Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

Mình lại soi mình 2

Mình lại soi mình 2

CHƯƠNG TÁM
Nhận Diện

1. Nhà văn, họ thấy trước và thấy nhiều nên họ đau trước và đau nhiều niềm đau của thời đại. Bây giờ thì Phượng hiểu điều này thấm thía qua niềm đau của chính mình và của người thân.

Đã có một nhà thơ được Cộng sản thả về hôm trước, hôm sau chết. Chúng chỉ thả về để chết - điều này không ngoa.

Có tin một nhà văn khác tuyệt thực ở trại lao động cải tạo để phản đối. Tất cả những gì Cộng sản đã được hưởng dễ dàng tự nhiên để tranh đấu bên thế giới tự do đều biến thành những thứ tối kị dưới chính quyền của chúng. Hơn ai hết, chúng – chủ trương độc tài, ngu dân, bần cùng hóa – hiểu mối nguy chí tử của trí tuệ, của tự do và của tình người. Bởi vậy, nhà văn có tuyệt thực thì dưới ánh sáng văn hóa Hồ Chí Minh – tức văn hóa Cộng sản Việt Nam – từ ngữ đương thới đã được chấp nhận từ Bắc chí Nam – họ bắt tuyệt ẩm luôn. Nhịn ăn có thể kéo dài một tháng, thêm nhịn uống là có ngay được ngọn lửa địa ngục cào xé hãi hùng thiêu cháy cổ, thiêu cháy tim gan ruột phổi, thiêu cháy não bộ, sau cùng thiêu rụi thần kinh, thiêu rụi tâm trí. Nếu kẻ tranh đấu không đầu hàng trong tủi nhục – dù chỉ bề ngoài – thì chỉ cần một tuần là cùng, Cộng sản rũ bỏ được trách nhiệm trực tiếp xử tử người đối lập. Một nhà văn kiêm chính khách được trở về nhà, nhưng chưa kịp về tới nhà mắt còn mở nhưng tắt hơi ở dọc đường. Một nhà văn kiêm bác sĩ cao lớn như Tây, hiền như bụt, bị kiết lị được chở về nhà thương Chợ Rẫy, tới nơi đã hoàn toàn hôn mê không còn nhận ra vợ con nữa. Chết.

Nhưng không hiểu sao tất cả những bất hạnh đó không hề làm Phượng nao núng bi quan về số phận ông nhà văn. Không hiểu sao! Giác quan thứ sáu đặc biệt bén nhạy của Phượng đã vươn thành thiên địa chi tâm, thành tiên tri, tiên giác biết trước số phận vượt hiểm nguy của người mà mình hết lòng quý mến chăng? Trong khi đó, nhỏ bạn thiệt hay, luôn luôn thu lượm những tin tức về ông ta rất kịp thời. Rõ ràng nhỏ bạn thu lượm những tin tức chính xác đó cho Phượng, mà kỳ thay nó chẳng hề nói là thu lượm được ở đâu. Một lần Phượng hỏi, “Mi hay tin đó ở Công ty Hóa chất nơi mi làm chăng?” Nhỏ bạn chỉ cười không nói. Từ đấy mỗi khi thoáng có ý định hỏi thì Phượng lại thoáng tự trả lời, “Chà, cuộc đời nếu không có những kỳ dị siêu luận lý đó thì chán chết!”

2

Dì nhận được bức thư của chú Tuyến báo việc bốn cha con chú cháu – chú, hai con và Vĩ – đã được đưa tới Tây Đức định cư. Bức thư này cùng với bức thư viết riêng cho thím đến rất chóng, có bảy ngày, do một Việt kiều ở Tây Đức về thăm quê hương bỏ giúp ngay tại thùng thư Bưu điện Sài Gòn. Dì thở phào, các âu lo phủi đi hết, dì lại người lại sức thấy rõ từng ngày.

Bremen, ngày 17-11-1978

Chị và các cháu yêu quý,

Mới ngày nào rời quê hương từ vùng duyên hải Trà Vinh ra khơi, máy tàu hư, bão tố, đói khát, nghĩ chắc chắn ngàn phần không có lấy một phần sống, ai dè bĩ cực thái lai, em và các cháu được tàu Tây Đức vớt đưa lên trại tị nạn Tân Gia Ba chưa đầy hai tháng đã được chở tới thành phố nhỏ Bremen này định cư. Thoạt nhìn vào bản đồ em hơi thất vọng vì Bremen nằm sát trên miệt Bắc, mà em thì ao ước được ở những thành phố miền Nam như Stuttgart hay Mannheim để dễ bề qua chơi các nước Tây Âu như Pháp, Ý, Thụy Sĩ... Qua đi một tuần, em hoàn toàn yên tâm vì ở đây mạng lưới giao thông đường bộ, đường hàng không cực kỳ tiện lợi. Cuối tuần có người Việt mình định cư tại Đan Mạch sang Tây Đức chọn mua hàng gửi về cho bà con ở Sài Gòn. Cuộc sống Tây phương, như em nhận xét thấy có vội vã, vất vả, nhưng rõ ràng có làm thì có hưởng. Hiện nay em và ba cháu đang theo học khóa Đức ngữ. Trường cách nhà khoảng gần một cây số. Kể ra với tuổi em mà còn phải cắp sách đi học như con nít thì cũng buồn, nhưng sống trên đất nước người ta mà không biết tiếng người ta sao tiện! Mỗi khóa học 9 tháng, Bộ Xã hội phải đài thọ cho mỗi học viên là 5.000 đồng Mác, ngoài ra còn được lĩnh tiền trợ cấp hằng tháng. Như vậy là người ta thuê mình đi học rồi còn gì. Các cháu học rất tiến bộ, đặc biệt thằng Vĩ. Thằng này rõ ràng là có chí lắm. Nó cương quyết học đè đầu thiên hạ, rồi đi làm thêm để lấy tiền mua đồ gửi về cho má. Nó sẽ viết thư thuật kỹ mọi chuyện với chị sau. Em dự định rồi đây gặp dịp nghỉ, nếu chưa đi được đâu xa, em sẽ đưa các cháu đi những nơi gần như Hòa Lan, Đan Mạch, vùng biển Bắc Hải, vùng biển Baltic. Em thường nhắc đi nhắc lại với các cháu hãy lợi dụng tuổi trẻ, tận dụng dịp may được sống bên thế giới tự do, học hỏi nơi trường, học hỏi nơi đời, học hỏi nơi những chuyến đi để rồi mai đây còn về chứ, sống vĩnh biệt quê hương sao? Được cái em đã gặp mấy người tị nạn từ Đan Mạch, từ Hòa Lan qua thăm nơi đâu, ai cũng hướng về một ngày hồi hương trong tương lai. May gặp một Việt kiều ở Tây Đức từ trước 1975, anh ta cho biết sắp cùng một đám Việt kiều về thăm quê hương, em viết vội hai lá thư, một gửi tới chị, một gửi tới nhà em, nhờ người ta chuyển giúp cho chóng.

Chúc chị và toàn gia nhà mình mạnh khỏe, anh sớm về với chị.

Em Tuyến.

3

- Kìa chú Vĩnh lù lù tới kìa, chú từ Hà Nội vô bao giờ vậy?

Dì vui vẻ hỏi lớn khi vừa thấy chú Vĩnh vô. Lúc đó khoảng ba giờ chiều Chủ nhật.

- Em vô đây được hơn một tháng rồi. – Chú

Vĩnh đáp.

- Chú vô công tác?

- Không, em xin chuyển vô.

- Sao chú không tới ngay hôm vô?

- Em không làm ở Sài Gòn, ở Bà Rịa kia.

- Ở Bà Rịa có cơ xưởng nào lớn cho chú làm đâu?

- Em vô đây nghiên cứu địa hình, địa vật vùng ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu để phối hợp với kế hoạch viện trợ kỹ thuật của Liên Xô xem nơi nào sau này có thể xây dựng nhà máy lọc dầu.

Khôi cười:

- Làm ở đấy chú có điều kiện vượt biên dễ lắm đó.

Chú Vĩnh cũng cười:

- Ờ thì gặp dịp chú cũng vượt biên chứ sao!

- Thế công việc tới đâu rồi, chú? – Dì hỏi.

- Em đã đệ đơn xin hưu non. Có lẽ chỉ chừng một tháng nữa em hoàn toàn là một công dân bình thường như cả nhà đây.

- Mới chuyển vô chân ướt chân ráo đã xin hưu non?

- Kế hoạch của em thế mà!

Mãi tới lúc đó chú Vĩnh mới cho cả nhà hay là do việc lần trước công tác vô Nam chú tá túc ở nhà đây, lại giúp dì làm đơn, giúp dì gửi đơn khiếu nại tới nhiều cơ quan cao cấp một lúc, và điều nặng hơn cả, sau khi tới thăm người anh sĩ quan ngụy tại trại lao động Xuyên Mộc, chú đã làm đơn bảo lãnh xin cho anh được tha. Chú đã bị phê bình kiểm thảo là còn tư tưởng ôm chân tư sản phản động. Chú bị cất chức phó Giám đốc Cơ xưởng, chuyển về nghiên cứu, không còn một chút thực quyền, mất đi rất nhiều quyền lợi. Chú đã muốn tung hê xin về hưu non ngay lúc đó, nhưng một số bạn cùng là dân tập kết, cùng tâm trạng, bèn góp ý hãy nên trở về cố quận miền Nam, rồi hãy xin hưu. Muốn vậy phải tại chức, dùng ảnh hưởng tại chức xin chuyển vô Nam. Quả vậy, chú Vĩnh và mấy người bạn thiết đó đều đã xin chuyển công tác vô Nam, đều đã đệ đơn xin hưu non, và trong tương lai gần cũng sẽ kết hợp thành một tập thể những người… Cộng sản lý tưởng: làm chung, ăn chung, tu chung tại khoảng đất trồng trọt được, sát với khu Vạn Hạnh của các Phật tử, khoảng cây số 82 trên đường Bà Rịa–Vũng Tàu.

- Chú tu gì vậy? – Phượng hỏi.

- Tu thiền. Tạm dùng chữ tu thôi, thực ra chỉ là nếp sống không gò bó khắc khổ, cốt giản đơn và đạo hạnh.

Khôi còn bị ám ảnh bởi ý tưởng ban đầu, cười nói:

- Và có thể vượt biên tập thể nữa. Chú cũng cười và đáp lại:

- Có thể lắm chứ!

Câu chuyện tạm ngừng vì vừa lúc đó nhỏ bạn tới thăm Phượng bất ngờ, mang theo ba người bạn trai, một người xách Tây ban cầm. Nhỏ bạn lễ phép chào mọi người rồi nói với Phượng:

- Tụi này tới thăm cậu đằng nhà, chị Trang bảo hôm nay cậu ở đây.

Nhỏ bạn chưa kịp giới thiệu ba người bạn trai, Phượng đã hỏi như thể chính Phương đã biết cả ba người này:

- Lại mang theo cả đàn thế này, cho nghe vài bản nhạc đi.

- Thì cũng định vậy! – Nhỏ bạn đáp ngay. Cả nhà reo vui, có lẽ dì reo lớn hơn cả, vì hẳn dì đương ao ước có ai hát thay cho mình khi hay tin

Vĩ đã an cư tại Bremen, Tây Đức. Chị Trang cũng đã tới. Chị nói khẽ với Phượng là chị biết trước có cuộc ca hát này. Thế là buổi ca nhạc bắt đầu. Rất tự nhiên thân mật. Nhỏ bạn cũng đóng góp tiếng hát. Đó là những bản nhạc phổ thơ của một số nhà thơ còn trong tù hoặc đã được tự do. Có những bản đã gửi thoát ra ngoài được hát trên đài VOA và BBC.

Tiếng hát nỉ non, ai oán:

Tôi đã sống những ngày không tên, không tuổi

Sống những ngày không nói, không nghe Tôi đã sống những ngày tăm tối u mê Sống lạc loài như cơn gió khuya…

Tiếng hát quằn quại, u uất, nghẹn ngào:

Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi bằng sức người vô hạn

Bằng người đầu đội trăm tấn bom, tim mang ngàn tấn đạn…

Nhưng đất đã đỏ vì bị nung bằng những lời dối trá…

Lửa hờn căm, lửa hiểm thâm, lửa khốn cùng cay đắng

Người lừa nhau, trời đất còn bưng mặt thảm thương…

Tiếng hát thê thiết, se sắt, não nề:

Trời có điều chi buồn

Mà trời mưa mãi thế

Cỏ cây có điều chi buồn

Mà cỏ cây đẫm lệ

Anh nhớ em từng phút

Anh thương em từng giây

Chim nào không có cánh

Cánh nào không thèm bay...

Tiếng hát ngậm ngùi u uất:

Nằm đây nghe gió trời ru

Nghe thơ rên siết ngục tù trong tôi

Nghe như vật đổi sao dời

Sông dài cúi mặt, núi ngồi đăm chiêu.

Dì vừa nghe nhạc vừa làm cơm cho cả nhà. Tiếng nhạc, lời thơ gợi niềm tâm sự. Và câu chuyện tâm sự của chú Vĩnh khởi sự từ sau bữa ăn đông vui đến khoảng chín giờ khuya là lúc nhỏ bạn cùng ban nhạc cáo từ ra về. Khởi sự, giọng chú Vĩnh buồn thật buồn:

- Nghe giọng thơ trữ tình trong này tôi thương tuổi trẻ ngoài Bắc vô cùng. Để tôi đọc cho cả nhà nghe bài thơ thất tình của một chàng trai Hà Nội phải vào bộ đội đi đánh Cam-Bốt, Ai-Lao, khi trở về thì mất người yêu.

- Bài thơ đăng báo nào, chú? – Chị Trang hỏi.

- Cũng như ca dao và chuyện tiếu lâm, loại thơ trữ tình này cũng truyền khẩu cháu ạ. Bất kỳ tâm trạng gì, tâm sự nào điển hình của thời đại, đều được quần chúng đón nhận nồng nhiệt. Dĩ nhiên đã là văn chương truyền khẩu thì có sự đóng góp của nhiều người, không còn giữ đúng nguyên bản nữa. Để chú đọc:

EM BỎ TÔI RỒI

Bỏ tôi phải lắm hỡi em ơi

Lính quèn binh phục lại lôi thôi

Gia tài gói trọn ba-lô cóc Nó ở Tây về em sánh đôi Nó ở Tây về có máy khâu

Đứng đi, ăn diện hệt như Âu Chiều về Mokik vang đường phố Ai cũng nhìn theo bảo nó giàu

Hỡi ôi, lương lính bạc năm đồng Làm sao may được áo ni-lông Làm sao có được chiều âu yếm Trao tặng em yêu mấy đóa hồng.

Ngoại quốc thì tôi có lạ gì

Ai-Lao, Cam-Bốt đã từng đi

Khốn nỗi khi về thân lính kiết

Tiền suông khôn đậm nét phu thê

Nó chỉ hơn tôi cái chữ giàu

Nên em yêu nó có gì đâu

Tuổi dù chênh lệch bao nhiêu mặc

Duyên vẫn se duyên bởi nó giàu

Nhớ thuở xa xưa dưới mái trường Tuổi xanh đẹp dậy nét uyên ương Đẹp tình dan díu câu thề thốt

Đẹp mộng chung chăn đẹp gối giường

Nhưng rồi trời đất nổi tai ương

Xô đẩy chàng trai ruổi chiến trường

Em vào đại học, tôi ra trận

Hai đứa hai đường, phương mỗi phương

Chao ôi, đã khắc tên nhau đấy

Cây liễu bên cầu em nhớ không

Thân liễu còn thơ – Tình nát bấy

Đời tôi xám ngoét – Má em hồng.

Mọi người im lặng ôn lại trong trí thấp thoáng mấy câu thơ mình nhớ nhất. Chú đọc lại chậm rãi hơn và cũng ngao ngán hơn. Chú giải thích một vài chữ.

- Mokik là loại xe mô-tô cỡ bự của Tiệp Khắc sản xuất thì phải. Cho tới bây giờ lương lính hạng tuổi quân dịch vẫn là năm đồng một tháng. Các cháu thấy không, bài thơ cũng se sắt buồn thắt ruột, nhưng không còn những nét trữ tình cao nhã thuở tiền chiến hay của những người trong Nam. Hồn thơ của miền duy vật, nên lời than thở cũng bị ảnh hưởng duy vật vít thấp xuống vũng thực tế sát mặt đất. Thơ thất tình thấp thoáng có máy khâu, áo ni-lông, xe Mokik, lương năm đồng… Thiệt là tội nghiệp cho chàng trai và cho cả nàng thơ của chàng.

Khôi góp ý:

- Trước đây cháu cứ nghĩ ngoài Bắc ghét nhau “xả láng” chỉ có bộ đội và công an. Một đằng ra đi đem tính mạng đánh cuộc với chiến trường, một đằng ở nhà có khi chiếm hữu người vợ trẻ của kẻ ra đi; một đằng tới nơi nào thì sống khắc khổ gương mẫu để dân vận, rồi có thể bỏ thây nơi chiến trường giúp đồng đội chiếm đất; một đằng tới nơi là hống hách, ăn cắp, hủ hóa, tham nhũng. Đúng là kẻ ăn ốc người đổ vỏ. Chết nỗi chính quyền độc tài đảng trị thì công an là con cưng. Giờ thì cháu thấy có lẽ mâu thuẫn gay cấn nhất là mâu thuẫn giữa kẻ giàu và người nghèo trong cái nền văn hóa Hồ Chí Minh đốn mạt này: “Bác muôn vàn kính yêu cha đẻ ra Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh!”

- Cháu nói đúng! Mà đám giàu là đám các ông, các bà bự, đám con ông cháu cha, nghĩa là đám giai cấp mới được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, đủ ngoại tệ, đủ quyền thế để buôn lậu những hàng quý, những hàng quốc cấm.

Phượng hỏi về câu thơ:

Tuổi dù chênh lệch bao nhiêu mặc

Duyên vẫn se duyên bởi nó giàu

Chú lặng thinh, không phải để suy nghĩ mà để tất cả người nghe thấm thía hết nông nỗi cơ cầu của một nửa dân tộc bị trực tiếp phân hóa sa đọa trong hỏa ngục Cộng sản:

- Quả thực đây là hỏa ngục của quỷ đỏ, danh từ không còn thậm xưng, mà e vẫn chưa nói được hết sức độc hại nung chảy của nó – chú đáp lời Phượng thật dài dòng – khuôn mặt của nền văn hóa Hồ Chí Minh thể hiện thành nếp sống đại thể tại miền Bắc như thế này: đã sản xuất được một loại trẻ con cực kỳ hỗn láo và cũng cực kỳ tinh khôn. Nhìn đám người già, những cán bộ cao cấp về hưu, sáng sáng tập thể dục tập thể quanh hồ Thuyền Quang theo nhịp hô “một, hai, ba, bốn”, tụi trẻ con bèn hô lớn thành khẩu hiệu: “Tham sống, sợ chết!” Chúng hô công khai, sống sượng và chúng cười hô hố cực đắc ý vì đã nhổ trúng đích những bãi nước bọt tinh thần lên khuôn mặt cha ông chúng. Đó là sự thành công sâu xa của nền giáo dục Đoàn, Đội bao vây lấy trẻ thơ từ thuở chúng còn trong trắng tinh khôi, đào tạo những “cháu ngoan Bác Hồ”. Đoàn, Đội là nơi chúng ẩn náu để có được nếp sống tự do, thoát ly nền giáo dục lễ giáo nghiêm khắc của gia đình mà tuổi thơ dại dột nào cũng mong muốn né tránh. Thanh niên thì chán đời, bất mãn, chỉ muốn hưởng thụ; trường hợp không hội đủ điều kiện thuận tiện buôn lậu thì không ngần ngại mánh mung trộm cướp. Trai thì vậy, gái thì bằng vũ khí trời cho của mình, tiếng lóng là hạng “gái điếm nhảy dù”, trang điểm son phấn, rồi qua lại đợi người tới đón đi; chuột thì có hang, nghĩa là hạng gái điếm chuyên nghiệp có nơi chốn tiếp khách. Hạng trung niên có vợ con thì sẵn sàng ăn cắp dưới mọi hình thức, trong mọi hoàn cảnh, miễn là có tiền để nuôi vợ và hai, ba đứa con chưa chắc đã là của mình.

- Ủa sao kỳ vậy, chú?

Nhìn chị Trang trợn tròn mắt hỏi mà

Phượng muốn bật cười.

- Đó là trường hợp các bà trung niên cưng của Đảng, đanh đá, lăng loàn, vùng lên thực thi nam nữ bình quyền, cắm sừng chồng như chớp, rất hợp với ý đồ Đảng dùng đám đàn bà này để chế ngự đám trung niên bất mãn. Đám này, tuổi chồng, tuổi vợ thường ngang nhau hoặc kém chút đỉnh, không bao giờ vợ kém chồng tới bốn, năm tuổi. Nhưng với đám giàu cưỡi Mokik, may áo ni-lông tặng em, thì chênh lệch bảy, tám tuổi cũng không sao. Phải hiểu hoàn cảnh miền Bắc như vậy mới thấy thấm thía khi đọc hai câu thơ đầy ân oán giang hồ:

Tuổi dù chênh lệch bao nhiêu mặc

Duyên vẫn se duyên bởi nó giàu

- Ờ, chú đã nói đến nhi đồng, đến thanh niên và trung niên nam nữ, thế còn lão ông, lão bà ra sao chú nói nốt nghe thử.

- Vâng, nhưng chị nhớ là em nói đại thể thôi nhé! Thật ra còn những gia đình tốt, những người tốt, những thanh niên nam nữ hiếu thảo, những nhi đồng được hưởng giáo dục gia đình, chỉ phải tội hơi hiếm…

- Thì có thế mới thành đặc thù của nền văn hóa Hồ Chí Minh chứ. - Một trong ba nhạc sĩ bạn nói.

- Trong đám người già, có nhiều đôi mắt cú vọ chuyên xoi mói, bới móc kẻ khác. Không ưa người hàng xóm hơn mình. Các cháu nghĩ lại coi suốt thời thanh niên tam thập, suốt thời trung niên tứ thập của các cụ là chiến tranh, Bác và Đảng lãnh đạo, suốt thời tri thiên mệnh ngũ thập, lục thập, các cụ nhìn đám con cháu ra đi phục vụ chiến tranh với khẩu hiệu tàn độc làm sao dưới ánh sáng trí tuệ của Bác-Đảng: “Sinh Bắc, Tử Nam!” Đã vậy lại thường xuyên sống trong đói khổ, túng thiếu được che đậy bằng những khẩu hiệu gian dối. Sau “Chiến thắng mùa Xuân”, các cụ chứng kiến chiến tranh tiếp tục chuyển sang Lào, sang Cam-Bốt, nay thêm xô xát với Trung Quốc, làm sao mà tuổi già không dễ trở thành ích kỷ, tàn nhẫn cho được?! – Chú hướng về dì – Chị ạ, em thật chua xót mà phải nói ra như vậy. Tội nghiệp biết chừng nào!

Sau một phút im lặng nặng nề, chú tinh ý chuyển hướng câu chuyện:

- Ở ngoài Bắc, hễ ai ăn cắp nhiều của Nhà nước là nổi danh… “hiệp sĩ”. Có đấng anh hùng mang danh “Độc Hành Đại Đạo”, hiệp sĩ này chơi Nhà nước nhiều vố đau lắm! Kho nào hiệp sĩ cũng vô được, chuyển ra hàng tấn bột ngọt, đường sữa. Hiệp sĩ được tuyển vào đội bảo vệ các yếu nhân chính trị và bị ném lựu đạn chết tại Lào. Một hiệp sĩ khác mang danh hiệu “Thượng tướng Z”. Thượng tướng Z cũng lấy của Nhà nước xuất quỷ nhập thần y như Độ Hành Đại Đạo, và mọi thành tích của Thượng tướng đều được nhân dân tiếp đón nồng hậu và phổ biến sâu rộng tức khắc. Thành tích gây hào hứng nhất trong nhân dân của Thượng tướng là một lần kia Thượng tướng bị nhốt ở nhà giam vì một tội nào đó, chứ nhất quyết không thể là tội bị bắt quả tang ăn cắp. Bị nhốt trong nhà giam một ngày, sớm ngày thứ hai Thượng tướng nói với cán bộ quản chế: “Xin anh cho em ra phố mua ổ bánh mì và về nhà lấy thêm chăn màn, đêm qua ngủ muỗi quá và hơi lạnh.” Cán bộ quản chế quắc mắt: “Anh giỡn với tôi hả?” Rồi đóng sầm cửa, khóa trái lại. Thượng tướng nói: “Em chỉ xin vắng nhà giam có một tiếng đồng hồ thôi, nếu anh không cho thì em ra lấy vậy.” Một tiếng đồng hồ sau, chừng e ngại, cán bộ quản chế trở lại nhà giam, nhìn vào trong không thấy bóng Thượng tướng đâu, mở cửa ngó vào, quả nhiên Thượng tướng đã biến dạng. Cán bộ quản chế hốt hoảng chạy về văn phòng báo động với đồng đội. Buổi trưa Thượng tướng trở lại ôm theo chăn màn cùng ổ bánh mì. Sau khi đã khóa kỹ bên ngoài rồi – thực ra lúc đó cán bộ quản chế cũng không còn tin tưởng gì ổ khóa nữa – mới nghiêm sắc mặt hỏi:

- Anh làm thế nào mà ra khỏi nhà giam, hả? Thượng tướng đã bắt đầu gặm bánh mì, vừa nhai e dè, vừa ỏn ẻn đáp:

- Thưa chính anh thả em đấy chứ. Em vít tay trên cái đinh lớn này, đu mình lên ngồi khuất sau cái cột trên cửa này, anh mở khóa cửa ngó vào chỉ nhìn quanh thôi, làm sao thấy em! Anh chạy vội lên văn phòng, bỏ ngỏ cửa, thế là em lẻn ra, “dọt”!

Mọi người cười ồ. Chú tiếp:

- Đường công danh của Thượng tướng coi bộ khá hơn Độc Hành Đại Đạo. Thượng tướng được nước bạn Đông Đức tuyển mộ đi học lớp đào tạo đặc công gián điệp. Tuy Hà Nội, Hải Phòng có những băng du đãng trấn lột (cướp của), hầu hết là con các ông lớn; những nhà săn lưu động trá hình bán cà-phê, thuốc lá nhưng có đủ ciné con heo và gái điếm; nhưng mặt khác dân miền Bắc cũng rất say mê thưởng thức văn nghệ miền Nam mà bề ngoài những kẻ thưởng ngoạn vẫn phải lớn tiếng dè bỉu là văn hóa đồi trụy. Họ say mê nhạc vàng, say mê truyện của các nhà văn phản động. Đặc biệt có một giới trung niên chuyên đọc những truyện trinh thám, những truyện chưởng rồi hằng ngày tới nhà nào đó uống trà, ăn kẹo bánh và thủng thỉnh kể cho đám người chờ đợi nghe, đến quãng gay cấn nhất thì ngừng… Hôm sau lại tới uống trà ăn bánh, kể tiếp.

- Một thứ feuilleton bằng miệng – Khôi nhận định thay chú.

Tựa như chú Vĩnh muốn kết thúc cuộc nhận diện nền văn hóa Hồ Chí Minh ở đấy. Nhỏ bạn và ban nhạc xin phép ra về khoảng chín giờ. Đám chị em, chú cháu còn lại tiếp tục tâm sự. Dì lấy nước sôi pha cà-phê, mùi thơm phức. Bình đường trắng tinh đặt ở giữa bàn.

4

Vợ Khôi nói:

- Cháu thấy chú có những nhận xét thật tinh tế. Nhiều người cũng tập kết về, cũng thất vọng về chủ nghĩa Cộng sản như chú, nhưng không có được những nhận xét điển hình, sâu sắc như chú.

Chú cười. Khôi hỏi:

- Chú thực sự để tâm quan sát từ lúc nào?

- Nhiều yếu tố thúc đẩy – chú đáp – nhưng chú thực sự quan sát và suy ngẫm từ sau sự kiện khôi hài: Chú chủ tâm xông vào chỗ chết cho chết quách, mà không chết, lại còn được tiếng là dũng cảm và được cử đi tu nghiệp nước ngoài.

Chị Trang cười:

- Thì rõ ràng chú cảm tử, phải không chú?

- Thời gian tu nghiệp ở nước ngoài thanh bình, chú trở lại yêu sự sống! Vì yêu sự sống, chú mới suy ngẫm về sự sống tại miền Bắc Việt Nam, nơi chú đã sống những năm khủng hoảng, gay cấn, hiểm nguy nhất. Rồi sau đó chú gần gũi, tâm sự, trao đổi nhận xét và kết bạn với những bạn đồng hương tập kết khác. Sự suy ngẫm có thêm dữ kiện đi vào chiều sâu.

Khôi hỏi câu quyết định:

- Thưa chú, tuổi Đảng chú bao nhiêu? Phượng thấy ánh mắt chú như có sáng lên khi cất tiếng đáp:

- Hú vía, chú chưa hề là đảng viên!

- Vậy mà chú được đi tu nghiệp Liên Xô và

Hung, trường hợp hẳn phải hạn hữu lắm.

- Đúng! Hãn hữu lắm đó cháu. Chú được chọn đi tu nghiệp sau những hành vi cực kỳ coi khinh cái chết. Bất kỳ công tác nào đi dây với tử thần là có chú xung phong. Có lẽ họ coi chú như đảng viên rồi, chỉ còn bất kỳ gặp dịp nào thuận tiện làm lễ kết nạp nữa là xong. Và họ để chú đi. Và sai một li đi một dặm! Ngót hai năm trời ở Liên Xô và ở Hung tu nghiệp về ngành luyện kim, chú chợt chuyển hướng yêu sự sống. Mà đã yêu sự sống nghĩa là yêu tự do thì không thể nằm trong thứ quan tài đúc bằng đá một phiến là chủ nghĩa Cộng sản nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

Vẫn lời Khôi đóng góp thêm ánh sáng cho câu chuyện:

- Cháu biết một khi đã vào Đảng Cộng sản là ngoắc ngón tay giao kết với quỷ, khó lòng giải kết được lắm. Hồn mình bị cấy sinh tử phù, có chạy đằng trời cũng không thoát được chúng. Đảng viên về hưu vẫn sinh hoạt chi bộ và tham gia công tác xã hội nơi mình ở. “Tổ chức, tổ chức và tổ chức!” Bởi vậy Đảng Cộng sản là cả một kiến trúc tổ chức cực kỳ tinh vi, cái nọ mắc míu vào cái kia thành một hệ thống chằng chịt ma quái tưởng có thể nói: tượng đá thành đồng rồi có ngày sụp đổ, nhưng tổ chức Cộng sản thì không!

Dì nguýt vào khoảng không:

- Đúng là người phải chống với quỷ! Chị Trang nhỏ nhẹ:

- Và người là tác phẩm, là đại diện của Thượng Đế; quỷ chống với người là Ác chống với Thiện, bóng tối muốn bóp nghẹt ánh sáng! Và chú ạ, cháu bao giờ cũng tin rằng quỷ làm sao mà thắng Thượng Đế, bóng tối làm sao mà thắng ánh sáng?!

- Thực ra chú đương cố vươn lên cả Thiện lẫn Ác; ban chiều chú có nói chú tu là vậy. Nhưng thu hẹp lý luận vào thời điểm này, thì chú cũng đồng ý với cháu thôi.

Và chú cười, nụ cười rồi tiếng cười thật hiền, thật thanh thoát cùng với mùi cà-phê thật ấm bốc lên từng tách nghi ngút mà dì, Phượng và vợ Khôi mang đến cho từng người. Bầu không khí tâm sự đêm khuya bỗng có một bộ mặt của niềm vui thơm ấm vĩnh cửu.

Phượng nghĩ đến ông nhà văn và hỏi chú:

- Thế chú nhất định không lấy vợ?

- Đấy cũng lại là một vấn đề tránh né. Từ ngày tu nghiệp ở ngoại quốc về, chú thường xuyên ở hoàn cảnh bị bao vây để kéo vào Đảng cho yên chuyện. Cả việc đề cử chú giữ chức phó Giám đốc Cơ xưởng luyện kim đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội cũng là một ban ân dụ dỗ. Một lần Đảng muốn làm mai cho chú một nữ đảng viên. Ôi chao, chú lạ gì chiến thuật đặt mình, đặt ăng-ten trong nhà của tụi chúng!

Phượng hỏi:

- Chú từ chối thế có sợ mất lòng Đảng?

- Chú từ chối nhã nhặn, cháu. Cũng như mọi trường hợp đề cập việc nhập Đảng, chú lảng chuyện rất tế nhị, đồng thời đi vài đường ngang bướng tại cơ quan để các đồng chí thấy chú còn cá nhân, chưa đủ tiêu chuẩn trung thành tuyệt đối với Đảng, chưa đủ tiêu chuẩn biết đặt quyền lợi tập thể trên quyền lợi cá nhân, quyền lợi đại bộ phận trên quyền lợi cục bộ, v.v… - chú quay sang nói với dì – nhưng sau chuyện em vào đây công tác, ở đây với chị, giúp chị làm và nộp giấy tờ khiếu nại tới các cơ quan cao cấp, làm giấy bảo lãnh xin cho anh được trả tự do, thì Đảng hoàn toàn dứt khoát với em, tước quyền làm phó Giám đốc, thu hồi mọi quyền lợi, cử về Viện nghiên cứu hữu danh vô thực. Em cũng đã kịp thời gỡ rối bằng cách xin chuyển công tác vô đây, và nay thì sắp được về hưu non rồi.

Dì hỏi:

- Chú nói còn có mấy bạn tập kết cũng xin chuyển được công tác vô đây phải không?

Chú làm một ngụm cà-phê thật đậm rồi đáp:

- Đúng, toàn những bạn đồng chí, đồng tâm, đồng tình cả, vui lắm chị ạ. Để em giới thiệu chị cùng các cháu một khuôn mặt điển hình. Ảnh cũng cỡ tuổi em, là cán bộ phòng chuyên môn Bộ Xây dựng.

- Nghĩa là bất kỳ nơi nào có sự kiện xây cất là có thể có sự hiện diện của vị này để góp ý kiến? – Khôi hỏi chú sau một ngụm cà-phê.

- Đúng, nhưng cháu nhớ là chỉ về chuyên môn thôi, còn đường lối chính sách chỉ đạo là quyền của cán bộ Phòng đối ngoại. Kể từ sau 1972, quân lực Mỹ rút khỏi chiến tranh Việt Nam, chỉ còn để lại cố vấn và viện trợ, thì Thụy Điển cũng tính chuyện viện trợ nhân đạo cho miền Bắc Việt Nam một Bệnh viện đa khoa tối tân 500 giường. Địa điểm chính phủ chọn là ở Bạch Mai gần phía sông Hồng. Các nhà kiến trúc cùng giới kỹ sư chuyên môn Thụy Điển nghiên cứu địa hình và các yếu tố nhân văn quanh vùng để thiết lập bản quy hoạch. Khoảng

1974, bản quy hoạch của các chuyên gia Thụy Điển vừa xong thì vị phó Thủ tướng kiêm lãnh đạo Bô Xây dựng, Ủy viên Bộ Chính trị, trình độ học vấn vừa xong tiểu học, chợt nhận thấy địa điểm chọn tuy đã có ý xa đường giao thông chính – đường số 1 – để nhĩ mục quan chiêm không trầm trồ khen ngợi công trình của một nước bên thế giới tư bản, nhưng quanh đó lại tập trung quá nhiều nhà máy như nhà máy dệt, nhà máy làm bánh kẹo. Như vậy bệnh viện

Thụy Điển tối tân có thể “gây ảnh hưởng xấu” khiến tư tưởng công nhân – thành phần nòng cốt của Đảng – hướng lòng thán phục về phe tư bản. “Ngài” bèn đề nghị đổi địa điểm!

- Như vậy các chuyên gia Thụy Điển lại phải thiết lập bản quy hoạch mới. – Chị Trang nói.

- Còn gì nữa! – Chú đáp. Đảng không hề nghĩ rằng, khi đổi địa điểm là các chuyên gia mọi ngành của Thụy Điển phải nghiên cứu lại hết thảy: nào chất đất, nào địa hình, địa vật, nào mật độ dân chúng quanh vùng, v.v... Chưa hết đâu các cháu, địa điểm lại rập rình đổi nữa. Thụy Điển đành bảo: “Khi nào quý vị thật sự nhất quyết rồi, thì chúng tôi mới làm bản quy hoạch.” “Quý vị” ấy cứ mỗi người một ý, qua đi ba năm chưa quyết định nổi địa điểm, Thụy Điển cho hay kinh phí viện trợ xây bệnh viện phải trả về. Những người như chú cháu mình thì tiếc, nhưng lũ Bô Chính trị chúng cần gì mà tiếc.

Càng về khuya giọng chú càng trầm xuống, chú kể tiếp về những gì người bạn tập kết là cán bộ chuyên môn Bộ Xây dựng đã chứng kiến. Đông Đức viện trợ xây dựng thị xã Vinh, coi như là thủ đô của Thanh-Nghệ-Tĩnh. Thị xã Vinh nếu như hoàn tất sẽ lớn vô cùng, gồm cả cảng Bến Thủy, gồm cả vùng bên kia bờ sông Lam tới làng Tiên Điền của cụ Nguyễn Du. Con sông Lam ở giữa, thành phố Vinh ở hai bên bờ, nào khác gì Budapest ở hai bên bờ sông Danube. Làng Tiên Điền của vị Đệ nhất Thi sĩ Việt Nam sẽ là khu Bảo tàng Văn hóa. Cả vùng núi Phượng Hoàng Trung Đô, nơi Nguyễn Huệ xưa định xây dựng kinh đô – trong khi Nguyễn Nhạc còn ở Quy Nhơn – sẽ là khu Bảo tàng Lịch sử. Đây là một quy hoạch lâu dài của Đông Đức. Vừa thực hiện xây dựng, Đông Đức vừa đào tạo công nhân và chuyên gia cho Việt Nam. Nhưng các “đấng” lãnh đạo vẫn nay xin sửa đổi điều này, mai xin sửa đổi điều khác, các vật liệu cung cấp và vận chuyển không đồng bộ, có cái này thì thiếu cái kia. Đầu óc hoạch định toàn bộ của Đông Đức đụng đầu phải cái ngu dốt không thể nhìn xa hơn cục bộ của cấp lãnh đạo Việt Nam, họ đành khoanh tay bất lực. Cho đến bây giờ, mấy năm qua rồi, mà cũng chỉ mới xây dựng được một bệnh viện, một khu chung cư, vài nhà máy nhỏ phục vụ cho chính công trình xây dựng nơi công trường này. Thế thôi! Người bạn cán bộ xây dựng của chú còn tới công trường Đồng Hới, Quảng Bình do Cuba viện trợ xây dựng. Thị xã Đồng Hới sẽ rất lớn gồm một hải cảng lớn, một nhà ga lớn, nhưng cũng gặp tình trạng bế tắc như thị xã Vinh mà thôi. Người bạn chú còn tới công trường kiến thiết Thái Bình do Bulgaria viện trợ. Cũng vậy!

Giọng Khôi đầy công phẫn:

- Phải công nhận chúng... ngu cương quyết và triệt để. Chúng thắng miền Nam phần lớn cũng nhờ “ưu điểm” đó.

Giọng chị Trang chừng mực hơn:

- Quả thực, cái gì cương quyết và triệt để cũng có thời thắng, đại thắng là đằng khác, nhưng chỉ là cái thắng dơ dáy nhất thời để rồi sụp đổ vĩnh viễn. Cháu có chủ quan không chú?

- Định luật muôn đời của tạo hóa là biến dịch và tiến hóa cháu ạ. Trở lại chuyện người bạn chú, chính ảnh nêu nhận xét là sở dĩ mọi viện trợ kiến thiết của nước ngoài đều gặp những chậm trễ, khó khăn vô lý như vậy vì bên ta đa nghi.

Phượng trợn tròn mắt:

- Ủa, người ta mang tiền của, nhân lực, vật lực đến xây dựng cho mình thì đa nghi cái gì?

- Các đấng đó là tổ sư của Tào Tháo, các cháu ạ. Các đấng đó sợ họ xây dựng cho mình thì họ biết tất cả.

Dì cười lớn:

- Nếu vậy thì khi xây dựng xin... bịt mắt họ lại.

Chú cũng cười và nói với dì:

- Nhưng người bạn em thật sự thất vọng là sau khi chứng kiến quá trình xây dựng khách sạn Thắng Lợi của Cuba. Khách sạn thiết kế xây bảy từng cực kỳ hiện đại. Công trình xây cất hết sức nhanh cho kịp Đại hội 4 của Đảng. Cuba đích thân cử tới những đội công nhân làm bê-tông, những đội công nhân thợ hồ, thợ xây. Họ huỳnh huỵch khuân vác rất khỏe, làm rất nhanh. Họ thương vô cùng sự gày gò yếu đuối của người công nhân Việt Nam. Một lần họ nói: “Chúng tôi thực không sao tưởng tượng nổi các bạn ăn uống kham khổ đến như vậy!” Đã có những đề nghị xin cải thiện lên phủ Thủ tướng, vì đây còn là vấn đề quốc sỉ nữa. Nhưng bất lực!

- Cấp lãnh đạo, chúng hoàn toàn ngu tối, hoàn toàn mất tình thương, mất liêm sỉ đến mức đó sao, chú? - Hiếm khi Phượng thấy giọng chị Trang gay gắt như vậy.

- Cái đó chỉ có trời biết thôi cháu ạ. - Giọng chú vẫn bình tĩnh như bao giờ - Nhưng các cháu có biết không, khách sạn bảy tầng mới xây được hai tầng thì sự ngu dốt cương quyết và triệt để lại như con yêu tinh sực thức giấc, xin ngừng xây cất ở khoảng đó, lấy cớ để còn kịp trang trí đón Đại hội Đảng. Các chuyên viên Cuba phải họp cấp tốc để quyết định nếu ngừng xây cất ở tầng thứ hai thì mọi hoạch định phải thu xếp ra sao cho tạm ổn, đợi ngày tiếp tục công trình. Dầu sao thì Đại hội Đảng kỳ Bốn cũng đã được tiếp đón với đầy đủ tiện nghi của một khác sạn hiện đại hóa đến mức tối đa. Một phần nhô ra trên mặt hồ, cọc bê-tông đỡ, có bâc thang xoáy trôn ốc đưa xuống nơi cột những canot, yacht, périssoire. Có thể nói ba mặt khách sạn nhìn ra Hồ Tây như một bể bơi thiên nhiên. Chắc chắn kiến trúc sư Cuba đã nghiên cứu kỹ bối cảnh để khi tòa kiến trúc bảy tầng đó hoàn thành sẽ ăn ý với những hàng cây Cổ Ngư, với nét đê Yên Phụ, với dáng núi Ba Vì xa ra sao. Tòa kiến trúc chưa cao được một nửa, nếu như chú là kiến trúc sư chú có cảm tưởng mình bị chém ngang lưng. Các cháu có biết không, tất cả những đồ thiết bị: sắt, thép, pha lê, đồ điện… Cuba đều mua của Nhật, nghĩa là đổi bằng tôm, cá, đường... – những thổ sản của Cuba.

Phượng hỏi:

- Chú có biết vì sao họ đổi ý ngừng lại ở tầng thứ hai?

- Vì nếu khách sạn xây đủ bảy tầng thì cao hơn… lăng Bác.

Cả nhà lại cười ồ, nhưng sau đó giọng Khôi bình tĩnh hơn bao giờ hết:

- Chính tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn người ta cũng cấm làm nhà trên 12 tầng để khỏi cao hơn đài kỷ niệm Washington. Nhưng ở thế giới văn minh, thông minh, trọng tự do nhân phẩm thì không sao; tụi này thì làm cái gì mình cũng thấy ngu và tởm. Nhiều khi cháu tự nhủ không khéo mình cũng cuồng tín như chúng nó, nhưng rồi suy nghĩ cho kỹ thì thái độ của mình chỉ là phản ứng, không hề là chủ động. Thưa chú đến nỗi bây giờ cháu dám nghĩ rằng, nếu như Einstein mà sống lại, đội nón cối lên đầu, lập tức Einstein cũng... ngu liền như chúng.

Chú cười hiền thật hiền:

- Thôi mười hai giờ khuya rồi. Đi ngủ!

Chị Trang vừa giúp dì thu những tách cà- phê lại vừa hỏi:

- Thế còn những bạn đồng tình khác với chú?

- Các cháu chỉ cần nghe một trường hợp điển hình là đủ, quá đủ. Các cháu còn trẻ, chưa đủ kiên nhẫn, chưa đủ lòng nhân, nên chi phản ứng nhiều với cái xấu, các cháu có thể bị xấu lây.

5

Bữa cơm bảy giờ chiều, em nhỏ mang lại cho

Phượng y như chiều qua. Tự nhiên Phượng thấy cuộc đời nhàm chán, kể cả khi Phượng tự nhắc nhủ chỉ tối mai đây Phượng đã lên ghe rời xa quê hương thân yêu với biết bao yêu dấu, có thể là rời xa vĩnh viễn. Chú Vĩnh nói đúng, Phượng còn trẻ chưa đủ kiên nhẫn và lòng nhân để phản ứng vô hại với cái xấu. Trước khi đi ngủ chú Vĩnh đã kể cho nghe nốt đoạn cuối thiên thời sự xây cất. Bỏ máy điện riêng của khách sạn, câu điện đường phố vô.

“Sáng tạo nhuần nhuyễn” này tiết kiệm cho Nhà nước toán thợ điện thường trực tại khách sạn. Nhưng điện thành phố làm sao cung phụng nổi cả dàn đèn, cả dàn máy tự động, cả dàn máy điều hòa không khí. Do đó phải mở hoặc gỡ những tấm kính pha lê trong suốt cho không khí vô phòng. Ruồi muỗi, sâu bọ theo vô. Do đó phải đóng đinh hay đóng cọc để buông mùng. Qua đi ngần ấy thay đổi dây chuyền rất… “lô-gích”, tòa kiến trúc Cuba dung hòa đường nét cổ kính thời xưa với những trang sức và tiện nghi cực kỳ hiện đại, chỉ được xây cất nửa vời cho thấp hơn lăng Bắc, sau cùng hoàn toàn mang khuôn mặt luộm thuộm, lạc hậu, ngu dốt – cũng là khuôn mặt trung thành và điển hình của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam – cho cả thế giới quan chiêm.

Ôn lại cái xấu nhàm chán của thực tại, Phượng thấy nhàm chán lây cả cuộc đời. Phải cầu cứu ông nhà văn, dù rằng giờ đây ông ta đương ở trong nhà tù Cộng sản. Bầu không khí của ông vẫn phản ánh những xấu xa, khúc khuỷu, gồ ghề, đồng thời vẫn giúp ta sinh lực chống đỡ và lòng yêu đời soi sáng đường đi. Thiện với Ác, lý tưởng với thực tại, hận thù với thương yêu kết hợp thành cái phong phú, thành khát vọng lung linh như lửa bốc lên trời, như nước trôi ra biển. Phượng nhớ cách buổi tối ca hát chừng hai hôm, nhỏ bạn tới chơi riêng với Phượng tại nhà ba má. Nhỏ bạn cho Phượng biết sau thời gian bị nhốt ở Long Giao, Long Khánh, ông nhà văn bị chuyển ra Bắc, thoạt tới Yên Bái, rồi lên Lào Cai cách biên giới Việt–Hoa chừng sáu cây số và mới chuyển về Vĩnh Phú hơn một tháng vì rất có thể Trung Cộng sẽ xua quân tràn qua biên giới. Lần đó, Phượng chợt hỏi: “Làm sao mi biết rõ những chi tiết tin tức như vậy?” Và mãi tới hôm đó nhỏ bạn mới chịu tiết lộ là: Người tình – và chắc chắn cũng là người bạn đời sau này – của nhỏ bạn là Huân, một trong ba người tới ca hát tai nhà dì hai hôm trước; Huân đương học năm cuối cao học về dương cầm, đồng thời cũng dạy những lớp dưới cho Âm nhạc Viện Quốc gia. Huân là em họ ông nhà văn.

