Thứ Ba, 28 tháng 9, 2021

Truyện ngắn kỳ lạ 1

Truyện ngắn kỳ lạ 1

Lời nói đầu

Nói đến truyện ngụ ngôn, người Pháp nhắc đến La Fontaine, về tiểu thuyết không thể không nói đến Balzac còn khi nói đến truyện ngắn thì phải nhắc đến Guy de Maupassant.

Guy de Maupassant sinh ra và lớn lên ở miền quê Normanơie, ông là nhà văn vừa có óc phê phán sắc bén lại vừa có óc tưởng tượng vô cùng phong phú. Được hai người bạn từ thuở thiếu thời của mẹ ông, nhà văn Gustave và nhà thơ Louis Bouihet, dìu dắt trong sự nghiệp văn chương nên ông đã có thể trở thành một nhà thơ (ông sáng tác một vài bài thơ) hoặc một nhà soạn kịch (ông là tác giả một vài vở kịch nhỏ); và tất nhiên ông có khả năng thành danh nhờ viết tiểu thuyết vì các tiểu thuyết ông đã rất nổi tiếng ngay từ thời đó và đến nay chúng vẫn còn được nhắc đến như: "Một cuộc đời", "Ông bạn đẹp" hay "Pierre và Jean"...

Nhưng chính ở thể loại truyện ngắn, tài năng của ông mới thật sự nở rộ. Có thể nói tài năng xuất sắc trong thể loại truyện ngắn đã làm lu mờ thành tựu của một tiểu thuyết gia. Trong tập truyện "Những truyện ngắn về một người đàn bà khờ khạo" và nhất là trong tập truyện "Một cuộc đời" hay "Trái đất" ông đã đạt được tới sự sâu sắc từ những chuyện tưởng như tầm phào vô nghĩa. Với tính giản dị, sự cô đọng, sức khái quát, những truyện nhỏ của Maupassant "chứa đựng những cốt tủy của những tập sách mà các tiểu thuyết gia khác phải viết thật dày" như Émile Zola đã nhận định.

Ngoài thể loại truyện ngắn hiện thực mang tính thời đại, ông còn sáng tác những truyện ngắn siêu thực, và có thể nói Maupassant là một nhà văn hiện thực nhất trong các nhà văn viết truyện hoang tưởng, ông cũng là một trong không nhiều nhà văn của thế kỷ trước thu hút được sự chú ý, sự tò mò của công chúng với thể loại truyện siêu thực.

Năm 1877, Maupassant mắc chứng bệnh tim và căn bệnh quái ác này đã khiến niềm vui sống trở thành một nỗi đau trong những ngày tháng cuối đời còn lại của ông. Ngay năm 1882, Maupassant đã có những ảo giác không phải là ảo giác dưới sự ảnh hưởng của cần sa nữa. Và kể từ năm 1887, trong ông đã xuất hiện hiện tượng tự kỷ ám thị: ông tin rằng ông nhìn thấy một ai đó đi lại trước mặt ông. Và trong suốt ba năm cuối đời ông đã không xuất bản thêm một tác phẩm nào. Tuy nhiên vào năm 1890, tức là khi Maupassant xuất bản tập truyện ngắn cuối cùng của mình, ông vẫn hoàn toàn minh mẫn. Ông không phải là một bệnh nhân tâm thần mà ông là một người bệnh đôi khi phải chịu đựng những rối loạn tinh thần. Những truyện ngắn siêu thực của ông không phải là tác phẩm của một kẻ điên, mà hiển nhiên là ông đã sử dụng những kinh nghiệm, những trải nghiệm của chính bản thân ông trong những cơn rối loạn tinh thần để viết lại những xúc cảm mà con người có thể cảm thấy.

Những truyện ngắn này không chỉ phản ánh thế giới nội tâm con người mà còn phản ánh cả cách suy nghĩ tư duy của con người thời đại đó, phản ánh cả hơi thở của thời đại đó.

Những truyện ngắn đề cập đến chứng bệnh điên của Maupassant không những không bị coi là tác phẩm của một người điên mà còn được đánh giá là những tác phẩm của một nhà văn hiện thực thiên tài, người đã rất thành công trong cách lột tả nội tâm con người.

Từ năm 1875 đến năm 1890, nghĩa là từ khi hai mươi lăm tuổi đến khi bốn mươi tuổi, Maupassant đã xuất bản hơn ba trăm truyện ngắn, chủ yếu in trong ba tờ: Gil Blá, Le Gaulois, Le Figaro, và một số tạp chí khác nữa. Những truyện ngắn này thường được tập hợp lại ngay khi tác giả còn sống thành những tập truyện ngắn được thu thập theo niên đại.

Xin trân trọng giới thiệu với độc giả 29 truyện ngắn siêu thực, kỳ lạ và hiện thực của Guy de Maupassant - một bậc thầy viết truyện ngắn của thế giới.

Người sưu tầm và dịch Vũ Yến Ly




Vô hình "Le horla"

Bản viết năm 1887

Ngày 8 tháng 5

Một ngày thật tuyệt! Suốt cả buổi sáng tôi nằm dài trên cỏ, dưới bóng cây rợp mát trước cửa nhà. Tôi yêu miền đất này, tôi muốn sống ở đây, nơi tổ tiên tôi đã đến, ở lại và sinh sôi nảy nở. Chẳng có gì gắn bó quyến luyến với một người hơn miền đất mà cha ông họ đã sinh ra và đã chết đi ở đó. Miến đất ấy ảnh hưởng tới cách người ta nghĩ, cách người ta ăn, sở thích người ta uống, và ảnh hương cả đến giọng nói, mùi hơi của người dân. Tôi yêu ngôi nhà mà tôi đã được sinh ra ở đó, lớn lên ở đó.

Từ cửa sổ phòng, tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi, dọc theo vườn nhà tôi, phía sau con đường, ngay sát nhà tôi, dòng sông Seine rộng lớn dẫn đến Rouen, đến Havre, tàu bè qua lại nườm nượp. Thấp phía xa, bên trái thành phố rộng lớn là những gác chuông nhọn, màu xanh da trời theo kiêu gôtích. Những gác chuông kiểu này nhiêu không đếm xuể, cái rộng cái hẹp. Sáng sáng, từ rất sớm, tiếng ngân nga của các loại chuông đã vang lên, và vọng tới tận nhà tôi. Tiếng binh boong khi gần khi xa của các loại chuông. Sáng hôm nay mới tuyệt làm sao!

Khoảng mười một giờ, một đoàn tàu thuyền đi qua, dẫn đầu là một con tàu to, nó trông như một con ruồi đen xì, xình xịch vừa đi vừa nhả ra cột khói dày đặc bay tới tận song cửa nhà tôi. Tiếp sau là hai chiếc thuyền buồm kiểu Anh với cờ hiệu màu đỏ tung bay trên trời, cuối cùng là một chiếc thuyền ba cột buồm kiểu Brazin, trắng toát, vỏ tàu sạch bóng lấp lánh sáng dưới ánh mặt trời. Bỗng nhiên tôi giơ tay chào con thuyền không hiểu tại sao nhưng tôi rất vui khi nhìn thấy chiếc thuyền đó.

Ngày 12 tháng 5

Tôi hơi sốt từ một vài ngày nay, tôi cảm thấy mệt và buồn chán. Sao tôi lại thấy buồn và cô đơn đến thế? Từ đâu những ảnh hưởng bí ẩn đã khiến lòng yêu đời vui sống của tôi lại thành ra mệt mỏi buồn chán thế này? Người ta bảo rằng nó đến từ trong không khí, cái thứ không khí không thể nhìn thấy được, đầy những sức mạnh mà con người chưa biết đến, và chúng ta phải chấp nhận việc chung sống với người hàng xóm bí ẩn này.

Tôi thức dậy đầy sảng khoái, vui vẻ, ngân nga vài câu hát. Tại sao? Tôi đi dọc bờ sông, sau một cuộc dạo ngắn, tôi trở về nhà và bỗng nhiên lòng đầy buồn rầu như thể thần bất hạnh đã đợi sẵn ở nhà tôi. Tại sao? Tôi thấy rùng mình dường như có một cái gì đó đã sượt qua da tôi, kéo căng dây thần kinh của tôi và phủ bóng u buồn lên tâm hồn tôi? Phải chăng là hình dạng của mây, màu của thời gian, hay màu của mọi đồ vật vô cùng đa dạng đã lướt qua mắt tôi làm tôi đảo lộn suy nghĩ? Có ai đó biết tại sao không?

Mọi thứ bao quanh ta, mọi thứ đập vào mắt ta, mọi thứ vô tình chạm phải ta, mọi thứ ta vô tình chạm phải, mọi thứ chúng ta gặp mà không nhận ra. Tất cả những thứ đó chạm vào da ta, thâm nhập vào tim ta, rất nhanh, rất đáng ngạc nhiên và không thể giải thích được.

Nó mới sâu kín làm sao, điều huyền bí về Người vô hình! Chúng ta không thể hiểu được nó vì khốn khổ làm sao, giác quan của chúng ta chưa đủ để nhận biết được nó. Mắt chúng ta không thể nhận biết được những vật quá bé, cũng như những vật quá lớn, không thể nhìn thấy những vật ở quá xa hay quá gần, và cũng không thể nhìn thấy những sinh vật sống trên các hành tinh khác cũng như không thể nhìn thấy những sinh vật đang sống trong một giọt nước...

Tai của chúng ta làm cho chính chúng ta nhầm lẫn bởi nó thường chuyển đến óc người những tiếng vang. Tai chúng ta là những bà tiên chuyên vẽ ra những điều bí ẩn bằng cách làm thay đổi tiếng động và chính những thay đổi này đã sinh ra âm nhạc, chuyển tải tiếng động trong thiên nhiên và chuyển tải cả những rung động không phát ra âm thanh trong thiên nhiên... Mũi chúng ta, không nhạy bằng mũi chó... vị giác thì chỉ phân biệt được tuổi của rượu. Ôi! Giá mà chúng ta có được những giác quan thính và nhậy hơn, để chúng ta có thể khám phá được hết những gì đang ở quanh chúng ta!

Ngày 16 tháng 5

Tôi ốm! Từ tháng trước tôi đã không được khỏe! Tôi sốt đùng đùng, tôi phát sốt vì luôn cảm thấy có một mối đe dọa khủng khiếp đang treo lơ lửng trên đầu tôi. Lúc nào tôi cũng cảm thấy có một tai họa khủng khiếp đang đến và thần chết đang lảng vảng đâu đó quanh tôi. Những dự cảm khủng khiếp đó cứ ám ảnh và gậm nhấm tinh thần tôi, mài mòn xương thịt tôi.

Ngày 18 tháng 5

Tôi vừa đi khám bệnh về, tôi bị mất ngủ. Bác sĩ thấy mạch tôi chạy nhanh, mắt tôi giãn rộng, thần kinh tôi căng thẳng, nhưng chưa có triệu chứng đáng lo ngại nào. Bác sĩ kê cho tôi uống thuốc an thần và tự chữa trị bằng liệu pháp tắm vòi sen.

Ngày 25 tháng 5

Chẳng cải thiện được gì hơn! Tình trạng của tôi vẫn thế. Mỗi khi màn đêm buông xuống, một nỗi lo lắng bồn chồn khó tả lại bám riết lấy tâm hồn tôi, màn đêm như ẩn chứa một hiểm họa khủng khiếp.

Tôi ăn tối rất nhanh, rồi cố đọc một chút nhưng tôi chẳng thể tập trung được. Tôi đi dọc ngang trong phòng khách, sợ hãi khi nghĩ đến việc phải về giường ngủ. Khoảng mười giờ, tôi trở về phòng, vừa vào phòng, tôi lập tức khóa cửa lại bằng hai lần khóa, cài then cẩn thận; tôi sợ... tôi sợ gì nhỉ?... ở đây chẳng có gì đáng sợ cả... tôi mở các tủ của mình ra xem, tôi nhìn xuống gầm giường... tôi nghe ngóng... liệu có tiếng động lạ nào không? Chỉ có tiếng xe, tiếng quăng lưới, tiếng chim chóc và tiếng đập của tim tôi... Rồi tôi lên giường đi ngủ, chờ đợi giấc ngủ đến với mình như kẻ tử tù chờ đợi tên đao phủ. Tôi đợi giấc ngủ đến với mình với một nỗi sợ hãi vô cùng. Tim tôi đập thình thịch, chân tôi run lẩy bẩy; toàn cơ thể tôi run bần bật trên giường cho tới khi tôi chìm vào giấc ngủ như thể người ngã xuống vực nước xoáy. Tôi không cảm thấy nó đến, cũng như trước đây, giấc ngủ đầy phản trắc, trốn sau tôi, rình mò tôi, chộp lấy đầu tôi, khiến mắt tôi nhắm lại, tiêu diệt tôi.

Tôi ngủ khoảng hai hay ba tiếng gì đó rồi chìm vào một giấc mơ, không, đúng hơn là một cơn ác mộng phủ chụp lấy tôi khiến tôi ngạt thở. Tôi cảm thấy rõ ràng rằng tôi đã đi nằm và tôi đã ngủ... tôi cảm thấy rõ điều đó và nhận biết được điều đó... và tôi cũng cảm thấy rất rõ ràng có ai đó lại gần tôi, nhìn tôi, sờ vào tôi, trèo lên giường tôi, đè chân lên ngực tôi, bóp cổ tôi, siết mãi siết mãi khiến tôi ngạt thở. Giãy giụa, nhưng bất lực; tôi muốn kêu lên nhưng không kêu lên được, tôi muốn giãy ra nhưng không thể cử động được, tôi cố sức bằng một nỗ lực tuyệt vọng để lật người lại, để hất cái vật đang đè nặng lên tôi, khiến tôi ngạt thở mà không sao làm được!

Bừng tỉnh, hoảng hốt, mồ hôi đầm đìa, tôi đốt đèn lên. Tôi có mỗi mình trong phòng. Cơn ác mộng đó đến với tôi hàng đêm và sau cơn ác mộng đó tôi ngủ lại chìm vào một giấc ngủ mê mệt không mộng mị tới tận sáng hôm sau.

Ngày 2 tháng 6

Bệnh của tôi có vẻ nặng thêm. Tôi bị bệnh gì nhỉ? Thuốc an thần và liệu pháp tắm vòi sen đều tỏ ra vô hiệu. Buổi chiều, tôi đi dạo quanh rừng Roumare như một hình thức tập thể dục nhằm làm cho cơ thể thật mỏi mệt để có được một giấc ngủ say không mộng mị. Vả lại tôi tin không khí trong lành tràn ngập mùi cỏ cây sẽ truyền vào máu tôi một luồng khí mới, truyền vào tim tôi một năng lượng mới. Tôi đi vòng quanh khu săn bắn, rẽ về phía vùng Bouille trên một lối đi hẹp nằm giữa hai hàng cây rợp bóng mát, hai hàng cây rậm rạp đến nỗi nó như một mái che bằng lá, dày bóng phủ xuống làm tôi cả đường đi.

Đột nhiên tôi rùng mình, không phải là một cái rùng mình bình thường vì lạnh mà là một cái rùng mình rất lạ, một cái rùng mình vì sợ.

Rảo bước, lo lắng khi thấy chỉ có mỗi một mình trong rừng, hoảng sợ vô lý khi thấy mình đơn độc trong rừng. Đột nhiên, tôi cảm thấy như có ai đang đi theo mình, đi sát gót mình, rất gần, gần như có thể chạm được vào mình. Tôi bất thình lình quay ngoắt lại phía sau? Vẫn chỉ có mình tôi, đằng sau tôi chẳng có ai, chẳng có gì ngoài lối mòn tối rợp bóng cây tôi vừa đi qua. Bỗng nhiên lúc này lối mòn lại có một vẻ gì đó rất đáng sợ. Tôi nhắm mắt lại, sao lại thế nhỉ, và tôi như quay tròn trên một gót chân, rất nhanh, như một con quay. Suýt ngã, tôi mở bừng mắt ra; cây cối quay tròn, bầu trời xoay tít; tôi phải ngồi thụp xuống. Ôi! Tôi không còn biết tôi đang đi đâu nữa. Ý nghĩ kỳ quặc! Kỳ quặc! Kỳ quặc thật! Tôi chẳng còn hiểu thế nào nữa.

Tôi đi theo lối mòn ở bên phải tôi và tôi quay về phía đương lớn dẫn vào giữa rừng.

Ngày 3 tháng 6

Đêm nay thật đáng sợ, tôi chắc chắn sẽ đi nghỉ một vài tuần để bình tĩnh lại.

Ngày 2 tháng 7

Tôi quay về với một tinh thần hoàn toàn bình phục. Tôi đã có một cuộc dã ngoại rất thú vị. Tôi đã đi thăm vùng núi Saint - Michel. Cảnh đẹp thật tuyệt vời, thời tiết ở nơi đó cũng rất tốt. Tôi đến nơi vào cuối buổi chiều, thành phố tọa lạc trên sườn đồi.

Chúng tôi đi thăm công viên, nó nằm ngay lối vào thành phố. Tôi trầm trồ và đầy ngạc nhiên, một vịnh nước biển mênh mông trải dài trước mắt tôi, xa hút tầm nhìn, hai đường bờ biển hẻo lánh mất hút trong làn sương mù; giữa vịnh nước mênh mông và bầu trời như dát vàng sáng chói là một ngọn núi đứng cao chót vót, sừng sững. Mặt trời vừa lặn vào giữa bãi cát vàng.

Đường chân trời như một vệt chỉ lửa huyền ảo bao phủ lên đỉnh núi tạo nên một bức tranh phong cảnh đẹp tuyệt vời.

Khi trời vừa bình minh, tôi đã đi ra biển. Biển vẫn như tối qua, hiền hòa, sóng gợn lăn tăn. Và tôi ngắm nhìn một tu viện kỳ dị, đứng ngay trước mặt tôi, ngay khi tôi vừa ra đến biển. Tôi đã đến công trình to lớn bằng đá đó sau nhiều giờ dạo bộ, nơi Chúa ngự trị.

Đi theo con đường nhỏ, tôi vào một trong những nơi đáng tự hào nhất của kiến trúc gôtích, một trong những công trình được xây dựng dành cho Chúa trời trên trái đất, nó rộng lớn như một thành phố, đầy những phòng thấp lè tè bị đè bẹp dưới những mái vòm thấp và những phòng tranh cao chỉ được chống đỡ bằng những cột mỏng manh. Công trình kiến trúc bằng đá được đẽo tạc tinh xảo bay bổng. Tu viện có rất nhiều tháp canh, rất nhiều gác chuông mà đường lên đó là cầu thang vặn xoắn. Đỉnh của các cầu thang đó là những cái đầu xù xì hình quái vật mình người đầu sư tử, hình các con vật kỳ dị, hình những bông hoa quý tung lên trời cao xanh vào ban ngày, tối thui vào ban đêm. Những gác chuông được nối với nhau bằng những mái vòm được đắp tỉa công phu.

