấy ghi rõ họ tên, quán chỉ, và tội trạng “bạn nghịch chống lại các quan Đại Phú”, cứ treo lủng lẳng dưới tàu lá dừa trơ trọi với trời cao đất dày, chứ không dọa nạt được ai! Còn xác bị chém ngang lưng của Lâm Chí bị vứt ở chợ Hàng Bè cũng cùng một cảnh hoang vắng, quạ xuống trong bóng trời chiều xiên khoai vàng ủng. Cảnh thê lương càng khiến lòng người đối cảnh và nghĩ đến cảnh thêm bội phần thê lương!

--------------------------------

1

Lửa sinh ra gió.

2

Trong sạch tốt đẹp.

3

Mil vingt cinq: Một nghìn hai mươi nhăm, số lính của anh lính ấy.

4

Nước Đại Phú bảo vệ dân.

5

Francis Garnier.

6

Gọi dân về làm ăn yên ổn.

Chương VIII

Ngay buổi chiều hôm ấy; ông từ đình Xuân Yên đã nhờ một anh thợ thêu ở phố Hàng Nón, nhà ở bên cạnh đền mậu Thuận Mỹ, đi lẻn ra vùng quê Thanh Trì báo tin buồn ấy cho bà con thân thuộc chạy tản cư biết. Anh thợ thêu này vội đi ngay, nên không hỏi rõ đích xác, đã báo theo đúng như Tú Tốn đã kết tội, có ba người bị chém bêu đầu là ông cử Tạ Văn Đình, chú khách Ả Chí và bác Hai Phúc bờ hồ. Ông cử Kim Cổ quyết định cho một số người về lấy thủ cấp và xác bêu của ba vị liệt sỹ tử nạn đem ra ngoài này làm lễ mai táng. Cả bọn hơn hai chục người chia làm ba toán đi theo những lối thông thuộc riêng của vùng mình ở, hẹn nhau gặp lại cả ở thôn Phúc Lâm, quê bác Hai Phúc. Mấy ngày hôm nay, Tây và ngụy kiểm soát canh phòng nghiêm ngặt hơn. Nhưng vì không đủ quân và những quân lính ngụy hiện có đều nơm nớp sợ nhân dân trừng trị, chứ không còn hung hăng hống hách như mấy hôm đầu nữa, nên tối đến, chúng chỉ dám tập trung đông người canh giữ mấy cửa ô chính sát gần thành và mấy ngã tư lớn gần trường thi và nơi đông dân cư. Những thôn ở ba tổng miền tây nam, Kim Liên, Vĩnh Xương, Yên Hòa đều là khu trống, nhân dân ra vào tự nhiên, nhất là trong đêm tối. Cả ba toán quen thuộc đường lối, tránh những nơi có lính ngụy canh, đi thông thống đến ngay thôn Phúc Lâm. Ở đấy, cả bọn họp lại tạm nghỉ chờ đợi, cử riêng hai đoàn gồm năm người thuộc lối nhất: cậu ấm Ba Tự Tháp, anh thợ thêu Hàng Nón, anh Tín, cô Hiền và anh Sản, người thôn Phúc Lâm. Đợi đến khuya, năm người mang theo võng, chiếu buồm mới vượt qua đường Thập Lý, đi qua thôn Vọng Đức, quành cánh đồng vào đầu làng Cựu Lâu, vòng phía sau chùa Liên Trì, đi qua làng Yên Trường lên làng Trang Lâu, vào Nam phố ra chợ Hàng Bè. Bốn bề im lặng, không một tiếng chó sủa. Chỉ có tiếng gió heo may mới nổi từ chập tối thổi từng đợt rào rào. Có lẽ giời cũng oán hờn thương xót người ngay chăng, nên mới hiển linh giúp đỡ thế chăng? Cậu Ba Tự Tháp rỉ tai nói nhỏ với mọi người ý nghĩ của mình để khích thích mấy anh thanh niên. Tiết tháng một giá lạnh, nhưng ai nấy đều đang nóng ran, bừng bừng căm tức và mong mỏi mau chóng thu lượm được di hài trung nghĩa của ba người thân tiết liệt, nên đều mải miết đi, không biết gì đến nguy hiểm cả. Họ lặng lẽ mải miết đi một mạch đến nơi, không vướng gặp một ai. Khu chợ càng thêm hoang vắng hơn nữa. Qua ánh sáng ruồng lờ mờ, mấy người mò mẫm đi tìm khắp các khoảng đất trống đến các lều rỗng đứng riêng ở ngoài, đều không thấy gì cả, cậu ấm Ba hỏi khẽ anh thợ thêu:

- Hay nó chưa xử quyết?

- Nó chém rồi cơ mà! Anh kia đáp. Chính lúc tôi đi đã thấy nói nó quẳng xác chú Khách ở chợ này rồi mà!

Anh Tín sốt ruột muốn lại ngay đằng bờ hồ, nói xen vào:

- Hay là nó đem lại cả đằng vườn dừa rồi. Ra đấy xem đã!

Năm người lại im lặng nhẹ nhàng đi như lướt theo gió ra phía Hồ Gươm. Họ phải đi chếch xuống Trang Lâu rồi mới vòng lên để tránh qua ngã tư, rồi lần mò men theo bờ hồ vào đến vườn dừa. Gió từng cơn qua hồ Thái Cực xuống khoảng hồ dưới này rộng mông mênh càng được thể rít lên ù ù, những tàu lá dừa cứ phất cánh rào rào như cũng cố khua tiếng động và xòe ra che chở cho bọn người mới đến này thực hành được mau gọn ý định thiêng liêng của họ, không thể cho một người ngoài nào có thể biết được. Tiếng gió bốn bên cứ rì rầm họa lại như những tiếng u hồn nhắn gọi xa xăm. Cậu ấm xúc động lẩm nhẩm khấn:

- Lậy ba vị sống khôn chết thiêng, xin ba vị phù hộ độ trì cho chúng tôi được khâm liệm mai táng ba vị mồ yên mả đẹp, phù hộ cho chúng tôi đánh đuổi sạch bọn quỷ Tây, quỷ Đông cướp nước!

Năm người lanh lẹn chia nhau đi lần tìm khắp các gốc dừa. Nhưng quái lạ! Cũng đều không thấy dấu vết gì. Năm người cùng kinh lạ chụm lại như hỏi nhau. Cậu ấm nói:

- Có lẽ nó chưa giết! Nếu nó chém rồi nhất định nó phải bêu đầu ở đây để dọa dân chứ!

Anh thợ thêu nói:

- Tôi đi ngay, cũng chưa được trông thấy, nhưng nhiều người nói đích xác là nó đã xử ngay ba người ở vườn dừa này rồi mà! Hay có người đã đến rước đi trước chúng ta rồi!

Anh Tín nói:

- Các vị trung nghĩa chết bất đắc kỳ tử thiêng lắm, các vị tự thu lấy hài cốt đem ký táng vào đâu đấy. Ta về lập đàn tràng cầu khẩn giải oan cho các vị rồi các vị báo mộng cho.

Cậu ấm gạt đi:

- Cái anh này chỉ nói nhảm, chết trung vì nước, tuẫn tiết, làm sao lại phải giải oan. Tôi chắc như anh gì vừa nói, dân chúng đã nhanh chân hơn bọn ta, dân chúng đã bất chấp cả bọn giặc đe cấm, họ đã mai táng cho ba vị trung nghĩa rồi!

Cô Hiền nghĩ không tìm được thủ cấp và xác cha, quá xúc động và tủi thân, bỗng khóc nức nở. Anh Tín phải ngồi sát lại giơ tay bịt mồm em gái, nói:

- Thôi, nén đau đớn đi em ạ, khóc bây giờ lộ ra thì chết cả nút!

Cậu ấm cũng khuyên:

- Cha chết bất đắc kỳ tử, ai mà chả đau xót! Nhưng phải cố nén đi để báo thù và còn lo nuôi mẹ, nuôi em. Lỡ việc bây giờ là hỏng bét cả đấy!

Mấy người còn đang mải rì rầm sụt sịt, bỗng trong tiếng gió ào ào, có vẳng tiếng chân người đi mau huỳnh huỵch tiếp ngay tiếng quát hỏi:

- Chúng bay tụ tập gì đây, trai gái thế này, phi dâm tắc đạo! 1

Mấy người nép vào gốc dừa, giữ thế thủ, nghe ngóng. Anh Tín lên tiếng hỏi, bình tĩnh và ngọt ngào:

- Tiếng ai quen quen? Có phải anh Thạch đi tuần đá?

Người kia không tiến lại gần, cứ đứng im một chỗ, nói ra vẻ hách dịch:

- Ai quen gì chúng bay! Đú đởn? Hay chực đi ăn trộm đầu lâu? Đằng nào thì cũng có tội! Khôn hồn thì ra ngay đây! Không tao rúc tù và cho gọi quân lính đến vây bắt bây giờ!

Cậu ấm Ba đủng đỉnh nói:

- Anh cứ rúc tù và cho nhiều người đến đây, tôi lại càng dễ nói là anh đã giấu đầu lâu đi, rồi vu cho chúng tôi, chứ khám bọn chúng tôi chỉ có đầu lâu bọn chúng tôi thôi đấy!

- Gớm, lý sự nhỉ!

- Thôi đừng đùa nữa! Đúng bố Thạch Hà Thanh rồi. Anh phải canh đầu lâu à? Thì đâu cả rồi?

Tín vừa hỏi, người kia đi rón rén lại gần, hạ thấp giọng hỏi:

- Ai. Tín đá? Chết! Định đi đâu đấy? Nhưng ai nữa kia?

- Người Cựu Lâu, Yên Trường cả đây mà! Anh Tín nói vội. Định ra mai táng. Tội nghiệp mấy ông. Nhưng mà đâu cả rồi?

- Không phải người Cựu Lâu, Yên Trường, vì hai thôn ấy họ ra đây từ hồi nẫy. Thôi, yên đẹp cả rồi, về đi! Không nhỡ gặp bọn chó chạy rông thì chết. Đi đi, tôi đưa đến đằng sau chùa Quan Thượng.

Mấy người lại lặng lẽ chống gậy khoác võng đi ra. Anh thợ thêu Hàng Nón nói với anh Tín:

- Thôi đã vào đến đây rồi, để tôi về nhá!

- Liệu có đi được không? Nhỡ ra thì khốn! Cậu ấm Ba nói.

- Được tôi đã có cách, tôi đi luồn vòng qua cái ao Hàng Quạt, anh kia nói. Để đến mai vào lại thêm khó.

Anh Thạch dừng lại nói:

- Này, đừng có mà liều, nó mà vớ được là nó chặt ngay! Cứ ở đây làm tuần phu với tớ, vào kia ngủ khoèo đến gần sáng hãy về.

Năm người lại lặng lẽ đi theo anh dẫn đường. Cậu ấm Ba phấp phỏng lo sợ, không dám tin hẳn vào anh phu tuần này, bỗng hỏi nửa đùa, nửa thực:

- Anh dẫn chúng tôi đi đâu? Ra chùa Quan Thượng hay ra trường thi?

Anh kia nói ngay:

- Tôi dẫn vào đâu cũng được cả, vô phúc anh nào thì anh ấy chết! Tôi đưa các anh về hàng ông Hai là cùng chứ gì?

Anh ngoảnh lại đứng đợi cho bọn kia đi vượt lên, thấy cô Hiền sụt sịt khóc, liền hỏi ngay:

- Sao lại khóc? Sợ à? Con gái đã cả gan vào đây lại còn khóc? Thương thì thương, nhưng chưa chết còn là may!

- Anh nói sao? Ai chưa chết? Tín hỏi giật!

- Ông Hai chứ ai. Nó mới chém có hai người, còn nó cho xuống tàu đi Gia Định cả rồi. Hiện đương ở ngoài giữa sông kia kìa.

- Anh nói dối, Tín nói, anh em tôi phải mò vào đây là tìm xác ông chú tôi.

- Ai còn dám nói dối cái sự can hệ như thế chứ! Anh Thạch nói.

Vẫn ngờ là anh kia nói lảng ra thế để an ủi, và còn đang lo đối phó với mọi tình thế bất trắc, không ai hỏi thêm gì nữa, cứ lặng lẽ đi theo anh kia. Đã qua làng Hà Thanh, sát gần đường Thập Lý bên bờ hồ, mỗi người phải đi tản ra cách nhau xa một tí. Gió heo may ào ào thổi qua mặt hồ, sóng vỗ vào bờ lép bép, oặp oặp, nghe như có tiếng ai nguyền rủa, giận dữ. Nhìn sang thôn Tự Tháp bên kia, mờ mịt đen thẫm một màu chẳng thấy gì cả, cậu ấm sực nhớ đến lời ông bạn già Tam Sơn nói trong quán bác Hai đằng kia mới cách đây hơn một năm. Rõ ràng lúc ấy ông đã có ý lo xa cho cảnh đã dĩ phi! Thế mà nay cảnh khác thật rồi. Quán bên hồ còn kia, mà chủ quán nay không còn ở đấy nữa, vợ con phải siêu dạt đi nơi khác! Còn anh em thì mỗi người tản mát một nơi! Nhà cửa, làng mạc của mình kia mà không được ở, phải lánh đi, chịu để bọn giặc khác giống nó hoành hành! Quán mát bên hồ nay đã thành của riêng của bọn chúng nó rồi. Không thể để như thế được!

Cậu ấm đang mải chìm đắm trong suy nghĩ, anh tuần đi trước thỉnh thoảng dừng lại đợi và đếm số người, thấy thiếu một, vội chạy lại nắm lấy cậu ấm, cáu tiết giục:

- Có mau lên không? Hay muốn la cà đi vào hàng ông Hai để đi theo ông Hai?

Anh Tín cự lại:

- Này anh Thạch ạ, trong lúc hoạn nạn này anh không nên chế nhạo chúng tôi! Anh đưa chúng tôi đi thì đưa cho tử tế. Đã vào đến đây và đương lúc tức giận này chỉ có liều chết thôi anh ạ.

Anh kia phải nói chữa:

- Ấy là tôi giục thế, vì địa phận tôi đến đây là hết tổng Đông Thọ rồi, đi quá nữa tôi xin lậy cả nón.

Cậu ấm phải xen vào nói đỡ:

- Được! Anh đưa đến đâu, chúng tôi cũng xin cám ơn đến đấy. Chỗ nào không có anh, chúng tôi sẽ tự liệu.

- Tôi đưa đến chùa, tôi sẽ canh ở tháp Hòa Phong cho các anh đi lối sau chùa.

Anh tuần nói thêm. Và cả bọn lại lặng lẽ đi. Đến chùa Liên Trì, anh tuần và anh thợ thêu dừng lại, bốn người kia khẽ chào rồi đi biến lẩn vào sau chùa, đi qua làng Cựu Lâu, lại theo lối đi lúc nãy qua thôn Vọng Đức để về thôn Phúc Lâm. Đi không được việc, nhưng hết đêm hôm ấy, cả bọn, ba toán, lại đều đã trở về được đến nơi xuất phát không xảy ra việc gì cả.

Sáng sớm hôm sau, mọi người ra báo rõ tình hình đi vào vườn dừa tìm thủ cấp và thi hài các liệt sỹ và thuật lại tinh thần nhân dân ở trong phố cho bà con nghe, ông cử Kim Cổ liền quyết định làm lễ phục hồn cho ba người đã chết trung vì nước, nhân đó làm lễ tế cờ, ăn thề với nhau để kích thích chí phục thù cứu nước. Ông Cử nói thêm sau khi đã quyết định:

- Cậu ấm Ba có nhắc lời anh tuần phu ở Hà Thanh bảo bác Hai Phúc của chúng ta chưa bị giết. Điều đó chưa chắc hẳn, có lẽ anh tuần ấy nói ra thế để an ủi cháu Hiền chăng? Vả đã ở trong hang hùm nọc rắn thì dù chưa chết lúc này thì trước sau rồi cũng chết mà thôi! Cho nên ta cứ làm lễ truy điệu phục hồn một thể để gợi thêm chí khí địch khái 2 ở mọi người dân chúng ta. Các vị nghĩ thế nào?

Mọi người đều vâng theo ý định của ông Cử. Một đàn chay được thành lập ngay giữa giời, trong sân đình làng Thịnh Liệt, nơi thờ bậc cao sỹ Chu Văn An đời Trần. Bàn thờ giản dị nhưng trang nghiêm, ba cái bài vị gỗ đứng ngang hàng thẳng tắp, trên mỗi cái dán một tờ giấy gấp phong mép lại viết tên và chức tước người đã tử tiết. Bài vị ông cử Nga My đặt ở giữa, bên tả là bài vị Ả Chí và bên hữu là bài vị bác Hai Phúc. Hai bên đàn, ông cho treo câu đối vải trắng tự tay ông viết bằng nước lá đậu ván:

Ba vị, ba nơi, vì nghĩa chết cùng giờ, cùng chỗ.

Muôn người, muôn trí, báo thù thề chung sức, chung lòng.

Đàn chay phục hồn làm vội vàng gấp rút chỉ trong nửa buổi thôi. Thế mà nhờ có mỗi người một việc, đã đâu vào đấy cả, đủ lễ tam sinh, đủ hình nhân truy táng, và có rất nhiều câu đối viết trên vải trắng đeo quanh đòn. Ông cử Kim Cổ đứng chủ cuộc lễ. Sau khi hai thầy tự đã đọc kinh khấn thần phật và cầm nén hương đang cháy múa viết từng chữ trên không và làm phép khai quang điểm nhỡn cho ba hình nhân xong, ông Cử đứng ra khấn lễ tạ, rồi nói dõng dạc như nói chung với tất cả:

- Lậy ba vị, ba vị sống khôn, chết thiêng, sống anh dũng, chết oai linh, xin ba vị đằng vân giá vũ, giáng lâm trai đàn 3 , chứng giám cho tấm lòng thành kính của chúng tôi và chứng giám cuộc lễ thề xuất quân của anh em chúng tôi đi đuổi hết giặc dữ, lấy lại non sông! Các vị linh thiêng, xin phù hộ độ trì cho anh em chúng tôi sở cầu như nguyện…

Quay ra nhìn mọi người cùng đứng trước đàn chay, ông nói đanh thép hơn:

- Trước hương hồn ba vị tử trung, tôi xin thề noi gương trung nghĩa của ba vị, nguyện đến chết không thay lòng đổi dạ, đem hết sức tàn trong cuộc sống thừa ra cố gắng cùng mọi người đánh đuổi bọn sài lang cướp nước! Tôi nguyện đem những người cùng chí với tôi đi theo quan quân đánh giặc cứu nước. Tôi ăn ở hai lòng sẽ chịu giời tru đất diệt!

Rồi ông quay mặt nhìn khắp cả một lượt và nói như truyền lệnh:

- Bây giờ mỗi hiền hữu vào lễ vĩnh biệt ba vị anh linh, tỏ chí mình: hoặc là về làm một việc nội ứng ở trong thành, hoặc đi theo quan quân đánh đuổi giặc nước, hoặc làm một công việc gì khác có lợi cho nước lúc này, xin để tùy ý lựa chọn, tùy tài, tùy sức. Có điều lúc này, ta phải làm một việc gì, mà làm ngay tức khắc, chứ cứ nấn ná đợi thời thì muộn lắm rồi! Bọn quan tỉnh Hà Nội vô tài lại quá tin bọn kẻ cướp, nghĩ rằng nó cũng thực tâm như mình, đã ngăn cấm chúng ta, bắt chúng ta đợi quá lâu rồi! Bây giờ ta phải sốt ruột, nhanh chân, nhanh tay mới được, mới mong bù lại cái chậm ấy.

Sau đây mọi người lần lượt vào lễ trước bàn thờ, nhìn lên ba bài vị mà những vòng khói hương nghi ngút đang bốc lên quấn quít, lững lờ, là là lan tỏa như có hương hồn ba vị tiên linh về chứng giám và quyến luyến với mọi người. Mỗi người đều nói tỏ chí mình, nguyện noi gương người trước mà chiến đấu đến hơi thở cuối cùng… Lễ xong rồi, mọi người rước ba hình nhân đặt vào ba cỗ quan làm bằng giấy, khiêng ra đồng làm lễ mai táng. Cuộc lễ tiến hành giản dị nghiêm trang và cảm động càng kích thích, thôi thúc mọi người, đồng thời cổ động thêm lòng dân làng chung quanh cùng bùng lên một luồng phẫn nộ căm thù.

Mấy ngày sau cuộc lễ truy táng, các văn thân Thọ Xương họp nhau lại cùng với dân chúng lập ra một đội quân mộ nghĩa. Đội quân mộ nghĩa này cũng giống như đạo quân nghĩa sỹ trước nhưng được kén chọn kỹ hơn, vì số người đi theo đông hơn nhiều. Và như ông cử Kim Cổ thường nói với anh em:

- Chúng ta phải chọn những người thật tráng kiện dũng cảm đi xông trận giết giặc. Chứ không phải có sự kẻ khinh người trọng. Còn thì lòng trung nghĩa đều như nhau cả. Công việc còn nhiều, chúng ta sẽ mỗi người tùy tài, tùy sức mà giúp vào, chúng ta cùng người một hội, một thuyền, cùng một chí hướng “chữ đồng” cả.

Đội quân mộ nghĩa lần đầu xuất trận đã đánh lấy lại được thành phủ Hoài đem giao cho quân của quan Thống đốc Hoàng Tá Viêm để xin được đứng dưới quyền chỉ huy cho đúng phép. Hoàng Tá Viêm hiện là Bắc kỳ tổng thống quân vụ đại thần, Thống đốc Tam Tuyên, chuyên việc tiễu phạt giặc khách, mới được điều về chặn đánh giặc Pháp. Ông đang đóng quân ở làng Hương Canh, nhận được đội quân này, ông liền ra lệnh cho cùng ứng chiến phối hợp với quân của Lưu Vĩnh Phúc vừa được triều đình phong chức Đề đốc và cũng vừa được điều về đóng ở các làng ven sông Nhuệ. Nhận được lệnh rồi, toàn đội kéo lên đóng ở Chèm để tiện liên lạc với anh em bà con bên Phù Lỗ và Đông Ngàn, gây thành thanh thế bao vây thành Hà Nội cả bốn phía. Ở đây, ông cử Tam Sơn được tin đã thân dẫn đội quân mộ nghĩa của tỉnh Bắc sang họp. Nhân cuộc họp mặt cả hai đội quân Hà Nội và Bắc Ninh, ông đứng lên nói rõ tội ác và âm mưu của giặc và nhắc đến nghĩa vụ của mỗi người phải đền nợ nước, báo thù cho bạn. Cuối cùng, ông nói:

- Tất cả dân chúng trong ấy đều một lòng trung nghĩa, quyết chí cùng nhau giết giặc, phá hoại mọi công cuộc của chúng nó. Nên bọn nó lồng lộn lên đi vây xét lùng bắt, chỉ quờ liều lấy ba nghĩa sỹ của ta. Bọn nó chủ tâm tàn sát ba vị để mong tỏa triết được chí khí của dân ta. Nhưng chính lại là tưới dầu vào lửa. Nợ nước thù bạn càng thêm thôi thúc chúng ta căm thù sôi sục. Chúng ta càng cứng rắn kiên cường hơn và càng mong được mau tiến quân đi đánh đuổi giặc ngay. Vậy chúng ta cần họp bàn cùng nhau, nối tin tức ngay với trong ấy, để trong ấy vững lòng mà khéo làm nội ứng ngoại hợp, mở rộng chữ “đồng”, cho mục đích chúng ta chóng đạt. Tôi mong các vị bàn bạc với nhau cho kỹ, cho rộng mọi lẽ. Có như thế thì lúc bắt tay vào làm mới không lúng túng…

Trong văn thân tỉnh Bắc sang họp có một người trẻ tuổi đứng ra trình diện và xin nói, rồi ông ngâm ngay một bài thờ làm lễ tương kiến:

Chuột vẫn còn lẩn núi.

Kình chợt quẫy mặt sông.

Tóc đỏ không vỡ mật.

Mặt trăng khó vân lòng

Gai mật lo dân nước

Khói bụi thảm cố cung!

Quân ta mau thẳng tiến.

Uống say ở Thăng Long!

Người ấy ngâm xong rồi nói thêm:

- Đây là bài “khẩu hiệu” của tiểu đệ mà cũng là ước mong của tiểu đệ. Xin trình tất cả các vị, tiểu đệ là Hoàng Văn Hòe, người Phù Lưu, Chợ Dầu, Bắc Ninh. Con giai chợ Dầu tỉnh Bắc đều một lòng mong mỏi như thế và nguyện theo các bậc đàn anh đến cùng...

Ông cử Tam Sơn đứng ra giới thiệu thêm:

- Anh bạn Hoàng Văn Hòe đây mới đỗ Cử nhân khóa trước, năm nay vừa hai mươi nhăm tuổi, đã mộ quân giúp quan phủ Từ Sơn Trương Quang Đản, đánh xuống tận Gia Lâm, sát bến Bồ Đề, làm cho giặc Phú không dám sang sông. Chí anh muốn đánh thẳng vào Hà Nội triệt giặc ngay từ gốc mới hả lòng. Nhưng quan phủ Từ Sơn được quan trên khen thưởng rồi, liền ngăn không cho anh tiến quân nữa. Nên lần này được tin chúng ta hợp ở đây, anh hăm hở sang ngay. Bài thơ này có ý nhắc quan Phủ nhưng ngài không muốn nghe, nên mới lại có dịp đem trình với anh em chúng ta.

Mọi người được biết rõ ý nghĩa bài thơ và con người làm ra bài thơ ấy đều vui vẻ tán thưởng khen hay và cho là một lời cửa miệng nhắc khéo mọi người. Ông ấm Cầu làng Vẽ tấm tắc khen:

- Câu kết này nói hộ được ý cho cả anh em Hà Nội chúng tôi. Ta phải đánh thẳng vào Thăng Long, ăn gan uống mật quân thù cho say sưa túy lúy một mẻ! Thật chí khí hùng hơn cả quân Nhạc Phi67] đánh đuổi quân Kim ngày xưa!

Ông cử Tam Sơn vội đứng ra nói thong thả rành rọt:

- Thưa tất cả các vị, các hiền hữu, diệt thù cứu nước là lòng mong mỏi của tất cả mọi người, có kể gì Hà Nội hay Bắc Ninh. Cho nên ta không nên phân biệt ra như thế, mà càng cần góp mưu trí của mọi người lại để định ra kế đánh chung...

Giữa lúc ấy có một ông ở trong thành vừa ra đến nơi được đưa vào dự họp. Trông thấy cuộc họp đông đủ nghiêm trang, ông ta mừng quá đứng lên nói:

- Đi ra giữa ban ngày khó quá, chúng nó khám và giữ ngặt lắm, tôi phải khéo xin được cái giấy đi mua lợn, nó mới cho đi đấy. Chả là vì có cái việc cần thế này phải báo ra cho các vị: Triều đình đã cử các quan mới cho tỉnh Hà Nội, các quan đã ra đến nơi cả rồi. Quan Tổng đốc Trần Đình Túc, quan Tuần phủ Nguyễn Trọng Hợp, quan Án sát Trương Gia Hội, quan Đề đốc Hoàng Đôn Điển, các quan ra thương thuyết với Tây để chuộc lại thành trì. Thằng quan tư An Nghiệp cũng mới từ Nam Định trở về tạm ra lệnh đình chỉ mọi sự đánh nhau để gây lại tình thân thiện thuận lợi cho cả hai bên bàn bạc. Quan Tuần mới cũng đã thông sức cho dân chúng yên tâm bình tĩnh đợi triều đình khu xử, chớ nóng nẩy.

Có tiếng nhao nhao lên:

- Lại thương thuyết!

- Lại đợi!...

- Đợi cho đến nó lấy hết Bắc kỳ!

Ông cử Tam Sơn đứng lên hỏi át mọi người:

- Thế bây giờ các quan ở đâu?

Người mới đến nói:

- Bẩm ở cả trong thành với bọn Phú.

- Thế còn lính đạo?

- Thưa cụ, chúng vẫn đóng ở ngoài thành với lính khách và ở trường thi.

Ông mền Kim Liên nói:

- Hà Nội gặp khó khăn, triều đình mới cử người sở tại ra tận nơi cáng đáng công việc, có ý để khuyên bảo dân cho dễ.

Ông cử Hoàng Mai Nguyễn Tảo cũng nói theo:

- Quang nghè Kim Lũ ra phen này có thể làm xong việc đấy. Quan sang có mả, kẻ cả có dòng. Đất Kim Lũ là đất phát:

 

Văn chiếm khôi khoa 4 ,

Võ mang tiết phủ 5 .

Hưởng lộc nghìn chuông 6

Nước nhà cột trụ…

May nhờ có cái đất ấy mà nên công trạng thì thật là vừa phúc cho quan Nghè, vừa lợi cho nước nhà. Đã đỗ Tiến sỹ lại nắm tiết việt đi ra khâm mạng lúc này chả đúng vào kiểu đất một phần là gì?

Ông cử Tam Sơn nói gạt đi:

- Văn thân ta mong ngày mong đêm cho các quan giỏi ra làm trọn vẹn được sự vụ của mình đối với triều đình, đuổi được Tây, lấy lại được thành. Nhưng chúng ta cũng chớ vội tin vào dã tâm tráo trở của bọn giặc mà cứ ngồi yên đây chờ đợi. Chính ra, ta cứ đánh mạnh lại càng giúp thêm cho các quan có cái thế mà bắt bọn Tây phải theo đúng như ý ta. Vả lại ta nên nhìn rõ vào tình thế trước mắt, chứ không nên hồ đồ chỉ tin vào đất cát. Huống hồ kiểu đất Kim Lũ có đẹp thật, có phát lớn thật đấy, nhưng lại còn có thêm mấy vần ở đằng đuôi nữa cũng không đẹp gì lắm, mà hiền hữu Hoàng Mai chưa đọc hết. Đó là:

Chỉ ghét nhiều tà,

Không theo quy củ!

Cái không đẹp ấy mà lại ứng được vào người thì sẽ ra sao. Đã có một số ông Thám, ông Bảng, đã nộp thành cho giặc sờ sờ ra đấy. Ngộ nhỡ quan Nghè cũng không theo quy củ, nhường đất cho Tây như quan nghè Phan Thanh Giản ở Gia Định thì sao? Thì được việc đấy, nhưng có lợi gì cho dân chúng ta không?

Ông cử Kim Cổ cũng nói:

- Vâng, chúng ta cứ biết lúc này cái thế của chúng ta là “quốc thù bất cộng đái thiên”, bất cứ lúc nào đánh được giặc là ta đánh ngay, đánh cho bao giờ nó trả lại thành, kéo quân cút xéo khỏi đất này mới thôi!

Ông chạy ra nói riêng với người ở trong thành mới ra:

- Bác trở về bảo anh em trong ấy có làm được gì cứ làm, nhất là trong lúc ngụy quan, ngụy quân chưa rõ ý định của bọn Tây thế nào, càng dễ hở cơ cho ta vùng vẫy. Phải chú ý đến mọi cử động của bọn Gia Tô để mà ngăn chặn trước mọi âm mưu của chúng. Ở ngoài này, bất nhật nay mai, chúng tôi sẽ đánh vào, nên việc quấy rối trước là cần, để chúng nó không thể chú ý nhận ra được. Phải tìm cách thông tin luôn ra ngoài này để trù tính hai bên cùng đánh, đông tung, tây hứng, điệu hổ ly sơn, làm cho địch càng hoảng sợ...