Vừa sang đầu năm 1979, anh Trung được trả tự do. Anh Trung vẫn có tài kể chuyện. Chuyện của anh chẳng bao giờ sẫm màu bi quan, luôn luôn đượm chút tếu. Anh không theo dõi nhiều các tác phẩm văn chương của miền Nam xưa, nhưng tựa hồ như anh rất gần gũi tư tưởng ông nhà văn. Anh thuộc số những bác sĩ được trả tự do muộn nhất. Nhiều bạn đồng nghiệp của anh được thả từ năm trước. Dĩ nhiên má khóc khi thấy anh “lù lù” hiện về. Ba bắt tay anh và vỗ vai anh như đôi bạn thân vậy.

CHƯƠNG CHÍN
Hơi Mát

1

Anh Trung đi trình diện tháng 6-1975 rồi bị đưa tới Long Giao, Long Khánh, ở đó 5 tháng; chuyển tới Suối Máu, Biên Hòa, ở đây

6 tháng; anh bị chuyển một lần nữa, lần cuối cùng tới trại Xuân Phước, Tuy Hòa, ở đây cho tới ngày được thả về. Hay tin anh về hôm trước, hôm sau bằng hữu tới đông một lúc. Anh tính sổ ngay với bè bạn, kể từ ngày đi trình diện đến ngày được thả về: vừa ba năm, sáu tháng, một ngày. Câu chuyện khai vị của anh kể về đám người trên tàu Việt Nam

Thương Tín anh gặp hồi sống ở Xuân Phước.

Chỉ sau ngày 30 tháng Tư vài ba tuần, nhìn lính Việt cộng chiếm đóng canh gác Sài Gòn, nhìn đám “Cách mạng 30 tháng Tư” đón gió trở cờ hoạt động lăng xăng, nhìn lũ cán bộ nằm vùng xuất hiện, ráo riết tổ chức cơ sở quần chúng và huấn luyện chi đồng ca hát nhảy múa trên các đường phố, đường hẻm; người dân Sài Gòn đã thực sự ngao ngán thiên đường Cộng sản. Nghe tiếng phi cơ âm vang, người dân ngẩng nhìn bầu trời cao rộng, tiếc nuối tự do thuở nào cách đó không lâu mà dường như đã lùi vào dĩ vãng sâu thẳm. Trong khi Phượng rụng rời vì hay tin ông nhà văn còn ở lại Sài Gòn thì toàn thể Sài Gòn sững sờ khi hay tin đám người trên tàu Việt Nam Thương Tín từ vùng trời biển tự do bên ngoài hăm hở chui vào vùng lưới bủa vây sẫm màu khổ nạn. Trên tàu này hầu hết là sĩ quan Hải quân, cảnh sát và một số dân đã di tản trước ngày 30 tháng Tư. Được tập trung tại một địa điểm trên đất Mỹ, họ tuyệt thực phản đối thức ăn Mỹ phát, bảo là thức ăn cho chó. Họ phân phát báo chí phổ biến dư luận chống Mỹ trên khắp năm Châu, bốn biển. Đề cao tinh thần hòa hợp dân tộc tại nước nhà, họ phao tin là đã có tướng này tướng nọ hồi hương. Khí thế ngút trời, họ cương quyết khước từ mọi dụ dỗ ở lại đất Mỹ. Sau cùng người Mỹ đành huấn luyện thủy thủ đoàn điều khiển tàu vượt Thái Bình Dương, cung cấp đầy đủ áo quần, riêng về lương thực thì dư cho cả đi lẫn về nếu như gặp trục trặc không lên được đất liền.

Tàu Việt Nam Thương Tín đã vượt Thái Bình Dương an toàn. Khi cập bến Nha Trang, toàn thể những người trên tàu đã cử người chuẩn bị đọc diễn văn trước đại diện chính phủ. Báo chí đăng tin rầm rộ, nhiệt liệt hoan nghênh những người dân yêu nước đã sáng suốt tranh đấu quyết liệt để được hồi hương, một số thủy thủ đoàn được khen thưởng vì có công đem về cho tổ quốc một chiếc tàu của “ngụy quyền” cũ. Sự thực, khi tàu vừa cập bến Nha Trang, tất cả bị khám xét từ mái tóc đến gấu quần, khám xét không phải từng bao thuốc lá mà từng điếu thuốc lá, tịch thu hết đô la, vàng bạc, kim cương, đồng hồ, bút máy, các đồ trang sức… Nếu không được vinh dự như đoàn quân của De Gaulle trở về chiếm lại quê hương thì ít ra họ cũng là những người trở về làm sáng ngời tinh thần “hòa hợp dân tộc” của “cách mạng”. Nghĩ vậy nên mọi người đã thực tình phẫn nộ phản đối. Vô ích! Họ kinh hoàng tỉnh mộng: họ đã trót dại rời khỏi thế giới người để vào thế giới của cán bộ Cộng sản thuần thành, Đảng trên hết với những giá trị đạo đức hoàn toàn khác hẳn. Lời họ phản ứng thô lỗ hẳn, cử chỉ họ phản ứng khinh mạn hẳn. Vô ích! Cá đã vô lưới rồi! Chính sách Cộng sản chỉ có vậy. Cá đã vô lưới rồi thì cứ việc mà quẫy. Mệt ắt nghỉ thôi!

Tịch thu hết đô la, vàng bạc, kim cương, đồng hồ, bút máy, các đồ trang sức rồi, tới tin sét đánh: “Tất cả đều bị giam giữ!” Ngay đến cả loại ác mộng cay đắng nhất cũng không thể vượt mức trớ trêu như thế. Điều quái đản nhất là báo chí Hà Nội cũng như Sài Gòn của chính phủ - có tờ báo nào, dù là báo lá cải, là của tư nhân đâu - vẫn nhất tề ca ngợi, đề cao họ là những phần tử “ngoan cường” chống sự dụ dỗ của “đế quốc” đến cùng, lột mặt nạ “hiếu chiến, giả nhân giả nghĩa, cưỡng ép di tản của đế quốc” đến cùng.

Tất cả bọn họ đều bị giam giữ dưới danh hiệu: “Những kẻ đã trốn theo quân thù trở về nước trái phép.”

Bây giờ thì họ nhớ lại, và thực sự hiểu, thực sự tin những chuyện thời kháng chiến người dân quê có tiền, có ruộng, mổ bò, giết dê, giết lợn, đổ của ra nuôi quân “cụ Hồ” đánh đuổi ngoại xâm. Sau khi “cụ Hồ” đã bố trí được trọn vẹn vững chãi guồng máy vô sản đến tận gốc rễ nền móng, thì những kẻ đó lần lượt ra đấu trường chịu cực hình, khinh khi, xỉ vả, kể tội, để sau cùng bị tịch thu toàn bộ tài sản, bị tù đày, hoặc “đền tội” trước mũi súng.

Bây giờ thì họ hiểu quả thực đã có những sĩ quan kháng chiến vào sinh ra tử, góp phần chiến thắng Điện Biên, hốt nhiên bị còng tay đưa về nguyên quán xử bắn vì là địa chủ hay là con địa chủ.

Bây giờ thì họ thấm thía nhận rõ khuôn mặt thật của “Bác muôn vàn kính yêu”, Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch Nhà nước đứng ra xin lỗi nhân dân trong phong trào sửa sai để kịp xoa dịu ngọn lửa công phẫn lúc đó đương hừng hực muốn nổ bùng thành trái bom nguyên tử tinh thần làm tiêu tùng hay thương tổn nặng tới sự nghiệp của Bác-Đảng.

Bây giờ thì họ thấm thía hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng câu thành ngữ đơn sơ cửa miệng “vắt chanh bỏ vỏ”. Nhưng muộn rồi!

Suốt thời gian lao động cải tạo tại trại Xuân Phước, hoặc vô rừng đốn cây, chặt củi, hoặc ở hiện trường gánh đất làm gạch, họ có thì giờ suy ngẫm sâu xa hơn để thấy tai họa họ gánh chịu còn nhẹ tênh so với đám người bị thảm tử trong phong trào cải cách ruộng đất năm nào, so với sức nặng phản bội mà cả dân tộc đã và đang phải gánh chịu do người Cộng sản Hồ Chí Minh và bầy Cộng sản chân tay thân tín của y chủ xướng, chủ mưu và thực hiện tròn đầy.

Anh Trung được họ tỉ tê tâm sự suốt thời gian cùng ở Xuân Phước. Một câu ai oán anh thường nghe họ nhắc đi nhắc lại: “Trời ơi, chúng tôi đã đến thiên đường rồi mà còn quay về với địa ngục ác quỷ!”

Câu chuyện khai vị của anh Trung đem lại hơi mát cho tâm hồn Phượng, vì Phượng biết những tâm hồn thuần hậu yêu lý tưởng đó, một khi bị Cộng sản phản bội càng trở nên trong sáng và cương nghị sau khổ nạn này.

Câu chuyện kể tiếp là chuyện một người vượt ngục đã trốn thoát một cách ly kỳ ngoài sức tưởng tượng.

2

Sau năm tháng ở trại Long Giao, Long Khánh, anh Trung được chuyển tới Suối Máu, Biên Hòa. Hai tháng đầu anh cũng vô rừng lao động cùng anh em. Một người bạn tù vào lúc sắp chết có trối trăng. Anh em cam kết sẽ chuyển bằng được những lời trối trăng đó về cho vợ con bạn, còn cúi xuống hỏi một lần cuối: “Anh còn điều gì muốn nói nữa không?” Người tù thì thào trong hơi thở nhẹ thoảng: “Xin cho tôi cục đường!” Anh em truyền tin nhau cố tìm ngay cho được cục đường. Rủi thay vào ngày quá xa kỳ thăm nuôi trước, lương thực dự trữ của mọi người đều khánh tận. Người bạn xấu số ra đi vĩnh viễn, mồm chẳng được ngậm cục đường.

Phượng chợt thấy đôi mắt mình ứa lệ từ lúc nào. Anh Trung kể tiếp:

- Hai tuần sau, một người bạn tù khác vượt ngục bị bắt lại. Anh để râu dài, bị lính tẩm xăng đốt. Mặt cháy phỏng, người tù thất thế vẫn lớn tiếng nói: “Các anh trước sau cũng không thể chống nổi chân lý đâu. Đứng sau chúng tôi là cả Thế giới Tự do!” Lập tức người lính dùng báng súng AK dầm đầu anh xuống, máu chảy ròng ròng từ gáy theo vết nhăn trên cổ, nhỏ giọt xuống đất. Dưới ánh sáng của Bác, Đảng, chủ nghĩa Cộng sản rõ ràng đã chiếm trọn miền Nam, kẻ bại trận từ chối tin tưởng đã là điều đáng bị trừng trị, huống chi lại lớn tiếng thóa mạ. Anh bị dầm đầu vào thùng phân trước khi đưa vào xà lim cùm chân, cố tình cho nhiễm trùng mà chết. May thay vào dịp anh Trung được tuyển tới làm việc tại bệnh xá cùng năm người bạn tù khác là bác sĩ Quân y. Anh Trung đã kịp thời can thiệp cho người bạn tù kia được kịp thời đi tắm rửa và bôi thuốc sát trùng lên các vết thương.

Trước khi dời phòng để chuyển tới ở hẳn bệnh xá, một bạn tù cùng phòng là Đại úy phản gián rất ít nói, bỗng lướt tới nói rất khẽ, rất nhanh nhưng rất rõ bên tai anh Trung. Kể cả mấy anh em đứng sát đấy cũng không ai nhận thấy điều đó. Lời người bạn Đại úy phản gián như rót vào tai anh

Trung: “Nếu có dịp phát thuốc cho anh Tính – tên người bạn tù vượt ngục bị bắt lại – tại xà lim, anh cố gắng bảo anh Tính lấy lòng đỏ trứng gà sơn lên mặt sẽ khỏi lẹ.” Anh Trung chưa kịp đáp, người bạn Đại úy đã lẩn về cuối phòng.

Anh Trung xách một ba-lô, một lẵng mây và một túi vải đựng đủ các thứ nhật dụng cùng áo quần chăn màn của anh xuống bệnh xá. Mãi tới bữa ăn trưa hôm sau, nhân dịp mở lon Guigoz muối vừng làm thức ăn thêm, anh Trung thấy nằm gọn trong đó hai quả trứng gà tươi từ bao giờ. Anh Trung biết bộ phận tù phụ trách chăn trâu bò, muôi heo, có nuôi thêm gà mái lấy trứng. Thoạt anh Trung cũng lười, chẳng buồn tự đặt câu hỏi anh Đại úy phản gián đã làm cách nào mua lại hai quả trứng đó mà nhét vào lon Guigoz muối vừng của anh. Anh chỉ giấu sẵn nơi túi khâu thêm phía trong cạp quần hai quả trứng đó.

Quần và áo phát cho tù, dưới ánh sáng trí tuệ của Bác-Đảng, không hề có túi để không thể đựng giấu thứ gì. Sáng hôm sau, anh có qua phát thuốc cho Tính tại xà lim, nhân lúc tên lính đeo súng đi theo, vô tình cúi xuống nhổ một cụm cỏ trên luống khoai lang, anh đã nhét vội hai quả trứng cùng mảnh giấy nhỏ ghi lời dặn dò vào miệng chiếc bị tay bỏ ngỏ với lời dặn cũng rất nhanh, rất khẽ là Tính hay theo đúng lời ghi trên giấy.

Ngay hôm sau, vào giờ những người trực của từng đội xuống nhà bếp lĩnh phần cơm chiều, một người bạn tù trong đội cũ đã khéo lạng bước ghé sát chỗ anh Trung, lúc đó đương vô tình đứng sau hàng rào bệnh xá. Anh bạn trực đó đã kịp truyền đạt: “Bữa ăn trưa mai anh cố xoay được một tảng cháy đen như than trên phần cơm của đội mình. Rất cần!” Vì bệnh xá ngay sát nhà bếp, nên anh Trung đã dễ dàng nhờ các bạn tù nhà bếp thực hiện cho điều sở cầu. Đồng thời cũng vào trưa hôm đó, sau khi đi phát thuốc cho các bạn tù về, anh thấy lọt vào kẽ tre đầu giường hai quả trứng gà tươi mới. Tới đây thì anh Trung thấy không cần phải biết ai trong đám bác sĩ Quân y hay những bạn tù phục vụ bệnh xá đã làm việc đó. Hôm sau, hai quả trứng mới đã tới tay Tính. Còn hai lần nữa anh Trung nhận được trứng tươi tương tự. Qua đi một tháng, Tính hoàn toàn lành vết thương mặt, không để lại một vết sẹo nhỏ. Tính đã nhiều lần quỵ xuống trong xà lim, nói nhỏ: “Lạy Chúa, Chúa đã cứu con!” – Tính là người Thiên Chúa giáo. Anh Trung cũng được biết thêm tảng cháy cơm đen như than đã cứu sống một anh bị kiết lị nặng có thể nguy đến tính mệnh. Cách chữa bệnh này cũng do anh Đại úy phản gián chỉ dẫn. Anh Trung hiểu tảng cháy đen đã cung cấp carbon-ganeden cho bệnh nhân.

Tính khỏi mặt và được tha về đội để cùng anh em hằng ngày đi lao động như cũ.

Căn nhà sáu anh em bác sĩ Quân y tù được ở tại bệnh xá dài khoảng 40 mét, rộng khoảng 6 mét, bốn bề đều có cửa, ba cửa khóa, riêng một cửa không khóa vì ăn thông sang nhà cầu. Cửa này là một tấm tôn nẹp trong khung gỗ, mỗi lần mở khép, tiếng tôn cọ xát kĩu kịt rất chói tai đến nỗi sáu anh em bác sĩ phải bảo nhau nếu có ỉa đái thì ỉa đái trước khi có kẻng ngủ để khỏi làm mất giấc ngủ của anh em. Căn nhà được chia làm bốn phần đều nhau theo hai đường ngang dọc chính giữa. Hai phần trong cùng, một bên để bốn chiếc cáng khiêng bệnh nhân chồng lên nhau, một bên là những hàng gạch xếp nghiêng bố trí thành ba cái bếp đun. Sát tường dựng một chiếc mễ tre thấp gãy một chân. Hai phần ngoài cùng là nơi ngủ của sáu bác sĩ Quân y tù. Anh Trung là tổ trưởng được chỉ định nằm ngay sát cửa tôn. Xung quanh nhà là tường tôn đóng sát mặt đất chỉ để hở khoảng năm phân cho gió lùa. Đèn bật sáng từ chập tối đến sáng.

Buổi trưa hôm đó sau khi đi phát thuốc cho bệnh nhân về, vừa bước vào khu bệnh xá, anh Trung hay tin người ta mới khênh tới một tù nhân tự sát tại trại đã được cấp cứu. Kẻ đó được thu xếp cho nằm ngay phần bếp phía trong cùng. Sáu bác sĩ ở đây vừa phụ trách săn sóc vết thương vừa chịu trách nhiệm canh phòng.

Anh Trung vô nhà, tiến tới sát giường bệnh làm bằng hai mảnh ván ghép kê trên hai chiếc mễ tre. Anh giật mình nhận ra người đương nằm thiêm thiếp đó là anh Đại úy phản gián.

Lúc sáu anh em bác sĩ Quân y cùng ăn trưa, tất cả tập trung những tin tức mỗi người lượm được, mới vỡ lẽ người bạn tù Đại úy phản gián đã tự tử vào lúc đêm tàn ngày rạng bằng một thanh tre cật dài một thước, vót nhọn bào mỏng như hệt chiếc lưỡi lê. Thanh tre đâm xuyên từ phía trước ra phía sau may không trúng tim. Người tự sát để lại ba bức thư tuyệt mệnh. Một cho cha mẹ, cúi xin cha mẹ hãy tha tội bất hiếu cho. Một cho anh em bạn tù, tha thiết khuyên tất hãy nêu cao gương học tập tốt, lao động tốt cho xứng đáng với sự khoan hồng của cách mạng. Bức thư tuyệt mệnh thứ ba viết cho Ban chỉ huy trại, ngỏ lời tha thiết cám ơn cách mạng – ý nói chính phủ - và Đảng đã rộng lượng khoan hồng cho đi cải tạo, nhưng tự xét mình đã làm phản gián trong bao nhiêu năm trường, lại từng tu nghiệp ở Okinawa, Nhật Bản hai lần, thì quả là không dung, đất không tha, làm sao mà mong cách mạng miễn cho khỏi chung thân biệt xứ, chi bằng tự xử lấy thân để minh xác lòng thành với cách mạng là hơn cả.

May thay mũi tre cật tuy xuyên từ trước ra sau không trúng tim mà chỉ chạm phổi chút ít, lại được biết kịp thời, nên cứu kịp. Cả ba bức thư tuyệt mệnh đều đã được Ban chỉ huy đọc cho tất cả tù nhân nghe vào lúc tập hợp tại sân trại buổi sáng trước khi đi lao động.

Mỗi lần tiến tới giường bệnh anh Đại úy, anh Trung đều ở tâm trạng ngập ngừng, chưa biết nên hỏi thăm ra sao. Nếu lại may mắn gặp lúc vắng chỉ có hai người, có nên tâm sự thân mật để gợi hỏi thêm về nhiều việc khác chăng? Nhưng mọi ngập ngừng của anh Trung đều thừa. Anh Đại úy thường xuyên ngủ li bì. Xốc nách dựng anh ngồi dậy thì anh ngồi dậy, cho viên thuốc vào miệng thì anh ngậm, đổ nước chiêu thuốc thì anh uể oải uống, khi đặt nằm xuống thì toàn thân anh rũ ra như chiếc giẻ rách. Lúc tiêm thuốc, cho uống thuốc và cho ăn thường có cán bộ chứng kiến. Cứ như vậy được hơn một tuần thì đến đêm 24-12-1976, đêm Giáng Sinh,

Ban quản lý cho phép tù nhân được thức khuya hơn chút ít, tổ chức uống trà ăn kẹo do tù nhân góp với nhau, dĩ nhiên được ca hát nữa nhưng phải là những bài hát… cách mạng.

Sáu anh em bác sĩ Quân y tại bệnh xá cũng tổ chức uống trà, ăn bánh kẹo và đồng ca vài bài. Thực ra anh Trung có thể đơn ca vì anh hát khá hay, nhưng dù yêu ca nhạc anh vẫn không sao tìm ra được bài ca cách mạng nào khích lệ anh đơn ca.

Người lính gác đeo AK đứng ngoài cửa hỏi lớn lần cuối cùng:

- Mấy giờ rồi anh?

Anh Trung, tổ trưởng đáp:

- Dạ mười rưỡi ạ.

- Thôi đi ngủ! – Người lính ra lệnh.

Cuộc họp vui đêm Giáng Sinh giải tán, mọi người lục đục giũ chiếu, mắc màn.

Hôm nào cũng vậy, thường khoảng bốn giờ sáng là anh em đã có người dậy đun ấm nước sôi pha trà, uống chén trà trong sương sớm trước giờ cùng mọi người theo lệnh còi ra sân tập thể dục tập thể.

Tiếng anh bạn xách ấm vào phía trong chuẩn bị đun nước thốt khẽ nhưng đượm vẻ hốt hoảng, kinh hoàng nữa:

- Không còn bệnh nhân nằm đây!

Anh Trung đương nằm lơ mơ – anh không khoái trà – nghe vậy bèn vùng dậy hướng vào phía trong, giọng kinh hoàng không kém:

- Cậu bảo gì?

- Không còn bệnh nhân nằm đây nữa.

Cả năm người từ phía ngoài cùng bước vội vào. Trên giường nằm, chiếc mễ tre gãy một chân vẫn dựng sát tường nay được đặt ngược và phủ chăn lên. Lính đi tuần các ca trước nhìn qua cửa sổ vô, tưởng người nằm bắt chân chữ ngũ đắp chăn.

Anh Trung, tổ trưởng, gắng lấy lại tối đa bình tĩnh, nói rất khẽ:

- Thế nào chúng ta cũng bị cật vấn từng người. Nguyên tắc phải chúng khẩu đồng từ, lời khai cực kỳ gãy gọn. Ca hát đến mười giờ rưỡi. Cán bộ hỏi lần cuối cùng. Mắc màn ngủ. Thức giấc bốn giờ sáng. Phát hiện mất bệnh nhân. Bệnh nhân trốn thoát khỏi bệnh xá giữa khoảng đó.

Một anh góp ý ngay:

- Chúng ta hãy gấp trở lại giường ngủ như không có gì xảy ra. Phải bàn kỹ thêm rồi thống nhất ý kiến. Lính canh chưa đi tuần qua đây ca này đâu.

Thông cảm ý kiến hay, mọi người trở lại giường nằm im phăng phắc như cũ. Rồi ý kiến thầm trao qua trao lại. Nhấn mạnh lời khai phải cực kỳ rõ ràng đơn giản, toàn những gì tai nghe mắt thấy minh bạch. Chỉ có một điều mọi người phải tự kỷ ám thị cho thành phản ứng tự nhiên là khoảng bốn giờ rưỡi sáng mới phát hiện ra người bệnh đã trốn thoát, chiếc mễ lật ngược phủ chăn giả người nằm.

Người phát hiện là anh Trung (nhân danh tổ trưởng anh nhận trách nhiệm đó) khi mang ấm thiếc vào đun nước. Như vậy họ có dùng Pentothal (Sérum de vérité) để khai thác tiếng nói tiềm thức thì mình cũng chẳng có gì để sợ.

Thực ra anh Trung vốn trực tính có sao nói vậy, nên hơi lúng túng khi sắp phải đóng vai giả vờ hô hoán phát hiện người mất tích – dù là hô hoán khi đứng một mình trong khoảng bếp vào lúc bốn bề trại vắng tanh. Đèn bệnh xá thì suốt đêm sáng trưng. May thay đúng lúc anh vừa xách ấm vào bếp thì bốn bề trại xôn xao những bước chân rầm rập, rồi có tiếng vọng từ ngoài, “Nó trốn trại!” Còn nghi ngờ gì nữa, đúng là anh bạn Đại úy đã không may bị bắt khi vừa thoát khỏi bệnh xá. Thế là anh Trung hô lớn rất tự nhiên:

- Báo cáo các anh người bệnh đã trốn khỏi phòng này!

Tiếng chân rầm rập đổ lại và tiếng hỏi tức khắc:

- Anh nói gì?

- Báo cáo anh người bệnh phòng tôi không còn ở đây nữa.

- Thêm một tên trốn trại nữa rồi!

Anh Trung sững người. Tiếng một cán bộ đứng giữa sân hô lớn để thông báo:

- Thêm một tên trốn trại nữa là hai!

Lúc đó thì hầu như toàn trại thức giấc và nhốn nháo.

Bỏ tập thể dục tập thể. Thỉnh thoảng có tiếng còi vẳng lại từ xa, thật xa. Bóng những người lính bước vội vã, đổ người về phía trước, thoáng về ngả này, thoáng về ngả nọ.

Sáu giờ sáng. Viên sĩ quan an ninh trên Ban chỉ huy ập tới cùng bốn người lính AK cầm tay lăm lăm. Thoạt y yên lặng đưa mắt quan sát nghiêm khắc quanh phòng. Sáu bác sĩ Quân y đứng ngồi tản mạn. Giọng viên sĩ quan an ninh sắt gọn:

- Anh nào là tổ trưởng?

Anh Trung đứng thẳng người giơ tay:

- Thưa tôi!

- Anh theo tôi lên phòng làm việc.

Anh Trung thấy thót nơi bụng và lâm râm buồn… đi cầu. Bao giờ cũng vậy, khi sắp phải đương đầu với cuộc thẩm vấn của sĩ quan an ninh Cộng sản, anh Trung vẫn có tâm trạng nửa ngán ngẩm, nửa chán chường như vậy, nhưng chỉ vào lúc đầu nhập cuộc thôi.

Khi tới phòng làm việc, anh Trung chưa kịp ngồi xuống chiếc ghế đẩu ngay trước bàn giấy, viên sĩ quan đã rút khẩu súng lục đặt mạnh trên bàn nói dằn giọng:

- Sinh mạng anh tùy thuộc ở lời khai của anh.

Anh Trung nghĩ trong đầu coi hôm nay như ngày giỗ của mình và anh xác định ngay thái độ bình tĩnh lì lợm bên trong, nhưng vẫn giữ đủ lễ độ bên ngoài để khỏi chọc giận vô lối “đám con cưng của chế độ” này. Anh dư biết chúng giết người không gớm tay, nhất là vào dịp chạm tự ái, thua mưu viên sĩ quan phản gián của mình. Anh bắt đầu trả lời những câu hỏi bằng giọng bình tĩnh, lời dẽ dàng, và luôn luôn lòng nhủ rằng lời càng ít càng tốt, cứ đúng chuyện thật mà nói, có sao khai vậy tất cả những gì đã xảy ra. Dù có bị đòn cũng không còn một chi tiết gì khai thêm và như vậy anh cầm bằng bị ba trận là cùng. Anh biết kẻ bị tra tấn mỗi lần phun thêm một ít có thể tiếp tục bị tra tấn tới chết. Anh khẳng định với viên sĩ quan an ninh là sau câu hỏi cuối cùng của cán bộ lúc mười rưỡi khuya đến bốn rưỡi sáng là lúc anh dậy đun nước sôi. Anh tránh nói pha trà để khỏi chọc giận “người vô sản” về thói quen hưởng thụ… “tiểu tư sản thối nát”.

Chợt viên sĩ quan hỏi:

- Đêm ngủ anh có ngáy lớn không?

Rất sáng suốt, anh hiểu ngay là câu hỏi gài bẫy. Nếu anh đáp “có” rất có thể bị hỏi lúc đó ai là người đánh thức anh dậy, như vậy liên lụy đến người bạn tỉnh ngủ. Vì vậy anh đáp:

- Đặt mình nằm là tôi ngủ vùi một mạch vì mệt.

Anh dự định nếu bị cật vấn thêm, anh cương quyết bám vào ý kiến ngủ vùi, không biết là mình có ngáy không. Nhưng viên sĩ quan ngừng hỏi ở đấy và để cho anh về bệnh xá. Năm người bạn cũng vừa phải đi làm bản tự kiểm về, mỗi người ngồi riêng một nơi cách biệt hẳn.

Thu thập tin tức, sáu anh em bệnh xá được biết hai người trốn trại đêm qua là anh bạn Đại úy bệnh nhân và Tính, người đã nhờ xoa mặt bằng lòng đỏ trứng gà mà lành mọi vết cháy phỏng trên mặt, không để lại một vết sẹo nhỏ.

Anh Trung loay hoay suy nghĩ suốt buổi trưa, thêu dệt trong trí sự gắn bó của hai người, một hào hùng, một mưu trí siêu tuyệt với cách dùng khổ nhục kế tự sát bằng thanh tre cật vót nhọn đâm xuyên người tránh không chạm phải tim. Anh thích thú ôn hình ảnh li bì và nằm như chiếc giẻ rách của tay cao thủ phản gián. Anh thích thú ôn lại nội dung ba bức thư tuyệt mệnh được đọc trước toàn trại buổi sớm nào.

Sau giờ nghỉ trưa, anh Trung lại bị gọi lên phòng việc viên sĩ quan an ninh. Lại tiếng đập bàn và quát tháo phủ đầu cho một cuộc chất vấn mới. Nhưng anh Trung vẫn giữ vững lời khai minh bạch trước. Anh nhấn mạnh căn nhà sáu anh em ngủ không ai thấy động tĩnh gì.

Bỗng viên sĩ quan đổi giọng hết sức ôn tồn:

- Anh là tổ trưởng, anh nằm ngay bên cánh cửa tôn, anh không bao che là sao nó trốn thoát. Thôi tôi để anh về suy nghĩ cho kỹ, lần sau gặp lại tôi ở đây mong rằng anh có thái độ khôn ngoan hơn, thành khẩn hơn với cách mạng.

Nhất quyết không cho anh Trung nói thêm một lời, y làm điệu cho anh về ngay để suy nghĩ lại cho kỹ những điều đã nói với y.

Trên đường về anh Trung tiếp tục suy nghĩ về hai người bạn tù vượt ngục, một hào hùng, một mưu trí siêu tuyệt, chắc chắn họ có bàn nhau trước, có hẹn nhau trước vào thời điểm đêm Giáng Sinh. Chao ôi, khổ nhục kế đâm xuyên ngực tính đúng đến ngày đó thì vừa bình phục để tới điểm hẹn, quả là mưu trí siêu tuyệt. Lạy trời cho hai người đó vượt thoát và bắt liên lạc được với lực lượng kháng Cộng bên ngoài.

Cả sáu anh em đã tỉ mỉ quan sát thật gần thật kỹ quanh phòng. Không một dấu vết đào đất phía dưới tường tôn để chui ra. Tấm cửa tôn quả thật không một lần cót két đêm qua, bên trong nhà cầu không một gợn thay đổi. Khoảng nửa đêm hôm

25 rạng ngày 26-12-1976, cả sáu người đương yên giấc, có tiếng gõ cửa gấp. Cả sáu hoảng hốt nhỏm dậy lúc cửa ngoài mở khóa, viên sĩ quan an ninh bước vô, giọng cực kỳ nghiêm khắc sắt gọn:

- Anh Trung!

- Dạ có.

- Anh theo tôi!

Tới phòng làm việc, đèn điện sáng trưng, viên sĩ quan hầm hầm nói với anh Trung:

- Tất cả những lời khai của anh đều láo khoét! Tôi đã đọc năm bản tự kiểm của năm người bạn củng phòng anh. Tôi đã được biết thêm một số chi tiết mới qua những lời khai của họ. Anh có nhiều liên hệ với tên bệnh nhân trốn trại. Anh ngồi đây, viết ngay cho tôi bản tự kiểm. Anh phải ghi rõ khoảng giờ này đêm qua anh làm gì. (Giọng y hạ xuống, dịu hẳn để đánh đòn tình cảm.) Anh hãy chứng tỏ lòng thành với cách mạng! Chúng tôi đánh giá lòng thành anh qua những dòng tự kiểm anh sắp viết.

Y trịnh trọng giao giấy bút cho anh Trung, trịnh trọng đặt lọ mực trước mặt anh Trung, rồi đi thẳng ra ngoài khuất dạng. Anh Trung viết bản tự kiểm y hệt những điều anh đã khai. Anh được phép trở về phòng khoảng ba giờ sáng, thực sự mệt đừ. Viên sĩ quan an ninh chỉ nhận bản tự kiểm anh trao mà không hề đưa mắt liếc qua một dòng. Trước khi cho anh về phòng, y nhắc lại, “Chúng tôi sẽ đánh giá lòng thành của anh với cách mạng qua bản tự kiểm này.” Và anh cũng đáp lại, “Tôi biết nếu khai gian, mình sẽ chết trước, tôi hoàn toàn khai báo thành thật tất cả những điều tai nghe mắt thấy.”

Và câu chuyện qua êm, anh không bị gọi đi làm việc thêm lần nào nữa. Hai người bạn tù đã trốn trại thoát không để lại quanh trại một tí vết tích gì. Thật thần sầu!

Cho đến ngày được tha về, kể lại chuyện đó cho bằng hữu nghe, anh Trung còn tỏ vẻ vô cùng thán phục cuộc trốn trại đó và ao ước sau này có ngày được gặp lại Tính và nhất là người sĩ quan phản gián hai lần tu nghiệp ở Okinawa.

Phượng nhiều nữ tính, Phượng sợ mưu cơ. Nếu người sĩ quan phản gián đó trốn trại một mình, Phượng sẽ khắc khoải trong viễn tượng hận thù đằng đẳng, nhưng Phượng đã được hưởng hơi mát vì người đó kín đáo cứu Tính khỏi chết vì nhiễm trùng, cứu người đồng đội khác khỏi chết vì kiết lỵ bằng những môn thuốc đơn giản có tính cách gia truyền của anh, nhất là khi trốn trại anh đã khéo bố trí trước để kéo theo người bạn đồng đội hào hùng của mình. Và điều sau cùng chính Phượng gợi ý cho anh Trung hay là người sĩ quan phản gián thông minh tuyệt vời đó, sau khi đã hoạch định kỹ chương trình, anh theo đúng y boong như một máy toán điện tử. Sự kiện anh tuyệt đối nằm li bì, nằm như giẻ rách chính là để tránh gây tai họa cho bất kỳ ai khác.

3

Câu chuyện thứ ba anh Trung kể không có những nét ly kỳ hồi hộp, nhưng chính vì vậy hơi mát Phượng hưởng hiền dịu mênh mông hơn. Vẫn là thuở anh ở Suối Máu, Biên Hòa, sau vụ hai người vượt ngục thành công chừng một tháng, một chàng thượng sĩ Việt cộng trên hai mươi tuổi được phân công cung cấp lương thực cho bệnh xá. Ngày đầu nhận công tác, anh tập họp toàn thể bệnh xá để nhắc lại khẩu phần mỗi nhân viên phục vụ bệnh xá, dù là bác sĩ, một đồng rưỡi một ngày, bệnh nhân ba đồng rưỡi một ngày. Giọng anh rõ ràng là cố lên gân hách dịch cho ra vẻ cán bộ nói với phạm nhân. Ngay chiều hôm đó, sáu anh em bác sĩ Quân y đương cùng nhau ngồi chuyện gẫu tìm hết lời lẽ cay chua phê bình chính sách quốc tế Cộng sản – chẳng riêng gì Việt Nam – hy sinh lẽ phải, hy sinh chân lý, hy sinh con người để bảo vệ ảo tưởng. Nơi nào chúng nắm chính quyền, chúng thẳng tay trừng trị, nghiền nát mọi biểu lộ ý chí đòi tự do tư tưởng; trong khi trên sách báo của chúng, trên diễn đàn quốc nội cũng như quốc tế, chúng không ngớt tự tuyên bố, tự đề cao chúng là lực lượng tiến bộ nhất, chiến đấu kiên cường nhất cho “tự do, dân chủ, dân quyền” thiêng liêng. Điều bất hạnh cho những nạn nhân đương thời và những nạn nhân trong tương lai của Cộng sản là nhân dân Thế giới Tự do nghe những lời tuyên bố ấy một cách nghiêm túc, tin tưởng nơi chúng có nhiệt tình như thế thật. Vừa lúc Thuận – anh thượng sĩ Việt cộng – xuất hiện, tiến tới. Dĩ nhiên sáu anh em chuyển sang đề tài khác vô hại. Anh thượng sĩ cười hiền lành, nhập bọn làm quen. Sau mấy lời khách sáo trao đổi phút đầu, anh vào đề ngay, tình cảm tỏa ra nơi lời nói, giọng nói thành thực đến nỗi cả sáu người nghe cùng chung một cảm giác ngỡ ngàng (trường hợp quá hiếm trong thế giới Cộng sản giả-dối-đã-thành-thiên- tính-thứ-hai):

- Em năm nay hăm hai các anh ạ, thuở học xong lớp Chín thì đi nghĩa vụ quân sự.

- Anh vào quân đội được hai năm chưa? – Một anh hỏi.

- Tháng sau là vừa tròn ba năm đấy. Ngoài Bắc, năm mười bảy đã phải đăng ký, năm mười tám đi khám sức khỏe, sau đó là được gọi bất kỳ lúc nào.

- Nếu là con một thì được miễn phải không anh? – Một anh khác hỏi.

- Như em biết nếu ở Hà Nội, nhà một con trai được miễn! Nhưng em ở miền quê Hà Nam Ninh thì không kể trai gái. Những năm quân số nam không đủ thì nữ được khuyến khích xung phong (sáu người bác sĩ Quân y hiểu ngay là chỉ định xung phong).

- Thôi nhé, tôi tới nói cho các anh biết vậy (sáu bác sĩ Quân y vừa kịp nhận có anh bộ đội khác vai đeo AK đi ngang qua). Các anh nhớ chỉ bệnh nhân mới được hưởng suất ăn ba đồng rưỡi một ngày, tất cả những người khác chỉ có một đồng rưỡi thôi.

Dứt lời, Thuận vội vã trở về văn phòng, không quên giơ tay chào anh bạn đồng ngũ vừa ngang qua.

Ba ngày sau, vào một buổi trưa lại có cuộc họp mặt đột nhiên tương tự. Lần này – và tất cả những lần về sau – Thuận luôn luôn cầm trên tay quyển sổ và chiếc bút chì để ngụy trang là đương làm việc kiểm soát về vấn đề thực phẩm với các phạm nhân. Dịp tâm sự kỳ hai này Thuận hỏi:

- Các anh có đói không? Anh Trung đáp ngay:

- Anh thấy đấy, toàn ăn bo bo với sắn mà cũng không đủ. Đói chứ!

Thuận nói khẽ:

- Tối nay phiên em trực, sớm mai khi mở cửa trại, em đã để cho các anh một gói ở góc hàng rào có bụi cỏ cao đằng kia, một anh nhớ ra mà lấy, thật kín đáo.

Sáng hôm sau, anh Trung tới góc hàng rào khoảng có bụi cỏ cao, quả nhiên thấy một bịch gói rất gọn, mang về mở ra thấy bên trong có khoảng ngót một ký gạo và một hộp sữa.

Lần gặp mặt buổi trưa với Thuận, anh Trung thay mặt anh em cám ơn và trả lại hộp sữa. Thuận gạt đi mà rằng:

- Các anh cứ dùng, đừng lo em mất phần, chả là kỳ này có mấy anh em vệ binh đi phép chưa về nên hàng phân phối dư, em được mua thêm.

Anh Trung bèn đòi trả tiền sữa thì Thuận nói mua giá cung cấp không đáng là bao. Lần đó, Thuận tỉ tê tâm sự với anh Trung là chính Thuận đã bỏ quê trốn lên Hà Nội trù tính tránh nghĩa vụ quân sự, nhưng Bí thư xã đã triệu tập toàn thể xã viên họp và công bố nếu Thuận không về trình diện kịp để thi hành nghĩa vụ thì gia đình Thuận sẽ bị cắt lương thực. Như vậy cũng thành tù giam lỏng vì lẽ không được cấp giấy phép di chuyển tới bất cứ đâu. Thuận đành phải về quê, thoạt đăng ký vào Thanh niên Xung phong tình nguyện đi phục vụ Trường Sơn. Một năm sau Thuận mới chuyển sang quân đội hẳn. Chính vì mấy năm phục vụ dọc theo Trường Sơn, Thuận bị sốt rét nặng. Anh Trung khám cho Thuận và thấy Thuận bị báng. Anh bèn ghi tên thuốc Fansidar trị sốt rét cho Thuận gửi mua tận Biên Hòa, anh tặng thêm Vitamine B12 bổ máu và một thứ thuốc bổ gan.

Quả thực, Thuận cư xử tốt với tất cả mọi người. Kỳ thăm nuôi nào mà anh em tù được Thuận đưa đi thì được nói chuyện thả giàn với người nhà, lĩnh đồ thả giàn, không hạn chế.

Thấy một anh bác sĩ Quân y đi guốc bằng gỗ đẽo lấy, Thuận gửi tặng một đôi dép râu; thấy một anh khác rách mướp, Thuận tặng hai chiếc quần đùi. Lương thực đựng trong bịch, thỉnh thoảng Thuận vẫn kín đáo để sẵn nơi góc hàng rào cỏ cao, có thể là đường, mè, đậu phọng kèm theo với ít gạo. Đồng thời câu chuyện tâm sự càng sâu xa hơn. Ông ngoại Thuận thắt cổ tự vẫn vào năm 1956 vì bị tố là địa chủ. Ít lâu sau, ông cậu Thuận đương là sĩ quan trong bộ đội cũng bị cắt đứt nhiệm vụ gửi trả về quê để chưa đầy một năm sau u uất mà chết. Đứa con gái lớn của ông cậu ngày đó đương phục vụ ngành Vật lý trị liệu tại bệnh viện Việt Đức cũng bị ngừng công tác. Lời Thuận kết thúc câu chuyện:

- Không thể sống tại miền Bắc được đâu, các anh ạ. Em nhất quyết rồi đây khi giải ngũ sẽ sống tại miền Nam. Em sẽ lấy vợ miền Nam, tìm cách đón thầy mẹ vào Nam. Không thể sống tại miền Bắc được đâu các anh ạ.

Ngừng một phút đầy suy nghĩ, Thuận ướm hỏi:

- Sau này em giải ngũ liệu các anh có thể giúp em tiếp tục việc học tại Sài Gòn được không?

Chính anh Trung đoan chắc với Thuận là dư sức giúp Thuận ăn, ở và học tại Sài Gòn. Đôi mắt Thuận sáng lên một cách vô cùng tội nghiệp, nói những lời thật chí lý mà ai cũng biết là Thuận đã suy đi nghĩ lại không biết bao nhiêu ngày tháng rồi:

- Em biết khi được giải ngũ phục viên, em mà về quê thì chỉ có đói, không sao nuôi nổi cha mẹ, mà cha mẹ cũng không sao cưu mang được em. Sức học em còn non kém quá, không học cao như các anh không làm được cái gì ra trò. Em phải học, học cao, các anh ạ. Mà làm sao em sống tại miền Nam, sống tại Sài Gòn có thể học cao cho được nếu không quen biết ai, không được ai giúp đỡ. Em nói thật, ngày sau em sẽ nhờ vả các anh đấy. Bây giờ em có thể giúp các anh, giúp bất kỳ ai, bất kỳ cái gì, là em giúp à!

Lại sắp có một vệ binh ngang qua, Thuận một tay cuộn quyển sổ, một tay giơ cao cái bút chì nói lớn:

- Thôi nhé, số gạo tôi phát cho bệnh nhân hôm nay như vậy là thừa nửa ký đó, ngày mai tôi sẽ trừ số đó.

Khi người vệ binh đi khuất, Thuận nói:

- Các anh cần mua cái gì cứ bảo em, dạo này em đi Biên Hòa luôn mà.

Kể từ đó, Thuận đã mua giúp mấy anh em ở bệnh xá nhiều thứ lặt vặt, như: trà, cà-phê, thuốc lá, kim chỉ… Mua bao nhiêu lấy bấy nhiêu, tuyệt đối không giữ lại tiền lẻ. Anh em ép Thuận lấy một số tiền nhỏ làm tiền uống nước, hút thuốc dọc đường, Thuận cương quyết khước từ. Chuyện tâm sự vẫn tiếp tục. Thuận thú thực thuở còn ở Trường Sơn vẫn cùng một số anh em lén nghe đài Mẹ Việt Nam và đài Gươm Thiêng Ái Quốc. Thuận rất khoái nghe bài “Giọt Mưa Thu” vẫn hát ở đài Mẹ Việt Nam, lời cũ được đổi thành lời mới để chiêu hồi. Một lần Thuận nói riêng với hai người bạn Quân y của anh

Trung, “Hai anh đừng trốn trại nhé, hai anh sắp được tha rồi đó, chính em được đọc danh sách.”

Cả buổi sáng Chủ nhật đó, mưa gió tầm tã tưởng như có bão rớt và có thể mưa gió mấy ngày liền như vậy. Nhưng không, quá trưa trời hửng nắng, Thuận tới bệnh xá rủ anh Trung sang bên trại Ban chỉ huy chơi, nói là để anh Trung biết số gạo sẽ phát cho bệnh nhân vào sáng mai, thứ Hai, nhưng kỳ thực cùng đi đào khoai mì luộc ăn. Cùng đi đào khoai mì với Thuận và anh Trung, còn thêm Toại, một vệ binh khác cũng là bạn thân của Thuận. Ăn khoai mì xong, ba người rủ nhau tới hội trường đánh ping-pong. Khoảng hai giờ rưỡi chiều, Thuận kêu đói và đề nghị với Toại đi nấu chè đậu xanh ăn, vì sau Tết, Toại còn một ít đậu xanh và Thuận còn một ít đường. Ba người ngừng chơi ping-pong để trở về thực hiện ý định ngay. Đi ngang qua một trạm gác cũ, cả ba thoáng thấy một con rắn khá lớn trườn mình chui vào phần đào sâu dưới đất của trạm gác, bên dưới và bốn bề đều lát loại tôn lợp sóng.

Thuận hăm hở cầm gậy đánh rắn dự định sẽ nấu cháo đậu xanh với thịt rắn thay vì nấu chè. Một tấm ván tôn lâu ngày mục để hở một lỗ lớn, con rắn bèn chui vào lỗ đó để ẩn mình phía trong một nếp sóng lượn của tấm tôn. Toại nói:

- Chúng ta ra gỡ lấy mấy trái lựu đạn trái khói quanh hàng rào kẽm gai ngoài bìa trại, rồi tháo ra lấy thuốc súng đốt hun khói lưu huỳnh, con rắn phải ra, bắt dễ ợt.

Thấy đi chơi chiều Chủ nhật đã muộn, và mình không thể theo đi gỡ lựu đạn, anh Trung từ biệt về trại nói là còn phải lĩnh phần cơm chiều. Khoảng bốn giờ, anh Trung xách thùng ra giếng vục nước tắm nghe có tiếng nổ lớn. Nhìn sang phía trại Ban chỉ huy, anh thấy một cột khói mỏng bốc lên. Tắm giếng về thì vừa có người bên trại chạy sang cầu cứu “bác sĩ ngụy”. Anh Trung theo đi ngay, tới nơi mới hay nạn nhân bị lựu đạn nổ vừa rồi là Thuận và Toại. Quân y đơn vị vẫn chưa có ai tới, Thuận còn nằm oằn oại trên khoảng cỏ, mặt mày cháy đen, tay mặt cụt còn thấy sợi gân dài đong đưa, tay trái đứt mất ngón giữa và ngón đeo nhẫn, đôi mắt mở trắng dã không còn lòng đen, miệng rên la nhưng máu chảy ít; trái lại Toại nằm ngay bên rên la ít, nhưng máu chảy nhiều. Một anh bạn bác sĩ Quân y cũng vừa tới phụ trách Toại. Anh Trung giật vội sợi dây thun đen ở một chiếc xe đạp gần đấy, buộc quanh cổ tay cụt của Thuận để cầm máu. Thuận tỉnh, rất tỉnh, ngừng rên la, mắt vẫn trắng dã hỏi:

- Ai đấy? Ai đấy?