Khi tôi leo lên được đến tháp canh cao nhất, tôi nói với ông linh mục, người đã đưa tôi lên: "Thưa cha, hẳn cha cảm thấy rất thoải mái khi ở đây". Ông trả lời tôi: "Có quá nhiều gió, thưa ngài". Rồi chúng tôi cùng im lặng nhìn ra xa, xa kia biển đang vỗ về bờ cát trắng.

Ông linh mục kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện, rất nhiều chuyện xa xưa ở vùng đất này, về những truyền thuyết. Một trong những truyền thuyết ấy đã có tác động mạnh đến tôi. Người dân ở đây, những người sống ở vùng núi, khẳng định là họ từng nghe thấy tiếng người nói chuyện trong đêm trên bờ cát, rồi họ còn nghe thấy tiếng hí của hai con ngựa, một con hí vang rên, còn con kia tiếng hí nghe nhỏ hơn. Những người không tin thì cho ràng đó là tiếng chim biển kêu, một loài chim hay bắt chước, lúc thì bắt chước tiếng kêu của súc vật, lúc lại bắt chước tiếng than van của con người; những người đánh cá về muộn thề sống thề chết là đã gặp một người chăn cừu già, đang rình mò trên các đụn cát giữa hai vịnh nước quanh làng, khá xa nơi mọi người đang sống. Nhưng người ta không bao giờ nhìn thấy đầu của lão mục đồng này vì nó luôn được giấu kín trong áo choàng của ông ta, và ông ta thường dắt ngay trước mắt họ một con vật đầu đàn ông mình dê, và một con khác đầu phụ nữ mình ngựa, cả hai đều râu tóc bạc phơ, nói không ngừng, chúng cãi nhau bằng một ngôn ngữ lạ lùng, thỉnh thoảng dồn hết sức bình sinh hí ầm lên.

Tôi hỏi ông linh mục: "Cha có tin chuyện đó không?" Ông buồn rầu nói: "Ta không biết". Tôi lại nói: "Nếu tồn tại trên trái đất một loài sinh vật khác, ngoài chúng ta, làm sao mà chúng ta lại không hề nhận biết đến họ, làm sao chúng ta không hề nhìn thấy họ. Sao tôi lại không trông thấy họ?"

Ông trả lời tôi: "Liệu chúng ta có nhìn thấy hàng triệu vi sinh vật đang sống quanh ta không? Xem này, gió đấy, một sức mạnh vô cùng to lớn trong thiên nhiên, gió hất ngã con người, đẩy đổ một tòa nhà, trốc rễ cây cổ thụ, hất nhào thuyền lớn, dâng nước ở biển lên, quật nát vách đá hoa cương. Gió tàn phá, gào hét. Thế mà ngài có nhìn thấy gió không, ngài có thể nhìn thấy gió không? Ấy thế nhưng nó vẫn tồn tại đấy thôi". Tôi im lặng trước những lý lẽ vô cùng giản dị nhưng đầy thuyết phục đó. Vị linh mục này hoặc là một nhà thông thái hoặc là một kẻ điên. Tôi không thể khẳng định được thế nào là đúng nhưng tôi vẫn phải nín thinh. Điều ông nói đã khiến tôi trăn trở rất nhiều.

Ngày 3 tháng 7

Tôi lại khó ngủ, hắn đó là một thứ bệnh lây, vì người đánh xe ngựa của tôi cũng chịu chung căn bệnh như tôi. Hôm qua, khi về đến nhà, tôi để ý đến sắc mặt xanh xao của anh ta, tôi hỏi thăm: "Jean, cậu sao thế?" Anh ta trả lời tôi: "Tôi không sao tĩnh tâm được, thưa ông, kể từ khi ông đi chơi tôi gặp ác mộng hàng đêm, ác mộng luôn bám riết tôi".

Ngày 4 tháng 7

Những cơn ác mộng lại quay về với tôi. Đêm nay tôi lại cảm thấy có ai đó ngồi lên người tôi, miệng người đó áp lên miệng tôi, hút lấy tinh lực tôi. Vâng, nó hút tinh lực trong người tôi, dai dẵng như đỉa. Rồi nó đứng lên, đầy vẻ thỏa mãn.

Tôi bừng tỉnh, mệt mỏi kiệt quệ đến nỗi tôi không động đậy được nữa. Nếu tình trạng này tiếp diễn chắc chắn tôi lại phải đi nghỉ nữa.

Ngày 5 tháng 7

A! Tôi mất trí rồi chăng? Điều gì đang xảy ra thế này, điều tôi đã thấy đêm qua thật lạ lùng, đầu tôi mông lung khi nghĩ đến chuyện đó. Như mọi tối, vào phòng, tôi đóng cửa lại, khóa cửa, cài then. Khát nước, tôi uống hết nửa cốc rồi đặt nó lên bàn ngủ, vô tình tôi để ý thấy bình nước của tôi đầy đến tận nắp. Tôi lên giường đi ngủ và tôi rơi vào một giấc ngủ say mê mệt. Khoảng hai giờ sáng tôi giật mình thức giấc, và bỗng cảm thấy hoảng sợ vô cùng.

Hãy tưởng tượng một người đàn ông bị ám sát khi đang ngủ, và khi tỉnh dậy anh ta thấy một con dao cắm vào tim, thân thể anh ta đầy máu, anh ta không còn có thể thở được nữa, anh ta sắp chết mà không hiểu tại sao. Thế đấy.

Đến khi tôi tỉnh táo lại, tôi lại cảm thấy khát, tôi đốt đèn lên và đi lại bàn để lấy bình nước. Tôi cầm nó lên rót vào cốc; nước hết sạch, cái bình rỗng không. Tôi không hiểu thế là thế nào. Rồi một nỗi sợ khủng khiếp bóp nghẹt tim tôi khiến tôi phải ngồi thụp xuống, không, nói đúng hơn là khiến tôi ngã ngồi xuống ghế. Tôi lại nhảy dựng dậy nháo nhác nhìn quanh. Rồi tôi lại ngồi xuống trước cái bình bằng thủy tinh của tôi, điên lên vì sợ, vì lạ. Tôi nhìn nó chằm chằm và cố đoán xem điều gì đã xảy ra. Hai tay run run. Nước đã được uống hết sạch? Ai uống? Hắn nhiên là tôi rồi vì làm gì còn ai khác ngoài tôi trong phòng? Vậy ra tôi bị mộng du, tôi làm những việc mà tôi không nhận thức được trong khi đang ngủ hay còn có một thực thể sống bí ẩn nào khác cùng đang ở đây, cùng với tôi, hay là một sinh vật lạ, chưa được biết đến và vô hình đang khiến tim ta tê cóng, thân thể ta bị cầm tù, một sinh vật như chính chúng ta và thông minh, nhiều khả năng hơn chúng ta.

Ôi, ai có thể hiểu được sự tức tối tồi tệ của tôi? Ai có thể hiểu được cảm giác của một người hoàn toàn minh mẫn tỉnh táo đã thấy sự tồn tại của rnột sinh vật lạ nhờ cái bình bằng thủy tinh trong suốt đây, chỉ nhờ một chút nước mất đi khi anh ta đang ngủ! Và tôi cứ ngồi như thế cho tới tận sáng, không dám nghĩ đến chuyện đi nằm nữa.

Ngày 6 tháng 7

Tôi điên rồi. Ai đó đêm nay lại uống hết cả nước của tôi, ai? Hay chính tôi đã uống? Phải tôi đã uống không? Nếu không thì là ai? Ôi Chúa ơi, con điên mất rồi. Ai cứu tôi với.

Ngày 10 tháng 7

Tôi vừa làm một thử nghiệm nhỏ để xem tôi có thật sự phát điên rồi hay không. Trước khi đi ngủ, ngày mùng 6 tháng 7, tôi đã đặt lên bàn rượu vang, sữa, nước, bánh mì và nho. Ai đó đã uống - tôi đã uống - hết cả nước và một chút sữa mà không hề đụng đến rượu vang, bánh mì và nho. Ngày mùng 7, tôi làm lại thử nghiệm này. có cùng một kết quả. Ngày mùng 8, tôi bỏ nước và sữa đi. Không có gì bị đụng tới. Và cuối cùng là ngày mùng 9, tôi chỉ để lên bàn nước và sữa, bọc kỹ bình nước lại bằng khăn ăn và buộc lại bằng dây. Rồi tôi lấy nhọ nồi bôi lem luốc tay, miệng, râu mình rồi lên giường đi ngủ. Tôi rơi ngay vào một giấc ngủ mê mệt, rồi như mọi hôm tôi lại bừng tỉnh giấc. Tôi chưa hề rời khỏi giường, khăn trải giường của tôi trắng tinh không có một vết nhọ nào. Tôi nhảy bổ đến cái bàn. Cái khăn ăn bao bọc bình nước của tôi vẫn còn nguyên. Dây buộc vẫn còn nguyên. Ai đó đã uống hết sữa, uống hết nước của tôi! Ôi Chúa ơi! Ngay ngày mai tôi sẽ đi Paris.

Ngày 12 tháng 7

Paris, ngay những ngày mới đến tôi đã thấy bồn chồn khó tả! Tôi hẳn đã bị những tưởng tượng của mình hù dọa, hay là thật sự tôi bị mộng du, hay tôi bị một ảnh hương bệnh lý nào đó ở đây mà người ta hay gọi là ám thị. Dù sao đi nữa sự điên rồ của tôi cũng đã khiến cho trí lực của tôi giảm sút, và hai tư tiếng ở Paris đủ để tôi tĩnh tâm trở lại.

Hôm qua, sau khi đi chợ và đi dạo phố, tôi cảm thấy đầu óc thư thái, tôi cảm thấy như một luồng gió mát lành đã thổi vào tim tôi một luồng sinh khí mới. Và tôi đã dừng lại ở Rạp hát lớn, hôm nay người ta diễn một vở kịch của Alexandre Dumas con, nói về vị thần báo tin và đầy quyền lực.

Sự cô đơn rất nguy hiểm với trí thông minh của chúng ta. Chúng ta luôn cần có nhiều người quanh chúng ta đang nói hoặc đang làm gì đó. Nếu chúng ta cô đơn quá lâu, chính chúng ta sẽ tự tưởng tượng thấy những điều kỳ quặc.

Tôi quay về khách sạn với một tâm trạng vui vẻ, khi sát cánh cùng mọi người trên quảng trường tôi đã nghĩ không hề có chút hàm ý mỉa mai nào đến nỗi sợ của mình, đến sự tự ám thị mình tuần trước, bởi tôi tin, vâng, thật sự tin có một sinh vật sống đang cư ngụ dưới mái nhà của mình.

Bởi thần kinh của chúng ta rất yếu, dễ bị kích động và dễ thất thần ngay khi một sự kiện không hiểu nổi xảy ra.

Thay vì nói một cách giản dị: "Tôi không hiểu tại sao lại thế", thì chúng ta lại thường nghĩ ngay đến một cái gì đó siêu thực, một cái gì đó bí ẩn và vô cùng đáng sợ.

Ngày 14 tháng 7

Quốc khánh, tôi ra đường đi dạo, không khí náo nhiệt của một buổi lễ tết khiến tôi náo nức như trẻ con. Tôi tự thấy mình thật ngớ ngẩn, sao không là ngớ ngẩn khi mọi người đều vui chơi, cảm thấy sung sướng vào một ngày đã được ấn định trước bằng một nghị quyết của chính phủ. Dân chúng chỉ như một đàn súc vật ngu xuẩn, khi thì kiên nhẫn một cách ngu đần, khi lại vùng lên tranh đấu một cách dữ dội. Người ta bảo họ: "Hãy vui chơi nào". Họ liền vui chơi một cách vui vẻ. Người ta lại báo họ: "Hãy đi đánh nhau với nước láng giêng thôi". Họ liền vội đi đánh nhau ngay. Người ta báo tiếp: "Bỏ phiếu cho hoàng đế đi". Họ liền bỏ phiếu cho hoàng đế. Rồi người ta lại bảo: "Bỏ phiếu cho đảng Dân chủ thôi". Họ vội vàng đổ xô đi bỏ phiếu cho đảng Dân chủ. Và những người lãnh đạo dân chúng cũng là những kẻ ngốc nốt; Thay vì vâng lệnh con người thì họ vâng theo những quy tắc, những lề luật, những thứ có thể nói là hết sức xuẩn ngốc, ngớ ngẩn, vô bổ và sai lầm kể cả khi chúng là các quy tắc. Nghĩa là những ý kiến nổi tiếng, chắc chắn và bất di bất dịch. Ở một thế giới mà người ta không dám chắc vào bất cứ điều gì, bởi ánh sáng là một ảo ảnh và tiếng động cũng là một ảo ảnh.

Ngày 16 tháng 7

Hôm qua tôi đã nhìn thấy những điều khiến tôi vô cùng bối rối.

Tôi dùng bữa tối ở nhà cô em họ, bà Sablé, chồng của cô em họ tôi chỉ huy một trung đoàn biệt kích ở Limoges. Tôi ở đó cùng hai người phụ nữ trẻ, một là vợ của bác sĩ Parent, ông này từng điều trị cho rất nhiều bệnh nhân tâm thần và biết rất nhiều biểu hiện lạ của dạng bệnh tâm thần. Và ông thường điều trị cho họ bằng liệu pháp thôi miên cùng với thuốc an thần.

Ông kể cho chúng tôi nghe rất nhiều về tác dụng kỳ diệu của liệu pháp, đã được kiểm nghiệm và công nhận bởi các nhà bác học người Anh và các bác sĩ của trường Nancy. Những sự kiện này có vẻ lạ lùng đến nỗi tôi tỏ ý nghi ngờ.

"Chúng tôi sắp khám phá ra một trong những bí mật quan trọng nhất của thiên nhiên, ông ta khẳng định, tôi muốn nói một trong những bí mật quan trọng nhất của thiên nhiên trên trái đất; bởi nếu bí mật nằm ở một hành tinh nào đó, thì đương nhiên nó sẽ có tầm quan trọng khác đối với chúng ta. Kể từ khi con người biết nghĩ, biết nói và biết viết ra suy nghĩ của mình. Người ta luôn cảm thấy có một điều huyền bí không thể hiểu được, đang tồn tại sát mình, nhưng vì tự phụ rằng mình là hoàn hảo và vĩ đại nhất trong vũ trụ nên con người thường lờ cảm giác đó đi. Và con người, nhờ vào trí thông minh của mình, ra sức bổ sung thêm cho hoàn hảo những giác quan còn khiếm khuyết. Khi trí thông minh vẫn còn ở dạng sơ đẳng, nỗi sợ hãi những hiện tượng không nhìn thấy được biểu hiện dưới dạng kinh sợ bình thường. Từ đó, rất nhiều người tin có tồn tại những sinh vật siêu nhiên, niềm tin đó đã hiển hiện ở việc luôn có những truyền thuyết về ma quỷ, thần tiên, về những quái thú và thậm chí cả những truyền thuyết về Đức Chúa. Bởi những khái niêm về Đấng tối cao, về tôn giáo của chúng ta được hình thành từ những tưởng tượng bịa đặt xoàng xĩnh nhất, ngu ngốc nhất, khó chấp nhận nhất của những kẻ hoảng sợ những vật được Chúa sáng tạo. Chẳng có gì đúng đắn hơn câu nói của Voltaire: ‘Chúa tạo ra con người bằng trí tưởng tượng nhưng chính con người đã tự hoàn thiện mình vượt qua cả sự tưởng tượng của Chúa’.

Nhưng từ hơn một thế kỷ nay, có vẻ như con người đã dự cảm thấy một điều gì đó mới lạ. Mesmer 1 và một vài người khác đã dẫn chúng ta theo một con đường không được trông đợi và chúng ta thì thật sự đã có từ bốn năm năm nay. một kết quả thật đáng ngạc nhiên".

Cô em họ tôi, cũng như tôi tủm tỉm cười đầy vẻ không tin. Ông bác sĩ lại nói: "Bà có muốn tôi thử làm cho bà thiếp ngủ một lát không, thưa bà?"

"Vâng, tôi cũng muốn thử".

Em họ tôi ngồi vào một chiếc ghế bành, và ông bác sĩ bắt đầu nhìn chằm chằm vào cô, thôi miên cô. Còn tôi lúc đó bỗng thấy hơi lo lo, tim tôi đập thình thịch, cổ họng se lại. Tôi nhìn đôi mắt đang nặng trịch dần của em họ tôi, nhìn miệng cô đang mím lại, ngực phập phồng. Chỉ khoảng mười phút sau, cô đã ngủ ngon lành.

- Hãy đứng ra sau cô ấy! - Ông bác sĩ bảo tôi. Tôi ra đứng đằng sau cô. Ông ta đặt vào tay cô một tấm danh thiếp rồi bảo cô: "Đây là một tấm gương, bà nhìn thấy gì trong đó?"

Cô trả lời:

- Tôi nhìn thấy anh họ tôi.

- Anh ta đang làm gì?

- Anh ta đang vặn vẹo bộ râu của mình.

- Thế còn bây giờ?

- Anh ta đang rút từ trong túi quần ra một bức ảnh.

- Bức ảnh nào?

- Ảnh anh ta.

- Đúng thế đấy! Và bức ảnh này tôi vừa chụp một lát trước đây ở khách sạn.

- Trông anh ta thế nào trong bức ảnh?

- Anh ta đứng, mũ cầm tay.

Cô ta chỉ nhìn một tấm danh thiếp mà nói như thế tấm thiếp ghi danh đó là một chiếc giường vậy. Hai phụ nữ trẻ, kinh sợ, cùng kêu lên: "Đủ rồi! Đủ rồi!" Nhưng ông bác sĩ lại ra lệnh: "Sáng mai, bà hãy thức dậy vào lúc tám giờ, đến khách sạn gặp ông anh họ của bà và năn nỉ ông ta cho bà mượn năm nghìn frăng mà chồng bà đã yêu cầu bà phải đưa cho chồng trước chuyến du hành sắp tới".

Rồi ông "đánh thức" em họ tôi dậy.

Vừa về khách sạn tôi vừa mông lung suy nghĩ đến những gì đã chứng kiến. Hoài nghi những gì mình trông thấy. Tôi không hề hoài nghi về thiện chí không thể nghi ngờ của em họ tôi, người tôi đã biết từ thuở nhỏ, người thân thiết với tôi như em gái của tôi, nhưng tôi hoài nghi ông bác sĩ đã gian trá. Hẳn ông ta đã cho em tôi nhìn vào một tấm gương trong khi giơ ra cho chúng tôi xem một tấm danh thiếp. Trò ảo thuật đó thì quá đơn gián đối với một người lành nghề như ông ta.

Tôi về đến khách sạn và đi ngủ.

Sáng hôm sau, khoảng tám rưỡi, tôi bị người hầu phòng đánh thức, anh ta giải thích: "Có bà Sablé đề nghị được gặp ông ngay".

Tôi vội vàng mặc quần áo rồi ra đón cô. Cô ngồi xuống với một vẻ ngượng nghịu, hai mắt cụp xuống, rồi không hề lên giọng, cô nói: "Em có một việc muốn nhờ anh giúp, anh họ thân mến của em".

- Việc gì thế em?