Ý kiến này đưa ra, mọi người bàn đi tính lại, đều cho kế hoạch như thế là phải. Hội nghị chuyển sang bàn cách tiến hành, chia cắt khu vực giao cho từng đội, từng người đảm nhiệm và đôn đốc. Các đội mộ nghĩa được chỉnh đốn hàng ngũ rồi về ăn ngủ tập luyện ở địa phương mình, tuần tiễu ở đấy và đợi dịp sẵn sàng chiến đấu. Những người ở trong thành phải chia nhau dò xét tình hình bên địch thật kỹ, tìm cách nào biết được nhiều chi tiết trong quân đội địch, trong ngụy quyền để báo ra cho ngoài này. Cậu ấm Ba cũng được cử lẻn về ngay đêm hôm ấy để góp phần cùng với những người dân phố điều khiển công cuộc chung. Lúc chia tay, ông cử Kim Cổ dặn:

- Cậu quen nhiều, người ta có thể che chở cho cậu, nhưng cậu cần kín đáo và bớt nóng hơn nữa. À nhớ gặp con Xuyến xem thế nào. Nó cũng có thể giúp nhiều việc đấy, nhất là để dò la bố nó…

Cậu ấm vâng nhận tất cả rồi đi ngay. Cậu cải trang thành dân nghèo, nhưng cũng không dám về làng chỉ quanh quẩn bên tổng Thuận Mỹ, nơi những phố phường đông đúc. Có thêm người chuyên ngồi thu thập tin tức thông ra ngoài, nên bên ngoài cũng được biết tình hình rõ ràng hơn, nhất là trong lúc ngụy quân, ngụy quyền lung tung không nhất trí với nhau. Bọn ngụy quan muốn dựa vào lính Tây ngầm bắt giết các quan triều đình mới ra, hòng phá cuộc thương lượng. Tên Bang biện tỉnh vụ Phạm Quang Diệu đem vàng bạc đút lót bọn lính Tây, nhờ chúng hạ thủ ngay tại chỗ bốn lão quan kia. Bọn lính Tây đã nhận lời bao vây chặt nơi trú ngụ của bốn quan Nam, đợi đến đêm sẽ ngầm giết tất cả. Chiều hôm ấy, tên đội Tây Sa Pô, đứng đầu cả bọn, đến xem xét để đặt cách hạ thủ, thì nhận ngay ra người quen cũ: Án sát Trương Gia Hội, ông này người Bình Dương tỉnh Gia Định đã quen Sa Pô khi ông được cử vào Sài Gòn đi thăm hỏi Súy phủ Phú trong dịp nước Phú bị nước Phổ tấn công. Chuyến đi tỏ tình hòa hảo ấy được trở về quê nhà, lại được bọn Tây quý trọng. Hội đã quen thân với một số quan lính Tây. Trong số đó có Sa Pô. Lần này Sa Pô gặp lại Trương Gia Hội, nhận ra người quen cũ, liền đòi tiền lễ đánh đổi, rồi mật báo cho Hội biết âm mưa của bọn ngụy quan. Trương Gia Hội cuống sợ, một mặt đưa tiền nhờ Sa Pô che chở, một mặt cùng với Trần Đình Túc đến nói với Gác Nhi Ê xin đổi chỗ ở và thay bọn lính canh khác. Phạm Quang Diệu thấy âm mưu bị lộ, liền đến Nhà chung bàn với cố Phước xin đánh úp ám hại cả bọn quan Nam. Cố Phước ngồi tựa người vào cái ghế bành, hai tay úp lên ngực, trầm ngâm suy nghĩ, rồi nói chậm rãi:

- Điều khó khăn bây giờ là An Nghiệp lại không cùng một ý với Đồ Phổ Nghĩa. Lúc trước cả An Nghiệp và Đồ Phổ Nghĩa đều cùng muốn lập lại con cháu nhà Lê làm một nước Đàng ngoài riêng như ngày xưa. Ta đã giúp cho họ làm được như thế và đã cắt cử xong bọn quan lại ở mấy tỉnh. Binh lính cũng mộ đủ cả rồi. Đồ Phổ Nghĩa cũng đang trù tính làm lễ đăng quang 7 cho cháu vua Lê. Việc lấy các tỉnh mau như thế là do công của ta xếp đặt từ trước. Ấy thế mà bây giờ thấy bọn quan lại triều đình dễ bảo, hợp với lòng mong mỏi của Súy phủ Sài Gòn hơn, nên chi thấy có quan triều ra, là ông ta muốn vồ ngay lấy. Nay An Nghiệp đã nghĩ khác như thế, mà dân tình ở đây lại rất ương ngạnh, trừ một số dân giáo ta còn giữ được họ trong đức tin, còn thì mọi người đều ghét ta cả, nếu ta giết hết bọn quan Nam này, tất lại có bọn quan Nam khác đến, cái triều đình ấy cử quan đi đánh nhau thì khó; chứ cử quan đi xin hòa nhượng đất thì lúc nào mà họ chả cử được. Mà rồi hóa ra vạn sự lỗi tại ta cả. Mà đã phật ý ông An Nghiệp, ông ấy không giúp đỡ nữa, ta lại càng gặp nhiều khó khăn hơn. Chi bằng cứ giữ vững số quân của ta, mộ thêm quân nữa, tụ thành một khối lớn truyền bá bảo vệ nước Chúa, mở rộng đức tin, và nếu có thể đòi triều đình cho ta quyền tự cai quản nước thánh. Già néo đứt dây! Giết họ thì dễ, nhưng không có lợi gì, chỉ có hại thôi!

Lão ngừng lại, đưa ta lên xoa xoa chòm râu, luồn ngón tay vào vê vê những sợi xoăn xoăn, rồi vịn hai tay xuống thành ghế, ngồi ngay ngắn lên, nói:

- Thôi! Hãy tạm dừng, con ạ! Ta phải biết nhẫn nhục nhất thời để mà mở mang nước Chúa. Lúc này, ngay trong nước Chúa cũng còn lủng củng, dân giáo theo dòng Đô Mô Ni Cô của các cha Y Pha Nho không muốn chung sức cùng ta đâu. Bọn chúng cũng có thể chống đối ta mà đi theo bọn xúi giục. Các cha Y Pha Nho cũng không cấm đâu.

Bọn Phạm Quang Diệu đành vâng theo lời đức cha, không dám hành động gì khác nữa, ngoài việc cố tập hợp tay chân và mộ thêm nhiều quân đem về đóng cả ở trường thi. Chúng mở rộng khu nhà xứ ở cánh đồng làng Chân Cầm dưới giáp với đầu làng Tiến Thị, ở ngay trước cửa trường thi, và chúng gọi đấy là khu Nhà chung, cho gọi những gia đình theo đạo đến ở chung quanh để tiện đi lễ cầu nguyện, thực ra là để bảo vệ nhà thờ. Chúng lại cho lính ra mở rộng con đường từ trường thi qua Hàng Khay ra cửa ô Long Tường (tức cửa ô đi vào Tràng Tiền) thông thẳng ra bờ sông, bao nhiêu cây cối rậm rạp phá bỏ hết cho quang đãng, đình Hàng Khay bỏ hủy nát cũng bị dỡ đi, san phẳng. Cửa hàng của bác Hai Phúc bị chúng chiếm đoạt ngay từ khi bác Hai bị bắt, giao cho một tên cai đội của Phạm Quang Diệu trông coi, đến nay đã mở to thêm, làm thêm hai dãy nhà nữa, nó đã thành nơi tụ tập ăn uống chính của bọn lính ngụy và cả của bọn lính Tây ở trong thành ra chơi. Bá hộ Kim vẫn là Cai tổng tổng Đông Thọ kiêm Thương biện huyện vụ coi mọi việc trị an trong phố, nên được Đội Diệu và mọi người đi đạo kiêng nể. Con dâu lão là vợ cả Trường và con gái là cô Dung là hai tay buôn bán sành sỏi, nhờ thế lực của cha, cũng lui tới cửa hàng này để đem hàng đến cho địch và mua lại hàng của địch. Cửa hàng này tự nhiên trở thành nơi giao dịch chính của bọn địch. Những người Nam đến đây phần lớn là những người đi đạo, những con buôn tham lợi, hoặc là đem các thức ăn thịt cá, hoa quả, thường dùng để bán, hoặc là lân la đến làm thân với nhà hàng để mong bán các sản vật được đắt hơn, hoặc đi lại đấy cốt làm quen với bọn Tây, bọn lính đạo để nhờ thế lực hay mua sắm hàng Tây dương. Lại có kẻ chuyên đi các nơi nhặt những tin tức ở ngoài nhân dân đem về đấy chuyển báo lên cố Phước. Cô Xuyến cũng hay ra vào cửa hàng này, vì cô là con gái Bá Kim ai cũng biết, người lại hoạt bát vui vẻ, cũng có khi đem được những thứ hàng hiếm khó mua đến cho cửa hàng, nên cả những người bán hàng và khách đến ăn uống đều có ý kính trọng cô, coi cô như một người quen thân. Riêng cô, thì cô nghĩ khác, cô đến đây không phải với mục đích cầu lợi như mọi người. Từ khi ở quê ngoại ra, cô đã gặp cô Hiền, nối lại hoạt động với Ả Chí và cô Cúc, cô mới nhận ra là cô đã thấp cơ thua bố mình, đem mình về quê để cắt đứt mọi dính dáng với văn thân, với ảnh hưởng của ông cử Kim Cổ. Đến khi Tây đánh chiếm thành, mọi việc thay đổi đột ngột quá, ông bố lại vẫn giữ quyền hành trong huyện, bản tâm cô cũng thấy ngượng với mọi người, nhưng khi Ả Chí và cô Hiền tìm gặp, cô đã lại vui vẻ hăng hái giúp vào công việc chung và đôi khi khéo lựa chiều can ngăn được bố hoặc hỏi dò thêm được tin quan trọng. Đột nhiên, bác Phúc và chú Chí bị bắt, liên lạc bị đứt, cô không dám thò đi đâu, kế đến cửa hàng của bác Phúc bị chiếm và mở to thêm, hai chị cô tham lợi lao vào buôn bán, cô đã hết lời can ngăn, cô Dung chị gái đã không nghe, còn mắng át đi:

- Thôi im đi ranh con ạ, đừng có trứng khôn hơn rận. Thời buổi này không buôn bán kiếm lời mà ăn thì còn là chết rã họng ra ấy! Con gái lớn bằng cái bồ ấy rồi được bố chiều chẳng biết làm ăn gì cả, chỉ ngồi nói ngang thôi! Rồi tao bảo với bố cho mày!

Cô đành nghĩ ra cách khác, lân la đến đây để dò la thêm tin tức báo cho anh em bên ngoài chắc là đang luyện tập để đợi thời cơ đánh vào. Tự nhiên, cô nhớ ngay đến cậu ấm Ba Tự Tháp, con người thanh niên khảng khái ấy chắc bây giờ cũng đang lăm lăm tay cung tay kiếm, quyết chí diệt thù. Cô nhớ thấm thía nhất cái ngày ở nhà ông cử Kim Cổ, lần đầu tiên cậu chàng thanh niên ấy nói với cô những lời êm ái trìu mến khuyên nhủ cô góp phần cùng với chú Chí đi phá chặn những mưu mô lấn vượt láo xược của tên giặc Đồ Phổ Nghĩa, để giữ thanh danh thể diện cho nước và thêm tiếng tăm cho nhà. Lời nói ngọt ngào như thấm vào tận tâm can lúc nào cũng vẫn văng vẳng bên tai như thúc cô làm nên được những hành động nghĩa khái làm nức lòng mọi người. Lời nói vẫn còn đó, và con người nói ra những lời êm dịu đó nếu nay được gặp lại, thì mặt đối mặt còn biết ăn nói làm sao bây giờ? Vì cha giáo dở, cố vị tham quyền, hóa ra con phải thành ra con người phản trắc! Nhưng thôi, lòng đành tự nhủ lòng, giữ sao cho trong trắng, không phụ kẻ đang lận đận bôn ba ở ngoài kia, không làm hại đến công việc đuổi Tây cứu nước của toàn dân, cô cố tìm mọi cách dò tin để báo ra ngoài, mong nối lại được liên lạc cũ. Cho nên, có mục đích quang minh như thế, cô ra vào cửa hàng này nghiễm nhiên, đường hoàng, không rụt rè e ngại. Và do thế, cô đã làm quen được với nhiều hạng lính và có khi cô đứng bán hàng giúp, được tất cả các khách hàng yêu quý. Giữa lúc cô đang vui vẻ với công việc như thế, thì cậu ấm Ba Tự Tháp vào chắp nối và gây dựng mọi sức chiến đấu ở trong thành, vừa theo lời ông cử Kim Cổ dặn, vừa cần thiết phải tìm mọi chỗ để dựa dẫm cho mình và để lấy tin tức và cũng có phần nào có cảm tình với cô gái lanh lợi và thẳng thắn ấy, cậu Ba ngỏ ý với các bà con nắm giữ đầu mối mọi lực lượng chiến đấu ở trong thành, muốn được gặp cô Xuyến. Một ông cụ ở phố Hàng Quạt nói:

- Cô ấy tuy con nhà quan nhưng cũng khá, tính tình cũng tốt, có tham dự vào đội mộ nghĩa đấy. Nhưng xét ít lâu nay cô ấy cứ quanh quẩn ở cái cửa hàng bờ hồ ấy. Nên chúng tôi vẫn chưa dám tin hẳn. Cậu nghĩ kỹ xem có nên gặp không hay sợ bị lộ?

Rồi ông kể rõ từng chi tiết về quan hệ của cô với cửa hàng cơm rượu của Đội Diệu ở bờ hồ trong những ngày gần đây. Cậu lại hỏi một bà cụ ở phố Tân Khai, người đã giấu cậu ở trong nhà, về tính tình cô Xuyến, vì bà này quê ở làng Cựu Lâu, bà vui vẻ hỏi ngay:

- Cậu mê con bé ấy à? Con bé ấy ngoan đấy, biết kính trên nhường dưới, chứ không như các chị nó. Lấy thì được đấy, nhưng chớ có bàn chuyện cao xa gì với nó. Sợ nó giống thằng bố nó, có gì nó đem ton hót với quan trên hết thì khốn!

Thì ra mọi người đều cùng một ý nghĩ nghi ngờ dã tâm đen tối của Bá Kim, tuy không ai căm ghét lão như đối với Đội Diệu, Tú Tốn, Tú Tích, Cai Huyên. Vậy thì có nên gặp lại chăng? Ngộ nhỡ lộ hình tích hỏng hết cả công việc, hại lây đến mưu kế ngoài kia thì sao? Mình vào đây chưa làm được việc gì khả dĩ gọi là hữu ích, chỉ mới ăn bám vào bà con, mà ngộ để xảy ra vỡ lở, vạ lây đến nhiều người, há chẳng phụ lòng nhau lắm ru! Và có tội với non sông đất nước lắm thay! Nhưng nghĩ lại, đã trở vào trong này, đã không được vùng vẫy xông pha vào sinh ra tử dưới gươm đao, tên đạn, như anh em ngoài kia, thì cũng phải tìm mọi cách có thể dùng được để giúp vào công việc chung, chứ có phải vào đây để ngồi im đợi thời đâu! Thì một cô gái khéo len lỏi làm quen với địch, con một viên Trợ biện nắm quyền hành ở cả một khu vực đông đúc này, ít ra cũng biết được nhiều chuyện bí mật hơn người ngoài. Với ý nghĩ ấy, cộng với sự muốn hiểu biết thêm tính tình cô Xuyến hiện nay có thay đổi gì không, cậu Ba quyết định tìm gặp cô ngay. Nhờ ông cụ phố Hàng Quạt bố trí, cậu đã gặp được cô Xuyến, hiểu rõ cô vẫn một lòng một dạ theo đuổi việc nghĩa. Qua sự trình bày của cô, ấm Ba nắm được nhiều tình hình gửi ra ngoài và tiếp tục ở lại hoạt động bí mật trong phố…

° ° °

Mấy hôm nay, quân ngụy chỉ tập trung canh giữ ở những nơi chúng đóng, không dám đi sục sạo, khám xét các nơi nữa. Ở các thôn, các phường, các phố đã có nhiều người đi theo mộ nghĩa, họp nhau bàn công việc mộ nghĩa. Hằng ngày có người ra vào đem tin ở trong phố ra cho ông cử Kim Cổ ở ngoài. Rồi một buổi sáng theo kế sách đã bàn định và đã báo trước, hai bên trong và ngoài cùng đánh, làm náo động để thúc cho bọn Tây phải mau mau thương lượng rút quân. Các quan ra đã sáu bảy bôm rồi mà chưa thấy quân Tây rục rịch gì cả, chỉ thấy các quan sức hiểu dụ dân và thấy bọn lính ngụy đóng đồn lại và vơ vét làm thế cố thủ. Phải đánh một trận quyết liệt cho chúng nó đi mới được. Và như kế đã vạch, một bộ phận mộ nghĩa ở trong thành, đúng từ Mão sang Thìn, trong lúc hàng phố đang đi lại đông đúc, phải nhanh nhẹn, vừa nghi vừa thực, bao vây quấy rối những khu vực quân địch đóng, làm cho chúng không dám đi cứu viện nhau được. Cánh quân ở Vũ Thạch, Tự Tháp, Kim Cổ, Tô Tịch… phải ngăn giữ vây chặt bọn lính đạo đóng giữ trường thi. Cô Xuyến mấy hôm nay thường đến bán hàng ở quán bờ hồ, hôm nay cũng ra sớm và bàn với nhà hàng bán thêm những món đặc biệt mừng ngày chúa nhật cầu nguyện đức Chúa Lời. Có cô Xuyến ở đấy lại thêm mấy cô bạn nữa, nên bọn lính rủ nhau vào ăn uống trong hàng mỗi lúc một đông. Chợt thấy ngoài phố nhốn nháo, một số lính ngụy đang đi chơi phố chạy kịp vào cả cửa hàng, có ý tập trung lại với nhau để tự vệ, chống đỡ. Chúng hò hét:

- Đóng cửa lại! Mỗi người một khí giới!

- Chúng nó đến đấy mau lên!

Bọn lính ngụy bị đuổi không có lối về trường thi cũng dồn cả vào đây. Bỗng ở bốn góc, bốn ngọn lửa cùng bốc lên cháy đùng đùng lem lém thiêu cả quán. Bọn lính cuống cuồng chạy xô cả ra ngoài, bị anh em mộ nghĩa xông vào chém giết vây bắt được khá nhiều. Mấy ngọn lửa bốc cao rầng rậc chập làm một phần phật lan tỏa ra cả một góc hồ. Các nhà ngoài phố Hàng Khay đều đã đóng kín cửa. Không một người nào nghĩ đến cứu hỏa. Nhưng ở ngoài đường, dân mộ nghĩa đang canh giữ đường phố và cố ngăn và dập tắt đám cháy không cho lan rộng ra. Cậu ấm Ba từ ngã tư Phục Cổ chạy xuống bảo:

- Anh em cố dập tắt đi. Còn người nào ở trong ấy không?

Một chiến sỹ nói:

- Không, bắt được một số, còn chúng chạy về trường thi cả.

- Trùm Tiến đâu? Trùm Thanh đâu?

- Chúng nó nhanh chân chạy trước!

Trông thấy cô Xuyến đang thấp thoáng ở trong cổng chùa Liên Trì đi ra, cậu ấm chạy lại gặp và hỏi sừng sộ:

- Ai cho cô đốt? Cô gây ra vụ cháy này phải không?

Cô Xuyến ung dung nói rắn rỏi:

- Đốt cho nó cháy hết mọi thứ cướp bóc tội lỗi đi! Ngọn lửa thiêng thiêu cháy sạch mọi oan ức của bác Hai và cũng là soi tỏ nỗi lòng của em. Không có cậu còn ngờ.

Trông nét mặt tươi vui hớn hở càng tăng thêm vẻ đẹp dịu hiền biểu lộ tấm lòng trong trắng ngay thẳng, cậu Ba vội đổi giọng ngọt ngào:

- Nói thế chứ, chính nhờ có đám cháy này, chúng nó mới hoảng đấy, bọn lính cố thủ cả ở trong trường thi, ở Nhà chung chỉ còn có dân đạo thôi, mình không giữ khéo thì các ông mộ nghĩa nhà mình đã xông vào phá trụi. Họ đang tức mà! Nhưng nói rõ lý lẽ, họ nghe ra ngay.

- Có bắt được lão trùm nào à? Cô Xuyến hỏi.

- Chúng chạy vào trường thi cả. Bây giờ ta đang canh giữ Nhà chung cho chúng.

Hai người đi thẳng đường Thập Lý ngược lên ngã tư ô Hàng Cau. Đám cháy ở đầu bờ hồ đã dập tắt, chỉ còn bốc khói. Các ngã tư không còn lính ngụy canh hỏi, nhân dân đi lại nhộp nhịp, người ở các cửa ô cũng đã kéo vào đông, mọi người đều vội vàng trong cái vẻ vừa nơm nớp lo sợ, vừa hớn hở hỏi nhau tin tức. Có nhiều người có quấn ở cánh tay mảnh giấy hay mảnh vải viết chữ “đồng”. Cô Xuyến nhìn đám người đi đông đúc hơn mọi ngày thấy vui vui hỏi:

- Sao lắm kiểu chữ “đồng” thế nhỉ?

- Vì có thứ cũ, thứ mới, có thứ vừa mới bắt chước mà viết vào chứ sao! Miễn là cứ vui chung thế cũng được!

- Tại sao lại nẩy ra chữ “đồng” nhỉ? Và chữ “đồng” cũ như thế nào? Cô Xuyến hỏi thêm.

- Thì cô cũng là chữ “đồng” cũ đấy thôi mà còn phải hỏi à?

Cậu Ba cười nhìn cô bạn, như có ý hỏi lại, nhưng rồi cũng đáp:

- Chữ “đồng” nguyên trước chỉ là dấu hiệu riêng của những người ở trong này để nhận nhau, nhất là những người phải qua lại vùng Đồng Xuân, Hà Khẩu. Chữ “đồng” ấy viết giống chữ “hợp” do một nơi làm và phát đi. Sau này nó thành dấu hiệu chung cho những người mộ nghĩa. Vì thấy rằng, trong văn hội cũng có người đi theo giặc, có những người ngồi yên không làm gì cả, thì sổ tư văn không thể dùng được nữa, mỗi nơi phải có sổ riêng để ghi những người cùng một chí hướng với nhau, không kể là nghề nghiệp gì, lập thành hội mộ nghĩa. Chữ “đồng” tự nhiên thành ra dấu hiệu chung, mỗi người mộ nghĩa đều biết cách viết chữ ấy để dễ nhận nhau và phân biệt với người ngoài. Gần đây, mọi người đều nghe nói và biết có chữ “đồng” ấy, nên bây giờ sinh sôi ra lắm chữ “đồng” như thế. Nhưng rồi, mọi người sẽ phải cùng chung một chữ “đồng” thôi chứ. Không còn chia cách. Thế mới vui.

Cậu đang vừa nói vừa cười, thì có tiếng người nói:

- Ta thắng cả ở cửa Tây rồi, to hơn ở đây nhiều, giết được cả Tây kia. Các ông ấy cừ thật, giở kế điệu hổ ly sơn, dử cho tướng giặc chạy tít ra xa mà nộp đầu…

- Ấy cũng nhờ có ở phía đằng này đánh mạnh, nên chúng nó mới bị lâm vào thế chống đông, hở tây như thế! Một người nữa nói.

Thì ra hai ông ở hai nơi, ông nào cũng tự cho trận ở nơi mình là oanh liệt hơn cả, cậu ấm nghĩ bụng thế, và tin là ở ngoài kia đã thắng to, cậu liền ghé vào tai cô Xuyến nói nhỏ:

- Cửa Tây đã thắng, tôi phải ra đằng ấy xem sao, em về đi, thử xem ông cụ đâu?

- Ngộ nhỡ có sao, cậu phải bênh thầy em một tí chứ.

- Được lắm chứ, không có công của cô, cũng còn có thể giúp nữa là. Thôi về đi. Đã bảo rồi sẽ cùng chung một chữ “đồng” cả mà. Đừng lo.

Nói rồi, cậu ngoắt đi ngay, băng thẳng lối Hàng Gai, Hàng Bông, đi tắt vào làng An Trung ra cửa Nam, vòng lên cửa Tây, xuyên vào làng Kim Mã đi ra đường cái quan, cậu thênh thang đi trên đường không rụt rè e ngại, không bị vướng mắc hỏi han gì, lẩn mình vào trong đám kẻ ra người vào tấp nập. Tây chết rồi! Tây thua rồi! Không còn những quân mèo mả gà đồng, nghênh ngang ngăn chẹn lối khám xét, hoạnh họe, hạch sách dân chúng nữa! Đời ta sướng rồi, đuổi được cái thằng Tây đáng căm ghét nguyền rủa kia là đủ sướng! Cậu ấm nghĩ vui vui trong bụng như thế và chắc rằng mọi người cũng đều một niềm vui chung như thế, ai nấy đều hớn hở, gặp nhau tươi cười vồn vã như những bạn quen nhau đã từ lâu. Trong niềm vui bồng bột ấy, mọi người sẽ cùng thấy phải chung lưng đấu cật với nhau đánh bật bọn Tây dương đi, không để cho nó cứ điềm nhiên lăng nhục người mình, giầy xéo lên đất nước mình như đã hơn một năm nay. Lan man trong những suy nghĩ cậu ấm kia đã lẫn vào dòng người cuồn cuộn chảy nhập vào chỗ ông cử Kim Cổ và Văn hội Thọ Xương đóng.

° ° °

Ở ngoài này, từ sau khi cậu ấm Tự Tháp trở vào thành, số văn thân và nhân dân các nơi tham dự vào đoàn quân mộ nghĩa đông thêm. Các ông đội trưởng − lúc ấy các ông chỉ tự nhận là bang tá quân vụ − đã hẹn đánh phối hợp với quân của quan Thống tướng Bắc kỳ quân vụ Hoàng Tá Viêm và tự đặt dưới quyền chỉ huy, chịu mệnh lệnh dưới cột cờ của Thống tướng. Kế sách phối hợp cả trong lẫn ngoài đã được nêu ra tỉ mỉ cho mọi nơi tuân hành. Cánh quân của Thống tướng Hoàng Tá Viêm xuống đóng ở Phủ Hoài, nơi mà quân mộ nghĩa mới lấy lại mấy hôm trước. Cánh quân Cờ đen của Lãnh binh Lưu Vĩnh Phúc đóng ở Cót và Láng. Từ Chèm Vẽ xuống đến Cổ Nhuế, Nghĩa Đô, quân mộ nghĩa mới lấy tỉnh Bắc của các ông cử Tam Sơn, Phù Lưu đóng rải rác kết hợp làm một với dân tráng các làng ấy. Ông ấm Vẽ đem văn thân và thanh niên các làng Chèm, Vẽ, Nhật Tảo, Phú Gia, xuống đóng từ Cống Vị đến Vạn Phúc. Quân của Văn hội Thọ Xương đóng suốt dọc từ làng Mọc qua Thịnh Hào lên đến Giảng Võ. Còn ở các làng khác quanh thành, mỗi làng đều có một vị tư văn ở nhà tụ họp dân tráng canh giữ ở làng, để nếu khi mặt trận lan đến nơi thì kịp thời ra tiếp chiến và có khi sẽ được điều động đi ứng cứu hoặc làm các công việc vận chuyển, cứu cấp ở chiến trường. Mọi việc xếp đặt đâu ra đấy rồi, đúng giờ Mão hôm ấy khi giời đã sáng rõ, khi trong thành phố đã nổ hỏa pháo cùng một lúc bao vây, quấy rối các đồn trại của địch rồi, đội quân tiên phong của văn hội do ông mền Kim Liên dẫn đầu rầm rộ kéo vào cửa Tây bắn hỏa pháo, hò hét khiêu chiến, cốt dử cho giặc phải ra đánh. Quả nhiên địch bị trúng kế. Tên Gác Nhi Ê, đã thắng quân đội triều đình nhiều lần, trong không đầy hai mươi hôm đã lấy gọn các tỉnh đồng bằng Bắc kỳ lại đương ở thế thắng cưỡng ép bọn quan nhà Nguyễn phải theo ý định của nó, thấy tin báo, nó dương dương tự đắc, ngạo nghễ bảo bọn Trần Đình Túc:

- Các ông đợi tôi đem quân ra dẹp tan bọn chuột cáo ô hợp kia trong nháy mắt, để các ông thấy rằng các ý ta đang bàn ở đây không có gì thay đổi cả.

Rồi nó xồng xộc đi ra đem một đạo quân cùng với tên Trung úy Ban Ni cưỡi ngựa mở cửa thành xông ra đánh. Quân ta vội bỏ chạy. Nhân dân các làng ven đường đã đem tre gỗ rải khắp mặt đường từ trước, bọn giặc tưởng quân ta bày cách cản lối để chạy cho thoát, lại càng ra sức thúc nhau gạt tre gỗ, phóng ngựa đuổi gấp. Đến gần Thủ Lệ, địch đã sa vào vòng vây có quân phục kích rồi, ông ấm Vẽ tung quân từ Vạn Phúc ra chẹn đánh cắt cánh quân địch ra làm đôi, đánh giáp lá cà, nên súng của địch bắn không làm anh em nao núng. Ông ấm Vẽ đuổi dồn ngược lại. Tên Ban Ni chạy nấp vào đầu Voi Phục, bị quân phục ở đấy vây đánh phóng tên bắn chết, chặt lấy thủ cấp và giết thêm một số. Toán của tên Gác Nhi Ê chạy dạt lên đến Cầu Giấy, bị quân Cờ đen ở Láng và ở Cót hai mặt đổ ra đánh quật lại, tên Gác Nhi Ê phóng ngựa chạy vào phía Giảng Võ, đến đầu thôn Ngọc Khánh bị tướng Cờ đen Lưu Bá Anh phục kích ở cánh đồng Thủ Lệ xông lên đuổi bắn. Gác Nhi Ê bị trúng đạn ngã ngựa, quân ta ở Giảng Võ chạy ra chém lấy đầu và bắt lấy ngựa. Toán quân sót lại sau, hốt hoảng tán loạn, vội chạy quay trở về, bị nhân dân hai bên đường ngăn đuổi, nhiều người vác cả gạch đá ném, chúng bị tử thương cũng nhiều, một số ít còn giữ được súng, bắn đì đòm mấy phát bừa bãi để dọa dân, lấy lối chạy tháo thân về đến cửa Tây, trước đà thắng, đạo quân mộ nghĩa ở Giảng Võ cùng với nhân dân hăng hái đuổi giặc mãi đến chân thành. Mất chủ tướng và súng đạn còn ít, chúng càng mất tinh thần, cuống sợ, không dám khích nộ nhân dân, vội bắt ép các quan Nam phải ra hiểu dụ dân chúng lui đi. Tổng đốc Trần Đình Túc đang sốt ruột mong cuộc thương thuyết chóng xong, liền bắt ngay Đề đốc Hoàng Đôn Điển thân ra trên chòi canh cửa Tây, giơ lá cờ Khâm mạng lên và gọi loa dụ dân phải tản về làm ăn, thành này đã thuộc về Triều đình rồi. Hoàng Đôn Điển phải nhắc đi nhắc lại mấy lần:

- Hỡi dân chúng trăm họ, các quan tỉnh được triều đình cử đã bái mạng đức vua ra đến đây, thành đã do các quan ở, ai phạm vào là chống lại triều đình sẽ bị trọng tội. Dân chúng chưa được gọi đến, phải trở về làng ngay!

Trông rõ lá cờ triều đình, vả không có ai chỉ huy, nhân dân và cả toán mộ nghĩa kia đành quay trở ra, kéo ngược trở lên đi thăm lại chiến trường. Suốt trên dọc đường này, quân ta đã thu dọn xong cả rồi, dọn các xác chết lại một chỗ để sắp sửa mai táng. Còn hai thủ cấp Gác Nhi Ê và Ban Ni đã được đem vào Phủ Hoài nộp cho Thống tướng Hoàng Tá Viêm. Dân chúng kéo đến đông, không được vào xem, làm ồn ào cả ngoài cổng. Hoàng Tá Viêm phải thân ra nói chuyện với dân, khuyên ai nấy nên trở về nơi đóng quân của mình, đề phòng quân giặc phản công báo thù. Cuối cùng, ông phải giở lối phỉnh nịnh dân, phủ dụ để giải tán cho dễ:

- Trận thắng này một phần nhờ có bà con dân làng quanh đây giúp sức với quan quân. Vậy bây giờ Tây nó đang rục rịch kéo quân lên đây đánh trả thù, bà con càng nên trở về lo liệu giúp đỡ quan quân hơn nữa, để ta thắng to nữa chứ. Việc quân tối kỵ tụ tập lại đông như thế này!

Dân chúng nghe lệnh rút về hết, con đường Thủ Lệ, Cầu Giấy lại yên tĩnh như thường, khắp nẻo đường chỉ còn có quân mộ nghĩa chia nhau canh phòng. Đến chiều, dân chúng đã trở về làng hết, trên đường ít người đi lại. Thỉnh thoảng có từng bọn năm ba người trong số đi ra thăm chiến trường, phần đông đều có dấu hiệu chữ “đồng”, nói cười vui vẻ. Họ dừng lại thăm hỏi chỗ này, tiến xa xem xét chỗ kia đều được tự nhiên tùy ý. Mãi sau, có một bọn người do ông cử Hoàng Mai Nguyễn Tảo dẫn đi có một số người mặc binh phục của triều đình và năm người mộ nghĩa theo sau không dừng lại đâu cả và không hỏi han gì, đi thẳng mãi đến Cầu Giấy và vào thẳng đền Voi Phục. Cậu ấm Tự Tháp đang đứng ở sân, trông thấy đoàn người vội chạy ra, reo lên:

- A ha! Cụ lớn cũng ra đây rồi kia á?

Rồi cậu vui mừng gọi lớn:

- Anh em ơi! Quan Tuần đã ra với chúng ta!

Nhưng ông cử Hoàng Mai đã vội nói:

- Cụ lớn muốn được gặp quan Thống tướng Hoàng.

Và cái người dong dỏng đứng tuổi chít khăn nhiễu chữ nhất, mặc áo kép nhiễu tím lót đỏ, lên tiếng một cách nghiêm nghị có vẻ trách móc:

- Các cậu làm hỏng bét cả! Cuộc thương thuyết sắp xong thì đùng một cái, các cậu đánh giết mất tướng của nó, nó bỏ cuộc không nghe theo mình nữa, thế có phải là phá hỏng đại sự của triều đình không?

Cậu ấm cũng hào hứng nói:

- Thưa cụ lớn, nó bỏ thì đánh đuổi tống cổ nó đi chứ sao!

- Nói dễ nghe nhỉ, người kia lại nói. Cậu nông nổi không biết gì cả. Muốn cho đỡ nhiễu dân, triều đình mới đồng ý thương nghị cho nó rút đi. Làm cản trở công việc ấy tức là đắc tội với triều đình. Nên quan Tổng đốc phải cho tôi ra gặp Hoàng Thống tướng truyền thánh chỉ bắt hạ lệnh cho văn thân, Lưu đoàn rút quân đi hết.