Nghe và nhận ra tiếng anh Trung đáp, Thuận rên la ảo não:

- Em chết rồi anh ơi, hôm nay là ngày hai mươi ba, ngày cuối cùng của đời em. Cha mẹ ơi, ngày hôm nay con sinh Bắc, tử Nam mất rồi. Anh Trung ơi, tay em đâu? Sao em cảm thấy em không còn tay nữa?

Anh Trung vội nắm lấy tay trái Thuận đương muốn chụp lấy tay mặt. Vừa lúc người ta khiêng hai tấm phản tới, một cho Thuận, một cho Toại. Trong khi khiêng cả hai về Tiểu đoàn Quân y K16 của họ, anh Trung luôn luôn đi sát bên tấm ván cáng

Thuận, luôn luôn trấn an, nói dối tay mặt Thuận còn nguyên, anh Trung sẽ đích thân săn sóc, Thuận sẽ khỏi, không phải sinh Bắc, tử Nam đâu. Tới Tiểu đoàn Quân y K16, anh Trung sửa lại, băng lại vết thương cho Thuận trong khi Thuận không ngừng nhắc đi nhắc lại xin anh Trung đừng bỏ Thuận. “Em chết, em chết hôm nay, anh ạ. Em đã quá vụng dại mở trái lựu đạn rỉ.”

Anh Trung đề nghị bên Quân y đưa Thuận và Toại đi Biên Hòa để tiếp máu tức khắc, nhưng phải qua những thủ tục chuyển thương binh, thủ tục chẩn đoán, làm bệnh án, nên máu mất nhiều đã tới mức Thuận hôn mê. Xe từ Biên Hòa vô, trời vừa chợp tối. Từ lúc hôn mê tới lúc đưa lên xe dời khỏi trại Quân y, Thuận chỉ còn rên rẩm kêu cha, gọi mẹ.

Dĩ nhiên anh Trung và người bạn bác sĩ Quân y không được theo đi Biên Hòa. Hôm sau hay tin Thuận chết, còn Toại có cơ cứu sống.

Hai tháng sau Toại bình phục nhưng thành tật tay phải. Hai người bạn Quân y của anh Trung được thả, đúng như Thuận đã báo cho hay trước. Sau đó ít bữa, anh Trung được chuyển tới trại Xuân Phước, Tuy Hòa...

Đồng hồ dưới nhà rãi rệ điểm ba giờ sáng, Phượng còn ôn lại vài chuyện vui bông lơn anh Trung kể xen kẽ vào tấn bi kịch về cái chết của Thuận. gác:

Có người đứng nghiêm nói lớn trước chòi

- Báo cáo anh, tôi đi cầu.

Anh vệ binh không rõ sinh trưởng nơi nào miền Bắc ngẩn người hỏi lại:

- Làm gì có cầu mà đi!

- Báo cáo anh tôi đi ngoài!

- Ai cho phép anh đi ra ngoài!

- Báo cáo anh tôi đi… đi ỉa.

- Đi!

Sau vài vụ kế tiếp “Báo cáo anh tôi đi ỉa” nghe không thích hợp với nếp sống văn hóa mới, các anh em vệ binh “cán ngố” sau một buổi họp đả thông bèn đồng ý ra lệnh mỗi khi phạm nhân xin “đi ỉa” thì nói “Báo cáo anh, tôi đi ngoài”.

Một buổi trưa oi nồng, anh vệ binh mệt mỏi đương ngủ gà ngủ vịt trong chòi canh thì có tiếng một phạm nhân vừa tới:

- Báo cáo anh tôi đi ngoài.

Anh vệ binh vẫn ngủ gà ngủ vịt.

- Báo cáo anh tôi đi ngoài.

Nắng chính ngọ đổ xuống chói chang. Anh vệ binh vẫn ngủ gà ngủ vịt. Cả vùng nóng hừng hực.

- Báo cáo anh tôi đi ngoài.

Anh vệ binh giật mình sực tỉnh:

- Gì?

- Báo cáo anh tôi đi vô.

- Sao? Vừa xin đi ngoài mà.

- Báo cáo anh, tôi… ị ra quần rồi.

Nguyên do dạo đó trại đương có dịch kiết lị, có anh một ngày đi ngoài đến hai mươi lần...

Phượng đã thiếp ngủ khoảng ba giờ rưỡi sáng. Phượng chìm vào giấc ngủ thăm thẳm không khác gì Thuận đi vào giấc ngủ thăm thẳm của sự chết, nhưng kẻ ngủ cũng như người chết cùng yên tâm, vì quả thực, hơi mát thăm thẳm của tình người vĩnh viễn còn đó bao phủ lấy sự sống – dù hiểm nguy, dù khắc nghiệt đến mấy!

CHƯƠNG MƯỜI
Biển Trời Vằng Vặc

1

Mãi tới khoảng ba giờ rưỡi sáng Phượng mới ngủ thiếp đi, nhưng giấc ngủ say

êm thoải mái, yên tĩnh nên khi Phượng thức giấc – lúc đó khoảng hơn bảy giờ sáng – Phượng thấy khỏe khoắn hẳn, tuy lòng có nhói buốt với ý nghĩ đầu tiên: “Hôm nay phải chăng ngày cuối cùng mình còn được sống trên dải đất quê hương?”

Xuống nhà rửa mặt, gục mặt kỹ vào chậu nước lạnh, rồi trở lên căn gác xép, Phượng thấy yên ổn vô cùng dù hôm nay có là ngày cuối cùng được sống trên dải đất quê hương. Sau bữa ăn sáng, sau bữa ăn trưa, sau bữa ăn chiều, rồi tới mười giờ khuya, ra bãi xuống ghe, ra khơi… Có thể gặp bão thuyền lật, táng thân nơi bụng cá… Có thể chết đói, chết khát, lênh đênh trên mặt biển nhiều ngày trước khi thuyền ụp… Có thể gặp hải tặc, ôi, hải tặc Thái Lan, nỗi hãi hùng của nữ giới Việt Nam khổ nạn khi bước chân xuống ghe vượt biển… Nhưng cả ngày hôm nay Phượng dành cho kỷ niệm những buổi gặp lại, đàm đạo với ông nhà văn. Ông ta được tha sau anh Trung hơn một năm – dĩ nhiên do nhỏ bạn báo cho Phượng hay và nhỏ bạn mang Phượng tới giới thiệu. Nhỏ bạn bao giờ cũng như nhìn thấu tâm can Phượng.

Biển trời vằng vặc gương nga

Long lanh soi tỏ lòng ta lòng mình

Phượng đọc thầm câu thơ của chính Phượng làm ra để tặng thầm nhỏ bạn.

Ôn lại kỷ niệm gặp gỡ và đàm thoại với ông nhà văn thì cũng như đi vào vùng biển trời vằng vặc gương nga, Phượng không còn lo gặp phải những gì dằn vặt, bực bội, nhơ nhớp, nghẹt thở.

Thật phúc đức! Thật phúc đức! Ngày cuối cùng sống trên dải đất quê hương theo đúng thứ tự thời gian, Phượng chỉ còn kỷ niệm với ông nhà văn để ôn lại.

Giai thoại về thời ông ta bị cầm tù thiếu gì, lẫn vào với hàng trăm giai thoại của các văn nghệ sĩ, chính khách khác. Nhiều giai thoại dễ thương đến nỗi Phượng ngờ là hoang đường, những giai thoại làm ấm lòng biết bao người khác, gồm cả những người còn trong tù, những người đã được thả và những người không hề bị bắt giam. Phượng ôn lại chuyện sau cùng về ông ta sát nút với ngày ông sắp được trả tự do. Chuyện đó thoạt Phượng chỉ được nghe loáng thoáng, sau đó được chính ông ta bổ sung với bằng hữu cho có đầu có đuôi khi ông đã được trả tự do.

Buổi sáng hôm đó ông ta cùng toàn thể anh em đã chuẩn bị ra hiện trường lao động, thì cán bộ quản giáo tới cho ông nghỉ, rồi đưa ông lên hội trường. Y lên tiếng trước:

- Có một phái đoàn tìm gặp anh.

- Phái đoàn nào vậy, cán bộ?

- Phái đoàn những người ngoại quốc.

- Tôi nào biết đó là phái đoàn gì.

- Anh được phép gặp nói chuyện với phái đoàn đó.

- Tôi không tới gặp đâu, cán bộ.

- Anh bỏ đặc ân đó à?

- Gặp những người đó tôi nói gì? Là một tên tù không được đưa ra tòa án, không biết mình sẽ bị giam giữ đến ngày nào, tôi làm sao ca ngợi sự giam giữ đó? Còn đứng ra nói xấu chế độ, làm sao cán bộ để cho tôi yên?

Lời qua lời lại, lần này thì rất ôn tồn, nhưng rút cục ông ta cương quyết không chịu gặp phái đoàn ngoại quốc nào đó. Cán bộ quản giáo đành để ông ta về phòng. Buổi chiều ông lại ra hiện trường lao động như thường. Bỗng ông lại được gọi tới gặp cán bộ quản giáo. Y nghiêm giọng: tiếng.

- Anh phải tới gặp phái đoàn ngoại quốc đó!

- Gặp làm gì, vô ích, cán bộ.

- Anh không tới gặp họ, chúng tôi mang

- Đành vậy, cán bộ. Thà như thế còn hơn làm phiền cán bộ về nhiều khía cạnh khác.

Tên cán bộ quản giáo sẵng giọng:

- Thôi anh trở lại hiện trường lao động!

Lần thứ ba vào sáng sớm hôm sau, cán bộ quản giáo tới sẵng giọng hơn:

- Anh theo tôi đi làm việc!

Ông ta lẳng lặng theo y. Quái sao y không đưa ông tới văn phòng mà lại tới nhà gặp thân nhân và nhận đồ thăm nuôi. Y ẩn cánh cửa khép hờ. Phái đoàn ngoại quốc đã có mặt trong đó: ba người Âu – hai nữ, một nam – và một người Ấn Độ thì phải. Chỉ một thoáng giây ông ta hiểu, và cũng chỉ trong thoáng giây đó, ông hoạch định chương trình đối phó, đường lối đóng kịch, v.v… Ông đứng khựng làm bộ hơi lùi lại chút ít, vẻ mặt thản nhiên nhưng nói khẽ:

- Tôi không vào đâu, cán bộ.

Người cán bộ cũng nói khẽ và cũng cố giữ vẻ như không có gì xảy ra dưới bốn cặp mắt ngoại nhân đương từ phía trong chằm chằm nhìn ra:

- Anh hãy vô.

- Không, vô ích, cán bộ.

Người cán bộ ẩn mạnh ông ta tiến lên, nói khẽ hơn, nhanh hơn, nhưng cũng sắc gọn hơn:

- Anh phải gặp, chúng tôi để anh nói một mình mà.

Viên cán bộ sợ ông ta còn làm một cử chỉ gì từ chối gặp mặt khiến “chính quyền cách mạng” mang tiếng nên đã vội khép cửa lại, bước vội xuống sân, đi vội ra xa.

Sự việc đã xảy ra đúng ý ông mong muốn, ông vừa kịp khẽ cúi đầu chào những người bạn ngoại quốc thì người phụ nữ Âu đầu tiên bước tới. Bà ôm lấy ông, khuôn mặt bà giữ nguyên vẻ bình tĩnh nhưng ánh mắt cực kỳ thương cảm, bà cuối xuống hôn nhẹ lên hai bên má ông. Bà nói tiếng Pháp – bà là người Pháp:

- Chúng tôi là phái đoàn của Hội Ân xá Quốc tế gồm một bà Pháp, một bà Anh, một bà Sri Lanka (Tích Lan) và một ông Thụy Điển.

Ông ta giữ nguyên nụ cười lịch thiệp, nhưng bằng cử chỉ lưu ý mọi người chú ý chiếc bình bông miệng lớn đặt giữa bàn cắm cả một cụm cúc rừng, loại cúc mọc đầy dẫy tại địa phương này vào mùa này. Hai tay ông cầm hai bên miệng bình lắc lắc đều: bình không có nước nhưng nghe rào rạo có cái gì ở đáy bình. Nếu quả chúng có đủ phương tiện đặt máy ghi âm - ông nghĩ thầm - ở đáy bình thì cứ nên lắc lắc như vậy.

Ông bê chiếc bình đặt tới trước ông Thụy Điển làm hiệu nhờ ông tiếp tục lắc bình suốt thời gian nói chuyện. Ông ta bắt đầu vào đề ngay, ông nói tiếng Pháp, nói rất nhanh theo thể điện tín, lược bỏ hết những từ rườm rà, những ràng buộc văn phạm. Lời nói hối hả nhưng vì thế mà thật gắn bó, chân thành, ông nói về các tù nhân bị cư xử bất chấp – en dépit de tout sens commun – về thảm cảnh tù nhân luôn luôn từ khổ cực này sang khổ cực khác, tồi tệ hơn, đến mất tinh thần, đành nuốt nhục – tomber de mal en pis jusqu’ à perdre contenance – doivent se contenter d’avaler les affronts. Ông ân cần nhắc rằng phái đoàn đương ở vương quốc điêu ngoa, thường xuyên giả nhân giả nghĩa nhưng chính là nỗi kinh hoàng cho tất cả.

– C’est ici le Royaume de Mensonges, vous y arrivez! Toujours fait – il le bon apôtre. Le régime – la Terreur elle – même de tous! Il vole sa promesse à tout temps…

Cũng bằng một thể Pháp văn điện tín chớp nhoáng tương tự, bà người Pháp cho ông hay là kỳ này Hội Ân xá Quốc tế xin ân xá cho một nhà văn – tức ông ta – một nhà báo và một nhà thơ. Phái đoàn mới tiếp xúc được với nhà văn và nhà báo, còn nhà thơ nghe đâu chết rồi thì phải, vì lời họ giải thích xem ra lúng túng lắm. Bà cho hay thêm: đổi lại với ba người này, sẽ có ba chục người tù Cộng sản Nam Dương được chính phủ Nam Dương phóng thích, một đổi mười, do ông bạn người Thụy Điển đây đã đứng ra làm trung gian dàn xếp xong.

Tới đây ông nhà văn quay sang nói với bà người Tích Lan, luôn luôn bằng tiếng Pháp:

- Thưa bà, chúng tôi tha thiết muốn thốt lời hiếu sinh, khoan hòa, nhưng còn có điều tệ hại hơn cái Ác nữa, đó là biết cái Ác mà không một lời tố cáo!

Bà người Tích Lan dùng hai bàn tay hiền hòa nắm lấy hai cổ tay gầy guộc của ông nhà văn, đáp:

- Chúng tôi biết thái độ tố cáo cái Ác của ông không hề mang ý hướng căm thù mà chỉ là dọn đường cho cái Thiện.

Ông nhà văn tiến thêm một bước cúi chào bà người Anh, tuy nói với bà nhưng vẫn là nói với tất cả:

- Thưa bà, bí quyết của người Cộng sản là họ tự giải thoát khỏi gánh nặng của liêm sỉ và lòng nhân, do đó họ thênh thang thực hiện những điếm nhục, những tội ác hỏa ngục nhưng lại phủ lên bằng những danh từ thiên đường, hoa mỹ.

Bà người Anh ưu ái nắm lấy hai bàn tay ông nhà văn đáp:

- Xin ông yên tâm, chúng tôi biết mà! Dư luận bên ngoài đã mệnh danh những trại cải tạo như thế này là “trại chết mỏi mòn” còn nham hiểm, tàn khốc dã man hơn chế độ diệt chủng tại Cao Miên.

Tới đây ông nhà văn hướng lời đáp lễ tới người cuối cùng của phái đoàn – ông người Thụy Điển – câu nói dài hơn cả, nhanh hơn cả, vì tới đây đã có đà nói và đủ thời giờ sắp xếp tâm tư:

- Thưa ông, chúng tôi vẫn chiêm ngưỡng nền luân lý khoáng đạt của Bắc Âu mà chúng tôi nghĩ phải sang thế kỷ XXI nhân loại mới có thể theo kịp. Vâng, chúng tôi tin rằng yêu con người là yêu Thượng Đế, đồng hóa với Thượng Đế để những quyền năng sáng tạo tuyệt vời nơi Thượng Đế được biểu lộ qua chính mình. Hẳn quý vị cũng như chúng tôi tin tưởng rằng con người khi đã tiến bộ thì không thể thoái bộ…

Ông Thụy Điển không thể ưu ái nắm lấy cổ tay ông nhà văn, vì ông phải thường xuyên lắc bình hoa, nhưng vì thế mà giọng ông càng nồng nàn:

- Vâng vâng, không một cường quyền bạo lực nào có đủ khả năng bắt con người thụt lùi từ tự do trở về nô lệ, từ yêu thương trở về căm thù, từ trí sáng trở về ngu đần, từ khoáng đạt thanh khiết trở về chật chội hôi nồng.

- Bởi vậy – lời ông nhà văn tiếp ngay – chúng tôi, những người cầm bút phụng sự mọi ngành văn hóa, bất chấp sự kiện đem ngòi bút chọi với súng, chọi với cả guồng máy công an bạo quyền như thể đem trứng chọi với đá, chúng tôi cương quyết duy trì sức vùng vẫy của sáng tạo để góp phần chiếu sáng tâm linh nhân loại. Thái độ chúng tôi luôn luôn thành khẩn giữ vững là: cương nghị, dũng mãnh, nhưng hiền hòa. Chúng ta là những nhà văn hóa mà, thưa quý vị.

Tới đây ông nhà văn cúi xuống bê bình hoa đặt lại chỗ cũ giữa bàn, ông Thụy Điển cũng tiến tới và tiếp tục lắc bình ở tư thế đứng, trong khi ông nhà văn nói:

- Thôi câu chuyện của chúng ta tới đây xét ra tạm đủ, chẳng nên kéo dài bất lợi.

Ba người đàn bà tiễn ông nhà văn ra cửa, ông Thụy Điển tiếp tục lắc bình hoa. Mọi người liên tiếp, liên tiếp nối lời nhau một lần cuối.

Ông nhà văn: Thưa quý vị, không một người Việt Nam nào dù còn trong nước hay đã ở hải ngoại mà không nặng lòng ưu tư và chua xót nghĩ rằng rồi đây phải biết bao thế hệ chung lưng góp sức nhau mới mong xây dựng lại được lâu đài nhân bản truyền thống mà cha ông chúng tôi đã đời này qua đời khác gây dựng nên cho đến ngày dân tộc chúng tôi bất hạnh rơi vào họa Cộng sản.

Bà người Pháp: Xin ông yên tâm, chúng tôi luôn luôn kịp thời tố cáo và phản đối mọi hành động phạm nhân quyền của họ ngoài xã hội cũng như trong lao tù!

Bà Người Anh: Chúng tôi cũng đã kêu gọi quốc tế tích cực lưu tâm tìm mọi biện pháp ngăn chặn hữu hiệu giúp những người khốn khổ vượt biên về nạn hải tặc Thái Lan cướp của, hãm hiếp…

Bà Người Pháp: Ông cũng biết đấy, hơn ba mươi năm trước đây nước Pháp tôi đã có André Gide, nước Hung có Arthur Koestler lột trần mặt nạ Cộng sản. Rồi vào những thập niên 50 và 60, Hung và Tiệp nổi lên.

Bà Người Tích Lan: Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, không riêng gì ở Tích Lan chúng tôi, mà cả thế giới đều biết thêm một trại tập trung mênh mông tại Đông Nam Á.

Ông nhà văn (thoạt bắt tay bà người Pháp): Thưa quý vị, mặc dầu chúng tôi không quên cuộc sống chẳng sao tránh được phải pha chút đắng cay, nhưng vẫn xin được lưu ý quý vị chúng tôi đã thụ nạn trên cây thánh giá của sự sống quá một phần tư thế kỷ rồi, tính từ 1945 đến nay. (Ông buông tay bà Pháp để bắt tay từ giã bà Tích Lan.) Vâng, thụ nạn trên một phần tư thế kỷ dưới ách một chính sách độc hại, tồi tệ nhất thế giới, có sức tàn phá, hủy diệt hắc ám nhất thế giới. Nhưng chúng tôi cũng như bất kỳ một đoàn thể nhân loại nào không may sa vào ách thống trị loại đó đều cố chịu đựng tìm cho ra cách đương đầu thích ứng để trường tồn. (Ông bắt tay từ biệt bà Anh.) Khả năng thích ứng và chịu đựng không biết đâu là bờ bến đó, chúng tôi nghĩ rằng không đặc biệt của riêng dân tộc nào, mà là đức tính chung của nhân loại trên bước đường kỳ khu bảo vệ sinh tồn cho chính mình. (Ông hướng vào phía trong, cúi chào ông Thụy Điển.) Chúng tôi hiểu vậy để tự giải cứu, quý vị hiểu vậy để giúp chúng tôi tự giải cứu. Xin chân thành cảm tạ quý vị.

Bà Người Pháp (không dấu niềm xúc động, đôi mắt rưng rưng vẫy chào ông nhà văn lần cuối khi ông bước xuống sân): Thế nào ông cũng được thả tự do, ông bạn yên chí, một đổi mười đó!

Người cán bộ quản giáo đã xuất hiện. Cuộc nói chuyện cô đọng và gấp gáp kéo dài khoảng hai mươi phút là cùng. Ông nhà văn định bụng hễ cán bộ quản giáo hỏi về nội dung cuộc đàm thoại, ông sẽ nói là phái đoàn phỏng vấn về sức khỏe, về thời khóa biểu lao động hằng ngày, sinh hoạt hằng tuần của phạm nhân trong trại. Nhưng suốt trên đường về, y lầm lũi đi, ông lầm lũi theo, không một lời trao đổi!

Hôm sau ông nhà văn được đưa lên bệnh xá gọi là nằm dưỡng bệnh.

Hai tuần sau ông được gọi lên hội trường cùng hai mươi hai người nữa học tập chính trị trước khi được tha. Cán bộ nhấn mạnh: “Đã được chính phủ khoan hồng, về địa phương phải tiếp tục tốt. Vật giá bên ngoài có gia tăng đấy, công cuộc tiến tới xã hội chủ nghĩa có gặp khó khăn, nhưng đó chỉ là nhất thời. Được về đoàn tụ với gia đình, chớ theo bọn phản cách mạng, rủi bị bắt lại thời gian giam giữ có thể tăng gấp đôi.”

Kế đó, mọi người đi cân, đo, ghi dấu vết đặc biệt trên mặt như thể làm thẻ căn cước vậy. Mọi người được phát tờ khai lý lịch mới để điền vào. Kèm với tờ lý lịch là tờ cam kết khai báo thường xuyên với “cách mạng” về những tổ chức “phản động”.

Ngày ông nhà văn cùng số anh em rời khỏi trại, khi quay nhìn lại hiện trường, ai nấy cùng chung cảm giác: quả thực được tha thế này là một may mắn vô cùng hi hữu. Toàn trại khoảng sáu ngàn người, được tha lèo tèo có hai mươi ba người.

2

Riêng với ông nhà văn, trước ngày thả hai hôm, một cán bộ từ Hà Nội vào tìm gặp ông. Đó là người cán bộ duy nhất có tầm vóc trí thức ông được gặp suốt mấy năm bị giam giữ. Ông linh cảm người cán bộ trí thức đó được trung ương ủy tới sinh hoạt riêng với ông để đả thông một số trở ngại tư tưởng trước khi thả, nhưng rồi cuộc đàm thoại được hút sang một quỹ đạo khác, lời lẽ đôi bên thủ thỉ như chuyện tâm tình.

Người cán bộ trí thức: Tôi hy vọng rồi đây khi về với xã hội tự do bên ngoài, anh có dịp đọc kỹ hơn về biện chứng pháp duy vật.

Ông nhà văn: Tôi rất mê, thưa anh, biện chứng pháp, nhưng tôi cương quyết khước từ cái đuôi duy vật gán thêm vào phía sau cho nó.

Người cán bộ trí thức: Anh hiểu biện chứng pháp là như thế nào?

Ông nhà văn: Tôi hiểu là bao gồm, dung hóa được hai chiều có bề ngoài rõ ràng mâu thuẫn, đối lập nhau. Mình sinh ra và sống riêng biệt, nhưng đồng thời cũng là một thành phần không thể chối nhận, chối bỏ được của toàn thể, gần là xã hội quốc gia, xa là xã hội quốc tế, xa hơn nữa là vũ trụ hiện hữu. Mình và tha nhân và vũ trụ hiện hữu ảnh hưởng qua lại nhau trùng trùng điệp điệp. Anh có đồng ý?

Người cán bộ trí thức: Thì anh há chẳng vẫn thường nghe chúng tôi chủ trương: “Một người cho mọi người, mọi người cho một người.”

Ông nhà văn: Đúng vậy, thưa anh, một và tất cả nương tựa vào nhau, hòa hợp với nhau trên dòng sinh tồn biến dịch. Theo tinh thần hai chữ “biện chứng” như tôi vừa trình bày cùng anh thì chúng ta sẽ hoàn toàn tự mâu thuẫn nếu chúng ta ghép thêm cho nó cái đuôi duy tâm hay duy vật. Tâm hay vật có đây nhưng vẫn là một, nương vào nhau, bao gồm nhau, biến hiện nơi nhau, biến hiện thay nhau. Khoa học ngày nay, anh thấy đó, há chẳng đã minh chứng: vật chất là năng lượng ở thể cô đọng tối đa, và năng lượng là hóa thân của vật chất nở dãn trang bùng nổ.

(Cũng là do phản ứng tự nhiên để bảo vệ cái gì cố hữu của lập trường mình, người cán bộ trung ương lái câu chuyện sang một hướng quen thuộc.)

Người cán bộ trí thức: Dầu sao chúng ta cũng phải cảnh giác tránh mọi tự do cá nhân cực đoan có hại đến sinh mệnh tập thể.

Ông nhà văn: Chính vậy, chính vậy! Tôi hoàn toàn đồng ý với anh ở điểm đó và xin phép được nhấn mạnh thêm một lần nữa: cá nhân với xã hội là một. Cá nhân với xã hội tương quan mật thiết với nhau trên dòng sinh hóa biến dịch không ngừng. Không thể hy sinh cá nhân cho đoàn thể, bởi làm gì có đoàn thể không có cá nhân, cũng như không thể hy sinh đoàn thể cho cá nhân, vì cá nhân hiện diện, cá nhân tồn tại là hiện diện tồn tại với đoàn thể, cùng đoàn thể.

(Lại một lần nữa do phản ứng tự vệ bén nhạy, người cán bộ trung ương hướng cuộc đàm thoại sang bất kỳ đề tài nào khác chợt đến trong đầu.)

Người cán bộ trí thức: Mầm chiến tranh, mầm ác độc luôn luôn còn đó, anh thấy không, trướng tức thì. Thói thường cỏ dại vẫn dễ mọc cao hơn lúa, bởi vậy chúng ta không thể không thường xuyên chiến đấu trong nội tâm. Nói một cách khác, chúng ta không thể không thường xuyên tự chết đi, chết con người cũ lạc hậu để tái sinh thành con người mới tiến bộ cho tập thể tiến bộ.

Ông nhà văn: Vâng, mối tương quan mật thiết giữa vạn vật trong nguồn sống bất diệt, như chúng ta đã hiểu, đòi hỏi đúng những điều anh vừa cảnh giác. Tất cả những gì sinh khởi, tồn tại, hủy diệt đều có quá trình với những nguyên nhân xa gần gắn bó của chúng. Thưa anh, cái Ác không tự nhiên mà có, cũng như điều Thiện không tự nhiên mà thành. Anh dạy rất đúng, chúng ta phải sống đi chết lại trong nỗ lực gột sạch khỏi tâm hồn những gì cũ kỹ, lạc hậu, xấu xa, xiêu lên những sai biệt ước lệ thường tình. Đây chính là cuộc chiến thắng khó khăn nhất: mình thắng mình, giúp mình tâm thật rộng, trí thật sáng. Sau cuộc lột xác, mình nào khác gì sâu hóa thành bướm. Sự sống quả là một sự trở thành thường xuyên, anh có điều gì chỉ giáo thêm?

Người cán bộ trí thức: Thì cả hai chúng ta có ai đứng ngoài lập trường vạn vật biến chuyển không ngừng đâu!

Ông nhà văn: Còn định luật mâu thuẫn đẩy sự vật tiến tới?

Người cán bộ trí thức: Thì cũng là hệ luận của định luật trên thôi. Thế giới không mâu thuẫn nội tại là thế giới tĩnh, thế giới chết.

Ông nhà văn: Thành thực cám ơn anh đã đến với tôi bằng cả sự chân thành toát ra từ mỗi cử chỉ, mỗi lời nói. Sau khi chúng ta đã hoàn toàn đồng ý với nhau như trên, xin anh cho tôi phát biểu một câu nghe như có chiều hướng duy tâm: Mọi thắng lợi chói lọi cũng như mọi thất bại chua cay ở bất kỳ không gian nào, thời gian nào, đều không tránh khỏi sự thẩm định và phán xét cuối cùng của Thượng Đế. Thượng Đế đây, thưa anh, là lương tâm nhân loại!

3

Bữa ăn sáng của Phượng do em nhỏ mang lại: xôi đỗ đen với muối vừng đường. Chưa bao giờ Phượng nhai xôi giống trâu nhai cỏ như vậy, nhai thật thong thả, thật kỹ. Vì nhai với ngẫm nghĩ là… một! Ngẫm nghĩ về một câu chuyện đã được ông nhà văn bổ khuyết cho có đầu có cuối với bằng hữu khi ông được thả về.

Khi chấm dứt câu chuyện, hai người – ông nhà văn tù nhân của Cộng sản với người cán bộ Mác-xít trí thức – đã nắm chặt tay nhau từ biệt như đôi bạn chí thiết đương tiễn nhau nơi bến tàu, sân ga hay sân bay.

Ngày ông được tha, tin tức loan đi rất chóng. Ngay buổi chiều nhỏ bạn tới nói với Phượng:

- Để rồi tao đưa mày tới gặp thẳng ông ta tại nhà.

Phượng trợn tròn mắt: đây quen thuộc gì mà tự dưng tới nhà người ta?

Nhỏ bạn cong cớn một cách hợp lý:

- Thiếu gì độc giả tới thăm ông ta, mi ngu lắm!

Ấy sự việc đơn giản như vậy đấy. Nếu có nhiêu khê chăng, chẳng qua mình lại nhiêu khê với chính mình đó thôi. Phượng xuôi giọng hỏi nhỏ bạn:

- Vậy mi định hôm nào đi?

- Để ông ta nghỉ tới Chủ nhật cho thật lại sức. Chủ nhật, khoảng tám giờ, ta tới đón mi đi.

- Ờ được! – Phượng đáp và tính thầm trong trí hôm nay là thứ Năm, còn ba hôm nữa.

Thấy gương mặt nhỏ bạn thoáng lo âu, Phượng chột dạ hỏi:

- Mi có điều gì lo nghĩ?

Thoáng một chút ngập ngừng, nhỏ bạn đáp:

- Có thể cuối tháng này tao và bồ vượt biên. Đến lượt Phượng cảm thấy nhói buốt nơi tim. Phượng nhìn nhỏ bạn mà cảm thấy rầu rĩ tưởng như sớm mai nhỏ bạn đã đi rồi. Phượng nói luôn cho có chuyện để khỏa lấp nỗi buồn:

- Mi ở đây cùng ta làm cơm và ăn cơm chiều, chịu không?

- Đồng ý!

Thế là cả hai cùng vui ngay, quên khuấy mọi mối sầu nhân thế.

- Phượng, bữa chiều nhà có bao nhiêu người ăn? – Nhỏ bạn hỏi.

- Có ba, má, có anh Trung, ta và mi.

- Còn chị Trang?

- Chị Trang ăn cơm đằng dì.

Thế là cả hai sửa soạn làm cơm. Phượng nghĩ về ông nhà văn “tên Cao Kều”, Phượng biết các bạn hữu trong làng văn vẫn gọi đùa ông ta như vậy. Một cô gái nhảy đã sống già nhân ngãi non vợ chồng với ông ta, khoảng ba bốn năm gì đó, sau đành chia tay nhau, vì người đàn bà nào chẳng mong có con bồng, mà ông ta thì cương quyết bảo vệ tự do, thứ tự do của chim đại bàng vỗ cánh, không muốn vướng vào cảnh thê tróc tử phọc. Phượng biết chuyện đó. Thuở ông ta chưa bị bắt, Phượng và nhỏ bạn đã mấy lần ngồi ăn tại tiệm hủ tiếu Nam Vang ngoài đường lớn bắt gặp ông ta từ trong hẻm đi ra – hoặc một mình, hoặc với bạn. Nơi căn nhà lầu trong hẻm rộng và lịch sự đó, ông ta ở với gia đình người anh cả. Ông ta hoàn toàn chiếm căn trệt, gia đình người anh cả hoàn toàn ở trên lầu một và lầu hai, có thang lầu bên ngang hông nhà. Ông ta được toàn thể gia đình người anh cả cưng chiều. Ông ta sống thật thoải mái, thật độc lập – đúng như sở nguyện - ở tầng dưới cùng đó, bằng hữu tha hồ tới lui tán láo, nhậu nhẹt.

Ai muốn đọc sách thì đọc, cả một dãy kệ sách dọc tường đó – sách được xếp thứ tự và phân loại rất khoa học. Ai muốn viết lách gì thì viết – bốn năm chiếc bàn nhỏ và ghế gấp trong phòng đó.

Những điều này nhỏ bạn vừa làm cơm chiều vừa bổ túc cho Phượng hay. Má đã ở đằng nhà dì về. Anh Trung đã từ nơi anh làm việc về - nhà thương Phúc Kiến cũ, đường Nguyễn Trãi. Công việc xào nấu bắt đầu. Đôi lúc giữa công việc tíu tít, Phượng tự bất chợt thấy mình quy tụ ý nghĩ về sáng ngày Chủ nhật sắp tới sẽ gặp ông nhà văn. Có nên quan trọng hóa vấn đề? – Phượng mỉm cười tự hỏi. Trước đây, thuở con gái mới lớn, nương theo ba, Phượng ngẩng nhìn ông nhà văn như một vì sao xa long lanh trong vũ trụ.

Ngày ông ta tới trường diễn thuyết, ngôi sao đã được Phượng nhìn qua viễn vọng kính, thật gần gũi mà vẫn xa xôi. Và ngày nay, ông đi tù về, Chủ nhật tới… Phượng như ngồi trên vệ tinh nhân tạo sắp hạ xuống sao Kim, sao Mộc, thực mục sở thị nhìn đất, nhìn đá những nơi đó. Hẳn cũng như đất đá trên trái đất thôi!

4

Quả nhiên ông ta tiếp Phượng như tiếp một độc giả, không khí cởi mở, thoải mái như từ bao giờ vẫn vậy. Nhỏ bạn thì đã tự coi như người nhà rồi, gọi anh xưng em rất tự nhiên, điều này đã giúp Phượng tránh được bao bỡ ngỡ, lúng túng ban đầu. Cũng theo nhỏ bạn, Phượng gọi ông ta bằng anh xưng em. Ý thức Phượng luôn luôn sáng suốt bám vào hình ảnh Phượng đương từ một vệ tinh nhân tạo bước xuống thám hiểm sao Kim, sao Mộc. Thì cũng đất đá như đất đá trên trái đất thôi! Dù sao ông ta cũng là người mà!

Chủ khách nào đã kịp trao đổi câu nào thì một người bạn già của ông ta tới. Người bạn già trạc ngót sáu mươi, hơn ông ta đến cả chục tuổi. Người bạn già dáng gầy, mặc áo sơ-mi sờn vai, đôi chỗ có vài lỗ thủng. Chiếc quần Tây ông mặc cũng đã cũ, có khoảng đường chỉ tuột mất để lộ phần sơ-mi bên trong. Riêng đôi giày ông ta đi khá sang, chứng tỏ một thời vàng son trước 1975. Không khí giữ nguyên vẻ thân mật, tựa hồ ông bạn già ấy đã gặp Phượng ở đây nhiều lần. Mãi về sau này Phượng mới hiểu nếp sống nơi đây là vậy: Bất kỳ ai, hễ qua ngưỡng cửa vào nhà là coi như chỗ quen biết cũ rồi.

Ông nhà văn cười giòn giã nhận xét ngay về đôi giày của ông bạn già:

- Làm gì mà diện giày véc-ni oai thế? Không có sandale phải không?

Ông già hưởng ứng ngay lời nhận xét:

- Đúng!

Chính ông bạn già cũng chưa kịp nói gì thì ngoài cửa có tiếng những bước chân rầm rập của nhiều người, và tiếng một người hỏi lớn:

- Có nhà không tên Cao Kều?

Ông nhà văn lêu đêu đi vội ra phía cửa, bóng đổ về phía trước đáp ngay:

- Có ta!

Vừa lúc ba người ấn cửa vô, hai nam một nữ. Họ ồn ào ngang nhau. Một người nam ôm hộp gỗ lớn sơn đen, đặt xuống bàn, mở ngay ra: bên trong, chiếc saxophone đẹp mượt mà mạ kền sáng loáng của nhạc khí lúc đó mới làm nổi bật màu quần áo cũ rách nữa của hai người nam, cả hai đều khoảng bốn mươi lăm tuổi, riêng người nữ khoảng bốn mươi, áo quần chải chuốt hơn. Các nữ nghệ sĩ bao giờ cũng thận trọng trong cách làm dáng và ăn mặc – Phượng biết.

- Cậu xem, tớ hứa là làm – chàng nhạc sĩ nói với nhà văn – hôm nay đủ bộ ba chúng tớ: sắc-xô sĩ, nam ca sĩ, nữ ca sãi.

- Được lắm, cám ơn các ông bà – ông nhà văn đáp – nhưng để giới thiệu cái đã. Đây là cô Trinh (tên nhỏ bạn) và cô Phượng, hai nữ độc giả tới thăm. Và đây là…

- Hiếu Phang, biết rồi – chàng nhạc sĩ ngắt lời – Hiếu Phang là Khoái Phang người ta phải không đại huynh?

Người bạn già cười hiền lành, điềm đạm, nụ cười của nhà Nho xưa. Nam ca sĩ nói đùa:

- Trông ông anh thì không ai ngờ lại là tác giả những bài thơ thật cay độc phang thiên hạ trong mục Đàn Ngang Cung tuần báo Vịt Trời. Tôi còn nhớ một số thơ phang của anh.

Nữ ca sĩ hỏi:

- Anh Hiếu Phang còn nhớ nhà thơ lão thành Hoàng Lăng?

- Có, có.

- Anh có nhớ bài thơ Hoàng lão hữu đọc tặng anh vào dịp họp tất niên văn nghệ sĩ tại Câu lạc bộ đường Tự Do năm trước giải phóng?

- Nhớ mà… quên rồi.

- Em còn nhớ hai câu thôi:

Người ta hiếu lợi, hiếu danh

Có ai mà lại như mình… hiếu phang.

Tiếng cười vang nhà. Tiếng saxophone cũng vừa òa lên làm thành một dòng âm thanh ánh sáng. Phòng khách rộn rã hẳn, ấm cúng hẳn.

Có tiếng những bước chân xinh vội vã xuống thang lầu bên ngoài, rồi hai đứa trẻ bước qua cửa ngang xông vô phòng, đứa chị gái khoảng 12, 13 tuổi, đứa em trai khoảng 8, 9 tuổi – hai đứa con người anh cả. Em trai đôi mắt sáng ngời nói với chú (ông nhà văn):

- May quá chú ha! Hôm nay cháu được ở nhà ha!

Ông nhà văn vỗ vỗ lên má thằng bé:

- Ờ được, hai đứa bay ngồi nghiêm chỉnh ở đây mà nghe.

Tiếng saxophone dứt câu dạo, vào bài. Dáng chàng nhạc sĩ tấu nhạc say mê, Phượng mỉm cười nhìn rặng râu mép của chàng như con sâu róm rung lên cùng nét nhạc trông thật ngộ nghĩnh.

Phượng nhận ra ngay “Bài Ca Sao” của Phạm Duy. Tiếng sắc-xô độc tấu tình tự, nỉ non, kể lể. Rồi người nữ ca sĩ cất tiếng trước – rất điêu luyện, dĩ nhiên – giọng người nam dập dìu theo sau, điêu luyện không kém, lúc ẩn lúc hiện:

Sao Tua chín cái (ối a) nằm kề

Thương em từ thuở mẹ về (là về) với cha

Sao Vua sáu cái (ối a) nằm xa

Thương em từ thuở người ra (ối a) người vào

Giọng nam, giọng nữ cùng quấn quýt nhau vào điệp khúc như hai con rắn quấn nhau trong lười lĩnh dìu dịu sau phút ái ân:

Sao mơ sáu cái (ối a) nằm chầu

Sao Khuê mấy cái (ối a) nằm đâu

Chàng nhạc sĩ ngửa cổ, đôi mắt nhắm lại, những ngón tay bấm nốt run lên, chiếc sắc-xô như con trăn bạc ngẩng đầu, âm thanh thoát ra tựa như vì thế mà thiết tha lên bội phần. Cặp nam nữ nghệ sĩ đã cùng dìu nhau ra đứng giữa phòng như thuở nào cùng đứng trước chiêc micro trên sân khấu. Giọng người nữ vút lên còn thiết tha hơn tiếng kèn vì đây là tiếng người:

Sao đôi hai cái (ối a) nằm chồng

Giọng nam thực rõ như ôm lấy người tình lẳng lơ:

Thương em từ thuở mẹ bồng… (mẹ bồng) mát tay

Cả đôi thân hình nam nữ cùng thoáng gợn một nét uốn éo, đôi cặp mắt cùng liếc tìm nhau ỡm ờ, nụ cười tình tứ, đôi giọng hòa quyện:

Sao hoa ba cái (ối a) nằm xoay

Thương em từ thuở được vay (ối a) nụ cười

Rồi lại vào điệp khúc với hình ảnh hai con rắn lười lĩnh dìu dịu sau phút ái ân:

Sao băng bay vút (ối a) vào đời

Sao sa rơi xuống (ối a) lòng vui

Điệp khúc cuối cùng, Phượng cúi xuống theo dõi lời ca, không dám ngẩng nhìn, vì nước mắt rưng rưng:

Sao Vân muôn cái (ối a) mịt mùng

Thương em từ thuở nghìn trùng (nghìn trùng) cách chia

Sao quanh theo gót (ối a) người đi

Thương em chỉ có trời khuya (ối a) nhìn về

Lần này điệp khúc thật dịu… thật dịu… như nức nở trong thoi thóp:

Sao ơi! Sao hỡi! (ối a) Buồn gì? Sao ơi! Sao hỡi! (ối a) Buồn chi?

Bài ca rõ ràng muốn ca ngợi niềm vui của tình yêu, nhưng tình yêu sao mong manh trong cái yên tĩnh mênh mông của vòm tinh tú xoay vần. Mọi người đều vỗ tay trừ hai đứa nhỏ. Thằng bé nhìn chằm chằm nơi ba người trình diễn, miệng xinh há ra, thán phục. Một con mèo xinh tam thể đã từ trên gác xuống nhảy lên đùi cô bé. Cô bé ôm lấy mèo, tay lơ đãng vuốt ve, nhưng cũng như em, hướng nhìn về ba người trình diễn, chờ đợi. Vừa lúc một cô gái khoảng 20 tuổi, khuôn mặt thông minh, hiền, bưng một khay lớn trên bày sáu tách trà, một bình đường thỏi, tất cả cùng màu sứ trắng nõn điểm những hoa và đường viền trang trí màu xanh cẩm thạch. Rất thành thạo cô gái rót trà vào sáu tách nước rồi mời:

- Xin mời cô, bác xơi nước. Ông nhà văn gật đầu hài lòng:

- Tốt lắm. Đây là cháu lớn con ông anh tôi, chị của hai đứa nhóc này. Nó còn thằng anh nữa, vượt biên trước ngày tôi về sáu tháng, hiện đã định cư ở Canada, đã gửi được một thùng quà về rồi, coi mòi có thể mỗi tháng một thùng. Thế là đủ cho cả nhà tiêu dùng đấy các cụ ạ.

Cô gái nói nhỏ với hai em, cả ba cùng rón rén ra khỏi phòng.

Ông nhà văn phân phát sáu chiếc muỗng nhỏ đặt ở góc khay trà cho mỗi người, giọng sang sảng:

- Nào mời quý vị uống trà đã, rồi chương trình văn nghệ tiếp tục sau. Đây là trà ướp hoa nhài, Hồng Kông sản xuất, một ông bạn mới cho tôi hôm qua. Đường thỏi đây là quà Canada thằng cháu mới gởi về cho gia đình. Ông anh tôi về thăm quê hương miền Bắc được ba tuần rồi, tiện thể cải táng cho cụ thân sinh ra chúng tôi, chắc chỉ tuần sau anh tôi trở vô.

- Thế được tha về ông chưa gặp ông anh à? – Nhà thơ Hiếu Phang hỏi.

- Nào đã được gặp! Chuyến này trở vô thấy tôi đã lù lù ở nhà ông ấy sẽ mừng phát khóc. Cứ dự đoán của ông thì cỡ tôi là tù “mút mùa”. Uống trà đường đi, quý vị. Tôi khoái trà đường.

Mọi người quậy đường, uống trà, nói chuyện vui, không phân biệt bạn mới, bạn cũ đã đành, không chú ý đến cả tuổi tác nữa.

Chàng nhạc sĩ lại ôm lấy chiếc saxophone trước, một dòng âm thanh điêu luyện vang lên ngọt ngào. Chàng dừng lại nói với ông nhà văn:

- Thôi bọn tôi trình diễn tặng ông một bản nữa rồi còn phải đi làm ăn, xin hẹn lần sau.

- Ủa, thế các ông bà còn đi đâu? Nữ ca sĩ cười khanh khách:

- Đã bảo đi làm ăn mờ lị. Bộ anh tưởng vẫn còn thời vàng son cũ hay sao? Năm năm “xã hội chủ nghĩa tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” rồi ông ơi…

Và nàng vào bài ca ngay vì tiếng sắc-xô vừa dứt câu dạo. Nàng hát bản “Xuân Ca” cũng của Phạm Duy. Bài ca cũng có vẻ ngắn gọn như “Bài Ca Sao” nhưng âm hưởng cũng dằng dặc u hoài:

Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui Một đêm, một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về

Xuân âm u lắt leo trong nguồn suối mơ

Bừng reo rồi theo nắng lên từ cha chói chang lòng mẹ.

Điệp khúc là lời kêu gọi chới với… thiết tha… níu kéo…

Xuân, xuân ơi! Xuân ới! Xuân ơi! Xuân, xuân ơi! Xuân ới! Xuân ơi!