- Thật ngại quá nhưng em đang rất cần năm nghìn frăng.

- Sao kia, em cần ư?

- Vâng, em, hay nói đúng hơn là chồng em đề nghị em phải kiếm được số tiền đó cho anh ấy.

Tôi hoàn toàn sửng sốt đến nỗi ấp úng không thành lời. Tôi tự hỏi phải chăng cô ấy và ông bác sĩ đang cùng nhau bày trò để trêu tôi, phải chăng đây là một trò đùa nhả đã chuẩn bị trước và đã được diễn rất khéo. Nhưng khi tôi để ý nhìn cô em họ tôi thật cẩn thận thì mọi nghi ngờ của tôi đều tan biến. Cô ấy đang run rẩy vì lo sợ, cô đầy vẻ đau khổ với những tiếng nức nở đang kìm nén trong họng. Tôi biết rõ rằng cô rất giàu nên tôi hỏi lại:

- Sao cơ, chồng em không có đến năm nghìn frăng trong tài khoản ư. Xem nào, em nghĩ lại đi, em có chắc rằng anh ấy đề nghị em đi hỏi vay anh không?

Cô do dự vài giây như thể cô đang cô nhớ lại, rồi cô trả lời:

- Vâng... vâng... em chắc mà.

- Anh ấy có viết cho em à?

Cô lại do dự, suy nghĩ. Tôi cho là những suy nghĩ đang khiến cô khổ sở. Cô không biết. Cô chỉ biết đến mỗi một điều là cô phải vay tôi năm nghìn frăng cho chồng cô. Thế nên cô nói dối.

- Vâng, anh ấy đã viết cho em như thế.

- Anh ta viết cho em khi nào? Em đã chẳng hề nói gì với anh tối qua cả.

- Em mới nhận được thư sáng nay.

- Cho anh xem lá thư đó một chút được không?

- Không... không... không, anh ấy viết cho em một số điều tế nhị, rất riêng tư... em đã... em đã đốt nó đi rồi.

- A thế ra chồng em đã mang công mắc nợ phải không?

Cô lại do dự nữa, rồi rên rỉ:

- Em không biết.

Tôi đột nhiên nói:

- Thế nhưng anh không thể có ngay năm nghìn frăng cho em bây giờ.

Cô bật lên một tiếng kêu đau khổ:

- Ôi, em xin anh, em xin anh đấy...

Rồi cô cuống lên, chấp hai tay vào nhau như thể để cầu khẩn. Giọng của cô lạc cả đi; cô khóc nức nở, vừa nấc vừa khẩn cầu:

- Ôi anh, em van anh đấy, giá mà anh biết được em đau khổ đến thế nào... em cần có số tiền đó ngay ngày hôm nay.

Tôi lấy làm thương cho em mình.

- Em sẽ có khoản tiền đó ngay thôi, anh hứa đây.

- Ôi, cám ơn anh, ngàn lần cám ơn anh. Anh thật vô cùng tốt bụng.

Tôi lại hỏi cô:

- Em có nhớ diều gì đã xảy ra ở nhà em hôm qua không?

- Có ạ.

- Em có nhớ là bác sĩ Parent đã thôi miên cho em ngủ không?

- Có ạ.

- Ông ấy đã ra lệnh cho em sáng nay phải đến vay anh năm nghìn frăng, giờ đây em đang bị ám thị và vâng theo lệnh của ông ta đấy.

Em tôi suy nghĩ vài giây rồi trả lời:

- Em vay anh vì chồng em đề nghị thế.

Trong suốt một giờ đồng hồ, tôi cố gắng thuyết phục em tôi nhưng tôi không sao thuyết phục được cô tin.

Khi cô giã biệt tôi ra về, tôi liền chạy ngay đến nhà bác sĩ Parent. Ông đang định ra ngoài; vừa nghe tôi kể ông vừa cười. Rồi ông hỏi:

- Bây giờ ông tin chưa?

- Vâng, bắt buộc phải tin rồi.

- Chúng ta hãy đến nhà người em họ anh đi.

Cô vẫn đang thiu thiu nửa thức nửa ngủ trên một chiếc ghế dài, đầy vẻ mệt mỏi. Bác sĩ Parent xem mạch cho cô, nhìn cô một lát rồi để một tay lên phía trên đôi mắt của cô, dần dần mắt cô nhắm nghiền lại như chịu một sức mạnh huyễn hoặc không thể kháng cự được. Khi cô đã hoàn toàn say ngủ, ông ta nói:

- Chồng bà không còn cần năm nghìn frăng nữa. Vì thế bà sẽ quên bà đã khẩn cầu anh họ mình cho vay số tiền đó và nếu anh ta có nói về điều đó với bà, bà cũng không hiểu gì hết.

Rồi ông ta đánh thức em họ tôi dậy. Tôi rút ví ra và bảo em họ tôi.

- Em thân mến, đây là số tiền mà em đã hỏi anh sáng nay.

Cô ngạc nhiên đến nỗi tôi không dám nhắc lại nữa, tuy nhiên tôi vẫn cô thử gợi lại trí nhớ của cô bằng cách nhắc lại một vài chi tiết, nhưng cô khăng khăng từ chối, tin chắc rằng tôi đang trêu cô, và cuối cùng suýt nữa cô phát khùng lên với tôi.

Thế là tôi quay về, không sao ăn được, vì quá bối rối trước những gì vừa diễn ra.

Ngày 19 tháng 7

Tất cả những người được tôi kể cho nghe chuyện đó đều châm chọc tôi. Tôi không còn biết nghĩ thế nào nữa. Sự khôn ngoan trong tôi tự nhủ: Có thể thế chăng?

Ngày 21 tháng 7

Tôi dùng bữa tối ở Bougival, một vùng sông nước nằm giữa Paris và Saint Germain, rồi tôi đến một hộp đêm chuyên dành cho dân thuyền chài. Rõ ràng là mọi việc đều tùy nơi và tùy môi trường. Tin vào những gì siêu nhiên ở đảo Grenouillère là điều cực kỳ điên... nhưng ở đỉnh núi Saint Michel thì sao?... Ở vùng những người Ấn Độ thì sao?

Chúng ta đang phải chịu đựng những ảnh hưởng ghê sợ của những sinh vật, những hiện tượng đang sống, đang diễn ra quanh chúng ta. Tuần sau, tôi sẽ về nhà.

Ngày 30 tháng 7

Tôi đã về nhà từ hôm qua. Mọi việc đều tốt.

Ngày 2 tháng 8

Chẳng có gì mới; thời tiết rất đẹp. Tôi dành hàng ngày trời ngồi ngắm sông Seine.

Ngày 4 tháng 8

Một vụ cãi lộn giữa những người làm. Họ đổ cho nhau tội làm vỡ cốc trong tủ. Họ khẳng định là ai đó đã làm vỡ cốc vào ban đêm. Anh hầu phòng thì đổ tội cho bà bếp, bà bếp đổ tội cho chị lau dọn, chị lau dọn lại đổ tội cho một ai đó tôi không biết nữa. Nhưng kết luận ai làm vỡ, chẳng ai biết được.

Ngày 6 tháng 8

Lần này, tôi không hề điên. Tôi đã nhìn thấy... tôi đã nhìn thấy... Tôi không thể nghi ngờ gì nữa... tôi đã nhìn thấy. Tôi vẫn còn lạnh buốt đến tận đầu ngón tay... Tôi đã sợ tới tận xương tận tủy... Tôi đã nhìn thấy... Vào hai giờ chiều, tôi đi dạo dưới ánh nắng chói chang của mặt trời, trong vườn hồng nhà tôi... giữa hai hàng hồng đang bắt đầu nở hoa vụ thu. Tôi đứng lại chiêm ngưỡng một nhành hồng tuyệt đẹp có ba bông chúm chím, thế rồi tôi nhìn thấy, tôi nhìn thấy một cách rất rõ ràng ngay sát trước mặt tôi, cành hoa bỗng cong xuống như thể có một bàn tay vô hình đang vít nó xuống, rồi nó gãy rời ra như thể bị ai đó hái! Rồi bông hoa bay lơ lửng, rồi nó nghiêng đi trông như thể có ai đó, cầm nó cho lên mũi ngửi. Thế rồi bông hoa cứ treo lơ lửng trong không khí, trông rất kỳ quặc và đáng sợ ngay trước mũi tôi, cách chừng ba bước chân.

Lạ lùng, tôi vươn tay ra chụp lấy nó! Tôi chẳng thấy gì cả; nó đã biến mất. Bực cả mình, không thể nào một người hoàn toàn khỏe mạnh, tỉnh táo lại có thể có ảo giác như thế được. Nhưng đó phải chăng là ảo ảnh? Tôi quay lại để tìm thân cây hoa, tôi tìm thấy nó ngay lập tức. Cành hoa vẫn còn nguyên vết bẻ còn tươi, nhành hoa đó nằm giữa hai bông khác trên một cành ba bông. Tôi quay về phòng với tâm trạng bối rối; bởi tôi chắc chắn, chắc chắn như hai cộng hai là bốn rằng tồn tại ngay cạnh tôi một sinh vật sống vô hình, sinh vật đó sống bằng sữa và nước, sinh vật đó có thể sờ vào mọi vật, có thể chuyển dịch mọi vật, nó cũng sống trong nhà chúng ta, nhưng chúng ta không nhận biết được nó có thể do các giác quan của chúng ta chưa đủ tinh nhạy.

Ngày 7 tháng 8

Tôi đã có một giấc ngủ yên bình. Nó đã uống nước trong bình, nhưng nó không hề quấy rầy giấc ngủ của tôi. Tôi tự hỏi mình có điên không. Trong khi đi dạo, lúc trong vườn hồng, lúc dọc bờ sông, lúc giữa trưa nắng, lúc chiều tà, tôi luôn tự hỏi phải chăng mình đã phát điên. Tôi đã biết đến nhiều người điên, hoàn toàn bình thường, sáng suốt, thậm chí là uyên bác và thông thái trong nhiều lĩnh vực chỉ trừ một điểm. Họ nói về mọi lĩnh vực với đầy vẻ uyên thâm, thế rồi đột nhiên, họ như rơi vào vùng xoáy giữa cơn bão của đại dương, bao quanh họ là sóng gầm, là mây mù dày đặc, lưới cá bao bọc... và người ta gọi là "điên".

Chắc chắn là, tôi đã tin rằng tôi điên, hoàn toàn điên, nếu tôi không hề ý thức được tình trạng của mình, nếu tôi không suy nghĩ đến tình trạng của mình và phân tích nó một cách hoàn toàn tỉnh táo. Vậy thì tóm lại, tôi là một kẻ hay lý luận bị ảo giác.

Óc tôi đang chịu một rối loạn nào đó, một trong những rối loạn mà cho tới tận ngày nay các nhà vật lý học vẫn đang nghiên cứu, thí nghiệm. Rối loạn này đã ăn sâu trong đầu tôi, trong óc tôi. Những hiện tượng chỉ có thể xảy ra trong mơ lại diễn ra ngay giữa ban ngày như là một trò ảo thuật vô lý nhất, nhưng lại không làm cho chúng ta ngạc nhiên được vì lúc này mọi giác quan đang trong tình trạng ngủ, trong khi đó khả năng tưởng tượng vẫn còn đang thức và làm việc. Phải chăng, cũng như một số người khác, sau một tai nạn nào đó, quên hết những gì vốn thân thuộc với mình hoặc chỉ quên một số chi tiết nào đó thôi, ví như chỉ quên hết tên của người thân, nhầm lẫn đồ vật này với đồ vật khác, mất khả năng đếm...

Tôi miên man nghĩ đến tất cả những điều đó khi đi dạo bên bờ sông. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ xuống làn nước lăn tăn sóng, mọi vật được bao phủ bởi ánh sáng có một vẻ đẹp thật đáng yêu. Tôi nhìn trời, nhìn sông, nhìn mây bay, nhìn đàn chim nhạn đang bay ngang qua, tôi thấy thư thái yêu đời, mắt tôi ngời sáng đầy vui vẻ, tai tôi như đang nghe thấy những nốt nhạc ngân nga, tim tôi rộn rã...

Thế mà một sự bất ổn bồn chồn khó giải thích bỗng dần xâm chiếm tôi. Một dự cảm lạ lùng nào đó luồn vào tim tôi, khiến tôi lạnh cóng, khiến tôi buồn bực, chặn tôi lại, không cho tôi đi xa thêm nữa, gọi tôi từ phía sau. Tôi cảm thấy khao khát được quay về nhà, một mong muốn cồn cào, không thể cưỡng lại được. Như thể ta để lại người yêu đang ốm ở nhà một mình và ta dự cảm thấy cô ấy đang yếu dần đi, cô ấy cần có ta ở bên.

Thế là; dù không muốn nhưng tôi vẫn quay về, tin chắc rằng khi về đến nhà sẽ nhận được một tin xấu, một bức thư hoặc một bức điện. Chẳng có gì đợi tôi ở nhà cả; Tôi ngạc nhiên và lo lắng hơn cả là khi tôi có những ảo giác lạ thường.

Ngày 8 tháng 8

Hôm qua tôi đã có một đêm kinh hoàng. Nó không hề biểu lộ chút nào sự có mặt của nó, nhưng tôi cảm thấy nó đang ở rất gần tôi, nhìn tôi, rình tôi, luồn vào trong tôi, chế ngự tôi và đáng sợ hơn cả là điều đó báo hiệu có sự có mặt vô hình và sự chắc chắn của nó trong tự nhiên. Thế nhưng, tôi vẫn ngủ được.

Ngày 9 tháng 8

Chẳng có gì hết nhưng tôi vẫn sợ.

Ngày 10 tháng 8

Chẳng có gì, nhưng ngày mai điều gì sẽ đến?

Ngày 11 tháng 8

Vẫn chẳng có gì xảy ra; tôi không thể cứ ở nhà với nỗi sợ và những suy nghĩ quẩn quanh như thế. Tôi phải đi thôi.

Ngày 12 tháng 8

10 giờ tối. - Ngày nào tôi cũng muốn bỏ đi nhưng tôi không thể. Tôi đã muốn lấy lại sự tự do của mình một cách đơn giản nhất, dễ dàng nhất, bỏ đi - lên xe, phóng đến Rouen. Tôi đã không thể làm thế. Sao thế nhỉ?

Ngày 13 tháng 8

Khi người ta mắc một số chứng bệnh nào đó, cơ thể người ấy sẽ mệt nhừ, bải hoải như không còn chút sức lực nào nữa, chân tay mềm nhũn như bún, thịt da nhẽo nhèo. Tôi cũng cảm thấy cùng cảm giác như thế, một cảm giác rất lạ và khó chịu. Tôi không còn chút sức lực nào, không còn chút nghị lực nào, chẳng còn muốn gì nữa thậm chí cũng chả buồn động đậy. Tôi chẳng thể mong muốn gì nữa cả, nhưng như có ai đó có những mong muốn hộ tôi và tôi vâng lời người đó.

Ngày 14 tháng 8

Tôi là một kẻ mất hồn! Ai đó đã lấy mất hồn tôi và điều khiển nó! Ai đó đã định đoạt mọi cử chỉ của tôi, mọi suy nghĩ của tôi, mọi việc tôi làm. Tôi không còn là tôi nữa, tôi chỉ còn là một tên nô lệ, khiếp sợ mọi việc tôi phải hoàn thành. Tôi mong muốn được ra đi nhưng không sao đi được. Nó không muốn tôi đi; và tôi ở lại, cuống cuồng lo sợ, run rẩy ngồi trong cái ghế bành mà nó đặt tôi ngồi vào đó. Tôi chỉ muốn đứng lên, nhổm lên để tin rằng tôi vẫn còn đang làm chủ bản thân mình. Tôi không thể! Tôi bị gắn chặt vào ghế, cái ghế bị dính chặt vào mặt đất, không một sức mạnh nào có thể nhấc được chúng tôi lên.

Rồi đột nhiên, tôi phải, tôi phải ra cuối vườn hái dâu tây và ăn chúng. Và tôi đi ra đó. Tôi hái dâu và ăn chúng! Ôi, Chúa tôi! Chúa tôi! Chúa tôi! Nó là Chúa trời sao? Nếu quả thật nó là một dạng như Chúa?! Ôi trời ơi, cứu tôi với, cứu tôi với! Hãy thương xót lấy tôi! Cứu tôi! Giúp tôi! Ôi, khốn khổ thân tôi! Khiếp đảm quá! Ghê sợ quá!

Ngày 15 tháng 8

Hắn em tôi cũng đã phải chịu nỗi thống khổ đó khi đến vay tôi năm nghìn frăng. Cô ấy cũng phải chịu đựng một mong muốn lạ thường vò xé tâm can, một linh hồn khác, như thể một linh hồn ký sinh, một linh hồn thống trị. Phải chăng thế giới đã đến ngày tận thế?

Nhưng cái sinh vật vô hình đang điều khiển tôi, nó là cái gì vậy? Cái sinh vật chưa được biết đến, kẻ rình mò này phải chăng là một giống loài siêu nhiên? Vậy ra những Người vô hình là có thật? Tôi chưa bao giờ đọc được một điều gì tương tự như điều đang xảy ra ở nhà tôi. Ôi, giá mà tôi có thể bỏ đi được, giá mà tôi có thể trốn đi và không bao giờ quay lại nữa. Tôi sẽ được cứu, nhưng tôi không thể.

Ngày 16 tháng 8

Hôm nay tôi đã có thể thoát thân trong vòng hai tiếng đồng hồ, như thể một tù nhân tìm được lối ra, một cách ngẫu nhiên cổng nhà tù mở. Bỗng nhiên tôi cảm thấy tôi được tự do và rằng nó đang ở xa. Tôi lập tức ra lệnh chuẩn bị xe và đi thẳng đến Rouen. Ôi, sung sướng biết bao khi ta có thể nói với một người mà người đó lập tức vâng lời ta: "Hãy đi đến Rouen!"

Tôi dừng lại trước cửa thư viện và yêu cầu người ta cho tôi mượn quyển chuyên luận của tiến sĩ Hermann Herestaurs về những sinh vật lạ, đã từng xuất hiện ở thời cổ đại cũng như ở thời hiện đại. Rồi vừa leo lên xe tôi vừa muốn nói: "Ra ga!" và tôi đã kêu lên - tôi đã không nói gì hết, tôi đã hét lên bằng một giọng to đến nỗi tất cả những người qua đường đều ngoái lại nhìn: "Về nhà!", và tôi ngã bịch xuống ghế ngồi, điên lên vì giận dữ. Nó đã tìm được tôi và bắt được tôi.