- Lệnh vua chưa đến nơi, cậu ấm hỏi lại, mà ta đang thắng tại làm sao lại bắt phải rút lui? Sao không nhân đà thắng ấy mà quật ngã nó xuống.

Một người trong bọn, ý chừng là một quan hầu nói đỡ:

- Vì lão quan hai Etmê bắt giữ cụ Thượng Trần, buộc có ra lệnh cho văn thân và Lưu đoàn rút xa hẳn tỉnh Hà Nội này thì lão mới chịu tha các quan ra thương thuyết trả lại thành trì, nên cụ lớn Thượng mới phải cử cụ lớn Tuần ra gặp cụ lớn Hoàng Thống tướng.

Cậu ấm lại nói với vẻ cương quyết hơn:

- Vậy thì xin mời cụ lớn trở về bảo với Tây rút hẳn đi, trả lại thành trì trước đã. Hai là xin mời cụ lớn tạm nghỉ đợi ở đây. Trong quân theo lệnh tướng, bao giờ ở trên có lệnh xuống, chúng tôi xin đưa cụ lớn đi.

Cậu quay sang nói với ông Cử:

- Tôn huynh đưa cụ lớn vào đền trong.

Rồi cậu đi thẳng ra. Đến ngoài đường cái, gặp ông cử Tam Sơn mới từ Xuân Tảo đi xuống, cậu nói rõ mục đích của quan tuần Nguyễn Trọng Hợp ra gặp Hoàng Tá Viêm và ý cậu muốn giữ lại không cho đi. Ông Cử đứng lại suy nghĩ một lát rồi nói:

- Cứ để cho họ đi, cậu ạ, không lại mang tiếng là ta giữ quan của ta. Ông ấy lại là người sở tại, mình lại càng dễ bị người ta buộc tội. Chi bằng cứ mặc kệ họ với nhau. Bây giờ ta nên sửa soạn để một số anh em, nhất là những người trong phố trở vào ngay để xếp đặt công việc trong ấy và cũng là tiện dịp vừa cổ lệ vừa ngăn bớt sự bồng bột lộ liễu quá, dễ cho bọn cố Phước dò biết được mà tìm cách phá…

Ngừng một lát, ông hỏi ngay:

- Cần tìm ngay hai ngôi mả Ả Chí và Cử Đình. À, Hai Phúc vẫn còn sống chứ?

- Vâng, đích xác còn sống, nhưng đi xa rồi.

Ông Cử già giục như ra lệnh:

- Cậu vào đền bảo để cho ông ấy đi, tất nhiên quan Thống tướng sẽ nghe theo ông ấy và rồi sẽ ra lệnh cho ta tản về nhà yên nghiệp cũ. Nhưng không sao. Ta cứ về giữ vững lấy dân, cậu bảo bác cử Hoàng Mai cùng về. Những người trong phố về họp cả ở Giảng Võ. Chúng ta cần vào tất cả ngay hôm nay. Tôi và cậu, ta có thể về trước. Còn bác Kim Cổ ở lại đón mấy ông bạn bên Bắc, trên Đoài cùng vào một thể. Thiên tải nhất thì, ta phải nhân cái đà này mà gây cho mọi người dân cùng biết đến cái hào hứng thắng nổi bọn giặc. Rồi có động dạng gì, ta lại rút đi ngay, như một cuộc tập trận ấy mà.

Cuối cùng ông giục:

- Thôi cậu vào đi. Tôi đợi ở đây. Mau về Giảng Võ, ta bàn thêm!

Cậu ấm quay vào đền một lúc trở ra cùng đi với ông cử Tam Sơn đến Giảng Võ gặp một số anh em. Rồi hai người cùng một số mộ nghĩa đi vào phố trước, thu xếp chỗ đón anh em khách ở ngoài vào thăm nơi thành bị giặc chiếm. Đêm hôm ấy, giăng mười bảy lên muộn một lúc chiếu ánh sáng trong lạnh xuống cả đô thành yên tĩnh. Bọn địch và ngụy nằm chết dí ở trong thành và ở trường thi không dám cọ quậy gì. Ở ngoài đường phố, dân chúng tự do nhởn nhơ đi lại với lòng say sưa quyết tâm chống giặc đến cùng không lùi bước trước nguy hiểm. Khách ở ngoài về được bà con niềm nở hỏi han, lôi kéo mời đến thết đãi cơm rượu, để được cùng nhau trò chuyện vui vẻ. Văn hội Thọ Xương trở về kéo thêm đông các bạn bè khắp các huyện, các tỉnh chung quanh. Theo ý kiến của ông cử Kim Cổ, một cuộc họp thân mật giữa các bạn mộ nghĩa các nơi có mặt ở trong thành hôm ấy đã được mời đến ở sân Văn Miếu, dưới ánh giăng vằng vặc đêm đông lạnh lẽo, sân trống sương sa, nhưng mọi lòng đều ấm áp, rượu từng vò rót ra bát uống truyền tay nhau, mà ai nấy đều thấy thấm thía say sưa được vui cùng nhau “uống say ở Thăng long”! Mọi người vui vẻ bắt ông Cử trẻ Chợ Dầu ngâm lại bài thơ ấy, cái bài thơ đã báo hiệu cho cuộc chiến thắng này. Và giờ đây, trong lòng phấn khởi bồng bột ai nấy đều muốn xông ra tiến công liên tiếp nữa, để tiêu diệt hẳn bọn giặc, say sưa uống máu giặc hòa với rượu làng Mơ để ghi thêm cuộc thắng lớn hơn nữa cho đất Thăng Long này. Một người hào hứng đã xuất khẩu thành chương ngâm lên một bài thơ cảm đề thể ngũ ngôn cổ phong 8 , ghi lại cuộc chiến đấu ngày hôm nay:

Năm Quý Dậu tháng một,

Ngày mười bảy tinh sương,

Ngạc Nhi tướng giặc dữ,

Thẳng hướng tây lên đường.

Ngựa vừa qua Cầu Giấy,

Một tiếng súng nổ vang!

Quân Cờ đen nổi dậy,

Dân mộ nghĩa xông sang,

Vung gươm vào chém giết

Quân giặc chạy kinh hoàng!

Như chim muông tan tác,

Ngạc Nhi chết lăn ngang!

Tráng sỹ chặt đầu chạy,

Máu tanh còn lênh láng.

Căm thù giặc cướp nước,

Quân lính càng thêm hăng

Muốn xông lên phía trước

Quét sạch nhẵn sài lang!

Giọng ngâm thơ cao vọng, ngân nga, sang sảng trong đêm khuya tĩnh mịch, dưới ánh trăng vằng vặc soi tỏ khoảng sân Văn Miếu mênh mông, trang trọng, càng thêm rung động tâm hồn mọi người, kích thích chí kiên quyết, quả cảm của tất cả sỹ phu tự hào đã được say uống ở giữa nơi cửa thánh thiêng liêng này. Ánh trăng bạc kia, những lùm cây cổ thụ nọ và kìa dãy bia đá uy nghi nghìn năm ghi mãi tinh hoa dân tộc, như đều kiêu hãnh đón mừng những con em yêu quý của cố đô anh dũng đã chiến thắng quân thù. Và giờ đây, ngay giữa trong vòng bọn giặc còn đương đóng giữ, sát ngay tầm súng của chúng, sỹ tử tư văn vẫn vui vẻ hiên ngang họp ở đây, vì chí quyết chiến và mối đồng tâm của muôn người như một đã bao vây nhốt dí quân thù vào trong xó thành ở ngay phía trước mặt. Và nếu ngay lúc này chúng nó có liều mạng dẫn xác ra đây thì tức khắc trước cái đà thắng lợi bừng bừng dũng khí, chúng chỉ còn là bọn hàng quân đến nộp mình đền tội ác, để cho ta quét sạch sành sanh như lời thơ diễn tả.

Lời thơ mạnh, giọng ngâm hùng đã thấm hẳn vào lòng người. Dưới ánh trăng, mọi người biên chép hai bài thơ, đọc đi đọc lại thuộc lòng, rồi sau đấy truyền tỏa ý thơ đi khắp nơi như thổi thêm luồng gió hăng hái vào lòng quyết tâm giết giặc của nhân dân vùng Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh thổi cho cuồn cuộn dâng cao hơn nữa hơn cả nước thủy triều lên khi biển động.

--------------------------------

1

Tonkinois: người Bắc kỳ.

2

Tổ chức biên chế thành đội ngũ.

3

Quan coi về việc hộ và thuế má trong tỉnh.

4

Chức quan coi về pháp luật trong tỉnh.

5

Võ quan coi đạo binh của tỉnh.

6

Không phải gian dâm với nhau thì là kẻ trộm.

7

Căm ghét giặc.

8

Vượt mây cưỡi mưa xuống tới đàn chay.

Chương IX

Khí thế nhân dân mỗi ngày càng bùng bùng lên mạnh, quân giặc chỉ còn một dúm người cố thủ ở trong thành không dám thò ra đến ngoài, nên mấy hôm sau, đặc phái của Súy phủ Sài Gòn là Hoắc Đạo Sinh tức Phi-lát-tơ-rơ (Philastre) và Khâm mạng của triều đình là Nguyễn Văn Tường ra đến nơi. Khi bàn đến việc giao trả lại thành trì và mọi nơi đã chiếm để đi đến ký kết một bản hiệp ước hòa hảo lâu dài Hoắc Đạo Sinh ưng thuận ngay. Bọn quân lính Pháp hoảng sợ chỉ muốn rút lui nên rất đồng ý. Chỉ còn cố Phước và nhất là cha Mỹ (Landais), người trực tiếp trông coi Nhà chung, vừa mới dựa vào quân đội đóng ở trường thi xây dựng nên khu Nhà chung này ở giữa cánh đồng hoang vắng, cố muốn chiếm giữ lại khu trường thi với cả số quân đóng trong ấy để bảo vệ đạo, liền nhờ giám mục Bình tức Bô-i-ê (Bohier) và linh mục Đàng tức Đăng-di-ê (Dantzier) là hai thông ngôn của Tổng đốc Trần Đình Túc đem từ Huế ra, nói giúp và tìm mọi cách lung lạc áp đảo các quan Nam. Nhưng Nguyễn Văn Tường và Trần Đình Túc nhất định đòi lại cho được trường thi để mở lại kỳ thi cho yên lòng sỹ tử. Đồ Phổ Nghĩa thấy Hoắc Đạo Sinh trao lại tất cả mọi thành đã chiếm được, không kể gì đến công lao của hắn, cũng tức tối chống lại và hết sức bênh vực cố Phước chiếm giữ lấy trường thi. Sau cùng, có cuộc gặp gỡ tay ba: Hoắc Đạo Sinh, Đồ Phổ Nghĩa và cố Phước ở ngay trong căn phòng trong điện Kính Thiên nguy nga mà Gác-nhi-ê vừa mới cho xây tường ngăn ra nham nhở như đặt một cục đất nhão lên trên một chiếc đĩa ngọc. Hoắc Đạo Sinh bảo hai người:

- Các ông còn đòi lôi thôi gì nữa. Các ông không khéo xử. Người bán than làm chủ cái tiệm than của mình. Các quan An Nam là chủ trong nhà của họ, họ không muốn các ông tự tiện đến ở nhà họ thì các ông lấy quyền gì mà cứ đến, cứ ở?

Đồ Phổ Nghĩa cáu tiết hỏi lại:

- Nếu tôi đến Bắc kỳ trái với nguyện vọng của người An Nam, thì thử hỏi nước Phú ta tới ở Nam kỳ có đúng với nguyện vọng của người An Nam không?

Hoắc Đạo Sinh nói trắng ra:

- Chúng ta đến Nam kỳ với tư cách kẻ cướp, kẻ trộm, nhưng kẻ cướp kẻ trộm khôn khéo hành động theo một kế sách chung, đối với một bọn quan lại đã nhượng bộ, nghĩa là trong trường hợp ta có thế, có lý… Còn anh và Gác-nhi-ê chỉ là kẻ cướp, kẻ trộm lẻ loi, tự ý làm càn mà thôi. Nếu Gác-nhi-ê không chết, hắn còn bị truy tố trước tòa án quân sự!

Cố Phước vặn lại:

- Mấy thành trì quan trọng đã chiếm được cả, chính quyền đã lập xong. Chia cắt thành một nửa nước riêng là hợp với nguyện vọng của những người dân ngoài Bắc này và rất có lợi cho ta, chỉ trong một thời gian nữa là toàn bộ Bắc kỳ này tách ra khỏi hẳn triều đình Huế. Thế mà dư luận ở Sài Gòn không biết đến sự thực ấy đã phần nào làm nản lòng ông Gác-nhi-ê. Rồi ông ra đây, ông lại về hùa với triều đình Huế, cái triều đình thối nát…

Hoắc Đạo Sinh cười ngắt lời:

- Thưa cha, xin cha nhớ cho rằng, chính vì cái triều đình ấy thối nát, nên chúng ta mới đến được đây, và cũng chính vì nó thối nát, ta lại càng cần nắm lấy nó, dọa nạt nó, vuốt ve nó, để có lợi cho ta, để nó giúp ta đàn áp cái dân bất trị này. Cha quá tin ở số con chiên theo đạo, nhưng thử hỏi cái số ít ỏi ấy so với dân số xứ này có đáng là bao, và họ có hoàn toàn đáng tin cậy cả không? Hay chỉ là đi đạo lấy gạo mà ăn? Vả khi ta đem đặt những người theo đạo lên nắm hết quyền chính chỉ càng tổ gây cho toàn dân ở đây chống lại mà thôi! Cho nên ta hòa hoãn với triều đình Huế, với bọn quan lại An Nam, chính là nắm giữ lấy bọn này để làm cái cọc vịn mà xâm nhập dần dần, chắc chắn, chứ không nông nổi, quá lộ liễu như các ông…

Cố Phước nói tiếp:

- Bây giờ sự thể đã xảy ra như thế, mà đại biểu toàn quyền của triều đình Huế đã ở đây rồi, đã ở trong tay ông rồi, ông thay mặt Súy phủ Sài Gòn, có quyền định đoạt lúc này, tôi yêu cầu ông, vì quyền lợi của nước Phú mở sông Hồng Hà ra buôn bán tự do như ông Gác-nhi-ê đã tuyên cáo, biến Hà Nội làm một thành phố tự do, giữ cả trong thành và trường thi làm chỗ đóng quân thường trực để bảo vệ việc buôn bán, che chở dân giáo, giúp cho giáo hội mở rộng nước Chúa.

Hoắc Đạo Sinh nói:

- Sài Gòn chủ trương phái người cùng đi với quan lại triều đình ra đây nghiên cứu dân tình, nếu lòng dân còn quá găng thì giao trả thành trì, rồi nắm lấy họ để dần dần định kế chiếm giữ sau. Giá tôi ra kịp đã cứu sống được Gác-nhi-ê. Các ông thấy chưa: Dân chúng ở đây đón tiếp chúng ta như những trận Cầu Giấy đấy! Nên việc giao trả thành trì lúc này là cần thiết cho ta, chứ không phải là thi ân cho triều đình đâu…

Cố Phước nói thêm:

- Vậy thì ông phải giữ lại trường thi để đóng quân…

Không cho cố Phước nói hết câu, Hoắc Đạo Sinh nói gạt đi ngay:

- Trường thi nhất thiết phải trao trả trước, vì chính đấy là nơi mà tất cả thanh niên, tất cả mọi người tâm huyết ở đây đều chú ý đến, đều trông mong vào đó. Chiếm giữ đấy là phạm vào một nơi thiêng liêng của họ, dễ đẩy họ vào một cuộc báo thù cuồng dại! Hơn nữa, muốn chiếm giữ lâu dài đất nước người ta, cũng cần phải tỏ ra bề ngoài văn minh hơn người ta chứ. Thế thì chiếm chỗ thi cử, là nơi hoạt động văn hóa của người ta, cũng như ngăn tường một cách ngu xuẩn một cái lâu đài tráng lệ như thế này, chỉ càng tỏ rõ chúng ta thô lỗ, dã man, kém văn minh hơn họ mà thôi!

Đồ Phổ Nghĩa lái chuyện sang hướng khác, trách Hoắc Đạo Sinh:

- Ông đã hành động như một người thiếu suy nghĩ. Quân đội Phú đã đổ máu ở đây. Thế mà ông ra đến nơi, ông không thèm bàn hỏi gì với chúng tôi cả, ông lại nhượng bộ ngay các quan An Nam. Ông đã bôi nhọ, làm mất thanh danh nước Pháp. Về phần tôi, tôi bắt buộc ông phải đòi quan lại An Nam bồi thường cho tôi ba mươi triệu quan về các thứ phí tổn…

Cố Phước cũng nói xen vào, phụ họa với Đồ Phổ Nghĩa:

- Ông giao trả trường thi, thế ra chỉ còn trơ lại khu Nhà chung vừa mới làm xong bị cô lập! Còn những người quan chức, còn gần một nghìn lính vừa mới mộ về quẳng đi đâu, để cho bọn quan lại ghen ghét và cố chấp kia nó xử tội và giết hết à? Ông làm tôi mất hết uy tín với giáo dân. Cũng chính vì thế mà ông xúc phạm đến cả thanh danh nước Đại Pháp hùng mạnh.

Hoắc Đạo Sinh cười mỉa mai, nói một cách nghiêm nghị:

- Chính tôi đây đã giữ được thanh danh cho nước Pháp, đồng thời làm lợi cả cho Giáo hội, làm lợi cho nhà buôn chúng ta sau này. Các ông không nhìn xa quá mũi các ông, các ông quá tham lam, vụ lợi, nên mới chỉ tin vào mấy kẻ đê tiện đi theo đạo vì cơm gạo mà các ông đã lừa phỉnh được, nên dễ nhầm, dễ bị chúng nó dối lừa lại. Đây này! Các ông mở mắt ra mà xem, một lối cởi mà thắt, một lối bắt họ phải dọn đường cho ta đi tới làm ông chủ…

Hoắc Đạo Sinh mở cặp đưa ra một tờ giấy cho hai người xem và nói tiếp:

- Bản cam kết có ba điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận và cùng ký ngày hôm nay, 11-1-1874 và hẹn đến ngày 20-1 này là phải thi hành xong. Các ông thử xét kỹ xem, cả ba điều ấy có lợi cho ta cả ba. Điều thứ nhất, đình chỉ mọi xung đột và nối lại tình hòa hảo. Các ông phải biết rằng bây giờ Sài Gòn và cả Pa-ri nữa không làm gì có quân mà gửi ra đây nữa, mà lính ta ở đây thì sau khi Gác-nhi-ê chết, đã mất hết tinh thần, trở nên sợ sệt và chán nản, trong khi bên địch, dân chúng bây giờ mới thực đang bùng bùng nổi dậy. Phải đánh nhau bây giờ là bất lợi cho ta. Điều thứ hai, quân ta phải rút hết xuống đóng ở cửa Cấm Ninh Hải, các quan An Nam phải làm ngay cấp tốc doanh trại cho ta. Thế là ta vẫn được đóng quân ở Bắc kỳ một cách hợp pháp, mà lại không mất phí tổn gì về đất cát, doanh trại. Các quan chức và quân lính ta mộ và ta đặt ra vẫn được coi như quan chức của triều đình, do triều đình điều động và sử dụng, không có tội gì cả. Và một điểm phụ ở điều này nữa là các quan An Nam vào ở trong thành này chỉ được mang theo tám mươi lính không có vũ khí và một đội quân danh dự ba mươi tên có vũ khí thường. Điều thứ ba là sau khi rút quân xong ổn thỏa không xảy ra việc gì cả, thì mới bàn đến việc giao trả thành Hà Nội. Như thế là ta lùi một bước để nhờ bọn quan lại triều đình đỡ đòn và dọn đường cho ta. Ta vẫn nắm được đằng chuôi mà uy tín của nước Pháp sẽ được tăng lên ở đây. Như vậy có nghĩa là ta trả lại trường thi và đến ngày hai mươi tháng giêng này là hạn cuối cùng, phải rút hết quân ở Hà Nội xuống Ninh Hải để bảo vệ tín nghĩa và danh dự cho nước Pháp dân chủ hùng cường.

Ngừng một lát, thấy những kẻ đối thoại của mình đã đuối lý, không còn quá hung hăng như trước nữa, Hoắc Đạo Sinh nói tiếp với giọng kẻ cả an ủi họ:

- Tình thế phải như vậy, các ông cố gắng chịu khó theo quân đội ta xuống Ninh Hải, để rồi sẽ trở lại đây đàng hoàng, yên ổn hơn. Còn về phần che chở những kẻ theo ta thì điều khoản thứ hai kia đã đủ lắm rồi. Triều đình Huế vẫn ngoan ngoãn tuân hành những điều họ đã ký. Và ta thừa sức bắt họ phải làm đúng như lời cam kết, và chỉ có ta, khi cần thiết, ta thường lấn họ.

Quay lại nói riêng với cố Phước, hắn trở lại giọng dịu dàng lễ phép tỏ ý khuyến khích:

- Kính thưa đức cha, đức cha vốn là người thâm trầm, mưu trí. Nhưng lần này quá say sưa với kết quả nhất thời cả ở phần đạo và phần đời, hóa ra vội vàng, nông nổi, đức cha đã nhìn sai đại cục. Tình thế bắt buộc ta phải tòng quyền. Tôi ký kết thế này là để giữ lại miếng đất dụng võ cho đức cha đấy! Đức cha sẽ còn thi thố được nhiều tài năng ở xứ này. Và nước Pháp sẽ còn cần đến sự giúp đỡ, chỉ dẫn của đức cha nhiều lắm đấy!

Cuộc hội kiến đến đây chấm dứt, Hoắc Đạo Sinh đứng lên tiễn chân hai người ra ngoài hè, khẽ ghé vào tai nói với Đồ Phổ Nghĩa:

- Còn việc ông đòi bồi thường, theo tôi nghĩ, hãy tạm hoãn lại đã. Nợ để lâu năm, chúng ta sẽ trở lại đòi lãi nhiều hơn nữa trên đất nước này. Nhiều nữa, chứ ba mươi triệu quan mà thôi đâu!

° ° °

Quân Pháp đã rút khỏi Hà Nội đúng như Hoắc Đạo Sinh đã ký kết. Đúng ngày 20 tháng giêng 1874 tức là ngày 18 tháng 12 năm Quý Dậu, Tự Đức năm thứ 26, tất cả đoàn thuyền của Đồ Phổ Nghĩa và mọi quân lính của nước Pháp đều đã xuống cả Ninh Hải. Và đúng tết Nguyên đán năm ấy, các quan tỉnh Hà Nội đã lại đường hoàng làm lễ tế mừng thần linh ở ngay điện Kính Thiên như thường lệ. Rồi điều vui mừng nhất cho văn thân, sỹ tử và cho cả toàn dân phố phường Hà Nội là giữa lúc xuân thủ vui tươi dưới giời chiến thắng thanh bình ấy, nhà vua đã chuẩn y lời tâu xin của các quan tỉnh Hà Nội và Nam Định, đã hạ chỉ cho mở lại khoa thi hương ở hai trường Hà Nội và Nam Định. Việc này mang theo sự tuyên truyền cho chiến thắng của triều đình bắt buộc bọn Tây dương phải cúi xin ưng thuận hoàn thân, đã được thông sức đến tận thôn xã, phường phố đã làm nức lòng mọi người và đã truyền lan cái tác dụng ấy. Học trò lại nô nức đi học. Hai trường Vũ Thạch, Kim Cổ lại khai giảng ôn tập ngay từ đầu tháng giêng. Quan Đốc Mọc đã khỏe hẳn cùng với tin đại thắng ở Cầu Giấy và tin quân giặc rút hết, cũng vui vẻ lại ra ngoài trường ở cửa ô Hàng Đậu cùng vui với sỹ tử bốn phương. Cả thành phố vui lên với không khí giảng văn, nghỉ võ, và những nỗi bực tức ngày hôm qua đã bay theo bọn Tây cuốn đi hết. Sự chiến thắng đã làm cho quan và dân gần lại nhau, mọi người không còn căm phẫn quan trên và triều đình nữa, việc cũ chỉ còn như giấc chiêm bao, bây giờ ai nấy đều náo nức lên với khoa thi, “cứ ngỡ là không còn thi cử gì được nữa”! Bất cứ người dân nào dù cùng khổ đến đâu, một chữ nhất bẻ làm đôi không biết, đi qua thấy trường thi đang sửa chữa cũng vui mừng nói một câu tương tự như thế, kể chi những kẻ có theo đòi nghiên bút, sự gắn bó với trường thi lại càng sâu sắc biết chừng nào. Ở các trường học, trong những ngày bình văn, trả quyển, ông thầy thường nói đến trường, cách xếp đặt ở trong trường thi, và những mẩu chuyện vui buồn của các nhà nho ứng thí trong các khoa thi trước. Ông cử Kim Cổ ở gần trường thi, thường thường ông hay cùng với môn đệ đi đến tận nơi, vào hẳn cái cánh ruộng bỏ không ấy giảng giải cho họ biết rõ. Đầu năm nay, nhân có ông ấm Vẽ đến rủ, ông cùng với cậu ấm Tự Tháp, ba người đi sang trường Vũ Thạch chơi thăm cụ cử Nguyễn Huy Đức. Hai ông bạn ở gần nhau, nhưng vì cách tuổi, không cùng khoa với nhau, lại mỗi người một chí hướng khác, nên cũng ít khi đến chơi với nhau. Nay nhân dịp vui chung thắng lợi của toàn dân, toàn nước, học trò lại được đi thi, hai ông gặp nhau càng vui hòa với nhau, cùng hỏi han nhau về việc ôn tập của học trò, về việc học hành, thi cử. Rồi ông Kim Cổ mời ông Vũ Thạch cùng ra chơi xem trường thi đang làm lại. Ông Vũ Thạch vui vẻ ưng ngay, liền dẫn cả hai thanh niên đang hầu trà ở đấy cùng đi, hai thanh niên vừa dự vào đội quân mộ nghĩa trở về. Đỗ Uẩn ở Thịnh Hào, Lương Văn Can ở Nhị Khê. Ông cử Kim Cổ nhường cụ Vũ Thạch đi trước, đi sát gần hai cậu, khen:

- Đánh giặc cũng hăng, đi học cũng giỏi, cố gắng quyết khoa phen này nhé! Cụ Cử khen hai cậu học khá lắm.

Cụ Nguyễn Huy Đức nghe thoáng, ngoảnh lại nói:

- Quan cử Kim Cổ đã khen là may lắm đấy, thể nào tôi cũng có đệ tử vinh quy bái khánh.

Cả bọn cùng cười vui vẻ đi ra. Đến cổng trường, sáu người đang đứng lại xem người thợ nề xây vít lỗ tường thủng ở miếu Ân bên phải, người thợ nề đang nói cho mọi người biết nó đục tường để chĩa súng ra bắn và bắn như thế nào, thì Bá hộ Kim cũng vừa đi tới. Lão cúi đầu chào hai cụ cử, rồi nói cười một cách tự nhiên, giơ tay chỉ và mời:

- Rước hai cụ và các cậu quá bộ vào trong xem quang cảnh trường thi, còn bề bộn lắm. Nó dỡ mất cả nhà thập đạo đem xây bếp. Bây giờ sở tại lại phải làm hầu các cụ đấy. Làm lại khang trang, đâu ra đấy, học trò vào thi cũng thấy sướng.

Cụ cử Vũ Thạch hỏi:

- Ông Bá có cậu nào đi thi không?

- Bẩm cụ con nhà hào dốt nát, nó không có đất, các cháu lớn cả, đã bỏ học phá ngang.

Ông cử Kim Cổ nói:

- Đất cát gì! Tại ông không khuyên giục các anh ấy học, chứ cái cháu Xuyến nó học sáng dạ đáo để.

Bá Kim lễ phép nói:

- Ấy thưa hai cụ, con bé nó giống mẹ nó, chứ giống về đằng tôi thì dốt như hũ nút, học bí rì rì có dám đưa đến ăn mày cửa các cụ đâu. May con cháu bé lại được cụ Kim Cổ chỉ bảo cho học được đôi ba chữ, nhà cháu cũng được thơm lây, các thầy đồ ở nhà cũng vẫn khen.

Ông cử Kim Cổ hỏi đổi đi:

- Sửa chữa đã gần xong chưa? Có tổn nhiều không?

- Bẩm thưa hai cụ, cũng tổn phí nhiều đấy ạ, gần như tân tạo. Phải dỡ ra làm lại tất cả. Xin rước các cụ vào xem.

Lão vừa nói vừa nhanh nhẹn tiến lên đi trước hướng dẫn. Nhưng đến chỗ nhà thập đạo đang xây dở dang, lão đứng lại chỉ bảo thợ, bỏ quên hẳn bọn khách, mặc họ muốn đi đâu thì đi. Ông ấm Vẽ lủng bủng, khẽ nói với ông cử Kim Cổ:

- Cái lão Bá đến trơ thật. Nó làm nó như là chủ ở chốn này ấy, nó không biết đến cái tội của nó!

Ông Cử ôn tồn gạt đi:

- Thôi, mọi việc xong rồi, bây giờ mình thắng thế rồi, nên dĩ hòa vi quý, người ta mới sợ. Vả có lẽ lão không nghĩ xa xôi, đằng nào lão cũng cho là làm việc dân, nên lão cũng chả có mưu mô gì hiểm độc hại ngầm ai, dân họ biết cả đấy – còn hơn là những tú những cử, khoa bảng hẳn hoi, lại quay đi theo giặc, đắc lực, làm hại đồng bào, đồng chủng.

Ông cử Vũ Thạch cũng nói:

- Lão ta ít học, hay hống hách lếu láo, nhưng được cái thạo việc, thừa hành tốt, nên các quan nào cũng phải dùng…

Rồi ông chuyển ngay sang chuyện khác, chuyện trường thi:

- Lão trông coi chỉ bảo khá đấy, san phẳng và rào giậu trông có vẻ cả. Hồi tôi đi thi, ở mấy cái vi 1 ngoài này, họ để cả đất, vũng cầy, mưa lầm lội, chõng sụt tịt xuống đất, nước thấm lên cả quyển thi đến khổ! Trong giám viện thì để dột nát, bọn lại phòng họ phải che giữ các quyển thi họ kêu kêu là, năm ấy mưa to lắm.

Ông ấm Vẽ nói:

- Thưa thầy, cũng một phần là tại chỗ này trũng hơn cả. Sao trước lại đặt trường thi ở đây kia chứ.

- Ứ ừ! Ông Cử nói cướp ngay. Cậu không biết, chỗ này đất kiểu, cái nội án của tay long cái thành này đấy. Nhà Lê có thi ở đây đâu, thi ở tận dưới đàn Nam Giao kia chứ. Sang đời Nguyễn, thì dân ta phải lên thi ở tận trường Sơn Tây. Đời Minh Mạng mới mở trường thi Hà Nội, ở mãi bãi Bến đá ngoài bờ sông chỗ thôn Cổ Tân bây giờ. Cuối đời Minh Mạng, quan Tổng đốc Đặng Văn Thiêm mới cắm khu đất này làm trường thi, lấy cái gò chỗ nền nhà thập đạo kia là hợp cách hồi long cố tổ 2 , dễ phát văn học. Rồi từ đấy mỗi đời một tu bổ, giồng rào găng, rào ruối, xây nhà quan cư bằng gạch, ngày thường dùng đến để phát chẩn. Hễ có khoa thi thì chỉ cần sửa sang qua loa, rào ngăn bốn vi và ngăn thí viện với giám viện, chóng xong mà không phí tổn mấy. Chứ có phải làm lại cả như thế này đâu.

Cậu ấm Tự Tháp phá lên cười nói:

- Vì là đất kiểu, nên Tây nó cũng thích đóng ở đây.

Ông cử Vũ Thạch thật thà, nói ngay:

- Ấy tôi cứ lo nó chiếm hẳn mất cái trường thi này thì rồi vượng khí văn học nó chiếm đoạt mất cả thật bất lợi cho dân mình...

Ông ấm Vẽ cũng cười nói đế vào:

- Thế nên phải đánh Tây đuổi đi nhỉ thầy nhỉ!

Mọi người đã bước đến một cái nhà quan cư, hai ông Cử ngồi nghỉ xuống ngưỡng cửa. Ông cử Kim Cổ không muốn để bọn trẻ có ý trêu chọc ông già, liền nói:

- Chính ở trường thi này, mười năm trước, khoa Giáp Tý đã có cuộc náo trường sỹ tử không vào thi, chống lại hòa ước Giáp Tuất để mất Gia Định đấy. Các quan tỉnh, quan trường cuống lên chia nhau đi hiểu dụ mãi, anh em mới lại chịu vào thi, một số bỏ về, tôi cũng trở lại thi và đỗ khoa ấy đấy!

Ông ấm Vẽ reo lên:

- A ha thế là quan bác bỏ mặc anh em!

Ông Cử cũng cười theo:

- Cốt ở lòng mình không bỏ thì thôi. Mọi người thi cả chứ riêng tôi à. Mấy lại có thi có đỗ khoa ấy, thì rồi mới có cái danh để ngày nay trong lúc khó khăn, nói mới có người nghe chứ. Có lòng mà không có danh, ai người ta theo một anh vô danh tiểu tốt bao giờ.