Nhưng lần này chính tiếng sắc-xô lên ngôi. Tiếng sắc-xô ôm lấy giọng ca thuần thục như bóng theo hình. Nhưng khi giọng ca ngưng nghỉ, hình như biến đi, bóng bỗng vô cùng sinh động lên ngôi thực thể. Tiếng sắc-xô vẫn nương theo nét nhạc

Phạm Duy nhưng góp phần tái tạo theo ngẫu hứng sinh động, nhởn nhơ, uốn éo, đùa cợt. Chợt cao lên như tiếng yêu tinh động cỡn hú lên một tiếng khát tình, rồi lại hốt hoảng rơi hẫng xuống thành tiếng khóc nấc của lòng tự hối trong đêm khuya, vừa kể lể vừa thấm nước mắt. Từ vùng thung lũng âm u vướng mắc đó, tiếng kèn vang lên lần nữa như nụ cười sượng sùng ngơ ngác, vẫn ngẩng nhìn vùng tinh thần cao khiết, vẫn khao khát nhục cảm níu kéo.

Chính ông nhà văn ôm lấy chàng nhạc sĩ khi bản nhạc vừa chấm dứt:

- Tình dục đã được âm thanh của cậu vũ trụ hóa cho đẹp đến não nề.

Nhạc sĩ cười hô hố, xếp kèn vào hộp, đậy nắp lại, lắc lắc cái đầu:

- Cám ơn, cám ơn lời khen của ông.

- Tôi hiểu – vẫn lời ông nhà văn – vì sao trước đây, một lần cũng trong cuộc họp bằng hữu như thế này, cậu đã toan trình tấu rồi lại thôi, chỉ vì nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên tường.

Nhạc sĩ lại lắc đầu cười hô hố to hơn:

- Tính tôi nó vậy ông ơi. Tôi thổi điệu nhạc là chân thành dâng lên cái Đẹp, cái Thiện. Làm sao thổi được kèn khi nhìn thấy hiện thân của cái gian dối, cái xấu, cái ác?! Như ý ông đã nói với phái đoàn Ân xá Quốc tế đó, đất nước bất hạnh này ngót ba mươi năm tan nát, văn hóa băng hoại. Suốt dòng lịch sử ngót năm ngàn năm, chỉ có những tên bán nước, riêng hắn bán tới linh hồn đất nước. Đúng là tên giặc già vô tiền tuyệt hậu của lịch sử dân tộc!

- Chúng ta nhất định tạm ngừng ở đây hả? - Ông nhà văn hỏi lại lần nữa.

- Mần ăn mà! – Nam ca sĩ đáp.

- Mần ăn gì? – Nhà thơ Hiếu Phang hỏi. Chàng nhạc sĩ tự chỉ mình, rồi chỉ nam ca sĩ:

- Tôi với thằng này hợp tác làm xe củi cung cấp cho một số anh em văn nghệ sĩ nhà. Tôi không thể không hợp tác với thằng này, vì tôi thì què, mà anh em văn nghệ sĩ thì có tên ở tận lầu ba lận, phải có nó khuân củi lên chứ!

Lúc ấy Phượng mới chú ý tới dáng đi tập tễnh của chàng nhạc sĩ với chiếc quần nhà binh gấu sờn và khoảng đầu gối lạt màu sắp rách.

Nữ ca sĩ tiếp lời chàng nhạc sĩ:

- Còn ngu muội thì phải ra góc đường Lê

Thánh Tôn–Nguyễn Trung Trực: chợ trời thuốc Tây.

Dĩ nhiên nhỏ bạn và Phượng cũng từ biệt ông nhà văn ra về với mọi người. Hai đứa đi sau cùng. Phượng thấy lòng rưng rưng ngắm nhìn các bậc trưởng thượng đi trước. Nhà thơ trào phúng gầy gò, hiền lành, áo sờn vai, giày véc-ni bóng loáng một cách khôi hài, quần sứt chỉ để hở màu vải sơ-mi bên trong. Chàng nhạc sĩ ôm hộp kèn đi tập tễnh, chàng ca sĩ cao lớn nương bước chậm hơn một chút để chờ bạn, quần áo cả hai cùng bạc thếch màu thời gian cũ kỹ. Nàng ca sĩ diêm dúa hơn một chút như một bông hoa le lói chấm phá cho một vùng vừa bị bão tàn phá. Họ mãi mãi là những vì sao trên biển trời vằng vặc. Phượng thấy yên lòng, thấy kiêu hãnh vì họ. Phượng hiểu vì sao trên thế giới, bất kỳ nơi đâu, những kẻ nắm chính quyền không bao giờ quên ve vãn những con thiên nga tuyệt vời đó. Chỉ có một điều khác:

Ở thế giới tự do những người làm văn nghệ có toàn quyền muốn giao thiệp với chính khách nào họ ưa; trái lại ở thế giới Cộng sản – hãy nói thế giới Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh – những cánh chim đại bàng được tháp thép cho hết đường bay bổng. Chúng cấp lương tháng như vãi cơm cho bầy thú ngoan ngoãn nuôi trong nhà. Những trái núi tiền chiến đã bị xoi mòn hủy diệt cho thành những hòn giả sơn hèn mọn. Có những cánh đại bàng lồng lộn vùng bay, bị lưới thép chụp, bị tên đồng xuyên nát cánh, rụng xuống sân nát bấy như những trái ủng. Triều biển lên. Cửa sông rềnh. Ếch nhái hòa ca: “Hãy trông Bác muôn vàn kính yêu lùa biển vào sông, nhốt biển vào đầm!” Và khi nước ròng ra khơi để lại vũng lầy nông cạn, ếch nhái ca ngợi vũ trụ trăng sao Bác, Đảng: “Ba mươi năm đời ta có Đảng…” “Trong đầm gì đẹp bằng sen, trên đời đẹp nhất có tên Bác Hồ…”, “Về thăm quê Bác…” “Rừng cây ru Bác ngủ ngon lành…”

Vài bài học đầu tiên Phượng học được trong buổi gặp mặt đầu tiên này là: Nghệ thuật không có tuổi. Những con người phục vụ nghệ thuật thật sự, họ trẻ mãi không già, họ có thể què quặt, có thể đui điếc, có thể rách rưới, nhưng họ vẫn giữ được cái đẹp riêng không một đạo luật đui mù nào hủy diệt nổi. Phượng thấy ông ta – ông nhà văn – lẫn vào làm một với cả dòng lịch sử bi thảm não nề đầy thua thiệt của đất nước. Tiếng sắc-xô lẳng lơ khiêu khích không xóa nổi cảm giác đó của Phượng.

Đã ra tới đường lộ chính thênh thang, nhỏ bạn nắm lấy tay Phượng, còn Phượng thì ngẩng nhìn trời cao.

CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Bài Học Lịch Sử

1

Bữa cơm chiều không thấy anh Trung, Phượng hỏi ba:

- Anh Trung hôm nay trực ở nhà thương sao, ba?

- Nó đi Rạch Giá mà.

- Ủa sao con không thấy anh nói gì với con?

- Nó bảo cùng phái đoàn y tế đi tham quan một nhà thương ở Rạch Giá, rồi kế đó đi thăm mấy nhà thương khác cũng ở miền Tây.

- Anh có nói bao giờ anh về không ba?

- Nào tao biết!

Sau khi anh Trung được thả tự do mười lăm ngày, một người bạn đang làm ở nhà thương Phúc Kiến giới thiệu anh với Ban lãnh đạo nơi này, rồi Sở Y tế chấp thuận. Anh từng là bác sĩ giải phẫu hữu hạng, nhờ thiên bẩm cũng có, nhờ hoàn cảnh chiến tranh trước đây cũng có. Thường khi thấy đủ hai đứa em gái (Trang, Phượng) ở nhà, thì điều gì vui buồn đáng nói mà anh gặp nơi nhà thương, anh thuật lại bằng giọng vui tếu của mình. Người Tàu các bang Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông tới Việt Nam nắm hết các nguồn lợi kinh tế xuất nhập cảng, thành các ông vua tư bản. Mỗi bang đều có xây nhà thương riêng, vừa để phục vụ người Tàu thuộc bang đó, vừa là cách đáp lễ khổ chủ Việt Nam. Nhà thương bang Phúc Kiến tối tân nhất, đầy đủ tiện nghi nhất, nay không còn là nhà thương tư nữa mà là nhà thương của Nhà nước xã hội chủ nghĩa chuyên chữa cho cán bộ trung và cao cấp.

Thuở anh Trung mới nhận việc thì gặp một toán chừng hai mươi y sĩ Trường Sơn tới thực tập nốt bốn tháng cuối cùng của ba năm bổ túc để được công nhận thành bác sĩ. Danh từ “y sĩ Trường Sơn”, “y tá Trường Sơn” dùng để chỉ giới “y tế Việt cộng”. Những lần gặp nhau, nhất thiết anh Trung mời cái gì họ cũng từ chối. Thì ra họ đã được chỉ thị tuyệt đối tránh… mua chuộc cấp trên, sợ họ một khi đã quen hưởng thụ khó bề tránh khỏi hủ hóa. Tới bữa ăn trưa, họ phải trở về trụ sở - trường Quân y – cùng ăn. Nhiều người vốn là Trưởng ty Y tế bị bẫy đi tu nghiệp, để khi trở về chỉ còn là bác sĩ điều trị, mất hết quyền lợi Trưởng ty cũ. Đã vậy, lương y bác sĩ mới còn mất thâm niên, không bằng lương y sĩ cũ. Vui tính và tếu như anh Trung mà chuyện này đã làm anh suy nghĩ nhiều ngày. Anh thương đám y sĩ Trường Sơn bị bao vây gò bó trong kỷ luật khắc nghiệt phi nhân; anh thương cả lâu đài trí thức miền Nam như con bò mộng bị vít sừng dìm xuống vũng lầy cho sinh lực và tiềm năng tàn lụi dần. Những kẻ đã tốt nghiệp đại học trước 1975 như anh thì hoặc còn ở trong tù, hoặc được dùng với mọi dè dặt. Tại trường thuốc miền Nam, kể cả những kẻ đã học lên đến năm thứ ba, nếu xét lý lịch trong nhà có người đi cải tạo, đều bị gạt khỏi trường tức thì. Trên toàn quốc, nền đại học kỹ thuật khoa học chuyên môn là một ân huệ, không hề căn cứ vào khả năng. Không là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản thì đương nhiên bị gạt khỏi đại học, không được đi nước ngoài. Với đám đoàn viên, đảng viên, thì dù dốt, thiếu khả năng, cũng vơ bèo gạt tép nhận cho vào học mọi ngành. Trình độ chuyên môn xuống cấp thê thảm.

Cũng may mối sầu thời sự của anh – lời anh vẫn dùng – được nguôi đi do những thắng lợi cứu nhân độ thế của anh – lời chị Trang vẫn nói đùa. Vào một buổi sáng, người cán bộ trung cấp đó đèo vợ trên một chiếc Honda đương phóng trên đường đi Hóc Môn thì xe lừ đừ muốn tắt máy vì hết xăng. Người cán bộ vội cúi xuống mở réserve, không may vì sơ ý cúi đầu không nhìn lên mà xe lao ào một càng xe chở đồ để không bên lề đường, càng xe xuyên qua bụng ra đằng sau. Người vợ cuống quýt đưa chồng đến Y tế quận thì lại không đúng… tuyến. Phải mất hai giờ rưỡi sau giấy tờ mới làm xong, chuyển tới bệnh viện Phúc Kiến thì nạn nhân đã ngáp ngáp rồi. Anh Trung lập tức cho lên bàn mổ. Máu đã mất nhiều, phải mổ tươi gấp, rồi mới tiếp dần khoảng hai lít rưỡi, đủ lượng máu để chịu được mũi tiêm Nesdonal – một loại thuốc ngủ - và chụp éther không sợ ngộp. May thay, càng xe xuyên đúng giữa khoảng thận và động mạch chủ. Nếu rủi chạm động mạch chủ thì nạn nhân đã chết từ lâu. Anh Trung phải cắt nhiều đoạn ruột, tổng cộng tới một thước; anh phải khâu dạ dày, rửa vá và khâu vết thủng bên ngoài. Cuộc giải phẫu thập tử nhất sinh kéo dài bảy tiếng đồng hồ. Anh chỉ biết giải phẫu thật thận trọng, từng đường cắt, từng mũi kim khâu, không thể có trường hợp nhiễm trùng, tuy nhiên anh không dám hy vọng quá nhiều ở sự cứu sống. Vậy mà nạn đã được cứu sống. Anh bằng lòng anh, dám có thể ví như ông nhà văn vừa hoàn thành một tác phẩm lớn! Xong cuộc giải phẫu anh muốn té xỉu.

Anh cười giòn tan hỏi hai cô em gái:

- Các cô có biết sau mỗi giải phẫu như vậy, Nhà nước cho lĩnh phụ trội bao nhiêu tiền không?

Phượng lẹ miệng ước đoán:

- Năm chục!

Anh Trung cười lớn hơn, đồng thời giơ hai ngón tay lên:

- Hai đồng! Không đủ để mua một quả trứng gà ăn la-coóc.

Một lần về, anh thuật lại một chuyện bực mình. Anh khám bệnh cho một cán bộ cao cấp, thấy thiếu máu bèn kê toa cho mua Campolon tiêm.

Một tuần sau anh bị Sở Y tế cự nự và nhắc lại là bác sĩ không được biên toa cho mua thuốc ngoài. Nhà thương có gì dùng nấy. Nguyên do: niềm kiêu hãnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là y tế phục vụ nhân dân miễn phí. Thuốc không đủ, nhưng Nhà nước không chịu nhận điều đó, mất mặt! Hãy dùng thuốc… dân tộc, đặc biệt loại thuốc “bách bệnh”: Xuyên tâm liên! Bệnh gì cũng được cho uống Xuyên tâm liên! Trường hợp anh Trung ghi toa cho người cán bộ cao cấp mua thuốc ngoài, kế đó người cán bộ đã đem toa lại Sở Y tế đòi bồi hoàn phí tổn. Phục vụ nhân dân quá nửa đời người mà phải xuất tiền túi ra mua thuốc sao?! Sở Y tế buộc lòng phải bồi hoàn và… “giũa” ông bác sĩ nào đã theo lương tâm nghề nghiệp cho đơn mua đúng thứ thuốc mà nhà thương không có.

Chị Trang hỏi, vẻ mặt như một người đau quặn ruột:

- Bệnh nào cũng cho uống Xuyên tâm liên, chết thì sao?

Anh Trung đáp:

- Riêng anh, anh đã giải quyết trường hợp mâu thuẫn đó như thế này. Anh nói riêng với cán bộ bệnh nhân: “Bệnh đó phải mua thêm thuốc này mới khỏi.” Anh ghi ra tờ giấy nhỏ cho người đó muốn mua thì mua. Anh không bị lương tâm thầy thuốc cắn rứt mà cũng không sợ trường hợp phản phúc đòi bồi hoàn.

Câu chuyện mới nhất tới với anh vừa buồn vừa vui là chuyện một cán bộ cao cấp được anh mổ ruột dư cho. Thoạt anh chỉ cắt một vết nhỏ vừa đủ thò hai ngón tay vào, nhưng tìm không thấy ruột dư đâu, anh mở rộng thêm vết cắt tới mười ba phân mới tìm thấy đuôi ruột dư dính khoảng sau gan. Anh nói:

- Các cô biết không, với anh, mổ ruột dư trường hợp bình thường, từ lúc rạch mũi dao đến lúc khâu xong vết thương, chỉ cần mười phút. Vậy mà lần “ngựa về ngược” đó phải gần ba tiếng đồng hồ.

Phượng cười hỏi anh:

- Lần đó anh được lĩnh phụ trội bao nhiêu? Anh đáp rất trịnh trọng:

- Mổ ruột dư như vậy được nâng lên hàng trung phẫu, lĩnh thêm… một đồng.

Chị Trang nói với Phượng:

- Mi thấy không, vì vậy mà bao nhiêu lần má giục anh lấy vợ, anh không dám lấy!

Anh Trung cười xòa dễ dãi, nhưng câu chuyện đến đoạn thô bỉ.

Chiều thứ sáu hôm đó, sau một ngày ăn sữa và một ngày ăn cháo thịt, anh cán bộ đói bèn đề nghị với anh Trung xin cho ăn cơm. Anh Trung nhận lời, nhưng vì hôm đó khám nhiều bệnh nhân quá, buổi chiều anh quên khuấy dặn nhà bếp. Trưa thứ bảy thấy vẫn ăn cháo, anh cán bộ sỉ vả cô nữ y tá vừa bước vô phòng:

- Chúng bay là đồ dã man, kể cả từ thằng bác sĩ trở xuống! Chúng bay chỉ biết đùa giỡn nhau suốt ngày, bỏ đói bệnh nhân. Tao sẽ làm đơn tố cáo bọn bay lên Quốc hội.

Cô nữ y tá khóc ròng khi thuật chuyện lại với anh Trung.

Phượng hỏi:

- Cô nữ y tá đó xinh không anh?

- Xinh đó! – Anh đáp – Anh cũng muốn rút khăn tay lau nước mắt cho cổ, nhưng e lọt vào quỹ đạo yêu đương phải cưới cô làm vợ. Đất nước còn nạn Cộng sản, anh chưa muốn lấy vợ!

Dứt tiếng cười của ba, anh Trung kể tiếp khi anh đến khám những người gần đấy, tên cán bộ tiếp tục chửi đổng hết sức thô bỉ, nói cạnh nói khóe. Đợi hắn dứt lời, anh lên tiếng nói chung với toàn phòng:

- Ở đây nếu các anh có điều gì không vừa ý xin nói thẳng với bác sĩ điều trị hoặc phản ảnh với Ban lãnh đạo, đừng nói những lời có hại uy tín đến những cán bộ trung cấp, cao cấp.

Anh nói thẳng với tên cán bộ đó:

- Chiều thứ Sáu vì thăm quá nhiều bệnh nhân tôi quên khuấy không dặn nhà bếp thêm suất cơm hôm ấy. Điều này tôi nhận lỗi. Dù báo hôm trước, hôm sau mới có suất cơm, nhưng tôi bảo đảm với anh là chiều nay anh ăn cơm. Cô y tá không có lỗi gì. Anh làm đơn tố cáo lên Quốc hội xin đề tên một mình tôi: Võ Minh Trung.

Khi anh Trung ra khỏi phòng, đám bệnh nhân bất bình ra mặt về thái độ thô bỉ của tên cán bộ. Có người nói thẳng là y vô ơn bội nghĩa với người bác sĩ đã mổ cứu sống y.

Anh Trung gọi phone xuống nhà bếp nói là bằng mọi giá chiều nay phải có phần cơm cho anh cán bộ phòng đó, nếu không anh sẽ bỏ tiền túi ra mua suất cơm hàng ngay trước cửa nhà thương. Anh phụ trách nhà bếp cũng là dân vui tính, nói:

- Ông thầy cứ yên chí lớn đi! Cơm và canh thì bao giờ cũng thừa, còn món xào thì rút một phần tư miếng thịt của hai trăm phần ăn cũng dư cho cả ông thầy ăn nữa.

Qua đi ngày Chủ nhật, sang ngày thứ Hai, cô nữ y tá nói với anh Trung:

- Thôi bác sĩ ký giấy cho nó xuất viện đi. Ăn cơm rồi khỏe rồi.

Anh Trung bảo cô y tá là không được vì như vậy dễ bị ngộ nhận mình trả thù. Anh để người cán bộ nằm dưỡng bệnh đến cuối tuần rồi nói anh sẽ ký giấy cho y nghỉ ở nhà thêm năm hôm nữa mới phải tới sở làm. Y xin cho gấp đôi số đó nghĩa là mười ngày nghỉ dưỡng sức tại nhà. Anh Trung đồng ý ngay, nhưng anh cũng nửa đùa, nửa thật nói với tên cán bộ:

- Tôi thực tình giúp anh nghỉ cho lại sức, không phải vì sợ anh tố cáo lên Quốc hội đâu nhé.

Ngày anh chàng xuất viện, anh để lại hai bức thư: một gửi ban lãnh đạo viện Phúc Kiến, một gửi Sở Y tế nhờ ban lãnh đạo viện chuyển. Thoạt anh Trung cho là “thằng chả” thế nào cũng chơi mình. Nhưng không, cả hai bức thư đều ca ngợi bệnh viện đã chăm sóc bệnh nhân cực kỳ chu đáo, đặc biệt bác sĩ Võ Minh Trung đã thực hiện đúng lời Bác dạy “lương y như từ mẫu”.

Chị Trang cười:

- Thế cũng là một chuyện cổ tích kết thúc có hậu.

Phượng nói:

- Câu chuyện sẽ thực sự có hậu nếu không có sự hiện diện của lời Bác xía vào!

Anh Trung cười lớn hơn cả:

- Ấy, điều đó mình phải chấp nhận. Trong thế giới này, cái gì Bác cũng xía vào để dính máu ăn phần một tí. Sau vụ thất bại Mậu Thân 1968, không thể dứt điểm chiếm trọn Huế, sang năm 1969 Bác chết uất như tam khí Chu Du. Chỉ tội nghiệp đám môn đệ đã bị Bác hút hết tinh lực, hoàn toàn vong thân, không tên nào trội hẳn lên được để thay thế Bác nắm vai trò lãnh đạo. Chúng thành đám cá mè một lứa, thiên tiên bất túc, tên nào cũng phải lấy Bác làm cái dù an toàn y như thuở Bác còn sống. Bác “vĩ đại” chính ở điểm đó: nọc độc còn hiệu nghiệm sau mười mấy năm trời khuất mặt.

Ôn lại kỷ niệm người anh vắng mặt bữa cơm chiêu hôm đó, tự nhiên Phượng thấy buồn muốn phát khóc. Buổi tối Phượng định lại đằng dì tìm chị Trang thì chị về.

Phượng hối hả nói:

- Chị có biết anh Trung đi miền Tây tham quan một số bệnh viện? Chắc phải một tuần anh mới về. Chị Trang cười chớp mắt:

- Vậy à?

- Thường ngày không sao, đến khi anh chợt vắng nhà, nhớ anh ghê.

- Vậy à?

2

Họa ra đi cùng các bạn trên chiếc tàu Hải quân ngày 29-4. Họa không quên – quên sao được – Phượng, không quên anh Trung, chị Trang và ba mẹ, nhưng thư nào viết về, Họa cũng chỉ đề cho chị Trang. Có lá thư sáu tháng mới tới tay, nhưng đôi khi một tháng mười ngày đã tới tay.

Mười ngày sau khi anh Trung đã đi “tham quan các nhà thương miền Tây” thì chị Trang tay cầm bức điện vừa nhận, nói lớn với cả nhà:

- Anh Trung tới Tân Gia Ba rồi ba má ơi. Má đặt tay lên ngực:

- Nó vượt biên à, mày?

Thì ra bằng thư từ Họa đã giới thiệu chị Trang với Điển, người bạn chí thân của mình trước là đại úy Hải quân từng đi học tập về. Điển khéo tổ chức được một mạng đưa thư tránh kiểm duyệt, tránh ngâm tôm, nên liên lạc thư từ giữa Điển và Họa rất chóng. Họa ân cần nhờ Điển, nếu tổ chức vượt biên, thì cố liên lạc với gia đình chị Trang mang đi tối đa. Mọi phí tổn sang bên đó – Họa định cư ở Hòa Lan – Họa bảo đảm sẽ thanh toán. Chị Trang tự biết mình và ba má chưa thấy cần thiết đi. Chị định gián tiếp hỏi ý kiến Phượng thì Phượng và nhỏ bạn đang tưng bừng sửa soạn gặp một ông nhà văn mới được trả tự do. Chị Trang ngỏ ý xin cho anh Trung đi trước, rồi đầu chạy đuôi lọt. Anh Trung ưng thuận với điều kiện bố trí như thể anh đi tham quan miền Tây cho đến khi chị biết rõ: hoặc anh thất bại, hoặc anh thành công. Anh đã thành công quá ư nhẹ nhàng. Đây là một trường hợp hy hữu, kẻ ra đi có mười ngày mà nhà đã nhận được điện báo tin thành công. Hai tháng sau, lá thư anh viết từ trại tị nạn Singapore tới tay nhà. Chuyến ra đi vừa rồi không phải do Điển tổ chức mà chỉ được mời làm tài công. Điển là đại úy Hải quân từng học ở Mỹ về và đã nhiều lần lắm lái tàu đi đi về về đường Sài Gòn–Singapore. Vì quá rành hải trình như vậy nên khi thoát ra hải phận quốc tế, Điển lái một lèo gần tới Singapore thì được tàu Thụy Điển nhận vớt. Tới trại tị nạn Singapore, cả anh Trung lẫn Điển đều xin được định cư tại Hòa Lan để cùng hợp tác về mọi mặt với Họa.

Cùng hôm nhận điện biết anh Trung đã tới Tân Gia Ba, cả nhà thở phào phúc đức, thì nhỏ bạn cũng vừa tới. Phượng yên tâm hào hứng nữa, cùng nhỏ bạn tới thăm ông nhà văn lần thứ hai. Theo ý kiến nhỏ bạn, nên đến thăm ông ta về chiều, ít khách hơn, có thể nói chuyện được nhiều. Phượng bèn chất vấn nhỏ bạn:

- Ờ giá như gặp dịp nói chuyện được nhiều, mình biết nói khỉ khô gì?!

Nhỏ bạn đáp tức khắc theo phong thái hồn nhiên của nó:

- Cứ nói đại đi chứ, gặp gì nói nấy. Mi nên nhớ ở đời cái gì cũng quan trọng và cũng không quan trọng. Bí quyết sống của tao là như vậy.

Phượng cười đáp vừa lúc hai đứa tới đầu hẻm vào nhà:

- Ờ ta sẽ theo bí quyết của mi!

Tưởng là tới thăm khoảng ba giờ chiều thì không có ai, vậy mà ông nhà văn đương tiếp ba người bạn văn nghệ cùng lứa tuổi xấp xỉ năm mươi. Ông nhà văn nhận ra Phượng ngay. Dĩ nhiên mọi người coi nhau như chỗ thân thuộc cũ. Câu chuyện xoay quanh đề tài lịch sử. Khi Phượng và nhỏ bạn vừa bước vào thì mọi người mới đề cập tới tuổi của trái đất khoảng trên bốn tỉ rưỡi năm, và khoảng một tỉ năm trước đây trái đất mới có những thực vật và động vật đơn bào sống ở dưới nước, rồi tiến hóa dần thành những động vật lưỡng cư Amphibians.

“Cứ nói đại đi chứ, gặp gì nói nấy… cái gì cũng quan trọng và cũng không quan trọng.” Phượng ôn thầm triết lý sống của nhỏ bạn, và thực hành liền:

Phượng: Thưa các anh, em nhớ sau những động vật lưỡng cư là loài bò sát lớn: khủng long. Sau khủng long khá lâu, loài chim và các động vật cao đẳng mới xuất hiện. Con người mới xuất hiện hơn một triệu năm cách đây thôi, thoạt kinh qua thời đại đồ đá mới, rồi đồ đá đẽo.

Ông nhà văn: Người tiền sử dáng đi khom khom, đầu nhô ra phía trước, răng lớn, cằm bạnh, sọ nhỏ, trán thấp.

Người bạn 1: Hãy so sánh người tiền sử với người lính Trường Sơn của Bác Hồ!

Người bạn 2: Nương vào kháng chiến chống Pháp, quy tụ được lòng tin thiêng liêng của toàn thể dân tộc, Hồ Chí Minh lên ngôi thần tượng. Kháng chiến thành công, Bác phản bội, tổ chức khắc nghiệt của Cộng sản giúp Bác giữ thế độc tài, mặc sức sử dụng nhân lực, vật lực phục vụ cho cuộc chiến tiền đồn xã hội chủ nghĩa. Dân chúng miền Bắc vĩ tuyến bị dồn trong u minh, trong thiếu thốn cơ cực, hàng hàng lớp lớp đi theo “đường mòn mang tên Bác”,. Khối óc bị bóp nghẹt xoi mòn, biến thành bầy khỉ Trường Sơn lúc nào không hay, tội nghiệp! Cho đến bây giờ, sau năm năm trời được tắm gội trong ánh sáng văn minh của miền Nam chiến bại, xin các anh chị ôn lại trong trí hình ảnh những người lính con nít gầy còm nhỏ bé, nón cối rộng thùng thình trên đầu, áo quần rộng thùng thình và nhàu nát và cũ kỹ che thân, chân nong dép râu, ngơ ngác đi giữa kinh thành Sài Gòn, tôi thấy họ gần hệt người tiền sử vừa nói trên (lắc đầu), xin các anh chị tha lỗi, tôi đi lạc đề, nhưng… giận quá!

Người bạn 3: Nhân danh cựu giáo sư Sử Địa tôi xin nhắc lại cùng quý anh chị: Kể từ khoảng

4.000 năm trước Thiên Chúa trở đi, sang thời đại đồ đồng, đời sống đã được cải thiện rõ rệt tại Ai Cập, dọc theo sông Nile và miền Tiểu Á vùng Lưỡng Hà – Tigris và Euphrates – thì văn minh nhân loại mới thật đạt tới tiêu chuẩn để bước ra khỏi thời kỳ tiền sử mà sang thời kỳ có sử - historic period – tức là từ văn minh đồ đá sang văn minh duyên giang, biết phát triển chữ viết để ghi chép, biết dùng kim khí, cải thiện giao thông, biết thiết lập một chính phủ hữu hiệu.

Ông nhà văn: Nói theo danh từ Cộng sản là đã có phân chia giai cấp rõ rệt, đã có giai cấp đấu tranh.

Nhỏ bạn Trinh: Nền văn minh Ai Cập bắt đầu phát triển tại sông Nile nổi tiếng về Kim Tự Tháp, nổi tiếng về kênh đào nối sông Nile với Hồng Hải, cống hiến cho cả vùng Cận Đông hệ thống toán học đo lường chính xác, có phải không ạ?

Người bạn 3: Và những công trình kiến trúc có cột trụ nữa, Ai Cập tới đây đã phát triển thành đế quốc, uy quyền bao trùm lên các sắc dân khác xung quanh.

Người bạn 1: Kế tiếp hẳn là văn minh Hy

Lạp? Tôi vốn dốt về Sử.

Người bạn 2: Chưa tới văn minh Hy Lạp đâu, còn phải kể miền Lưỡng Hà nữa, nhưng tôi quên mất rồi, phải cầu cứu giáo sư Sử Địa thôi.

Người bạn 3: Tại miền Lưỡng Hà vào năm

3.000 đến 2.000 trước Thiên Chúa, những người

Sumérians thành lập nền văn minh đô thị - thành phố mà độc lập và có chủ quyền như một quốc gia – sáng chế kiến trúc vòng cung. Sắc dân Hittites, miền

Tiểu Á, mở đầu thời đại đồ sắt. Dân Hebrew cống hiến nền văn minh Do Thái nhấn mạnh chỉ có một vị thần tối cao che chở nhân loại như cha với con, khoảng 1.500 đến 1.000 trước Thiên Chúa. Kế đến thời đại những đế quốc thật mênh mông. Thoạt đế quốc của người Assyrian, Tây Nam Á Châu, kế đến đế quốc của người Chaldeans, miền Nam Babylonia, cả hai đều nặng về khủng bố để giữ an ninh trật tự. Tới đế quốc Ba Tư mênh mông nhất từ thượng cổ tới ngày đó, người Ba Tư chịu ảnh hưởng giáo điều thờ Thần Lửa nên cách cai trị bớt khắc nghiệt và công bình hơn nhiều.

Người bạn 1: Thời gian khoảng này?

Người bạn 3: Khoảng từ 1.000 đến 500 trước

Thiên Chúa.

(Tới đây cô cháu gái của ông nhà văn xuất hiện với khay trà thường lệ. Cả Phượng cùng nhỏ bạn xúm lại giúp một tay để mọi người ai nấy có chén trà nghi ngút giải lao. Câu chuyện lịch sử bao giờ cũng gây bầu không khí nghiêm trang nặng nề.)

Ông nhà văn: Với đế quốc Ba Tư là bế mạc thuở bình minh của lịch sử nhân loại, bước sang thời văn minh cổ điển Hy Lạp La Mã. Việc này lại phải phiền giáo sư Sử Địa.

Người bạn 3: Nền văn minh vùng biển Aegee thoạt phồn thịnh tại đảo Crete rồi tại Mycenac và Troy. Mặc dầu dân Hy Lạp cùng một ngôn ngữ, tập tục nhưng không hợp nhất thành một quốc gia, trái lại hợp thành nhiều đô thị độc lập, trong số có hai đô thị quan trọng hơn cả là Athens với truyền thống dân chủ và Sparta với truyền thống quân kỷ khắc nghiệt.

Người bạn 1: Phải, tôi nhớ ra rồi, khi nền dân chủ Athens sụp đổ, chính quyền rơi vào tay vua

Philip đầy tham vọng xứ Macedonia.

Phượng: Ồ, em n hớ, con vu a Phi lip l à A l e x and e r cũng đầy tham vọng mà còn vượt xa phụ vương về tài năng quân sự và cai trị.

Người bạn 3 (gật đầu): Dùng quân lực Marcedonia và Hy Lạp hợp lại, Alexander đã thành lập một đế quốc thật mênh mông để bành trướng văn hóa Hy Lạp. Đế quốc này gồm cả miền Tiểu Á, Ai Cập, Ba Tư và vượt cả sông Indus sang biên giới Ấn Độ nữa.

Người bạn 2 (cười): Dĩ nhiên khi Alexander chết, đế quốc lại phân chia tàn lụi.

Người bạn 3: Nhưng tặng phẩm của nền văn minh Hy Lạp trải qua khoảng thời gian từ năm

300 đến 100 trước Thiên Chúa thật quý giá. Kinh nghiệm dân chủ của Hy Lạp đã ảnh hưởng khắp thế giới hàng bao nhiêu thế kỷ liên tiếp, cùng với điêu khắc, kiến trúc, kịch, thi ca, triết học, khoa học với những danh nhân tên tuổi chói lọi muôn đời: Socrates, Plato, Aristote, Herodotus… Tiếp nối Hy Lạp là đế quốc La Mã. Vào thế kỷ thứ Tám trước Thiên Chúa, tại hạ lưu sông Tiber, trên khoảng đồi Palatine, một trong bảy đồi của vùng này, một số bộ lạc người La Tinh khởi sự dựng nên một khu lập nghiệp nhũn nhặn thôi, nhưng chính là cái nôi khai sinh ra kinh thành Roma sau này.

Trinh: Em vẫn vô cùng lờ mờ về ranh giới thời gian giữa nền cộng hòa La Mã với đế chế La Mã. điểm này tôi lại nhớ được một chi tiết. Đó là vào thế kỷ thứ Bảy trước Thiên Chúa, những bộ lạc La Tinh bị một giống người hùng mạnh miền Tiểu Á – người Etruscans – đô hộ, có phải không ạ?

Người bạn 3: Đúng vậy! Vào năm 509 trước Thiên Chúa, người dân La Mã lật đổ nên quân chủ của người Etruscans thành lập nền cộng hòa. Chính thể cộng hòa đó kéo dài cho đến năm 31 trước Thiên Chúa.

Người bạn 1: Cuộc nội chiến giữa các cấp lãnh đạo đã chấm dứt chính thể cộng hòa.

Người bạn 3: Sau trận Actium kết thúc cuộc nội chiến giữa các cấp lạnh đạo đã chấm dứt chính thể cộng hòa.

Người bạn 2: Sau trận Actium kết thúc cuộc nội chiến vào năm 31 trước Thiên Chúa, Octavian chiếm được quyền lãnh đạo La Mã, lên ngôi Hoàng đế, tức Augustus, vị Hoàng đế đầu tiên của La Mã. Khoảng 250 năm đầu là thời gian thái bình thịnh trị của đế quốc này dài từ nước Anh phía Tây tới sông Euphrate phía Đông, rộng từ sông Rhine phía Bắc xuống tới Bắc Phi phía Nam. Sử gia Anh Gibbon đã viết trong cuốn Ngày Tàn Đế Quốc La Mã (The Decline and Fall of the Rome Empire): “Trong lịch sử của cả nhân loại thì cả thời gian phồn vinh hạnh phúc nhất của đời người phải kể đến khoảng thế kỷ thứ Hai sau Thiên Chúa dưới quyền cai trị của các nhà lãnh đạo đế quốc La Mã.”

Ông nhà văn: Phúc đức làm sao câu chuyện của chúng ta hôm nay lại xoay quanh đề tài lịch sử, âu cũng là ôn cố tri tân, thử xem hiện tại xoay vần đến đâu.

Người bạn 1: Thuở đó thanh bình thịnh vượng ra sao?

Người bạn 3: Họa chiến tranh hoàn toàn được xóa bỏ, các đô thị không chiêu binh mãi mã, trái lại thi đua nhau điểm trang. Tới đô thị nào cũng chỉ thấy nhà thể dục, giếng nước, cổng xây, đền thờ, cửa hàng, trường học. Toàn cõi, chỗ nào cũng làm dáng làm đẹp như vườn hoa vậy! Người La Mã rất chiêm ngưỡng thán phục văn hóa Hy Lạp cộng thêm những thành tựu của họ thành một nền văn hóa Hy-La. Đế quốc sa sút, các nhà lãnh đạo bất tài đi theo con đường tắt, con đường dễ dãi nhất là sử dụng cá biện pháp chuyên chế, độc tài, cứng rắn, lộ liễu. Hoàng đế Constantine chết vào năm 337, đế quốc sụp đổ, nát bấy. Sang thời Trung Cổ với sự xuất hiện của Cơ Đốc giáo.

Ông nhà văn: Định mệnh luôn luôn trớ trêu như vậy. Mặc dầu người sáng lập ra Cơ Đốc giáo bị xử trên thập tự của đế quốc La Mã dưới thời vua Theodorius, cuối thế kỷ thứ Tư. Tại các tu viện, văn hóa La Mã được giữ gìn, học vấn được khuyếch trương. Tại xứ Gaul, vua Clovis I hùng mạnh đem quân đi mở mang bờ cõi, liên hệ vương quốc mình với giáo hội La Mã, thành lập dòng họ Merovingian. Tôi vẫn khoái nghiền ngẫm lịch sử Trung Cổ, vùng sương mù thời này còn vô cùng gợi cảm và dạy nhân loại những bài học về thần quyền và thế quyền. Các vua kế vị của Clovis bất tài khiến quyền hành rơi là vị vua lớn nhất của dòng này. Năm 800, phải không anh, Đại đế được Đức Giáo hoàng Leo III tấn phong, đặt vương miện lên đầu. Sự nhận tấn phong đó, hẳn quý vị còn nhớ, đã chứng tỏ Giáo hội còn ở trên vương quyền. Kể từ đó luôn luôn có sự tranh chấp về uy quyền tối thượng giữa các vị quân vương và các Đức Giáo hoàng. Sau Charlemagne là thời kỳ phong Hầu kiến ấp phải không anh?

Người bạn 3: Vâng. Charlemagne chết, vương quyền bị phân chia. Bác vị vua cắt đất phong Hầu cho quý tộc với điều kiện đám quý tộc này trung thành với vương quốc, đóng góp về quân lực. Nền kinh tế thái ấp là nét đặc thù của thời Trung Cổ này. Mái thái ấp là một đơn vị tự túc, các nông nô bị cột liền với ruộng đất như gia súc vậy.

Ông nhà văn: (cười lớn, nâng tách trà mời mọi người cùng uống giải lao): Thế nào, hai cô cho biết ý kiến về bài học lịch sử cho tới đây.

Phượng: Cho tới đây bài học lịch sử đã dạy ta thấy rõ lẽ trăng tròn rồi khuyết, triều biển đầy rồi vơi. câu:

Trinh: Và đọc thơ Lý Bạch thấy yêu những

Xử thế nhược đại mộng

Hồ vi lao kỳ sinh.

Ông nhà văn: Đồng ý, đồng ý!

Người bạn 3: Tuy nhiên lịch sử có thêm nét mới. Vào thế kỷ thứ 10 và 11, nền thương mại đã được phục hồi phồn thịnh, thông thương khắp

Châu Âu, nền kinh tế tiền tệ được thay thế cho nền kinh tế hiện vật. Giới thương gia và thủ công thành lập các phường hội. Những người dân đô thị trở thành giàu có, và do đó thành một giai cấp mới – giai cấp tư sản – có ảnh hưởng định đoạt tới chính quyền đô thị. Sự quyền quý giờ đây không do dòng máu mà do tiền của định đoạt. Các đô thị và thương mại phồn thịnh kích thích nền giáo dục và nghệ thuật tiến triển. Các trường đại học được thiết lập tại Châu Âu kể từ năm 1100 trở đi. Ngôn ngữ địa phương được các thi sĩ, các nhà viết truyện sử dụng. Một hình thức thi ca có sớm nhất của nền văn học Trung Cổ là anh hùng ca. Các nhạc sĩ, kịch tác gia, họa sĩ, điêu khắc gia đều dùng tài năng phục vụ giáo hội. Nhà thờ xây cất theo kiểu Gothic và nghệ thuật họa trên kính màu đặc biệt phát triển vào thời này.

Người bạn 1 (cười): Đã bế mạc thời Trung

Cổ được chưa?

Người bạn 3: Chưa! Suốt thời Trung Cổ còn phải kể tới ba nền văn minh phát triển bên lề Châu Âu: nền văn minh Byzantine, thủ đô là Constantino- ple. Xã hội phồn thịnh, nên văn hóa Hy-La được bảo tồn tuyệt mỹ, quân chủ nhưng không chuyên chế lắm, theo Cơ Đốc giáo nhưng nghịch với Gia Tô giáo Tây phương của Rome, thụ hưởng gia tài La Tinh nhưng lại nói tiếng Hy Lạp. Đó là những điểm mâu thuẫn đặc biệt của văn minh Byzantine, một nền văn minh khá chói lọi còn sống sót tới một ngàn năm sau khi các tỉnh miền Tây của đế quốc La Mã sụp đổ. Bị Thập tự quân tới đánh từ đầu thế kỷ thứ 13, mãi tới hậu bán thế kỷ thứ 15 Byzantine mới hoàn toàn bị khuất phục. Mohammed – giáo chủ Hồi giáo – dường như đã thổi niềm hứng khởi cho đám người Ả Rập kiên trì chinh phục cả lãnh địa Byzantine lẫn lãnh địa Ba Tư kể từ thế kỷ thứ 7 và lập thành một đế quốc Hồi giáo mênh mông gồm Trung Đông, Bắc Phi và Tây Ban Nha. Qua thế giới Hồi giáo, các học giả, các khoa học gia, các nghệ sĩ đã đóng góp những công trình tuyệt mỹ. Cả hai nền văn minh Byzantine và Hồi giáo quả thực đã vượt xa tình trạng bán khai của Châu Âu thuở ban đầu thời đại Trung Cổ và bảo tồn được nền học vấn thời cổ điển. Tại Nga vào thời Trung Cổ, các vị hoàng thân ở Kiev đã duy trì một chính quyền thống nhất không mấy bền vững. Rồi các vị Hoàng thân ở các lãnh địa khác nổi lên tranh quyền hành ngôi thứ, rút cục vào thế kỷ 13 cả dân tộc Nga bị giống người Tartar đô hộ. Phải đợi tới hai thế kỷ sau các vị công tước ở Moscou mới thành công trong việc chiến đấu giành lại độc lập cho nước Nga, chứng tỏ sức sống kiên trì của dân tộc này.

Người bạn 2: Nước Nga theo Cơ Đốc giáo từ bao giờ?

Người bạn 3: Từ thế kỷ thứ 10. Vẫn sống chung với ngoại đạo, các cha cố Nga lại ít biết tiếng La-tinh và Hy Lạp, do đó nền văn hóa Nga dường như biệt lập xa lạ với văn hóa Âu Châu.

Ông nhà văn: Thế giai đoạn chuyển tiếp từ thời Trung Cổ sang thời Phục Hưng thế kỷ 16 rồi thế kỷ 17 có những nét gì đặc biệt nào? Mỗi người góp một ý để khỏi trùng nhau. Lady first, xin mời quý cô trước.

Phượng: Nghệ thuật thời Phục Hưng cực kỳ phồn thịnh, khởi đầu từ Ý, lan dần tới các nước khác tại châu Âu. Họa: Leonardo da Vinci, Raphael, Titian, Holbein, Rubens, Rembrandt. Điêu khắc: Michelangelo. Kịch: Shakespeare dưới triều đại Elizabeth. Văn học Tây Ban Nha có Cervantes với tác phẩm Don Quixote.

Trinh: Thế kỷ 16 và thế kỷ 17 còn là cuộc cải cách tôn giáo khởi sự từ Đức với Martin Luther, rồi lan rộng tới các nước Bắc Âu và Thụy Sĩ với John Calvin. Nước Anh ly khai với nhà thờ La Mã. Phong trào cải cách Tin Lành bỗng thành một yếu tố kích thích tinh thần dân chủ, mở mang giáo dục, khích lệ thương mại. Qua một thời gian chống phá hận thù, nhưng rồi chính phong trào cải cách này đưa tới tinh thần bao dung.

Người bạn 2: Columbus tìm ra Tân Thế Giới cuối thế kỷ 15; Vasco da Gama đi quành Nam Phi châu cũng tới được Ấn Độ; tiền bán thế kỷ 16, Magellan và thủy thủ đoàn mới hoàn tất được điều mà Columbus trước đây tưởng đã hoàn tất: đi về hướng Tây mà rồi gặp lại miền Đông. Đây là đám người thực hiện được cuộc vòng quanh thế giới đầu tiên. Cùng với thời đại khám phá ra đất đai mới này là hình thức tư bản đế quốc chiếm thuộc địa hải ngoại, độc chiếm tài nguyên, độc chiếm thị trường…

Người bạn 1: Tôi xin đóng góp về thời đại của khoa học, của lý trí, của những cuộc cách mạng dân chủ, thế kỷ 18. Tiền bán thế kỷ 16, Copernicus đã đề xướng thuyết mặt trời là trung tâm điểm cho trái đất xoay quanh. Luật các hành tinh chuyển động do Kepler phát kiến rồi những khám phá của Galileo đã chứng minh thuyết của Copernicus là đúng, mặc dầu nhà thờ bắt ép Galileo phải rút lui quan điểm đó. Newton vào hậu bán thế kỷ 17 khai triển luật hấp dẫn lực. Thời đại lý trí lên ngôi với những tiến triển khoa học ở mọi lĩnh vực. Vật lý, hóa học, y học… Hình thức dân chủ thấm dần vào các cơ chế chính quyền. Cuộc cách mạng 1789 Pháp, thuộc địa Bắc Mỹ dành được độc lập. Con người tưng bừng trong kỷ nguyên ánh sáng, tin tưởng khoa học vạn năng, lý trí vạn năng. Locke và Montesquieu chiếu ánh sáng lý trí soi mói chính quyền; Voltaire và Rousseau soi mói và địa phận luân lý, giáo dục tôn giáo. Với bộ Bách khoa Tự điển của mình, Diderot phổ biến sâu rộng những tư tưởng mới của thời đại. Tinh thần nhân bản cựa mình lớn mạnh, kêu gào cải cách tại mọi nơi, mọi ngành. Lý trí sáng chói nơi tác phẩm của Pope, Swift, Molière. Nhạc thể đạt tới khuôn mẫu chặt chẽ nơi Mozart, Haydn. Ngành kiến trúc cũng đạt tới bề thế chững chạc tân cổ điển.