Ngày 17 tháng 8

A! Đêm mới tệ hại làm sao! Đêm mới tệ hại làm sao! Tuy nhiên, lẽ ra tôi phải lấy làm vui mới phải. Tôi đã đọc sách tới tận một giờ sáng. Hermann Herestauss, tiến sĩ về triết học và về thần học đã viết những chuyện về tất cả các dạng sinh vật vô hình đang rình mò quanh con người hoặc có mặt trong các giấc mơ của con người. Ông ta miêu tả nguồn gốc của chúng, sức mạnh của chúng, thói quen của chúng. Nhưng chẳng có gì giống với sinh vật đang ám ảnh tôi. Người ta nói rằng con người, kể từ khi biết nghĩ, đã biết dự cảm và hãi sợ những vật thể lạ, mạnh hơn con người, biết hãi sợ một ngày nào đó, những sinh vật lạ đó sẽ chiếm cứ hành tinh Trái đất, từ nỗi sợ đó, đã sản sinh ra những câu chuyện ma quái, những chuyện về những sinh vật lạ ám ảnh con người...

Đến một giờ sáng, để thư giãn đầu óc một chút, tôi ra mở toang cửa sổ và ngồi xuống đó đón cơn gió đêm mát lành. Trời đẹp, ấm áp. Xưa kia, tôi đã yêu biết bao cái không khí ban đêm dịu mát này!

Trời không trăng, những vì sao lấp lánh sáng trên nền trời đêm. Ai đang sống trên các hành tinh đó? Hình dạng thế nào? Sống ra sao? Sinh vật nào? Loài động vật nào? Loài cây nào sống ở trên đó? Những sinh vật trên các hành tinh xa xôi đó có biết nghĩ không? Họ có biết nhiều hơn chúng ta, những con người không? Họ có thể làm được những gì hơn con người? Họ có thể nhìn thấy những gì mà con người không nhìn thấy? Liệu một ngày nào đó họ có vượt qua không gian, xuất hiện trên Trái đất của chúng ta và chiếm cứ nó như những người Anh đã vượt biển đến chiếm đóng các nước yếu hơn?

Chúng ta quá yếu đuối, không được trang bị vũ khí, quá dốt nát, quá bé nhỏ, chúng ta chỉ như một hạt bụi và sẽ tan loãng vào một giọt nước.

Gió mát hiu hiu làm tôi thiu thiu ngủ. Khoảng bốn lăm phút sau tôi choàng tỉnh, cảm thấy rất bồn chồn. Đầu tiên tôi chẳng thấy gì lạ cả, rồi bỗng nhiên một trang sách trên bàn bỗng dở lên. Chẳng hề có một ngọn gió nào bay qua để có thể làm lật trang sách. Tôi thấy lạ và tôi ngồi im đợi. Khoảng bốn phút sau, tôi lại thấy, vâng, chính mắt tôi lại nhìn thấy một trang sách dở lên và nằm ép xuống trang sách trước, như thể có một ngón tay dở nó lên để đọc. Ghế bành của tôi rỗng không, có vẻ như rỗng không, nhưng tôi hiểu nó đang ở đó, nó, ngồi ở ghế của tôi, ngồi ở chỗ của tôi và nó đang đọc sách. Bằng một bước nhảy dữ dội, bước nhảy của một con thú nổi loạn muốn xé nát người thuần hóa, tôi lao qua căn phòng để tóm lấy nó, để ôm lấy nó, để giết nó!... Nhưng cái ghế của tôi đổ nghiêng ra trước khi tôi kịp chạm đến như thể nó đứng bật dậy bỏ chạy, bàn lắc lư, đèn đổ xuống, tắt ngấm và cửa sổ đóng sập lại như thể một tên du đãng vừa nhảy qua rồi lấy tay đóng sập nó lại, để người ta không thể đuổi theo nó được.

A ra nó bỏ chạy, nó sợ, nó sợ tôi. Nó! Thế thì... thế thì... ngày mai... hay ngày kia.... hay một ngày nào đó tôi có thể giữ được nó trong tay mình; và nghiền nát nó trên đất. Phải chăng không có những con chó thỉnh thoảng cắn và chẹt cổ chủ mình?

Ngày 18 tháng 8

Tôi đã suy nghĩ suốt cả ngày. Ồ! Vâng, tôi sẽ vâng lệnh nó, làm theo những gì nó ra lệnh, hoàn thành mọi mong muốn của nó, làm cho tôi tầm thường, đớn hèn, dễ bảo đi. Nó mạnh nhất. Nhưng một giờ sẽ đến...

Ngày 19 tháng 8

Tôi biết... tôi biết... tôi biết hết rồi! Tôi vừa đọc điều này trên tạp chí Thế giới khoa học: "Một căn bệnh thần kinh lạ mới được phát hiện ở Rio de Janeiro. Thời Trung cổ căn bệnh này đã phát triển như một bệnh dịch và hoành hành ở Châu Âu. Hiện nay nó lại xuất hiện ở tỉnh San Paulo. Những cư dân ở đây, dứt khoát bỏ quê hương xứ sở của mình ra đi vì theo họ vùng này đang có bọn ma cà rồng hoành hành. Họ nói nếu họ không sớm ra đi, họ sẽ thành nô lệ của bọn ma này, bọn ma này là những sinh vật vô hình, sống bằng sữa, nước và máu người, ngoài ra chúng không hề động đến bất cứ một thực phẩm nào khác.

Giáo sư Don Pedro, cùng với rất nhiều các nhà bác học, các bác sĩ đã đến vùng San Paulo để nghiên cứu tại chỗ nguồn gốc và những biến thể của căn bệnh điên lạ lùng này và để có thể đưa ra những kiến nghị nhằm làm yên dân".

A! A! Tôi chợt nhớ ra, tôi chợt nhớ ra vào ngày mùng 8 tháng 5 trước, tôi đã nhìn thấy một chiếc tàu ba cột buồm của Braxin đi ngang qua nhà tôi, khi tôi đang ngồi chơi ngắm sông từ cửa sổ phòng mình. Tôi nhìn thấy rằng con tàu đó rất đẹp, rất trắng, rất vui vẻ! Sinh vật vô hình có thể đã ở trên đó, đến từ đó, từ đó sinh sôi ra. Và nó đã nhìn thấy tôi! Nó đã nhìn thấy ngôi nhà cũng trắng toát của tôi! Và nó đã bay qua dòng sông vào nhà tôi. Ôi! Chúa ơi! Giờ thì tôi biết rồi, tôi đoán ra được rồi. Thời thống trị của con người đã kết thúc.

Nó đã đến, nó chính là cái mà tổ tiên con người từ thời hoang sơ đã sợ, cái mà những tu sĩ chuyên trừ tà ma lo lắng, nó chính là những gì mà con người đã dự cảm được và miêu tả như những mụ phù thủy bay ngang qua màn đêm, rồi biến mất, được miêu tả như những tà ma, quái thú... mà con người chỉ dự cảm thấy, chứ chưa bao giờ nhìn thấy một cách rõ ràng. Mermes đã đoán trước được điều đó và các bác sĩ đã từ mười năm nay khám phá ra một cách vô cùng rõ ràng rằng thiên nhiên có những sức mạnh siêu nhiên khác, mà một ngày nào đó nó sẽ có những vũ khí mới, nó sẽ thống trị linh hồn con người và biến con người thành nô lệ cho nó, bằng cách điều khiển mong muốn trong linh hồn con người. Và người ta gọi điều đó là thôi miên...

Tôi còn biết gì nữa nhỉ? Tôi đã thấy chúng chơi đùa với sức mạnh của mình như những đứa trẻ và rất khinh suất với sức mạnh khủng khiếp này! Bất hạnh thay cho chúng ta! Bất hạnh thay cho loài người! Nó đã đến, nó... biết gọi nó bằng cái tên gì bây giờ? Có vẻ như nó hét tên nó lên với tôi, tôi không nghe thấy... gì cơ.... gì.... nó hét tên nó lên... tôi chăm chú lắng tai nghe... tôi không thể nghe thấy... nhắc lại đi... Le... Horla... tôi đã nghe thấy... Le Horla... đúng nó rồi... Le Horla... nó đã tới!...

A! Con kền kền đã xơi con bồ câu; con sói đã ngoạm con cừu; con sư tử đã làm thịt con trâu vài bộ sừng sắc nhọn; con người đã giết chết con sư tử bằng tên, bằng kiếm, bằng súng; nhưng Le Horla sẽ khiến con người thành cái mà chúng ta đã làm với bò, ngựa; biến chúng ta thành vật sở hữu của nó, thành đầy tớ của nó, thành thức ăn của nó chỉ bằng sức mạnh làm biến đổi ý nguyện của chúng ta. Bất hạnh thay cho chúng ta!

Tuy nhiên, súc vật đôi khi cũng nổi loạn và giết chết chủ chúng... tôi cũng thế, tôi muốn... tôi sẽ có thể... nhưng cần phải nhận biết được nó, phải chạm được vào nó, phải nhìn thấy nó! Các nhà bác học đã nói rằng mắt của súc vật khác với mắt của con người, chúng không phân biệt được như mắt con người... và mắt tôi không thể phân biệt được kẻ mới đến đang đè nén tôi, đang giày vò tôi.

Tại sao? Bây giờ tôi nhớ đến những lời của vị linh mục trên núi Saint Michel: "Liệu chúng ta có nhìn thấy hàng triệu vi sinh vật đang sống quanh ta không? Xem này, gió đấy, một sức mạnh vô cùng to lớn trong thiên nhiên, gió hất ngã con người, đẩy đổ một tòa nhà, trốc rễ cây cổ thụ, hất nhào thuyền lớn, dâng nước ở biển lên, quật nát cả vách đá hoa cương. Gió tàn phá, gió gào, gió hét, gió gầm. Thế mà ngài có nhìn thấy gió không, ngài có thể nhìn thấy gió không? Ấy thế nhưng nó vẫn tồn tại đấy thôi". Và tôi lại nghĩ: mắt tôi yếu, kém đến nỗi không nhận ra nổi những thân thể rắn chỉ vì nó trong suốt như thủy tinh!... và rằng nếu một tấm kính trong suốt không tì vết cản đường chúng ta, chúng ta sẽ va đầu vào nó như những con chim vẫn lao vào cửa kính nhà chúng ta khi chúng muốn vào nhà. Ngoài ra còn có hàng nghìn điều khác thường, đánh lừa mắt ta, làm chúng ta nhầm lẫn. Vậy thì có gì phải ngạc nhiên, vậy phải chúng có một dạng cơ thể mới mà ánh sáng có thể đi qua được.

Một dạng sinh vật mới! Tại sao không? Chắc chắn là nó phải đến! Sao chúng ta có thể trở thành sinh vật cuối cùng được! Chúng ta không nhận biết được nó, cũng như những sinh vật được tạo ra trước chúng ta không nhận biết được ra chúng ta? Phải chăng đó là vì tư chất của nó hoàn hảo hơn, cơ thể nó uyển chuyển hơn, khéo léo hơn, nhanh hơn, mạnh hơn, bền vững hơn cơ thể vô cùng yếu đuối, vô cùng vụng về, cái cơ thể rất dễ bị tổn thương, đau yếu của chúng ta. Chúng ta sống như một cái cây, như một con thú tự nuôi sống mình một cách khó khăn bằng không khí, bằng cỏ cây và bằng thịt, cơ thể sống của chúng ta hay bị giày vò bởi bệnh tật, bởi sự biến dạng, bởi sự thối rữa. Thế nhưng chúng ta lại tự huyễn hoặc rằng chúng ta là sinh vật thông minh nhất, hoàn hảo nhất.

Trái đất đã qua biết bao sự chuyển hóa từ sinh vật thân nhũn đến con người. Tại sao không một lần nữa, một lần thực hiện một kỳ chuyển đổi, đưa những sinh vật hoàn hảo hơn thay thế những sinh vật kém cỏi hơn? Tại sao không một lần nữa? Tại sao không một lần nữa sản sinh ra những loài hoa có bông to hơn, rực rỡ hơn, thơm hơn những loài hoa hiện có trên Trái đất? Tại sao không xuất hiện những phần tử khác thay thế cho lửa, không khí, nước và đất? Bốn phần tử chủ yếu nuôi dưỡng, sản sinh ra sự sống, chỉ bốn phần tử, chẳng có gì khác ngoài bốn phần tử đó! Đáng thương hại làm sao! Tại sao không phải là bốn mươi, bốn trăm, bốn nghìn! Khốn khổ làm sao, ti tiện làm sao, hạ lưu làm sao!

Nhưng bạn nói đi, bạn bướm! Một bông hoa biết bay! Tôi đã mơ thấy một bông hoa lớn bằng cả trăm vũ trụ, với những cánh hoa mà tôi không thể tả hết được hình dạng to lớn đẹp đẽ lung linh sắc màu của chúng. Nhưng tôi nhìn nó... nó đi từ ngôi sao này đến ngôi sao khác, làm mát những ngôi sao và ướp hương cho chúng khi đi ngang qua. Và những cư dân trên các vũ trụ khác từ trên cao nhìn chúng đi ngang qua đầy thích thú.

Vậy tôi có gì nào? Chính nó, nó, Le Horla, nó ám ánh tôi, nó khiến tôi nghĩ đến những điều điên rồ! Nó ở trong tôi, nó trở thành linh hồn của tôi; Tôi sẽ giết nó!

Ngày 19 tháng 8

Tôi sẽ giết nó. Tôi đã cảm nhận được nó! Tối qua khi tôi ngồi ở bàn và làm ra vẻ đang viết một cách rất chăm chú. Tôi biết rõ nó đang rình mò quanh tôi, rất gần tôi, gần đến nỗi mà tôi gần như có thể chạm được vào nó, bắt được nó. Tôi, tôi có sức mạnh của sự tuyệt vọng, tôi có đôi tay, đôi chân, có răng, có óc để bóp được cổ nó, đè nó xuống đất, cắn nó, xé nó. Và tôi rình mò nó với tất cả các giáo quan căng ra.

Tôi đã đốt tất cả các đèn, nến mà tôi có trong nhà với hy vọng với ánh sáng chan hòa như thế tôi có thể tìm ra nó, trông thấy nó. Bên phải tôi là lò sưởi. Bên trái tôi là cửa ra vào mà tôi đã đóng lại rất cẩn thận sau khi để ngỏ khá lâu để gây chú ý cho nó. Đằng sau tôi là chiếc tủ gương lớn mà hằng ngày tôi vẫn đứng trước nó để cạo râu, mặc quần áo, và tôi thường có thói quen liếc nhìn mình từ đầu đến chân mỗi khi đi qua nó. Thế là tôi làm ra vẻ như đang đọc sách để lừa nó; đột nhiên tôi cảm thấy, một cảm giác, rất rõ ràng nó đang đọc qua vai tôi, rõ ràng nó đang đứng đó, sượt cả vào tai tôi. Tôi đứng phắt dậy, giơ hai tay ra và quay ngoắt lại phía sau nhanh đến nỗi suýt ngã. Và thế là... tôi đứng đối diện với cái gương nhưng tôi không nhìn thấy mình trong gương! Chiếc gương hoàn toàn trong suốt, sáng loáng nhưng không hề có hình tôi trong đó mặc dù tôi đang đứng đối diện với gương... Tôi nhìn chiếc gương lớn, trong suốt từ đầu đến chân. Tôi trừng trừng nhìn gương, hoảng hốt đến mức không dám nghĩ đến chuyện tiến gần lại nó, cảm thấy rõ ràng giữa tôi và chiếc gương là nó và rằng nó vẫn trốn thoát khỏi sự tìm kiếm của tôi, nhưng cơ thể không thể nhìn thấy được của nó lại che được hình ảnh phản chiếu của tôi. Tôi sợ biết bao! Thế rồi tôi nhìn thấy hình ảnh của tôi, dần dần hiện lên trong gương, hình bóng của tôi dần hiện như đi đến từ trong sương mù, như đến từ làn nước. Và cũng giống như sóng nước, hình bóng của tôi hiện dần lên trong gương từ trái sang phải, dần dần, từ từ, từng giây từng giây rõ nét dần lên. Cuối cùng hình tôi đã in rõ trong gương như mọi ngày tôi vẫn soi. Tôi đã nhìn thấy nó! Tôi vẫn phải chịu đựng nó, vẫn bị nó cầm tù.

Ngày 20 tháng 8

Giết nó, nhưng giết bằng cách nào? Bởi tôi không thể chạm được vào nó? Bằng thuốc độc chăng? Nhưng nó sẽ nhìn thấy tôi hòa thuốc độc vào nước, vả lại liệu thuốc độc có tác dụng đối với một cơ thể không thể nhận thấy được không? Không... không... không có tác dụng gì là chắc rồi. Vậy thì làm cách nào bây giờ? Làm cách nào bây giờ?...

Ngày 21 tháng 8

Tôi đã đến một xưởng làm sắt ở Rouen. Và tôi đề nghị họ làm cho tôi cửa chớp bằng sắt với lý do để chống trộm ngoài ra tôi cũng muốn cửa ra vào phòng tôi cũng phải bằng sắt. Họ sẽ làm cho tôi. Tôi tự cho rằng mình là một kẻ nhát gan và tôi tự chế giễu mình vì điều đó.

Ngày 10 tháng 9

Rouen, khách sạn Continental. Đã làm rồi... đã làm rồi... nhưng nó chết chưa? Tôi bối rối trước những gì tôi đã thấy.

Hôm qua, thợ sắt đã đưa đến cho tôi cửa chớp và cửa ra vào bằng sắt mà tôi đã đặt làm, tôi lắp chúng vào phòng tôi, sau đó tôi để ngỏ cửa tới tận nửa đêm dù trời đã bắt đầu có gió lạnh.

Đột nhiên tôi cảm thấy nó đang ở đó, vui mừng, tôi cảm thấy trong tôi đang bừng lên một niềm vui rồ dại. Tôi từ từ đứng dậy, rồi tôi đi đi lại lại trong phòng rất lâu, để nó không thể đoán được tôi đang định làm gì; rồi tôi cởi bỏ ủng ra, xỏ chân vào giầy một cách cẩu thả; tôi đóng cửa chớp bằng sắt lại, rồi bước những bước chậm rãi đến bên cửa ra vào, tôi đóng nốt nó lại rồi khóa hai lần khóa. Rồi lại dạo bước đến bên cửa sổ, tôi chốt nó lại, khóa vào rồi đút chìa vào túi.

Tôi cảm thấy nó đang cuống lên, nó đang lượn quanh tôi, nó sợ. Nó ra lệnh cho tôi mở cửa thả nó ra, tôi suýt vâng lệnh nó; nhưng rồi tôi kiềm chế lại được. Tôi ngồi dựa lừng vào cửa, tôi hé mở cửa ra một lối nhỏ vừa đủ để có thể đi lọt qua, rồi tôi đứng lại đó, tôi khá cao nên đầu tôi chạm cả vào khung trên của cửa, thế nên tôi tin chắc rằng nó không thể chuồn ra được. Tôi đang nhốt nó, tôi đã nhốt nó lại được. Còn gì vui hơn! Tôi đã tóm được nó rồi! Đóng cửa lại, tôi đi ra, lấy đèn ở phòng khách và phòng ngủ của mình rồi tưới dầu trong bình dầu đèn lên thảm, lên tủ, lên bàn ghế, tôi tưới dầu khắp nhà; rồi tôi châm lửa đốt. Tôi phải tự cứu mình, sau khi đã tự khóa hai lớp khóa cửa ra vào.