Ông cử Vũ Thạch cũng nói thêm vào:

- Chính thế thật đấy các cậu ạ, các cậu ơn nhờ ông cha có danh phận sẵn rồi, thế mà không học hành, không đỗ đạt, cũng khó được người ta coi trọng, nữa là những người khác, cá mè một lứa thế nào được. Cho nên các cậu cũng phải cố học, cố thi cho khỏi phụ tiếng ông cha.

Và ông chỉ vào hai cậu học trò cùng đi:

- … Còn các bọn hậu tiến này lại càng phải cố nữa, không học không đỗ, thì rồi sau này có muốn thi thố công việc lợi ích gì cho đời, ai người ta mượn.

Câu chuyện lại xoay quanh sang việc thi cử, mọi người đều thấy rõ sự đi học, đi thi là một điều thiết yếu ở trên đời và do đấy càng thêm gắn bó với trường thi, thấy đòi được trường thi để cho con em có chỗ thi cử là một chiến thắng cho nòi giống, cho danh giáo. Và nhìn quang cảnh sửa chữa ngăn nắp khang trang hơn trước ai nấy tự nhiên thấy có thêm thiện cảm với Bá Kim, ai nấy cũng nhận ra đúng như ông bạn già thôn Vũ Thạch:

- Chỉ tại lão ta ít học. Bất học vô thuật, thánh nhân xưa đã dậy như thế.

Và tự nhiên, cậu ấm Ba liên tưởng đến cô Xuyến, đến lời cô nói chân thành nhưng có vẻ chì chiết: “Cũng tại bọn nhà nho các anh hay khinh người, hay khinh miệt hàng hào”.

Cậu ấm Ba lẩm bẩm một mình:

- Con bé nó nói có phần đúng đấy!

Cuộc đi chơi thăm trường thi như thế đã khiến cho mọi người đều vui vẻ cả. Nó đem lại nguồn phấn khởi kích thích mọi người: Học trò cố gắng học tập để kịp ngày thi cử. Ông thầy càng vui vẻ tận tâm truyền dạy cho học trò đủ sức xông vào trường văn, trận bút. Và đây cũng là một dịp đền đáp tâm trí, dũng khí của những ai đã hăng hái lao mình vào cuộc chiến đấu thắng quân thù vừa qua. Cho nên khoa thi mở lại kỳ này đối với mọi người đều có một ý nghĩa vui vui, thinh thích.

Bỗng nhiên gần đến ngày vào thi, đúng ngày các quan tiến trường, một việc đã làm náo động cả sỹ tử Hà Nội. Triều đình ý muốn tỏ lòng quyến cố đối với cái miền đã bị bọn giặc giầy xéo và đã góp công đuổi được quân thù, nên đã cử một vị chủ khảo danh vọng lớn nhất từ trước đến nay: quan Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Đức Đạt, người Đam Đường, Nghệ An, cùng đỗ một khoa với người cùng tổng Trung Cầu là Thám hoa Nguyễn Văn Giao, cùng tổng, cùng khoa, hai ông cùng đỗ nhất giáp cập đệ, tiếng tăm lừng lẫy một thời. Tiếng lớn ấy tưởng chừng sẽ làm nức lòng nhân dân đất Bắc và tăng thêm niềm tin cậy của học trò lều chõng vào trường. Nào ngờ, nghe đến tên quan chủ khảo, học trò trong thành Hà Nội đã xúm xít lại hỏi nhau xôn xao:

- Nguyễn Đức Đạt nào nhỉ?

- Có phải Nguyễn Đức Đạt, Tuần phủ Hưng Yên không nhỉ?

- Phải rồi, cái quan Tuần đã sai lính nhổ kè ở sông Cái cho tàu giặc Phú đi và đem lễ vật ra đón mừng, rước giặc vào thành, viết giấy hàng phục đấy!

- Ấy thế mà ông ấy được thăng Tham tri và bây giờ ra làm chủ khảo khoa thi này, đứng tiêu biểu cho sỹ lâm đấy.

- Thế thì dân Hà Nội đây không thèm thi với các anh quan hèn mạt tham sống sợ chết ấy! Hay chữ mà làm gì, tham bảng mà làm gì! Đọc sách thánh hiền mà không bằng bọn ngu phu, ngu phụ! Nhổ vào mặt lão chủ khảo ấy, không thi với thác nữa!

Cậu ấm Ba Tự Tháp hung hăng nói thế và chạy đi rủ các bạn bảo nhau đi báo rõ cho các thí sinh biết đừng vào thi nữa. Ông cử Kim Cổ biết tin vội đi can ngăn từng người:

- Làm thế không được đâu, người ta sẽ buộc tội mình chống lại triều đình người ta chặt đầu đi cho. Vả còn có nhiều người nữa chứ, có riêng ông chủ khảo đâu. Cốt ở lòng mình ấy, còn nếu lan truyền ra mà anh em không theo, lại chả hóa ra mình là kẻ hiếu sự chỉ hay sinh chuyện thôi, rồi chẳng ra gì cả.

Cậu ấm Ba đành phải nghe theo, không dám đi khua động nữa, chỉ rủ tất cả anh em trong phố và Văn hội Thọ Xương không vào thi nữa, vui lòng chờ đợi đến khoa sau.

Nhưng việc đời nào có phải như ý người ta chờ đợi – Khoa sau chưa đến. Trường thi Hà Nội đã bị biến đổi long đong. Triều đình Huế đã ký với bọn Phú, Hòa ước Giáp Tuất (ngày 15-3-1874) rồi Thương ước ngày 31-8-1874, công nhận cho người Phú được có một khu đất đóng quân và được buôn bán tự do ở Hà Nội. Tháng tư năm sau, bọn Phú lại kéo quân đến Hà Nội thi hành những điều ước trên. Các quan Hà Nội phải cắm khu đất Đồn Thủy ngoài bờ sông làm nơi nhượng địa. Và trong khi chờ đợi xây dựng doanh trại ở khu đất mới ấy, bọn chúng lại được các quan chức Hà Nội cho đóng giữ trường thi – Có quân đội Phú đến đóng ở đấy, cố Phước liền trở lại khu Nhà chung và đem thêm các cố Đông tức Giăng-đờ-rô (Gendreau), cố Thịnh (tức Chaize) mở rộng khu vực. Khi tên Đại úy Sa-pô-tô đem quân đến đóng ở trường thi theo đúng như điều ước đã ký, cố Phước đã sang thăm trại lính, làm lễ giảng khuyên răn quân lính. Rồi lão vào phòng chỉ huy dặn dò riêng Sa-pô-tô. Lão nói một cách ngọt ngào thân mật:

- Phi-lát làm hỏng hết. Ta phải làm lại tất cả. Ông phải cáng đáng mọi việc của Đuy-puy và Gác-nhi-ê đấy. Đối với bọn quan An Nam, ta cứ phải làm già. Bây giờ ta lại có thế, có lý hơn trước. Có điều bây giờ gặp lão Tuần phủ này hơi sõi, mà dân ở đây vốn phục lão và tin lão. Phải tìm mọi cách giảm giá lão ta. Vậy trước hết, ông hãy cho sao và niêm yết cả hai tờ hòa ước và thương ước cho dân họ biết đến cái lý của ta. Ông cầm cho sao bằng chữ lớn đập ngay vào mắt mọi người cái tờ ký kết mà chính lão tuần ký nhường cho ta cái khu trường thi này.

Tên Sa-pô-tô đã làm theo đúng lời cố Phước, cho sao mỗi tờ làm hai bản dán ở hai bên cổng trường thi. Hắn còn khôn khéo dặn tên thông ngôn nói lại với những ai hỏi đến những tờ hòa ước ấy:

- Anh nhắc rõ cho dân chúng biết rằng đoàn quân của người Phú chúng ta đến đóng ở đây là theo đúng những điều khoản đã ký và mong rằng dân chúng ở đây vốn biết tuân theo mệnh lệnh của triều đình, dễ tỏ tình hòa hảo với quân đội Phú và giúp đỡ chúng ta xây dựng doanh trại.

Quả nhiên mưu thâm độc của cố Phước đã thỏa được ý mong mỏi nham hiểm của lão. Luôn mấy ngày liền, dân chúng lâu nay có nghe nói đến hòa ước và thương ước, nhưng chưa rõ nội tình nó thế nào, nay mới biết được toàn bộ cả hai tờ ước đã ký kết ấy; bảo nhau ra xem cho tỏ mọi điều khoản và sau cùng, ai cũng phải ngạc nhiên về tờ hiệp định đóng quân ở trường thi. Nhất là bọn học trò và văn thân đều cố mò đến xem và sao chép lại truyền cho nhau mấy điều khoản của cái hiệp định ký ngày 30 tháng 5 năm giáng sinh 1875, tức năm Tự Đức thứ 28 tháng tư, ngày 26. Chữ to, rõ, chân phương, bản hiệp định đập vào mắt mọi người, ai cũng nhìn thấy và ghi nhớ rõ chỉ có hai điều khoản:

Điều khoản một: − Các quan chức Hà Nội tạm nhường trường thi cho quân đội Phú Lãng Sa từ ngày ký hiệp định này đến ngày 1 tháng giêng năm 1877 và nếu cần có thể lâu hơn nữa.

Điều khoản hai: − Các quan chức Hà Nội sẽ giúp đỡ mọi phương tiện để quân đội Phú Lãng Sa xây dựng doanh trại ở đấy và ở nơi nhượng địa ngoài bờ sông theo những điều đã ký ở tờ thương ước để thắt chặt thêm tình hòa hảo giữa hai nước.

Ký tên: Trần Đình Túc, Tổng đốc Hà Ninh

Trần Hy Tăng, Tuần phủ Hà Nội

Bờ-ri-ôn-van, đại diện Thiếu tá tư lệnh trưởng

Công sứ chính trị ở Bắc kỳ

Đuy-pon-li-ê, Đại úy công binh ở Bắc kỳ.

Những điều khoản ấy mà lại do chính quan Tuần phủ Hà Nội đã ký à? Quan Tuần phủ Tam nguyên, người ở Vị Xuyên, Nam Định mà văn thân và nhân dân Hà Nội đã đón rước với một lòng tin tưởng chân thành, hơn đón quan Tuần trước, người sở tại, quan nghè Kim Lũ Nguyễn Trọng Hợp? Ngài khiếp nhược chăng? Ăn tiền, ăn lễ của bọn Tây chăng? Sao lại để bọn Tây lang sói giày xéo lên mảnh đất văn chương? Hay cũng lại tuồng Thám hoa Nguyễn Đức Đạt? Chắc không phải như thế. Vốn còn giữ được lễ độ sẵn có đối với một vị Tam nguyên, Văn hội Thọ Xương liền cử một đoàn người có ông cử Kim Cổ, bạn đồng niên 3 với quan Tuần, ông mền Kim Liên, ông cử Hoàng Mai và cả cậu ấm Ba Tự Tháp lên gặp quan Tuần để hỏi cho ra lẽ. Quan Tuần tiếp đón niềm nở, mời đoàn ngồi chơi và hỏi ngay:

- Các vị đến đây để buộc tội tôi đã ký cho người nước ngoài đóng mất trường thi, phạm vào nơi danh giáo chứ gì? Ấy chính lối ly gián của địch đấy! Nó dán tờ giấy có chữ tôi ký cốt là làm cho dân không tin tôi nữa. Chính là mưu của đức cha đấy, vì tôi ở chỗ nào cũng bị các đức cha ghét. Ở Bình Định trước cũng vậy. Cố Hậu coi tôi như tử thù.

Ông cử Kim Cổ được dịp nói ngay vào đề:

- Bẩm cụ lớn, ấy chính văn hội chúng tôi băn khoăn vì thế đấy ạ. Bọn Ngạc Nhi đã đến đóng trường thi rồi đánh chiếm thành trì của ta, gây ra bao tội ác. Ấy thế mà lại có bọn khác đem quân đến đóng như thế, chúng tôi sợ rằng chúng nó sẽ lại lấn dần, có đằng chân chúng sẽ lân đằng đầu như lần trước, rồi biết làm sao. Sở dĩ có băn khoăn phải vào trình cụ lớn là vì lo xa như vậy.

Ông cử Hoàng Mai nói thêm:

- Vả nghe đâu chúng đóng quân những quá hai năm nữa, tức là hết năm Bính Tý, như vậy là quá khoa thi thường lệ rồi, năm ấy sẽ lấy trường đâu mà thi? Hay là lại hoãn?

Quan Tuần vội nói ngay:

- Các vị lo cho đạo Nho ta thế là chí lý. Chúng tôi cũng có nghĩ đến điều đó rồi. Nhưng xin thưa trước với các vị rằng chúng tôi cam đoan có được trường thi cho sỹ tử ứng thí chứ…

Quan Tuần ngừng lại như có ý nhìn xa về viễn ảnh tương lai. Cậu ấm Tự Tháp bạo dạn nói xen vào:

- Bẩm cụ lớn, việc thi cử là một thịnh điển của nước nhà. Nếu không thi được, hay là thi không ra gì, nơi trường thi luộm thuộm mất cả thể thống, thì tức là ta đã để cho bọn chúng nó xúc phạm đến quyền độc lập tự chủ của nước mình, như thế có khác nào cảnh nước mất, nhà tan như bà con trong lục tỉnh đang phải chịu.

Ông Tuần ngắt, giảng giải:

- Sự thể là như thế này: Thi hành Hòa ước và Thương ước Giáp Tuất, tỉnh ta phải cắm một khu đất rộng ở Hà Thành này cho bọn Phú đến xây dựng trại đồn đóng quân và mở mang việc buôn bán. Tôi đã cắm một số ruộng bãi ở chỗ Đồn Thủy cũ ngoài bờ sông, vì chỗ ấy cách biệt, không đụng chạm gì đến dân, nhưng lão quan tư La Đăng mãi nó mới chịu nhận. Hiện nay đất đã có rồi, còn phải dựng nhà cửa chứ. Nhà ở đó sẽ làm theo kiểu Tây, tường gạch lợp ngói, lại trên một khu đất trũng ngoài bờ sông, thế tất không thể nhất thời làm xong ngay. Vậy nên tỉnh đường đồng ý cho họ đóng tạm ở trường thi, rồi sẽ cố gắng làm nhà cửa ở nơi đất đã quy định kia cho chóng xong trước tháng năm, tháng sáu năm Tý. Bấy giờ ta dọn dẹp nơi trường thi cũng kịp chán. Tôi xin đoan với các vị, ta sẽ giục được họ trả lại trường thi càng sớm càng hay.

Ông cử Kim Cổ hỏi thêm:

- Thưa cụ lớn, thế sao lại ghi là nhường cho nó đến mồng một tháng giêng năm 1877 và nếu cần thì kéo dài thêm nữa.

Quan Tuần cười:

- Điều ấy là phòng xa thế, họ muốn ghi như vậy để ngộ nhỡ chưa xây dựng xong nơi ở, nơi ăn, chốn làm việc, thì họ vẫn còn có chỗ ở yên ổn, không lo bị đuổi ra khỏi nhà, hay bị quấy rầy khó dễ. Ấy những kẻ đi đồng đất nước người, lạ nước lạ cái, đều có ý nghĩ lo xa như thế. Nhưng các vị cũng nên nhớ rằng công việc làm doanh trại nhà cửa ở đây, còn cần những thợ làm và vật liệu do ta cung cấp. Vậy muốn cho mau có được trại đóng quân trên bờ sông, điều cốt yếu vẫn là do ta chứ.

Ông cử Hoàng Mai hỏi thêm:

- Thưa cụ lớn, điều mà anh em văn hội và cả toàn dân lấy làm tức tối là: tại sao hai anh đại diện bên Phú Lãng Sa chỉ là chức Đại úy như Phó lãnh binh của ta, mà lại được phép ký ngang với quan Tổng đốc và quan Tuần phủ Tam nguyên của ta. Thế thì còn đâu là thể diện quốc gia? Mà tên La Đăng đâu không ký? Mà sao ta không để Lãnh binh, Án sát ra ký? Ra mình cứ chịu lép vế à?

Quan Tuần đáp thong thả:

- Thầy cử Hoàng Mai nói đúng. Đó là một việc đáng lẽ phải đòi cho được những người ngang hàng ngang tước ký với nhau thì mới phải. Nhưng khốn nỗi, quân lính của họ đã kéo đến cả đây rồi, mà mình cứ đòi cho được người ngang chức với mình mới ký kết, như thế là cố chấp và quân lính của họ thì dồn vào đâu cho được, cứ để mãi ở dưới tàu à? Hay là để cho lên phố lang thang hoành hành như bọn Đồ Phổ Nghĩa trước kia? Mà mình cho Lãnh binh, Án sát, Bố chính ký với họ thì họ không nghe. Đến một nơi nào, một tỉnh nào, tất họ đều muốn kẻ đứng đầu ở đấy công nhận họ. Thường tình con người ta đến nơi xa lạ đều có bụng nghĩ như thế. Vả lại, khi tôi được cử trông coi việc thương chính ở đây, đức vua ân cần dặn phải giao thiệp cho khéo, phải tỏ ra là chủ hiếu khách, cương nhu cho đúng lúc, chớ để người ta trách được mình, làm sao cho họ cảm thấy lòng thành và lòng nhân của mình. Cho nên lần này là lần đầu tiếp xúc với nhau, thấy quan thượng Trần là người giao thiệp với họ lâu năm đã vui lòng, thuận ký ngay những điều khoản trên, tôi nghĩ cũng chưa phải lúc mình cứ găng quá, để phá mất vẻ hòa khí ban đầu, vì đôi bên chưa phải nhất đán đã xa bỏ nhau ngay được, nên tôi cũng buộc lòng phải ký.

Cậu ấm Tự Tháp nói:

- Bẩm cụ lớn, nhưng một bản giao kèo ký kết mà chỉ có hai khoản buộc cả một bên như thế là không đúng, bên bị các điều khoản bó buộc rõ ràng là lép vế, mà bên lép vế lại là bên ta, bên các quan tỉnh Hà Nội, cho nên dân chúng tỉnh nhà lấy làm phẫn nộ tức lắm!

Quan Tuần ngồi trầm ngâm suy nghĩ, thấy mình đuối lý, rõ ràng bản hiệp định tỏ ra ta lép vế với địch thì còn biết ăn làm sao, nói làm sao bây giờ! Cuối cùng, ông ôn tồn sẽ sàng nói một cách chua chát:

- Sự thế bắt buộc phải thế: nhà vua muốn vậy, triều đình muốn vậy, quan thượng Trần muốn mau xong việc như vậy, thì còn biết làm thế nào được! Nhưng tôi xin thề với các vị trong văn hội rằng không khi nào tôi dám nghĩ đến làm điều gì hại dân, hại nước. Có cao xanh chứng giám cho tấm lòng của tôi.

Quan Tuần ngừng lại đăm chiêu nghĩ ngợi. Mọi người đều im lặng như cùng thông cảm với nhau trong một nỗi lòng u uất chung, trước bao nỗi khó khăn mà nước nhà đang vấp phải, mà một mình mình lẻ loi thì bất lực chưa biết tìm cách nào cứu chữa được. Hồi lâu, quan Tuần mới lên tiếng, giọng trở lại bình tĩnh, đĩnh đạc:

- Các vị cứ yên tâm, nhất định bản chức sẽ đòi lại trường thi cho kịp khoa thi! Các vị về báo với bà con ý định của tỉnh đường nhất quyết là như thế. Con em cứ đọc sách học tập, bà con cứ việc cày cấy, vải sồi, làm công nghệ. Điều cần thiết là phải gắn bó lấy nhau, chớ để người ngoài ly gián, cũng chớ nên khinh động làm phật ý ai cả.

Cậu ấm Tự Tháp rụt rè hỏi thêm:

- Bẩm cụ lớn, tại sao bọn cố Tây lại ở đây đông như vậy? Lèo tèo có độ mươi gia đình đi đạo mới đến, mà ngoài cố Phước ra còn có đến bốn lão nữa. Con sợ rằng họ sẽ dựa vào sự dễ dãi của ta mà làm việc khác nữa.

Quan Tuần nói thong thả, như rằn từng miếng:

- Đúng! Nhưng nan giải là ở đó. Họ có cớ, có lý của họ, có hòa ước che chở họ, mà họ lại có ý mong mỏi ta gây sự. Nên mình lại phải cao kiến hơn. Vẫn tử tế, nhưng vẫn đề phòng, hễ họ sa cơ phạm vào điều gì hai năm rõ mười là ta chộp ngay, như lão cố Hậu trong Bình Định, tôi tóm đúng tội, tôi đuổi đi cứ ngay râu ra mà chịu thôi! Các vị là những người ở sát ngay dân chúng, hằng ngày các vị có thể biết rõ được hành tung của họ, họ có điều gì sai trái cứ nắm cho được chứng cớ đích xác, báo tôi, tôi có thể bắt ngay. Nhưng đấy cũng chỉ là ngọn thôi. Gốc là phải giữ lấy dân. Các vị là người ở gần dân lại càng cần tìm hiểu rõ dân tình hơn nữa, để một mặt tự tìm cách giúp đỡ dân, bầy công ăn việc làm cho dân, một mặt trình báo lên quan trên biết rõ nỗi u ẩn thống khổ của dân để biết lối mà hưng lợi, trừ hại. Trong tình cảnh loạn lạc này, dân ra chắc khổ lắm, các vị phải biết rõ ở xóm ngõ, ở phường phố, dân khổ đến thế nào thì rồi trên này chúng tôi mới biết được chứ. Ta phải giữ lấy dân. Dân bây giờ khổ lắm thì các cố càng dễ dụ dỗ phỉnh phờ, cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ 4 , cứ có lợi là họ theo ngay, huống chi lại còn bị mê hoặc là được lên thiên đường làm nguồn an ủi về sau này. Bọn cố đến đông là cốt tranh dân với ta đấy. Nhưng thôi, các vị đi về, yên trí bảo nhau hòa thuận…

Đoàn đại biểu văn hội đứng lên lậy biệt quan Tuần ra về, đem tin tức biến báo cho khắp các tư văn trong hạt. Mọi người cùng được thấy rõ tình thế hơn và hiểu thêm rằng một mình quan Tuần không thể cưỡng được với triều đình, với quan trên, lại càng thấy rõ được lòng quan Tuần cũng đang lo âu bực bội, chưa thể nhất đán thắng vượt ngay được nổi bước khó khăn lớn lao của cả nước; anh em càng hiểu rằng lúc này chỉ còn một cách là phải mọi người như một, trên dưới một lòng, tự bảo vệ lấy nhau, không để cho người ngoài khích nộ, ly gián đánh tỉa lẻ từng người, dựa vào quan phá dân, vin vào dân để buộc quan, chung quy chỉ là thiệt hại cho dân, cho nước; rồi kẻ địch bên ngoài lại càng có thêm cớ lấn bước được ta mà thôi. Cho nên, sau một dạo xôn xao bàn tán về tờ hiệp định do quan Tuần ký, toàn dân ở đây lại vẫn tin theo lời quan, yên tâm chờ đợi thi hành thương ước, đem chân tâm đáp lại, mong thật sự giữ tình hòa hảo lâu dài. Bọn cố Phước nghe ngóng tình hình, thấy dân gian vẫn yên tĩnh và uy danh quan Tuần vẫn không giảm sút tí nào, chúng liền thay đổi cách đối xử. Chúng cố giữ vẻ hoà nhã với mọi người, tôn trọng phong tục và pháp luật sống theo tập quán của dân, cầu thân với các quan tỉnh, quan huyện sở tại và tìm mọi dịp giao thiệp rộng rãi với nhân dân. Chúng thường đến chơi thăm các nhà danh tiếng trong vùng. Cố Mỹ, người đã ở lại suốt trong thời gian gần một năm không có bóng người Pháp nào ở Hà Nội, đã sống dựa vào quan Tổng đốc Trần Đình Túc và đã cố làm quen được với nhiều bậc văn thân ở thành phố; lão lại có lần đến học thêm chữ nho cụ cử Vũ Thạch. Dân hàng phố vốn từ trước đã không hiềm thù dân đi giáo, nay lại thấy những vị cha cố Tây này có lễ độ, biết tôn trọng phong tục của dân, nên cũng quý mến họ, không ghẻ lạnh, như đối với bọn Đồ Phổ Nghĩa và An Nghiệp. Và sang đầu mùa xuân năm sau, nhân dịp làm lễ khánh thành ngôi nhà thờ gạch đầu tiên của khu Nhà chung, cố Mỹ đã tự viết thiếp chữ nho mời các quan chức trong huyện, các văn thân và thân hào, phụ lão ở các làng, phố lân cận đến dự tiệc mừng. Lời lẽ trong thiếp trang trọng mong tỏ ý đặt tình giao hiếu thân thiện. Số đông bà con nhận được thiếp mời rủ nhau mua lễ vật và làm câu đối đến mừng, coi như các làng bên lương đi mừng gia hiếu làm đình chùa. Cố Mỹ thân ra đón tự ngoài cổng. Pháo nổ ran vui mừng. Và trong khi ăn tiệc, cố Mỹ và các cố thân đi mời rượu từng người. Cố Phước đi hết một vòng, đứng lại ở giữa nhà, cười rất tươi, nói thân mật với mọi người:

- Thưa các vị, các vị đã quá bộ đến mừng chúng tôi, chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Các vị ạ, đạo nào cũng là thờ giời, thờ đấng thượng đế cả. Chỉ có lối thờ cúng khác nhau mà sinh ra ganh ghét nhau, trái cả ý đấng thượng đế. Vì thế nên, đấy các vị xem, chúng tôi làm cái Nhà chung này theo kiểu đình ở ta, hai hàng cột gỗ lim, bên trên chồng giường, chồng kẻ như thế này, là ý muốn tỏ ra học lối người bên lương, để cho giống như nhau, để hòa hợp với nhau, có phải không các vị?

Nhiều người tấm khắc khen, có ý tin lòng tử tế của các cố Tây. Cậu ấm Ba đi với đoàn đại biểu thôn Tự Tháp “để xem họ xử sự như thế nào”, thấy cần nói mấy lời để cho họ biết mình đã rõ tâm địa họ và cũng là để nhắc nhủ bà con mình:

- Bẩm quý ngài bề trên, quý ngài nghĩ được như vậy thật là phúc đức cho bàn dân chúng tôi và lương giáo được đời đời sống chung với nhau vui vẻ. Chỉ sợ rằng cái kiểu đình lại càng dễ làm cho không ai để ý đến như kiểu nhà thờ riêng…

Cố Phước vẫn cười rất tươi vui vẻ và nói như phân trần:

- Lậy đức Chúa tôi lòng lành vô cùng. Người ban phước lành cho cả những ai còn ngờ vực. Các cha đây, người hội Thánh chỉ biết làm theo ý Chúa. Công việc hằng ngày sẽ chứng tỏ cho lời nói, đấy các vị ạ.

Bữa tiệc giao hiếu đầu tiên tuy đôi bên thường có những câu nói giữ miếng, vẫn giữ được tình hòa hảo và kết thúc vui vẻ. Rồi từ đấy, các cố bên khu Nhà chung cũng thường đi lại giao du rộng rãi thêm; gặp các bậc tư văn trong các xóm, các cố thường vui vẻ đứng lại chào hỏi. Vả có khi gặp nhau ở trên bờ hồ, họ thường cùng đứng lại ngắm cảnh, hỏi nhau về phong cảnh, cổ tích, cùng nhau hỏi han về văn chương, địa lý và đôi khi tranh luận cả về triết lý của các đạo Nho, Phật, Lão, Mặc, Thiên chúa…

Thế rồi một buổi chiều đầu thu, trời trong sáng, ánh nắng vàng bảng lảng tỏa rắc khung giời một màu bàng bạc, gió thu nhè nhẹ đưa thoảng hương hoa ngâu từ trong tháp vắng vẻ bay ra, cậu Ba Tự Tháp đang ngồi chơi ở trên nền gạch bệ tháp Báo thiên bên bờ rào ruối, nói chuyện với ông ấm Vẽ vừa mới ở trường Vũ Thạch ra. Chợt từ phía Nhà chung đi lên cố Mỹ và cụ Trọng cũng đang dạo chơi mát. Hai nhà tu hành đến gần, hai người cùng đứng lên đi ra chào hỏi. Cố Mỹ đứng lại vui vẻ hỏi:

- Các thầy bàn chuyện gì mà vui thế?

Ông ấm Vẽ đang muốn gây chuyện trêu tức bọn Tây, nên nói ngay:

- Kỳ thu thí 5 sắp đến rồi, mà người Phú vẫn đóng giữ trường thi chưa giả, nên chúng tôi chỉ có ngồi bàn đến việc thi năm nay thôi.

Cậu ấm Ba cũng nói thêm:

- Quan Tuần Trần có hẹn nhất định lấy lại trường cho sỹ tử thi chậm nhất là phải vào tháng năm, tháng sáu để còn tu bổ. Thế mà nay đã sang tháng tám…

Cố Mỹ nói cướp ngay:

- Việc trao giả trường thi theo như Hiệp chính quan Tuần cũ đã ký đến hết năm nay mới có thể xét đến. Vậy có trao giả hay không là do người Phú, do quan Lãnh sự, chứ không phải do quan Tuần. Quan Tuần cũ lại càng không thể nào đòi được trường thi. Người Phú không thể nào tin cậy một ông quan có ý khinh thường người Phú như vậy, ở Bình Định thì ông ta chống đạo, bắt đức giám mục, ở đây thì ông ấy nghiệt ngã với khách buôn và không ưa gì chúng tôi. Con người bất mục cô lậu cố chấp như thế, trong nước và người ngoại quốc đều khinh…

Cậu ấm Ba cãi ngay:

- Các ông không được nói như thế. Ông là người nước ngoài chứ người trong nước mà mở miệng ra như thế là chúng tôi trị vào khuôn phép ngay tức khắc. Quan Tuần Tam nguyên là tiêu biểu cho làng nho chúng tôi, tiêu biểu cho sự trì thân 6 , xử thế. Ở Hà Nội này, cụ lớn ngài giao thiệp với mọi người đều theo lễ độ, với các người theo đạo đều giữ đúng lẽ bác ái, không ức ép lòng tin của người ta. Việc đạo của các ông có bị trở ngại gì đâu nào? Còn các ông, các ông cho hễ ai ngoan ngoãn chiều theo ý các ông muốn thì là trung nghĩa, lịch thiệp chứ gì? Như kiểu quan thượng Trần của chúng tôi là các ông thích chứ gì?

Cụ Trọng đưa mắt và nói nhỏ một câu tiếng Pháp. Cố Mỹ vội khôn khéo tìm lời gỡ lảng:

- Cứ như ý riêng tôi thì không cứ cứng cỏi đòi lại mà người Phú trao trả trường thi. Trước hết là trông vào khu nhượng địa Đồn Thủy đã làm xong nhà cửa tươm tất chưa và cũng là do cả quan Tổng đốc và quan Tuần phủ, chứ có riêng gì trách nhiệm quan Tuần…

Ông ấm Vẽ có vẻ bực dọc nói:

- Muốn gì thì gì, người Phú mà không trao trả trường thi đúng vào kỳ mở khoa thi, chỉ tỏ rõ sự thiếu thân thiện của người Phú mà thôi. Mà đã thiếu thân thiện như thế thì làng nho chúng tôi sẽ có cách đối xử tương xứng khác hẳn bây giờ.

Cố Mỹ suy nghĩ một lát rồi hỏi lại và trình bày ý nghĩ của mình:

- Tôi lấy làm lạ rằng, sao các ông ở đây lại cố tha thiết bám lấy trường thi như vậy? Việc trao trả cố nhiên do quan Lãnh sự xét khu nhà Đồn Thủy đã tạm ở được chưa, thì giao trả lại sớm được là hay. Nhưng nếu chưa trả, nơi này còn bận chưa dùng được, thì ta thi ở nơi khác đã sao? Việc học hành thỉ cử cốt ở thực học, chứ có phải ở cái trường thi đâu mà phải sinh chuyện. Ở nước chúng tôi và trong Sài Gòn bây giờ cũng vậy, có lấy việc thi cử làm trọng lắm đâu, ấy thế mà vẫn lắm nhân tài.

Thầy Trương Vĩnh Ký, người Nam các ông đấy, có thi cử như các ông đâu, chỉ học ở trường nhà Dòng là trở thành một nhà bác học, biết hết tiếng vạn quốc, giỏi chữ nho hơn cả bậc đại khoa ở đây, hiện nay thầy làm quan chủ bút toà báo Gia Định công báo và quan Đốc học trường Thông ngôn Sài Gòn…

Ngừng một tí, thấy hai người còn mải nghe. Cố Mỹ tiếp luôn:

- Hiện thầy Trương Vĩnh Ký đang đi du lịch ngoài Bắc kỳ này, chỉ mấy hôm nữa là đến đây, các ông được gặp, các ông mới rõ tài học uyên bác của thầy, Tứ thư Ngũ kinh, bách gia chư tử thầy đều thông làu làu.

Ông ấm Vẽ hỏi:

- Ông ấy đã giỏi chữ nho như thế mà còn biết cả chữ các nước khác nữa cơ à?

Cụ Trọng đáp ngay:

- Thầy Ký giỏi lắm, hiện là một nhà thông thái của toàn thế giới. Đó là một vinh hạnh lớn cho người Nam ta, cho nước ta. Thế mà có cần thi hương, thi hội đỗ đạt gì đâu. Chỉ là nhờ ở Giáo hội Thiên chúa và nhờ ở nước Phú, nên mới được cả hoàn cầu biết đến tiếng tăm như thế chứ.