Ông nhà văn: Được lắm, cám ơn anh, chúng ta cương quyết ôn xong bài học lịch sử trong buổi gặp gỡ hôm nay. Sang thế kỷ 19, tinh thần quốc gia càng lớn mạnh, tinh thần dân chủ càng phổ biến. Về các ngành nghệ thuật thì đàn clavecin được thay thế bằng piano có nhiều ưu thế hơn. Nhạc Beethoven là cây cầu nối cổ điển với lãng mạn. Hội họa ấn tượng hiện diện với Monet và Renoir vào hậu bán thế kỷ

19. Khoa học kỹ thuật đã từ máy chạy bằng hơi nước sang máy điện; ánh sáng điện, điện thoại, vô tuyến điện… Khi kỹ nghệ phát triển, thoạt sức lao động bị bóc lột kể cả đàn bà và trẻ nhỏ. Phong trào xã hội phản kháng. Bản Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848. Rồi Đệ Nhất Quốc tế. Karl Marx viết xong Tư Bản Luận. Rồi Đệ Nhị Quốc tế. Marx tiên đoán giai cấp công nhân, ngày một nghèo khổ vì bị bóc lột, sẽ nổi dậy lật đổ chế độ tư bản, nắm chính quyền, kiểm soát kỹ nghệ. Nhất định như vậy, không thể khác được! Nhưng mức sống đã được nâng lên, những tiến bộ kỹ thuật giúp công nhân đỡ vất vả nhiều; phổ thông đầu phiếu bảo đảm vũng chắc thể chế dân chủ, giáo dục cưỡng bách ngày một lan rộng, những hiệp hội lao động được công khai thành lập, và chỉ ở những quốc gia nào chính quyền dân chủ yếu kém, ảnh hưởng Marxism mới mạnh mà thôi.

Người bạn 1: Như vậy vì sao Thế Chiến I lại xảy ra vào năm 1914 nhỉ, tôi quên mất chi tiết rồi.

Người bạn 3: Bởi vì cùng với kỹ nghệ bành trướng, đế quốc chủ nghĩa cũng bành trướng theo. Và thiên hạ tranh nhau thuộc địa, tranh nhau nơi khai thác nguyên liệu, tranh nhau thị trường.

Người bạn 1 (cười): Ờ nhỉ, có thế mà cũng… Bảo là trí nhớ nhân loại hay quên cũng được nhưng tế nhị hơn nên bảo là… lười nhớ. Ấy là cuối thế kỷ 19, giải Nobel Hòa Bình đã được thành lập phải không cụ?

Người bạn 2: Tôi nhớ trong khi nước Tàu bị liệt cường xâu xé, nước Nhật nhờ cuộc canh tân kịp thời và khôn ngoan của Minh Trị Thiên Hoàng đã thành cường quốc đánh bại Nga trong trận thủy chiến tại Port Arthur năm 1905 thì phải.

Người bạn 3: Nguy cơ Thế Chiến I hiện dần khi các cường quốc Âu châu tập hợp thành hai phe gầm ghè nhau. Dưới quyền lãnh đạo của Bismarck, đế quốc Đức liên minh với Áo, Hung, Ý. Để đề phòng tự vệ, Anh, Pháp, Nga cũng kết hợp thành khối với nhau. Đó là vào năm 1900. Nhưng rồi mãi tới năm 1914 nhân vụ Serbia – sau này là Nam Tư – muốn mở lớn bờ cõi hơn. Lò thuốc súng của Đệ Nhất Thế Chiến là ở đây. Nga khuyến khích ý đồ của Serbia để tìm đường tới Địa Trung Hải. Đức cũng muốn có ảnh hưởng tại vùng Balkans để rồi với dài bàn tay kinh tế tới Cận Đông. Nhưng tham vọng mở rộng bờ cõi của Serbia trực tiếp đụng chạm tới Đế quốc Áo-Hung, và Anh Cát Lợi thì cũng luôn luôn cảnh giác phản đối Đức và bất kỳ nước nhào khác xía mũi uy hiếp tới con đường giao thông của mình qua nơi này để tới Ấn Độ và Trung Hoa. Vì vậy mà vào năm 1914 khi vị Hoàng tử Áo, Franz Ferdinand, bị một nhân viên hội kín Slave ám sát, lập tức chiến tranh bùng nổ giữa Áo và Serbia, và mang màu sắc thế chiến ngay vì Đức-Áo-Thổ kết hợp thành khối Lực lượng Trung ương chống nhau với khối Anh-Pháp liên minh với 27 nước nữa gồm cả Ý và Hoa Kỳ. Xin lưu ý quý vị chiến tranh kỳ này coi mòi xôm trò hơn nhiều với những vũ khí tân kỳ: phi cơ, xe tăng, tàu ngầm, hơi độc. Anh phong tỏa Bắc Hải để giảm nguồn tiếp tế lương thực tới Đức. Tàu ngầm Đức đánh đắm tàu Đồng Minh quá xá đến nỗi Anh quốc xém chết đói. Cũng lại lưu ý quý vị thêm là năm 1917, Đảng Bolsheviks Nga ký hiệp ước hòa hoãn với Đức, thì cũng vừa may Hoa Kỳ nhảy vô.

Sang năm 1918 mới có sự hiện diện của lính

Hoa Kỳ chiến đấu tại mặt trận Pháp. Khối Trung ương thua, xin nghị hòa. Hiệp ước Versailles ký, một số quốc gia được độc lập, một số khác kém may mắn hơn còn bị ngoại bang thống trị. Chẳng qua là một cuộc chia chác lại thuộc địa, có gì đâu. Dù sao thì sau Hòa ước Versailles, Hội Quốc Liên cũng thành lập do sáng kiến của Tổng Thống Mỹ Wilson với tham vọng giải quyết êm đẹp mọi tranh chấp quốc tế về sau.

Ông nhà văn (tươi cười): Ôn lại lịch sử vốn là công việc mệt nhọc, cám ơn anh đã lãnh cho phần nặng nhọc đó. Bây giờ đến lượt chúng tôi đóng góp về Đệ Nhị Thế Chiến. Lại xin quý cô đóng góp trước.

Phượng: Em chỉ xin nhắc quý vị nhớ lại một vài khuôn mặt lớn của lịch sử quốc tế trước khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Đó là cuộc tranh đấu bất bạo động của thánh Gandhi tại Ấn Độ. Trung Hoa thức tỉnh với cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 – với thuyết Tam dân Chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên. Mustafa Kemal canh tân Thổ Nhĩ Kỳ.

Trinh: Vì Nga Hoàng tham dự vào Đệ Nhất Thế Chiến mà chính quyền lỏng lẻo trong nước, dân chúng biểu tình tại thủ đô Petrograd vì thiếu lương thực. Mấy ngày sau quân đội cũng nổi loạn. Cuộc nổi dậy của quân dân biến thành cách mạng. Nga Hoàng Nicholas bị cô lập đành chịu thoái vị nhường quyền cho Hoàng thân Georgy Lvov thành lập nội các gồm những thành phần tự do của giai cấp trung lưu. Những biến cố trên xảy ra vào tháng

3 năm 1917. Tới tháng 7-1917 Luật gia Kerensky lên nắm quyền thủ tướng thay hoàng thân Lvov. Ông là người chân thành , có thiện chí thiện tâm nhưng cũng bất lực trong việc tổ chức và nắm vững quần chúng nên chính quyền chuyển sang tay Lê-nin, lãnh tụ Đảng Bolsheviks. Nhưng đến khi tổ chức tuyển cử tự do những người Bolsheviks được không đầy một phần tư số phiếu với sự yểm trợ lưỡi lê của Đoàn Vệ binh Đỏ, Lê-nin lập tức giải tán Quốc hội và thành lập nền độc tài Cộng sản kể từ đó. Lê-nin chết năm 1924, Stalin lên thay, thanh toán Trotsky và các đồng chí đối lập khác, khép toàn thể nước Nga trong kỷ luật sắt của một nền độc tài mà tới nay chính những đảng viên Bolsheviks Nga, từng là nạn nhân sống sót của Stalin, còn thấy táng đởm kinh hồn. Tuy nhiên Liên bang Xô viết đã nghiễm nhiên thành một thực thể trong cộng đồng quốc tế. Hoa Kỳ công nhận Liên bang Xô viết, và Liên bang Xô viết gia nhập Hội Quốc Liên vào năm 1934. Hình như sau khi Hitler và Mussolini đã lên nắm chính quyền, Liên bang có gõ cửa Anh, Pháp tìm đồng minh nhưng bị ghẻ lạnh, sau đó mới ký Hiệp ước bất xâm phạm với Hitler vào năm 1939 thì phải. Sau đó phong trào phát-xít độc tài như lửa gặp gió. Xin quý vị cho thêm chi tiết về giai đoạn lịch sử trước Thế Chiến Hai này.

Người bạn 1: Tôi nhớ thuở ban đầu nền móng độc tài là Mussolini lên chức Thủ tướng Ý rồi ít năm sau thành lãnh tụ phát-xít. Phe quân phiệt Nhật cũng chịu đậm đà ảnh hưởng phát-xít và nắm trọn vẹn chính quyền Nhật vào năm 1932 nhân vụ kinh tế khủng hoảng. Hitler, lãnh tụ Đảng Quốc xã Đức, cũng mang màu sắc vườn đào kết nghĩa Lưu

Quan Trương lắm chứ! Chỉ có điều khác, đám Lưu Quan Trương tân thời này đã là cả một cuộc thử thách cam go cho nền dân chủ thế giới. Chi tiết đưa đến Thế Chiến thứ Hai tôi quên mất rồi, tôi vốn dốt về Sử mà.

Người bạn 2: Năm 1931, Nhật xâm lược Tàu. Hội Quốc Liên khiển trách. Nhật rút lui khỏi Hội. Cóc cần! Mussolini nắm được nhược điểm đó bèn tấn công Ethiopia vào năm 1935. Hitler yểm trợ cho ông bạn vàng Mussolini, rồi cả hai cùng yểm trợ cho lực lượng phát-xít trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939). Ba nước tiêu biểu cho truyền thống dân chủ là Anh-Mỹ-Pháp thì đành cắn răng chịu đựng, có hòa hoãn để duy trì hòa bình cho dân chúng sau bao năm ròng kinh tế khủng hoảng. Biết vậy Hitler sát nhập béng nước Áo vào Đức. Bình nước chịu đựng đến đây quả thực vừa… tràn đầy. Chỉ cần một giọt nhỏ thêm vào đủ tràn bờ, huống chi lại cả một gầu nước. Đó là vụ Hitler đem quân vào Ba Lan năm 1939. Lập tức Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Xin nhà Sử học cho biết thêm vài nét chi tiết cơ bản về giai đoạn này.

Người bạn 3: Phải, chúng ta đừng nên quên sự kiện Stalin cũng đã gõ cửa đồng minh Anh, Pháp; vì thất bại nên mới ký thỏa hiệp bất xâm phạm với Đức. Khi Anh-Pháp tuyên chiến với Đức, nhân thuở ban đầu bối rối này, Nga lấn đất của Phần Lan, bắt mấy nước miền Baltic – Latvia, Lithuania, Estonia – phải cho mình đặt căn cứ Hải quân và Không quân. Chiếm xong Ba Lan, Hitler chiếu cố tới các nước Bắc Âu. Xong Bắc Âu, Hitler xua quân đánh vào sườn chiến lũy Maginot và tràn vào Pháp, bức Pháp phải đầu hàng. Còn lại một mình, Anh tiếp tục đương đầu với Đức. Tại vùng Balkans khối Trục cũng đạt được những thắng lợi lớn thuở ban đầu. Mặc dầu Mussolini thất bại ở Bắc Phi, nhưng giữa năm 1941 đã uy hiếp được vùng kênh Suez. Ma đưa lối quỷ dẫn đường, Hitler tấn công Liên Xô vào ngày

22 tháng 6, 1941, nhưng “Đại tướng mùa Đông” của Nga – với cái rét băng giá khốc liệt đã yểm trợ rất hữu hiệu cho cuộc phản công ác liệt của quân lực Nga. Hitler còn thua Napoléon ở điểm không được nhìn thấy Moscou. Cũng lại do một quyến rũ khắc nghiệt của định mệnh, Nhật tấn công Trân Châu Cảng của Mỹ vào cuối năm 1941, buộc Mỹ phải chính thức nhảy vô tham chiến. Phe Trục càng bành trướng, mức sản xuất chiến cụ của Mỹ càng đạt tới những cao điểm mới đủ để thỏa mãn nhu cầu chiến trường. Quân Nhật bị thiệt hại nặng tại vùng biển San Hô và vùng quần đảo Midway khi phải đương đầu với Hải quân Mỹ. Khối Trục bắt đầu xuống dốc lẹ. Đức thất trận nặng nề tại Stalingrad ngay từ đầu năm 1943, kế đó tại Bắc Phi nữa. Tại Casablanca và Tehran các lãnh tụ Đồng Minh đã họp bàn cả những vấn đề hậu chiến. Tháng 8-1944, Paris được giải phóng. Quân đội Đồng Minh tiến vào đất Đức, khai quật các trại giam Đức, cả thế giới thất thần trước tội ác Quốc xã thủ tiêu Do Thái. Roosevelt, Churchill và Stalin gặp nhau ở Yalta, tháng 2-1945. Đầu tháng 5-1945, quân lực Đồng Minh hoàn toàn thắng tại Âu Châu. Tại mặt trận Á Châu, tổng thống Truman quyết định thả hai trái bom nguyên tử tại

Hiroshima và Nagasaki. Rồi! Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc vào ngày 2-9-1945.

Ông nhà văn: Thế giới nhân loại hiếm khi được diễm phúc do người, thật người dìu dắt, thường thì cứ do các đấng siêu nhân! Trên căn bản cực kỳ khoa học, căn cứ vào số thuốc an thần của một đấng siêu nhân đã tiêu thụ trong cơ thể, các bác sĩ đã hốt hoảng báo động với toàn thể thế giới rằng: Số lượng thuốc an thần như vậy, cụ thể dùng cho một người như vậy, thì người đó chắc chắn thành tên khùng rồi, chắc chắn bất bình thường rồi, không còn hồ nghi gì nữa.

Người bạn 1: Thôi thì đắm đò ta giặt mẹt luôn thể, xin nhà sử học cho hay nốt viễn tượng Sử nhân loại năm 2000 sắp tới.

Người bạn 3: Bốn vấn đề sinh tử cho nhân loại năm 2000: vấn đề tăng dân số; vấn đề năng lượng; vấn đề nguyên liệu; và vấn đề môi sinh.

Phượng: Phải chăng với khoa tương lai học này, nhân loại đã có thể hoạch định tương lai, tiên liệu mọi bất trắc?

Người bạn 3: Với điều kiện chúng ta phải dũng cảm nhập cuộc, tích cực góp phần chuyển hóa, định hướng lịch sử, đùng làm những khán giả thụ động, ươn lười hoặc tệ hại hơn nói một đằng làm một nẻo!

Ông nhà văn: Tôi muốn thường xuyên nhắc nhở hai điểm chính yếu: luôn luôn nhạy cảm về giá trị con người. Một vì sao nhỏ bé chuyển vần, cả vũ trụ tinh tú, tinh vân, thiên hà cùng nhịp nhàng chuyển vần theo luật hấp dẫn đại đồng; thực tại là sự trở thành thường xuyên của “một là tất cả, tất cả là một”.

Người bạn 1: Y học năm 2000 chắc chắn bảo vệ hữu hiệu thể chất con người; nhưng còn tinh thần, còn trí tuệ?

Người bạn 2: Dĩ nhiên tinh thần và trí tuệ con người tùy thuộc nơi giáo dục.

Người bạn 3: Muốn thật chính xác có lẽ chúng ta nên nói tinh thần và trí tuệ con người tùy thuộc nơi hai yếu tố chủ quan và khách quan. Yếu tố chủ quan là tinh thần và trí tuệ con người có được tiềm năng dồi dào hay èo uột do hoàn cảnh nó được đản sinh; yếu tố khách quan là chất lượng giáo dục mà xã hội dành cho, để nó hoàn thành những phần vụ, chức năng được giao phó. Chất lượng giáo dục phong phú – yếu tố khách quan – nhưng tinh thần và trí tuệ èo uột, không gánh vác nổi, không theo kịp – yếu tố chủ quan – thế quân bình chới với đó có thể khiến cá nhân suy nhược thần kinh, gục ngã trong tuyệt vọng bi thảm. Thế giới tự do đi từ chỗ nô lệ cho vật chất thắng vượt dần những khó khăn trói buộc của vật chất để tiến dần sang kỷ nguyên trau chuốt thăng hoa trí tuệ tinh thần; ngược lại Cộng sản cố dìm, cố níu giữ vùi dập nhân loại trong nô lệ vật chất để chứng minh chân lý duy vật “muôn đời ngời sáng trong vũ trụ trần hoàn.”

Ông nhà văn: Thoát khỏi sự triền phọc của vật chất, nhân loại như cây vươn cao lên vùng sáng chói lòa, cợt mây rỡn gió, chim bướm vây quanh. Dìm nhân loại xuống vũng bùn nghèo đói, giật gấu vá vai, nô lệ vật chất, nhân loại thành cây sa mạc thấp lùn, cằn cỗi, gai góc với những đầu lâu quắt quéo cắm trên cành khô, những bộ xương người, xương thú, nhỏ thó, héo hon treo lơ lửng lơ đu đưa với gió.

Trinh: Vậy hoàn cảnh tuyệt hảo là một xã hội trong đó con người được quan tâm nâng đỡ, khích lệ, cải thiện cả vật chất lẫn tinh thần.

Ông nhà văn: Và phải theo chiều hướng tạo sự tiến bộ cho cả loài người, không thể cho riêng một dân tộc độc quyền ưu việt, có nghĩa là độc quyền khống chế. Muốn người khác tự do là chính mình được giải phóng!

3

Em gái nhỏ mang lên căn gác xép bữa cơm trưa có canh bí đỏ ngọt như chè và sườn xào chua ngọt. Trời, bữa ăn này sao tương tự bữa ăn chiều đó sau bài học lịch sử?! Phượng đã từng có lần vừa sực nghĩ đến một chữ khó và lơ đãng mở tự điển thì rơi đúng vào trang có chữ đó. Theo xác suất, trường hợp tương tự, đời người gặp được mấy lần? Bữa ăn trưa nay cũng là một trùng hợp hi hữu tương tự. Phương còn nhớ sau khi ông nhà văn vừa dứt câu “Muốn người khác tự do là chính mình được giải phòng,” thì cô cháu gái lớn bưng từ trên gác xuống một mâm đầy: có cơm nếp và sườn xào chua ngọt. Ông anh nhà văn cũng xuống theo với xoong chè bí đỏ nấu với đậu xanh. Ông ở lại ăn uống với mọi người, chỉ cô con gái trở lên gác. Ông cỡ sáu chục tuổi nhưng còn trẻ, có lẽ vì tính tình vui hồn nhiên, lông mày có vài sợi trắng rõ, nhưng mái tóc chưa bạc nhiều. Ông đã quen với mọi người, kể cả nhỏ bạn, trừ Phượng, vì vậy mà ông cười với Phượng y như với những người kia, rất thân thuộc. Có khi hai đề tài khác nhau hẳn nhưng khi chính ông khai mạc đề tài hai, Phượng có cảm tưởng như ông vẫn tiếp tục đề tài cũ. Vẻ hăm hở chân tình hồn nhiên của ông thu hút Phượng nơi bề sâu. Nhiều lời với người khác có thể là hơi thô, nhưng qua ông lại là cách tả chân trong sáng. Đặt xoong chè xuống mép bàn, sát mâm cơm nếp và sườn xào chua ngọt, ông nói ngay:

- Quý vị tưởng sớm sao? Nhìn ngoài kia kìa! (Ai nấy nhận ra trời đã về chiều.) Thấy quý vị còn say mê thảo luận tôi vội sai con cháu cấp tốc thổi nồi cơm nếp, còn sườn xào chua ngọt đã làm từ trưa. Ấy xin quý vị thưởng thức gạo nếp quê tôi thuộc huyện Gia Lâm. Đứng ở cánh đồng quê, tôi nhìn thấy những lò gạch Bát Tràng.

Trên thời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng

Ước gì anh lấy được nàng

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.

Ha ha! Nhớ lại buổi nói chuyện với chú

Vĩnh, Phượng hỏi:

- Nam nữ thanh niên Hà Nội bây giờ… bình đẳng lắm phải không ạ?

Ông cười lớn:

- Tôi mới ở ngoải trở về được ba ngày nè. Có thể nói chính con trai Hà Nội bây giờ nhiều khi như phải giữ… trinh tiết. Nam thanh niên cũng quần loe, tóc dài đúng kiểu híp-pi, nữ thanh niên cũng quần jean, áo pull hoặc những áo mặc mùa lạnh hợp thời trang, rất nhiều cô cả xinh lẫn đẹp rất quyến rũ, nếu như chỉ có thế, nghĩa là chịu khó ngậm miệng. Chết nỗi, các cô nói nhiều và nói lớn rất tục một cách cực kỳ say mê. Cách ăn nói tục tằn công khai đến nỗi một dân biểu đã phải đọc một bản tham luận trước Quốc hội tố cáo và phê bình gay gắt hiện trạng văn hóa giáo dục thể hiện nơi nam nữ thanh niên thủ đô.

Người bạn 1 ướm hỏi:

- Anh có thể dẫn chứng cụ thể hơn cho chúng tôi chia xẻ kinh nghiệm?

Ông nhìn Phượng, Trinh hơi ngần ngại chút ít rồi mới quyết định:

- Một trong muôn vàn tỉ dụ: Hôm đó tôi đương ngồi ở một quán cà-phê cóc, có một thiếu nữ thật xinh đẹp ngồi gần đấy đã từ lâu. Rồi người bạn trai của cô đạp xe tới. Lời cô gái văng tục rất đàng hoàng, rất tự nhiên, “Đ. mẹ, hẹn người ta tám giờ mà bây giờ gần chín giờ mới tới.” Người con trai đáp, “Đ. mẹ, nhưng mà xe hỏng giữa đường biết là đ. thế nào!” Người con gái tiếp ngay lời hằn học, “Hỏng cái con c.” Quả thực các cụ nhà ta xưa nói chí lý: Cái nết đánh chết cái đẹp! Từ lúc nghe cô gái văng tục ngon lành, tôi thấy ngao ngán cho đạo đức xuống dốc quá bi thảm của quê hương miền Bắc mình. Đây là một sự kiện phổ biến – khổ thế! Một gia đình tam đại đồng đường, cha con ông cháu trao đổi câu chuyện thường nhật, lời lời văng tục, hàng hàng xổ nho, mình thấy bi thảm và xót xa không thể chịu nổi. Đó là một sự kiện phổ biến, khổ thế! Quý vị cứ nhìn ngay trong Nam này cũng thấy ngay những yếu tố văn hóa miền Bắc chiến thắng đã mang vào miền Nam: tham lam, ti tiện, xảo quyệt.

Lời ông nói rõ ràng thao thao bất tuyệt mà sao Phượng thấy lẩn quất nghẹn ngào, đôi khi như có cả tiếng nấc nữa. Có lẽ cũng thông cảm điều đó, người bạn 2 muốn chuyển hướng đề tài:

- Anh thấy sao về nạn mãi dâm ngoài đó? À! Các anh đây, trừ hai cô này, đều là B.54 – Bắc kỳ di cư năm 1954 – cả chứ gì? Các anh nhớ Hồ Bảy Mẫu? Hồ Bảy Mẫu được lấp đi ba phần tư làm Công viên Độc Lập thời gian nội chiến, đất nước phân đôi. “Cách mạng” thắng, đất nước thống nhất, cần lấy lòng đàn anh Liên Xô vĩ đại để tranh thủ một số viện trợ kiến thiết xã hội chủ nghĩa, Công viên Độc Lập bèn đổi thành Công viên Lê-nin. Xin thưa với các cụ, trước đây tôi đã nổi khùng khi thấy Hồ Chí Minh mệnh danh cho ngọn núi cao nhất gần Pác Bó là núi Mác, dòng suối chảy ngang Pác Bó là suối Lê-nin, tinh thần phủ phục quì mọp nô lệ quá ư là đê tiện và lộ liễu! Nhưng kỳ vừa qua tới thăm Công viên Lê-nin ăn tối, tôi ứa nước mắt thương cho dân tộc mình, và thương cho cả Lê-nin. Cả khu công viên lốm đốm những điểm sáng đèn dầu, mỗi điểm sáng là một nơi bán dâm. Lịch sử sai một ly đi một dặm. Ấy chết, cả nhà ăn cơm nếp với sườn xào chua ngọt đi chứ. Đói rồi còn gì! Ăn xong có chè bí ngô đét-se!

Ông nhà văn cười, rồi vừa mời mọi người cầm bát đũa gắp xôi, gắp thức ăn vừa nói:

- Ông anh tôi có tật mải nói, quên ăn, thiệt là ngược lại với tôi thường mải ăn, quên nói.

Người bạn 3 lên tiếng trong bữa ăn:

- Anh vừa rồi nói lịch sử sai một ly đi một dặm là đúng quá. Và hậu quả không biết đâu mà lường. Chẳng hạn sử gia Pháp René Grousset đã nêu trường hợp quân đội Trung Hoa đời Hán dồn một số Hung Nô về một miền biên giới Siberia và Turkestan. Họ thành dân tộc Tây Hung Nô, rồi mãi tới bốn thế kỷ sau, do Attila chỉ huy, mới xâm chiếm phương Tây làm đế quốc La Mã hoàn toàn xụp đổ. Hồ Chí Minh về ở Pác Bó, Cao Bằng, năm 1941. Năm 1945

Cộng sản cướp được chính quyền. Rồi kháng chiến, rồi nội chiến. Bốn mươi năm trôi qua. Đất nước thống nhất nhưng dân chúng Việt Nam bản tính bám chặt lấy quê hương mà đành phải vượt biên tị nạn cả triệu người, gửi thây dưới đáy biển khoảng mấy chục vạn đấy?! Phụ nữ khoảng 10.000 người biệt tích ở Thái Lan, nạn nhân của hải tặc, phần thì bị bắt đem bán cho những động mãi dâm, phần bị nhốt tại những hòn đảo cô quạnh giữa trùng dương làm vật tiêu khiển cho bọn cướp sau mỗi chuyến ăn hàng. Đối với người vượt biển, nạn hải tặc Thái Lan là cả một kinh hoàng, biết vậy mà người ra đi vẫn kìn kìn. Một anh bạn tôi hiện ở Queensland, Úc là một trong muôn vàn nét bất hạnh của người Việt nơi hải ngoại. Anh vượt biên năm 1979 với vợ và hai con. Khi còn ngoài khơi tàu gặp bão biển, hai con mất tích. Bão ngớt, tàu gặp hải tặc Thái Lan, vợ anh bị mất trí từ đấy. Tàu cập bờ biển Mã Lai bị tàu chiến Mã Lai kéo ra khơi bỏ lênh đênh ngoài đó, được bão niềm nở tiếp đón lại, tàu vỡ, vừa may tấp vào hoang đảo mới thoát chết. Đốt lửa cầu cứu, được trực thăng Liên Hiệp Quốc cứu. Anh định cư ở Úc thấm thoát hai năm rồi, chưa đi làm được vì không ai săn sóc chị. Lời anh kết thúc bức thư sừng sững thành một nét sầu vạn cổ: “Chúng tôi giờ này sống mà cũng như đã chết rồi!”

Mọi người lẳng lặng ăn chè tráng miệng, không ai nói thêm gì, chén chè như có mặn của nước mắt lịch sử. Mãi mấy phút sau ông nhà văn mới nói:

- Tôi chưa oán Thái Lan, chưa trách Mã Lai mà hãy tự trách mình đã. Không có tâm lý hiếu chiến một thời của người dân Đức, Hitler chẳng thể một thời làm mưa làm gió với tinh thần Quốc xã của mình; không có những ngây thơ, khờ khạo, nông cạn của người mình, chẳng bao giờ Hồ Chí Minh lên ngôi “Bác muôn vàn kính yêu cha đẻ ra Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh” như vậy, chẳng bao giờ dân tộc mình rơi vào họa Cộng sản thiên thảm địa sầu như ngày nay! Chẳng có cái gì trên cõi đời này tự nhiên mà có. Hình như Kinh A-hàm có câu đại khái như thế này: “Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt.” Rien ne se perd, rien ne se crée. Tết vừa rồi tôi đi chùa lễ Phật. Với thế giới điên loạn này mình còn biết tin vào ai, thôi thì hãy trờ về với tôn giáo cố hữu của ông cha mình xưa, lắng lòng lại, gột sạch tham dục nhiều chừng nào hay chừng nấy.

Người bạn 1 hỏi:

- À thế chuyến vừa rồi ở ngoài Bắc anh có thăm lăng Bác?

Anh ông nhà văn lắc đầu nhưng giọng vẫn rất mực hiền lành:

- Suốt thời gian ở Hà Nội, tôi phản ứng những gì mắt thấy tai nghe bằng những gì tôi vẫn gậm nhấm trong trí óc. Muốn tạo lập một nền văn hóa thì phải có tự do, phải khuyến khích sáng kiến. Đừng nói đến văn hóa, đừng nói đến cách mạng nếu không mở mang trí tuệ, không nâng cao nhân phẩm. Đám cách mạng tàn bạo, ngu xuẩn, chúng hủy diệt tài sản chứ đâu có phân phối lại tài sản, kể cả tài sản tinh thần, dĩ nhiên. Có lẽ vì mãi suy nghĩ lẩm cẩm như vậy nên tôi quên khuấy không đi xem… lăng Bác. Tuy nhiên, tiện thể quý vị vừa đề cập đến chuyện đó, tôi xin trình bày những suy tư của tôi. Tất cả những nước xã hội chủ nghĩa đều đóng góp đá quý để xây lăng Bác, đóng góp nhiều nhất là Liên Xô. Nhất định phải thế rồi. Lịch sử Đảng Cộng sản Quốc tế trên sáu chục năm, ông chủ Liên Xô không thể tưởng tượng nổi mình lại có diễm phúc gặp được một tên đầy tớ trung thành đến nước ấy. Lừng lững dìm cả dân tộc mình vào biển máu và nước mắt để phục vụ chủ. Cho đến khi chết! Tôi nghĩ Liên Xô có thể đúc tượng vàng Hồ Chí Minh với lòng “nguyện cầu tuyệt vọng” trong tương lai gặp được một tên đàn em khác giá trị chỉ bằng một nửa Hồ Chí Minh. Y thật tốt số, ngay thuở ban đầu đã được rơi vào một dân tộc yêu nước vô điều kiện, thèm bậc lãnh tụ vô điều kiện, để được sẵn sàng hy sinh cả tài sản, cả tính mạng vô điều kiện. Lịch sử sau này sẽ soi sáng lời tôi nói. Nhưng xin quý vị hãy cùng tôi tưởng tượng nếu như chúng mình nói với Liên Xô: “Thưa quý quốc, chỗ nằm của Hồ Chí Minh không phải ở đây, không phải ở đất nước này. Chỗ nằm êm ấm và vinh quang của ông ta phải là Liên Xô mới lô-gích!” Quý vị hãy thử tưởng tượng nước đàn anh vĩ đại sẽ trả lời chúng ta ra sao? Câu trả lời đích thực sẽ là thế này: “Thưa quý ông, chúng tôi rất hoan hỷ đúc tượng vàng Hồ Chí Minh, nhưng không thể mang xác Hồ Chí Minh đặt ở nước chúng tôi được. Quý ông nghĩ lại giúp cho, nước đời hiếm khi chủ rước xác đầy tớ về cho đặt chung vào lăng tổ tiên của gia đình mình!” Nghĩ cũng đau lòng tội nghiệp, ngay khi Hồ nằm xuống, Trung Hoa nước đàn anh vĩ đại láng giềng cũng chỉ cử có ngoại trưởng tới viếng, thì làm sao hương hồn Hồ kỳ vọng được thấy Brezhnev.

Ông nhà văn chợt hướng lên gác:

- Ê này, xuống dọn bát đũa, cháu ơi. Mang nước trà xuống nghe!

Có tiếng “dạ” vọng xuống. Cô gái lớn đã mang bình trà xuống tức thì, rồi dọn dẹp bát đũa trong khi ông anh nhà văn tiếp tục thao thao như không hề bỏ dở:

- Nhưng mà, thưa quý vị, tôi không bi quan đâu nhé. Ôi chao, những thắng lợi khoa học kỹ thuật của thế kỷ 20 thật là đi hia bảy dặm. Sang tiền bán thế kỷ 20, chúng ta mới có vô tuyến truyền thanh; quý vị hẳn không ngờ rằng năm 1927 Lindbergh là phi công đầu tiên thực hiện chuyến bay thẳng một mạch từ New York tới Paris, mà chỉ 30 năm sau khoa học kỹ thuật nhân loại đã sang kỷ nguyên Sputnik 1, của Explorer 1, rồi chỉ mấy năm sau là phi thuyền có người lên không gian. Và bây giờ thì phi thuyền con thoi đi đi về về như xe buýt. Khoa học kỹ thuật vừa giúp con người đạt được quyền năng tuyệt vời, đồng thời cũng ban cho khả năng tự hủy vô song. Con người không thể không thận trọng. Tôi vô cùng cảm mến sử gia Will Durant của Mỹ khi ông nói đại ý là bức họa phế hưng của lịch sử chẳng nên làm ta thất vọng, mỗi lần hóa thân là một lần rộng lớn, phong phú lên gấp bội. Các thi sĩ, triết gia cổ Hy Lạp ngày nay được phổ biến khắp thế giới, tiếp tục tỏa vào nhân sinh ánh sáng trí tuệ cao quý, bất hủ của họ. Nhân loại trường tồn vẫn giữ gìn cho mọi người những gì mà mỗi người đã cống hiến cho di sản của cả nhân loại. Đó cũng là món nợ chung của chúng ta. Con người văn minh là con người biết coi bất kỳ con người nào, dù tầm thường đến đâu, đều không ít thì nhiều, không trực tiếp thì gián tiếp, đã đóng góp vào tài sản của nhân loại cho được như ngày nay. Tài sản đó nuôi dưỡng ta trong hiện tại, gìn giữ ta trong tương lai miên viễn.

Tới đây câu chuyện đương từ lãnh vực lịch sử trang nghiêm, trịnh trọng bỗng chuyển sang các món thuốc gia truyền êm ru, không một chút gắng gượng, và giọng nói của ông anh nhà văn cũng nồng nàn tha thiết không khác gì khi ông phát biểu những cảm khái về lịch sử nhân loại:

- À này quý vị nhớ nhé, khi nào nhà có trẻ con sốt nóng xin thực hiện cho tôi ba công việc cấp tốc này: Một là lấy lá trầu không vò nát chà xát mạnh theo dọc xương sống; hai là lấy bông lau sạch lưỡi đứa trẻ bằng nước chanh vắt, trẻ sốt nóng thường lưỡi trắng; ba là lau toàn thân trẻ bằng giấm. Với trẻ lên năm hay sáu tuổi trở lên thì bảo em nằm im và đắp lên trán khăn thấm giấm. Hoàn tất xong những việc trên em bé sẽ hạ sốt tức khắc. Trường hợp em không hạ sốt tức là em bị ban rồi. Chữa người bị rắn độc cắn xin lập tức hái lá trầu, rịt vào vết thương cho cầm chất độc, rồi ngắt một nắm lá trầu khác giã nát, hấp cách thủy, lấy nước cho uống. Tôi đã chép cả một tập vở học trò các môn thuốc gia truyền hay cấp cứu tương tự, quý vị ở đây, nếu ai muốn chép lại để cứu nhân độ thế tôi sẵn sàng cho mượn.

Ông nhà văn tủm tỉm cười, vốn không lạ gì bầu nhiệt huyết của ông anh mình.

Rồi buổi họp mặt giải tán vào lúc đồng hồ trên tường thủng thẳng gõ tám tiếng. Trên đường về, Phượng và nhỏ bạn nói chuyện vui cho nhẹ tâm trí bi học lịch sử quá cô đọng trang nghiêm.

- Tại sao mi không mang bồ lại chính thức ra mắt ta? – Phượng hỏi.

- Chỉ vì bận đó thôi, tụi này đang bận.

- Bận chi?

- Sửa soạn vượt biên!

Phượng chợt thấy muốn nấc lên – biết là nhỏ bạn nói thật. Cho tới lúc chia tay ai về nhà nấy cả hai cùng im lặng.

CHƯƠNG MƯỜI HAI
Nét Buồn Thử Lửa

Thế là mười ngày qua Phượng đã hai lần gặp trực tiếp ông nhà văn trong hàng ngũ bằng hữu. Hoàn toàn rời bỏ vị trí nhìn ông ta như nhìn sao Mộc, sao Kim long lanh xa trong vũ trụ. Phượng đã thực sự hạ xuống từ vệ tinh nhân tạo, từ phi thuyền, trực diện sao Kim, sao Mộc. Hai vị trí khác nhau, hai cái nhìn khác nhau: một long lanh tròn trịa tổng hợp, một ngổn ngang phức tạp chi tiết. Phượng mừng rằng, mỗi lần đến thăm ông nhà văn, Phượng lại tự rút cho mình được một bài học no đầy. Lần đầu là bài học bất khuất của nghệ thuật phơi phới như một thứ sao băng ngày một mở rộng chiếu sáng cả vùng trời, lần hai là bài học lịch sử. Phượng đã mỉm cười tự nhủ: “Mình gửi cho ông ta mười một bức thư thì tối thiểu mình phải đòi lại mười một bài học.” Phượng đã quen rồi bầu không khí ở nhà ông ta. Tứ hải giai huynh đệ! Cảm giác bàng bạc đó đủ rồi. Những kẻ mới gặp nhau lần đầu cần gì phải biết tên nhau ngay. Phượng lại mỉm cười khi ôn lại trong trí: chàng nhạc sĩ, nam ca sĩ, nữ ca sĩ, người khách 1, người khách 2, người khách 3. Phượng tự hỏi thầm chẳng biết bài học thứ ba nơi phòng khách trong hẻm đó là gì đây? Và Phượng chuẩn bị đợi nhỏ bạn tới kéo mình đi bất kỳ lúc nào.

Một tuần qua, sao không thấy nhỏ bạn lại? Phượng giật mình thấy nhói nơi bụng. Không khéo nó vượt biên rồi! Phượng định tới nhà nó, nhưng có tới cũng không tiện hỏi nên lại thôi. Đến thăm ông nhà văn một mình giờ đây có gì trở ngại đâu, vậy mà Phượng thấy mình không thể làm nổi. Đã mười mấy ngày qua, biệt tích nhỏ bạn. Buổi chiều hôm đó, nó vụt tái hiện, đen gầy, đôi mắt còn vẻ sững sờ, khuôn mặt còn vẻ hốt hoảng đảo lộn: quả thực nó vượt biên thất bại. Nó kể một mạch.

Một giờ trưa hôm đó nhỏ bạn được cho hay là phải chuẩn bị đi. Nhỏ bạn mồ côi mẹ từ sớm, nên mặc dầu tính tình rất hồn nhiêm mà cứ mỗi khi hát bài nào có đề tài về mẹ là nhỏ vừa hát vừa khóc. Nhỏ cắm nhang lên bàn thờ Phật, rồi bàn thờ mẹ, vừa lúc ba xuất hiện. Nhỏ nói, ba quay đi dấu nước mắt. Nhỏ ôm theo bọc hành lý, lủi đi – lòng rã rời tan nát. Cuộc sống quý hay sự đoàn tụ với những người ruột thịt quý? Phượng không biết trả lời sao! Bồ đã đợi nhỏ đúng hẹn. Bồ cho hay có người bạn sĩ quan Hải quân cũ được mời làm tài công kỳ này. Bồ dắt nhỏ tới chào mẹ mình lần cuối. Bồ ở trường hợp ngược lại, mồ côi cha từ sớm chỉ còn mẹ - người đàn bà hiền hậu đó – quê ở Bắc Ninh thì phải, âu yếm nắm tay nhỏ nói:

- Đây là chuyện may rủi, con tự ý chứ?

Nhỏ gật đầu, rơm rớm nước mắt thưa như thưa với cả ba mình mà hình ảnh là hiện thân của cô quạnh đau thương còn đè ngập tâm trí:

- Dạ con biết, đây là tự ý con.

Bồ dắt tay nhỏ bạn lên xích-lô tới cầu xa lộ, nơi đây cả hai theo người hướng dẫn lên một chiếc xe đò. Xe chạy tới địa điểm Hải Sơn, Bà Rịa, người hướng dẫn đã nháy mắt, cả bọn xuống đi bộ thêm khoảng 500 thước thì chui vô một căn nhà tối hù, phía ngoài có rơm, phía trong có giường với ba thanh niên nằm sẵn. Không khí im lìm dễ sợ. Ăn cơm chiều xong, ông chủ nhà bảo mọi người gắng ngủ lấy sức đi, có thể nửa đêm sẽ xuống bãi. Đường đi rất trơn, không nên mang dép! Ông căn dặn mọi người phải chuẩn bị tinh thần chịu đựng khó khăn và nhớ tỉnh táo theo sát nhau. Tám giờ tối, một người trong ban tổ chức đem đèn pin tới kiểm soát lại. Ai nấy tin chuyến đi sẽ an toàn, hễ ra bãi là thoát. Khoảng mười giờ khuya, tiếng ông chủ nhà nói khẽ bên ngoài “Tắt đèn đi”, rồi tiếng kéo rơm phủ lấp lối. Bên ngoài có tiếng chân rầm rập, tiếng gắt xôn xao và ánh đèn pin lấp loáng: du kích xã phối hợp với huyện đang đi bắt thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự. Chuyến đi hoãn. Năm giờ sáng, lại tiếng ông chủ nhà nói khẽ bên ngoài bảo mọi người hãy đi cầu, đi tiểu trước khi sáng rõ. Nhỏ bồ và người bạn sĩ quan Hải quân cũng nhờ mua bánh mì để ăn cho tới chiều. Bốn giờ chiều, một người trong ban tổ chức tới hỏi thằng bồ của nhỏ:

- Có phải anh là anh Túy?

- Không, tôi là Huân. Túy là anh bạn tôi đây. – Anh bạn sĩ quan hải quân.

Người của ban tổ chức quay sang hỏi Túy:

- Trước anh là sĩ quan Hải quân quen lái tàu bằng tay bánh lái, nay lái ghe một bloc bằng cần, có gì trở ngại không?

Túy thoáng vẻ khó chịu nhưng cũng trả lời:

- Dạ không có gì trở ngại. Người của ban tổ chức lại hỏi:

- Anh đã nắm được vị trí giàn khoan chưa? Lần này Túy không giấu vẻ khó chịu, nhưng cũng cố dịu giọng trả lời:

- Tôi chỉ mới biết có ba vị trí giàn khoan phía Nam gần Mã Lai thôi.

Khi người của ban tổ chức đi rồi, Túy nói với người bạn đã giới thiệu mình làm tài công:

- Mày có biết nó hỏi tao trước mọi người như vậy là kẹt cho tao nếu như chuyến đi không thành và bị lộ.

- Hắn là trùm tổ chức đấy – người bạn đáp – rất có uy tín. Đàn em của nó vẫn thường nói một cách kiêu hãnh: “Năm Thu tổ chức mà!” Bởi hắn –

Năm Thu – tổ chức rất thành công. Hắn cần được trực tiếp nói với tài công vì hắn biết tài công nắm sinh mạng cả ba bốn chục mạng người khi ra khơi, nhỡ tài công giả thì sao.

Mười giờ khuya, Năm Thu tới, chiếc đèn pin trên tay, nói rất nhanh với mọi người trong phòng:

- Xin quý cô bác nghe tôi đây, chỉ chừng nửa giờ nữa là xuống bãi. Mọi người phải gắng bình tĩnh, chớ xôn xao, luôn luôn nghe theo lời chỉ dẫn của tài công. Lúc lên ghe cứ từ tốn theo đúng lượt mình, chớ chen lấn, lỡ ngã xuống có thể bị con nước cuốn đi mất tích. Đi ghe, dầu nhớt là máu mủ, dầu nhớt của chúng tôi có đủ. Lương thực và nước uống cũng dự trữ đầy đủ. Khi đã lên ghe rồi, thanh niên là nòng cốt hãy giúp đỡ tài công trong việc giữ gìn trật tự, nhắc nhủ mọi người phải ngồi san ra, đừng đổ dồn về một bên. Thôi chúc quý vị mọi sự may mắn.

Nhỏ nắm chặt tay bồ, cả hai yên tâm, chắc mẩm chuyến đi thanh thoát. Chưa đầy nửa giờ sau, tiếng ông chủ nhà la lớn – ít khi ông la lớn thế:

- Ai? Ai đó?

Tiếng chó sủa ran. Tiếng chân dồn dập từ ngoài đường vào khoảng sân hẹp trước nhà. Thật ra lúc đó còn kịp cho nhỏ bạn và bồ lủi thoát ra phía sau vườn. Nhưng mọi người đều nằm im. Hai ánh đèn pin rọi thẳng vào cửa phòng. Tiếng một du kích xã la:

- Tất cả nằm im trong đó!

Cánh cửa bị đạp tung cùng với tiếng lên đạn và một du kích nói lớn:

- Ra từng người một! Ai chạy – bắn!

Mọi người líu ríu ra, có người quên mang theo đồ. Tên du kích cầm súng bắt mọi người ngồi xếp hàng hai dưới gốc cây trong sân trước nhà. “Trời, - nhỏ bạn tự nhủ thầm – y như xưa bắt Việt Cộng.” Đây đó có mấy ngọn đèn dầu được thắp thêm.

Thêm một tên du kích loại con nít mới lớn chĩa súng vào đám người thất thế ngồi hàng hai. “Sợ nhất tụi con nít chĩa súng!” một người trong bọn họ nói khẽ. Một du kích cỡ đại loại Tiểu đội trưởng lên giọng dạy đạo đức Cách mạng bằng cách nói dốt đặc cán mai và cuồng tín, chẳng ai buồn chú ý nghe. Tự cho là nói xong những điều cần thiết, nó tiến tới gần đám người ngồi hàng hai và chỉ vào bồ của nhỏ:

- Anh này, theo tôi!

Nhỏ thấy thót bụng, buốt tim nhìn bồ đứng lên theo tên Tiểu đội trưởng ra phía góc khuất đầu nhà có ánh đèn dầu. Bắt đầu cuộc hỏi cung ở đó. Mọi người không ai bảo ai cùng lắng nghe.

- Anh đi tốn bao nhiêu?

- Coi như ba cây, đưa trước một nửa. (Bồ và nhỏ bạn đã bàn sẵn lời khai nếu gặp điều rủi tương tự.)

- Tên anh là gì?

Bồ nhỏ khai tên giả, nó hỏi tiếp nơi ở. Bồ nhỏ cho tiếp địa chỉ giả nốt.

- Anh làm nghề gì? – Giọng tên Tiểu đội trưởng chợt gay gắt hơn.

- Tôi mới bỏ vùng kinh tế mới về, đi bán chợ trời.

- Anh đi với ai?

- Với người bạn gái làm thợ may.

- Quen nhau như thế nào?

- Chúng tôi trai tứ chiến gái giang hồ - nhỏ bạn tưởng có thể bật cười lớn, bi kịch bỗng trở thành hài kịch – phải rủ nhau đi chui để lấy nhau.

- Ai móc nối đi?

- Tôi gặp người ta ở chợ trời, nghe bảo chắc ăn thì đi.

- Có mang theo giấy tờ gì không?

- Không.

- Thôi vô hàng!

Bồ nhỏ bạn đi lẹ về ngồi chỗ cũ, nói khẽ rất nhanh:

- Đừng dại khai lý lịch thật!

Tên Tiểu đội trưởng tiếp tục hỏi cung. Chỉ nửa giờ sau có tiếng xe và ánh đèn – loại xe Honda – tiến tới ngoài cổng. Chúng kín đáo bàn nhau điều gì, rồi hạ lệnh mọi người ra đường xếp hàng một đi theo con lộ gồ ghề. Có người cất tiếng hỏi đi đâu, một tên đáp là đi về xã cách đó một cây số. Chúng đưa về trụ sở xã thật, trước trụ sở có cột cờ, trong trụ sở dĩ nhiên có ảnh Bác và các khẩu hiệu đại loại “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”… Kế đó mọi người được đưa vào một căn nhà gỗ bên trong đã có một nhóm vượt biên khác.