Tôi bỏ chạy và trốn ở tận góc sâu trong vườn nhà, trong một bụi cây thắng. Thời gian mới dài làm sao! Đêm tối đen như mực, im phăng phắc, bất động; không một ngọn gió, không một ngôi sao, những núi mây mà người ta không hề nhìn thấy nhưng luôn đè nặng lên tâm hồn con người một sự nặng nề khó chịu, rất khó chịu.

Tôi nhìn nhà mình và đợi. Thời gian trôi mới lâu làm sao! Tôi đã tin rằng hẳn lửa đã tắt ngấm đi mất rồi, hay nó đã dập lửa rồi. Nó, khi một trong những cánh cửa sổ ở dưới bắt cháy rồi rơi xuống, và một ngọn lửa, một ngọn lửa lớn cháy sáng liếm lên tường trắng rồi leo rất nhanh lên mái. Một tia lửa nhỏ chạy từ trong quầng lửa thẳng ra vườn, chạy vào lùm cây, leo lên cành cây, luồn vào lá cây, và một cơn rét run, một cơn rét run sợ hãi lan tỏa khắp người tôi.

Những con chim giật mình thức giấc bay táo tác. Một con chó tru lên; có vẻ như sắp sáng. Rồi hai cánh cửa sổ khác cũng mở toang ra, giờ đây toàn bộ tầng dưới của nhà tôi đã trở thành một lò than đang cháy rừng rực. Rồi một tiếng kêu, một tiếng kêu kinh hoàng, chói tai, xé lòng vang lên, một giọng phụ nữ xé toang màn đêm, của tầng áp mái mở toang ra! Ôi, tôi đã quên những người làm của mình. Tôi nhìn thấy khuôn mặt kinh hoàng của họ và những cánh tay chới với của họ...

Thế là cuống cuồng kinh hoảng, tôi chạy về phía làng, vừa chạy vừa hét: "Cháy! Cháy! Cứu với! Cứu với!" Tôi trình bày cho những người đã chạy tới và cùng họ quay trở về để nhìn!

Giờ đây, căn nhà chẳng còn gì nữa, nó đang cháy rừng rực như một khúc củi khổng lồ, một khúc củi quái gở, chiếu sáng khắp cả một vùng, một khúc củi đang thiêu cháy những người còn đang mắc lại trong đó, một khúc củi đang thiêu cháy Nó, Nó, kẻ cai ngục của tôi, Sinh vật mới, Người chủ mới, Le Horla!

Mái nhà sụp xuống và một cột lửa phụt lên tới tận trời đêm. Nhìn ngôi nhà đang bốc cháy ngùn ngụt, tôi cho rằng nó đang ở trong đó, trong lò lửa đó, trong lò thiêu đó, đã chết...

"Chết rồi sao? Có thể thế không?... Có thể giết chết được cái thân thể vô hình trong suốt của nó không? Nếu nó không chết thì sao? Liệu nó có thể bị phá hủy được không? Nó có một cơ thể vô hình, một cơ thể của Thánh thần, nhưng liệu nó có sợ cái xấu, sợ bị thương, sợ bị chết non? Bị chết non? Mọi con người đều sợ bị chết non! Quá trình tiến hóa có tiếp tục? Sau con người là Horla. Sau con người, một giống loài có thể chết bất cứ lúc nào, bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu, bởi bất cứ một tai nạn nào xảy đến, là một giống loài khác, một giống loài chỉ chết vào đúng ngày đúng tháng đã được định trước. Không!... Không!... không nghi ngờ gì nữa, không nghi ngờ gì nữa... nó chưa chết. Vậy thì... vậy thì... chỉ còn mỗi một cách... duy nhất một cách... giết chính tôi đi, giết chính tôi..."

--------------------------------

1

Mesmer (1734-1875) bác sĩ, người tạo ra học thuyết thôi miên. Ông từ Vienne đến Paris và rất nổi tiếng nhờ học thuyết này, nhưng sau do bị Viện Hàn lâm khoa học kết tội lường gạt và trục xuất ra khỏi lành thổ nước Pháp.

Cái tay khô

Vào một tôi cách đây khoảng tám tháng, Louis, một trong những người bạn của tôi, tụ tập một vài người bạn học từ thuở nhỏ tại nhà. Chúng tôi cùng nhau uống rượu mạnh, hút thuốc và bàn về văn học, thơ ca, tranh phú. Cũng như mọi cuộc vui của đám thanh niên, thỉnh thoảng lại nổ ra một trận cười vì ai đó trong chúng tôi lại kể một chuyện vui, tếu táo. Đột nhiên cánh cửa mở toang, một cậu bạn lao vào như một cơn gió. "Đoán xem tôi vừa ở dâu về nào?" vừa vào cậu ta vừa hỏi.

- Tôi cá là cậu vừa về từ vũ hội hóa trang của cô nàng Mabille. - Một người trả lời.

- Không, trông cậu có vẻ rất cao hứng, chắc là cậu vừa mượn được tiền của ai đó, hoặc là vừa chôn cất một ông chú ông bác nào đó - người cho cậu một khoản thừa kế kha khá hay cậu vừa đặt được chiếc đồng hồ với một giá hời. - Một người khác đoán.

- Cậu vừa làm một cốc ở đâu đó và bây giờ cậu đang chếch choáng say - Người thứ ba độp lại - và cậu ngửi thấy mùi rượu thơm lừng ở nhà Louis nên cậu đến đây để lại tiếp tục chén tạc chén thù chứ gì?

- Các cậu sai bét, tôi vừa về từ nhà P... ở Normanơie, tôi đã ở đó tám ngày và xem tôi mang gì về từ đó đây này. - Vừa nói cậu ta vừa rút từ trong túi ra một cái tay khô.

Cái tay này rất đáng sợ, đen sì, khô cong, rất dài và như thể co quắp lại vì đau, những cơ bắp bằng một cố gắng phi thường đã giữ chặt với nhau như những dải dây bằng da thuộc, những móng tay vàng ệch, hẹp, vẫn còn lại trên đầu các ngón tay; tất cả những cái đó khiến người ta liên tưởng tới một cái gì đó tàn ác.

- Các cậu biết không - Anh bạn tôi kể - người ta bán những di vật của một phù thủy già nổi danh trên khắp vùng; thứ bảy nào ông ta cũng cưỡi trên cán chổi tới lễ hội phù thủy, ông vừa đi vừa làm phép, cả phép tốt lành lẫn phép xấu xa, ông ta khiến sữa bò trở thành màu xanh và khiến cho đuôi bò ngắn tủn như đuôi lợn. Trong số những di vật được bán có bàn tay này, bàn tay của một tên tội phạm nổi tiếng đã bị kết án tử hình năm 1736 vì hắn đã chặt đầu bà vợ hợp pháp của hắn rồi vứt cái đầu xuống giếng và mang cái xác treo lên gác chuông nhà thờ mà tại nhà thờ này đức giám mục đã làm lễ cưới cho hắn ta. Sau hai kỳ tích này, hắn đã bắt cóc mười hai nhà thám hiểm, xông khói khoảng hai chục thầy tu trong chăn của họ và làm một hậu cung trong một nhà thờ tôn giáo.

- Nhưng cậu làm gì với cánh tay khủng khiếp này. - Một người kêu lên.

- Ờ tất nhiên, tôi sẽ treo cái tay khô này vào dây kéo chuông để dọa các chủ nợ của tôi.

- Bạn thân mến của tôi, - Henri Smith - một người Anh cao lớn, điềm tĩnh nói - tôi tin rằng bàn tay này đơn giản là tay của một người da đỏ còn trẻ, tôi khuyên cậu đừng có lấy nó mà nấu canh.

- Các cậu đừng có đùa, - Một sinh viên trẻ ngành y nói một cách lạnh lùng - và cậu, Pierre, - nếu tôi có thể khuyên cậu, thì tôi khuyên cậu hãy chôn bàn tay này theo đúng thể thức của những người theo đạo Cơ Đốc đi. Nếu không tôi sợ rằng chủ nhân của cái tay này sẽ theo cậu mà đòi lại cái gì của nó đấy. Và rồi tôi sợ là cái tay này sẽ mang đến cho cậu những điều không may, vì cậu biết đấy đã có câu thành ngữ: "Ai đã giết người một lần sẽ giết người lần nữa".

- "Ai đã uống sẽ uống nữa". - Chủ tiệc tiếp lời.

Và cậu ta rót cho cậu sinh viên một cốc rượu đầy, một cậu khác làm một hơi cạn cốc và ngã bịch xuống gầm bàn, say như chết. Cú ngã khiến cho bàn tiệc bùng lên những tiếng cười ầm ĩ, Pierre giơ cao ly rượu chào bàn tay, anh ta gào lên: "Ta uống, vì chuyến viếng thăm sắp tới của chủ ngươi", rồi mọi người nói qua chủ đề khác và một lúc sau mọi người lục tục ai về nhà người đó.

Ngày hôm sau, nhân thể đi ngang qua nhà anh ta, tôi rẽ vào chơi với anh ta một lúc, lúc đó vào khoảng hai giờ chiều, tôi thấy anh ta đang vừa đọc chuyện vừa hút thuốc. Tôi hỏi :

- Chào cậu, cậu khỏe chứ?

- Rất khỏe.

- Thế bàn tay khô của cậu sao rồi?

- Bàn tay khô của tôi ấy hả, hẳn nhiên là cậu phải nhìn thấy nó rồi, vì hôm qua khi về đến nhà tôi đã gắn nó vào dây kéo chuông cửa nhà tôi. Nhân thể tôi kể cho cậu nghe, cũng hôm qua một tên đần độn nào đó, hẳn là muốn đùa nhả đến kéo chuông cửa nhà tôi ầm lên vào lúc nửa đêm; và khi tôi hỏi ai đó thì chẳng có ma nào trả lời cả. Tôi cũng chả buồn quan tâm và tôi quay lại giường đi ngủ.

Đúng lúc đó, có tiếng chuông cửa, đó là ông chủ nhà, một týp người cục mịch và thô thiển. Ông ta vào mà không buồn chào ai.

- Này ông, - Ông ta nói với bạn tôi - ông hãy bỏ ngay cái thứ hôi thối mà ông treo ở trên dây kéo chuông ở cửa phòng ông đi, nếu không tôi sẽ buộc phải hủy bỏ hợp đồng thuê nhà với ông.

- Nhưng thưa ông, - Cậu bạn Pierre trả lời với đầy vẻ nhã nhặn - ông đã xúc phạm một bàn tay mà nó không đáng bị thế, ông có biết rằng nó vốn thuộc về một người đàn ông mạnh mẽ và rất có giáo dục.

Ông chủ nhà không buồn trả lời, quay gót bỏ đi cũng đột ngột hệt như cái cách khi ông ta vào. Pierre đi theo ông ta, anh tháo cái tay ra và mang nó buộc vào cái chuông treo trong hốc cạnh giường ngủ.

- Thế này thì hơn, - Anh nói - và tôi nghĩ sự có mặt của nó ở đó sẽ như sự có mặt của một thầy tu dòng Cister - một dòng tu nổi tiếng vì sự hà khắc đối với lỗi lầm của kẻ khác, nó sẽ nhắc nhở tôi, gợi cho tôi phải có những ý nghĩ nghiêm chỉnh khi ngủ.

Khoảng một tiếng sau, tôi rời khỏi nhà anh ta và về nhà.

Đêm đó, tôi rất khó ngủ, tôi cảm thấy nóng ruột, cáu kỉnh; nhiều lần tôi giật mình thức giấc trong đêm, thậm chí có những lúc tôi tưởng như có ai đó ở trong nhà tôi khiến tôi phải bật dậy, ngó hết gầm bàn, gầm tủ, mọi xó xỉnh trong nhà. Cuối cùng vào khoảng sáu giờ sáng, khi tôi bắt đầu thiu thiu ngủ, một tiếng gõ cửa mạnh và vội vã khiến tôi bật dậy. Đó là người giúp việc của bạn tôi, quần áo xộc xệch, xanh xao và run rẩy.

- A! Ông đây rồi! - Anh ta kêu lên rồi bật khóc - Ông chủ khốn khổ của tôi đã bị người ta ám sát.

Tôi mặc vội quần áo và chạy đến nhà Pierre. Ngôi nhà đầy người, mọi người thi nhau bàn tán, bình luận, đoán già đoán non xem chuyện gì đã xảy ra...

Rất khó khăn tôi mới đến được cửa phòng ngủ, cửa vẫn đang được đóng chặt, tôi xưng tên, người ta để tôi vào. Bốn viên cảnh sát đang đứng ở giữa phòng, sổ trên tay, họ kiểm tra, thỉnh thoảng khẽ khàng trao đổi và ghi chép; hai bác sĩ đang đứng gần giường của Pierre, trên giường. Pierre nằm sõng soài, bất tỉnh. Anh ta chưa chết, nhưng sắc mặt đầy vẻ kinh hoàng, đôi mắt anh ta mở to hết cỡ, đồng tử giãn rộng có vẻ như chăm chăm nhìn vào một điều gì đó rất khủng khiếp, khó tin, kỳ lạ, những ngón tay của anh ta co quắp lại, cơ thể anh ta, kể từ cằm trở xuống được phủ kín trong một tấm ga trải giường. Tôi nhấc tấm ga trải giường ra, và tôi thấy trên cổ anh ta hằn rõ năm vết ngón tay, một vài giọt máu giây trên áo sơ-mi của anh ta. Có điều gì đó khiến tôi bỗng nhìn lên cái chuông ở hốc đầu giường của anh ta, cái tay khô không còn ở đó nữa. Hẳn các bác sĩ đã mang nó đi để không gây khiếp sợ cho những ai vào phòng của người bị thương bởi cái tay này thật sự trông rất sợ.

Hôm sau, trên báo có đăng một bài tường thuật vụ án với tất cả các chi tiết được cung cấp từ cảnh sát. Và đây là những gì người ta đã đăng:

"Một vụ ám sát khủng khiếp đã diễn ra ngày hôm qua, nạn nhân là một thanh niên trẻ tên Pierre. B, sinh viên trường Luật, con trai của một trong những gia đình danh giá nhất Normanơie. Pierre trở về nhà lúc mười giờ đêm, anh than phiền với ông Bouvin, người hầu của anh, rằng anh mệt, sau đó lên giương nghỉ ngay. Vào lúc nửa đêm, ông Bouvin bị đánh thức một cách đột ngột bởi tiếng chuông phát ra từ phòng ông chủ, tiếng chuông rung lên như thể người lắc chuông lắc nó với một sự thịnh nộ khủng khiểp. Ông Bouvin cảm thấy sợ, ông đốt đèn lên và chờ đợi; tiếng chuông ngừng khoảng một phút rồi lại tiếp tục rung lên còn mạnh hơn trước khiến ông Bouvin cuống cuồng vì sợ hãi, chạy ra khỏi phòng xuống đánh thức người gác cửa, và ông này đã vội gọi ngay cho cảnh sát, mười lăm phút sau, hai nhân viên cảnh sát đã phá cửa để vào được phòng. Một cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt mọi người, đồ đạc bị hất đổ lung tung chứng tỏ đã có một cuộc vật lộn ghê gớm giữa nạn nhân và kẻ sát nhân.

Giữa phòng, Pierre nằm ngửa, chân tay cứng đờ, mặt tái mét, mắt mở to hết cỡ đầy vẻ kinh hoàng; trên cổ hằn sâu năm vết ngón tay. Theo báo cáo của bác sĩ Bourdeau, người ngay lập tức đã được mời đến khám nghiệm tử thi, thì kẻ sát nhân phải có một sức khỏe siêu phàm và có một bàn tay gầy gò, khỏe một cách kỳ lạ, bởi vết những ngón tay để lại hằn sâu như lỗ bi trên da thịt nạn nhân. Không ai biết động cơ của kẻ giết người là gì, và cũng chưa có một manh mối gì về kẻ giết người. Cảnh sát đang tiếp tục điều tra".

Hôm sau nữa, cũng trên tờ báo đó:

"Pierre, nạn nhân của vụ án khủng khiếp mà chúng tôi đã đưa tin ngày hôm qua, đã tỉnh lại sau hai giờ điều trị tận tâm của bác sĩ Bourdeau, nạn nhân đã qua cơn nguy kịch nhưng trí não của anh ta bị chấn động mạnh và có khả năng không hồi phục lại được, cảnh sát vẫn chưa có một chút manh mối nào về kẻ phạm tội".

Thật vậy, cậu bạn tội nghiệp của tôi đã phát điên; trong suốt sáu tháng, ngày nào tôi cũng vào bệnh viện thăm anh ta, nhưng bệnh điên của anh không có vẻ gì thuyên giảm. Như mọi người điên khác, anh ta tin chắc rằng có một bóng ma đang bám riết lấy anh ta, trong cơn mê sảng, anh thường nói những điều rất lạ lùng.

Một hôm có người chạy đến tìm tôi và báo cho tôi rằng bệnh tình của anh ta đang rất nguy kịch, khi tôi đến thì anh ta đang hấp hối.

Trong suốt hai tiếng đồng hồ, anh nằm thiêm thiếp, rồi đột nhiên, anh ta ngồi bật dậy, vừa kêu vừa khua hai tay lên như thể chống chọi với một kẻ nào đó rất đáng sợ: "Giữ nó đi! Giữ nó đi! Hắn bóp cổ tôi, cứu tôi với! Cứu tôi với!" Anh ta chạy hai vòng quanh phòng, vừa chạy vừa gào thét, rồi ngã gục xuống, mặt úp xuống đất, chết ngay lập tức.

Anh ta không có người thân ở đây và bởi tôi cùng quê với anh ta nên tôi phải lãnh trách nhiệm đưa thi hài anh về ngôi làng nhỏ ở vùng Normanơie, nơi bố mẹ anh cũng được chôn tại đó. Đó cũng chính là nơi mà từ đó anh ta đã đến thắng nhà Louis để uống rượu cùng chúng tôi, và khoe về bàn tay khô.

Thi hài của anh ta được đặt trong một chiếc quan tài bằng chì, chuyến đi kéo dài suốt bốn ngày, đi theo hộ tống quan tài chỉ có tôi và một vị linh mục già, người sẽ đọc kinh cầu siêu cho anh ta khi hạ huyệt.

Hôm đó là một ngày đẹp trời, bầu trời xanh thẳm với những đám mây trắng lũng lờ trôi, chim hót véo von trong những cây ngấy ở triền dốc. Nơi đó, thuở thơ bé, biết bao lần tôi và Pierre đã đến hái quả ngấy chín về ăn.

Tôi còn như thấy rõ bóng anh ta lẻn qua hàng rào bằng một lỗ nhỏ ở hàng rào mà chúng tôi biết rất rõ, sát cạnh rẻo đất mà người ta chôn những người đã chết. Rồi chúng tôi về nhà, môi và má đen xì vì dính nhựa quả ngấy; tôi nhìn lên hàng cây ngấy, chúng trĩu qua; một cách máy móc, tôi với lấy một quả và cho vào miệng.