Cậu Ba Tự Tháp hỏi:

- Thế ông ấy ra đây làm gì? Hiện giờ ở đâu?

Cố Mỹ đáp với vẻ tự hào:

- Thầy Trương đi du lịch, nên có ý định đi thăm những nơi danh lam thắng cảnh, hiện thầy đang ở chơi Hải Dương, là thượng khách của quan Tổng đốc Phạm Phú Thứ. Thầy là bạn thân của quan Thượng Phạm từ khi ngài đi sang sứ bên nước Đại Phú.

- Như thế thì ông ấy sắp đến đây rồi, cậu ấm Ba nói. Liệu chúng tôi có được gặp không?

Cố Mỹ lấy làm thỏa thích, tươi cười nói:

- Thầy Ký sẽ đến thăm quan Tổng đốc, quan Tuần phủ, rồi đi thăm phố xá dân tình, tất nhiên thầy muốn gặp các thân hòa danh sỹ vùng này. Các ông muốn gặp riêng, khi nào thầy tới đây, chúng tôi sẽ mời các ông đến trước.

Ông ấm Vẽ hỏi một câu hóm hỉnh:

- Vậy ông ấy ra đây là người nhà, là anh em hay là khách nhỉ?

Cố Mỹ thật thà nói:

- Thầy Ký hiện là quan cao của Súy phủ Sài Gòn, thầy ra ngoài này tất nhiên là khách của các quan chức ở đây.

- Và tất nhiên là người nhà của các cha, các cố, cậu ấm Ba nói, vì thầy là con nuôi và học trò của nhà Dòng.

Thấy lời nói của ông cố Tây có vẻ hớ, cụ Trọng, linh mục người Nam, liền nói chữa:

- Đã là người Nam, ra thăm đất nước mình, đều là người nhà cả, nào có khách khứa gì. Chẳng qua vì thầy giỏi, thông thái, học rộng, biết nhiều, nên đi đến đâu cũng được nhiều người đón tiếp trọng vọng. Tôi chắc rồi đến đây cũng thế. Ai cũng mừng cho một người Nam mình tài giỏi lừng lẫy ngang với danh nhân thế giới.

Câu chuyện chuyển sang hướng xã giao rồi chia tay, hai vị tu hành trở về Nhà chung. Hai cậu ấm cũng trở về phường Kim Cổ thuật chuyện lại cho ông cử Kim Cổ biết và bàn cách đi gặp lão khách Sài Gòn ấy. Cậu ấm Ba nói:

- Đúng là nó đi một công hai ba việc, vừa đi dò la, vừa đi dụ dỗ, phỉnh lừa bọn ngu phu, ngu phụ, khoe khoang là đi theo người Phú thì được tài giỏi vẻ vang như thế. Cho nên tụi chúng nó có vẻ tâng bốc lão kia lắm. Ta nên đón nó thế nào cho nó biết rõ rằng tài ba lỗi lạc, học rộng biết nhiều mà không làm lợi gì cho dân cho nước thì cũng là đồ bỏ đi, cho nó biết rõ đã bán nước theo giặc thì chẳng ai ưa và cho nó thấy rằng dân cố đô này không bao giờ phục cái tài ba tôi tớ của nó.

Ông Cử và ông ấm Vẽ cùng chung một ý nghĩ như thế, liền chia cắt nhau đi xếp đặt công việc đón tiếp vị “khách quý” ấy. Cậu ấm Ba được giao cho giao thiệp thẳng với cố Mỹ bên Nhà chung để biết tin tức hành trình của Trương Vĩnh Ký và nghĩ thêm cách thức đón tiếp ở mỗi chỗ, mỗi nơi sao cho linh hoạt. Cuộc họp tan, ở nhà ông Cử ra, với ý định sẵn sàng, cậu ấm Ba chia tay ông ấm Vẽ rồi đi thẳng lên phố Đông Thành vào chơi nhà thầy bói Ba Thịnh. Giời vừa chập tối, trong nhà vừa lên đèn, Ba Thịnh nghe tiếng hỏi, nhận ngay ra cậu ấm, mừng quá reo lên nói:

- Thật là phượng hoàng đáo gia 7 ! Nhưng sao rồng đến nhà tôm tối thế?

Cậu ấm cười hỏi lại:

- Có bấm được quẻ gì biết trước rằng tôi đến vào giờ này không?

Ba Thịnh nói chữa:

- Ấy thưa cậu, nếu bấm mà biết trước rồi lại không quý. Đến giữa lúc người ta biết mà đang chờ đón lại hóa ra không hay nữa.

Cậu ấm vồn vã khen:

- Chịu thầy! Nay đệ đến đây, chính là cũng muốn bàn với thầy một việc. Mấy hôm nữa có một lão thông ký gì ở Sài Gòn ra đây, bọn Phú và bọn đạo khoe khoang nó là một bậc kỳ tài, thông thái nhất thế giới. Chúng nó ra sức ca tụng, tâng bốc lão ấy để tuyên truyền dụ dỗ chúng ta. Mà nó ra đây lại như là người nhà chúng nó mà là khách của chúng ta. Tôi nghĩ rằng cùng một giống nòi, cùng một đất nước mà làm như hai nước khác nhau như thế là đồ mất gốc, tài giỏi bằng giời cũng vất đi có phải không thầy? Vậy anh em cử tôi đến bàn với thầy ra ngồi bói ở chùa Quan Thượng hay ở đền Ngọc Sơn, hễ thấy nó đến cứ lựa thế nào chửi thẳng vào mặt nó thật đau, thật nhục cho nó biết thân. Thầy có bằng lòng, thì khi nào nó đến, nó đi chơi đâu, tôi sẽ báo thầy biết. Còn mặc ý thầy tùy cơ ứng biến. Thầy nghĩ thế nào?

Ba Thịnh tươi hẳn lên, không nghĩ ngợi gì cả, nói ngay:

- Tưởng việc gì, chứ việc ấy nhà cháu xin làm được đến nơi đến chốn. Có bị đánh quăng tráp xuống hồ, nhà cháu cũng cam!

Cậu ấm nói khích lệ thêm:

- Công việc chỉ có thế. Anh em tin ở tài ba của thầy đấy. Chả đến nỗi phải vất tráp xuống hồ đâu! Còn có các nơi khác phụ họa chứ. Thôi bây giờ ta nói chuyện phiếm chơi.

° ° °

Cách một hôm sau, Trương Vĩnh Ký đi tàu thủy của Pháp đến Hà Nội. Hắn đến thẳng trường thi chào hầu Lãnh sự Kê-la-đích, rồi sang Nhà chung chào giám mục Phước (Puginier), các linh mục Mỹ (Landais), Phúc (Bonfils), Đông (Gendreau). Hai nơi này đều mở tiệc mừng hắn, và cùng căn dặn hắn mọi lẽ. Cha Mỹ có cho người đi mời riêng cậu ấm Tự Tháp, nhưng cậu lẩn mặt, bảo người nhà ra thoái thác là đi vắng, không đến kịp. Ngày thứ hai, Trương Vĩnh Ký vào thành chào quan Tổng đốc và quan Tuần phủ. Tổng đốc Trần Đình Túc thân dẫn hắn đi thăm khắp mọi nơi trong thành nói cho hắn rõ lai lịch thành, công việc xây dựng công việc trùng tu, chu vi kích thước và mọi chi tiết về thành Hà Nội. Rồi các quan tỉnh họp lại ở dinh Tổng đốc, đặt tiệc chào mừng hắn như một phái viên đặc biệt của Súy phủ Phú ở Sài Gòn. Trần Đình Túc còn vui vẻ tâng bốc:

- Chúng tôi ở đây lấy làm sung sướng được nghinh tiếp một vị người Nam được làm phái viên của Súy phủ Đại Phú Lãng Sa. Điều sung sướng hơn nữa là giao thiệp với nhau không phải nhờ đến thông ngôn.

Mọi người dự tiệc đều vui vẻ chúc mừng “vị khách quý quốc” thăng quan tiến chức. Trương Vĩnh Ký càng thêm sung sướng phấn khởi. Ngày thứ ba, cố Phước cho người đưa Trương Vĩnh Ký ra chơi nhà Bá Kim và nhờ lão này đưa đi thăm mọi nơi thắng cảnh, đi như người thường, để tránh mọi sự đón tiếp phiền phức theo như ý Trương Vĩnh Ký đã nói với quan Tổng đốc hôm trước. Thời gian và hành trình đã được quy định sẵn: Buổi sáng đến chơi nhà Bá Kim rồi đi thăm chùa Quan Thượng, đền Ngọc Sơn, chơi thuyền ở Hồ Gươm trở về ăn cơm ở Nhà chung với các cha. Buổi chiều đi thăm quán Trấn Võ, chùa Trấn Quốc, chơi thuyền ở Hồ Tây, tối về dự đại tiệc ở nhà Bá hộ Kim có mời đủ danh sỹ thân hào ở thành phố Hà Nội đến mừng. Ngày thứ tư đến chơi nhà Huỳnh Lục ký ở Hàng Ngang, ăn cơm trưa ở đấy, rồi đi thăm nốt các thắng cảnh Hà Nội và buổi tối về dự tiệc của thân hào hàng bang Quảng Đông, Phúc Kiến thết ở nhà hội quán Hàng Buồm. Ngày thứ năm, đi thăm Văn Miếu và tiếp xúc với văn thân Hà Nội ở đấy.

Hai ngày đầu, riêng tiếp xúc với bọn quan thầy, cha cố, dân đạo và bọn quan lại, ở đây, “ông khách Sài Gòn” Trương Vĩnh Ký rất phấn khởi và vui sướng được đặt chân lên cố đô của nước Bắc kỳ, thấy được đón tiếp ân cần và tôn trọng, càng thấy mình được vinh dự là người của Súy phủ Phú ở Sài Gòn, người của nước Đại Phú hùng cường. Ngày thứ ba bắt đầu được đi thăm dân chúng “quan Đốc” Ký vẫn tự coi như là một vị khách quý ở một lân bang đến, phải được mọi người tôn kính. Ở nhà Bá Kim đầu phố Hàng Khay đi ra, được chủ nhân dẫn đi thăm chùa Quan Thượng trước. Cảnh trí hùng vĩ nguy nga sừng sững bên hồ đã đẹp mắt, lại thêm mới có một đôi câu đối đỏ dán nổi bật ở cổng vào:

Bắc du phong độ nhan như ngọc

Tây vọng dung quang khí tự hồng.

(Nghĩa là: cuộc đi chơi đất Bắc, dáng bộ ung dung, mặt đẹp như ngọc. Trông về phía tây, diện mạo tươi tỉnh nghiêm trang sắc khí như cầu vồng).

Bá Kim đứng lại đọc và vui mừng nói:

- Thưa quan Đốc, câu đối này mới dán là của sở tại kính mừng viễn khách.

Trương Vĩnh Ký khiêm tốn nói:

- Lời khen quá đáng, tôi nào dám đang, chùa đã đẹp, mà người ở chùa lại khéo lễ độ đối với kẻ ngoại đạo này đến thế ư? Chữ tốt văn hay, câu đối ý nhị biết bao!

Vào thăm xong chùa, Bá Kim dẫn Trương Vĩnh Ký lên thăm đền Ngọc Sơn. Đến nơi ở lối đầu cầu Thê Húc, bên cổng đài Nghiên, Bá Kim thấy thầy bói Ba Thịnh ngồi chễm chệ trên một cái chõng kê gần sát lối đi vào cầu, trông có vẻ ngang chướng, liền hách dịch hỏi có vẻ không bằng lòng:

- Hôm nay lão Ba ra đây ngồi bói thế này cơ à?

Ba Thịnh cười nhe hàm răng rụng móm và chỉ lên bức vải đỏ viết hai chữ Đông Khứrất to căng ngang buộc một bên vào cột cầu, một bên đính vào cổng, trịnh trọng nói:

- À bẩm cụ, hôm nay định mở hàng căng biển này, ngồi ở chùa Quan Thượng, nhưng thấy người ta dán câu đối đón chào cái lão gì ấy ở Sài Gòn ra, người ta đuổi đi, nên phải lên đây, chưa bói được quẻ nào, cụ lại đưa ông gì đến đây thế? Tôi ngồi thế này có được không cụ?

Bá Kim nói:

- Ngồi tránh xa ra một tí. Ai lại nghênh ngang cản cả lối đi.

Ba Thịnh vội nói:

- Thôi thôi, để tôi cuốn gói đi về, không có khách lạ người ta lại cười cho.

Trương Vĩnh Ký đã đến nơi, thấy hay hay, liền sấn vào giữ lại, hỏi:

- Ông làm nghề gì?

Ba Thịnh bắt lời ngay:

- Tôi làm nghề thầy bói, bói ra mọi việc cát hung.

- Sao ông lại lấy hiệu là Đông Khứ? Trương Vĩnh Ký hỏi.

Ba Thịnh đứng thẳng người lên, đáp dõng dạc:

- Tôi ở phố Đông Thành, nên lấy hiệu là Đông Khứ. Đấy là một nghĩa. Vả tôi đi bói từ sáng sớm như mặt giời mọc ở phía đông đi lên, tỏa ánh sáng đi soi sáng mọi nơi, nói rõ được họa phúc cho người ta biết, đó lại là một nghĩa nữa của tên hiệu Đông Khứ.

Trương Vĩnh Ký cười hỏi thêm:

- Ý hay đấy. Thế nhưng ai hay đến bói?

Tức thì Ba Thịnh nói một thôi dài:

- Tôi bói cho tất cả mọi người cần bói. Tôi bói cho giai nên vợ, gái nên chồng, cho người ốm biết bệnh mà chữa khỏi. Tôi bói cho người ta biết điềm lành, điều dở, biết tránh vạ đón phúc, nhưng không bói cho những người như anh, nghe chưa! Đông khứ thì Tây lai là Tây đến, Tây đến thì Bắc thất tài là miền Bắc này bị cướp mất của, Nam đa sự là người nam các anh mà bây giờ được ra đây đàng hoàng như thế này thì chỉ là hạng người theo Tây bới ra lắm việc hại nước hại nòi, cho nên gọi là bọn Nam đa sự. Ghét cái thằng Nam đa sự nên câu đối ở dưới cổng chùa mới có ý bảo vào mặt nó rằng:

Đi ra chơi Bắc, phong bộ nhẵn nhụi như đầu ngọc hành,

Trông ngóng theo Tây, mặt mũi ngây ngô như tĩn lợn đỏ.

Bá Kim mắng:

- Ba Thịnh lảm nhảm bậy bạ cái gì thế!

Ba Thịnh càng ngân to át đi:

Nhan như ngọc ư ư… khí tự hồng… i − ...i... đông khứ... ư... ư…

Rồi lão nói to đủng đỉnh:

- Đến trẻ con nó cũng biết. Thế mà nó không hiểu gì cả thì hay ho cái nỗi gì mà bọn đạo, bọn Phú nó khoe khoang ỏm tỏi lên, a ha!

Bá Kim ngượng, sấn lại quát mắng để giữ thể diện cho khách, vừa giơ tay toan đánh:

- Lão già kia không được nói láo ông trói cổ lại bây giờ.

Ba Thịnh lùi một bước giơ hai tay lên đỡ đầu và sừng sộ lại:

- Láo gì. Nó lòng lang dạ thú, nó dốt thì phải bảo vào mặt nó, cho nó tỉnh kỳ thân ra chứ. Tôi là thầy bói, tôi nói ra những điều thật, đến Tần Thủy Hoàng sống lại, đốt sách chôn học trò, tôi cũng cóc sợ. Hồi thằng Ngạc Nhe giết người như ngóe, đốt nhà như rác, tôi còn cóc sợ, nữa là cái hạng anh theo đóm ăn tàn, đi bợ đỡ bọn chó nước ngoài.

Bá Kim thấy rây vào lão này bây giờ chỉ bẽ mặt cả thôi, vội mời khách đi vượt vào cầu và vừa lẩm bẩm chữa thẹn:

- Thôi ta đi, không thèm rây với thằng điên!

Cả bọn đi vào đền thăm khắp đền trong, đền ngoài, rồi ra đằng trước chỗ Trấn ba đình, bước xuống cái thuyền đã đợi sẵn ở đấy, cho chèo thuyền đi chơi hồ. Mặt nước trong xanh, hai mái chèo nhè nhẹ nhịp nhàng bổ nước đẩy thuyền ra giữa hồ. Bỗng có tiếng hát vọng ở một cái thuyền con đánh cá từ hồ Hàng Đào lách qua lạch sang bên hồ này vui vút lao tới, tiếng hát theo với thuyền tới gần rõ dần:

Hồ này có thanh gươm thần,

Vua Lê gửi lại để dành phần cho những đời sau.

Những ai ăn ở ra dạ cơ cầu.

Rước voi về giầy mả,

Theo người ngoài mà tàn phá non sông,

Thì sẵn thanh gươm thiêng đây, ta quyết một lòng chém hết đầu chúng nó đi

Nào có tiếc gì…

Bá Kim bảo quay thuyền lại phía Gò Rùa để lên Tả Vọng đình rồi lượn về Hàng Khay. Thuyền đi lừ lừ gần sát bờ tây, để tránh cái thuyền đánh cá kia. Thì chợt từ trước cửa đình Tô Mộc vẳng lên tiếng hát sẩm bung bập bùng vọng ra:

Tôi tiếc cho anh sức rộng vai dài

Thông minh tài trí mà hóa ra người bỏ đi!

Nước nhà đang lúc loạn ly

Người người lo cứu vớt, riêng anh chẳng nghĩ gì đến đất tổ quê cha.

Theo người ngoài về, anh cõng rắn cắn gà nhà,

Ăn sung mặc sướng, rồi lại nhởn nhơ lên mặt với bà con thân

Thôi kể làm chi, tôi đòi cái kiếp vong ân!

Nghe những câu hát láy đi, láy lại một dịp kéo dài mãi, Trương Vĩnh Ký chột dạ, trông ra lại thấy có nhiều người nhìn mình một cách lạ lùng, hằn học, như nhìn một thứ quái vật, hắn liền bảo quay thuyền vào bờ, cùng với Bá Kim đi thẳng lên trường thi, về Nhà chung ăn cơm với các cha. Chiều hôm ấy, hành trình được đổi lại, cụ Trọng đưa Trương Vĩnh Ký đến thăm Huỳnh Lục Ký ở phố Hàng Ngang. Mấy người dân đi đạo đi hộ vệ đưa hai người đi qua thôn Tự Tháp thẳng lên phố Hàng Hài, rẽ sang phố Hàng Gai. Đến gần đình Đức Thánh Tản, có một đoàn trẻ em từ trong đền chạy ra, nắm tay nhau vừa nhẩy tung tăng, vừa hát:

Có một thầy

Ta không phải ta

Tây không phải Tây

Khăn lượt tầy rế

Khuôn mặt lưỡi cày

Đi dạo đường phố,

Nhìn ngó đó đây!

Bà con để ý,

Kẻo không cắp ngày!

Ai mà hớ hênh…

Là nó cuỗm ngay!...

Nhìn bầy trẻ con một cách khó chịu, Trương Vĩnh Ký cảm thấy như bất cứ ở chỗ nào, hình như mọi người dân đều có ý ám chỉ vào mình, nên hắn giục đi nhanh đến nhà Huỳnh Lục Ký. Hắn nằm lỳ ở đấy, đợi hội kiến với các chủ hiệu khách buôn lớn Hàng Ngang, Hàng Buồm. Mãi gần tối, hắn mới cùng cụ Trọng trở về nhà Bá Kim, dự bữa tiệc lớn rất thịnh soạn, có cô đầu hát và hầu rượu. Đáng lẽ bữa tiệc này dự định mời đông đủ các bậc danh sỹ có tiếng tăm lớn ở đây đến dự; nhưng tình hình cuộc đi chơi buổi sáng làm cho Bá Kim hoảng sợ, chỉ mời một số hào lý, một ít chủ Khách buôn và mấy cố, cụ ở Nhà chung đến dự ăn mà thôi.

Sáng hôm sau, trở lại như hôm trước, Trương Vĩnh Ký đổi lại hành trình: đi thăm Văn Miếu. Lãnh sự Kê-la-đích đã gửi thư yêu cầu Tổng đốc Trần Đình Túc thu xếp cho Trương Vĩnh Ký đi thăm nơi dấu vết của nền học vấn qua các triều đại xưa và nhờ bảo vệ cho hắn đi lại an toàn. Tổng đốc Trần Đình Túc liền sai Đề đốc hộ thành đến mời Trương Vĩnh Ký cùng đi với Bá Kim, Trợ biện huyện vụ huyện Thọ Xương đến yết kiến Văn Miếu. Tổng đốc cũng đã sức cho văn hội và các vị thân hào huyện Thọ Xương phải đến Văn Miếu đón mừng. Nhưng khi Trương Vĩnh Ký đến nơi, không thấy bóng một ông chức sắc nào, ngoài mấy ông đang làm việc ở Đốc bộ đường được quan Tổng đốc cử đi. Một ông Tự thừa giữ Văn Miếu và mấy ông hương chức làng Văn Chương liền ngay đấy phải ra mở cửa miếu. Bá Kim và mấy ông Tư vụ dẫn Trương Vĩnh Ký vào ngồi nghỉ mát ở dưới gác Khuê Văn, trông ra văn hồ và vui vẻ hỏi ông Tự thừa.

- Ông nhỉ, sao hôm nay tôi đã báo trước, muốn được gặp các bậc danh sỹ tỉnh này ở nơi Văn Miếu cũ 8 , làm sao các ông ấy lại lẩn tránh không ra? Các ông ấy sợ à?

Ông Tự thừa đáp:

- Các ông ấy không ra đấy thôi, chứ chả sợ gì cả, Văn Miếu đây là một nơi cổ tích danh thắng, quan trên có lệnh phi sức 9 xuống cho sở tại chúng tôi phải mở cửa cho các ông vào xem, thì dân chúng tôi phải mở cửa và hướng dẫn. Còn việc các cụ tôi đón khách lại khác. Ông là người Nam kỳ mà ra chơi ngoài này bây giờ là cốt vào hầu ông Kê, cố Phước, rồi nhân tiện qua đây chơi đâu có phải là chú ý đến thăm các cụ và dân chúng tôi ở đây. Đó là lẽ thứ nhất các cụ tôi không cần gặp. Lẽ thứ hai, đây là nơi thờ đức thánh Khổng Phu Tử, ngài ban khen những nước chư hầu biết tôn nhà Chu, biết trách những kẻ đời Xuân thu chia cắt đất nước, ngài hết sức tôn vương thống nhất cả thiên hạ. Nay ông lại đi theo kẻ giặc ngoài, phò tá chúng nó chia cướp nước ta, chính là một việc tàn nhân, hại nghĩa, là kẻ thù của đức Thánh Khổng, nếu các cụ tôi ra đón, chả hóa ra vừa đắc tội với đạo thánh, vừa có lỗi với nhân dân trăm họ, người có học không thể tự dối mình và dối người đi làm một việc vô ích mà có tội như thế. Lẽ thứ ba là cái lối du lịch của Tây dương là cứ đi xem xét để thấy cái gì lạ đối với mình thì bắt nhặt lấy rồi đem mô tả thêm bớt, bêu riếu ra, nên các cụ tôi bảo rằng: đấy Văn Miếu nó sờ sờ ra đấy, đạo Nho nó sờ sờ ra đấy, muốn nói gì thì nói, muốn viết thì viết chứ chả cần các cụ tôi đến để ông có thêm cơ, thêm mẫu, mà bêu riếu.

Bá Kim ở ngoài đi vào, thấy nói sỗ sàng quá, sượng mặt với khách, vội mắng:

- Ô hay sao ông này ăn nói lăng nhăng thế? Quan trên sức xuống bảo là có khách đến chơi thì dân phải đón cho có lễ độ chứ, trình thưa phải có phép tắc…

Ông Tự thừa cãi ngay:

- Ấy là ông ấy hỏi thì tôi phải nói, tự dưng tôi nói ra thì cụ mới cấm được chứ. Phải nói để ông ấy biết, không có ông ấy cứ tưởng ai cũng quý ông ấy như Tây…

Bá Kim gắt:

- Nhưng quan lớn Đốc là khách của nước ta, đến chơi thăm Văn Miếu, ông phải biết thế chứ!

Ông Tự thừa làm ra vẻ ngây ngô:

- Tôi tưởng ông ấy là người lục tỉnh, hóa ra lại là người nước nào mà nói tiếng ta sõi thế?

Bá Kim cắt nghĩa rành rọt:

- Quan lớn Đốc là người Nam kỳ, nhưng chức to hơn quan Tế tửu quốc tử giám ở Kinh, ngang hàng với quan Tổng đốc, quan lớn được nước Phú cử ra thăm ngoài này…

Ông Tự thừa cười khà khà nói:

- Tưởng gì? Nước Phú với nước ta thực ra thân thiện ngoài mặt, chứ trong tâm thì là đao gươm. Đức Thánh Khổng dạy “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân 10 ”, cái gì mình không muốn thì đừng đem ra bắt người khác phải chịu, người Phú có muốn người nước khác đến cướp đất của họ không? Thế mà sao họ lại đến cướp nước ta, lấy đứt mất lục tỉnh, lại gây ra đánh phá ở đây năm Dậu…

Nhưng thôi, nếu thật là người Phú thật ra đây, như ông Kê chẳng hạn, thì bà con chúng tôi cũng cần phải giữ lễ độ, sẽ ra đón tiếp hẳn hoi cho họ biết thể thống văn hiến của ta, biết phép lịch sự mến khách của ta, kể cả người khách không có ý tốt đẹp gì với ta, nhưng đã là khách mà đã trong nhà ta thì cũng được trọng vọng. Chứ còn cái anh người Nam kỳ nào, cũng là Nam quốc Nam nhân cả, mà theo Phú dựa vào Phú mà ra đây thì đừng hòng bắt chúng tôi phải lễ độ, hắn cứ biến hẳn ra thành người Phú tóc quăn mũi lõ mắt mèo đi xem nào… để các cụ tôi ra đón…

Bá Kim bực mình quát:

- Im đi! Đồ ngu ngốc, nhà nho gàn không biết gì cả!

Rồi lão quay gọi ông Đề đốc đang đi lảng vảng ở ngoài bờ văn hồ:

- Mời cụ lớn vào đây tí.

Ông Đề đốc vốn không thích những việc đưa đón, lại e sợ động chạm đến lòng phẫn nộ của văn thân nó đang âm ỉ bùng lên từ sau khi giặc chiếm Hà Nội năm Dậu, bản thân ông cũng không ưa gì cái anh người Nam kỳ kiểu cách kia, nên ông cứ lờ đi như không nghe thấy, lảng ra đi xem lại các bia, trong khi ông Tự thừa đủng đỉnh nói:

- Đã thế thì thôi! Tôi không cần phải nói thêm nửa lời!

Trương Vĩnh Ký sợ xảy ra to chuyện càng thêm bẽ mặt mình, liền dắt Bá Kim đi ra ngoài, ôn tồn nói:

- Thôi, tôn ông ạ, kệ ông ấy nói, đành thượng đẳng sợ ông bất đẳng vậy, chẳng sao!

Bá Kim tức tối nói:

- Nhưng thất lễ với quan lớn, còn ra thể thống kỷ cương gì nữa kia chứ! Bọn này phải trị cho một mẻ mới yên!

- Thôi xin tôn ông miễn chấp. Trương Vĩnh Ký nói thong thả ỏn thót. Trách làm chi những người không biết. Bỉ nhân ra đây cũng chỉ muốn là một gã vô danh không ai biết đến để được tiếp xúc với dân tình. Cũng vì các quan ở đây và cả tôn ông nữa quá yêu, quá khen bỉ nhân, nên càng làm cho người ta không hiểu thêm mà sinh ra ganh ghét. Thôi, bỉ nhân xin tôn ông bỏ qua đi, tránh voi chẳng xấu mặt nào.

Bá Kim cũng gượng nói chữa:

- Thưa quan Đốc, quan lớn nghĩ thế, chỉ phải về phía quan lớn. Còn về phía hạ chức chúng tôi ở đây cũng cần phải mở mắt cho họ biết chứ.

Rồi hai người đi thẳng ra cổng, trèo lên gác chuông Tam Quan ngắm nghía tứ phía. Xem xong Trương Vĩnh Ký đi chào quan Đề đốc, lại cùng với Bá Kim lần lượt đi chào mấy ông Tư vụ, để trở về Nhà chung. Và những ngày sau, ông khách “nước Sài Gòn” ấy không dám vạch thành hành trình long trọng nữa, chỉ nhờ mấy cụ đạo ở Nhà chung đưa đi thăm lén lút những nơi danh thắng khác, rồi vào thành hỏi thêm quan Tổng đốc Trần Đình Túc để biết rõ lịch sử các nơi đã đến xem, viết thành một quyển du ký đầy đủ đệ trình lên Súy phủ Sài Gòn.

--------------------------------

1

Đời Nam Tống, Nhạc Phi đem quân đánh quân Kim có nói “Đến thẳng thành Hoàng Long, cùng với mọi quân uống say một mẻ”. Câu thơ trên dùng ý câu này

2

Đỗ đầu khoa.

3

Tiết là cờ lệnh của vua trao quyền cho tướng quân. Phủ là phủ việt, cái búa tượng trưng uy lệnh của nhà tướng.

4

Tức là chung đỉnh, cái chuông cái vạc, nghĩa bóng là sự phú quý.

5

Lên ngôi vua.

6

Một thể cách trong phép làm thơ, không hạn định ngũ ngôn hay thất ngôn (5 chữ hay 7 chữ) và cũng không hạn định âm luật bằng trắc.

7

Vi là khu đất có tường bao bọc chung quanh. Trường thi ngày xưa chia làm bốn vi.

8

Con rồng quay đầu về núi tổ.

9

Bạn cùng một khoa thi.

10

Đói rét đến thân, không nghĩ gì đến liêm sỉ nữa.

Chương X

Sau khi Trương Vĩnh Ký rời khỏi Hà Nội, cố Phước thân sang trường thi gặp Lãnh sự Kê-la-đích bàn việc đối xử với tình thế. Lão mở đầu câu chuyện:

- Ông Lãnh sự ạ. Ta khoe khoang Trương Vĩnh Ký, mà dân ở đây, họ lại thờ ơ lãnh đạm và có chỗ họ còn chế giễu xỏ xiên, như thế là họ có ý hoài nghi mai mỉa cả ta nữa và như thế, coi như là ta bất lợi trong cuộc đi chơi này của con cưng ngoan đạo của chúng ta. Vậy ta cần phải làm một việc gì khác để cứu vớt lại chứ?

Kê-la-đích nói:

- Thưa đức cha, tôi đã cũng nghĩ đến. Tôi đang muốn nhân dịp ta vừa làm xong khu nhà ở Đồn Thủy, lại gặp đúng khoa thi, giao trả trường thi cho họ thi…

- Thế các dẫy nhà đã làm xong cả chưa? Cố Phước hỏi.

- Cũng chưa xong hẳn, công việc còn nhiều, Kê-la-đích nói, vì ở đấy là bãi phù sa đất xốp lại gần sông nên cần làm móng cẩn thận, phải đợi thời gian…

Cố Phước gắt:

- Ấy tôi hỏi thế để biết thêm, để bàn với ông cho rõ. Như tôi đã nói với ông khi ông mới đến, ta cứ đóng giữ trường thi, khi nào họ đòi ta mới giả. Nay họ chưa đòi, chỉ nghe đồn họ mới rục rịch bàn nhau đòi. Nhưng tôi muốn ta đi trước, tỏ ra ban ơn cho họ, mà cũng là nâng cao tiếng tăm cho quan Tuần phủ mới Nguyễn Tăng Doãn là bạn thân của ta. Vậy ông cứ nói thẳng ngay là vì có quan Tuần mới khéo giao thiệp, chúng ta mới giả, chứ cứ như quan Tuần cũ nhất định chúng ta không giả, vì công việc làm nhà lập trại ở nơi nhượng địa đã làm xong đâu và kỳ hạn quan Tuần trước ký đã hết đâu…

Lão đưa mấy ngón tay luồn qua những sợi râu xồm vân vê những sợi loăn xoăn vuốt xuống, cười một cách đắc ý và nói:

- Ấy mỗi việc làm ở đấy, chúng ta cần nghĩ đến ít ra là phải được lợi hai ba đường.

Kê-la-đích gật gù khen phải và nói:

- Đức cha nghĩ rất đúng. Được đức cha khôn ngoan thấu suốt cả phần đạo, phần đời, lại nhìn rõ đại cục giúp đỡ cho, thế nào sự có mặt của nước Đại Phú ở xứ này cũng sẽ ngày càng vững chắc và mở rộng. Chúng tôi xin tuân theo lời đức cha dạy.

Cố Phước vui vẻ nói:

- Giá ông Phi-lát khôn khéo, thì chúng ta đã chả phải bận tâm nghĩ đến những việc vặt như thế này! Bây giờ chúng ta phải đi lại đoạn đường lỡ bước, nên ta phải đi gấp, thấy việc gì lợi ta cần làm ngay.