Khi mọi người đã vào gọn trong phòng, cửa ngoài đã khóa lại, quẹt lửa bật lên, người bạn Hải quân nhận ra một thằng bạn Không quân cũ trong nhóm bị bắt trước. Vô hình chung một nhóm trẻ thân sơ chừng mười người – trong số đó có nhỏ bạn và bồ - bỗng kết hợp thành một nhóm.

Anh bạn Không quân nói ngay vừa đủ cho nhóm nghe:

- Bằng mọi giá chúng ta phải móc nối để được thoát ở đây. Mai chúng giải lên huyện là hỏng. Tôi đã móc nối được với ca gác từ 12 giờ đến 2 giờ sáng. Tên du kích này đã chỉ cho tôi chỗ đào phía góc kia, gần nơi ỉa đái hôi thối. Nó đòi mỗi người một chỉ vàng. Còn khoảng một giờ nữa là tới ca gác của nó, chúng ta phải chuẩn bị đào gấp, đừng để quá 2 giờ sáng.

Thế là những thanh niên thay nhau đào, đồng thời thảo luận ngay vấn đề tiền trao cháo múc sau đó với tên du kích. Khoảng tường đó chỉ là một cái hang đã đào mới lấp, vì vậy chỉ một tiếng rưỡi sau đã đào xong. Mọi người lần lượt chui ra. Anh chui ra đầu tiên mang lại cho tên du kích đứng gác đấy hai trăm đô-la gói trong túi ni-lông. Anh giải thích:

- Chúng tôi không có vàng, nhưng số đô-la này tương ứng với số vàng anh đòi.

Tên du kích vẫn nhìn thẳng về phía trước hỏi ngắn gọn:

- Thật không?

- Cam đoan thật!

- Thôi được!

Hắn tới lúc đó mới quay lại nhìn mọi người, tay giơ ra nhận tiền miệng nói:

- Chuồn lẹ! Cứ thẳng hướng phía trước mà đi cho nhanh. Chỗ nào đen đen là đất cứ bước, chỗ nào trắng trắng là nước phải cẩn thận. Sẽ thấy đường cái có xe đò bên tay mặt.

- Đi chừng bao nhiêu thì thấy đường cái? – Một người hỏi.

- Nhanh chậm còn tùy, ai biết! Chuồn lẹ đi! Mọi người khởi sự vượt qua mương dưới ánh sao mờ mờ. Đen là đất, trắng là nước – nhỏ bạn ôn thầm trong trí. Tuy nhiên nhiều chỗ trắng vẫn phải bước, nông sâu khác nhau nhưng đều có rễ đước đập sưng ống chân. Kẻ trước người sau miết mải, ngang tầm mắt chỉ thấy đen đặc màu rừng, nhìn qua tay mặt chưa thấy nét đường cái đâu cả.

Gặp liền hai cái lạch, nhỏ bạn được bồ và anh bạn

Hải quân xốc hai bên nách nên qua lạch tương đối dễ. Bỗng phía trước có người nói “Chết cha, đầm lầy!” thì vừa lúc đó nhỏ bạn thấy toàn thân tụt hẫng xuống. Một chân bước tới, chân kia phải dùng hai tay của mình kéo lên khỏi khối bùn. Có lúc nhỏ bạn phó mặc cho hai người đàn ông xốc hai bên nách kéo lướt trên mặt bùn. Cũng may qua khoảng ba chục thước, đường bùn gặp ngay dòng suối nước ngập ngang bụng và nét con lộ phía trước không xa.

Một bạn đồng hành thông minh khuyên mọi người hãy lợi dụng dòng suối mà tắm rửa bùn trên người và trên áo quần trước khi tới ngồi khuất dưới bụi cây gần lề đường đợi sáng và chờ xe đò.

Vậy mà cũng phải đến gần sáu giờ sáng mới có chuyến xe đò đầu tiên từ phía thị xã Bà Rịa về Sài Gòn. Một người ra vẫy xe, khi xe ngừng, cả chín người nấp dưới bụi cùng ồ lên. Thoáng trông lơ xe biết ngay là đám người vượt biên thất bại. Nó bèn tăng giá từ 25 đồng lên thành 50 đồng một người. Các bà buôn bán ngôi trên xe cự nó là bất nhân bất nghĩa bắt bí người không may. Nó tỉnh bơ, thu đủ tiền không bớt một đồng. Xe tới Sài Gòn, nhỏ và bồ lên ngay xích-lô. Trên xe hai đứa cùng rút được ngay kinh nghiệm là đi chui hoàn toàn phó cho may rủi. Năm Thu tổ chức chu đáo như vậy mà kỳ đó rủi lọt vào mắt du kích xã. Lần sau hai đứa sẽ quan sát địa hình địa vật trước để hễ có động là chuồn liền tìm nơi náu mình ngoài bụi, không dại nằm im chịu bị bắt như kỳ vừa rồi. Về nhà gặp lại ba, anh chị em, lũ cháu, nhỏ bạn tắm rửa sạch sẽ, ngủ một giấc rồi tới gặp Phượng liền.

Phượng hỏi:

- Thế còn nơi sở mi làm?

- Mai tao đến làm việc như thường.

- Không ai nghi ngờ gì sao?

- Chỗ tao làm toàn dân “ngụy” không à. Đứa nào cũng đã từng đi hoặc nhấp nhỏm đợi đi. Chúng tao hẹn trước nhau, hễ đứa nào bất chợt nghỉ là “trúng mánh” đó, những đứa còn lại liệu lời

- Mi vẫn cương quyết thất bại keo này bày keo khác chứ?

Nhỏ bạn chớp mắt thoáng buồn nhưng cực kỳ chịu đựng:

- Chả có cách gì khác. Không có chọn lựa! Mặc dầu mỗi lần đi, vĩnh biệt người thân như vậy, không phải chết một ít đâu, mà là chết hẳn để tái sinh sang một kiếp khác. Niềm đau nhục tái tê, khi vượt quá mức chịu đựng của con người, nó phải tự động biến dạng ra như vậy.

Có lẽ tới mấy phút sau Phượng mới chép miệng nói:

- Với mi, âu đó cũng là một nét sầu thử lửa. Và cả với tao nữa, vì biết đâu rồi đây tao cũng sẽ theo gương mi vượt biên một chuyến xem sao. À mà trong khi chờ đợi, chuyến này mi nhớ mang bồ tới đây giới thiệu họ hàng nghe!

- Yên chí lớn mà!

Trong trí Phượng lúc đó đã nghĩ tới bài học thứ ba trong cuộc hội kiến sắp tới với ông nhà văn.

CHƯƠNG MƯỜI BA
Trang Đời Khép Mở

1

Đúng ba hôm sau nhỏ bạn đã tới mang theo bồ - Huân - để giới thiệu với cả nhà. Hôm đó may sao nhà hiện diện đủ mặt: ba, má, chị Trang, Phượng (anh Trung thì có mặt thênh thang tại một nước Tây Âu rồi).

Cả Huân lẫn Trinh đều đã lấy lại phong độ thảnh thơi cũ. Nhỏ bạn cười khanh khách, tiếng cười đáng yêu đặc biệt của nó:

- Thưa hai bác, cháu xin giới thiệu đây là… Ba thân mật bắt tay Huân cười dễ dãi:

- Té ra thế hả? Tốt! Má nói:

- Ngồi đây các cháu, để bác pha cà-phê loại

“xịn” chào mừng buổi ra mắt chính thức này.

Trinh nói với đôi mắt tựa như có sáng lên:

- Được vậy thì nhất rồi bác ơi, anh ấy là dân ghiền cà-phê đấy bác ạ.

Chị Trang giải thích với Huân:

- Dưới mắt gia đình tôi, hai cô cậu coi như thành đôi rồi, kể từ nay tôi kiểm soát, thấy bên nào bắt nạt bên nào là ăn đòn đó. Phải tương kính như tân!

Chỉ có Phượng là không nói thêm gì, chỉ tưng bừng giúp má pha cà-phê.

Trong mùi cà-phê thơm lừng, Huân cung kính hỏi ba má về cuộc sống của gia đình. Má cho biết cách kiếm sống là nhận đồ đan móc, hay buôn đi bán lại vài thứ, đặc biệt là thuốc Tây, và khi phải tiêu pha món gì lớn thì… bán đi một chỉ vàng.

Giữa câu chuyện, một lần nhỏ bạn nói khẽ vừa đủ cho Phượng nghe:

- Sau đây chúng mình cùng đến thăm… ông nhà văn.

Tới thăm ông ta buổi sáng – Phượng nghĩ thầm – căn nhà lại chật ních khách!

Vậy mà không. Khi ba người tới nơi, trong phòng chỉ có ông anh ông nhà văn với cô con gái lớn và ông nhà văn. Bầu không khí hoàn toàn gia đình. Câu chuyện cũng giữ được vẻ thân mật như vậy. Ông anh ông nhà văn bảo cô con gái lớn: răng thuốc Mỹ, thuốc Pháp, thuốc Đức, mặc chúng bay, nhưng trước khi đi ngủ hãy ngậm nước muối cho tao năm phút. Tao sáu mươi tuổi đầu đây này, răng tao còn tốt y nguyên, chúng bay có thấy không? Mày phải luôn luôn nhắc thằng anh mày, lũ em mày như thế.

Ông lườm cô con gái để lời nói thấm thêm một chút nữa rồi mới tiếp:

- Còn về buổi sáng khi vừa thức giấc… Cô con gái ngắt lời bố:

- Con biết rồi. Buổi sáng khi vừa thức giấc là nhỏ mắt bằng nước muối.

Phượng thấy ông nhà văn tủm tỉm cười, chắc là câu chuyện tương tự xả ra nhiều lần rồi, trong khi ông anh dằn giọng:

- Chúng bay có thấy là mắt tao…

- Mắt bố vẫn đeo kính cận. – Cô con gái cố tình trêu bố.

- Ờ đã đành tao đeo kính cận thị nhưng mắt tao ít, rất ít đau mắt. Chúng bay là hay cầu kỳ. Và đừng quên tao mắng chúng bay cái gì luôn luôn y cứ vào một cái gì sâu xa hơn thế. Biết sống đơn giản như vậy, dần dà chúng bay hiểu rằng tài năng, trí thức không bằng hồn nhiên trung hậu, nhan sắc không bằng hiền thục, tiền của không bằng thanh cao.

Em gái 12, 13 tuổi và chú nhỏ 8, 9 tuổi – mà

Phượng đã gặp buổi đầu – khi nghe tiếng saxophone cũng vừa từ trên gác xuống. Em gái – tay ôm con mèo xinh, chú nhỏ đôi mắt sáng thông minh. Ông bố lườm yêu chúng một cái rồi day mặt lại bộ ba Phượng, Trinh, Huân:

- Chú dư biết ai mà chẳng có khả năng ước mơ, duy có điều ít ai chịu hiểu cho rằng nếp sống có bình dị, giấc mơ mới trong sáng. Thôi cả nhà ở nhà nhé, tôi phải đi thanh toán vài việc cho xong.

Ông nhà văn hỏi đùa anh:

- Hẳn toàn là những việc bình dị và trong sáng, phải không anh?

Ông anh ông nhà văn đã bước vội tới cửa, ngoái lại đáp:

- Điều cần là: biết sẵn sàng chấp nhận và cũng biết sẵn sàng khước từ. Chân bước thênh thang, tâm hồn thênh thang!

Ông khép cửa lại, tưởng là ông đi thẳng nhưng ông đã vội mở cửa nói thêm cho hết ý:

- Nếu chưa biết được rằng đau khổ là cửa vào hạnh phúc thì chung thân bất mãn. Ngược lại khi đã thể nghiệm được quấy phá chính là tác thành thì đạt đạo rồi, mình sẽ như phao thức tỉnh giữa khoảng trời lồng lộng trăng sao. Thời gian, không gian là một. Tâm hồn thênh thang, chân bước thênh thang. Bảo là nhất nguyên cũng được, thật ra là Siêu! Phi nhất phi nhị!

Cánh cửa khép mạnh. Lần này ông ra đi thật. Ông nhà văn nhìn theo hút anh rồi nói vừa đủ cho bộ ba Phượng, Huân, Trinh nghe:

- Ông anh tôi nhiều khi phải là thi sĩ kiểu cụ Tagore mới phải, nhưng mà sau khi nói liên chi một hồi ông lại chủ trương vô ngôn ngay.

Em nhỏ 8, 9 tuổi hỏi:

- Bố cháu vừa nói gì thế hở chú?

Ông nhà văn chưa tìm được câu trả lời thằng cháu, thì cô chị lớn đã nói:

- Hình như bố cháu ngày xưa cũng có làm thơ, phải không chú?

- Ờ, hình như từ thuở mẹ cháu còn Đông đào Tây liễu.

Em gái nhỏ ngừng vuốt ve con mèo trên tay, hỏi: nghe:

- Đông đào Tây liễu là làm sao hở chú?

Cô chị lớn ghé xuống giải thích cho em

- Là thuở mẹ chưa lấy bố.

Những người lớn nhìn nhau tủm tỉm cười, ông nhà văn thật sự hướng dẫn câu chuyện vui:

- Ờ chú nhớ hình như dạo đó bố cháu có làm tặng mẹ cháu bài thơ tứ tuyệt thì phải.

Cô cháu lớn vội hỏi:

- Chú có nhớ không chú?

- Không, nhưng đại loại cũng có gió, có trăng, hình như cũng có cả lất phất mưa nữa thì phải.

Đứa cháu nhỏ phản đối:

- Có trăng sao lại có mưa được hở chú?

Cô chị gạt đi:

- Thiếu gì khi có trăng mà vẫn mưa lất phất. Thế bố cháu làm xong bài thơ đó có đưa cho mẹ cháu, phải không chú?

- Dĩ nhiên!

- Mẹ cháu có khen không chú?

Cả đám người lớn cùng cười thành tiếng, ông nhà văn đáp:

- Dĩ nhiên, nếu không làm sao có tụi bay. Thằng cháu nhỏ:

- Chú ơi, cháu thấy mẹ cháu thường cứ gọi bố cháu là ông gàn.

- Ờ thì cũng có thể là sau khi mẹ cháu lấy bố cháu rồi mới nhận ra điều đó. Nhưng mà… lỡ rồi.

Đứa cháu gái lớn:

- Mẹ cháu lỡ rồi nên bèn đẻ một loại sáu chúng cháu để tự an ủi.

Cả phòng khách vang lên tiếng cười lớn. Ông nhà văn gật đầu:

- Đúng rồi!

Em gái nhỏ vừa vuốt ve vừa nói chuyện với mèo:

- Mày giàu hay nghèo?

- Nghèèèooo... – Con mèo tựa như đáp.

- Tên mày là gì nói tao nghe thử?

- Meeeooo...

Ông nhà văn hỏi cháu:

- Nó đã biết bắt chuột chưa? Em trai nhỏ tố cáo liền:

- Nó toàn bắt gián ăn thôi, chú ạ. Cô chị giải thích thêm:

- Nó bắt gián, nó vồ mồi trông điệu nghệ lắm, có khi nó nhảy quẫng biểu diễn, chỉ một loáng là từ đầu phòng đã thấy ở cuối phòng rồi, nhưng khi ngồi trên ghế, chuột cống thoắt đi, thoắt lại dưới chân, nó đưa mắt nhìn một cách âu yếm.

Cô em bào chữa cho mèo của mình:

- Nó nhỏ mà chị, chuột cống lớn quá mà chị.

- Chú có biết không – vẫn lời cô chị - buổi trưa cũng như buổi tối, cơm mèo để sểnh lúc vắng bóng người là chuột ra xực hết.

Chỗ này cô em khẽ đập lên đầu con mèo:

- Mày ngu lắm, nghe em, để chuột nó ăn hết, rồi đói, rồi cứ quẩn vào chân tao đòi ăn. Mày ngu lắm nghe em.

Thằng em phát biểu:

- Chúng cháu là Nam Hải dị nhân thì nuôi mèo cũng phải thế chứ - mẹ cháu bảo vậy mà.

Ông nhà văn cười rộ với mọi người:

- Mày có hiểu Nam Hải dị nhân là gì không?

- Thì cháu hỏi mẹ cháu chiều hôm qua đấy, mẹ cháu bảo là người kỳ dị.

- Ờ mẹ nói như vậy cho nhã đấy, thực ra phải bảo chúng bay là lũ khùng!

Cô cháu nhỏ ngừng vuốt ve mèo, đôi mắt mở lớn hỏi:

- Thế sao chú không lấy vợ hở chú?

Cả nhà lại cười rộ, tiếng cười ông nhà văn lớn hơn cả. Hai đứa cháu nhỏ dạo này hay thực tình hỏi ông câu đó, ông bèn đáp lời cháu:

- Nhà đã có một lũ khùng chúng bay rồi chưa đủ hay sao?

Cô cháu lớn nói ngay:

- Chú cứ lấy vợ đi, nhà càng nhiều đứa khùng chơi với nhau càng vui chứ.

Ông nhà văn xua tay nói lớn:

- Thôi giải tán! Chúng bay lên gác, để người lớn nói chuyện.

Ông hỏi cô cháu lớn:

- Nhà còn loại trà chanh không?

- Dạ còn.

- Pha cho chú một bình đi, cho đường đầm đậm một chút và cho thêm vài lát chanh tươi vào. Hai đứa nhóc này, a lê hấp lên gác!

Biết là không được ở phòng khách với chú nữa, thằng nhỏ cương quyết trêu chú:

- Vợ chú ba trong giống đầm Tây…

Cô chị cười khanh khách, trước khi đi pha bình trà chanh, cô khuyến khích hai em:

Ba” đi.

- Phải đó tụi bay đọc hết bài ca dao “Vợ Chú

Ông nhà văn xua hai đứa nhỏ:

- Muốn nói gì thì nói, hãy ra ngoài đã!

Hai đứa nhỏ bước ra khỏi cửa bên hông, cùng bước lên một bậc thang lầu rồi cùng quay lại, dáng điệu cương quyết. Ông nhà văn biết lũ cháu “Nam Hải dị nhân” lên cơn trêu mình bèn tiến tới khoảng kệ sách gần đấy vờ chăm chú kiếm sách, trong khi trên bậc thang lầu thằng em gân cổ đọc một câu, con chị lại vuốt ve mèo đọc tiếp một câu cho đến hết bài… ca dao chắc là do cô chị chúng sáng tác:

Vợ chú ba trông giống đầm Tây

Vợ chú ba cổ cao ba ngấn, tóc mây rậm rì

Vợ chú ba mặt vuông, môi đỏ, lông mày tô chì…

Vợ chú ba đẹp thật đẹp, nói cái gì cũng hay

Vợ chú ba khoái ăn ớt cay

Vợ chú ba làm lụng vất vả tối ngày không than.

Ông nhà văn mỉm cười nhưng vời lấy xuống quyển sách trên kệ mở ra chăm chú đọc. Chú nhỏ lắc đầu thất vọng nhìn chị, rồi cả hai lên gác. Phượng nhìn theo nói:

- Chúng thật dễ thương!

- Và cũng thiệt khùng nữa, cô ạ. - Ông nhà văn thêm.

2

Phượng nhớ sau khi hai đứa nhỏ đã lên gác, kế đó bình trà chanh của cô cháu lớn mang xuống, câu chuyện người lớn bắt đầu, nhưng tâm trí Phượng hoàn toàn bị ám ảnh bởi nếp sống thân mật dí dỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên vừa chứng kiến. Bài học thứ ba Phượng rút được chính là bài học hồn nhiên đáng yêu này. Đúng như lời ông nhà văn khi cất chén trà chanh và nói:

- Cái sinh thú vô giá của con người là được sống bình thường, nếu không phải là tầm thường. Sống bình thường, thể nhập vào những sự kiện bình thường như chim kêu, hoa nở, lá rụng, sương rơi. Thi vị và cũng đạo vị biết chừng nào!

Nhỏ bạn phụ họa lời tương đắc:

- Thiệt anh ạ, quả tình cuộc sống bình dị giúp mình thể nhập làm một với cái gì thanh tịnh muôn đời, bình lặng muôn đời. Vì có mây nổi và thấy trời xanh, thi vị đưa tới đạo vị.

Và nhỏ đọc tám câu thơ của nhà thơ nữ, Hoàng Hương Trang:

Ôi, mây nổi, mây nổi Che sao kín bầu trời Ôi mây nổi mây nổi Đổi sao được sắc trời

Lòng người như mây nổi Hồn ta như trời xanh Mây sẽ theo gió thổi

Trời vẫn sắc thiên thanh.

Phượng còn nhớ giọng nhỏ đọc hôm đó êm như một bài ca ngẫu hứng. Bài học thứ ba là bài học cuối cùng chăng – nếu như lần này Phượng đi thoát – nghe lời nhỏ bạn ngâm hôm đó cũng tạm gọi là được, nghe lời ngâm cuối cùng của nhỏ trên mảnh đất quê hương này. Vì sau đó ít bữa, Trinh, Huân đã ra đi lần hai và hình như thành công thì phải. Mới có mật mã gửi về chứng tỏ họ đã ra thoát cửa biển, còn đợi điện tín xác nhận họ đã tới đảo nào.

3

Em gái nhỏ mang bữa cơm chiều lên căn gác xép cho Phượng. Bữa cơm chiều cuối cùng trên mảnh đất quê hương? “Biết đâu rồi đây tao sẽ theo gương mi vượt biên một chuyến xem sao!” Chỉ là câu nói chơi ngày đó, chưa hề có chút âm hưởng thiết tha nào trong tâm tưởng Phượng. Rồi Huân, Trinh đã ra đi lần hai thoát vùng cửa biển. Rồi công an hoặc công an mặc áo dân sự, tới bắt ba. Cả nhà rụng rời. Dì cầu cứu sự tận tình của chú Vĩnh, và chị Trang được gặp ba tại nhà giam Công an Thành phố, đường Trần Hưng Đạo. Ba kịp gửi lời trấn an cả nhà. Nguyên do bác Lam cũng đã bị bắt từ quê nhà, vùng cửa biển Cần Giờ đưa về Công an Thành phố. Bác Lam là đảng viên kỳ cựu, bỏ Đảng thì họ phải nghi. Có người cũ chỉ điểm nên sở Công an biết ba và bác là đôi bạn kỳ cựu, họ bắt luôn ba là vì vậy. Nhưng cả hai đã già, quá già, và đã từ lâu, rất lâu rồi, rửa tay gác kiếm, nên chắc chắn chỉ một ngày gần đây sẽ được thả cả. Và bà chủ nhà bây giờ, người bạn hàng cũ thân tình với má xưa, xuất hiện vào đúng thời gian này. Hoàn cảnh ly kỳ của bà, thiện chí lạ lùng của bà lăn xả vào tổ chức để giúp đỡ những người vượt biên… tất cả những thứ đó đã thúc đẩy Phượng yên tâm chấp nhận “thử thời vận” một chuyến, may ra được gặp lại anh Trung và Họa ở Hòa Lan, gặp lại nhỏ bạn với Huân ở đâu nhỉ, có thể là ở Úc, ở Canada, ở Mỹ hay ở một nước Tây Âu không chừng.

Phượng vừa ăn xong bữa cơm chiều – bữa cơm chiều cuối cùng trên mảnh đất quê hương – thì có tiếng chân lên thang gác, tiếng chân bà chủ nhà, không thể lẫn được.

- Bác ạ. - Phượng lễ phép chào – Cháu vừa ăn cơm xong.

Bà chủ nhà âu yếm vuốt tóc Phượng như thể má vuốt tóc Phượng, bà nói:

- Đêm nay đi đó cháu!

- Khoảng mấy giờ thưa bác?

- Chỉ khoảng mười giờ là xuống bãi đó cháu.

- Bây giờ sáu rưỡi – Phượng nhìn đồng hồ nói.

- Vậy coi như chỉ còn ba tiếng rưỡi nữa.

Người ta cho hay từ chiều hôm qua đến chiều hôm nay rong dạt vào bờ nhiều lắm. Kinh nghiệm thuyền chài thì khi rong dạt vào như vậy, chỉ mười ngày sau là biển lặng như tờ mặc dầu giờ đây gió vẫn cấp ba. Dù sao thì bác cũng tin chắc rằng chuyến này hết trở ngại rồi. Cháu cứ yên tâm chuẩn bị đến giờ là xuống bãi nghe! Thôi bác còn đi báo tin cho vài toán khác nữa.

Bà lại vuốt tóc Phượng âu yếm từ biệt. Phượng nắm lấy cổ tay bà, nhìn bà trìu mến như nhìn má, như nhìn ba, như nhìn chị Trang:

- Cám ơn bác. Cháu cảm thấy yên tâm lắm, chắc chuyến đi thuận buồm xuôi gió.

Và bà xuống. Tiếng bước chân vội vã xa dần. Ba tiếng rưỡi cuối cùng còn lại trên mảnh đất quê hương – Phượng tự nhủ thầm – Phượng sẽ ôn lại hoàn cảnh ly kỳ của bà, thiện chí lạ lùng của bà lăn xả vào tổ chức để giúp đỡ những người vượt biên, và chính quyết định thử thời vận của Phượng nữa!

Vừa xong một chuyến vượt biên bà tổ chức thành công, bà tạm rời căn nhà thuộc vùng phụ cận Vũng Tàu – căn nhà Phượng đương ở - về thăm ông ở Sài Gòn và thắp nhang lên bàn thờ Phật. Cũng do vô tình thôi bà gặp lại má ở chợ Vườn Chuối, nhận lời mời của má về chơi và ăn cơm chiều luôn.

Gia đình bà thuộc loại Bắc kỳ cũ, không phải loại B54 (Bắc kỳ di cư năm 1954). Vì vậy khoảng thời gian ba năm 1959-1962, ba và bác Phác lênh đênh buôn bán bằng ghe từ Tân Châu, Châu Đốc, đến Sa Đéc, má đã nhiều lần giúp vốn bà buôn bán. Thuở đó gia đình bà thường xuyên bị lúng túng về tài chính, chỉ vì ông trót nghiện ngập mất rồi. Rồi suốt từ 1962 đến 1975, hễ khi nào thiếu hụt, bà lại tới cầu cứu má. Bẵng đi từ sau biến cố tháng Tư

1975, bà và má không gặp nhau. Dân chúng dưới quyền xã hội chủ nghĩa mạnh ai nấy lo – má đinh ninh là vậy, ai dè sự thể khác hẳn ngoài sức tưởng tượng, nghịch lý mà có thật. Bà thuật lại suốt bữa ăn như kể một chuyện cổ tích, cả ba, má, chị Trang và Phượng cùng nghe.

Ông bị nghiện từ năm 1959, bà lúng túng về tài chánh kể từ đấy. Ông người nho nhã có học, không viết lách nhưng quen nhiều giới văn nghệ làm báo. Ông nói chuyện rất có duyên, tính tình hào phóng, thoạt chỉ tiếp rượu các bằng hữu văn nghệ thôi, rồi thuận đà vui anh em, la cà bàn đèn có khoảng bốn tháng mà thành nghiện. Bà chết đắng, chết cay nhưng chẳng biết làm sao, chỉ đành cố tảo tần giật gấu vá vai. Kịp khi miền Bắc chiếm trọn miền Nam, thống nhất thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì cả ông lẫn bà coi như là ngày tàn của đời mình. Ông bà sinh con một bề, có độc một cô gái lấy một sĩ quan lái trực thăng trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cặp vợ chồng trẻ đã sớm có tới bốn con – ba trai một gái – nên chẳng còn khả năng giúp đỡ ông bà gì được. Tới ngày 28-

4-1975, đất nước đương tơi bời hoa lá, ông còn kịp nhận lá thư của một người bạn trong giới văn nghệ đã di tản sang Mỹ theo đài tiếng nói Mẹ Việt Nam trước đó gần một tháng; mấy dòng cuối trang thư màu xanh là:

“Tôi luôn luôn nhớ tới anh và các bạn khác. Tâm sự tôi gói gọn trong hai câu thơ này:

Đối ẩm đèn chong không có bạn

Tình nồng ấp ủ lạnh chăn đơn

Trên đời này còn nỗi buồn nào bằng uống rượu thiếu bạn tri âm?!”

Nhưng cũng là ngày ông từ chối lên trực thăng để ra Đệ thất Hạm đội ngoài khơi.

Nguyên do thằng con rể ông – đại úy Không quân – lái trực thăng đưa cả gia đình ông ra Đệ thất Hạm đội. Tại đây ông đại tá nhờ bạn Mỹ kiểm soát lại máy trực thăng, đổ đầy xăng rồi tặng chàng đại úy chiếc trực thăng đó về đón vợ con. Chàng đã hoàn tất chuyến bay thứ hai đem tới Đệ thất Hạm đội vợ và bốn con an toàn. Tới đây người vợ khóc xin chồng hãy bay một chuyến thứ ba nữa về đón cha mẹ mình đi. Cha mẹ già yếu nghèo túng, trước đây đã không giúp được gì, nay tới cơn nguy biến quốc phá gia vong, vợ chồng con cái lỉnh đi một mình còn trời đất nào nữa. Chàng đại úy bèn cấp tốc lái trực thăng về Sài Gòn lần chót, vẫn hạ xuống terrasse một cao ốc khu Bàn Cờ. Nhưng lần này là lần thứ ba rồi, dân chúng biết đó là chiếc trực thăng của viên sĩ quan Không quân nào đó về đón gia đình. Trong khi chàng đại úy rời trực thăng về đón cha mẹ vợ, thì cả đám thanh niên quanh vùng bảo nhau lên ngồi chật ních trong trực thăng. Chàng đại úy thực tình thưa với bố mẹ vợ khúc nôi và xin bố mẹ đi gấp. Gia đình đông đủ ông bà, cha mẹ, con cháu dĩ nhiên sẽ định cư ở Mỹ. Nhưng ông nhất định không đi vì hai cớ: Thứ nhất, ông biết mình nghiện nặng, suốt thời gian tá túc ở Đệ thất Hạn đội đào đâu ra thuốc, ông không muốn bêu riếu con về nhược điểm đó của mình dưới mắt người Mỹ trên hạm đội; thứ hai, ông sợ gió, sợ đi trực thăng nguy hiểm, có thể rớt giữa biển. Ông cương quyết không đi, do đó bà cũng không đi. Chàng đại úy Không quân đành trở lại terrasse cao ốc khu Bàn Cờ thì thấy trực thăng đã chật ních. Khoảng ba chục thanh niên đồng bào trẻ trung, nửa uy hiếp, nửa ăn vạ đòi đi bằng được. Hiện tượng này mới có khoảng hai tháng trước đây mà nay đã rất phổ biến tại sân bay Ban Mê Thuột, Kontum, Đà Nẵng. Anh giải thích, anh xin mọi người bảo nhau xuống bớt một nửa thì phi cơ mới có thể cất cánh và bay tới nơi được, nhưng nhất định không ai chịu nghe. Anh kêu gào lời giải thích thêm một lần nữa, dằn dỗi ra mặt thì thấy chừng năm sáu người chịu xuống. Chàng đại úy đành nhắm mắt cất cánh liều. Trực thăng lảo đảo ngay từ phút đầu. Một thoáng suy tư giữa tiếng gầm rú của máy, chàng đại úy không hối là mình hay một số đồng bào “không tặc” sẽ chết hay bị thương, mà chỉ hối là trực thăng rớt bất tử thế này tránh sao làm chết một số người vô tội dưới phố. Tựa như tài năng kinh nghiệm của cả một thời binh nghiệp dồn lại lóe sáng trong mấy giây, tập trung nơi bàn tay điều khiển lái, và chiếc trực thăng đã rớt xuống ngay đường kẻ chéo vào đúng khoảng bùng binh Cộng Hòa, cuối đường Lý Thái Tổ, đầu đường Nguyễn Hoàng. Chiếc trực thăng nằm đó, trên mặt đường nhựa, không đến nỗi tan nát bẹp dúm, mà chỉ như con quạ ô đuối sức hạ mình hơi gục cổ. Không một ai chết hoặc bị thương, không một bộ hành nào trên con lộ bị tai họa oan uổng. “Một kỳ công của ta! Một kỳ công của ta!” Chàng đại úy tự tuyên dương, lương tâm nhẹ nhõm, không còn gì để oán hận, tiếc nuối nữa. Ngày 15-7 năm đó, chàng đành đi trình diện rồi bị đưa đi Long Giao, rồi ra Bắc – cũng lên

Lào Cai về Yên Bái như các bạn đồng ngũ. Tại Yên Bái, vào một dịp đi vô rừng đốn cây làm nhà, chàng đã qua một vùng an trí những người vượt biên vô Nam thất bại. Họ đã thất bại tại cửa biển Đồ Sơn, Hải Phòng, tại Ba Làng, Thanh Hóa, tại gần Bến Hải nữa. Bại lộ bị bắt, bị đưa đi các trại khuất nẻo nơi lam sơn chướng khí như vậy, nhiều người trên dưới hai mươi năm trời không hề được viết một dòng thư liên lạc với gia đình. Khi chàng đại úy phi công gặp một người trong bọn họ, lời họ nói nhiều vẻ bi hài khó tả: “Tưởng các anh ra đây giải phóng chúng tôi chớ, ai dè cũng tù như chúng tôi!” Trại cuối cùng, chàng đại úy được chuyển tới thuộc Thanh Hóa, sau đó được thả sau hơn năm năm lao động cải tạo. Chàng về với gia đình tháng trước, tháng sau đã vượt biên và thành công, do chính bà mẹ vợ điều khiển sắp đặt – như bà đã sắp đặt cho Phượng. Chàng được tàu Anh vớt đưa lên trại tị nạn Singapore. Ba tháng sau chàng đã đặt chân lên đất Mỹ tại phi trường San Francisco, đủ mặt vợ con ra đón. Thằng con trai đầu lòng của chàng thuở đưa nó ra Đệ thất Hạm đội bằng trực thăng chưa học xong trung học; ngày tái ngộ, nó đã tốt nghiệp kỹ sư một ngành điện tử rồi. Cho đến bây giờ, chàng vẫn đinh ninh sở dĩ được hưởng diễm phúc đó, chính vì chàng đã thần xuất quỷ nhập điều khiển chiếc trực thăng bất hạnh rớt xuống như con quạ ô đuối sức thôi, không một ai bị thương, không một ai thiệt mạng. Về phần cả hai ông bà bố mẹ vợ chàng, kể từ ngày gặp chàng trở lại tới ngày tổ chức cho chàng ra đi thành công, luôn luôn ông bà tỏ lòng ân hận vì mình mà chàng lỡ chuyến đi với vợ con, còn chịu cảnh tù đày trên năm năm trường.

4

Ông từ chối không theo chàng rể lên trực thăng vì không muốn đem hoàn cảnh nghiện ngập của mình bêu riếu con cháu dưới mắt ngoại nhân, và ông cũng chấp nhận thực trạng bi đát mà ông phải đương đầu trong những ngày cực kỳ khó khăn sắp tới dưới chính quyền Cộng sản. Người thân đầu tiên từ miền Bắc vô Nam gặp ông là thằng cháu gọi ông bằng chú ruột. Hắn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được ông nuôi cho ăn học như con. Rồi hắn gia nhập Đảng Cộng sản, thoát ly gia đình, đi công tác quần chúng tại các tỉnh trung du: Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ. Hiệp định Genève ký kết, ông bà vô Nam với cô con gái duy nhất. Hai mươi mốt năm trôi qua, 1975, hắn từ miền Bắc chiến thắng vô tiếp thu miền Nam chiến bại, gặp lại chú thím. Hắn đương là Bí thư Tỉnh ủy. Hắn tận tình khuyên chú thím hãy mua gấp một khoảng đất trồng trọt ngoài Sài Gòn – theo đúng chính sách giải tỏa đô thành của Đảng. Còn chút tiền vốn, bà đã mua được khoảng đất ngoại vi Vũng Tàu này với một số người đồng cảnh, và xúm nhau vào đồng lao cộng tác cuốc cuốc xới xới tăng gia khoai sắn liền. Một năm trôi qua, bà tiếp tục tăng gia èo uột tại Vũng Tàu, ông tiếp tục kiếm thuốc qua ngày bằng cách tiêm cho khách nghiện tới hút lén tại căn gác cũ trong hẻm Bàn Cờ. Người cháu Bí thư Tỉnh ủy vô Nam công tác lần nữa. Anh giặp một đồng chí nhà báo Ba Lan trước cửa khách sạn Cửu Long, đồng chí này đã nửa đùa nửa thật nói: “Chính tại thủ đô Varsovie chúng tôi cũng phải năm năm nữa mới theo kịp được mức sống Sài Gòn bây giờ, và cũng chỉ năm năm nữa mức sống Sài Gòn sẽ xuống bằng mức sống Hà Nội!” Là Bí thư Tỉnh ủy, anh biết lời nói đó không ngoa. Thăm chú thím lần này, anh sẽ mang đến cho chú tấm giấy chứng nhận mắc bệnh già suy nhược, chú được phép hút thuốc phiện như một thứ thuốc trợ lực, ngăn bệnh bất khả kháng.

Anh đích thân nói với Công an sở, Công an quận và Công an khu vực. Anh nói thật với chú, nghe câu này của chàng nhà báo Ba Lan, anh chợt nhận thấy phải giúp chú, vì quả thực đời sống miền Nam rồi đây sẽ ngày một khó khăn hơn nhiều. Anh nào ngờ tờ giấy chứng nhận mắc bệnh già suy nhược được phép hút thuốc phiện đã thay đổi hẳn cục diện cuộc đời ông chú cả về tinh thần lẫn vật chất. Khách hút của ông không còn phải lo sợ, lén lút, chỉ việc nhẹ nhàng tới lui êm ả theo một thời khóa biểu nhất định, hợp lý, tránh tụ tập quá đông một lúc. Một tháng qua, mức sống thoải mái hẳn, vì tiền thu hoạch gấp đôi, rồi gấp ba gấp bốn. Chưa hết. Đám cán bộ bạn thằng cháu ông mỗi lần công tác vô Nam, có người mang thuốc phiện vô Nam nhờ ông tiêu thụ giúp kiếm lời. Ba tháng sau, ông đã rất thành thạo trong công việc chọn loại thuốc bảy thành tốt nhất để từ một ký thuốc mộc, nấu được 700 gam thuốc tinh. Bà ở trại tăng gia Vũng Tàu về, ông nói rõ cho bà hay giá thành một đồng cân ông nấu là 175 đồng, nếu bán ngay cũng thu được 320 đồng, lãi 145 đồng. Phần ông hút rồi bán sái nhất để bạn xì-ke ma túy nghèo nấu làm thuốc chích cũng còn lãi 80 đồng. Phần ông mua đi bán lại thuốc mộc, loại xấu cũng bộn lãi. Tính đổ đồng trung bình mỗi tháng, ông chỉ an nhàn nằm đấy mà cũng thu hoạch về khoảng 60.000 đồng. Với bà, với người thật thân, thật quý, ông thường thốt lời tâm sự không một chút tự kiêu: “Thực là lạ, tại một nước xã hội chủ nghĩa đề cao lao động, tôi không lao động gì, càng hút càng kiếm ra tiền!”

Đó là biến chuyển về vật chất, còn biến chuyển về tinh thần: Mặc dầu trước đây ông quen toàn những người thuộc giới văn nghệ, nhưng ông không hề làm một câu thơ, viết một dòng văn. Có lần ông than phiền với một nhà thơ như vậy, thì nhà thơ đó nói ngay “Anh ơi anh cần gì phải viết văn, làm thơ. Nếp sống của anh, cách cư xử của anh đủ là văn thơ rồi.”

Mà quả vậy, cách cư xử với bằng hữu của ông trước “thời giải phóng” quả có văn phong trang nhã, tế nhị. Kể cả khoảng thời gian sa sút nhất sau ngày toàn thể miền Nam thất thủ, ông cũng chỉ âm thầm chịu đựng và tìm cách đối phó với hoàn cảnh kín đáo, lặng lẽ. Kể từ ngày ông thoát ngõ bí vật chất nhờ tờ giấy chứng bệnh, ông ham đọc sách, và ông ở một trạng thái tâm thức, trí tuệ lạ lùng, đọc bất kỳ loại sách nào ông cũng rút ra được những bài học siêu hình mà vẫn thực tế. Và những suy tư đó ông không để cho mai một đi trong nội tâm, mà ông phổ biến bằng cách trao đổi ý kiến với những thân hữu ông gặp hàng ngày quanh khay đèn, hoặc bằng cách viết thư cho bằng hữu và cô con gái ở hải ngoại. Theo ông, bất kỳ trang sách nào cũng có thể đánh thức mình tìm ra được một ẩn ý thiêng liêng nằm sẵn nơi chính mình. Ông thoạt rùng mình, chợt thấy dư giả thảnh thơi một cách phi lý, trong khi chàng trai hai mươi tuổi hàng xóm đi làm mửa mật cho một hãng thầu xây cất công tư hợp doanh để lĩnh mười lăm đồng bạc công hàng ngày, có hôm mang lon cơm đi ăn trưa để khỏi phải ăn bát phở mười đồng mà còn đói meo. Ông rùng mình nghĩ đến một cô gái hàng xóm đi dạy học ở Bảo Lộc, lương tháng năm mươi mốt đồng, mỗi năm chỉ vào dịp Tết và dịp hè mới dám về thăm cha mẹ. Ấy là tiền xe đi đi về về bố mẹ đã phải ứng cho. Ông nghĩ ở một chính thể chủ trương đầy đọa dân trong nghèo hèn ngu dốt mà ông hưởng phúc lộc trái khoáy như vậy chính là trời Phật thử lòng ông một lần tối hậu. Đúng vào dịp này, ông đọc trang sách kể giữa đời Đường, tổ Hoàng Bá dạy rằng chỉ cần một hạnh bố thí là đủ tất cả. Bố thí là cho món này món kia, ng- hĩa là xả, là buông bỏ. Ngài nói trong hàng đệ tử Mã Tổ, tám mươi vị thiện trí thức chỉ có Hòa thượng Quy Tông là ỉa chảy đầy đất đáng quý hơn cả. Ý ngài muốn nói, chỉ có Hòa thượng Quy Tông là xả bỏ tất cả, bố thí tất cả. Ông đã suy nghĩ nhiều lần để hiểu câu: “Chính vì xả bỏ tất cả mà được tất cả.” Lần đó ông bàn với bà - mới ở trại Vũng Tàu về - tìm cách bố thí, xả bỏ những gì thu được. Ở Vũng Tàu, bà đã nghe nói nhiều về những mánh khóe lừa lọc để cướp không tiền của, vàng bạc của những tổ chức “vượt biên ma”. Ông bà bèn hoạch định chương trình kết hợp được với những người thật sự có thẩm quyền đóng ghe, mua bãi, rồi cũng chính ông bà đứng ra tuyển lựa những người tìm đường vượt biên. Mỗi người ra đi như Phượng chỉ phải nộp số tiền gọi là phần nào đóng góp vào việc đóng ghe, mua bãi, dữ trữ dầu nhớt, lương thực. Ông bà hoàn toàn điều khiển một chương trình cứu nhân độ thế như chương trình Terre des Hommes vậy. Đã ngót năm năm qua, trên bốn chục chuyến tổ chức của ông bà đều ra khỏi cửa biển bình an, không đổ bể. Dĩ nhiên việc ra khơi, tới hải phận quốc tế, gặp sóng gió bất ngờ, gặp hải tặc Thái Lan… là những chuyện ngoài phúc đức của ông bà.

Bài học rực rỡ này, theo như Phượng nhận xét là suốt năm năm qua, trại Vũng Tàu của bà vẫn là trại tăng gia sản xuất gương mẫu, cần cù. Những người tới tạm trú chờ ngày ra bãi đều là những người bà con như hệt người nhà. Sau mỗi chuyến đi không để lại dấu vết gì, và chuyến kế tiếp lại âm thầm được tổ chức theo đúng tinh thần vô cầu, vô kỷ, vô công, vô danh mà ông học được qua các trang sách do chính sự thức tỉnh tâm linh của ông khám phá ra. Chuyến ông bà tổ chức cho chàng rể ra đi, điều duy nhất ông bà dặn là: Khi vợ chồng con đã đoàn tụ trên đất Mỹ rồi, đừng thắc mắc nghĩ đến chuyện bão lãnh, vì cho đến giờ phút đó, chắc chắn ông bà không thể sống ở đâu sung sướng hơn ở Việt Nam. Cũng có thể rồi sau đây tình hình đổi thay, ông bà tính chuyện ra đi, nhưng đến lúc đó hãy hay, ông bà sẽ đánh điện cho biết.

Như khép lại một trang vở! Và một trang mới sắp mở ra…

Phượng chợp ngủ lúc nào không biết, nhưng vẫn ý thức là mình chỉ còn ít phút phù du trên mảnh đất quê hương. Kể cả trong giấc ngủ thiếp đó, Phượng vẫn không quên ý nghĩ đã từ lâu bàng bạc trong tâm trí: Nếp sống cao sang, địa vị cao sang, lời nói cao sang, tất cả chỉ là những vàng son giả trá, những danh vọng phù du. Phượng mang ơn ông nhà văn, chính ông đã dạy Phượng cái nhìn trong suốt đó. Kể cả trong giấc ngủ thiếp đi, Phượng vẫn không quên ý nghĩ từ lâu bàng bạc: Ông ta giờ đây là sao Kim, sao Mộc long lanh trên cao, vừa là sao Kim, sao Mộc mà Phượng đã hạ phi thuyền xuống quan sát. Phượng đã gửi cho ông ta mười một lá thư, lẽ ra Phượng phải đòi lại mười một bài học, ai dè mới tới bài thứ ba…

Phượng như mơ thấy có con chim xinh, xù lông cổ, muốn hét lên một tiếng bất bình, nhưng tiếng chim thoát ra vẫn là tiếng hót líu lo ngộ nghĩnh. Tiếng hai con chim đối thoại với nhau:

Vợ chú ba trông giống đầm Tây

Vợ chú ba cổ cao ba ngấn, tóc mây rậm rì

Vợ chú ba mặt vuông môi đỏ lông mày tô chì

Vợ chú ba đẹp thiệt đẹp nói cái gì cũng hay.

Hình như Phượng mỉm cười thì phải, và ý nghĩ lãng đãng hình dung khi chạm trán với trùng dương, có thể lênh đênh đói khát, có thể thuyền lật úp, có thể gặp hải tặc Thái Lan…

Có tiếng nói bên tai Phượng:

- Dậy cháu, đến giờ rồi!

Bà chủ nhà đã đứng bên trìu mến nhìn

Phượng như nhìn chính con gái mình sắp ra đi. Phượng nắm lấy tay bà như cùng một lúc nắm cả tay má, tay ba, tay chị Trang. Bà vuốt tóc Phượng nói:

- Cháu đi, sóng yên biển lặng, nghe!

Phượng rơm rớm nước mắt, cúi xuống nhấc chiếc sắc xách tay thật nhẹ của mình. Sáng sớm hai hôm trước đây, Phượng cũng rưng rưng nước mắt với chiếc sắc nhẹ này, lẳng lặng ra đi; má và chị Trang hẳn cũng rưng rưng nước mắt, tự ý lánh mặt…

CHƯƠNG MƯỜI BỐN
Chạm Trán Với Trùng Dương

Lúc đó khoảng mười giờ rưỡi khuya, bắt đầu ra bãi. Người của ban tổ chức bảo mọi người xách dép, vén quần cao lên; đường ra bãi qua một khu xóm người ở, phải tuyệt đối im lặng, chớ để chó cắn, dân xóm thức, lộ chuyến đi, có hại cho kỳ tổ chức tới. Toán của Phượng chừng mười người qua hai cầu khỉ, nhảy qua một con lạch nhỏ, lội qua một dòng suối nhỏ nước ngập tới mắc cá thôi. Một cụ già 68 tuổi – mẹ chàng tài công kỳ đó – luôn luôn giục đám trẻ bằng giọng miền Bắc dễ thương của cụ, “Nhanh lên các con các cháu ơi, tụi nó thấy thì khốn!” Khi mọi người lội tới vùng nước thấy lạo xạo vỏ sò, vỏ hến bên dưới khía cứa chân thì biết là đã đến bờ biển. Tuy vậy mọi người vẫn còn miết mải đi một quãng qua vùng sình lầy lau lách nữa mới tới khoảng bãi khuất vắng. Người ban tổ chức đọc khẽ tên từng người lên ghe, xếp ngồi đúng chỗ.