Ông linh mục mở quyển Kinh và bắt đầu lầm rầm cầu nguyện cho Pierre. Tôi nghe thấy những nhát cuốc đầu tiên của những người phu đào mộ. Đột nhiên, họ gọi chúng tôi, vị linh mục đóng quyển sách của ông lại, và chúng tôi đi ra xem họ cần gì. Hóa ra họ đã đào phải một quan tài. Bằng một nhát cuốc, họ phá tung nắp ván thiên và lộ ra trước mắt chúng tôi một bộ xương rất dài, nằm ngửa, hốc mắt sâu hoắm của bộ xương như đang nhìn chằm chằm vào chúng tôi đầy thách thức. Tôi bỗng cảm thấy ngạt thở, không hiểu tại sao nhưng tôi bỗng cảm thấy sợ.

- Xem này, - Một người kêu lên - tên khốn này còn bị chặt tay cơ, và đây là tay của hắn.

Và anh ta nhặt lên một bàn tay khô đét được đặt cạnh bộ xương lên cho chúng tôi xem.

- Này, - Một người khác vừa nói vừa cười - nó đang nhìn mày đấy và nó sắp nhảy lên bóp cổ mày để đòi lại cái tay của nó bây giờ.

- Thôi nào các bạn, - Ông linh mục nói - hãy để cho người chết được yên, bây giờ hãy đóng quan tài lại cho người này và chúng ta sẽ tìm chỗ khác cho Pierre khốn khổ.

Hôm sau việc chôn cất đã xong xuôi, tôi lên đường trở về Paris sau khi để lại năm mươi frăng nhờ ông linh mục già đọc kinh cầu siêu cho người đàn ông mà chúng tôi đã vô tình phạm vào mộ phần của anh ta.

Sự xuất hiện

Trước đây chúng tôi thường có những buổi họp mặt thân mật, lúc ở nơi này, lúc ở nơi khác. Và trong các buổi họp mặt đó chúng tôi thường kể cho nhau nghe những câu chuyện ly kỳ nhưng phải có thật. Trong một buổi họp mặt thân mật tại khách sạn P ở phố Grenelle, nhân bàn tán về một vụ kiện đang khiến báo chí thời đó mất rất nhiều giấy mực, vụ án liên quan đến cô M, bị chính em trai mình nhốt giữ trong một bệnh viện tư nhằm chiếm đoạt tài sản của cô, ông hầu tước già vùng Samuel, khoảng tám hai tuổi, đứng dựa vào lò sưởi, nói bằng một giọng run run:

"Tôi có một chuyện rất lạ, cực kỳ lạ, nó đã ám ảnh suốt cuộc đời tôi, cho tới nay đã là năm mươi năm, không ngày nào tháng nào tôi có thể quên được nó. Kể từ hôm biến cố đó xảy đến với tôi, quanh tôi luôn có những dấu hiệu, những dấu vết khiến tôi sợ hãi, các ngài có hiểu điều tôi nói không? Vâng, tôi đã phải chịu đựng nỗi lo sợ khủng khiếp đó trong suốt mười phút, chỉ mười phút mà nỗi sợ đó đã trở thành nỗi ám ảnh suốt cuộc đời tôi, nó luôn thường trực trong tim trong óc tôi. Những tiếng động bất ngờ cũng khiến tôi giật thót mình, những đồ vật lờ mờ trong đêm khiến tôi luôn hoảng hốt muốn phát điên lên. Cuối cùng tôi trở nên sợ tối, sợ đêm.

Ồ! Tôi đã chẳng dám thú nhận điều đó nếu tôi còn chưa tới được độ tuổi như bây giờ. Giờ đây, điều gì tôi cũng có thể nói ra được. Khi người ta đã tám mươi hai tuổi, người ta không còn ngượng khi thấy mình không đủ can đảm trước những nguy hiểm ảo tưởng. Trước những hiểm nguy có thật, thưa các bà, các cô, tôi không bao giờ lùi bước.

Câu chuyện này đã khiến đầu óc tôi xáo trộn biết bao, nó khiến tôi vô cùng bối rối, lo sợ, bế tắc đến nỗi tôi chưa bao giờ dám kể nó cho bất cứ ai nghe. Tôi đã giữ kín nó trong lòng như thể giữ kín một bí mật đau buồn, đáng xấu hổ, không thể tỏ bày cho tới khi xuống mộ.

Tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe về biến cố đó, không thêm, không bớt, không cố gắng giải thích gì thêm. Đương nhiên biến cố đó có thể giải thích được, ít nhất thì tôi cũng đã có những giờ khắc điên rồ. Nhưng không, tôi chưa bao giờ điên, tôi có thể chứng minh điều đó. Hãy tưởng tượng những gì bạn muốn, và đây là tất cả sự kiện, rất giản đơn.

Đó là vào tháng Bảy năm 1827, lúc đó tôi đang trong quân ngũ, và đóng quân ở Rouen.

Một hôm, khi tôi đang dạo chơi trên bến cảng, tôi gặp một người đàn ông, tôi cảm tưởng là tôi quen anh ta cho dù tôi chưa nhớ được ra quen ở đâu và anh ta là ai. Theo bản năng tôi dừng lại, người đàn ông lạ nhận thấy cử chỉ đó của tôi, anh ta nhìn tôi rồi nhào vào vòng tay tôi.

Hóa ra đó là một người bạn thuở thiếu thời mà xưa kia từng rất thân thiết đối với tôi. Chúng tôi đã không gặp nhau từ năm năm nay. Anh ta có vẻ già đi đến năm mươi tuổi. Tóc anh ta bạc trắng, và anh ta đi với cái lưng còng xuống như thể vô cùng mệt mỏi. Anh ta hiểu ngay cái nhìn ngạc nhiên của tôi và anh ta kể cho tôi nghe chuyện đời anh, kể về nỗi bất hạnh khủng khiếp đã giáng xuống cuộc đời anh ta.

Anh ta yêu cuồng ai một thiếu nữ, ngất ngây trong hạnh phúc khi lấy được nàng, sau một năm cuồng say trong hạnh phúc siêu thực, nàng chết vì trụy tim; hẳn nhiên là tình yêu cuồng si của anh ta đã giết chết nàng.

Ngay sau hôm mai táng, anh rời bỏ tòa lâu đài hạnh phúc của họ, đến sống ở khách sạn Rouen. Anh sống ở đó một mình, đơn độc, tuyệt vọng, gặm nhấm nỗi đau, không còn thiết gì hết và chỉ nghĩ cách tự tử.

- Nhân thể gặp được cậu, anh ta nói với tôi, tôi có thể nhờ cậu giúp tôi một chút được không? Tôi muốn nhờ cậu vào phòng ngủ của tôi, vào phòng ngủ của chúng tôi, lấy hộ tôi những giấy tờ quan trọng mà tôi đang rất cần ở trong tủ bàn giấy. Tôi không thể nhờ thuộc hạ của tôi làm điều đó bởi đó là một bí mật mà tôi không muốn họ biết, không muốn họ tiết lộ. Còn tôi, không có một thứ gì trên thế giới này khiến tôi quay trở về căn nhà đó nữa. Tôi sẽ đưa chìa khóa phòng cũng như chìa khóa tủ cho cậu. Hãy nói với ông gác cửa là tôi nhờ anh đến, ông ấy sẽ mở cửa cho cậu. Nhưng trước hết trưa mai hãy đến dùng cơm với tôi, chúng ta sẽ hàn huyên lâu hơn.

Tôi hứa sẽ giúp anh ta việc nhỏ mọn đó, vả lại với tôi đó cũng sẽ chỉ như một chuyến đi dạo vì lâu dài của anh ta cách Rouen khoảng năm dặm. Tôi sẽ chỉ mất khoảng một giờ cưỡi ngựa để đến đó.

Mười giờ sáng hôm sau, tôi đã ở nhà anh ta. Chúng tôi cùng ăn trưa; nhưng anh ta không nói quá ba câu với tôi. Anh xin lỗi tôi vì sự kiệm lời của anh vì anh đang nghĩ đến căn phòng hạnh phúc xưa, nơi tôi sắp đến, và điều đó khiến anh rối bời - anh giải thích như thế với tôi. Quả thật anh ta tỏ ra bồn chồn, lo lắng, như thể có một gì đó đang vò xé trí não, tâm hồn anh.

Cuối cùng anh ta chỉ dẫn chính xác những gì tôi sẽ phải làm.

- Rất đơn giản, tôi cần hai tập thư và một bó giấy để ở trong ngăn kéo trên cùng, bên phải trong tủ mà tôi đã đưa chìa khóa cho cậu. - Anh ta thêm vào - Hẳn tôi không cần nhắc cậu đừng lục lọi gì cả.

Câu nói đó khiến tôi mếch lòng, tôi tỏ vẻ khó chịu. Anh ấp úng:

- Xin lỗi cậu, tôi đau khổ quá. - Và anh ta òa lên khóc. Một giờ sau tôi lên đường hoàn thành sứ mạng được giao.

Đó là một ngày đẹp trời, ngựa phi nước kiệu, tôi băng qua đồng cỏ, vừa đi vừa nghe chim hót líu lo, tiếng thanh kiếm gõ nhịp vào đôi ủng đi ngựa. Khi vào đến rừng, tôi thả lỏng cương, bằng những bước thung dung, tôi vừa đi vừa ngắm cảnh. Những cành cây ve vuốt khuôn mặt tôi, thỉnh thoảng có chiếc lá chạm vào răng tôi, tôi liền ngoạm lấy nó và nhai trong miệng một cách thích thú. Tôi cảm thấy vui thú, niềm vui sống tràn ngập trong tôi, cảnh đẹp ở đây khiến tôi ngây ngất như say.

Đến gần lâu đài, tôi lục tìm phong thư giới thiệu để đưa cho người làm vườn, và tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy nó đã được gắn xi. Tôi ngạc nhiên và bất bình đến nỗi tôi suýt quay về và không hoàn thành sứ mạng bạn tôi đã nhờ. Nhưng rồi tôi nghĩ có lẽ không hẳn như tôi tưởng. Anh bạn tôi hẳn đã làm chuyện đó theo thói quen mà không có ý gì.

Trang viên có vẻ như bị hoang phế từ hai mươi năm nay. Cổng hàng rào mở toang và mục nát, không hiểu sao nó vẫn còn đứng được mà chưa sụp xuống, cỏ phủ kín lối đi; người ta chẳng còn phân biệt được đâu là bồn hoa đâu là thảm cỏ nữa.

Nhìn thấy một cửa bên cũ kỹ, hoang phế, tôi lấy chân đạp vào cửa và tiếng kẹt cửa khiến một người đàn ông ló đầu ra từ một cửa bên cạnh, ông ta sững sờ nhìn tôi. Tôi nhảy xuống và đi ra chỗ ông ta, đưa cho ông ta lá thư giới thiệu. Ông ta đọc thư, đọc lại một lần nữa, gấp nó lại, nhìn tôi kỹ càng từ đầu đến chân, để thư vào túi và bảo:

- Ờ! Ông cần gì nhỉ?

Tôi trả lời một cách cáu kỉnh:

- Ông phải biết chứ, vì ông đã nhận được lệnh của chủ ông trong thư rồi mà; tôi muốn vào lâu đài.

Ông ta có vẻ rụng rời, ông hỏi lại:

- Vậy... vậy là ông vào... vào phòng ngủ của ông ấy?

Tôi bắt đầu sốt ruột:

- Mẹ kiếp! Ông định cứ đứng mãi đây mà tra xét tôi sao?

Ông ta ấp úng:

- Ồ không... thưa ông... là vì.... là vì căn phòng đó không được mở ra kể từ khi... kể từ khi cô ấy... cô ấy chết. Nếu có thể, ông đợi tôi vài phút, tôi sẽ đến... đến xem xem liệu....

Tôi ngắt lời ông ta một cách giận dữ:

- A, thế sao, ông trêu tôi đấy à? Ông không thể vào đó được vì ông làm gì có chìa khóa, nhìn đây này, chìa đây này.

Ông ta đành nói:

- Vậy thì, thưa ông, để tôi chỉ đường cho ông.

- Chỉ cho tôi cầu thang lên, và sau đó để tôi được yên, tôi sẽ tự tìm ra nó.

- Nhưng... thưa ông... tuy nhiên...

Lần này thì tôi không kiềm chế được nữa:

- Ông im đi cho tôi, được không? Hay ông thay tôi làm việc tôi phải làm.

Tôi gạt ông ta ra một cách thô bạo và tôi đi vào trong nhà, tôi đi qua bếp, qua hai phòng ở của người gác vườn và vợ ông ta. Tôi băng qua tiền sảnh, lên gác và tìm ngay thấy cái cửa mà bạn tôi đã tả. Tôi mở nó không khó khăn gì và bước vào trong phòng.

Căn phòng tối đến nỗi khi mới vào tôi chẳng nhìn thấy gì hết. Tôi ngừng lại, ngửi thấy mùi ẩm mốc của một căn phòng không có người ở, bị đóng kín cửa từ lâu, một căn phòng chết. Dần dần, mắt tôi quen dần với bóng tối, tôi nhận thấy đây là một phòng ngủ lớn, lộn xộn với một cái giường không có khăn trải giường, nhưng lại đầy gối ngủ, gối ôm. Một cái trong số chúng vẫn còn trũng xuống như thể ai đó vừa gối đầu lên.

Đồ đạc để lung tung, tôi để ý đến một cái cửa, hẳn đó là cửa tủ quần áo, nó vẫn đang hé mở.

Trước tiên, tôi đến bên cửa sổ với ý dịnh mở nó ra để không khí, ánh nắng bên ngoài có thể ùa vào; nhưng cái móc sắt gỉ hoen đến nỗi tôi không thể nhấc nó ra để đẩy cửa sổ được. Tôi cố thử bậy nó, bẻ nó bằng thanh kiếm của tôi nhưng cũng chẳng làm được gì. Bực bội vì không mở được cánh cửa chết tiệt nhưng vì mắt tôi giờ đã hoàn toàn quen với bóng tối nên tôi bỏ ý định mở cửa sổ. Tôi đi tới tủ bàn giấy.

Tôi ngồi vào một cái ghế bành, tựa vào một chiếc bàn nhỏ, mở cái ngăn kéo bạn tôi đã chỉ dẫn. Nó đầy chật, tôi chỉ phải tìm ba bó giấy mà bạn tôi đã tả rất kỹ cho tôi. Tôi bắt tay vào việc tìm kiếm.

Tôi đang chăm chú nhìn các địa chỉ ghi trên phong bì thư thì cảm thấy có một cái gì đó sượt qua sau tôi. Tôi không để ý lắm vì nghĩ rằng có thể đó là một luồng gió làm lay động các màn treo. Nhưng một phút sau, lại có một cái gì đó rất khó nhận thấy lướt nhẹ qua da khiến tôi rùng mình. "Thật vớ vẩn và ngu ngốc", tôi tự nhạo báng tính nhát gan của mình. Tôi đã tìm ra được bó giấy thứ hai cần tìm, và đúng lúc tôi tìm được bó thứ ba thì tôi nghe thấy có tiếng thở dài đầy buồn nản cất lên sát vai tôi. Giật thót mình, tôi vừa nhảy vọt ra khỏi ghế đang ngồi vừa nắm lấy chuôi kiếm. Tôi thầm cám ơn thánh thần vì đã mang theo nó bởi nếu không có nó hẳn tôi đã bỏ chạy như một thằng hèn.

Một phụ nữ mặc toàn đồ trắng đang đứng ngay sau cái ghế bành mà tôi vừa ngồi một giây trước đang nhìn tôi. Một cơn rùng mình lan khắp người tôi, choáng váng, tôi suýt ngã ngửa! Ôi! Không ai có thể cảm nhận được điều đó trừ những người đã từng trải qua cảm giác đó, cảm giác của một nỗi sợ khủng khiếp. Trí óc tê liệt, tim ngừng đập, chân tay mềm nhũn như bún: máu như ngừng chảy. Tôi không tin có ma quỷ; thế nhưng lúc đó tôi đã sợ gần chết, và tôi cảm tưởng chỉ vài giây đó thôi mà dài hơn cả phần đời còn lại của mình, vài giây tôi phài chịu một nỗi sợ lên tới cực điểm.

Lúc đó nếu cô ta không nói gì với tôi thì hẳn tôi đã chết vì sợ. Nhưng cô ta đã nói, bằng một giọng nhẹ nhàng đầy đau khổ, làm xúc động người nghe. Tôi không dám nói rằng tôi đã làm chủ lại được bản thân, và rằng tôi đã bình tĩnh trở lại. Không, tôi đã cuống lên, không còn biết phải làm gì. Nhưng lòng kiêu ngạo chảy trong huyết quản và cá tính không biết sợ bất cứ cái gì thuộc về nghề nghiệp đã giữ tôi lại, và tôi tự cảm thấy dù sao tôi cũng đã có một thái độ đáng tôn trọng. Tôi đã tôn trọng chính bản thân tôi, tôn trọng cô ta, đương nhiên là tôn trọng cả cô ta rồi. Cho dù cô ta có là gì đi chăng nữa, là một phụ nữ hay là một bóng ma. Tôi kể lại tất cả những điều đó cho các bạn là vì tôi đảm bảo với các bạn rằng vào cái lúc cô ta xuất hiện, tôi đã chẳng nghĩ đến bất cứ điều gì, đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng, chỉ có duy nhất một cảm giác - Sợ.

Cô ta nói:

- Thưa ông, tôi có thể nhờ ông một việc được chứ?!

Tôi muốn trả lời, nhưng tôi không sao thốt lên được lời nào. Lời nói như khào khào trong họng mà không bật ra được.

Cô nhắc lại:

- Ông đồng ý chứ? Ông có thể cứu tôi, chữa trị cho tôi. Tôi đau đớn kinh khủng, tôi đau, ôi tôi đau quá!

Và cô ngồi một cách nhẹ nhàng xuống cái ghế bành mà tôi đã ngồi. Cô nhìn tôi: "Ông đồng ý chứ?"

Tôi "Vâng" bằng một cái gật đầu vì cổ họng tôi vẫn như nghẹn lại.

Cô ta chìa cho tôi một cái lược bằng đồi mồi và thì thào:

- Chải tóc cho tôi, ôi, hãy chải tóc cho tôi; điều đó sẽ chữa lành bệnh cho tôi; người ta cần phải chải tóc cho tôi. Nhìn đầu tôi này, tôi đã phải chịu đau biết mấy; tóc tôi khiến tôi đau quá!

Mái tóc của cô mượt, rất dài, rất đen phủ tràn lưng ghế, chạm đất.

Tại sao tôi lại làm điều đó? Tại sao tôi vừa nhận lược vừa rùng mình? Sao tôi lại chạm tay vào mái tóc của cô để khiến sự đụng chạm làm tôi có cảm giác buốt lạnh như thể tôi vừa chạm vào một con rắn? Tôi không hiểu.

Cảm giác đó vẫn còn lưu lại trên ngón tay tôi, khiến tôi run lên vì sợ. Tôi chải tóc cho cô, chạm vào cô, tôi không hiểu tại sao tóc cô lại lạnh đến thế. Tôi vặn, tôi xoắn rồi tôi lại gỡ tóc cô; tôi bện tóc cô lại như người ta bện bờm một con ngựa. Cô thở dài, nghiêng đầu, đầy vẻ hạnh phúc.