Cuối mùa thu năm ấy, Kê-la-đích đã dọn dẹp về ở bên dẫy nhà gạch mới ở Đồn Thủy xong đâu đấy, nhân một buổi chiều mát mẻ tươi đẹp, hắn mở tiệc mời quan Tổng đốc, quan Tuần phủ, các quan chức và thân hào Hà Nội, các bang trưởng và chủ hiệu Khách lớn đến ăn mừng khánh thành khu nhà mới. Trong bữa tiệc, hắn cám ơn quan khách đến dự và trịnh trọng tuyên bố:

- Thưa quan Tổng đốc, thưa quan Tuần phủ, thưa các vị, đáng lẽ theo như điều khoản mà quan Tuần cũ đã ký với chúng tôi, thì đến năm 1877 mới là hẹn giao giả trường thi và nếu việc xây dựng chưa xong, còn có thể kéo dài thêm nữa, mà nay thì công việc vẫn còn bề bộn như các vị đã trông thấy ngoài kia. Nhưng thưa các vị, chúng tôi cảm kích vì tấm lòng hữu ái chân thành của cụ lớn Tổng đốc Trần đại nhân và nhất là của quan lớn Tuần phủ Nguyễn đại nhân đối với chúng tôi và để cho nước Đại Phú Lãng Sa tỏ tình hữu hảo góp phần vào sự nghiệp đào tạo nhân tài của nước Đại Nam, tôi xin tuyên bố trao giả lại trường thi cho các quan tỉnh Hà Nội, từ ngày mai, để mở khoa thi, kén chọn nhân tài. Nước Đại Phú Lãng Sa xin chịu mọi tiền chi phí về việc tu bổ.

Các quan tỉnh Hà Nội hết sức vui mừng và càng thêm khen Kê-la-đích tử tế, biết điều, thật tâm muốn hòa hảo với người mình. Ngay hôm sau họ cử người ra nhận trường thi và thu dọn sửa chữa lại theo đúng quy cách trường hương thi để mở khoa thi thường lệ năm ấy là khoa Bính Tý năm Tự Đức thứ 29. Công việc sửa chữa lại giao cho quan chức sở tại trông coi đốc thúc, nên Bá hộ Kim lại được cử ra làm hưng công 1 , giao thiệp thẳng với bọn Phú để lấy tiền gạo và nguyên vật liệu, mà chúng đã mua dự trữ rất nhiều. Từ quân đến dân phu, ai nấy đều vui vẻ miệt mài làm việc, nên không đầy nửa tháng, trường thi đã được sửa sang xong khang trang đẹp đẽ hơn trước. Nhà thập đạo, nhà quan cư, đều làm lại mới tinh. Ở cổng trường, hai miếu ân, miếu oán được xây mới quét vôi trắng toát. Công việc xong đâu vào đấy rồi, cuối tháng mười, hai quan chánh chủ khảo Lễ bộ Tả thị lang Hoàng giáp Phan Sỹ Thục và phó chủ khảo Binh bộ biện lý, Phó bảng Hà Văn Quan cùng các quan trường đã làm lễ tiến trường rất long trọng, cờ quạt cắm suốt từ cổng thành ra đến trường thi, uy nghi có vẻ linh đình hơn các khoa trước. Và đến nửa đêm ngày mồng một tháng mười một, mấy cây đình liệu 2 lớn soi tỏ cả bốn vi Tả, Hữu, Giáp, Ất, cho các thí sinh vào trường, tỏa ánh sáng rầng rậc khắp khu Hồ Gươm đang cuồn cuộn những dòng người đi lại. Quân đội phòng thành hôm nay nai nịt gọn gàng, gươm giáo, súng ống sáng loáng, đi tuần diễu quanh khu trường thi. Dân chúng cũng nô nức phấn khởi với các thầy khóa lều chõng nô nức đến trường. Toàn thành phố, nhất là những nơi gần trường thi và những nơi có nhiều học trò trọ, đều như tỏa lên một làn không khí vui vẻ, tưng bừng, tấp nập như đêm giao thừa đi hái lộc. Ở khu Đồn Thủy gần đấy, quân lính của bọn Phú Lãng Sa suốt đêm ấy phải thức canh phòng, sẵn sàng khí giới trong tay đợi đối phó với sự khích nộ của sỹ tử có thể đẩy đến hành động chống lại chúng chăng. Suốt đêm, bọn chúng không được đi đâu cả, chỉ tranh nhau leo lên chòi canh nhìn bốn ngọn lửa bốc cao soi tỏ đám dân chúng tụ tập đông đảo ồn ào và trật tự ở quanh trường thi. Chúng được chứng kiến khoa thi quả là một ngày hội lớn. Cố Phước và lãnh sự Kê-la-đích cũng mừng đã trả được trường thi đúng dịp, giữ được thiện cảm của dân ở đấy. Còn các quan tỉnh càng mừng hơn, mừng có được một khoa thi đúng kỳ mà long trọng và êm đẹp được như thế, đủ hãnh diện với bọn Phú, bọn ngoại bang di địch chúng sẽ phải kính phục sự thi cử bề thế ở một nơi cố đô văn vật của một nước văn hiến nghìn thu. Bá hộ Kim lại càng vui mừng thỏa thích hơn, lão đứng ở trong nhà phố Hàng Khay nhìn bọn học trò tấp nập đi lại, càng thấy tự hào đã làm lại khu trường thi nhanh chóng kịp kỳ hạn mà lại rộng rãi đẹp đẽ hơn trước. Lão thường nói với bọn học trò quen biết vào mua giấy bút ở cửa hiệu của nhà lão:

- Không có cánh này đổ mồ hôi, sôi nước mắt, vội đến nổ con ngươi, dễ các cậu có được một nơi thi khang trang như thế đấy!

Sỹ tử vào thi rồi kỳ đệ nhất qua êm thấm, vui vẻ. Các thí sinh, kẻ về quê, người đi chơi thăm bè bạn, kẻ vui chơi ở phố phường đợi chờ kỳ đệ thi, đúng ngày mồng tám đều lại tụ tập cả ở những nơi trọ cũ, đợi xem bảng đỗ. Ngày mồng chín sau khi bảng đã treo ra các cửa vi, những thí sinh được vào kỳ đệ nhị vui vẻ rủ nhau đi mua thêm giấy cánh quyển 3 . Đường phố Hàng Khay, phố Hàng Hài, phố Hàng Bài tấp nập những người đi lại, nhiều người hỏi han nhau, bàn tán về văn bài kỳ đệ nhất về kẻ được vào, kẻ tìm tên ở sau bảng. Một số đứng dồn lại ở cửa hàng bán giấy đầu phố Hàng Khay trong đó hai cô con gái đang bán hàng. Hai cô ăn mặc diêm dúa, vấn khăn nhung tròn tuôn tóc đuôi gà chấm vai đung đưa phe phẩy mỗi khi cử động, áo nhiễu hoa năm mình khép tà dài quá bắp chân, quần lĩnh chấm gót, nét mặt vui tươi như đón chào các thầy Cử tương lại, càng thêm lôi cuốn các thí sinh. Mọi người đang vui vẻ bông đùa trêu chòng nhau như thường lệ trong mỗi kỳ thi. Bỗng mấy người đứng gần nghe rõ tiếng qua lại giữa nhà hàng với một thầy khóa, trước còn bông lơn, sau nặng dần. Thầy khóa nói nửa đùa, nửa thực:

- Ấy phải chọn cho khéo đấy, đúng một chục tờ giấy tốt, phi một tờ nào là bất thành nội trợ…

Một cô cười hỏi:

- Sao kỳ đệ nhị mà thầy lấy nhiều thế?

- Được cứ kệ tôi, anh này cũng vui tươi nói, phi tờ nào là tôi bắt cô đền đấy!

Cô khác bữu môi nói:

- Gớm! Kỳ đệ nhị thơ phú mà giữ nhiều giấy thế không sợ ngồi cắn bút đũn ra quần cũng không rặn ra đủ chữ kín hai tờ giấy à? Còn thi để mà đùm...

Anh kia nói nạt nộ:

- Này mồm miệng đàn bà đừng có mà nói nhảm. Nhỡ mất khoa này của ông thì cho ế ở nhà làm bà cô tổ bóp cổ con cháu…

Cô lớn tuổi hơn nói đáp lại chanh chua:

- Nói dễ nghe nhỉ! Cái ngữ nhà anh đỗ hay trượt mặc xác nhà anh! Đồ nhà quê đi thi nhờ mà chực đũa mốc muốn chòi mâm son! Ai người ta thèm…

Cô trẻ cũng nói thêm:

- Thi cử của các anh bây giờ tưởng người ta báu lắm ấy! Thời buổi Tây Tàu này, không có ở đây, người ta vất vả khó nhọc, Tây nó cứ ì ra đóng ở đấy, thì rồi có chán vạn chỗ ra mà thi với cử.

Mấy người ở ngoài thấy bạn bị nói mỉa, sấn vào hàng hùng hổ:

- Các bạn tỉnh Sơn đâu? Để nó nói xấu anh em tỉnh ta như thế mà chịu à?

Ở ngoài nhao nhao lên, mỗi người một lời:

- Sao? Cái gì? Nó nói xấu ai?

- Nói xấu học trò à?

- Nói xấu anh em mình à?

- Nó nói láo…

- Láo à?

- Nó nói láo mà lại kể công!

Có người ở ngoài lách vội vàng đến nơi, nghe được hai tiếng cuối cùng, không cần biết đầu đuôi, quát lớn ngay:

- Nó kể công à? Đánh bỏ mẹ nó đi! Nhà thằng Bá hộ Kim đấy. Nó mà dám kể công, khinh anh em mình à?

Tức thì cuộc đấu khẩu chuyển sang hướng gay go quyết liệt. Lớp sóng người chuyển động ồn ào. Một tiếng người đứng trên hè hô lớn:

- Phá nhà nó ra! Không đánh người! Bắt lấy cái thằng già theo giặc ra đây tùng xẻo!

Người nữa quát:

- Nó theo Tây đấy, kể công cái gì!

Như làn sóng vỡ bờ, từng lớp người xông vào nhà, sầm sầm, soảng, choang! Cửa đổ, đồ đạc vỡ gẫy, tiếng đập phá vọng ra. Tin bay đi rất nhanh, sỹ tử các ngả kéo về cuồn cuộn như sóng dữ. Họ vớ được cái gì là dùng ngay cái ấy làm khí giới: dao, gậy, cọc tre, cuốc, tất cả đều xông vào đập phá như thể nước lũ, không thể ai cản được.

- Nó theo Tây khinh sỹ tử à! Đánh.

Câu ấy cứ lan truyền đi mãi như dầu tưới vào lửa. Ai nấy đều bừng bừng nộ khí. Các cửa buồng nhà Bá Kim đều bị bật tung ra. Mọi người xông xáo đi tìm chủ nhân tội phạm.

Bỗng có tin quan Đề đốc đem quân đến giải tán, cứu Bá hộ Kim. Nhưng học trò bao vây đông quá, quân lính không đủ giải ra khắp được, Đề đốc Tôn Thất Hàm cho lính bắn súng chỉ thiên dọa nạt cũng không sao nhúc nhích được đám đông. Nhanh trí, hắn cho lính chặn giữ cổng sau, về phía xóm đông Vũ Thạch, cứu thoát Bá Kim và gia đình chạy lẻn về nhà thờ Vũ Thạch; rồi lão cho đưa Bá Kim đi lối làng Phúc Lâm quanh lên Nam Ngư chạy thoát vào thành. Quân lính đến nơi mà việc phá phách vẫn không giảm, nộ khí của sỹ tử càng hung hăng cuồn cuộn mỗi lúc một nguy kịch thêm, quan Tổng đốc phải sai quan Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn và quan Đốc học Khiếu Năng Tĩnh đi với quân lính ra gọi loa hiểu dụ trấn tĩnh học trò. Các quan tới nơi dàn lính chung quanh, hiểu dụ ôn tồn, vừa ân, vừa uy, học trò nghe đã dìu dịu, dãn ra thành lối nhường các quan vào trong nhà Bá hộ Kim khám xét. Vào đến nơi, có quân lính canh giữ rồi, bọn quan trở mặt ngay, căn cứ theo lời khai của Bá Kim lúc chạy vào thành và cứ trông dáng điệu ai hò hét hung hăng nhất, chúng bắt một số người giải vào trong thành, trong số đó có thầy khóa Nguyễn Cầu, tức cậu ấm Vẽ, con quan Nghè Nguyễn Tạo, và thầy Tú Nhồi bị buộc là đứng đầu khích nộ thí sinh gây ra cuộc biến động. Học sinh bị đánh lừa, bảo nhau không vào thi kỳ đệ nhị nữa, đêm hôm ấy kéo đến vây kín nhà Bá Kim, đòi đem nó ra xử tội và đòi thả những người bị bắt. Ngay từ buổi chiều hôm ấy, sau khi một số thí sinh bị bắt, các ngả đường đã thấy dán những lời cổ động:

Chẳng thi, chẳng đỗ, chẳng sao!

Anh em không được người nào bỏ nhau.

Phải đòi cho được thầy Cầu,

Phải đào hết đất nhà giầu bỏ đi!

Phải trừ hết bọn đô tùy 4 ,

Hại nhân ích kỷ nghĩ gì đến ai!

Và những câu chữ Hán: “Thấy việc nghĩa không làm là vô dũng” “Thi mà bị coi như chó ngựa không thi” “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, huống chi một bạn cùng thi!”. Anh em chia nhau đi các ngả rủ mọi người cùng tụ tập ở phố Hàng Khay, chứ không lều chõng vào trường. Dân chúng cũng căm giận sự bắt bớ phi lý của các quan tỉnh, cùng kéo đến góp sức với học trò bao vây đông đặc nhà tên Kim suốt đêm hôm ấy. Quan tỉnh cho lính ra đến nơi lấy cớ là giữ trật tự trị an, toan lập mưu giải tán mấy lần, nhưng thấy lực lượng đông và có trật tự quá, lính không dám làm
gì cả.

Buổi chiều hôm ấy, gia đình nhà Bá Kim chạy thoát cả, không ai bị đánh, vì anh em không có ý gì hành hung ai chỉ cốt tìm Bá Kim, không thấy thì phá phách cho bõ tức. Cô Xuyến ở đằng nhà thờ Vũ Thạch vội cuống cuồng chạy đến tìm ông cử Kim Cổ, nhờ ông che chở và cứu thoát cho gia đình cô. Ông Cử liền cho người đi gọi cậu ấm Phách Tự Tháp và những học trò ông cùng đi thi khoa ấy đến để ông hỏi lại cho rõ mọi tình tiết. Ông bảo cô Xuyến thuật lại đầu đuôi việc xảy ra ở nhà như thế nào. Cô Xuyến kể:

- Lúc ấy ở ngoài cửa hàng có chị cả Trường và chị Dung. Mấy anh kia vào mua giấy cánh quyển. Xưa nay họ vẫn nói chòng ghẹo là thường. Chả biết lúc ấy chị cả nói sao đấy, đâu ở ngoài còn có người chữa hộ:

“Con ấy nó có chồng rồi nên nó nói sỗ thế đấy chấp nó làm gì!” Thế rồi là ầm lên, mọi người xô vào phá phách… May cả nhà con chạy thoát, không ai việc gì!

Ông Cử suy nghĩ, nói thong thả:

- Có lẽ đấy chỉ là một cớ thôi. Họ vin vào lời nói ấy để bùng ra đấy thôi. Cho nên họ mới không đánh đập người nhà. Cũng là do phẫn khí với thằng Tây cả. Kể ông Bá nhà cô cũng là kẻ có lỗi thật. Nhưng còn chán vạn đứa nặng hơn, mà bây giờ đổ dồn cả chỗ ông Bá ghé đầu chịu báng cũng chả ra làm sao cả. Vả bây giờ đang thi cử mà gây ra thù hằn không đâu, bọn Phú chúng nó cười cho. Chúng nó đang mong muốn cho mình cứ lộn xộn đánh nhau, để nó xui bẩy cho đâm chém chí mạng!

Ngồi im một lúc đắn đo, ông lại nói:

- Thôi được, cô cứ yên tâm vì cô có lòng mộ nghĩa trước đây, chúng tôi sẽ cố tìm cách dàn xếp giúp. Cô có thông tin tức được với ông Bá thì bảo cứ ra mà xin nhận lỗi tạ tội với sỹ tử. Ở đây, chúng tôi cố giảng giải cho họ nguôi đi…

Cậu ấm Phách ở ngoài về, bước vào vừa hầm hầm nói:

- Chúng nó bắt ấm Vẽ, tú Nhân Nhuế và một số anh em nữa đem đi rồi! Thế này chỉ còn có vây chặt, đòi bắt được tên Kim ra mới chịu được!

Ông Cử vẫn điềm tĩnh hỏi:

- Làm gì mà đùng đùng lên, thế nào? Ai bắt?

- Bọn quan tỉnh bắt chứ ai, cậu Ba nói vội, rồi rằn thêm mấy tiếng sau: mà lại chính tên Kim tố cáo chứ ai!

Cô Xuyến vừa khóc, vừa nói như để thanh minh:

- Thầy tôi lẩn trốn như chuột ngay từ đầu còn biết đâu mà tố cáo.

Cậu ấm Phách lúc ấy mới nhìn thấy cô Xuyến ngồi khuất ở phía sau yên thư, cứ nói thêm:

- Nhưng mà ấm Vẽ và Tú Nhồi trong bọn chúng tôi tự dưng bị vạ, là chúng tôi cứ diệt vào cho lão Bá đấy, cứ bắt đền lão, muốn ra sao thì ra.

Ông Cử phải đấu dịu dàn hòa:

- Cậu Ba tức vì mấy bạn thân bị bắt cả, nên cậu hung hăng vậy, chứ cũng không phải ông Bá tố cáo đâu. Tính ông ấm Vẽ y hệt quan Bố Sơn trước, bộc trực, thấy việc nghĩa là làm, việc gì cũng hăng hái xông lên trước, nên họ thấy như là người dẫn đầu, họ bắt đấy chứ… Nhưng bắt rồi thì cũng phải thả thôi…, buộc tội lúc này là thất sách. Để tôi nói với bác cử Vũ Thạch lên trình với quan Đốc.

Cậu ấm Phách vẫn còn có vẻ tức nói:

- Phải làm ra môn, ra khoai, cho rõ trắng đen, cho ông Bá rõ cái tội tầy đình của ông ta. Và cho các cô con ông ta bớt cái thói kiêu kỳ, đài các rởm đi!

Cô Xuyến cũng ấm ức cãi:

- Không nhận ra thầy em có lỗi, thì dễ thường em báu các anh lắm đấy mà dốc một lòng không sợ nguy hiểm đi theo giúp đỡ các anh. Các anh bảo em kiêu kỳ những gì nào? Có chính học trò các anh cũng hiếu sự bỏ mẹ đi ấy! Ai chả biết bây giờ các anh đắc thời, đắc thế! Thầy tôi nông nổi nhẹ dạ nên mới khổ!

Ông Cử phải khuyên giải rành rọt:

- Đừng có đâm ra cắn quẩn nhau. Chính ra vụ này đã có mầm từ trước kia. Nếu Tây nó không giả trường thi mà phải thi nơi khác thì sẽ có cuộc náo trường chống Tây thật đấy. Lòng phẫn nộ của mọi người vít được lối này nó lại phì ra lối khác, khéo ngăn ngừa lắm mới được. Sở dĩ hôm nay, tự nhiên lại nảy ra vụ này là vì có dịp để người ta xướng xuất lên, giận cá băm thớt, tự nhiên nó bùng ra đấy. Hai nữa là có một số người không đỗ kỳ đệ nhất, nhân tiện muốn phá kỳ đệ nhị luôn một thể để thi lại cả. Trong việc chung, xưa nay vẫn có nhiều kẻ giấu ý tình riêng của mình vào. Nhưng theo tôi xét ra, cứ để thế này mãi không lợi gì cả. Tìm cớ mà trị bọn thí sinh thì dễ đấy, song nhất định không được rồi, chỉ lại khích nộ thêm. Mà theo hùa với học trò trị tội Bá Cựu Lân 5 cũng vô lý nữa. Muốn dựa theo pháp luật triều đình thì phải có lý chứ. Mà chúng mình xâu xé nhau, bọn ngoại quốc nó ngồi nó xem, nó vừa cười, vừa mừng chỉ có lợi cho nó thôi. Cho nên tôi thiết nghĩ các quan nên thả ngay các thí sinh bị bắt và hiểu dụ các thí sinh lại trở vào thi kỳ đệ nhị ngay, là êm thắm hơn cả. Các anh nên đi tìm gặp anh em, bàn với anh em như ý tôi vừa nói, bàn bạc kỹ cho anh em nghe. Tôi xin vào gặp quan Đốc ngay bây giờ đây. Tôi đi rủ bác cử Vũ Thạch cùng đi, để nói lên cho các quan rõ, chứ cứ xử theo một chiều thì rồi hỏng cả.

Mọi người thấy có lý, liền theo lệnh ông, trở ra đi mỗi người vào một đám đông thí sinh để cùng bàn bạc, hẹn hễ các các bạn được thả ra cả, thì lại cùng vào thi. Ông Cử cũng vội đi tìm ông cử Vũ Thạch đi đến nhà học chính đường trình bày mọi lẽ như trên với quan Đốc học Khiếu Năng Tĩnh. Ông này cũng đang suy nghĩ giống như thế, có thêm ý kiến của hai ông Cử, như thêm sức mạnh, ông vội vàng vào thành bàn với quan Tổng đốc và quan Tuần phủ. Đương lúc trong nước lắm việc, hai quan trọng thần sợ sinh ra to chuyện, trách cứ đến mình, liền y theo ý kiến trên, sai thả thết những người bị bắt ngay đêm hôm ấy. Nhưng cũng đã quá muộn, thí sinh vẫn không vào thi cứ ở lại vây nhà và đòi xử tội Bá Kim.

Sáng sớm hôm sau trống giong cờ mở từ trong thành đưa quan Tuần phủ và quan Đốc học thẳng ra đầu phố Hàng Khay, đội lính phòng thành gươm mác sáng loáng đi dàn trước và vít sau tiếng loa tiền hô hậu ủng vang dậy cả buổi sớm tinh sương. Đến ngã tư Hàng Khay Vũ Thạch, tiếng loa tiến vượt lên trước gọi tất cả học trò đứng dồn tụ tập, trước nhà Bá Kim để nghe quan Đốc hiểu dụ. Hai hàng lính dài do quan Phó lĩnh binh dẫn đến, đứng canh dọc hai bên. Trên một án thư cao ngang ngực vừa mới đặt ra đấy, quan Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn, có ba lọng xanh rủ quả bông ngũ sắc che trên đầu, ngồi xếp bằng ngay ngắn, nghiêm nghị nhìn đám đông đang chen chúc đứng im lặng ngóng đợi lời hiểu dụ, trong khi quan Đốc học, một lọng che, đứng trên chiếc án thư ở bên phải thấp hơn, lên tiếng dõng dạc:

- Hôm qua đã nói rõ điều hơn lẽ thiệt rồi. Thế mà sao vẫn còn ngang ngạnh cố đứng ở lại đây làm gì? Có phải là bất tuân thượng lệnh không? Nho phong sỹ khí lại như thế à? Nhưng mà nghĩ rằng triều đình nuôi kẻ sỹ chú trọng đến khoa danh, nên giơ cao đánh khẽ, không nỡ xử tội gia hình, đã thả tất cả những kẻ bị bắt rồi cho về bảo nhau mà trở lại kỳ thi đệ nhị, không rồi uổng lỡ mất công phu đèn sách. Hôm nay các quan lại thân ra đây bảo rõ cho các thầy biết con đường họa phúc. Và nhân thể muốn làm cho nguôi bớt cái hách khí thiếu niên của các thầy, để các thầy yên tâm thi cử, các quan lại cho đưa cả Bá hộ Kim về đây nhận lỗi sơ suất đối với anh em. Đó chính là ý tốt của các quan trên muốn chín bỏ làm mười, cố tìm mọi cách làm trọn cái nghĩa tác nhân và thành nhân chi mỹ 6 các thầy phải nghe!

Ở dưới mọi người reo hò nhảy múa, nói:

- Phải bắt Bá Kim ra nhận tội!

- Phải kết tội tên Kim trước đã.

Tiếng loa của thầy Đội phòng thành vội vung lên:

- Tất cả im lặng lắng nghe cụ lớn Tuần ban dụ!

Quan Tuần đứng lên trên án thư cao lênh khênh, vểnh mũ cánh chuồn lên nói như quát:

- Sỹ tử không được mạn thượng! Trước hết phải biết rằng chính bọn học trò đã có tội phá rối khoa thi và phá hoại nhà ở tư nhân. Bá hộ Kim có tội chăng? Thì tội đó phải do các quan trên xét xử, chứ không phải quyền của học trò, tụ tập đông mà hung hăng thế là làm loạn. Vả Bá hộ Kim đã mẫn cán làm lại trường thi để kịp cho học trò có chỗ thi. Có thất thố vì lời nói gì chăng, thì đây, hôm nay, quan trên cho phép tên ấy ra nói rõ cho tất cả học trò biết.

Ở mọi chỗ tiếng reo mừng như cùng tung lên một lượt chấm ngắt lời quan Tuần và đón Bá hộ Kim ra nhận lỗi. Lão này lo sọm hẳn người đi, không còn vẻ nghênh ngang hách dịch hằng ngày nữa, run run đứng nép bên quan Phó lãnh binh. Tiếng loa gọi tiếp:

- Mọi người im lặng, để nghe Bá hộ Kim giãi bầy lầm lỗi!

Bá Kim đứng tách hẳn ra ngoài giữa vời, bên cạnh án thư của quan Tuần, bắt đầu nói hơi run run:

- Bẩm các cụ lớn, thưa các sỹ tử. Tôi là Bá hộ Nguyễn Ngọc Kim xin nhận lỗi trước các cụ lớn và ba ngàn sỹ tử trường Hà khoa thi Bính Tý này, vì tôi đã để các con tôi trót dại nói những lời vô lễ với mấy thầy khóa tỉnh Sơn. Thôi thì con dại cái mang, tôi xin nhận tội đã không dạy bảo được con cái và xin nhớ mãi tội lỗi…

Ở dưới có người hét lớn:

- Tội khác kia! Không ai chấp chi đàn bà, con gái.

Tiếng loa lại nói vang:

- Mọi người im lặng để đương sự nói tiếp.

Bá Kim đâm ra luống cuống nói lắp:

- Còn tôi, tội tôi có nhỡ nhời nói đổng. Và tội tôi có làm nhà cửa cho bọn Phú Lãng Sa. Nhưng đều là do quan trên giao cho phải làm ngay, khi An Nghiệp đến đây cũng như khi lãnh sự Kê-la-đích mới đến đây, quan trên đều sức bắt tôi phải làm cho mau xong để có chỗ cho họ ở, được việc cho triều đình. Mọi việc các quan trên đều đổ dồn xuống đầu tôi chịu cả. Cũng như khi tu bổ lại trường thi cũng vậy. Có một điều lỗi là tôi coi mọi việc tôi làm đều tự nhiên như nhau cả, khi làm cho bọn Phú cũng vậy, khi làm cho ta cũng vậy. Đó là do tôi ngu dại không nhận ra, từ nay tôi xin chừa.

Ở đám đông có người nói lớn vọng lên:

- Thế thì từ nay phải sáng mắt ra, đừng ngu dại ăn người nữa. Và việc này làm gương cho những đứa nào còn có ngu dại như thế mở mắt ra mà trông!

Quan Đốc học vội xua tay nói:

- Im lặng, không được hỗn. Nói leo! Như thế là thầy Bá hộ Kim đã xin lỗi và quan trên cũng tha lỗi cho các thầy khóa đã làm náo động cả tỉnh thành. Tha cho là cốt để theo ý tốt của triều đình để các thầy giữ được đúng khoa khỏi lỡ đợi ba năm đằng đẵng. Vậy các thầy phải nghe, về sửa soạn lều chõng vào thi ngay! Nghe!

Mọi người reo mừng nhẩy lên, hô lớn:

- Xin tuân!

Rồi nhiều người tỏa ra ồn ào bảo nhau:

- Thôi dĩ hòa vi quý! Thế là được cả.

- Về sửa soạn vào thi đi!

Sau khi tiếng loa dẹp đường rẽ lối đưa các quan trở về thành đi đã xa, chỉ còn văng vẳng lại, đám đông tan dần. Đoàn người tỏa ra khắp các nẻo đường quanh Hồ Gươm, còn để trơ lại ngôi nhà Bá hộ Kim bị phá tan hoang, gạch gỗ ngổn ngang, đồ đạc gẫy vụn lổng chổng. Hôm ấy các thí sinh lều chõng vào thi kỳ đệ nhị. Và rồi khoa thi đã kết thúc tốt đẹp, sau bốn kỳ đỗ được hai mươi tám Cử nhân. Cảm nghĩ sâu sắc về khoa thi này, có người đã ghi lại việc trên bằng những vần truyền miệng:

Cho hay nhất quỷ nhì ma,

Bây giờ mới biết thứ ba thế nào!

Giận quân phản quốc từ bao,

Đất bằng nổi sóng ào ào như sôi!

Đứng đầu ấm Vẽ, Tú Nhồi,

Gợi lòng công phẫn, người người cùng theo.

Tứ bề đập phá hò reo,

Mấy tòa nhà gạch đổ siêu tan tành.

Tên Kim tội ác rành rành,

Quyết tâm bắt sống hành hình mới cam.

Giận thay tên Đề đốc Hàm,

Cửa sau cứu thoát vội đem vào thành

Những quân phản nước cầu vinh

Từ đây cũng phải hồn kinh phách rời!

° ° °

Sau vụ phá nhà này, Bá Kim bỏ hẳn ngôi nhà phố Hàng Khay, dọn về ở ngôi nhà riêng trong làng Cựu Lâu, bên cạnh Tràng Tiền. Và cuối năm ấy, lão xin từ dịch, thôi việc quan về ở nhà. Lão thường nói với những người quen:

- Chả già cũng lấy làm già rồi, tôi làm việc quan ngót ba chục năm rồi, ân oán đã nhiều, về nghỉ di dưỡng cho nó sướng tuổi già một tí. Xin mãi không được. May mà có việc các ông học trò thi cử, các ông ấy hung hăng phá phách, mình mới được thôi đấy; thôi thì bây giờ “quan bất cần, dân bất nhiễu”, tha hồ mà tiêu dao tuế nguyệt, ngày tháng ở nhà trông coi con trẻ cần cù làm ăn cho toại lòng già.

Thực ra, đối với vụ này, lão tức nhiều hơn là nhận thấy mình có lỗi, lão vẫn tự cho là đã có công làm lại trường thi nhanh chóng cho kịp ngày tiến trường. Thế mà bị bọn hủ nho xui bẩy đổ lỗi đâu đâu vào ngay đầu lão, làm cho bọn học trò ngông cuồng, hách khí, nông nổi tức sằng, đã gây ra cơ sự như thế. Mặt khác, lão cũng đâm gờm cái sức lớn lao của dân chúng, thì có ngày đầu chẳng phải, phải tai, quan trên dùng mình làm được việc cho họ, đến khi gặp sự trắc trở, thì họ lại tìm cách đổ dồn vào cho mình chịu cả. Cho nên từ nay được nghỉ việc rỗi rãi, lão đóng cửa tạ khách, không tiếp ai cả, chỉ thỉnh thoảng đi lên phố, vào chơi mấy hiệu khách buôn quen mua mấy thứ lặt vặt. Lão tự nghĩ lấy làm đắc ý, tự nhủ một mình:

- Cứ thế này mà hay, vừa để cho họ tưởng mình sợ, họ khỏi ngờ, tránh voi chẳng hổ mặt nào, được yên thân; vừa náu mình đợi thời cơ, có dịp tốt, thì thì… lại chúng mày sẽ biết tay ông!

Nghĩ thế, lão đóng cửa nhà khách ở lì trong nhà riêng, không đón tiếp ai nữa. Khách khứa đến thăm rất ít được vào.

Nhưng chợt một hôm, vào đầu năm sau, đã ngoài rằm tháng giêng, có một người khách đứng tuổi, quần áo chững chạc, nón lông đen, chóp bạc chạm nổi bóng nhoáng, đi giầy vải Tàu, sồng sộc bước vào hẳn trong sân, đòi vào chơi thăm ông chủ. Lão Bá sai người nhà ra nói dối là đi vắng và xin đưa thiếp lại để khi ông chủ về sẽ biết chỗ mà tìm đến chơi sau. Người khách bước lên nhà ngang mượn giấy bút mấy chữ:

“Cựu thức, dã phu Đào Trọng Kỳ89]”

Người khách viết xong giao tờ giấy lại, bước xuống sân, lững thững đi ra, đủng đỉnh nhìn ngắm cá dinh cơ to tát. Tên người nhà cầm tờ giấy đưa vào. Bá Kim nhìn tên sực nhớ ra quan Phủ Đào Trọng Kỳ cũng vừa mới bị cách dịch, vội chạy bổ theo ra đến cổng chắp tay vái chào, nói:

- Bẩm lạy quan lớn, hạ dân ngỡ khách nào lạ, không dám ra tiếp.

Đào Trọng Kỳ cười hỏi:

- Ông anh sợ đến thế kia à?

Bá Kim cũng cười đáp:

 

- Bẩm qua lớn, kinh cung chi điểu90] và cũng muốn nghỉ ngơi cho yên thân!