Không kể tài công và những người phụ máy, bốn mươi bảy người cả thảy. Khoảng sáu, bảy giờ sáng, ghe đã ra khơi, quay lại nhìn còn thấp thoáng thấy núi Vũng Tàu. Chợt thấy ba ghe đánh cá có kéo cờ đỏ sao vàng nối đuôi nhau tiến ngang phía trước như muốn chặn đường mình. Ai nấy lo vô cùng. Quả thực ghe đầu lái xéo chặn đường. Tài công ghe mình cho mở hết tốc lực. Ghe đánh cá cờ đỏ sao vàng chặn hụt, bỏ cuộc không đuổi theo. Nhưng chưa được nửa giờ sau thì gặp một ghe khác, lớn gấp đôi ghe mình, xông tới hăm hở. Ghe này không có ý chặn mà đi sát làm cồn sóng lên, mọi người la lớn bảo họ hãy lái ra xa kẻo ghe nhỏ có thể lật. Lúc đó người bên họ mới nói xin ghe nhỏ vượt biên cho gửi ba người. Rồi họ lái sát vào nữa, sóng càng cồn lớn, cả hai ghe đều nghiêng ngả. Ba chàng thanh niên xuất hiện. Họ đều là dâm thuyền chài, họ canh đúng lúc hai ghe nghiêng chụm lại thì nhảy xuống mỗi người mang theo hai can dầu. Ghe lớn rời xa ngay, ba thanh niên nói họ có thể giúp tài công lái hoặc kiểm soát lại máy móc. Và một trong ba người đã thực sự giúp một tay lái cho tài công chính nghỉ một lát. Người trên ghe bắt đầu ói, thoạt ói ra củ sắn, rồi ói ra màu xanh xanh, rồi ói ra màu vàng vàng. Phượng có kinh nghiệm bản thân biết thế nào là ói ra mật xanh, mật vàng rồi! Sau cùng Phượng ói ra màu đo đỏ - máu - rơi vào tình trạng hôn mê khoảng ba bốn giờ chiều. Ghe tiếp tục đi.

Khoảng một giờ khuya, Phượng tỉnh lại, thấy ghe chòng chành dữ, được nói cho hay ghe bị hư đang neo để sửa. Bắt đầu bão, mỗi lần ghe ng- hiêng, mép ghe sát với mặt biển ngầu bọt trắng xóa.

Cả ba thanh niên đi nhờ đều mang đèn pin xuống hầm sửa máy. Ba thanh niên không tìm ra chỗ hỏng nhưng kịp thời báo động lên khoang là nước vô hầm nhiều lắm. Một mặt bơm nước, một mặt thay phiên nhau tát nước, tất cả những người trên khoang đều được nhắc nhở là phải tuyệt đối nằm im, tuyệt đối không được đổ xô sang một bên là thuyền ụp tức khắc. Trời đã sáng hẳn. Tính ra thuyền đã đi được

33 hải lý, nơi này nội bất xuất ngoại bất nhập, nếu cứ neo thuyền mãi thì chết, nhưng rút neo thả trôi, thuyền sẽ theo con nước vô bờ, sẽ bị công an bắt. Đương lúc tiến thoái lưỡng nan thì mọi người thấy có chiếc tàu lớn xuất hiện ở chân trời. Thế là quần áo trắng được buộc vào sào làm cờ phất , đồng thời trên khoang đốt lửa làm khói. Vô hiệu. Tựa như con voi nước lừng lững đi vào rừng sóng không hay biết gì tới chú chuột nhắt sắp chết đuối. Lại có tiếng kêu: “Có tàu, có tàu!” Ai nấy nhận ra loại “tàu quốc doanh” vẫn thấy đậu ở bến Bạch Đằng.

“Tất cả đàn bà, con gái hãy xuất hiện hết và la hét kêu cứu!” Lời của một người trong thủy thủ đoàn giàu kinh nghiệm. Quả thực chiếc tàu có ý muốn đi thẳng, bỗng hạ bớt tốc lực. Tiếng cụ bà 68 tuổi thoát lên từ ca-bin, “Ới các ông ơi, cứu chúng tôi với!” Mấy đứa con nít khóc ré lên, vẫy tay trợ lực. Lúc đó Phượng mới giật mình nhớ ra rằng trên thuyền còn cả trẻ nít nữa.

Chiếc tàu quốc doanh lái quanh ghe, rồi hai thủy thủ dùng một chiếc thuyền thúng bơi sang, giữ khoảng cách vài thước, hỏi:

- Ghe của mấy ông bà bị gì vậy?

- Ghe chúng tôi bị hư máy, các ông ơi.

- Có vũ khí không?

- Chúng tôi dự định đi nước ngoài mà, làm gì có vũ khí. Năm mươi người cả thảy.

Lúc đó hai thủy thủ mới cho thuyền thúng sát hẳn và leo lên ghe. Một người nói, giọng vẫn ôn tồn:

- Chúng tôi trông là biết ngay thuyền của ông bà vượt biên.

Người kia hỏi:

- Nào, hư máy ra sao?

Không đợi trả lời, hai người xuống thẳng hầm máy. Họ hì hục dưới đó tới hơn một tiếng đồng hồ, sau cùng họ tìm ra căn bệnh. Một người nói lớn:

- Máy không hư mà thành hư. Máy chạy xăng mà các ông lầm đổ nhớt vào, hư cả hai máy rồi! Bây giờ chúng tôi còn giúp được gì cho các ông bà nữa nào?

Cả hai thủy thủ đã lên khoang. Cụ bà nói:

- Chúng tôi trên này vừa bàn nhau, nếu máy hư không sửa được đành nhờ các ông kéo trở lại bờ vậy.

- Chuyện đó cháu không thể quyết định được, thưa cụ.

- Vậy thì các ông cho tôi qua bên tàu, tôi thưa chuyện với ông thủ trưởng – ý cụ muốn nói người điều khiển tàu – chúng tôi sẽ chung nhau ít vàng còn lại biếu quý ông bên đó gọi là trả ơn kéo chúng tôi vô bờ.

Một chút ngần ngừ rồi một người nói:

- Vâng, để chúng cháu đưa cụ sang tàu.

Họ đón cụ bà xuống thuyền thúng, thoắt thôi cụ đã leo lên tàu bên kia, dáng cụ đi chững chạc, đúng là lão bà sứ giả trên biển khơi. Không biết cuộc đàm thoại bên đó ra sao, chỉ biết chừng một giờ sau, hai thủy thủ khác bơi thuyền thúng chuyển sang hai nồi cơm lớn và một nồi cá thu kho từng khúc bự. Vậy là đã tới bữa trưa rồi.

Ăn miếng cơm cá ấm tình người, Phượng như một thiền sinh đã bao năm nghiền ngẫm một công án, thoát nhiên đốn ngộ. Hãy ôn lại hình ảnh ông già mặt choắt, mắt sáng, râu dê – Lê-nin – khi ông hét lên nguyên lý sáng chói: “Tổ chức, tổ chức và tổ chức!” Như hệt Archimède thét tiếng “Eure- ka!” - Tìm thấy rồi! - Quả thực với mạng lưới tổ chức siêu mê lộ của ông già mặt choắt râu dê thì con người hoàn toàn như con muỗi nhỏ một khi sa vào vùng mê lộ của lưới nhện thì vô phương tự cứu. Càng giãy giụa càng vướng mắc! Nhưng cũng như các loài quỷ, yêu tinh, ma quái trong các truyện ngụ ngôn, cổ tích, chúng tung mây đạp gió như Tề Thiên Đại Thánh mà vẫn không ra khỏi bàn tay của đấng Chí Thiện. Chúng quên, chúng cố tình quên, hay chúng không có khả năng nhớ rằng: Con người, khi đã từ vật lên người, không thể không làm người! Khi những triền phọc khắc nghiệt “tổ chức, tổ chức, và tổ chức” của ông già mặt choắt râu dê và đám môn đệ xuất sắc – dĩ nhiên trong số phải kể Hồ Chí

Minh – không còn hiệu nghiệm, lập tức người lại là người, như kẻ khát khô ngửa cổ ừng ực uống cam lộ.

Kẻ điều khiển tàu quốc doanh đương nhiên phải là một đảng viên Cộng sản rồi, thủy thủ đoàn đương nhiên phần lớn là đảng viên hay cảm tình viên cỡ tin cẩn. Học thuyết một chiều thu hẹp và vít chặt tối đa chân trời kiến thức; những cuộc họp liên tục giữa các đồng chí tiếp tục kiểm soát, bào nạo, xói mòn tri thức từng người; tình tự đồng chí đan lát bằng những danh từ “thắm đượm” là những mắt lưới thường xuyên bủa vây tư tưởng nhau. Nhưng giữa cảnh trời biển mênh mông xa hẳn đất liền Cộng sản, chỉ còn người với người. Càng những con người bị bóp nghẹt, vít kín, càng vùng lên thiết tha để có được dịp khoác lại tấm áo nhiệm màu nhân bản, vung lại đường gươm nhiệm màu nhân bản, thấy chiến thắng trong thất bại, thấy thiên thu trong khoảng khắc, thấy bất diệt trong sinh tử…

Không rõ cụ bà đã nói thêm những gì bên đó, chỉ thấy tàu lớn đã cột dây ghe nhỏ kéo đi phăng phăng theo tốc độ của mình. Tàu vượt sóng nhấp nhô như xe lăn trên quãng đường lồi lõm. Tàu kéo lái ngoằn ngoèo, ghe được kéo phía sau cũng phải nương chiều lái theo. Chắc qua một đêm lo âu sức khỏe suy sụp đi nhiều, người tài công đang lái ghe theo chiều tàu lớn thì bị chuột rút nơi tay cầm, la lớn một tiếng rồi như ngã ngửa về sau. Một trong ba thanh niên xuống nhờ thuyền hôm trước vội lái thay, trong khi hai người kia lấy dầu nóng thoa bóp cho bàn tay bị chuột rút. Sóng biển dường như cứ tăng cấp dần, Phượng cũng muốn xỉu đi, rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Bỗng có tiếng la hết sức bình sinh, “Á, ghe chìm!” Phượng bừng tỉnh đúng lúc ghe nghiêng hẳn và ụp tức khắc.

Cả ghe chìm. Phượng kẹt trong ca-bin.

Chắc chết rồi! Phượng nghĩ vậy và thoáng ôn nhanh hình ảnh ba, má, chị Trang… Dưới nước, Phượng chú ý vào khoảng sang sáng giữa vùng đen kịt. Phải bơi ra lối đó! Phượng nghĩ vậy và lập tức chuồi mình ra ngay, tựa như qua cả một rừng tay quờ quạng.

Ghe sở dĩ lật úp ngay là vì tàu trên vẫn kéo. Một thủy thủ vội chặt đứt dây chão. Phượng bơi thoát ra khoảng sang sáng (cửa ca-bin) đúng lúc dây chão đã được chặt đứt. Phượng vừa trồi lên khỏi một vùng sóng lớn thì cũng thấy mũi ghe từ từ nổi lên cách đấy không xa. Phượng gắng sức bơi nhoai lại, vịn vào mạn thuyền lật úp, đã thấy một số toàn con trai ở đấy. Phượng theo họ leo lên đáy ghe để nhường mạn ghe cho những người đang tiếp tục bơi tới. Từ khoảng đáy ghe lật úp nhìn quanh, Phượng thấy nhấp nhô áo nâu, áo đen, can dầu, thùng đựng lương thực. Sóng nhấp nhô loang loáng và nồng nặc mùi dầu nhớt.

Sau khi kịp thời chặt đứt dây chão, người thủy thủ đã hô lớn cho tàu quay lại. Những thủy thủ khác vội quăng phao, quăng thuyền thúng xuống, rồi chính họ cũng tả xung hữu đột, vớt người này lên thuyền thúng, nâng người kia lên tàu lớn.

Người thứ năm còn lại trên tàu – họ có năm người tất cả - thoạt đốt lửa làm khói kêu cứu một chiếc tàu biển lớn đương tiến trên hải phận quốc tế. Khi trên tàu đã có mấy thanh niên còn khỏe được vớt lên, họ phụ việc dìu những người yếu lả vào ca-bin, đốt lửa lên sưởi ấm, xắt gừng chia cho mọi người nhai lấy hơi nóng, làm hô hấp nhân tạo cho hai người bị xỉu. Họ tiếp tục đốt lửa làm khói kêu cứu tàu lớn ngoài hải phận quốc tế, còn phất cờ trắng nữa.

Chiếc tàu lớn đã nhận ra hiệu khói, xăm xăm tiến tới, mỗi lúc một lớn dần, lù lù đồ sộ. Khi tàu lớn đã tới, một thanh niên giỏi tiếng Anh và Phượng giỏi tiếng Pháp được cử làm đại diện leo lên trình bày hoàn cảnh và xin được vớt.

Cảm giác tổng quát mà Phượng nhớ mãi mãi về sau này, chắc chắn là nhớ suốt đời: Phượng từ những hình ảnh ngổn ngang của sóng biển nhấp nô, người nhấp nhô, những can dầu, những thùng rỗng nhấp nhô, bước lên một sàn tàu mênh mông sạch bóng, những khuôn mặt kế tiếp nhau xuất hiện trong trật tự, những đôi mắt xanh mở lớn hiền hậu đầy thương cảm nhưng không ngạc nhiên, màu áo quần trắng tinh thẳng nếp thơm phức.

Ghe vượt biên của Phượng đã may, thật may, gặp được tàu của tổ chức Médecins Sans Frontière. Tàu này đương trên đường tới Hồng Kông để hoàn tất một nhiệm vụ y tế trong một tuần, rồi sẽ trở về Pháp ngay. Trời chiều sẫm, đèn trên tàu bật sáng trưng. Những người được vớt lên tàu quốc doanh đã tuần tự chuyển sang tàu lớn quốc tế. Kiểm điểm lại, sóng biển cuốn đi mất tích mười người, còn lại

40 người. Ấy là ghe đã chìm vào khoảng năm giờ chiều, còn ánh sáng để cứu kịp những người không bị sóng cuốn đi. Cụ già 68 tuổi đã sang làm sứ giả bên tàu quốc doanh trước khi ghe nhỏ đắm. Những người sống sót chúc thọ cụ. Ai nấy – và chính cụ nữa – cùng nói nếu như còn cụ trên ghe, cụ chẳng sao thoát khỏi số phận bị sóng biển cuốn đi. Những người sống sót không quên cám ơn năm người trên tàu quốc doanh trước khi họ quay mũi vô bờ, không quên trao lại tạ ơn năm người năm chiếc nhẫn, mỗi chiếc một chỉ vàng.

Bốn chục người lần lượt tắm rửa xong và lụng thụng trong những bộ đồ mới của thủy thủ đoàn trao tặng và được dọn cho ăn bữa đồ hộp đầu tiên trên tàu.

Hầu hết nam nữ thanh niên được vớt, đều không ít thì nhiều nói được tiếng Pháp hay tiếng Anh, vì vậy sự cởi mở có ngay từ những phút đầu tiên với thủy thủ đoàn trên tàu. Đám người được vớt hay tin Ủy ban Hành động Chống Hải tặc – Against Piracy Action – đã được thành lập ngày 30-04-1981 ở Thụy Sĩ gồm các tổ chức danh tiếng quốc tế như Terre des Hommes, Médecins Sans Frontière, Bateau Ile de Lumière. Họ đã gửi tới biển Đông một con tàu có vũ trang để tiếp cứu cho những người vượt biên. Dư luận một tờ báo Mỹ yêu cầu Hải quân Mỹ hãy thẳng tay đập nát bọn hải tặc thú vật đội lốt người. Những thủy thủ người Pháp này còn nói đến cả cuốn Bạch thư tố cáo những hành động dã man của hải tặc Thái Lan, do Ủy ban Báo nguy Giúp Người vượt biển ấn hành, gửi tới những tổ chức có thẩm quyền Liên Hiệp Quốc và các quốc gia tự do. Điều làm ấm lòng những người vừa thoát nạn biển là Cộng sản quốc tế quả thực đã bị kính chiếu yêu của những người tị nạn Việt Nam làm lộ nguyên hình, trơ trẽn hẳn, tiếng nói chúng cất lên ngọng nghịu hẳn ở mọi lĩnh vực. Ba mươi phần trăm người mạo hiểm ra đi tìm tự do bị táng thân trong bụng cá, ba mươi phần trăm bị bắt lại vào tù, hàng chục ngàn phụ nữ Việt Nam bị hải tặc Thái Lan bắt đi mất tích. Các nhà trí thức khuynh tả trong thế giới tự do thực sự cảm thấy mình bị lừa. Một vị trước khi chết đã để lại gia tài đóng một chiếc tàu chuyên dùng vào việc cứu người Việt Nam vượt biên.

Con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, huống chi mười người bị ngọn sóng cuốn đi – sáu nữ bốn nam đều đã đứng tuổi, sức yếu. Hai em nhỏ được hai ông bố sức trai ôm giữ nên đều thoát chết. Cụ già

68 tuổi nhắc nhở đám con cháu quan niệm triết lý có sinh tất có tử, những kẻ sống sót hôm nay chỉ là được triển hạn đó thôi. Tiện thể cụ thuật lại chuyện sang tàu quốc doanh điều đình.

Khi cụ ngỏ ý xin ông thủ trưởng kéo giúp ghe vô bờ, ông thủ trưởng dẽ dàng thưa với cụ là sự việc không đơn giản. Ở ngoài khơi thế này, tàu ông không nề hà việc cứu vớt những thuyền không may gặp bão, nhưng nếu lại kéo chiếc ghe với đám người tị nạn về, thì cả thủy thủ đoàn bị liên lụy. Sau một hồi lý luận qua lại hoàn toàn trên cơ sở tình đồng bào, đồng loại, ông ta ưng sẽ kéo chiếc ghe hỏng máy cùng đám người vượt biên trở lại biển Vũng Tàu, nhưng chỉ gần tới bờ biển thôi, rồi kín đáo bỏ đó, những người trên tàu muốn làm thế nào thoát được Công an biên phòng thì làm. Cụ bà đành đồng ý.

Họ dùng chão cột ghe nhỏ rồi cho máy chạy, thoạt lừ đừ vì họ phải hoàn tất tiêu chuẩn đánh cá trong ngày. Khoảng một giờ sau họ mới hướng vô bờ. Nhưng tàu chạy chưa được bao xa, một thủy thủ chợt nói lớn, “Có chiếc tàu lớn đằng xa, ngoài hải phận quốc tế kìa!”

Họ hạ giọng trao đổi nhanh vài ý kiến mà lúc đó cụ vô tình không chú ý. Rồi tàu gia tăng tốc lực, khi cụ ngẩn lên thấy tàu đương hướng ra khơi. Sóng lớn, tàu chao chát dữ, cụ đưa mắt nhìn chiếc ghe bên dưới như chiếc lá mong manh vừa rụng xuống. Tàu càng gia tăng tốc lực thì phải, chính mắt cụ chứng kiến lúc chiếc ghe nghiêng. Tựa như cụ có nghe tiếng la hét thì ghe ụp… Người thủy thủ vung tay dao chặt đứt dây chão…

Mọi người đều công nhận là người thủy thủ đã vung tay dao chặt đứt dây chão rất kịp thời nên mới không có người bị chết ngộp. Hãy giả sử tàu lớn cứ việc kéo theo chiếc ghe chìm nghỉm như vậy thêm năm phút nữa thôi, chắc chắn số mất tích và tử vong không thể dừng lại ở con số mười người.

Cụ bà nêu ý kiến để kết thúc câu chuyện:

- Theo ý bác, thoạt người ta cũng muốn kéo giúp ghe mình về gần đến bờ thì bỏ để mình tự tìm cách thoát thân. Khi thấy có tàu lớn ngoài xa – ý cụ muốn nói ngoài hải phận quốc tế - người ta bèn đổi ý, kéo thẳng mình ra khơi. Kéo hấp tấp quá nên ghe mình bi úp. Thật phúc đức, người ta đã kịp vớt hết những người không bị sóng cuốn. Thật phúc đức mà “tàu thày thuốc” này đã nhận ra lửa đốt kêu cứu để tới tiếp nhận chúng ta. Và cũng thật phúc đức, chúng ta đã kịp nhắc nhau gom được năm chỉ vàng trả ơn cứu sống của người ta.

PHẦN KẾT

1

C hỉ ba tháng qua mà đời sống của

Phượng đã ổn định trên đất Pháp, quả là thời gian kỷ lục! Mới ba tháng qua, kể từ buổi tối rời đất nước quê hương, qua hai ngày một đêm lênh đênh trên biển cả, rồi tai nạn chìm ghe được tàu quốc tế vớt, cập bến Hồng Kông một tuần, không ai được lên bờ, nhưng nhờ được thủy thủ đoàn đánh điện gửi thư giúp. Sau một tuần hoàn tất nhiệm vụ y tế, tàu chở thẳng mọi người về Pháp. Nơi đây đàn chim lìa tổ thêm một lần tan tác mỗi người một ngả: Mỹ, Canada, Hòa Lan, Bỉ, Đức…

Hình như hoàn cảnh hỏa ngục của đất nước đã tôi luyện cho người dân Việt (vẫn sống trong lòng hỏa ngục hay đã thoát ra lấm tấm rải rác trên khắp các quốc gia tự do – đặc biệt khá đông đảo tại Úc, Canada, Hoa Kỳ, Pháp) biết tự hối thúc trong một nếp sống kết tinh để truyền lại chất ngọc kinh nghiệm cho nhân lại.

Được chấp nhận sống trên đất Pháp theo quy chế tị nạn, Phượng được các bạn Pháp nức nở khen hoài về khả năng Pháp ngữ của mình. Phượng kể sơ qua cho các bằng hữu hay ba mình xưa là một trong số mấy nhà báo kỳ cựu nhất của miền Nam Việt Nam, từng sống nhiều lần ở Paris và đã đi hầu khắp các nước Tây Âu. Vì chịu ảnh hưởng của ba mà cả nhà nói được tiếng Pháp như vậy. Phượng được giới thiệu tới Paris theo học tại Sorbonne một ngành kinh tế đặc biệt về thị trường khoáng sản. Tới đây thời gian của Phượng trên đất Pháp vừa được một tháng.

Hồi tàu cập bến Hồng Kông, ngoài bức điện nhờ đánh về cho má, Phượng còn nhờ đánh thêm một bức điện cho Họa ở Hòa Lan mà địa chỉ Phượng còn nhớ. Cho tới khi có địa chỉ nhất định ở Paris, hằng ngày cắp sách tới Sorbonne nối lại cuộc đời sinh viên cũ, Phượng đã viết ngay một bức thư thật dài, kể đủ thứ mọi chi tiết may mắn cũng như gian truân gửi về cho má và chị Trang, rồi một bức thư cho Họa theo địa chỉ ở Hòa Lan. Chắc chắn gặp được Họa hay nhận thư Họa, Phượng sẽ biết tin anh Trung. Có khi anh Trung hay tin nhào tới Paris tìm Phượng. Thuở ban đầu khờ khạo Phượng quên ghi số điện thoại.

Nhưng người đầu tiên tới tìm Phương không phải là Họa, không phải là anh Trung, mà là “sứ giả” của hai người là…

Đó là một sáng Chủ nhật, có tiếng gõ cửa

studio, Phượng nói lớn:

- Ai, cứ vào!

Cửa mở. Phượng trợn tròn mắt nhận ra ngay:

- Anh Mạnh! Trời, sau tháng Tư 1975 anh còn tới nhà mấy lần rồi bặt luôn, mãi mấy tháng sau mới hay anh dông rồi. Lẹ thế! Mà anh cũng tệ, dông thoát rồi chẳng được một dòng một chữ gửi về - Phượng cười lớn – chị Trang trách anh lắm đó.

- Bà ấy có coi tôi ra cái gì đâu! Phượng cười khanh khách:

- Mấy năm ở nước ngoài anh đã thành lập gia đình chưa?

- Lấy ai? Ai lấy?

Vẫn có một mình giọng Phượng cười lớn, dường như lớn gấp đôi:

- Thôi thế thì được rồi, chuyến này viết thư về tấn công bà ấy đi, rồi bảo lãnh bà ấy sang đây. Ấy chết, anh hiện ở đâu nhỉ, ngay Paris?

- Tôi ở Hòa Lan, không xa chỗ Trung và Họa bao nhiêu.

- Anh Trung, anh Họa, trời, cả ba anh cùng ở Hòa Lan?

- Trung, Họa ở cùng nhà. Tôi cách hai tướng khoảng ba chục cây số.

- Tuyệt!

- Họa đã nhận được điện, rồi lá thư mới đây của cô. Họa tuần này quá bận vì một kỳ thi cuối khóa gì đó. Anh Trung thì trót có một cái hẹn phải đi Thụy Sĩ, vì vậy hai tướng cử tôi đến tìm cô bất ngờ như thế này. Tưởng cô không nhận ra tôi chớ.

- Gớm chưa, trông anh là em nhớ ngay tới bức họa chì than anh vẽ chị Trang còn treo nguyên ở phòng khách đó.

- Bà ấy có coi tôi ra gì đâu! Tôi như một chúng sinh nhỏ nhoi quỳ dưới chân một Bồ Tát cao vòi vọi!

- Anh chưa thành lập gia đình là được rồi! Chuyến này phải viết thư về cho bà ấy, tấn công mạnh vào. Số bà ấy phải ba mươi tuổi trở ra mới lấy chồng. Đến ngày đến tháng rồi đó. Định cư ở Hòa Lan, anh vẫn làm điêu khắc?

- Vừa điêu khắc, vừa vẽ, vừa du ca.

- Trời lắm thứ dữ!

- Ba tháng trước đây tôi gặp một anh bạn trẻ Việt Nam mới tới định cư tại Hòa Lan. Anh nằm viện để mổ mấy mảnh lựu đạn trong gót chân.

- Chi mà dữ vậy?

- Không, đó là mảnh lựu đạn cũ, có từ thuở anh đi lính trước 1975. Anh chàng là một trong những người gây dựng Phong trào Du ca cũ còn giữ nguyên lý tưởng, giữ nguyên phong độ và nhiệt tình.

Mạnh đã ngồi xuống ghế, Phượng đã bắt đầu pha cà-phê, hỏi:

- Anh là bạn cũ của anh ấy?

- Không! Nghe có người Việt Nam tới nằm viện thì mình tới thăm theo tình nghĩa đồng bào, thế thôi. Nhưng gặp nhau hợp thanh khí là thân nhau liền, vì thế tôi mới làm thêm “nghề du ca” chứ. Tôi đã có kinh nghiệm bản thân nằm bệnh viện, cũng thuở ban đầu chân ướt chân ráo tới Hòa Lan nè! Không ai đến thăm, không một người thân quanh mình. Nằm đó gậm nhấm nỗi nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ những kỷ niệm yêu dấu… Cơn buồn đến một cách nhẹ nhàng, chầm chậm và thấm thía… Thế rồi nước mắt tự nhiên tuôn chảy một cách ngây thơ không ngôn ngữ nào diễn tả nổi.

- Dữ!

- Thật vậy đó. Một tuần bốn ngày đến trường học tiếng nước người ta, còn lại bao nhiêu ngày khác dùng để viết thư, để lang thang và để khóc thầm. Ở Việt Nam có bao giờ nghĩ có ngày mình như thế, vậy mà ngày đó như thế đó.

Phượng đã bày ra hai tách cà-phê và mở tủ lạnh lấy bánh croissant, nói:

- Cà-phê thì bình đẳng, mỗi người một tách. Nhà còn một bánh croissant em nhường anh, người từ Hòa Lan tới, còn em đã có bánh ngọt. Điểm tâm cà-phê với bánh ngọt là đúng type Parisien đấy anh ạ. Thế anh vừa vẽ, vừa điêu khắc, vừa du ca, có bận lắm không?

- Du ca là nền lá xanh, điêu khắc và hội họa là những hoa những trái. Cái nọ làm giàu cho cái kia, vỗ về khuyến khích lẫn nhau.

- Anh là người sướng nhất trần gian rồi còn gì!

- Đúng vậy đó cô! Anh Quyết – tên anh bạn du ca – lành vết mổ là bọn tôi hoạch định thực hành lập Đoàn Du ca Hòa Lan liền!

- Anh Quyết là Đoàn trưởng phải không anh?

- Dĩ nhiên. Và tôi là Đoàn phó cũng dĩ nhiên nốt. Sẽ thành lập du ca cho cả Âu châu!

Câu chuyện đã có đà lại thêm cà-phê thơm, croissant thanh lịch tinh khiết nên như lửa gặp gió, Mạnh tiếp:

- Du ca hướng dẫn thanh niên đi tới lý tưởng dân tộc cao đẹp. Du ca bảo tồn, phát huy văn hóa và văn nghệ Việt Nam qua dân ca. Chỉ mới ba thág qua mà bọn tôi đã đi khắp các nước khác như Bỉ, Tây Đức, Pháp, Luxembourg, Anh, Thụy Sĩ. Cô nên nhớ du ca không phải để kiếm tiền đâu nhé. Những buổi trình diễn du ca đều nêu cao tinh thần “nhất định sẽ về”. Tâm niệm của hơn một triệu người Việt Nam ở hải ngoại là: “Hãy gắng quay về nước khi bạc đầu!” Chỉ có chừng đó thôi. Đi để tìm lại ngày về. Ở Hòa Lan tổ chức đón Tết cũng như ở Việt Nam thôi: pháo, múa lân, bánh chưng, củ kiệu. Cô ở Pháp đây thì còn đủ hơn nữa: chả giò, nem chua, bún riêu, mắm tôm – thiếu gì!

2

Sau Chủ nhật gặp Mạnh tới thứ Bảy tuần đó thì gặp anh Trung và Họa. Hai anh em gặp lại nhau trên đất nước người, Phượng chỉ biết khóc. Họa đứng đó như một nhân chứng hiền lành. Sự thực Họa với Phượng thì cũng y hệt Mạnh với chị Trang. Đôi bên biết rõ tình cảm nhau, rồi cứ dập dềnh như vậy, chẳng ra xa mà cũng chưa phải là gần!

Anh Trung cho Phượng hay tuần trước anh đi Genève đề cập tới việc anh có thể được chấp nhận là một bác sĩ trên một chiếc tàu tương tự loại Médecins Sans Frontières, hoạt động thường xuyên trên Vịnh Thái Lan để tiếp cứu những ghe người Việt vượt biên.

Nói chuyện với anh Trung xong, Phượng quay sang với Họa:

- Theo anh Mạnh nói thì hình như tuần trước anh Họa bận một kỳ thi cuối khóa gì đó thì phải.

- Đúng đó Phượng ạ - bao giờ Họa cũng có cách gọi thẳng tên thân mật như vậy. Thanh toán nốt kỳ thi tuần vừa qua là tôi được cấp bằng kỹ sư một ngành điện tử. Người Việt nào mới tới bất kỳ nước nào thì cũng chỉ lăm le kiếm được việc làm để trước là nuôi thân sau là để gửi về giúp đỡ gia đình. Nhưng ở Hòa Lan, làm bồi bếp gì thì cũng phải có bằng cấp, thi cử và nói sõi tiếng người ta đã. Dĩ nhiên trong khi đi học, Phượng ạ, người ta cung cấp cho mình đủ các thứ, từ nhà cửa đến giấy vệ sinh, hằng năm còn được cấp tiền nghỉ hè một tháng tại bất kỳ nước nào mình thích.

Tự nhiên đôi mắt Họa nhìn Phượng nồng nàn hẳn, dường như ngầm cả ý trách móc não nùng nữa. Phượng phải hơi lảng quay đi nơi khác, trong khi Họa tiếp:

- Bây giờ thì tôi có quyền tìm được việc làm trên đất Hòa Lan, để một là thôi ăn bám người ta, hai là đem khả năng chuyên môn của mình phục vụ đền ơn lại người ta, cho đến ngày mình có điều kiện trở về quê hương Việt Nam. Đời sống ở Hòa Lan, Phượng ạ, rất trầm tĩnh, không cạnh tranh giành giật, không kỳ thị màu da.

Những lời sau cùng của Họa đượm vẻ rủ rê quyến rũ. Phượng lơ đãng mỉm cười. Chao ôi, không những trái đất tròn mà còn hẹp nữa, Phượng đâu có ngờ Họa quen thân với Huân nữa – người tình của nhỏ bạn Trinh. Huân, Trinh đã chính thức thành đôi, đương sống ở tiểu bang Indiana xứ Hoa Kỳ.

Phượng đã có sẵn keo dưa góp, chiều thứ Bảy đó Phượng trổ tài làm bún bò Huế thết anh Trung và Họa. Bữa trưa Chủ nhật, trước khi rời Paris trở lại Hòa Lan, anh Trung và Họa còn được thưởng thức bữa cơm cổ điển Việt Nam có canh bóng thủ ăn với thịt gà luộc và giò lụa. Một dịp nghỉ cuối tuần hạnh phúc, chan hòa cho cả ba người, mỗi người một vẻ.

Trước khi tạm biệt, anh Trung nói với

Phượng:

- Anh e rằng anh em mình ít ra cũng phải ba bốn tháng nữa mới hy vọng nhận được thư nhà, vì thư gửi đi cũng như thư gửi về, chúng đều chủ trương ngâm tôm để đấy ba bốn tháng.

- Anh có biết lý do chúng ngâm tôm thư đi cũng như thư về như vậy?

- Theo trí thông minh của đám cán bộ “làm nên sự nghiệp Bác” thì ngâm tôm thư tín như để mọi thông tin ám hiệu của CIA đều mất thời gian tính đi.

Nhưng hai giờ chiều hôm nay, hôm thứ Hai, tiếng chuông điện thoại reo, Phượng nhấc ống nói:

- Dạ tôi nghe. – Trời ơi, anh Trung! Vậy a anh? Vậy a anh? - Ba được thả rồi? - Cả bác Lam nữa?... - Má và chị Trang sao? - Ồ cả nhà mạnh. Tuyệt! - Anh có chú ý thư đi bao lâu tới tay? - Có hai tuần? - Em hiểu đường đặc biệt. Thư chui! Văn hóa Cộng sản mà, cái gì cũng chui, cũng móc ngoặc. - Vâng em đã viết thư cho cặp Huân-Trinh. Chắc chỉ tuần sau em nhận được thư trả lời của nhỏ bạn. – Vâng em vẫn tiếp tục viết đều về nhà. – Hằng tuần anh ạ. Em đánh số thứ tự để chị Trang dễ theo dõi. – Vâng, em chúc anh sớm được như nguyện sở cầu phục vụ trên chiếc tàu cứu nhân độ thế tại Vịnh Thái Lan. Anh cho em gửi lời thăm anh Họa. – Em còn bận học quá chưa thể qua Hòa Lan, nhưng các anh phải qua Paris đấy!

3

Quả nhiên tuần sau Phượng nhận được hồi âm của nhỏ bạn. Ôi con nhỏ đáng yêu, nó đúng là một phần linh hồn của Phượng!

Mi,

Ta như con khùng từ lúc nhận được thư mi. Không biết nói gì về mi trước hay về ta trước, thỉnh thoảng bèn hét một tiếng làm anh Huân trợn tròn mắt và hạ một tiếng để điểm xuyết: “Khùng!” Mi, coup d’essai coup de maitre, không trắc trở như ta, nghĩa là có trắc trở nhưng gọn một lần, không lè phè hai lần nhiều đợt như ta. Thôi để kể sơ qua về ta cho mi nghe, rất ngắn gọn, sơ lược, cô đọng.

Sau buổi anh Huân, ta và mi tới thăm ông anh họ - ông nhà văn – về nhà, tối hôm đó cụ thân sinh mới gọi cô con gái rượu của cụ ra mà rằng: “Ba biết con bề nào cũng ra đi. Thôi hai con chính thức trên giấy tờ thành đôi với nhau đi, sẽ chọn ngày lành cả hai bên nhà trai nhà gái chung nhau làm bữa cơm thân mật, mời bà con bằng hữu tới chứng kiến, thế là xong! Sau đó các con vượt biên, sống gửi thác về nhưng thành đôi rồi!”

Cụ nói là làm, mi ơi. Hôm sau cụ đưa con gái tới gặp gia đình anh Huân, cụ trình bày thẳng với má anh Huân ý định của cụ. Hôm sau nữa, hai cụ đưa hai con đi làm giấy giá thú liền. Tuy nhiên mới là hình thức trên giấy tờ thôi, động phòng huê chúc phải đợi sau bữa tiệc trình diện. Nhưng sang hôm sau nữa – hôm thứ ba – hai đứa đã phải bất ngờ lên đường gấp. Vì vậy mi hụt bữa tiệc trình diện của ta, và ta hụt… động phòng huê chúc. Nhưng không sao, cứ tiếp tục nghe ta kể. Chuyến đó bọn ta đi thoát, cập đảo Bidong, Mã Lai, rồi từ Bidong tới Kuala Lampur đợi chuyến bay đi Los Angeles, nơi có ông anh chồng bảo lãnh. Nhưng chuyến bay đó bị hủy. Theo luật lệ mới, đám tị nạn phải qua Phi Luật Tân ở một trại chuyển tiếp mang tên Philippine Refugee Processing Center (PRPC) từ bốn đến sáu tháng trước khi được chuyển qua Mỹ. PRPC thuộc xã Sabang, quận Morong, tỉnh Bataan ở phía Nam Manila. Trại ở một thung lũng, xung quanh có đồi núi bao bọc. Tới PRPC là sơn cùng thủy tận, muốn đi đâu phải ngược lại tám cây số nữa mới gặp đường chính. Trại khá bằng phẳng, dài độ bốn cây số, rộng khoảng một cây số, xung quan có thác ngàn gào, có suối tỉ tê. Qua suối là đồi, nơi này đồi trọc chỉ có cỏ tranh cao ngập đầu người, nơi kia đồi cây xanh tốt như rừng vậy. Thổ dân đem kỳ đà, khỉ hoặc chồn họ bắt được ở rừng tới bán tại chợ ngay trong trại. Qua đồi hơn một cây số là biển, phong cảnh rất hữu tình. Mi có biết tại sao ta tả kỹ trại này như vậy không? Động phòng hoa chúc của bọn ta ở đó! Giữa khoảng sơn thủy hữu tình đó! Mi bật cười? Mi có thể khen hoặc chê bọn ta lãng mạn quá trớn, nhưng hãy lắng nghe đây: Cuộc đời chẳng bao giờ hết bất mãn, chẳng bao giờ thiếu đắng cay, nhưng tình yêu an ủi được hết thảy, thoa dịu được hết thảy! Tình yêu của bọn ta thể hiện giữa thanh thiên bạch nhật, vòi vọi trời cao, mênh mông biển rộng, ngút ngàn núi rừng thì trí thông minh lũ con bọn ta sau này dư sức rọi sáng sương mù bóng tối tai họa Cộng sản mà thế hệ cha mẹ chúng phải cam tâm chịu đựng. Mi thấy chưa?

Thôi thư này ta chỉ kể tới đây thôi. Thư sau ta sẽ tường thuật cho mi nghe đời sống của bọn ta khi đặt chân tới xứ Huê Kỳ này.

Cứ yên chí lớn, một khi mi đã thoát hỏa ngục Cộng sản Việt Nam thì có rúc cổ ở hẻm hóc nào của thế giới tự do, ta cũng vẫn có thể tóm cổ mi bất kỳ lúc nào.

Ta.

Mi,

Thư trước ta chỉ viết cho mi ngắn gọn là chuyến đi thứ hai bọn ta đi thoát. Đã đành là thoát, nhưng từ lúc đi đến lúc thoát không ngắn gọn như vậy. Tuy ghe ta đi không bị đắm như mi, nhưng nông nỗi đoạn trường xem ra cực hơn nhiều, nhiều lắm. Nghe đây:

Ta phải ở trong sông hai đêm, dưới ghe bầu chứa 189 người, không có chỗ để chân đó mi. Khi mọi người được đổ lên ghe biển dài có

15 thước, lẽ ra tối đa chỉ chở tới 100 người là cùng mà lên tới 89, hầm không đủ sức chứa.

Tất cả đám còn lại phải ngồi thật sát nhau trên boong tàu, bám lấy nhau để khỏi bị rơi xuống biển. Mi dư biết không còn nỗi khủng khiếp nào bằng biển về đêm, sóng biển tạt ướt người ta rồi khô, rồi ướt, năm ngày, năm đêm liền. Khi ghe biển của ta ra gần tới hải phận quốc tế thì gặp tàu Công an biên phòng, nhưng chạy thoát được. Thế rồi ngày hôm sau gặp thêm ba tàu lớn, mừng muốn chết, nhưng là tàu Ba Lan và Liên Xô, nó cóc thèm dòm, đi thẳng. Thế là tàu lại lênh đênh ba ngày. Ba lần trở về Hòn Khoai – gần Cà Mau – sợ đến chết khiếp. Cơm một ngày hai lần, mỗi người một nắm chút xíu vừa sống vừa khê, nấu bằng nước biển nên mặn kinh khủng, ta nhịn luôn đó mi, chỉ sống bằng ba nắp can nước mỗi ngày. Ta xỉu đi bao nhiêu lần dưới con mắt bất lực của anh Huân, tưởng chết vì lạnh cóng trên tàu. Thế rồi vào chín giờ sáng hôm đó gặp cướp Thái Lan gồm bảy tên trên một chiếc tàu lớn gấp ba ghe mình. Chúng cướp hết vàng bạc. Ta và chị bạn cùng ghe lạy một tên cướp Thái Lan đến sứt trán. Có lẽ vừa lạy vừa thôi miên, vừa niệm Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, nên tên cướp trẻ đó chừng mười chín, hai mươi tuổi, mặt cũng hiền lành, tha cho. Còn mấy bà kia chẳng may gặp mấy tên dữ quá, chúng tọng họng súng vào miệng cho hết kêu. Rất may là ghe ta bị cướp có một lần. Vào đến trại mới thấy nhiều cảnh còn thê thảm ngoài sức tưởng tượng của con người. Có ghe bị cướp từ lúc ra khỏi Việt Nam đến khi vào đảo: 25 lần. Đàn bà con gái chỉ còn thoi thóp phải bế lên bờ rồi dùng băng ca khiêng vào nhà thương ngay. Ghe ta cập vào Mã Lai ngay nơi HCR nghỉ mát. Thế là tụi ta được cho ăn no đủ, rồi lên xe cảnh sát chở vào trại tị nạn, chỉ cách bờ biển khoảng mười cây số. Phải chi mi được chứng kiến ta khi vào trại: chỉ còn một bộ quần áo rách bươm trên người, mặt mày, tay chân đỏ như tôm luộc và gầy hốc hác đến phát rợn người cho chính mình và cho người thoạt nhìn mình.

Vì có thân nhân ruột thịt bên Mỹ nên anh Huân và ta được tuyên thệ - được chính thức chấp nhận vào nước Mỹ - mười bảy ngày sau. Bọn ta được dẫn tới trại Cheras, một trại chuyển tiếp ở Kuala Lampur. Trại Cheras – bọn ta vẫn gọi đùa là “Xe Rác” – chỉ có thể chứa 1000 người mà chính phủ Mã Lai dồn tới 3600 người, không còn chỗ để mà nằm nữa. Cái bi đát nhất ở đây là vấn đề nước. Một ngày mỗi người được phát một xô nước để giặt, tắm, rửa. Có hôm khan, hai người một xô. Có hôm ta xém phát điên vì ba người một xô, chỉ vừa đủ rửa mặt và rửa chén là hết sạch. Mi thấy chưa, trước khi đến thiên đàng, nghĩa là được sống trở lại làm người tự do, ta phải nếm mùi địa ngục như thế đó. Suốt thời gian này ta khóc hoài – vì khổ quá mà!

Nhưng khóc thì cứ khóc mà ta quyết chẳng giận mình, chẳng hờn người. Thương nhớ quê hương thì cứ thương nhớ, nhưng quê hương ở ngay tâm mình chứ đâu. Nhà ngươi hãy nghe bốn câu thơ của thày Viên Minh viết cho đệ tử:

Viễn viễn phong đầu phi

Vong xứ điểu vô quy

Hốt phùng thiên để nguyệt

Qui hà, qui hà vi!

“Theo gió cuốn về vô định, chim bay ngày ngày xa. Chim đà mất xứ sở rồi, sao còn tìm được lối về. Bỗng gặp vừng trăng lồng lộng đỉnh trời. Không còn vấn đề Đi với Về nữa! Vì đâu cũng là viễn xứ, mà đâu cũng là quê hương đó thôi!”

Thiên để nguyệt, vừng trăng lồng lộng đỉnh trời – lời thầy Viên Minh nhủ đệ tử - chẳng thể tìm thấy ở bất kỳ chân trời góc biển nào, mà chiếu diệu ở ngay nơi chính mình.

Mi có giỏi hãy dịch cho ta bốn câu thơ trên, rồi ta sẽ kể cho nghe cuộc sống của ta kể từ khi đặt chân tới đất Huê Kỳ.

Ta.

Phượng đã tạm xếp bài vở học hành lại, nằm ngả ngớn trên giường, chiếc bút chì tay mặt, tập vở tay trái, vật vã chừng mười phút, hoàn thành bài thơ dịch thoát ý cho nhỏ bạn:

Theo gió cuốn la đà Chim bay ngày càng xa Chợt gặp vừng trăng tỏ Quê hương đâu chẳng là.

Nhưng chưa kịp gửi đi, lá thư thứ ba của nhỏ bạn đã tới.

Mi thương nhớ của ta,

Lá thư thứ ba này ta kể tiếp. Rời “Xe Rác” bọn ta còn phải lận đận sang trại chuyển tiếp PRPC, Phi Luật Tân. Gia đình ông anh chồng đã dọn nhà từ Los Angeles lên San Francisco. Rồi vào một ngày đẹp trời, xe buýt tới đón cả bọn ra phi trường lên chuyến phi cơ thuê riêng – Charter – chở 374 người tị nạn. Lên phi cơ là thấy thiên đàng rồi. Các nam nữ chiêu đãi viên Mỹ tiếp đãi quá lịch sự theo đúng nếp sống bên thế giới tự do: La personne humaine doit être prise comme fin et non comme moyen! Phi cơ rời phi đạo lúc bảy giờ sáng, hai tiếng đồng hồ sau, bọn ta được ngắm Hồng Kông qua màn sương mù bao phủ rồi hạ cánh xuống đó. Một giờ sau, phi cơ cất cánh bay một mạch khoảng 18 tiếng tới Alaska. Qua khung kính ta nhìn Alaska tuyết băng trắng xóa. Mọi người trên phi cơ thở phào vì biết chắc đã vào sâu phần đất biết tôn trọng nhân phẩm, nhân vị, tự do. Một giờ sau phi cơ lại cất cánh và sáu tiếng sau bọn ta đã xuống phi trường Oakland, San Francisco. Nơi đây làm thủ tụ quan thuế, nhập cảnh, để rồi tới màn xúc động nhất là gia đình ông anh chồng tới đón sau bao năm xa cách. Rời phi trường đường về nhà thật đẹp. Bây giờ thì các gì đối với ta cũng đẹp và hiền cả. Đường phố lên dốc xuống dốc, thấp thoáng cầu Golden Gate hùng vĩ, thấp thoáng biển San Francisco thật êm, thật đẹp. Chỉ mười ngày qua thôi, mi ơi, ta đã bắt đầu sợ bánh kẹo, chocolate, thịt và bơ, lòng thì ray rứt thương cha già ở lại, thương những bằng hữu còn kẹt lại, thương biết bao tài năng đã và đương và tiếp tục thui chột, thương tất cả, tất cả, coi tất cả như cha mẹ mình, bằng hữu mình, con cháu mình. Chán thịt, bơ, sữa, đường, kẹo rồi! Bây giờ ta mới hiểu, mi ơi, cái cao quý của thức ăn tinh thần. Ta thấy trong cuộc sống cái gì cũng phù phiếm, hời hợt, vô bổ nếu đời sống tinh thần lơ là, trống rỗng.