Đột nhiên, cô bảo: "Cảm ơn!" rồi giật lấy chiếc lược trong tay tôi và bỏ chạy qua một cánh cửa đang hé mở.

Còn lại một mình, trong vài giây tôi bàng hoàng như thể vừa tỉnh dậy sau một cơn ác mộng. Rồi hoàn hồn trở lại, tôi chạy tới cửa sổ và phá tung cái cửa bằng một cú đẩy dữ dội mãnh liệt. Một con bướm đêm bay vào, tôi lao đến cái cửa mà cô ta vừa đi qua cái cửa đó. Cái cửa đóng kín.

Một nỗi sợ xâm chiếm tôi, tôi không còn nghĩ đến điều gì khác ngoài bỏ chạy. Vơ vội ba bó thư để trên mặt tủ, để mặc cánh tủ mở tung, tôi bỏ chạy ra ngoài, nhảy bốn bậc cầu thang một, không hiểu bằng đường nào mà tôi đã ở ngoài ngôi nhà, tôi nhìn thấy ngựa của tôi cách tôi khoảng mười bước chân, nhảy phóc lên nó, tôi ra roi phi nước đại về Rouen.

Tôi chỉ ngưng ngựa cho tới tận khi về tới Rouen, tới trước nhà trọ của tôi. Vứt đây cương ngựa cho người hầu, tôi bỏ vào phòng mình và ở lì trong đó để suy nghĩ.

Trong suốt một giờ, tôi lo lắng tự hỏi phải chăng tôi đã bị ảo giác, phải chăng trí óc của tôi đã quá căng thẳng, phải chăng một dây thần kinh ảo giác nào đó đã làm tê liệt trí óc, đánh lừa trí óc khiến trí óc đã sản sinh ra chuyện kỳ bí, những chuyện siêu thực.

Và tôi đã tin rằng hẳn nhiên đó chỉ là ảo giác, và những gì tôi cảm thấy, nhìn thấy lúc trước hẳn chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng. Tôi ra cửa sổ, ngắm trời mây cho thanh thản. Ngẫu nhiên, tôi nhìn xuống ngực. Quân phục của tôi đầy tóc dài phụ nữ quấn cả vào khuy áo!

Tôi gỡ từng sợi và vứt ra ngoài bằng những ngón tay run rẩy. Tôi gọi người hầu. Tôi cảm thấy quá xúc động, quá bối rối để có thể đến nhà bạn tôi. Tôi muốn suy nghĩ thật kỹ những gì tôi sẽ phải nói với anh ta.

Tôi gửi trả cho anh ta thư của anh ta qua đường bưu điện. Anh ta tới doanh trại của tôi và hỏi thăm tôi. Người ta trả lời anh rằng tôi đang bị mệt, rằng tôi bị say nắng và những gì nữa tôi không biết. Anh ta có vẻ lo lắng.

Ngày hôm sau, tôi tới nhà anh ta từ rất sớm. quyết tâm nói sự thật cho anh ta biết. Thế nhưng anh ta ra ngoài từ hôm trước và tới nay vẫn chưa về nhà. Chiều hôm đó tôi quay lại nhà anh ta một lần nữa nhưng anh ta vẫn chưa về nhà. Tôi đợi anh ta một tuần, anh ta không hề xuất hiện. Tôi quyết định báo cảnh sát. Người ta tìm kiếm anh ta khắp nơi, không hề phát hiện thấy bóng dáng anh ta ở đâu.

Người ta kiểm tra một cách tỉ mỉ lâu đài bị bỏ hoang của anh ta. Không có bất cứ đấu hiệu khả nghi nào. Không một dấu hiệu nào chứng tỏ rằng có một phụ nữ bị giam giữ, che giấu ở đó. Cuộc điều tra đi vào bế tắc, các câu hỏi không có câu trả lời. Thế đấy, từ năm mươi sáu năm nay, tôi vẫn sống trong hoài nghi, không biết thêm được điều gì, tôi chẳng biết thêm được gì hết.

Đêm ác mộng

Tôi say mê đêm. Tôi yêu thích đêm như thể người ta yêu thích quê hương, xứ sở, hay yêu nhân tình, một tình yêu mang tính bản năng, một tình yêu sâu sắc, không cưỡng lại được. Tôi yêu nó với cả tâm hồn. Tôi yêu bóng tối, yêu sự tĩnh lặng của đêm. Tôi cảm nhận được bóng đêm mơn man trên da thịt mình. Những con chiền chiện hót vang mỗi sáng sớm, trong không khí xanh, trong không khí nóng, không gió nhẹ sớm mai. Chim cú lẩn trong đêm, một đêm đen lướt qua trong không gian tối đen như mực, nó bay qua một màn tối đen dầy đặc và phát ra một tiếng kêu âm rung buồn thảm.

Ngày làm tôi mệt và buồn chán, nó tàn nhẫn và ầm ĩ. Tôi thức dậy mỗi sáng đầy mệt mỏi, tôi mặc quần áo một cách chán nản, tôi đi ra ngoài một cách miễn cưỡng. Mỗi bước chân, mỗi cử động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi suy nghĩ đều làm tôi mệt mỏi như thể tôi phải nhấc một gánh nặng nghìn cân vậy.

Nhưng mỗi khi mặt trời lặn xuống, một niềm vui khó tả tràn ngập trong tôi. Tôi tỉnh táo, hoạt bát hẳn lên.

Trời càng tối, tôi càng cảm thấy khác hẳn, tôi trẻ ra, khỏe ra, năng động lên, hạnh phúc hơn. Tôi nhìn bóng tối dày lên, nhìn bóng đêm bao phủ bầu trời, nhìn bóng đêm dần phủ đen thành phố, nó xóa mờ mọi màu sắc, mọi hình dạng, nó bao phủ mọi ngôi nhà, mọi sinh vật, mọi vật bằng vòng tay vô hình của nó.

Lúc đó tôi rất muốn được hét lên sung sướng như những con cú, tôi muốn chạy trên các mái nhà như những con mèo, và một mong muốn mãnh liệt, không thể cưỡng lại được, mong muốn được yêu thiêu đốt con tim tôi.

Tôi đi, tôi dạo bộ, khi thì trong những vùng ngoại ô tối tăm, khi thì trong những khu rừng ở gần Paris ở nơi đó tôi trông thấy, nghe thấy các chị tôi, những loài thú săn mồi, và các anh tôi, những kẻ đi săn trộm đang rình mò. Cái mà họ thích đó luôn là một kết cục ác độc, đó là giết chóc. Nhưng làm sao giải thích được điều đang xảy đến với tôi? Thậm chí làm thế nào để tôi có thể kể được nó ra? Tôi không biết, tôi không biết nữa, tôi chỉ biết đó là như thế.

Thế đấy.

Vậy hôm qua, phải hôm qua không? Phải, đúng hôm qua, ít nhất thì cũng không phải là hôm kia hay một hôm nào khác, hay một tháng nào khác, một năm nào khác. Tôi không biết. Tuy nhiên đó phải là hôm qua, bởi vì hôm qua ngày không tới, bởi mặt trời không hề xuất hiện. Nhưng đêm bắt đầu từ khi nào? Từ khi nào? Ai biết điều đó? Ai sẽ biết điều đó?

Hôm qua, sau khi dùng bữa tối, tôi đi chơi như mọi tối. Trời rất đẹp, rất nóng. Vừa đi xuống đại lộ, tôi vừa nhìn lên trên cao. Trời đầy sao lấp lánh, gió nhẹ hiu hiu, mọi vật đều sáng sủa dưới ánh trăng vằng vặc. Có biết bao đêm sáng lấp lánh trên trời cũng như trong thành phố, đến nỗi tất cả các ngõ tối cũng có vẻ sáng trưng. Những đêm sáng trăng sáng đèn trông lộng lẫy vui tươi hơn nhiều so với một ngày nắng chan hòa.

Trên đại lộ, những quán cà phê đèn đuốc sáng trưng; người người cười nói, đi lại, ăn uống. Mỗi lúc tôi lại vào một rạp hát, rạp hát nào? Tôi cũng không biết nữa. Trong rạp sáng đến nỗi khiến tôi cảm thấy buồn. Ánh sáng chói độc địa, hắt ra từ ban công nhũ vàng, từ những chiếc đèn bằng thủy tinh, từ những dây đèn treo suốt hàng rào rạp hát, từ biển quảng cáo phim... tất cả những ánh sáng đó khiến con tim tôi buồn nản. Tôi đi ra đại lộ Champs Élysées; nơi đó có những quán cà phê âm nhạc trông giống như những ngọn lửa trong tán lá. Những cây dẻ được phết lên một ánh sáng vàng có vẻ như đang phát sáng. Và những quả cầu điện tử trông giống như những vầng trăng đang chiếu ra một thứ ánh sáng xanh xao, nhìn từ xa những chiếc đèn treo, những dây đèn kết trông như chuỗi cườm quỷ quái, những tia kỳ quặc, những khí xấu xa bẩn thỉu, những vòng hoa bằng thủy tinh màu.

Tôi dừng lại dưới Khải Hoàn Môn để ngắm đại lộ, ngắm nhìn toàn bộ chiều dài của nó và dáng hình ngôi sao đẹp tuyệt vời của nó, đi đến Paris bằng hai đường lửa, và những tinh tú! Những tinh tú trên cao, những vì tinh tú xa lạ được ném một cách ngẫu nhiên lên cao xanh, và vẽ lên những hình thù kỳ dị khiến người ta phải mơ mộng, phải suy ngẫm.

Tôi vào trong rừng Boulogne và tôi ở lại trong đó rất lâu, rất lâu. Bỗng đâu tôi rùng mình, một cái rùng mình kỳ lạ, một cảm xúc mạnh và bất ngờ, một sự kích động khiến tôi như phát điên.

Tôi dạo bộ rất lâu, rất lâu. Rồi tôi quay lại. Lúc tôi lại đi qua Khải Hoàn Môn là mấy giờ nhỉ? Tôi không biết. Cả thành phố đang ngủ. Những đám mây, những đám mây đen lớn đang lững lờ trôi trên bầu trời.

Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy sắp xảy ra một điều gì đó rất lạ. Trời có vẻ lạnh, sương dày dần lên, màn đêm, màn đêm mà tôi yêu biết bao nhiêu giờ lại khiến tim tôi thấy nặng nề. Đại lộ giờ vắng tanh, chỉ còn hai cảnh sát đang dạo qua dạo lại trên đường xe ngựa đi, và trên con đường lúc nãy còn rực rỡ đèn hoa giờ im lìm tối. Một đoàn xe ngựa chở rau củ đang đi về các chợ. Chúng đi rất từ từ, chất đầy cà rốt, củ cải, cải bắp. Người lái cứ ngủ, ngựa cứ bước đều đều, con sau sau con trước, không một tiếng động trên mặt đường lát gỗ. Mỗi khi đi qua một cái đèn trên vỉa hè, những củ cà rốt sáng lên ánh sáng đỏ, củ cải sáng lên ánh sáng trắng, cải bắp sáng lên ánh sáng xanh; và những chiếc xe ngựa lần lượt đi qua, những chiếc màu đỏ - những ngọn lửa đỏ, những chiếc màu trắng - ngọn lửa trắng bạc, những chiếc màu xanh - ngọn lửa xanh ngọc.

Tôi đi theo chúng, rồi tôi rẽ vào phố Royale và trở về đại lộ. Không còn ai. không còn những quán cà phê sáng rực đèn hoa, chỉ còn vài người đang vội vã đi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một Paris im lìm đến thế, hoang vắng đến thế. Tôi rút đồng hồ ra xem. Hai giờ sáng.

Có một sức mạnh thúc đẩy tôi, một nhu cầu cần dạo bộ. Thế nên tôi đi tới tận ngục Bastille. Ở đó, tôi nhận thấy rằng tôi chưa từng bao giờ có một đêm tối đến thế bởi tôi không nhận thấy được, ngay cả cái cột Juillet, và thiên thần bằng vàng ở trên cột đã bị bóng tối dày đặc che khuất. Một quầng mây lớn, dầy che phủ bầu trời, phủ khuất hết các vì sao, và có vẻ như nó đang dầy dần lên, buông dần xuống mặt đất, phủ kín, tiêu diệt trái đất.

Tôi quay về. Quanh tôi chẳng còn ai. Tuy nhiên trên quảng trường Château - d’Eau, một kẻ say rượu suýt nữa đâm vào tôi, rồi anh ta đi khuất. Tôi đứng nghe tiếng bước chân bập bõm của anh ta đi xa dần, tôi lại đi. Trên cao kia, từ trên đồi Montmartre có một chiếc xe ngựa chở khách đang chạy về hướng sông Seine. Tôi gọi nó lại. Người đánh xe không trả lời. Một nàng bướm đêm đang lảng vảng gần phố Droust gọi: "Ông có muốn cùng em vui vẻ chút không". Tôi vội bước để tránh đôi tay chìa ra của cô nàng. Rồi chẳng còn gì nữa hết. Trước cửa rạp Vaudeville 1, một tên đồng nát đang bới tung một đống rác, chiếc đèn pin nhỏ của hắn chiếu loáng loáng sát mặt đất. Tôi hỏi hắn: "Mấy giờ rồi, chú mày?"

Nó lầu bầu: "Tôi biết làm sao được. Tôi làm gì có đồng hồ".

Đột nhiên tôi nhận thấy đèn đường phụt tắt. Tôi cũng biết rằng vào mùa này người ta tắt đèn đường từ rất sớm, từ trước khi mặt trời lên vì lý do tiết kiệm; nhưng còn lâu mới đến sáng kia mà!

"Đi đến khu họp chợ vậy, chí ít ta cũng tìm thấy sự sống ở đó". Tôi nghĩ.

Tôi lại đi, nhưng tôi chẳng nhìn thấy gì, thậm chí cả đường tôi cũng không nhìn thấy để mà đi. Tôi đi một cách chậm chạp, như thể người ta đi trong rừng, nhận biết các con phố bằng cách đếm các dãy nhà, đếm các ngã tư.

Đến trước Quỹ Tín dụng Lyonnous 2, có tiếng chó gừ gừ, tôi rẽ vào phố Grammont, tôi lạc đường; tôi đi lang thang, rồi tôi nhận ra Quỹ Tiết kiệm Buorse nhờ những tấm lưới sắt bao quanh nó. Paris vẫn đang say ngủ, một giấc ngủ sâu, đáng sợ.

Tuy nhiên, phía xa có một chiếc xe ngựa chở khách đang đi, một chiếc xe chở khách duy nhất, có thể đó chính là chiếc xe lúc nãy đã đi ngang qua tôi. Tôi tìm cách bắt xe ngựa bằng cách đi về hướng tiếng xe chạy, vượt qua các con phố tối đen như mực, tối như trong một nấm mồ.

Tôi lại lạc đường. Tôi đang ở đâu đây? Thật điên rồ làm sao khi tắt đèn đường sớm đến thế! Không một người qua đường, không một người đi chơi dêm, không một kẻ lang thang rình mò trộm cắp, không một tiếng mèo kêu, không một tiếng chó sủa. Chẳng có gì hết.

Đi đâu hết những ông cảnh sát nhỉ? Tôi tự nhủ: "Ta sẽ kêu ầm lên, họ sẽ đến". Thế là tôi hét toáng lên, chẳng hề có tiếng ai trả lời.

Tôi lại gọi toáng lên một lần nữa, to hơn. Giọng của tôi vừa phát ra đã mất hút, không tiếng vang, yếu ớt, ngàn ngạt, như bị bóp ngẹt bởi màn đêm, bởi một bóng đêm quánh dặc, không sao thoát lên được. Tôi gào lên: "Cứu tôi với! Cứu tôi với! Cứu với!" vẫn chẳng hề có tiếng trả lời cho tiếng kêu vô vọng của tôi. Mấy giờ rồi nhỉ? Tôi rút đồng hồ ra, nhưng tôi không có bật lửa, cũng chẳng có diêm. Tôi nghe tiếng kêu tíc tắc tíc tắc của cỗ máy bé nhỏ đó với một niềm vui kỳ lạ. Nó đang chạy, nó đang sống. Tôi cảm thấy bớt cô đơn, bớt đơn độc. Huyền bí làm sao! Tôi lại bước đi như một kẻ mù lòa, vừa đi vừa lấy chiếc gậy thăm dò lên tường các ngôi nhà, thỉnh thoảng tôi lại ngước mắt nhìn lên trời, mong chờ trời sáng. Nhưng nền trời vẫn tối đen một màu đen như mực, tối đen như trong các dãy phố tối tăm lúc trước tôi đi qua. Bấy giờ có thể là mấy giờ nhỉ? Tôi lại đi, tôi cảm tưởng tôi đã đi bộ được một thời gian lâu lắm rồi vì chân tôi mỏi rời rã, tôi thở phì phò, và tôi đói, một cái đói vò xé gan ruột.

Tôi quyết định nhấn chuông ngôi nhà gần nhất. Nghĩ là làm, tôi nhấn ngay vào núm chuông đồng đầu tiên tôi sờ thấy, tiếng chuông kêu kính coong vang khắp ngôi nhà, tiếng chuông kính coong rất lạ, như thể chẳng có gì ngoài tiếng chuông trong ngôi nhà này.

Tôi đợi một lát, chẳng có ai đáp lời, cũng chẳng có ai ra mở cửa cả. Tôi lại nhấn chuông, tôi lại đợi, vẫn chẳng có gì thay đổi!

Tôi sợ! Tôi chạy đến ngôi nhà kế bên, và hai mươi ngôi nhà kế tiếp, tôi nhấn chuông tất cả, tôi nhấn cả chuông nhà gác cửa mà trong đó phải có người trực ngủ, anh ta không thức dậy, tôi đi xa hơn, dùng hết sức bình sinh kéo tất cả các chuông cửa, đá bằng chân, gõ bằng gậy vào tất cả những chiếc cửa đóng im ỉm một cách lỳ lợm.

Và rồi bỗng nhiên tôi nhận ra rằng tôi đã đến được khu họp chợ. Nhưng khu chợ vắng tanh, im phăng phắc, không một tiếng động, không một cử động nhỏ nào, không có một xe hàng nào, không có một người nào, không có một sọt rau nào, không một gánh hoa nào. Khu chợ hoàn toàn trống không, im lìm, hoang phế, khu chợ chết!

Một nỗi kinh hoàng chụp lấy tôi, khủng khiếp quá. Điều gì đang xảy ra thế này? Ôi Chúa ơi! Điều gì đang diễn ra thế?