Bá Kim liền mời Đào Trọng Kỳ vào chơi nhà khách, mời ngồi lên sập gụ chân quỳ, còn lão ngồi hầu chuyện ở ghế bành bên cạnh. Đào Trọng Kỳ thân mật nói:

- Thấy ông anh vừa bị một vố đau, nhân tiện lên chơi trên này, tôi xin đến thăm ông anh, gọi là cái nghĩa quen biết cũ và đồng bệnh tương liên…

- Bẩm quan lớn, Bá Kim nói, xin đa tạ quan lớn có lòng hạ cố…

Đào Trọng Kỳ gạt đi ngay:

 

- Thôi đừng kiểu cách quan lớn, quan bé nữa, tôi cũng vừa bị cách chức giả về dân tịch 7 rồi, ông anh chưa biết à?

- Dạ, bẩm có nghe thấy nói, nhưng chưa rõ sự thể thế nào?

- Ấy đấy, như thế còn đâu là quan lớn nữa mà cứ gọi. Đào Trọng Kỳ đỡ lời. Ông anh biết đấy chứ. Khi tôi ở đây đổi đi quyền Tri phủ Kiến Xương, rồi thăng Tri phủ ở đấy, năm Hợi đã lại đổi vào Bang biện tỉnh vụ ở Nghệ An, rồi đi dẹp loạn ở Diễn Châu, Tương Dương. Công việc đang yên thắm như thế thì quan chức tỉnh Nam Định có khám phá ra việc tôi có viết giấy cho quân đội Phú, khi chúng nó đánh chiếm Nam Định. Vua Tự Đức truy xét các án thất thủ Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, xử tội cách chức trả về làm dân thường, chịu sưu sai tạp dịch và tước tên trong sổ Cử nhân. Nhà vua phê là… “có tội với danh giáo”. Tôi vừa đi tạp dịch về đây, còn đâu là quan quách nữa mà cứ gọi cho thêm thẹn!

- Thế bẩm quan lớn có oan không ạ? Bá Kim hỏi.

Đào Trọng Kỳ ngồi lặng một lúc, rồi thủng thẳng đáp:

- Kể oan thì cũng không oan, nhưng có tức. Thực ra mình có quen biết Đồ Phổ Nghĩa hồi ở huyện Thọ này. Nay thấy quân lính nó đã lấy Hưng Yên êm thắm, quan Tuần phủ Nguyễn Đức Đạt sai quan Bố ra mời nó vào nhận thành chịu quyền bảo hộ, rồi nó sang lấy thành Nam Định, mình có viết một bức thư kể lại ân tình cũ và khen lòng nhân từ của quân lính nó, xin nó để cho dân yên, đừng dẫn quân đến phủ này nữa. Bức thư ấy đã đưa đến tay quân Phú hẳn hỏi. Ấy thế mà lúc rút lui. Ông ấy hoảng sợ thế nào quẳng mẹ nó lại, lớ ngớ làm sao lại rơi vào tay quan Hộ đốc Nguyễn Trọng Hợp – Thế là án lên đến triều. Mình có viết thư, mình chịu tội, chỉ ức cái công việc chưa ra đâu vào đâu cả mà mình bị cách, còn quan Tuần Hưng Yên nộp thành nhận sáu điều khoản bảo hộ hẳn hoi thì lại được triều đình khen thưởng thăng hai cấp!

Bá Kim cười, nói góp:

- Vì quan tuần Nguyễn Đức Đạt đỗ Đình nguyên Thám hoa, danh lừng thiên hạ, lại làm Tuần phủ, nên các quan nể, còn quan lớn chỉ đỗ có Cử nhân trường Nam, làm quan Tri phủ thôi, nên ít người vị nể.

Đào Trọng Kỳ nói, vẫn thong thả từ tốn:

- Cũng có lẽ vậy. Cũng như ông anh bị học trò phá nhà ấy nhỉ. Truy nguyên ra chính là mình có vệ thằng Tây thật, nhưng do việc con trẻ lỡ lời nói xấu đến học trò thi mà thành ra vụ học sinh phá nhà, ấy thế rồi quan trên bắt mình phải nhận lỗi thì ức chứ!

Bá Kim thấy nói chạm nọc đến mình, liền nói xỏ:

- Bẩm quan lớn vâng, xét ra hạ dân có phần vệ Tây thật. Nhưng cũng chỉ vì ở vào tình thế bó buộc phải tùy thời hai bên cùng ép cả lại, nên phải tìm lấy con đường sống đấy chứ. Kể ra cũng còn ức hơn cả cái việc tứ tri 8 , tư thông với giặc ngoài ngay từ đầu, thấy điều lợi giữ kín không bảo nhau biết. Chính hạ dân cố học đòi làm theo như vậy mà không được đấy.

Phủ Kỳ cũng thấy nói động đến mình, liền cũng xỏ lại:

- Thì chính là cũng có giao thiệp với bọn Du Long, Huỳnh Lục Ký, rồi nhân đấy khi Ngạc Nhi đến, ông anh mới được bọn chúng cử lên quyền Biện huyện vụ chứ.

Bá Kim cười khẩy nói:

- Đấy là vì nhân đang làm việc cũ, phải ra giữ việc che đỡ cho dân, cho yên dân, nên về sau các quan ta đến, hạ dân mới lại vẫn được yên ổn, vẫn được giữ chức cũ. Bá hộ Kim lại vẫn cứ là Bá hộ Kim, cho đến bây giờ cũng vẫn được là Bá hộ Kim.

Phủ Kỳ ngồi ngẫm nghĩ một lúc, cố tìm xem có được cái gì để vạch cho Bá Kim đớ người ra mới thích, trông thấy đôi câu đối khắc gỗ mới sơn treo ở bên chỗ ngồi, liền hỏi:

- Ô hay! Sao ông anh lại treo câu này?

- Quan lớn bảo sao? Mới thửa đấy chứ!

- Câu đối nó chửi ông anh keo kiết chỉ biết ăn người, thế mà cũng treo!

- Câu đối hay vậy thế mà quan lớn đã vội nghĩ sai rồi. Nhân cái vụ lộn xộn vừa rồi, thấy cái câu này có ý nghĩa hay hay nên mới đem treo ngay nơi ngồi chơi cho nó di dưỡng tính tình: Lương nhân đảo trí sa vô thủy, người dân lành mà treo ngược lên, ức hiếp người ta, thì đúng như cát không có nước, nóng bỏng chân, mà văn tử an bài mộc hữu nhân, người văn tự, người học trò được an bài yên ổn thì thực là như gỗ có người, cây cỏ cũng có linh hồn. Suy rộng ra, mọi sự đều như thế cả. Hễ cứ bắt ức người ta tức là làm cho người ta phải oán hận. Cho nên câu này nó an ủi mình mà cũng là dùng để tự khuyên nữa. Kể từ trước tới nay, nhiều khi bị các bề trên ức hiếp, mình đâm ra hống hách nạt nộ người khác để bù lại, nên nay thấy câu này nó có ý khuyên răn như thế, treo chơi cho nó hợp tình, hợp cảnh, sao quan lớn lại bảo là chửi?

Phủ Kỳ mỉm cười ranh mãnh, đủng đỉnh nói:

- Thế ra định từ nay tu tỉnh, đã tri quá cải hối 9 rồi đã sao? Có thật không? Nhưng mà này, nó chửi cho là như thế này nhé: chữ lương, chữ nhân, hai chữ ấy đảo trí là đặt ngược chữ dưới lên trên thành chữ thực, đúng không nào? Sa vô thủy chữ sa không có chấm thủy bên, chỉ còn là chữ thiểu mà thực thiểu nghĩa là ăn ít. Còn bên vế này, chữ văn với chữ tử an bài xếp liền nhau thành chữ học, mộc hữu nhân chữ mộc có chữ nhân đứng bên thành chữ hưu có đúng không nào? Mà học hưu nghĩa là học nghỉ, thôi đi đừng học nữa. Như vậy tức là nó chửi có ca, có cách, nó bảo rằng bắt người ta ăn đói, ăn ít thì thôi đi đừng học nữa. Nghĩa là cái người làm ra đôi câu đối này tố cáo ông anh ăn chặn cả cơm chim, ăn bòn cả mồ hôi nước mắt của người ta, thì không nên học nữa, không nên cho con đi học nữa. Nói rộng ra là mọi việc đều nên gác lại cả. Vì đều là nhân nghĩa ngoài miệng thôi. Nên im hết đi là hơn… Nhưng ai làm ra câu đối này nhỉ? Chắc là thầy đồ ngồi dạy học ở nhà này chứ gì?

Bá Kim ngồi ngẩn chăm chú nghe, hiểu rõ đầu đuôi, tức tối quên cả giữ lễ, vội chửi:

- Cha tiên sư đồ vong ân bạc nghĩa. Nó thi trượt kiết xác đói nhăn răng, nghĩ thương tình, tôi rước nó về nuôi, mà nó lại làm láo thế à?

Phủ Kỳ đắc ý ngắt ngay:

- Đúng là ông đồ nhà này chứ gì? Lão ta mới làm, hay làm đã lâu? Giờ lão ta đâu rồi?

- Nó mới làm năm ngoái. Bá Kim đáp uể oải. Nhân dịp ông Trương Vĩnh Ký ở Sài Gòn ra, hẹn vào chơi đây, nó mới dán đôi câu đối này ở nhà học. Ông Trương và quan khách đều khen hay. Ra nó vừa chửi mình vừa chửi khách mà không biết, làm mình cứ khen lấy khen để, tôn trọng nó mãi.

Phủ Kỳ cười, nói tiếp:

- Thì lão ta giỏi đấy chứ, làm được một đôi câu đối rất hay đối chọi từng chữ một, thế mà lại ngụ được ý chửi chua cay.

Bá Kim nói chữa thẹn:

- Không phải tự lão ta đâu. Chính là do văn hội gà đấy! Dịp Trương Vĩnh Ký ra đây, họ làm nhiều câu đối xỏ xiên để thử ông ta. Nhưng người Sài Gòn người ta thật thà, người ta cứ theo nghĩa thẳng mà khen. Tôi cho là chẳng làm quái gì cái lối úp mở xỏ xiên ấy. Người ta có biết, người ta cũng cười cho.

Đào Trọng Kỳ cười lớn:

- Trương Vĩnh Ký theo Tây, làm việc đắc lực cho Tây mà còn là thật thà, thế thì bọn chúng mình Tây nó không dùng, phải thật thà hơn nhiều chứ!

Bá Kim thấy nói xỏ mình lại phải nói lảng:

- Nhưng sao quan lớn tài thế? Câu đối treo gần một năm nay mà có ai biết đâu.

Đào Trọng Kỳ nói có vẻ chân thành:

- Người ta có biết, ai người ta bảo! Còn tôi thì có giỏi giang gì đâu! Nằm khoèo mấy tháng với một cụ đồ già, cụ ấy bảo cách xem câu đối và cụ đọc cho biết một sô một sốc những câu đối chửi. Nên thấy câu đối hay là mình đâm ngờ, đọc đảo đi đảo lại mãi tự nhiên nó tòi ra. Nhưng kể ra cũng tài thật, họ viết cũng đúng môn đấy chứ. Keo kiết và hống hách, kiệt với người dưới, chi li từng tí một, nhưng lại khéo hào phóng thù phụng người trên, đó là cái thói quen thông thường của bọn mình. Đồng bệnh tương liên thanh khí lẽ hằng, ông anh bất tất phải che đậy nữa. Thế hiện nay lão ấy có còn ở đây không?

- Tống khứ ngay từ khoa thi năm ngoái rồi. Nó không đỗ, nhưng nó lại về hùa với bọn học trò nên tôi đuổi đi cho khuất mắt.

- Thế bây giờ các lệnh lang học đâu?

- Hẳn còn cho chơi cả. Cùng lắm sẽ định mời bác Tú Tích cũng bị cữu năm nọ, quan lớn nhớ Tú Tích Đông Thành chứ? Nhưng tôi còn lưỡng lự chưa dám quyết.

- Không nên. Đào Trọng Kỳ nói thân mật. Lúc này, dù sao cũng cần giữ tiếng, bọn họ đã có án theo giặc hẳn hoi, không nên rây vào, dân chúng đã bàn tán về mình, nay lại gắn bó với kẻ can án không tốt, người ta càng có cớ mà bàn tán thêm, sau này khó làm ăn. Nếu cần thì lúc này tôi đang rỗi rãi, ông anh cứ mở trường tôi dạy cho cũng được. Nói gần, nói xa, chẳng qua nói thật, tôi đến thăm ông anh lúc này cũng là có ý dựa vào ông anh, ta cùng mưu chung một việc gì đó sau này. Vì tôi thấy cái khu ông anh ở đây, nó có hai điều lợi, một là nếu thời thế có thể thay đổi, thì ở đây ta lại có thể phất cờ vùng vẫy một phen nữa. Tôi đã xuống dưới Ninh Hải làm tài công cho bọn Khách và có giao thiệp với bọn Tây dương, tôi thấy rằng lúc này phi thương bất phú, phải dựa vào Tây và Khách mà buôn thì mới có lợi, nhưng ở dưới ấy lộ quá, tôi không muốn ở, làm đĩ chín phương còn phải để một phương lấy chồng chứ. Hai là nếu thời cơ vẫn cứ bất lợi cho ta, ta cứ phải chịu mang cái án và cái tiếng xấu này mãi, thì khu vực Hàng Khay – Đồn Thủy này, giữa Tây, ta, Khách quần cư, tôi thấy rằng Cựu Lâu nhất đái có thể vạn đại dung thân đấy! Mà ở đây buôn bán được với Tây, Tàu rộng rãi, triều đình ở xa, các quan tỉnh khó bề mà trấn áp được. Bá Kim gật gù, nhưng nghe xong cũng còn giữ vẻ khách sáo nói:

- Bẩm quan lớn dạy có vẻ đúng. Nhưng thứ nhất, nhà hạ dân không biết có đủ sức hầu hạ quan lớn, hai là quan lớn ở đây e rằng dân chúng biết ra, họ sẽ chê cười quan lớn chăng?

Phủ Kỳ nói sát nút hơn, với vẻ chân thành:

- Từ nẫy đến giờ, chúng ta còn chèo chống với nhau có câu thực, có câu khách sáo và cũng có câu xỏ xiên, chính là để đọ sức dò la nhau. Nay ngã ngũ ra, ta đã rõ nhau cả rồi, mọi miếng kín của nhau ta đều biết cả, thì bây giờ ta nên nói thực với nhau thì hơn. Chẳng quan quách gì lúc này, ông anh còn được tiếng là Cai tổng Bá hộ từ dịch, chứ tôi là thằng dân trơn. Thế thì bỏ lối gọi nhau khách sáo đi, tôi chỉ là anh đồ tỉnh Đông đến ngồi dạy học ở nhà ông anh. Hai con đò nát cần cùng tìm về một bến kín mà che gió cho nhau, không nên để đụng nhau vô ích, thiệt thân, chúng ta cùng một cảnh ngộ, đã rõ nhau, cùng nương tựa nhau đợi thời. Vì ở đây tôi xem ra vừa là nơi lui về có thể yên thân, tiến ra có thể dụng võ mà tiến lên. Tuấn kiệt, phải biết thời cơ. Thời cơ bây giờ là dân thì rời rạc, đói khổ, quan trên thì tham quyền, cố vị, gió chiều nào che chiều ấy, nếu mình cứ thẳng ruột ngựa thì sẽ chẳng ma nào thương mình.

Bá Kim ngồi một lúc, cuối cùng mới lên tiếng:

- Quan lớn dạy đúng.

- Lại quan lớn rồi, Phủ Kỳ nói vui vẻ, tuổi tôi với tuổi ông anh sắp sỉ nhau, anh hơn tôi độ dăm sáu tuổi, ta kết ngãi anh em, chả ai dám nói gì đâu. Không có vườn đào trên núi thì ta kết nghĩa bên Tràng Tiền vậy, tiền chả quý hơn đào à? Phàm kim chi nhân, duy tiền nhi dĩ hỹ 10 ! Ấy thấy anh cũng mới gặp hoạn nạn, nên tôi mới dám đến và nói thật như thế với anh. Trước kia, tôi thấy anh khôn khéo hơn tôi nhiều, tự dưng tôi mà có đến nói với anh như thế, anh đã lấy giọng trung nghĩa mà truật lại tôi ngay, chứ chẳng chơi đâu!

Bá Kim thấy người muốn kết bạn với mình đã nhìn rõ tâm can mình, bấy giờ nói một cách thành thật:

- Xin chịu quan anh soi thấu tâm can đệ, đệ đâu còn dám hách khí giấu giếm quan anh nữa. Quan anh đã nghĩ đến tình đồng cảnh ngộ, hạ cố đến đây, đệ rất lấy làm hân hạnh được đón quan anh làm gia sư để dạy bảo. Đệ cũng nghĩ rằng làm tài trai cứ nước hai mà giữ, mà lại không trái với đạo trung dung của đức thánh Khổng, có phải không quan anh? Đúng đấy, bây giờ ta tránh không làm điều gì phạm tới những điều cấm của triều đình, bọn quan lại và tụi nhà nho cố chấp không có cớ gì làm hại được ta. Mà ở đây, ta lại vẫn có thể giao du buôn bán với Tây với Khách, buôn bán với họ vừa có lợi, vừa rộng đường kiến thức ra, mới biết mở mắt ra mà nhìn người ta giầu có, người ta hùng cường…

Phủ Kỳ vội ngăn:

- Ấy chớ vội hăng đi xa quá như vậy, hẵng thủ thân vi đại 11 đã.

Bá Kim đang cởi mở hăng hái hơn, nói:

- Không sợ! Ở đây đến tội lỗi như Phạm Quang Diệu, làm đến Đề đốc cho An Nghiệp, lại quyền Biện tỉnh vụ mà bây giờ hắn vẫn nhởn nhơ ra vào dinh ông Kê đấy, vẫn đi lại trong thành phố như thường, các quan ta lại có phần nể hắn nữa kia đấy! Ấy mà là kẻ trọng tội, nhà vua xử cho đi đầy xa những ba nghìn dặm! Xa quá thôi mất, trước ở trường thi, bây giờ ở đảo trường Tây Đồn Thủy, ha ha!

Ngừng lại một lát, Bá Kim vui vẻ nói tiếp:

- Chả là khu vực này bây giờ kể từ Nhà chung có bọn cố Phước qua ô Lang Tường đến Đồn Thủy có ông Kê, rồi từ Hàng Buồm ra tòa Thương chính rồi thẳng lại đông đúc, nhiều hiệu Khách buôn giầu có, mình ở lẫn vào đấy tứ chiếng giang hồ, có bề thế, có vây cánh, muốn gây chuyện với mình cũng còn khó.

Hai người đã cùng một ý nghĩ như nhau, dễ trở thành ngay đôi bạn thân tâm đầu ý hợp, liền dắt nhau vào phòng riêng nằm dài hút thuốc phiện cùng tâm đắc với nhau, cùng nhìn nhận thời thế, cùng bàn mưu định kế. Rồi từ đấy quan Phủ Đào Trọng Kỳ nghiễm nhiên đóng vai tân gia sư nhà Bá hộ Kim. Thỉnh thoảng hai người lại cùng nhau đi dạo chơi thăm những hiệu buôn lớn Hàng Ngang, Hàng Buồm và đôi khi cả hai người cùng lui tới tòa Thương chính. Ít lâu sau, được mấy người Tư vụ và Hành nhân 12 trong tòa Thương chính giúp đỡ, Đào Trọng Kỳ bàn với Bá Kim ra mở một cửa hiệu riêng ở cửa ô Ưu Nghĩa tức cửa ô Hàng Mắm để làm giấy tờ giao dịch giúp những lái buôn có việc phải giao thiệp với tòa Thương chính của ta và phòng Thương chính của Phú ở Đồn Thủy. Trong cuộc di chuyển kinh doanh đổi mới này, ngoài những người làm việc trong tòa Thương chính, Đào Trọng Kỳ con kết bạn thêm được Lương Huy Phác, con cả Cử nhân Tuần phủ Lương Huy Ý và Tú tài Lương Huy Cẩn, cả hai đều là người sở tại, người làng Gia Ngư, Nam Phố, bên trong chợ Hàng Bè, hai người có đất, có nhà cho mở hiệu và cùng vui góp công góp sức vào kinh doanh, mở to cửa hiệu. Cái biển tên hiệu “Giai huynh” treo ngoài cửa, rất khiêm tốn nói rõ cái ý nghĩa “tứ hải giai huynh đệ”, mọi người trong bốn bể đều là anh em, rất hợp cảnh với cửa hàng cần giao thiệp với các nhà buôn ta, Tây, Khách, mà lại còn có vẻ văn chương chứa chan tình cảm nữa; nó lại còn có ý tôn tất cả mọi người trong thiên hạ đều là bậc đàn anh của những người trong hiệu này. Và ai đến đây cũng đều được tôn trọng và phục dịch như nhau, như là anh của cả hiệu. Cái cửa hiệu chỉ chuyên giúp việc giao dịch bằng giấy tờ ấy rất tiện lợi cho nhiều tư nhân, cho nên ông chủ hiệu rất chóng được nhiều người quen biết, người ta không còn nhớ quan huyện Thọ Đào Trọng Kỳ nữa, mà bây giờ, người ta quen gọi là “ông Cử Đào gần Thương chính”, hay có khi gọi đùa là “ông Cử em ở ô Ưu Nghĩa”. Cái cửa hiệu không phải là hiệu, tự nhiên đã trở thành một cơ quan giao dịch mới mà những người chủ của nó có quyền ra vào thông thống mọi nơi cửa quyền cao quý. Và Bá Kim, con người ốc sạo hoạt bát, tự nhiên cũng thành một nhân viên có thế lực. Đôi bạn cựu thức tâm giao kia vẫn gắn bó chặt với nhau như là hai người chủ công ty, đã dần dần trở thành hai tay giao thiệp rộng rãi trong thương trường, được mọi người buôn ngoại quốc biết mặt, biết tên. Con đường làm ăn và danh vọng đã mở ra trước mặt theo một hướng mới, mà tình hình giao thiệp với người Phú cũng mỗi ngày một mở rộng thêm. Hai người đã định nhờ hẳn người Phú làm trung gian mở thêm cả cửa hiệu ở Sài Gòn nữa. Những mơ ước thầm kín giấu kỹ trong đáy lòng của hai người cứ dần dần được hiện ra thành sự thật.

Rồi một hôm, từ trong huyện Thọ đi ra, hai người đi qua thôn Tự Tháp ra bờ hồ, vòng đường Hàng Khay để về thôn Cựu Lâu. Họ lững thững đi trên con đường Hàng Khay rộng rãi, mải nhìn ra mặt hồ nước trong xanh phẳng lặng, xa xa đền Ngọc Sơn lấp ló trong một lùm cây xanh rì cành lá xòe kín mặt nước như mâm xôi; gần đấy cái đình Tả Vọng trên Gò Rùa đã sạt mất mái, chỉ còn trơ lại cái tầng trên, vôi vữa gạch lở trút xuống thành đống. Bá Kim kéo Đào Trọng Kỳ đứng dừng lại trên cái nền đình Hàng Khay cũ còn lại cây si và cây sanh nghiêng tỏa xuống hồ, Bá Kim ghé tai hỏi nhỏ bạn:

- Bác có thấy hồ này có kiểu đất đẹp không?

Kỳ trả lời ngay:

- Đẹp chứ, không đẹp sao lại có tên là Ngọc.

- Nhưng kiểu đất ở đâu nào? Bá Kim hỏi.

- Ở hòn Ngọc Sơn kia chứ ở đâu, Phủ Kỳ đáp.

- Không phải, trước tôi cũng nghĩ thế. Nhưng mà lại chính là ở hòn rùa này này. Bá Kim vừa chỉ vừa giảng. Năm nọ nhân có ông Cử gì ở Tam Sơn ngồi chuyện phiếm trong hàng Hai Phúc ông ấy giảng rõ kiểu đất như thế nào, ông ấy lại đọc cả kiểu đất Cao vương, mình dốt thành ra nghe lõm bõm, nhớ câu được câu chăng. Nhưng xét kỹ đúng là ở đấy, vì nếu ở hòn Ngọc kia thì dễ bị bắc phong xuy và không hợp với kiểu. Và tôi đã đi hỏi kỹ, bọn chúa Trịnh lấn quyền vua Lê, từ cái anh chúa đặt giường ngồi bên giường vua, chiếm cái hồ này làm hồ riêng và xây cái tả Vọng đình để ngồi chơi trên cái Gò Rùa này, các chúa Trịnh ngồi ở trên đình ấy chơi mát ngắm phong cảnh và xem tập thủy trận. Từ đấy chúa Trịnh quyền vượt đế vương. Ấy chỉ mới hưởng cái kiểu đất ấy làm dương cơ mà đã quyền khuynh thiên hạ như thế. Nay mà táng được mả vào đúng huyệt ấy thì oanh liệt đúng như lời kiểu:

Tiếng nức đế đô

Công hầu muôn thuở

Phúc lộc nghìn thu!

Cho nên nhân lúc cái đình kia đang hủy liệt, các quan tỉnh không có lợi lộc gì vào đấy, không thiết chữa, tôi muốn đứng ra tu bổ lại rồi táng luôn hài cốt ông cụ nhà tôi vào đấy. Ông cụ tôi trước ở bãi Đồng Nhân và bến Hà Khẩu là tay sông nước giỏi nay được ký vào đấy rất hợp. Như thế vừa được tiếng công đức, vừa được dân bỏ tiền ra góp cho mà làm, có phải là lưỡng lợi không, thưa bác? Thật là thiên hành, thiên táng!

Phủ Kỳ vốn không mê say địa lý, trông qua quang cảnh hồ thấy muốn tán rộng ra thế nào cũng được, cũng là đẹp mắt cả, đã muốn nói toạc ngay ý kiến chống ngược lại, nhưng ngẫm nghĩ thấy có sửa chữa một nơi di tích đẹp ở giữa hồ, tất được tiếng khen ngay có thể gây được nhiều thiện cảm với bà con xa gần, vả cũng không muốn làm phật lòng ông bạn đã giúp đỡ mình nhiều và tính tình xử thế có nhiều điểm giống như mình nên cuối cùng, lão cũng gật gù khen:

- Ừ! Trông đẹp đấy chứ! Nếu có thể làm êm thắm, ta nên làm ngay. Cũng nên nhân dịp này mà gây công đức với bà con làng mạc, hàng phố… cho người ta trông thấy.

Bá Kim đắc ý hỏi:

- Nhưng quan bác có chịu là kiểu đất đẹp không nào? “Như viên ngọc to… Nước lên thì ngập, nước xuống lại thò. Huyệt đúng chỗ ấy, danh nức đế đô…”

Như thế chả là Gò Rùa thì còn ở đâu nữa kia chứ!

- Vâng, đẹp quá, chả đẹp mà chúa Trịnh đã cắm lấy chỗ ấy, các chúa Trịnh có tiếng là tin địa lý, bắt các thầy địa Hòa Chính cắm đất Cổ Bi, Tả Ao cắm đất Ba Sao đấy, nhưng vì bắt ép, nên các thầy địa không tận tình, có khi họ còn phản nữa.

- Quan bác ạ, tôi chủ tâm chỗ đất này đã lâu, trước cũng cứ tưởng nó ở hòn Ngọc, thần chiếm mất rồi. Đến khi nghe ông Cử ông ấy giảng rõ, mình càng nhìn càng thấy đúng. Tay chu du lịch lãm, nghiên cứu kỹ có khác, nói đâu ra đấy, mà càng ngắm càng đẹp như in, đẹp quá. Giá như lúc còn làm việc thì không dám làm đâu, sợ thiên hạ họ ngờ, nhưng bây giờ nằm nhà thất thế, rỗi rãi, lại có cớ đình đổ nát để xin sửa chữa, nên mới đem ra bàn với bác, hỏi ý bác xem có nên làm không? Có hại gì không? Có phạm gì không? Có động hệ gì không?

Phủ Kỳ đáp thủng thỉnh:

- Đứng ra mà làm được thì chỉ có lợi thôi, mà nếu làm được sớm càng tốt, mả táng càng chóng phát, chứ chả động hệ gì!

Bá Kim hớn hở nói theo:

- Làm thì làm được ngay. Thế tôi với bác cùng đứng tên chung, ta xin làm nhá. Chung cho nó có thanh thế.

Thấy Phủ Kỳ đứng im ra vẻ lưỡng lự, Bá Kim hỏi ngay:

- Hay ta hợp táng cả tôn nghiêm đằng bác, cha mẹ chung cả mà.

Phủ Kỳ nói thong thả, vừa nói vừa nghĩ:

- Không phải tôi định bụng đòi phải chia phần với bác đâu. Mấy lại tiên nghiêm bác cũng là tiên nghiêm tôi, cha mẹ chung cả, tôi có quản gì. Tôi chỉ nghĩ nên làm thế nào cho nó có lợi. Tôi nghĩ rằng riêng bác đứng xin thôi, xin trùng tu cả cái đình này và chùa Liên Trì, bác đứng ra cùng với dân làng xin phép quan trên trùng tu, rồi làm giấy quyên giáo tứ phương, để tôi là con công đệ tử nhà thánh, tôi cúng tiền vào và đứng ra cùng làm hưng công. Như thế vừa được tiếng cả đôi bên, cả bác với tôi sẽ đều có lợi. Được phép rồi ta sẽ bắt đầu làm ngay.

Bá Kim vội khen:

- Hay đấy! Bác cao kiến thật. Thế mai, tôi làm đơn xin nhá.

Hai người đắc ý cùng cười, cùng khen diệu kế của nhau, cùng dắt nhau đi vòng quanh bờ hồ một lượt, ngắm lại kiểu đất cho tinh tường và càng nhìn càng thấy kiểu đất đẹp, gồm đủ cả sơn thủy hữu tình, tay long tay hổ ôm nhau kín đáo, án trước gối sau rất chỉnh tề. Rồi nghĩ rộng, Bá Kim tự cười thầm một mình, càng nghĩ càng thấy mưu kế của “ông Cử em” thật là kỳ diệu.

Hôm sau, Bá Kim làm đơn xin trùng tu đình Tả Vọng và chùa Liên Trì. Vì những nơi này là danh thắng của cả Hà Nội, nên đơn xin trùng tu phải đệ lên các quan Tổng đốc và Tuần phủ. Nhận được đơn, Tổng đốc Trần Đình Túc nhớ ngay đến lời Trương Vĩnh Ký hỏi sao ngôi chùa Liên Trì đẹp thế để hủy liệt như vậy, lão đã phải trả lời liều:

- Vì việc quan Thượng Giai xây chùa này bị triều đình và các bậc nho sỹ chê là mê Phật, nên bây giờ tỉnh đường không bỏ của công ra chữa, mà dân sở tại không có tiền, đành cứ để hủy liệt.

Thực tình các quan tỉnh không hề và cũng không dám nghĩ đến việc tu bổ ngôi chùa kiến trúc cầu kỳ tinh vi ấy, sợ hụt đến công khố còn đương phải dốc tất cả vào công việc tiêu phí và cung cấp nguyên vật liệu cho bọn Phú xây dựng sửa sang khu nhượng địa. Nay tự nhiên có người đứng ra xin đảm đương công việc ấy mà không động gì đến gạo tiền công của tỉnh, thì thật là một nghĩa cử đáng khen, quan Tổng đốc liền phê ngay một chữ “Y” to tướng, kèm theo một dòng chữ nhỏ: “Giao cho nguyên Chánh tổng bát phẩm Bá hộ Nguyễn Ngọc Kim khẩn cấp thi hành và được mọi tiện lợi tiến hành công việc”.

Được giấy rồi, Bá Kim họp ngay các kỳ lão và dân làng Cựu Lâu lại, lập tờ quyên gửi đi các tổng Đông Thọ, Thuận Mỹ, Đồng Xuân, rồi cùng với Đào Trọng Kỳ đứng ra làm hưng công trông coi dỡ Tả Vọng đình xuống xây lại. Cái đình này làm từ đời Trịnh Căn (chúa thứ tư trong dòng họ Trịnh) là một lầu hai tầng, tầng trên là một cái lầu vuông bốn mái cong có đắp bốn con rồng bò quay đầu lại, trên ngồi nhìn ngắm ra bốn chung quanh. Lầu quay hướng nam theo ý nghĩa làm vua quay mặt về phương nam, không chầu lại cung vua, không thần phục vua Lê, vì vậy bên trên cửa có đề ba chữ “Tả Vọng đình”; hai đầu đông tây bỏ trống thành hai cái sân con là nơi để cho các cung nữ và các quan phủ liêu theo hầu có thể lên đấy cùng ngắm cảnh. Chung quanh là tường hoa lan can ghép những mảnh sứ óng ánh. Tầng dưới hình chữ nhật, chạy dài chiều đông tây làm thành ba cái cửa như kiểu tam quan ở cửa Đoạn Môn. Cái vật kiến trúc thanh thấu ấy từ sau khi chúa Trịnh thất thế, không còn ai trông coi đến nữa, nên nay đã hủy liệt, tầng trên đã sụt xuống từng mảng, lại một phần bị bọn quân xâm lược của Ngạc Nhi đã nã súng bắn rơi gạch ngói vôi vữa tả tơi bề bộn. Chỉ còn trơ lại tầng dưới chắc chắn với một tường hoa vây lấy tầng trên. Bá Kim và ĐàoTrọng Kỳ đi thuyền ra tận nơi, trèo lên tầng trên, ngồi lên tường hoa nhìn ra tứ phía, càng thấy cái gò như độc lập ở giữa bầu giời mà bốn phương cây cỏ đều quay đầu chầu lại. Xem xét xong, hai người trở vào bờ, cho thợ nề ra dỡ hết gạch ngói vôi vữa xuống, đào hết móng lên. Hôm sau, hai người lại ra vạch kích thước cho thợ xây móng lên, Bá Kim cho xây nhỏ hơn trước và xoay lại hướng khác. Móng đào đổi lại, chiều dài chạy theo Nam Bắc, mặt quay trông ra hướng đông. Lão bảo những người làm rằng:

- Chúa Trịnh là quyền thần lấn ngôi vua nên mới làm hướng đình trông trái đi, trông xuống nam, thành ra trái cả kiểu đất của hồ, nay ta phải đổi lại cho đúng, đổi trông theo hướng đông, vừa nhìn được hướng mặt giời, vừa giữ được cả hai bên tay long, tay hổ, đối xứng với nhau. Vạn vật tương ứng như thế, mới mong có được nhân khang vật phú, làng ta và những làng quanh hồ mới được nhờ chứ.