Chính hơi nóng, ánh sáng tinh thần cô đọng thành sức mạnh nội tâm, điêu khắc nên khuôn mặt mình dưới mắt thế nhân. Từ nay mọi hoạt động của ta đều dưới ánh sáng tư duy đó. Nhìn chung, dân Việt đã trả một giá quá đắt suốt mấy chục năm nay, chẳng lẽ riêng ta không rút được bài học nào cho bản thân sao? Mi chọn ngành kinh tế; ta chọn ngành khoa học: máy tính điện tử - Computer science. Khi nào hai ta gặp nhau có thể hợp tác được! Thôi việc học xếp lại, ta kể cho mi nghe việc ta học thêm dương cầm do chính anh Huân dạy. Bao giờ ta gặp lại cha già, bao giờ ta gặp lại mi và một số bằng hữu khác? Nếu chỉ có học chữ và nghề chuyên môn không thôi, ta phát điên là cái chắc. Mi hãy theo dõi một buổi ta tập đàn:

Đừng ngồi cong theo kiểu chữ C – lời đấng phu quân ta. Mà cũng đừng ngồi dựng đứng kiểu chữ L như vậy. Phải dung hòa hai cái đó. (Đúng vậy mi ạ, nghệ thuật sống chính là dung hòa.) Em hãy tưởng tượng hai chân mình như cái đòn bẩy, điểm tựa là mép ghế, bẩy cả thân người vào cái đàn. Ấy ấy, tưởng tượng thế thôi, sao em lại định biểu diễn như hệt thế? (Đúng vậy mi ơi! Cuộc đời luôn luôn là như thế đó mà không phải thế đâu!) Ủa, ủa, anh bảo tay em bẹp gí, đâu phải lúc nào cũng bẹp! Anh chỉ muốn nó đừng cứng quá. Mục đích là tiếng đàn, em nhớ vậy nhé. Khi mà có tiến đàn hay rồi thì “bẹp gí, cong, thẳng, gẫy…” đều được tuốt ráo. Đoạn này phải đàn thật nhỏ, hãy nhẹ nhàng đặt sẵn ngón tay trên phím và rất ư là dịu dàng dùng lực từ bên trong ngón ta ấn nhẹ xuống, thả ra, rồi lại ấn nhẹ xuống, đốt xương cuối ngón tay phải thật mềm mại, dùng sức thật bí mật không cho ai thấy cả. Em phải chú ý tới hai khuỷu tay nè. Thả xuống tự nhiên. Bây giờ thì em phải chú ý thêm cả lúc thường, không đánh đàn. Chẳng hạn lúc ăn có gồng mình không? Lúc nói chuyện có gân cổ không? Lúc đi vội, chân tay có co quắp không? Nói tóm lại phải hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn đề cao cảnh giác. Tập như vậy vừa có lợi cho ngón đàn, vừa có lợi cho tính tình nữa. Hăng say, hùng hổ… gì thì gì cũng chỉ ngầm ở trong ý nghĩ, ở trong máu thôi, đừng để người ta thấy!

Vừa lúc đó hết buổi tập, ta bèn nói khẽ bên tai đức lang quân:

- Nè anh, cũng như anh đã từng hăng say hùng hổ giữa thanh thiên bạch nhật tại vùng rừng biển Morong, Phi Luật Tân.

Chàng cười. Chết cha, ta quên khuấy mi còn là trinh nữ, mà đồng nam và trinh nữ thì không nên nghe chuyện bậy. Thôi để ta kể nốt cho mi nghe vì sao bọn ta lại rời Indiana.

Anh Huân cương quyết học sáng tác nên đã phải thi Anh văn, thi hai kỳ lý thuyết nhạc và piano, còn phải thêm một kỳ thi toán nữa mới được vào San Francisco State University. Nhưng anh Huân là một người yêu nhạc và rất khó tính. Anh học thử mấy ông thầy sáng tác mà không ưng. Quan điểm bất đồng! Anh Huân mê chiều sâu trong kỹ thuật cũng như nghệ thuật âm nhạc, ghét những mới mẻ quái dị vô ý thức. Anh thường nhắc đi nhắc lại câu của Schumann xưa: “Vào thời nào và ở bất kỳ đâu cũng có những nghệ sĩ dở mà rất nổi tiếng…” Bạn anh ở Indiana quảng cáo trường bên đó ghê lắm và mong anh tới học. Thế là anh bèn gửi tác phẩm cho một ông thầy nổi tiếng bên đó. Bạn anh kể rằng ông ta xem qua không đầy một phút và đồng ý nhận dạy liền. Ông còn nói nếu không có tiền trả, ông sẽ dạy miễn phí.

Anh Huân quyết định xin đổi trường. Cũng may thời này có một nhà địa chấn tiên đoán năm 1982 vùng Bay Area – San Francisco trong đó – có thể bị chôn vùi dưới đáy biển. Chính ông ta đã cho gia đình dọn đi khỏi California rồi. Anh Huân vin vào chuyện động đất mà xin đổi trường cho đỡ áy náy.

Bọn ta tới Indianapolis và tiếp tục việc học như ở San Francisco thôi. Anh Huân coi bộ hợp với trường mới, thầy mới. Anh kiếm thêm bằng cách nhận đệm đàn cho một lớp ballet, kèm thêm một số bạn về hòa âm và phối âm (counterpoint). Thỉnh thoảng anh nhận trình diễn độc tấu dương cầm nữa. Anh nói vì quá yêu nhạc từ nhỏ nên cố bám vào ngành nghệ thuật này năm, sáu năm nữa xem sao, hy vọng sau này có thể dùng những kiến thức thu lượm được phục vụ cho nền nhạc Việt Nam. Đôi lúc anh nổi một cơn thở dài sườn sượt hận cho ngành nhạc Việt Nam quá tồi tệ, không phải vì thiếu mầm non mà vì cái ngu xuẩn của lũ chuyên đem chính trị xía vào mọi ngành chuyên môn kể cả văn học nghệ thuật. Ngay trong Âm nhạc Viện Sài Gòn, anh đã gặp thiếu gì những nhóc tì rõ ràng có thiên bẩm, vậy mà ban giám đốc đâu dám cử chúng đi Liên Xô, cứ nhất định vít kín chúng trong nước. Đó, khi ta viết cho mi tới đây, tiếng đấng phu quân ta đương vọng từ bồn tắm bên kia tường. Mi hãy nghe giọng vàng sang sảng của ổng căn dặn ta:

- Em nhớ khuỷu tay không được khuỳnh ra, ngón cái không được cong ra hoặc quặp vào. Bàn tay mềm, những ngón tay mềm mới dễ di chuyển. Không cần lẹ, em nhớ, cần thiết là đàn một cách thoải mái. Thoạt hãy tập chậm thôi, có chậm mới kiểm soát được!

Ta bèn cung kính trả lời ngài:

- Em nhớ rồi! Em nhớ rồi!

À, dịp cuối tuần vừa qua ta dán mắt theo dõi trên TV vở tuồng The Two Gentlemen of Verona. Không hẳn là của Shakespeare đâu, mà có thêm bớt để thành một cuốn sách loại bestseller của một “đấng điếm” tự thuật. Bậy ơi là bậy! Nhưng thôi, mi còn là trinh nữ, miễn nghe.

Thư kỳ này quá dài rồi, ta stop ở đây, nghe!

4

Ôi nhỏ bạn, nhỏ bạn! Cái hồn nhiên của nó đáng yêu biết chừng nào! Nó đúng là một phần linh hồn của Phượng bao giờ Phượng cũng nghĩ về nó như vậy.

Sau bức thư thứ ba của nhỏ bạn, Phượng nhận được thư chị Trang. Chị nhắc lại chuyện ba đã được thả về, nhắc lại chuyện cả nhà bình an như chị đã viết cho anh Trung. Chị cho hay dượng Hai cũng đã được thả về. Phượng cũng vừa nhận được thư của Vĩ từ Bremen, Tây Đức.

Phượng đã viết bức thư khá dài cho chị Trang kể lại từng chi tiết hôm gặp Mạnh và lời nói “thiểu não” của Mạnh: “Bà ấy có coi tôi ra cái gì đâu! Tôi như một chúng sinh nhỏ nhoi quỳ dưới chân một Bồ Tát cao vòi vọi.” Lây cái hồn nhiên của nhỏ bạn, Phượng đã kết thúc lá thư bằng mấy dòng vừa tếu vừa đầy nhiệt tình:

“Nếu như có ngày nào chị thoát ra được thế giới tự do, hoặc bằng vượt biên, hoặc do em chị thành đôi với anh Mạnh. Em biết chị không màng chuyện chồng con, nhưng… l’appétit vient en mangeant!”

Cuối tuần đó Phượng rời Paris đi Rotterdam thăm anh Trung và Họa. Hai người vừa dời chỗ ở cũ là Leiden vì Họa tìm được việc làm ở Rotterdam. Hai anh em Trung, Phượng và Họa cùng bám lấy niềm vui họp mặt, khi thì tíu tít dạo chơi phố phường, khi thì tưng bừng ra khỏi ngoại vi Rotterdam đi vào vùng thiên nhiên thẳng tắp có dòng sông Lek mà Phượng liên tưởng tới dòng Danube. Về nhà là xúm nhau làm cơm Việt Nam.

Ngoài niềm vui được gặp Phượng, lần này Họa còn niềm vui đắc thắng riêng. Hơn một lần Họa nói với Phượng câu: “Phượng xem, sau mấy năm ăn gửi nằm nhờ, bây giờ mới là cuộc sống tự lập của mình!” Một lần cùng làm cơm trong bếp, anh Trung không có đấy, Họa nói với Phượng:

- Hết ăn nhờ ở đậu rồi, nay có căn nhà riêng, hai phòng ngủ, một phòng khách, tôi chỉ còn thèm một ánh mắt, một đôi môi, một tiếng nói, một suối tóc…

Phượng cười lớn cố tình tô đậm ý nghĩa đùa cợt của câu chuyện:

- Ồ còn những một gì nữa nào? Họa cũng cười lớn:

- Thế đủ rồi. Chỉ cần suối tóc ngược gió chảy về tay mình.

Phượng biết Họa đương ngắm mái tóc dài của mình, may sao anh Trung vừa vào, tay mang theo bình nước trà nóng ướp hoa ngâu. Tay nâng chén trà, uống một ngụm nhỏ, Họa ôn một kỷ niệm vừa đến:

- Căn nhà của ông cụ tôi cất bằng vật liệu tiền chế, nửa chừng hết tiền, cụ bèn thế vào bằng tôn, mái lợp tôn, cửa ra vào bằng tôn. Nhưng nhờ cây cỏ xung quanh nên căn nhà bỗng có cái duyên giản dị như cô gái hiếu hạnh con nhà nghèo. Tôi còn nhớ Trung Thu năm đó, ánh trăng chiếu trên những tàu lá dừa phản ảnh màu bạc hơi hơi lam; bụi tre gần đó vươn cao và đu đưa theo gió, ánh sáng lốm đốm đổ xuống nền đất những hình thù ngồ ngộ. Bao ước mộng cao xa của mình của người cũng hư ảo như vậy thôi.

- Có dừa, có tre nữa, căn nhà ông cụ ở đâu? – anh Trung hỏi.

- Xóm Gà, Gia Định! – Họa đáp, đôi mắt vẫn lơ đãng nhìn mái tóc dài của Phượng.

Sau chuyến đi thăm anh Trung và Họa ở Hòa Lan về, việc học trở lại bề bộn choán hết thời gian. Tuy nhiên Phượng vẫn viết thư đều về Việt Nam cho ba, má, chị Trang, dượng Hai và dì; sang Hoa Kỳ cho cặp Trinh-Huân; tới Bremen cho chú Tuyến và em Vĩ; sang Rotterdam cho anh Trung và Họa; tới Leiden cho Mạnh. Phượng đã đọc được những dòng thư do chính tay ba má viết.

Chỉ thiếu có ông nhà văn! Ông trở lại vị trí sao Kim, sao Mộc lấp lánh trên cao, thường xuyên sống vậy trong quốc nội? Dù sao thì dưới chính thể độc tài “công an trị” khắc nghiệt như vậy, ông hẳn có thừa sáng suốt chỉ công khai hóa đời sống của mình với bằng hữu đến mức vừa đủ, không quá kín đáo khiến chúng sinh nghi, không quá lộ liễu khiến chúng phát ngại – Phượng hiểu! Với ông ta, rõ ràng sự gặp lại hay không, chẳng bao giờ thành vấn đề với Phượng. Những gì ông ta viết còn đó, rất dễ dàng tìm thấy nơi đây, luôn là tấm gương giúp Phượng hiểu chính mình với những ưu khuyết điểm cùng khát vọng. Nhưng với những người thân trong gia đình, nhiều khi Phượng thấy rã rời cả người, nước mắt ứa ra, khóc không thành tiếng khi tự đặt thầm câu hỏi: “Liệu còn có ngày gặp lại ba, má, chị Trang? Hay kể từ buổi sáng ra đi đó là vĩnh biệt?” Trong nỗi buồn não nề hoang tịch, Phượng ghi lại sáu câu thơ, nói là riêng tặng nhỏ bạn, thực ra Phượng thầm gửi tất cả những người thân yêu có dự phần tạo nên tâm hồn Phượng:

Biển trời vằng vặc gương nga

Long lanh soi tỏ lòng ta, lòng mình

Gương trong mình lại soi mình

Thấy tình thăm thẳm, thấy hình phù du

Nẻo đời gió bụi kì khu

Biết ai còn mất, tình thu võ vàng.

Khi viết những dòng thơ đó cho nhỏ bạn, Phượng chỉ rơm rớm nước mắt, nhưng khi chuông điện thoại reo, cất ống nói lên nghe giọng anh Trung báo từ Rotterdam là anh đã được toại nguyện sửa soạn xuống tàu đi về Vịnh Thái Lan, thì Phượng khóc và nói lớn: “Em không muốn anh đi đâu cả! Ở đây em còn ai nữa nào?!” Và đặt ống nói xuống liền.

Hôm sau anh Trung phải đích thân rời Rotterdam tới Paris an ủi Phượng là anh xuống tàu đâu có phải là vĩnh biệt, anh về gần quê hương canh chừng cứu vớt đồng bào vượt biên mà vẫn gần Phượng, vì tàu anh cứ ba tháng lại về căn cứ một lần.

Anh Trung đi Phượng muốn tung hê hết sách vở không học hành gì nữa… chẳng học thì đừng…

5

Chìm ngập trong sầu não mờ mịt, Phượng thu nhận toàn những chuyện buồn để tự vùi dập tâm hồn hơn nữa. Phượng thấy những người Việt lưu vong như những kẻ lưu đày không hẹn ngày về, dấn thân vào một kiếp sống quá vất vả, hoàn toàn nô lệ thời gian, sáng đi làm từ sáu giờ đến năm giờ chiều mới về, xúm vào làm bếp, ăn sấp, ăn ngửa, dọn dẹp cửa nhà, chưa kịp chuyện trò, hỏi han con cái đã phải tính chuyện đi ngủ để ngày mai còn đủ sức làm việc. Nếp đạo đức dân tộc dần dần mất mát đi nhiều; vợ chồng dễ hết tình, cạn nghĩa ly dị nhau; con cái tới tuổi trưởng thành đi ở riêng biệt lập; trước sau rồi cũng bị đồng hóa vào nếp sống cá nhân Tây phương. Có một tín đồ tìm tới ông Cha nhà Dòng xin Cha làm lễ cầu Chúa cho sớm được chết, khỏi phải trông thấy những cảnh hỗn loạn vô luân. Từ Na Uy, qua Thụy Điển, đến Đan Mạch, thỉnh thoảng tại những hang cùng ngõ hẻm nào đó cũng gặp những người tóc đen là những người Tàu hay người Việt Nam bật gốc. Tại mấy làng đánh cá xa xôi nơi Bắc cực quanh năm trời mù mịt tối, cũng gặp những trẻ Việt không nói được tiếng Việt, và những người đồng hương ngao ngán thở dài hướng về tương lai, trở về cố hương. Nỗi lòng u uất của Phượng bắt ngay lấy những lời đay nghiến của một kiều bào khác thống trách một số người Việt tị nạn khi có đời sống tương đối thoải mái với đủ các loại máy giặt, máy hút bụi, máy rửa chén, xe hơi… bắt đầu ưa nói xấu, chỉ trích, chia rẽ nhau; hợm hĩnh, lố lăng với những kiến thức, những văn bằng… Thà cứ như một số khác sống im lặng, nhấm nháp đắng cay, đỡ gây ác cảm với những người bản xứ.

Tin tức đời sống bị chà đạp, nghiền nát nơi quê nhà cũng ùa tới – theo làn sóng những tị nạn mới – đầy đủ nào có kém gì hồi Phượng còn ở nhà. Đầy đủ và sống động vì do chính những nạn nhân tường thuật lại. Phượng như bị đẩy xuống đáy địa ngục vì thất vọng. Quê hương rã rời như chính Phượng rã rời lúc đó. Trí thức tàn lụi, kinh tế nghèo đói, kỹ thuật lạc hậu. Chỉ còn khẩu hiệu ca ngợi Đảng và Bác kẻ lớn trên tường và lũ công an chìm, công an nổi lúc nhúc kiểm soát đời sống. Công an gõ cửa nhà nào, bốn bề hàng xóm xanh mặt lắng nghe ngóng. Tai nạn bắt giữ, tra tấn, tù đày có thể sụp xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Phượng tưởng phát điên đến nơi.

Điện thọai. Họa nói là sáng hôm sau – thứ bảy – Họa sẽ có mặt ở Paris bằng chiếc Volkswagen của Họa mới mua. Họa sẽ đưa Phương đi chơi lung tung suốt hai ngày cuối tuần – thứ Bảy và Chủ nhật. Phượng hiểu anh Trung đã ủy cho Họa việc đó.

Sáng thứ Bảy, Phượng nhận được thư nhà. Ba viết cho Phượng mấy dòng:

“Từ ngày hai con đi xa, ba nhìn con Trang đi đâu cũng thấy rầu rĩ cả người. Nó đến đằng dượng Hai, thậm chí nó xách giỏ đi chợ, ba cũng thấy lòng se thắt, tưởng như nó sắp đi nốt mất rồi.”

Phượng gục mặt trên bàn học khóc. Có tiếng gõ cửa, Phượng biết là Họa đã tới. Phượng nói:

- Cứ vào!

Tuy có đứng sững nhưng Họa hiểu ngay. Tình cảm chân thành và trong suốt sẽ hướng dẫn Họa gỡ mối dần cho Phượng.

- Trời thu lành lạnh rồi Phượng ạ. - Họa cố gây bầu không khí thật bình thường như thể ngày nào Phượng Rotterdam. Nhìn những chậu cúc đại đóa trắng xếp hàng trước những tiệm hoa gợi nhớ hương vị tết Sài Gòn lạ!

- Sài Gòn sang thu mà lạnh thường là dấu hiệu có bão đâu đó ở miền Trung.

Họa chỉ đợi Phượng trả lời như vậy để giục:

- Kìa Phượng thay áo đi chứ, mình sẽ vùng thoát ra khỏi kinh thành, đi vào khu thiên nhiên. (Thiên nhiên sẽ thoa dịu cho Phượng – Họa nghĩ thầm.)

Phượng vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, tiếp:

- Thu mang lại màu vàng che ngập sườn đồi, anh Họa có thấy không, màu vàng tràn ngập những con đường vắng, đi trên đó thú đấy mà buồn đấy. Anh Họa có nhớ những tấm mành tre quê nhà, mỗi khi có gió thổi hay tay người gạt, lại nghe thấy tiếng động nhẹ khô giòn gợi hình ảnh những trưa hè oi ả, tịch mịch của thế giới thuần túy Á Đông. Có đi xa mới thấy những chi tiết không đâu đó đã ăn sâu vào nếp rung cảm của mình chẳng bao giờ quên được!

Họa nhắc lại thật dịu dàng:

- Nhưng kìa, Phượng thay áo lẹ lên chứ, rồi ta ngao du một tua.

- Đi đâu anh?

- Đi Belgique, tới Đại học đường Liège thăm một số bằng hữu sắp tốt nghiệp ở đó.

Thấy Phượng đã đứng dậy, Họa tiếp:

- Trong khi Phượng thay áo tôi đọc cho nghe mấy bài thơ vui do chính các văn nghệ sĩ miền Bắc làm và cho phổ biến thành thơ truyền khẩu khuyết danh:

VỊNH NÚI CON VOI

Núi voi trong thật giống voi

Đủ cả đầu đuôi đủ cả vòi

Voi cũng như người hăng sản xuất

Đầu thì trồng sắn, đít trồng khoai.

Tiếng Phượng cười khanh khách sau bức màn cửa. Họa đọc tiếp:

CỚ SAO LẠI CẤM

Trăm năm trong cõi người ta Ai ai cũng phải đi ra đi vào Nhược tiểu như anh cu Lào Người ta cũng phải đi vào đi ra Tân tiến như ở nước Nga

Người ta cũng phải đi ra đi vào

Xa xôi như xứ Bồ Đào

Người ta cũng phải đi vào đi ra

Đen kịt như Angola

Người ta cũng phải đi ra đi vào

Phản động đến như ông Mao

Ông ta cũng phải đi vào đi ra

Chỉ riêng có ở xứ ta

Cớ sao lại cấm đi ra đi vào.

Tiếng Phượng cười giòn tan. Họa yên lòng dẫn Phượng ra xe. Phượng nói:

- Tới bữa mà chưa tới Liège, ta sẽ tạt vào một quán ăn nào bên đường anh ạ.

- Tôi đã chuẩn bị “cơm tay cầm” rồi!

- ?

- Bánh mì paté ấy mà.

Cả hai cùng cười ồ. Vừa ra tới xe. Phượng ngắm nghía và khen thực tình chiếc xe mua trả góp của Họa. Phượng vào ngồi trước khi Họa mở cửa. Thời gian Họa đi quành sang cửa bên kia, Phượng đã kịp mở ví tay soi lại khuôn mặt mình trong gương. Vừa rồi trong nhà, tuy chỉ có mấy phút, Phượng cũng đã kịp thoa đều một lần phấn lên mặt và tô một chút son màu lợt lên môi.

6

Tới Liège, Họa giới thiệu với Phượng ba người bạn cũ, hai nam, một nữ, đều là sinh viên của Đại học Liège. Cả năm người dắt díu nhau đi chơi trong khu Đại học. Trời nổi gió lạ thường, đôi lúc mưa lất phất khiến tình cảm rưng rưng buồn mà thú. Cả năm người cùng được Họa phát cho “cơm tay cầm” – bánh mì paté – vừa ăn vừa nói chuyện vui, kiểu gặp đâu nói đó. Họ bước theo triền đồi rồi băng qua một con đường rừng tới bờ một dòng suối đẹp. Họ vào thư viện làm bộ lấy sách mà không đọc, cùng ngồi ngắm qua khung cửa kính cả một khoảng rừng, đồi, thung lũng và làng mạc xa xa. Những cây cao quanh thư viện ngả nghiêng theo gió và lá vàng rụng chao chát từng đợt. Chị bạn mới làm hiệu kéo Phượng tới cùng đứng bên khung cửa sổ kính. Chị nói rất khẽ, giọng thiệt gợi cảm và say mê:

- Chị trông những ngọn cây phong óng ánh vàng đằng xa kia nổi bật lên nền xanh thẫm của rừng thông. Giữa hai khu rừng bouleau và sapin – phong và thông – là thung lũng tôi ưa tới lắm, nơi đó có con suối quanh năm lúc nào cũng gần như cạn, y như người khóc gần hết nước mắt, giọng thì còn nỉ non.

- Ý chị định nói tiếng suối chảy róc rách? – Phượng hỏi.

- Không, ý tôi định nói tiếng than van của sapin trên nền dạt dào của bouleau. Tôi tới Liège lần đầu vào đúng hôm thứ tư gần ngày lễ Saint Nicholas, sinh viên Liège đội mũ lưỡi trai của Đại học, mặc áo blouse phòng thí nghiệm, người thì áo trắng sạch tinh – dân Y Dược chẳng hạn – người thì áo rách rưới vì acide và các chất hóa học khác – dân Hóa học chẳng hạn – mỗi người vác một cốc bia rỗng to tổ bố xuống đường chặn người thường lại xin tiền nhậu nhẹt. Rồi họ tụ tập kéo nhau vào những quán rượu, uống say mèm, rồi lại kéo nhau ra đường vừa tiếp tục uống, vừa nghêu ngao hát cho quên cái lạnh buốt xương. Tập tục dễ yêu nhưng xa lạ đó càng khiến mình nhận thức rõ hơn niềm cô đơn của mình. Dạo đó gần Noel, đài BBC cho nghe hoài mấy bản Cantatas, Oratorios của Bach, thánh thiện lạ, hướng thượng làm sao, mình nghe mà muốn đi tu quách cho rồi.

Chị bạn cười khẽ, Phượng cũng cười khẽ hòa theo. Phượng chăm chú nhìn chị bạn mới, lòng đầy thiện cảm và ôn thầm một lời nói đâu đó trong tác phẩm của ông nhà văn: “Hãy tận hưởng hoan lạc, hãy uống cạn đắng cay! Mỗi cuộc sống cá nhân là một kiến trúc nguy nga gồm những gì họ từng trải trong không gian và thời gian. Đừng bỏ phí những trang sách sống quá ư linh động đó, nếu có dịp được đọc.”

Phượng hỏi chị bạn theo ý hướng tiếp tục được “đọc” thêm:

- Rồi cuối hè đây, chị tốt nghiệp ra trường. Vậy nếu như xa Liège, chị nhớ những gì của Liège?

Chị bạn nhắm mắt lại để nhìn vào tâm tưởng rồi mở lim dim đáp:

- Liège có mấy con đường nhỏ cổ kính, quanh co đẹp như tranh. Có vài lần, khi hoàng hôn chụp xuống, tôi thấy nhớ nhà quá bèn tung hê hết bài vở, chạy tới những con đường đó, chọn khúc vắng nhất, đứng lẩn sau một gốc cây khuất nhất, ôm mặt khóc. Trời ơi, được khóc như vậy sung sướng không thể tả được, chị ạ.

Cả hai lại cùng hòa nhau tiếng cười khẽ tương đắc, chị bạn tiếp:

- Để mai chúng ta sẽ dậy sớm, tôi đưa chị leo lên một ngọn đồi có một tòa giáo đường cổ khá lớn. Từ đấy chúng ta sẽ ngắm thành phố thức giấc.

- Nếu bóng hoàng hôn chụp xuống làm chị muốn khóc thì ánh bình minh thức giấc cho chị cảm giác gì?

- Tùy mùa chứ! Tôi nhớ vào trung tuần tháng Ba năm ngoái, tôi đã ngắm Liège trong bình minh thức giấc như vậy, có những chùm hoa đỏ rực như hoa phượng nằm trên màu xanh đậm của lá và khi nắng vàng ùa tới, tất cả hòa với nhau dịu dàng ấm cúng làm sao. Một lần khác, tôi lại chú ý tới những bờ tường trông giống thành lũy đời xưa; dọc bờ tường là những bụi kim tước – genêts – nở vàng hoang dại. Cảm giác chung vẫn phảng phất một cái gì lạc lõng, bâng quơ, tuy nhiên dịu dàng thôi. Ít ai cảm thấy rưng rưng muốn khóc dưới ánh bình minh!

Phượng ướm hỏi chị bạn mà thật ra ướm hỏi chính mình:

- Có chút học vấn lại nhiễm tính yêu nghệ thuật, cuộc sống đương nhiên nghiêng về tinh thần dễ tự cô lập. Sự cô lập lại thúc đẩy mình đi tìm niềm vui tinh thần trong lãnh vực của nghệ thuật. Như vậy có thành một cercle vicieux không chị?

Chị bạn giải đáp con toán lẹ ơ:

- Ủa, thế một tâm hồn tri kỷ, một lời nói hợp tâm tình không thuộc lãnh vực của Đẹp sao? Đó là những linh dược làm mình bớt khắc khoải, bớt cô đơn, bớt lo âu đi nhiều, chị ạ.

Mấy người đàn ông đã trả sách, họ tới kéo hai người bạn gái ra khỏi câu chuyện tâm tình. Cả năm cùng đi ăn chiều tại quán ăn sinh viên. Buổi tối hôm đó họ đi nghe hòa nhạc, vé các bạn sinh viên ở Liège đã mua sẵn. Phượng được các bạn cho hay đây là một cuộc hòa nhạc thật đặc biệt, không phải đặc biệt vì gồm sáu Sonates viết cho violoncelle của Boccherini thế kỷ XVIII, mà vì nhạc sĩ cello là người Bỉ, quê hương ở chính Liège này. Ông là một nghệ sĩ thượng thặng, thoạt nổi tiếng ở Mỹ, rồi quanh năm đi trình diễn tại các thủ đô lớn trên thế giới, nhưng bao giờ cũng dành mùa thu về quê hương một lần. Sự trở về đó đượm tính chất thiêng liêng của cuộc hành hương, và dư âm cuộc trình diễn, sau khi ông đã ra đi rồi, mang nặng ý nghĩa một thông điệp, một hiến dâng bằng âm thanh cao quý.

Kỳ này đệm dương cầm cho ông là một nữ nghệ sĩ người Gia Nã Đại từng trau luyện tài nghệ nhiều năm tại Âm nhạc Viện Vienne, rồi Âm nhạc Viện New York. Âm thanh trình diễn cao quý đã đành, chính hai vị cũng là hiện thân của nghệ thuật nữa, từng nét mặt, từng dáng đi, dáng đứng, mái tóc xõa khi cúi xuống phím đàn, mái tóc xõa khi cúi chào thính giả… Nghe khúc Largo mở đầu Sonate số 3, tự nhiên Phượng rưng rưng ứa nước mắt.

Trong thính phòng có khá nhiều sinh viên Việt Nam. Một anh sinh viên Việt ngồi hàng ghế phía trước Phượng, ý hẳn học về ngành nhạc, bình giảng nhiều với người bạn ngồi bên, khoảng giữa hai bản nhạc. Lời bình giảng đầy hào hứng làm Phượng liên tưởng đến cặp Huân-Trinh ở Indiana: “Trước khi trình diễn ông cũng có thói quen ngồi thiền để tĩnh trí như Menuhin ngày xưa vậy. Phương pháp ông diễn tấu năm nay có hơi khác với năm ngoái. Thực đấy cậu ạ, các nhạc sĩ nổi tiếng hay thay đổi phương pháp lắm, mà lần nào cũng hay cả, thế mới lạ chứ. Cậu hẳn còn nhớ Isaac Stern? Ôi chao, archet của ông lăn trên dây đàn cứ như là lái xe bò, thế mà tiếng đàn vẫn tuyệt vô cùng. Thành tinh rồi cậu ơi, muốn gì là được, chả cần thắc mắc cao thấp tròn méo gì cả… Bàn tay tớ nè, bây giờ có vẻ dãn ra một chút rồi. Cậu biết Etude số 1 Ut Majeur của Chopin chứ gì, tớ tưởng không bao giờ đàn được, thế mà kiên nhẫn học mãi cũng xong, lại khám phá nhiều cách trình tấu lạ lùng khác khi tập bài đó mới ác chứ. Rồi bài số 2 Mi Bémol Majeur nữa! Cha cha, bài nào cũng phải dang ngón tay như càng cua ấy. Cần tiếng đàn văng ra thật đẹp, tròn vo, hây hây. Từ đó nảy sinh ra những phương pháp trình tấu để đạt được những thành quả đó. Vì thế, cậu hiểu chưa, kiểu của bàn tay không bao giờ cố định cả. Piano, cello, violon hay cái gì gì thì cũng vậy thôi…”

Sau buổi hòa nhạc, năm người bạn kéo nhau vào quán cà-phê để còn tận hưởng dư âm. Ai nấy cảm thấy được khích lệ, được vuốt ve trong thế giới của Đẹp. Ba người bạn trai ôn lại kỷ niệm ăn giao thừa năm ngoái ở Genève, Thụy Sĩ, hồi 5 giờ chiều – giờ giao thừa tại Sài Gòn. Hội Sinh viên Việt Nam mời các bằng hữu ngoại quốc tới dự, có hát dân ca ba miền, có diễn chèo cổ Lưu Bình – Dương Lễ.

Khuya, Phượng theo cô bạn về ký túc xá ngủ. Và hôm sau cả hai cùng dậy sớm, dắt nhau lên tòa giáo đường cổ, ngắm thành phố thức giấc. Gần giáo đường là đài tưởng niệm quân đội Đồng Minh tử vong trong Đệ Nhị Thế Chiến. Không có màu vàng hoang dại của những bụi kim tước, nhưng có màu đỏ hồng của mấy cụm đỗ quyên.

Sau bữa điểm tâm hơi vội, Họa và Phượng chia tay cùng các bạn ở Liège ngay sáng Chủ nhật hôm đó. Khi chiếc Volkswagen đã bon bon trên đường thiên lý, Phượng hỏi:

- Ta trở lại Paris chứ anh?

- Qua ngả Besacon!

- Làm chi vậy anh?

- Gặp một anh bạn thân khác.

Quả thật cuộc gặp bạn vừa qua giúp Phượng vợi đi nhiều sầu muộn. Vắng tiếng cười nói của bằng hữu, bóng tối ưu tư như lại muốn chụp xuống. Phượng như hệt kẻ không biết bơi sợ bị bỏ rơi giữa biển cả. May sao Họa đã hoạch định:

- Tuần sau mình sẽ gặp bọn Du ca. Đôi mắt Phượng sáng lên:

Mạnh?

- Vậy a anh? Gặp đám anh Quyết, anh

- Một cuộc ngao du dài.

- Vậy a anh? Bọn mình được nghe các anh

ấy trình diễn?

- Không. Nếu trình diễn thì không đi nhiều được. Đây là cuộc đi liên lạc lại những cơ sở đã được tổ chức.

- Sáng thứ Bảy tuần tới, anh cũng sẽ tới đón

Phượng?

- Tôi tới đón Phượng rồi mình đi thẳng tới Lausanne, Thụy Sĩ, gặp đám Du ca ở đó. Có khoảng ba xe chở nhau. Từ Lausanne đi Berne; từ Berne đi Bâle; từ Bâle qua biên giới Đức tới Freyburg thăm nhóm Du ca của anh em trong ban báo chí Hội Sinh viên Việt Nam. Kế đó từ Freyburg đi Stuttgart, rồi từ Stuttgart đi Munchen!

Phượng lim dim mắt theo dõi trước bằng trí tưởng tượng cuộc hành trình vui trẻ.

- Vấn đề ăn ngủ ra sao? – Phượng hỏi.

- Bọn này đã có kinh nghiệm rồi. Tới đâu là vào Auberge de Jeunesse vừa ít tốn kém vừa gặp nhiều bạn trẻ. Phượng sẽ có dịp thấy thành phố Đức rất rộng lớn vì theo khuynh hướng mở rộng vào thiên nhiên, chứ không tập trung lại theo kiểu Pháp.

Tới Nancy, Họa cho xe nghỉ mát máy, cùng

Phượng ăn trưa tại một quán trung bình. Niềm vui sống phục sinh, Phượng cảm thấy bớt cô đơn, bớt khắc khoải hẳn.

Tới lúc đó Họa mới đưa Phượng xem một bức thư của người bạn khá thân còn ở Sài Gòn.

- Phượng đọc – lời Họa – để biết một quan niệm đề cao nữ giới Việt Nam.

Và trong khi chờ đợi thức ăn mang tới, Phượng đọc. Họa tủm tỉm cười.

Sài Gòn ngày… Họa mến,

Ngày 29-4-1975, ngày cuối cùng của Sài Gòn tự do. Một người thông hiểu lý số, trước khi rời Sài Gòn, có nói: “Đành rằng miền Nam thế là rơi vào tay Cộng sản, nhưng xem tướng lũ trẻ miền Nam hầu hết mặt mũi phúc hậu, mắt tinh anh, quốc nạn mình chịu sẽ chuyển biến nhẹ nhàng thanh thoát dần. Tương lai đất nước đọc thấy rõ nơi gương mặt lũ trẻ đó.” Bảy năm qua rồi, quả thật Cộng sản chiếm được tất cả, để rồi mất tất cả. Người ra đi nuôi người ở lại. “Cộng sản hủ hóa, phân hóa. Cộng sản chỉ sụp đổ khi chúng tự mất tin tưởng và bị phân hóa như ngày nay trong nội bộ chúng!” Các chính khách bảo vậy, nhưng tôi không là chính khách, tôi nhìn thấy sự hồi sinh và bất diệt của miền Nam ở hình ảnh những cô gái Sài Gòn nói riêng, thực ra là miền Nam nói chung. Trong khi thoạt nhìn các “bộ đội gái” của Cộng sản, chúng ta khó nhận ra ngay là nữ nếu không có cụm tóc dài. Nhưng con gái miền Nam, gần gũi nhất với chúng ta là tại ngay Sài Gòn này, mấy năm nay đẹp rộ lên, đẹp đon đả, mượt mà,. Ôi, những mái tóc, những khuôn mặt, những đường mũi dọc dừa – mỗi người một vẻ! Tôi cứ muốn cậu về đây, chỉ một hôm thôi, cùng tôi đạp xe dọc theo đường phố, bất kỳ ngược xuôi đường nào, phố nào, chiêm ngưỡng muôn vàn vẻ đẹp khác nhau của các cô gái Sài Gòn để thấy rằng miền Nam bất diệt, có nghĩa là Việt Nam bất diệt. Vì lịch sử nước ta bao giờ thống nhất cũng từ Nam ra Bắc!

Có mái tóc chải thành một nét uốn bềnh bồng từ đỉnh đầu xuống đến mang tai, và cùng với nhịp xích-lô, nhịp gió thổi, mái tóc đẹp màu mun đó cũng phập phồng nhịp nhàng như một trái tim thổn thức. Đó là nhìn phía trước! Có mái tóc đen huyền nhìn phía sau chỉ rủ vừa tới vai đủ che nửa kín nửa hở một cần cổ trắng ngần, khỏe mạnh. Có cô gái dịu dàng mũm mĩm dừng lại ở góc đường né tránh một chiếc xích-lô vừa quẹo tới, thân hình thẳng, khuôn mặt hơi cúi xuống, tóc xõa hai bên má, chỉ nhìn thấy nét môi dưới hồng vì có tô son. Bức họa đó, nếu tôi vẽ, sẽ lấy tên là “Môi Hồng”. Nổi bật chỉ có vành môi dưới thôi! Vành môi căng hồng đầy đặn như một vành trăng hạ huyền.

Phượng ngừng đọc mỉm cười hỏi Họa:

- Anh bạn anh là họa sĩ?

- Đúng! – Họa đáp và nhìn Phượng cợt ghẹo. Phượng phải vội cúi xuống đọc tiếp:

Những bà mẹ các cô gái xinh đẹp đó là những ai, cậu còn nhớ không? Là những người đàn bà không biết gì là cực nhọc, nhịn ăn nhịn mặc, lăn lội đi thăm nuôi chồng con tại các trại học tập, nào ở Cao nguyên Trung Việt, nào ở Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh, Thanh Hóa – Bắc Việt. Là những người nhẫn nhục như những khúc gỗ, khi chen chúc trên những chuyến tàu chở người mà cũng không hơn gì chở súc vật; nhẫn nhục như những khúc gỗ, khi leo đèo lội suối, gồng gánh băng rừng, rời con đường lớn tới trại có chồng con. Là những người nhẫn nhục như khúc gỗ khi bị cán bộ Cộng sản hành hạ mạ lị vào đúng lúc được gặp chồng con.

Thức ăn đã mang tới, nhưng Phượng tiếp tục đọc. Họa chờ, im lặng.

Hễ có dịp nào qua khu hẻm nhỏ đó là vội đến mấy tôi cũng dắt xe đi vào một quãng. Vì sao vậy? Vì đã có lần vào hẻm này, tôi gặp một người con gái còn non trẻ lắm có mang, mặc áo đầm dài đến đầu gối, khuôn mặt thiên thần, nước da trắng mát. Nàng có mang con so – chắc chắn vậy. Người con gái sắp thành mẹ trẻ, đôi mắt bồ câu nhìn thẳng, nàng đẹp như một bức tượng tuyệt mỹ, nàng sắp hạ sinh nước mình phải được cứu rỗi khi có những bà mẹ trẻ thiên thần hạ sinh ra những tiểu thiên thần như vậy.

Thân.

Hẳn là Họa cũng muốn nói đùa thật nhiều, thật vui, thật thân mật quanh đề tài bức thư, nhưng rồi Họa cũng chỉ nói:

- Ăn đi thôi, người đẹp Sài Gòn! Đói rồi! Phượng cười lảng sang chuyện khác, đề nghị Họa vào một cuối tuần khác đưa Bremen – miền Bắc nước Đức – để thăm em Vĩ và ba bố con chú Tuyến.

Rồi xe lại bon bon trên đường thiên lý hướng về Besancon. Thiên nhiên nói hộ cả hai. Tiết trời thu nắng chói chang, có gió mát, hơi ghê ghê lạnh một chút nên càng gợi cảm. Tiếng máy êm ru. Phượng nhìn ra ngoài xe, những cảnh sông, suối, rừng thông, núi đá, đồi cỏ xanh rờn… Đây đó có những mái nhà ngói đỏ, cửa sổ ngợp hoa sặc sỡ. Rồi xe lượn vòng vèo qua một sườn núi, phút chốc đã cheo leo khoảng đỉnh núi. Rồi xe xuống dốc, nhiều quãng xuyên qua rừng. Có quãng rừng dài như bất tận. Tiếng nói của im lặng giữa thiên nhiên như vậy phồn thịnh vô cùng. Đôi lúc Phượng cúi mặt xuống thấy mình như con tằm đang kéo kén.

Xe vào Besancon. Gia đình người bạn đã được báo trước: hai vợ chồng cùng là người Việt và cậu con trai duy nhất tám tuổi. Tất cả niềm nở tiếp đón Họa và Phượng. Người chồng quê ở Thanh

Hóa, anh đã đỗ kỹ sư nông nghiệp, từ lâu làm việc ở ngay Besancon này. Chị nguyên là công nhân hãng Citroen bị thương ở cánh tay trái do tai nạn lao động, được lĩnh lương hưu sớm. Trước 1975, anh là một hội viên tích cực của Hội Việt kiều Yêu nước. Năm 1979, anh về thăm quê hương nhìn tận mắt nếp sống của đồng bào, nghe tận tai những lời qua tiếng lại. Kể cả những người tích cực chống Cộng từ sau 1954 đến khi tái ngộ với Cộng sản 1975 cũng không thể tưởng tượng nổi chúng ngu dốt, tồi tệ, bệ rạc đến thế, huống chi anh nhìn qua vùng hào quang lý tưởng từ nước ngoài. Anh trở lại Besancon câm lặng và khép kín với những người cũ, cởi mở và đầy thương cảm với đám người tị nạn mới. Anh đã kết thân với Họa vào trường hợp này. Trong câu chuyện thường nhật, anh tuyệt đối không một lời phẩm bình về thời cuộc. Mọi sự đã sáng tỏ, anh ghét lời nói dư thừa.

Vợ chồng anh đã chuẩn bị sẵn cái mà anh gọi là “pique-nique improvisé”, Họa lái theo xe anh chị tới một phi trường nhỏ - anh gọi là phi trường bỏ túi - ở ngoại vi Besancon. Anh vô nhà chứa máy bay, lái ra chiếc máy bay nhỏ vừa đủ hai chỗ ngồi, anh gọi là “máy bay ruồi”. Anh mời Phượng lên.

- Chương trình này do Họa hoạch định trước. – Anh tiết lộ vui vẻ.

Phúc chốc chiếc “máy bay ruồi” đã vù lên cao. Anh lái vòng vèo trên vòm trời Besancon để Phượng thưởng ngoạn thêm những gì mà khi ngồi xe hơi Phượng không nhìn thấy. Anh chỉ cho Phượng thấy hồ Léman, hồ Neuchâtel bên Thụy Sĩ,

Phượng có cảm tưởng như mình đã cùng Họa từng lê la thăm hết vùng Franche-Comté này từ Haute Saône đến Villefranche-sur-Saône. Thật tuyệt! Tình cảm và linh tính Họa đã kết tinh trong suốt, khi chàng hoạch định ở đoạn chót chuyến đi chơi cuối tuần này bằng cuộc du ngoạn trên không này cho riêng Phượng.

Khi “máy bay ruồi” hạ cánh, bữa ăn đã được bày thật đẹp trên khung vải trắng tinh trải trên cỏ xanh.

7.
Họa và Phượng chia tay cùng cặp vợ chồng bạn ngay sau hai ly cà-phê thật đậm và thật ngọt của bữa ăn trên thảm cỏ. Hướng về Paris, Họa lái xe khoảng một giờ hoàng hôn mới đổ xuống. Phượng cảm thấy mệt mỏi, lâng lâng tê tái một cách thích thú. Phượng nhắm mắt lại vừa chợp ngủ thì có cảm tưởng như xe từ từ dừng lại. Phượng mở mắt vừa lúc khuôn mặt Họa che lấp môi Phượng. Môi Họa đặt trên đó như chú bướm ham hố, tuy thoạt đầu cũng có vẻ ướm hỏi.
Hai ly cà-phê cuối cùng thật đậm và thật ngọt. – Phượng hiểu vậy qua cái hôn của Họa. Cái hôn kéo dài rồi lay động như muốn đánh thức Phượng.
Hẳn Họa phải thấy môi mình thơm ngọt – Phượng tự nhủ vì thoáng nghĩ đến hai ly cà-phê cuối cùng thật đậm và thật ngọt mà cả hai đã cùng thưởng thức vào cuối bữa ăn trên bãi cỏ xanh vừa qua. Tuy nhiên Phượng cũng vẫn làm bộ ngủ thiếp không nhúc nhích.
Lần này Họa hôn thật dài và dường như cố ý lay động thật mạnh, rồi ngừng, ghé tai Phượng gọi khẽ:
- Phượng! Phượng!
Phượng vẫn nhắm mắt, nhất định làm bộ ngủ mặc cho Họa cố tình dùng môi lay động trên môi đánh thức.
Rồi Họa tiếp tục thủ thỉ:
- Phượng, Phượng! Anh đã hoạch định cả. Tuần trăng mật anh sẽ đưa em tới vùng Valais miền Nam Thụy Sĩ để hái nho với gia đình người bạn. Anh sẽ đưa em sang Ý viếng thăm Venise, Vérone, Udine và các đảo ngoài khơi Venise. Anh sẽ đưa em đi qua vùng Lac de Côme, em biết vùng Lac de Côme ở Ý chứ?
Phượng vẫn nhắm mắt, nhất định… ngủ, mặc cho Họa mải miết lay động đánh thức bằng môi trên môi.
Vậy mà điều đó lại hợp với ý Họa chứ!.
Sài Gòn, 14-12-1981
Doãn Quốc Sỹ
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt 2 Tháng Chín, 2022 Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là co...