Nhưng thực tình, lão quay hướng lại theo chiều dài Nam Bắc là để tiện mai táng mả bố lão. Lão cắt nghĩa cho Đào Trọng Kỳ hiểu rằng mả sẽ táng theo chiều ấy, đầu gối xuống gò Nam Giao, chân đạp qua hòn Ngọc Sơn đến cái gò chùa Hòa Giai rồi trông thẳng ra sông Hồng. Lão hí hửng khoe:

- Nằm ngồi như thế co duỗi, vươn vai đều rất vững vàng.

Phủ Kỳ bật cười khen:

- Tôi không ngờ anh lại thánh địa lý đến thế.

Nhưng thích nhất là môn địa lý của anh hơn hẳn lão Cử gì nhỉ, cử Tam Sơn là vừa được danh ngay, vừa được lợi ngay. Nhân dân bốn tổng và ba mươi sáu phố phường đều nức lòng khen ngợi “cụ Bá” về già lại biết tu tỉnh. Nhân việc này rồi ta có thể “phát sồi” thêm nhiều việc.

Bá Kim cười đắc ý:

- Không đến nỗi phát sốt là được rồi!

Công việc vẫn tiến hành đều. Hai tay hưng công hằng ngày vẫn ra trông nom, rất vui mừng thấy được mọi người dân quanh hồ khen ngợi, vì công việc sửa chữa này và rồi cả chùa Liên Trì nữa sẽ làm đẹp thêm cho hồ và tăng vẻ tôn nghiêm nơi thờ phụng. Nhưng có một người lấy làm lại, có vẻ nghi ngại thực tâm của những người đứng ra tu bổ đình chùa, luôn luôn để ý theo dõi công việc làm này, cứ đêm đêm vắng vẻ lại lẻn bơi thuyền ra xem xét Gò Rùa. Người ấy là cậu ấm Ba Tự Tháp. Cậu đi tìm ông ấm Vẽ nói rõ hiện tình đã xem xét được, tỏ ý ngờ vực và bàn cách đối phó. Cậu nhắc lại cái vẻ vồn vã xoắn quýt như muốn vồ ngay lấy Gò Rùa của lão Bá khi nghe ông cử Tam Sơn nói đến kiểu đất của hồ năm Thân trước, hồi còn hàng bác Phúc. Cậu kết luận:

- Tất nhiên bây giờ, nó đứng ra làm cái công việc này chẳng phải công tâm gì đâu, chính là nó muốn táng mả bố nó vào đấy để mong vạn đại công hầu, khanh tướng, đè đầu cưỡi cổ người ta, để lấy thế mà đi theo giặc ngoài. Nếu nó chôn được thật, ta nên đào đổ quách nó đi, cho nó biết giời đất, thần phật chẳng ai giúp Kiệt 13 làm ác, để yên cho mả nhà nó kết phát.

Ông ấm Vẽ lầm lỳ hỏi:

- Tao tưởng chú mày sợ con Xuyến?

Bị hỏi một câu không ngờ đến, cậu ấm Ba ngơ ngác hỏi lại:

- Sao anh lại hỏi lạ thế?

Ông ấm Vẽ thủng thẳng nói:

- Việc phá nhà tên Kim, mày không dám dự, tao bị bắt, mày còn mải đi lo giải thoát cho nhà nó, thì nay mày rủ tao đi làm việc này thật hay là giả? Hay là muốn đùn cho người khác làm rồi để về bảo nó để kể công với nó.

Bị ngờ vô lý ức quá, cậu Ba cáu hỏi:

- Sao anh để ý dai thế? Hay là ghen à? Mỗi việc một khác chứ, sao anh lại đem chằng cái nọ vào cái kia như thế? Việc phá nhà tên Kim, tôi không xông xáo, vì tôi cho là thất sách còn khi anh bị bắt rồi, tôi chạy ngược với chạy xuôi bàn bạc thế nào có bác cử biết đấy. Tôi với con Xuyến cãi nhau thế nào mọi người cũng biết. Hay tính tình anh lâu nay đổi khác rồi, hồn vía lại bị con nào bắt mất rồi?

Ông ấm Vẽ cười dàn hòa:

- Trêu thử xem chí cậu có thực quyết không? Hay là còn có phần nào nể nang con người tài hoa ấy thì đó cũng là sự thường thôi. Nhưng mà này, cái đất ấy nó có ra cái kiểu cách quái gì đâu mà giữ. Nó có để mả ông mả cha nó vào đấy thì cũng hóa ra đất cả thôi chứ gì. Việc gì mà phải đi làm cái việc thất đức ấy.

Cậu ấm Ba trở lại vui vẻ cãi:

- Cái sự kết phát là việc huyền bí, không biết đấy vào đâu, không cần bàn đến. Chỉ biết rằng nó mà chôn được yên thắm mả nhà nó vào đấy, tự nhiên là nó tin mả nhà nó táng được vào đất kiểu, nó cho là kết ngay, hoạnh phát đến nơi rồi, tha hồ nó hoành hành, làm ác, vô thiên vô địa, nó không sợ gì cả, nó cậy vào hòn đất cả. Cái hại là ở đấy. Rồi nó tự gây ra tội mà không biết, mà cứ vin vào đất cho là phải, thấy có lợi cho là phát, thấy được nắm quyền hành thì cho là đúng vào kiểu đất công hầu, khanh tướng, chứ nó vô học có biết đâu là hại dân, hại nước. Cho nên nay đào mả này chôn đi nơi khác tức là bảo cho nó liệu thần hồn đấy, tức là làm phúc cho nó đấy chứ. Nếu cứ để không, mặc cho nó dương dương tự đắc, thì có khác nào thêm chân vào cho rắn, dạy cho hổ biết leo cây!

Ông ấm Vẽ ngồi ngẫm nghĩ một lúc, thấy bạn nói có lý, liền tỏ vẻ đồng ý và hỏi lại:

- Vậy thì ta giữ không cho nó chôn mả nhà nó xuống đất, hay để nó chôn xuống rồi thì đào đi?

Cậu Ba Tự Tháp nói:

- Nó đã chôn vụng giấu mình, mình giữ nó sẽ không chôn nữa, mà còn cho là mình muốn tranh kiểu đất ấy, nó lại để ý hiềm thù thêm phiền, chi bằng ta cứ rình xem hễ nó chôn…

- Không được! Ông ấm Vẽ gạt đi. Ta cứ cùng ra trông coi xem thợ làm mà giữ không cho nó chôn.

- Nó chôn trộm lúc đêm hôm, đằng nào ta cũng phải rình, ban ngày bảo nó nghe, nhưng ban đêm nó mới lén lút đến chôn, ta bắt được, lại sinh ra đánh nhau thù oán thì sao! Làm toang hoang ra, mọi người cùng biết, là không tốt, không được lợi gì cho ai cả.

Ông ấm Vẽ lại hỏi:

- Vậy thì nếu nó chôn, thì tôi với cậu đào lên đem đi được à? Hay lại lóng ngóng để nó tóm cổ cho cả nút! Hay cậu định quăng mẹ nó xuống hồ?

- Quẳng xuống hồ là không nên rồi. Cậu ấm Ba trả lời quả quyết. Mình sẽ nhờ người di đi nơi khác. Anh chỉ việc canh rình giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ đưa cái tiểu hài cốt đi chôn cất ở nơi khác tử tế, anh không sợ thất đức đâu. Anh có bằng lòng không thì nói đi xem nào?

Ông ấm Vẽ cười nói:

- Chú mình làm tớ như trẻ con không bằng. Nhưng thôi được, tớ bằng lòng ở lại dưới này luôn mấy hôm dò xét canh rình với cậu. Hễ có thật thì ta đào đi, và hễ lộ thì tớ cùng chịu tội với cậu. Thế là đủ chứ gì. Vậy chú mình đi tìm người khác đi. Tìm ai, hay lại tìm cô Xuyến đấy?

- Tìm ai cũng được, miễn là được việc.

Cậu Ba đắc ý, vui vẻ trả lời thế, rồi để bạn ở nhà ra đi ngay. Cậu đã nghĩ ngay đến những người giúp vào công việc này từ khi mới được tin Bá Kim rục rịch tu bổ lại đình Tả Vọng. Ông ấm Vẽ sẽ là người cùng chí hướng, cùng bàn mưu định kế, cùng liều mạng với mình trong những lúc hiểm nghèo. Còn đào bới, khiêng vác, cậu sẽ nhờ hai anh trai tráng khỏe mạnh; anh Hải, thợ thêu ở Hàng Nón và anh Thạch ở Hà Thanh là hai người cậu được quen từ cái đêm về toan lấy xác mấy liệt sỹ bị bọn Phú hành hình và sau này cậu còn gặp nhiều lần trong dịp tuyên truyền vận động mộ nghĩa ở trong thành. Cậu quen thân anh Hải hơn, vả lại anh này vốn tức Bá Kim có lần đã đánh anh ở đình Thuận Mỹ, nên có phần dễ thuyết phục hơn. Cậu đi tìm anh Hải trước. Nhà anh ở trong xóm, bên trong đình Thuận Mỹ phố Hàng Quạt, đi qua cái ao rộng trước cửa đình, rẽ vào sau đình lần theo cái ngõ chật hẹp, cậu lần tìm mấy cái nhà gianh xiêu vẹo, đến một cái nhà nhỏ khói đang bốc um cả trong nhà ngoài sân, cậu nhận ra là nhà anh Hải mà cậu đã đến đây từ mấy năm trước. Cậu đứng ngoài la lên:

- Ông tướng Hải có nhà không? Làm gì mà hun khói um lên thế? Đánh bẫy khách lạ à?

Một thanh niên ở trong nhà mở tung cánh cửa liếp nhẩy bổ ra reo lên:

- A ha cậu Ba! Mời cậu vào chơi. Ấy thưa cậu rấm đống trấu hun muỗi, vừa hun mình một thể, nó có cháy nhà cháy béng mình đi cũng được, khỏi phải làm cái kiếp người!

Cậu Ba cười bảo:

- Sao mà phẫn thế? Gần đình, gần phủ có khác, đã lây tính ông Hoàng Ba rồi.

Anh thanh niên Hải nói rất nghiêm trang:

- Không đồng bóng đâu cậu ạ! Tức lắm kia, muốn đốt phăng cả cái xóm nghèo lụp xụp này rồi đi đâu thì đi. Cậu tính sức dài, vai rộng như tôi, học được nghề ngỗng ông cha hẳn hoi, thế mà nay ngồi không ở nhà, bầy trò ra hun muỗi cho đỡ buồn, ăn nhờ vào bà mẹ già lọm cọm đi bán từng mớ rau, thế tính có nhục không. Mời cậu vào chơi trong này, phía trong hết khói rồi, nó theo gió tạt cả ra đây.

Cậu Ba không vào, đứng yên ở ngoài ngõ và hỏi:

- Thế nào? Lâu nay vẫn không có việc gì à?

- Cậu tính còn ai thêu thùa gì lúc này nữa, anh Hải đăm chiêu nói. Các phường Khách cũng thế mà thôi, chả nhẽ mình là người tỉnh thành, lại bỏ về quê đi học cày, ngồi không, buồn quá, cậu ạ, lắm lúc nghĩ chỉ muốn đánh nhau với thằng Tây một mẻ như hồi cậu còn ở trên này, cho nó sướng…

Cậu ấm liền nói ngay:

- Thế tôi rủ anh đi làm việc này nhé, vui, nhưng anh có gan dám làm không đã!

Anh Hải mắt sáng hẳn lên hỏi:

- Việc gì cậu phải nói ra đã, có biết đầu cua tai nheo thế nào, rồi mới lượng sức mình xem có làm được không chứ.

Cậu Ba liền kéo anh thanh niên ra góc ngõ hẻo lánh ghé tai nói rõ ý định của mình và phần công việc cần nhờ anh làm, anh vừa nghe vừa gật gù, cuối cùng múa lên:

- Được! Tôi làm được, ngay từ tối nay tôi đi với cậu.

- Nhưng này phải kín mới được, nhỡ ra là cả tôi, cả anh, chết cả nút đấy!

- Được rồi! Anh kia càng vui vẻ nói quả quyết. Xin cậu cứ tin ở tôi, kín hơn thóc đổ bồ, cậu ạ!

Cậu ấm Ba yên trí trở về báo cho ông ấm Vẽ biết, và cùng với ông ấm bàn nhau đi rình xem bọn chúng nó tu bổ thế nào. Thấy Phủ Kỳ và Bá Kim luôn luôn đi xem xét công việc cẩn thận, và cứ tối đến, chúng lại bắt đem cất hết mọi thuyền mãi tận cái lạch đằng sau nhà tổ chùa Quan Thượng, hai cậu ấm càng tin dự đoán của mình và càng hăng hái kiên tâm theo dõi. Đến tối thứ ba, thấy Bá Kim cho thợ nề nghỉ sớm hơn mọi lần và chính lão còn ở lại ngắm nghía hồi lâu, cậu Ba đoán là nó sẽ đem trộm hài cốt vào đêm nay, liền về bảo ông ấm Vẽ đi nấp rình, còn mình đi tìm anh Hải sửa soạn dây thừng đòn khiêng để đợi sẵn ở đình Yên Trường và đem thuổng đi đào sẵn huyệt ở đằng sau chùa Tàu. Cậu lại thân đi tìm người có thuyền giúp vào một tay. Người ấy là anh Thạch ở thôn Hà Thanh, anh là phu tuần trước kia, hiện nay là Trương tuần và cũng đang đi lại giúp vào việc xây đình Tả Vọng. Sở dĩ mãi đến lúc này, cậu mới tìm đến anh là cốt đến khích lòng nghĩa phẫn của anh, thúc anh làm ngay mà không để cho anh có thì giờ suy nghĩ rồi đâm ra sợ sệt mà lưỡng lự chăng. Cậu tìm hẳn đến nhà gặp anh, và theo như thói quen trong dịp làm việc mộ nghĩa trước, cậu không rào đón đắn đo, nói rõ ngay âm mưu của Bá Kim cho anh biết rồi nói ngay đến công việc làm đêm nay. Anh Thạch nghe xong cười hỏi ngay:

- Cậu không sợ, không nể cô Xuyến à? Con người vui vẻ nhẹ nhõm mà lại dốc lòng mộ nghĩa kia mà!

Cậu Ba cười hỏi:

- Anh nói sao? Cô ấy thì có liên can gì đến tôi!

- Tôi tưởng cô ấy vừa đẹp, vừa giầu, vừa giúp nhiều công vào việc mộ nghĩa năm nọ, hình như cô ấy lại quý cậu, mê cậu, tôi tưởng cậu sẽ lấy cô ấy. Lấy con thì phải be vào cho bố chứ!

- Anh này nói bậy nào! Cậu Ba trừng mắt nói nghiêm nghị. Cô Xuyến là cô Xuyến mà tôi là tôi, có liên can gì đâu. Việc ông Bá làm có hại đến dân làng thì tôi phá. Đất Gò Rùa là đất thiêng chung của đế đô cũ. Ông ấy đem để mả vào đấy rồi động đến cả các làng Cựu Lâu, Yên Trường, Hà Thanh, Yên Trung, Phục Cổ, Tự Tháp, Bảo Khánh…, quanh hồ và động đến cả tỉnh ấy chứ, chuyện chơi à?

- Nếu thế thì thấy ông ta chôn, cứ ngăn lại không cho chôn, việc gì lại đào lên cho mình phạm tội thất đức.

- Nói như anh mới dễ nghe chứ. Nó đã chôn trộm, rình nó, nó biết, nó sẽ không chôn nữa, rồi nó sẽ tìm cách báo thù cho phải biết. Mà mình giữ được lúc này, nó chôn lúc khác, công đâu mà ngồi suốt đêm này sang tháng khác để mà canh. Chỉ cốt làm sao cho nhanh gọn nó không biết được ai và vừa cho nó cạch về sau. Mình sẽ đem chôn đi nơi khác kia mà, làm gì mà thất đức?

Anh Thạch ngẫm nghĩ thấy có lý, liền đứng lên đi theo cậu ấm Ba ra bờ hồ để cùng rình xem thế nào. Vừa đi, cậu ấm vừa dặn:

- Anh đi kiếm cái thuyền đã, để hễ đúng thì khi họ chôn xong trở về, là ta ra ngay. Sở dĩ phải nhờ đến anh là thấy anh biết nơi lấy thuyền.

- Được, cứ ra đã, hễ đúng, lúc nào trở về lấy là có ngay.

Thạch trả lời cả quyết và cứ đi ra bờ hồ. Hai người ra đến nơi, cậu ấm Ba để anh Thạch ngồi nấp rình ở gốc cây bên đền Bà Chúa, còn cậu đi qua đình Yên Trường tìm dặn qua anh Hải, rồi lẻn về đường phố Hàng Khay tìm ông ấm Vẽ, bảo rõ cách xếp đặt có thêm anh Hải và anh Thạch tham dự và bàn bạc cách tiến hành công việc. Đợi mãi. Bốn bề đã yên lặng như tờ, vẫn không thấy gì. Đã gần nửa đêm, sương xuống nặng, tĩnh mịch, lặng lẽ, không còn cả đến tiếng cho sủa, dế kiêu. Bỗng có một bóng người đi khẽ lướt quanh nửa hồ từ phía làng Hà Thanh vòng đến Tự Tháp. Sau đó có hai bóng từ phía đầu làng Vũ Thạch đi lại góc hồ, rồi cả ba bóng cùng xuống chiếc thuyền con nhẹ nhàng bơi lướt ra gò. Đúng rồi! Không còn sai nữa. Đợi cho bọn kia ra hẳn đến gò, cậu ấm mới quanh trở lại bảo anh Thạch trở về lấy thuyền. Một lúc sau chiếc thuyền con lách qua cái ngòi phía nam làng Hà Thanh ra đến hồ, cậu Ba bước xuống thuyền bảo anh Thạch lượn bờ hồ sang thôn Tự Tháp. Thuyền vẫn đủng đỉnh đi, cậu ghé tai khẽ bảo Thạch:

- Đi như thế này, cho nó khỏi ngờ, nó có biết, nó cũng tưởng là thuyền đánh cá. Cứ đủng đỉnh đã có người rình ở đấy rồi. Cho nó về lâu lâu, rồi ta xuống cũng vừa.

Về đến bên Tự Tháp, cậu bảo đỗ thuyền lại đợi, rồi lên bờ trở về nhà đem ra một cái thuổng và một con chó mực con bịt mõm trói chân bỏ xuống thuyền. Thạch hỏi ngay:

- Cậu định làm gì thế?

- Đem chôn thay vào đây cho lão bá nó tức hộc máu mồm ra!

Thạch gạt ngay đi:

- Sao cậu dại thế? Của ngọc thực, cậu để đấy cho tôi. Rõ vừa phí của giời, vừa phải tội!

Ngừng một lát, không thấy cậu Ba nói gì, anh nói thêm:

- Mà chôn chó vào đấy, ngộ nhỡ nó không đào lên rồi lại cũng động thì chết? Cậu để đấy, tôi đem về hóa kiếp làm bữa chén. Cứ lấy thân cây chuối là tiện nhất. Đây có không? Không thì để tôi về bên tôi, tôi phạt một lúc có mà hàng chục cây cũng có.

Cậu ấm nghe ra, liền đem con chó về và chặt một khúc cây chuối đem ra, rồi xuống thuyền bảo anh Thạch lái đủng đỉnh ra phía đình Tô Mộc bên Phục Cổ, ngóng đợi. Cậu Ba đi bộ vòng về Hàng Khay tìm ấm Vẽ cùng bàn bạc. Đợi độ cuối canh ba, cái thuyền chở ba người kia trở vào bờ, ghé bên tháp Hòa Phong, ba người lên bờ, rồi thuyền lách qua ngòi vào bên phía trong chùa Liên Trì. Họ đi khỏi lâu rồi, ấm Vẽ vẫn lẻn đi theo để dò la, đã trở về chỗ cũ bảo cậu Ba:

- Đúng chúng nó đem mả ra chôn rồi, tôi trông rõ cả ba đứa, lão Bá, Cử Kỳ và thằng cả Trường. Bây giờ chúng nó chắc đang yên trí chè chén, cả thằng chở đò nữa. Vậy các cậu ra làm đi thì vừa. Tớ lại cứ ngồi đây canh cho. Không sợ gì cả. Chúng nó còn mải vui say.

Cậu Ba thích chí liền chạy đến giục anh Thạch đẩy thuyền vào gò. Thuyền đi vút như lao đến nơi. Đêm lạnh. Ánh sao lờ mờ soi rõ một hàng tường gạch ở phía bắc và phía tây đã lên cao quá mặt đất đến gần một thước; còn phía nam và phía đông, tường mới vượt lên khỏi móng mấy hàng hòn gạch. Nền đất bên trong đã san phẳng và nện nhẵn, nhưng đất còn xốp. Cậu ấm cho lưỡi thuổng bẩy giữa nền lên, đào bới một lúc tung hết đất ra, quả nhiên bới được một cái tiểu sành con trong đựng hài cốt. Cậu Ba mím môi dùng hết sức lôi cái tiểu lên đưa cho anh Thạch đỡ chuyển ra ngoài. Rồi cậu đặt khúc cây chuối vào hố đào và gài lên thân cây ấy một tờ giấy trắng viết dòng chữ chân phương: “Tên Kim chịu tội ở đây”. Hai người lấp đất qua loa, san phẳng lại như cũ, rồi cùng nhau xuống thuyền ra về. Anh Thạch bê cái tiểu để xuống giữa thuyền, cậu Ba ngồi xuống đỡ lấy, vừa nói:

– Anh đẩy ra giữa hồ, tôi quăng cái của nợ này xuống nhá.

– Ứ ừ, không được! Cậu làm tôi kêu tướng lên bây giờ!

– Kêu lên thì cả tôi với anh cùng chịu tội.

– Chịu tội cũng được, chịu tội dương còn hơn chịu tội âm!

– Xin chịu anh là giỏi, nhưng đem chôn ở đâu bây giờ?

– Chôn ở đâu tùy cậu, cậu đã chủ mưu tất phải có cách…

Cậu Ba cười có vẻ trêu.

– Cách của tôi là quẳng mẹ nó xuống hồ, không thì chở vào đây quàn vào cái đình này vậy.

Thuyền đã đến bờ trước cửa đình Yên Trường, anh Thạch thấy nói thế, cắm lửng ngay thuyền ở ngoài nói:

– Cũng không được, vì quàn vào đây động cả làng này nó chửi cho thối óc ra!

– Vậy thì anh muốn tôi để mả xuống đáy hồ à?

Anh Thạch còn đương cắm sào ngập ngừng, chợt ở trong sân đình chạy vút ra cái bóng đen và tiếng hỏi:

– Thuyền nào? Lúng túng cái gì?

Giọng hỏi hách dịch khiến cho anh Thạch giật nẩy mình luống cuống suýt nữa rơi cả sào, cậu Ba vội đứng dậy đỡ lấy sào, giữ cho thuyền khỏi chòng chành và vội nói ngay:

– Hải trên đình Thuận Mỹ nó chòng anh đấy. Cánh ta cả đấy mà!

Anh Thạch định thần lại, nhìn chăm chăm và nghe tiếng nói, nhận ra người quen và tức tối nói:

– Rõ con nỡm! Làm người ta hết cả hồn, cả vía! Cứ chất chưởng thế lộ ra, chúng nó lại chả bắt cả nút à?

– Bắt thì chúng ta cùng chịu tội cả chứ sao! Thế mà đã cuống lên, sợ cụ Bá đến thế kia à?

Cậu ấm vội dàn hòa cho được việc:

– Thôi xin cả hai bên, tôi và anh Hải xin rước hài cốt ra táng ở cái bãi mả vắng đằng sau chùa Tàu kia, anh về cất thuyền đi, rồi nếu không tin mời anh cứ ra đấy xem tôi có đắp điếm tử tế không nào?

Cậu ấm vừa nói, vừa đẩy thuyền vào sát bờ cắm sào ép vào. Hải đã nắm lấy cạp thuyền bước chân xuống, đỡ cái tiểu sành lên vai, rồi nhảy tọt lên bờ, cậu ấm cũng nhảy lên theo còn ngoái lại khẽ nói, ghé vào tai anh Thạch:

– Ta chôn đây thành ngôi mả mới, nếu họ biết họ chạy đi nơi khác, hay để đấy cũng được, nhưng nhất định không thể ai biết là chúng ta đã làm phúc mà chạy ra đấy hộ. Công của anh đấy nhé!

Hai người kẻ vác tiểu, người vác thuổng, chạy biến vào đường làng Yên Trường đi ra phía chùa Tàu vắng vẻ trong đêm khuya lạnh lẽo. Anh Thạch trông theo mất hút bóng hai người, mới đứng lên đủng đỉnh đẩy thuyền về.

° ° °

Mờ sáng hôm sau, Bá Kim và Phủ Kỳ đã thân đi trước cả các người làm, để ra sớm trông coi công việc làm lại Tả Vọng đình cho cẩn thận đâu vào đấy. Bọn họ thường vẫn nói với những người quen biết:

– Hưng công mà không đi sớm về tối xem xét, cứ chỉ tay năm ngón qua loa thì rồi công việc sai bét cả!

Hôm nay, ra đến bờ hồ, lão vội xuống thuyền một mình tự đẩy thuyền ra gò trước cả Phủ Kỳ. Đến nơi, thấy sai dấu, lão vội thuồn gậy, không thấy tiểu rắn, cúi xuống cố moi đất lên, chỉ thấy trơ khúc cây chuối với tờ giấy trắng có dòng chữ nguyền rủa lão. Lão vội vớ lấy mảnh giấy vê viên vò nát bỏ vào túi, rồi tức quá uất lên, nằm vật xuống đất, bất tỉnh nhân sự! Thuyền của dân phu và thuyền chở Phủ Kỳ cũng vừa ra đến nơi. Dân phu trông thấy Bá Kim nằm sùi bọt mép, vội kêu lên:

– Cụ Bá ra sớm quá, bị cảm lạnh ngất đi kìa!

Phủ Kỳ vội chạy lên cho vực ngay bạn xuống thuyền, cũng không quên nhìn qua chỗ đất bới và lấy chân san vội lấp phẳng lại. Mọi người xúm lại gọi lay được Bá Kim tỉnh dậy. Phủ Kỳ đưa lão lên bờ, rồi sai người đem võng ra khiêng lão về nhà. Phủ Kỳ về theo, ngồi trên giường xoa bóp và an ủi. Bá Kim đã tỉnh hẳn, tức tối nói:

– Quân tệ thật! Phải dò cho ra kẻ thù thủ mưu mới được.

Nằm thừ một lúc, lão nói tiếp:

– Cũng là tại giời chưa chiều mình, quan bác ạ! Thôi bỏ mẹ nó đấy, không cần tu bổ gì cả.

Phủ Kỳ cố tươi cười dịu dàng, an ủi:

– Cũng còn may đấy. Nó mà bới ra đem đi kiện thì còn là ê mặt với bà con hàng phố. Hiện nay tiếng tăm vẫn chưa việc gì kia mà, phải xây cho nó xong đi chứ, giấy má đơn từ, quyên cúng còn sờ sờ đấy, bỏ bễ thế nào được!

Bá Kim ngẫm nghĩ mãi mới nói:

– Được! Nhờ bác trông nom hộ, cứ cho xây qua quít thôi, chẳng hoa lá gì cả, xây làm ba tầng mà thấp tẹt cũng được, chỉ bằng độ cái tháp Hòa Phong thôi, chẳng cho đứa nào có thể đứng ngồi ở đấy được. Còn thừa vôi gạch đem tất cả về cho tôi.

– Thế phải theo như cũ, hay kiểu gì đã chứ?

Suy nghĩ mãi, Bá Kim lại nói:

– Chẳng theo kiểu nào cả. Tầng trên là Thái cực, bác cứ làm hai cửa tròn cho tôi, mỗi tầng dưới làm mười cửa tò vò là mười phương chư Phật, ba tầng là tam thế đấy. Như thế là của chung của thiên hạ, chẳng thằng nào tọa hưởng vào đấy được nữa. Còn thừa vôi gạch đem cả về đây.

Phủ Kỳ cười, tán thêm:

– Ghê nhỉ! Không được ăn thả ra làm phúc! Mà lại còn được tiếng xây lại di tích, theo một kiểu đơn sơ thanh thấu, lại bao hàm ý vui chung với trăm họ! Giỏi thật! Thế không sửa chữa chùa Liên Trì à?

– Không? Hẵng xếp vôi gạch đấy, đợi xem sao đã, chưa đi đâu mà vội!

Ngồi ngẫm nghĩ một lúc lâu, Phủ Kỳ nói như kết luận:

– Bác Bá ạ, một điều rất quý báu nữa là, việc này nó còn bảo cho chúng ta phải thận trọng hơn nữa. Mọi cử động của ta dân chúng người ta đều biết cả, phải kín đáo lắm mới được và liệu vừa vừa chứ. Không thì có ngày tan xác!

Ngẫm nghĩ một lúc, sau cùng lão Phủ lại nói thêm:

– Này, tôi cho có lẽ có mưu mô của cánh văn hội đấy. Mình phải làm thế nào nắm vững lấy một vài anh nào trong số ấy. Tôi xem ra cái cậu gì con quan nghè Tự Tháp suýt soát tuổi cháu Xuyến đấy, hay là…

Bá Kim không để cho nói hết câu ngắt ngay:

– Ấy cũng định rắp ranh như thế. Vả ở ngoài người ta cứ nói ra nói vào cũng thấy xứng đôi. Tôi chỉ ghét cái thằng ấy nó ngổ ngáo, khó giá ngự, khó bắt nó theo như ý mình…

– Ngựa bất kham mới quý chứ. Khéo dắt là tự mình. Tôi bàn với bác Cử nên bắn tiếng gọi cho nó đi. Rồi ta tìm cách mà lung lạc nó chứ. Cháu Xuyến cũng tài hoa biết chữ, thằng kia, cậu ấy con quan Nghè, lại hay chữ, thế là xứng đôi lắm đấy chứ! Thua keo này ta bầy keo khác, cứ nắm được cậu con rể như thế ít ra ta cũng biết trong văn hội, bọn họ làm gì. Bác cứ tĩnh dưỡng cho nó khỏe lên. Rồi ta sẽ lại vui với mưu kế của chúng ta, chứ việc gì mà buồn…

Bá Kim nằm thiêm thiếp, nguôi nguôi trong bụng, mơ mơ màng màng nghĩ đến mưu kế đối phó lại và vừa hay khớp với ý anh bạn cố tri đang khuyên giải, lão bâng khuâng tưởng tượng ra một keo nữa, một keo thú vị mà nhất định, nhất định phải thắng lợi sau này.

Hết tập 1- 14.

Chú thích:

1.

Thi mùa thu tức là thi hương.

2.

Giữ mình và đối phó với việc đời.

3.

Chim phượng hoàng đến nhà.

4.

Đại Thành là miếu thờ Khổng Tử. Khải Thánh là miếu thờ cha mẹ Khổng Tử ở đằng sau miếu Đại Thành, miếu ấy mới bị phá thời tạm chiến.

5.

Sức như bay, khẩn cấp.

6.

Cái gì mà mình không muốn thì cũng đừng nên làm cho người khác phải chịu.

7.

Đem một nhóm thợ làm một công trình xây dựng gì.

8.

Ở đây nghĩa là hai cây đuốc lớn. Lệ đời xưa nhà Chu, khi đầu canh năm, vua sắp ra thị triều, thì ở trước điện đình, bày hai hàng đèn hoặc đuốc để soi đường cho bách quan vào triều.

9.

Đổi quyển, phòng viết hỏng, đóng quyển khác thay, đem lên lấy dấu son công nhận.

10.

Bọn tay chân tôi tớ.

11.

Bá Cựu Lâu tức là Bá Kim ở làng Cựu Lâu.

12.

Tác thành người, làm nên tiếng tốt cho người.

13.

Người quen cũ, lão quê Đào Trọng Kỳ

14.

Bị nạn hụt một lần thì e ngại, sợ hãi, hoảng hốt. (BT)

23/11/1966
Chu Thiên
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt 2 Tháng Chín, 2022 Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là co...