Tôi lại đi. Nhưng mấy giờ rồi? Mấy giờ rồi? Ai sẽ nói cho tôi biết mấy giờ bây giờ? Có biết bao gác chuông trong thành phố mà sao không một cái nào gióng chuông. Tôi nghĩ: "Ta sẽ mở mặt kính đồng hồ của ta ra và ta sẽ sờ kim đồng hồ để biết giờ vậy". Tôi rút đồng hồ trong túi ra... nó không gõ nữa... nó đã đứng lại... nó đã chết. Chẳng còn gì nữa hết, chẳng còn gì hết, không còn lấy một tiếng gió rì rào trong lá cây, không có một tia sáng nào, không có một tiếng động nhẹ nào thoảng trong không khí. Chẳng có gì hết. Chẳng còn gì nữa hết. Thậm chí cũng chẳng còn tiếng bánh xe ngựa lộc cộc lúc trước tôi đã nghe thấy nữa. Chẳng còn gì nữa.

Tôi đi đến bên bờ sông, một cơn gió mát lạnh thổi từ sông lên.

Liệu sông Seine có còn trôi?

Tôi muốn biết điều đó, tôi tìm cầu thang bến sông, tôi đi xuống... Tôi chẳng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách qua các nhịp cầu... tôi đi xuống hai bậc nữa... rồi xuống đến cát... đạp vào một cái lọ... chạm đến nước... tôi nhúng cánh tay tôi xuống dưới nước... nước đang trôi... nó đang trôi... lạnh... lạnh.... lạnh quá.... gần như sắp đóng băng... gần như sắp khô cạn đi... gần như sắp chết.

Tôi cảm thấy rất rõ rằng tôi sẽ chẳng đủ sức để trèo lên... rằng tôi sắp chết... chính tôi, vì đói, vì mệt, vì rét.

--------------------------------

1

Vaudeville: rạp hát nằm ở ngã tư giữa quảng trường Capucine và la Chaussée d’Antin.

2

Quỹ Tín dụng Lyonnais: Ngân hàng nằm ở quảng trường Italiens, giữa phố Michodière và phố Granimont.

Mái tóc

Những bức tường nhà thương điên hoàn toàn trần trụi, chỉ được sơn một lớp vôi. Một cái cửa sổ hẹp có song sắt, và được đặt tít trên cao để người điên không thể với tới được, chiếu vào trong căn phòng bé tí một ánh sáng buồn thảm; người điên ngồi trên một chiếc ghế rơm nhìn chúng tôi bằng một con mắt bất động, lơ đãng đầy ám ảnh. Anh ta rất gầy, hai má hõm sâu, tóc anh ta gần như bạc hết, với độ tuổi đó người ta có thể đoán tóc anh ta mới chỉ bạc trắng ra như thế trong vòng một vài tháng. Quần áo anh ta đang mặc trên người có vẻ quá rộng với chân tay lòng khòng toàn xương, với bộ ngực mỏng, với cái bụng lép kẹp của anh ta.

Người ta cảm thấy người đàn ông này, đang suy kiệt gầy mòn đi vì chính những suy tưởng, ngẫm ngợi, như thể một quả tươi đang bị hỏng thối vì sâu đục khoét bên trong. Sự điên cuồng của anh ta, những ý tưởng trong cái đầu khăng khăng ngoan cố của anh ta đang gậm mòn anh ta, đang đục ruỗng anh ta, đang vò xé anh ta, từng chút, từng chút một.

Nó là vô hình, không thể sờ thấy được, không thể nắm bắt được, không thể kiểm soát được, cái suy nghĩ phi vật chất, nó gặm mòn thịt xương, hút kiệt máu, hút kiệt nhựa sống, làm người ta chết mòn.

Huyền bí làm sao khi Sự suy nghĩ giết chết một con người! Ngươi có suy nghĩ như thế mới khốn khổ làm sao, đáng thương làm sao, đáng sợ làm sao! Những giấc mơ kỳ lạ nào, đáng sợ nào, gây chết người nào, đang tồn tại trong vầng trán này, khiến cho vầng trán này hằn lên những nếp nhăn sâu, không ngừng thay đổi?

Bác sĩ nói với tôi: "Anh ta có những cơn thịnh nộ vô cùng tệ hại, đó là một trong những trường hợp kỳ lạ nhất mà tôi đã từng thấy. Anh ta mắc chứng điên tình rùng rợn. Một loại bệnh loạn dâm tử thi. Mặt khác những gì anh ta đã viết lại trong nhật ký, đã chỉ cho chúng ta thấy một cách rõ ràng tâm bệnh của anh ta. Sự điên rồ của anh ta, trong trường hợp này cũng có thể nói rằng đó là kết quả hiển nhiên. Nếu ông quan tâm, ông có thể đọc tài liệu này". Tôi theo ông bác sĩ vào phòng làm việc, và ông đưa cho tôi quyển nhật ký của người đàn ông khốn khổ. "Ông hãy đọc đi, - Bác sĩ nói - và hãy cho tôi biết ý kiến của ông".

Đây là tất cả những gì được viết trong tập nhật ký đó:

"Cho tới năm ba mươi hai tuổi, tôi sống bình lặng không tình yêu. Cuộc sống với tôi thật vô cùng đơn giản, vô cùng tốt đẹp và dễ chịu. Tôi đủ tiền tiêu dùng, để không phải lo tới việc kiếm sống, tôi có sở thích riêng, tôi có thú vui riêng, cuộc sống của tôi thật êm đềm bình lặng! Mỗi sáng tôi thức giấc một cách vui vẻ để làm những công việc ưa thích của tôi, và mỗi tối, tôi lên giường đi ngủ đầy hài lòng, yên tâm về một ngày mai thanh bình, tốt đẹp không âu lo.

Tôi đã trải qua một vài mối tình, nhưng chẳng một cô nhân tình nào khiến tôi cảm thấy con tim mình điên lên vì nhung nhớ thương yêu. Tôi cứ sống như vậy cho tới một ngày tình yêu đã tìm đến tôi một cách khó tin. Và tôi đã yêu một cách si mê, một cách điên dại và tôi tin những người đã từng yêu một con người hẳn cũng có cùng cảm giác như tôi.

Tôi có thú sưu tập đổ cổ, tôi thường nghĩ đến những bàn tay xa lạ từng sờ lên những đồ vật đó, những đôi mắt đã từng chiêm ngưỡng chúng, những tấm lòng đã từng yêu mến, quyến luyến chúng, bởi thường người ta hay yêu mến quyến luyến đồ đạc của mình. Tôi đã ngồi hàng giờ, hàng giờ để ngắm nghía một chiếc đồng hồ đeo tay xinh xắn thời trước. Nó rất nhỏ nhắn xinh xắn với những hình chạm tinh xảo. Người phụ nữ đã mua được nó hẳn ngày ngày đi dạo cùng nó với một niềm vui, một niềm tự hào đã được sở hữu một đồ vật tinh xảo đến thế. Nó chưa bao giờ ngừng đập, ngừng sống, nó luôn chạy tíc tắc, tíc tắc, một cách đều đặn suốt một thế kỷ nay. Ai là người đầu tiên đã đeo nó trên da tay mềm ấm, ai là người đã đeo nó dưới lớp tay áo lụa mềm mại, mịn màng? Tim nó hẳn đã đập theo nhịp tim người phụ nũ đeo nó? Ngón tay ấm mềm nào đã ngày ngày vặn cót đồng hồ một cách âu yếm? Đôi mắt nào đã ngày ngày nhìn ngắm đợi chờ đến giờ hẹn, đến giờ đón người yêu?

Tôi ao ước được biết cô gái, được nhìn thấy cô gái đó biết bao nhiêu, người con gái đã chọn được một đồ vật tao nhã quý hiếm đến thế! Nàng ấy đã chết! Tôi tin thế và tôi bị ám ảnh bởi mong muốn có được người con gái thuở xưa ấy; Tôi yêu tất cả những cô gái thuở trước đã từng yêu! Những chuyện phấn son, tình ái, âu yếm xa xưa khiến tôi thấy mủi lòng. Ôi! Sắc đẹp, nụ cười, những vuốt ve âu yếm, thanh xuân, những hy vọng... tất cả những điều đó sao không thể trở nên bất tử!

Tôi đã khóc ròng bao đêm, than tiếc cho những cô gái thuở xưa, đẹp đến thế, ân cần âu yếm đến thế, ngoan hiền đến thế, những vòng tay của các nàng đó hẳn từng dang rộng để ôm người họ yêu, họ từng ban tặng cho những người họ yêu một nụ hôn và họ chết! Nụ hôn bất tử, nó đến từ đôi môi này đến đôi môi khác, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, từ thời đại này đến thời đại khác. Con người tiếp nhận chúng, trao chúng cho người khác và chết.

Quá khứ thu hút tôi, hiện tại khiến tôi lo sợ bởi tương lai là cái chết. Tôi tiếc cho tất cả những gì đã qua, tôi khóc cho tất cả những ai từng sống; tôi muốn ngừng thời gian lại, ngừng giờ khắc lại. Nhưng thời gian cứ trôi, cứ trôi, cứ qua đi. Mỗi phút, mỗi phút thời gian lại lấy đi chút gì đó của tôi hôm nay để làm tiêu tan nó vào ngày mai. Và tôi không bao giờ muốn sống lại nữa.

Vĩnh biệt những cô gái của quá khứ. Tôi yêu các cô.

Thế nhưng tôi không bao giờ trở nên đáng thương vì tôi đã tìm thấy cô ấy, chính cô ấy, người con gái mà tôi đã chờ đợi bấy lâu nay. Tôi đã được thưởng thức niềm hạnh phúc vô bờ khó tin đó nhờ có nàng.

Một sáng đầy nắng, tôi lang thang trên các đường phố Paris, tâm hồn tràn ngập niềm vui, chân nhịp bước đầy vui vẻ, vừa đi vừa nhìn các cửa kính, hòa trong đoàn người đang dạo chơi trên phố. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy một chiếc tủ gỗ kiểu Ý thuộc thế kỷ thứ mười bảy trong một cửa hàng bán đồ cũ. Nó rất đẹp, rất hiếm. Tôi tin một nghệ sĩ người Áo, một người rất nổi tiếng là tác giả của đồ vật tinh xảo này.

Tôi đi qua.

Thế nhưng hình ảnh của chiếc tủ gỗ đó cứ đeo đẳng tôi đến nỗi mỗi bước chân tôi lại nghĩ đến nó, tưởng tượng đến nó. Tôi lại quay bước trở về trước cửa hàng đó để ngắm lại nó và tôi có cảm tưởng như nó đang cám dỗ tôi.

Sự cám dỗ của một đồ vật mới kỳ lạ làm sao! Ta ngắm nhìn một đồ vật, dần dần nó cám dỗ ta, nó làm ta bối rối, nó xâm chiếm tâm can ta như thể khuôn mặt một cô gái, vẻ đẹp của nó đi vào lòng ta, vẻ đẹp lạ thường có được từ hình dạng, từ màu sắc, từ chất liệu của đồ vật; thế là ta thích nó, ta ham muốn nó, ta muốn có nó. Một nhu cầu được sở hữu nó xâm chiếm ta, mới đầu chỉ là một cảm giác thích thích rồi nó cảm giác đó cứ lớn dần lên, trở thành một ham muốn, một đòi hỏi không thể cưỡng lại được.

Càng ngắm, càng nhìn tôi lại càng mong được có nó, được sở hữu nó.

Tôi đã mua chiếc tủ gỗ đó và tôi mang ngay nó về nhà. Tôi đặt nó trong buồng ngủ.

Ôi! Tôi ái ngại cho những ai không biết đến tuần trăng mật của những kẻ sưu tập với một đồ sưu tập đẹp, quý, hiếm mà người đó vừa mua được. Người đó nhìn nó, ngắm vuốt nó như thể nó được làm bằng xương bằng thịt vậy; chốc chốc người đó lại đi lại gần nó để ngắm nghía nó. Cho dù đi đâu, làm gì người sưu tập đó cũng nghĩ đến nó.

Hình ảnh đẹp của nó sẽ theo người đó ra phố, ra chợ, theo vào rạp hát, vào hội chợ, theo người đó đi khắp mọi nơi. Và ngay khi về đến nhà, thậm chí còn chưa kịp cất mũ cất khăn người đó đã vội lao ngay tới rồi lặng ngắm đầy trìu mến đồ vật thân yêu đó của mình.

Tôi cũng như người sưu tập đồ đó, trong suốt tám ngày, tôi say mê biết mấy cái tủ này. Mỗi lúc tôi lại mở cánh nó ra, mở các ngăn kéo của nó ra; tôi sử dụng nó với một cảm giác vui thích, nhấm nháp niềm vui sâu kín được sở hữu nó.

Một tối, khi sờ độ dày của tấm đế, tôi nhận thấy có một ngăn bí mật. Tim tôi đập rộn lên, tôi mất cả một đêm tìm ra điều bí mật mà không thể khám phá ra được.

Hôm sau tôi dùng một lưỡi dao mỏng lùa vào khe gỗ, một tấm ván bật ra, trải ra trên đáy hộc lót nhung đen là một mái tóc tuyệt đẹp của phụ nữ.

Vâng, một mái tóc, một mái tóc dài, dày, vàng óng hơi ngả sang đỏ. Ta có thể đoán mái tóc đó được cắt sát da đầu và được buộc lại bằng một sợi dây vàng.

Tôi đứng lên, sửng sốt, run rẩy, khó hiểu! Một mùi hương rất nhẹ, gần như không thể cảm nhận được bay ra từ ngăn bí mật và từ mái tóc được cất giấu.

Tôi cầm mái tóc lên rất nhẹ nhàng, gần như là thành kính, và tôi định luồn nó trở vào ngăn bí mật. Ngay khi nó vừa được cầm lên, cả một suối tóc đổ dài đến tận đất, suối tóc dày và nhẹ, mềm mại, rực rỡ như đuôi lửa của một ngôi sao chổi.

Một cảm giác rất lạ xâm chiếm người tôi. Đó là gì nhỉ? Khi nào? Như thế nào? Tại sao mái tóc này lại được giấu trong cái tủ này? Cuộc phiêu lưu tình ái nào? Mối bi kịch nào che giấu sau kỷ vật này? Ai đã cắt mái tóc này? Một tình nhân, trong ngày vĩnh biệt? Một người chồng, vào ngày trả thù? Hay chính cô gái ấy đã tự cắt nó, trong một ngày tuyệt vọng?

Phải chăng vào đúng giờ cô gái nhập tu viện mà người ta đã đặt vào đó kỷ vật tình yêu như một bằng chứng để lại trên thế giới này? Phải chăng vào giờ đóng đinh quan tài người tình trẻ xinh đẹp yểu mệnh mà người yêu của cô, người si mê cô, đã giữ lại món đồ trang sức quý giá đẹp đẽ làm duyên cho mái đầu cô, vật duy nhất anh ta có thể giữ lại được từ cô, phần cơ thể sống duy nhất không bị phân hủy thôi rữa, phần duy nhất, anh ta vẫn còn có thể yêu, vuốt ve trìu mến, hôn lên nó trong cơn đau xé lòng?

Chẳng lấy gì làm lạ rằng mái tóc này vẫn nguyên si như thế, trong khi cái cơ thể từng nuôi nó, chăm bón cho nó vừa dài vừa dày đến thế đã tan rữa, không còn lấy một mẩu nguyên vẹn.

Các sợi tóc trôi trên ngón tay tôi, mềm mại trên da tôi, kích thích tôi bằng một sự mơn trớn đặc biệt, sự mơn trớn chết chóc. Tôi cảm thấy mủi lòng đến mức suýt khóc.

Tôi giữ mái tóc trên tay rất lâu, rồi tôi cảm thấy nó động đậy trong tay tôi, như thể có một linh hồn nương náu ở trong. Tôi để mái tóc lên tấm nhung đã bạc màu vì thời gian, tôi đóng ngăn lại, đóng tủ lại, và tôi ra phố đi dạo để mơ mộng.

Tôi đi dạo với một tâm trạng vừa buồn vừa bối rối, một cảm giấc bối rối mà người ta hay có sau một cái hôn yêu đương. Tôi có cảm tưởng tôi đã từng sống ở kiếp trước và tôi đã từng quen cô gái có mái tóc vàng hung dó.

Khi về đến nhà, tôi không sao cưỡng được mong muốn vào xem lại vật kỳ lạ tôi đã tìm thấy đó; khi cầm nó lên, khi chạm vào nó tôi cảm thấy một cơn rùng mình xuyên suốt người tôi.

Tuy thế nhưng vài ngày sau đó tôi vẫn giữ được trạng thái bình thường như mọi khi tuy những suy nghĩ về mái tóc đó không hề rời tôi một lúc nào nữa.

Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên tôi làm là chạy ngay vào buồng ngủ, bằng những ngón tay run rẩy tra chìa khóa vào tủ, như thể một người tình run rẩy vội vàng tra chìa khóa mở cửa phòng mà người yêu anh ta đang đợi bên trong. Trong tôi luôn có một hối thúc kỳ lạ, khó hiểu, một ham muốn xác thịt được luồn tay vào suối tóc đẹp mềm mại thơm tho của người con gái đã chết đó.

Rồi khi tôi thôi không vuốt ve nó nữa, khi tôi đóng tủ lại, tôi lại cảm thấy nó như thể nó là một người sống, bị che giấu, bị cầm tù đang buồn bã cô đơn trong tủ; tôi lại cảm thấy một thôi thúc mong muốn được vuốt ve nó; tôi lại có nhu cầu cấp thiết được cầm lại nó, được sờ nắn nó. Rồi tôi cảm thấy phát bực, thấy khó chịu vì sự tiếp xúc lạnh lẽo, trơn tuột, phát bực, phát hoảng, nhưng cũng rất thú vị.

Tôi sống như thế trong hai hoặc ba tháng gì đó, tôi cũng không biết nữa, Cô gái ấy ám ảnh tôi. Tôi vừa hạnh phúc vừa khổ sở như thể một người đang yêu mà không dám tỏ bày, mong muốn siết chặt người yêu vào lòng mà không dám nói.

Tôi tự nhốt mình trong phòng cùng cô ấy để cảm thấy cô ấy trên da thịt mình, để áp chặt môi lên trên mái tóc, để ôm, để hôn, để cắn nó. Tôi cuốn nó quanh mặt mình, tôi ngậm nó vào mồm, tôi vùi mặt vào trong làn sóng tóc, nhìn mọi vật hung vàng qua làn sóng tóc vàng hung.

Tôi yêu nó! Vâng tôi yêu nó. Tôi không thể không cần tới nó nữa, tôi không thể ở đâu một giờ đồng hồ liền mà không nhìn thấy nó. Tôi đợi... tôi đã đợi... đợi gì nhỉ? Tôi không biết nữa?

- Nó.

Một đêm tôi giật mình thức giấc, tôi có cảm tưởng không chỉ có mình ở trong phòng.

Tuy nhiên chỉ có mỗi mình tôi trong phòng. Nhưng tôi không sao ngủ lại được; và bởi tôi bồn chồn vì mất ngủ, tôi dậy để đến lấy mái tóc ra, để vuốt ve nó. Đêm đó nó còn có vẻ mềm mại dịu dàng hơn cả ngày thường, và nó cùng có vẻ sống động hơn. Phải chăng linh hồn người đã chết hiện về? Những nụ hôn của tôi đã làm ấm nó lên, không muốn đặt nó về chỗ cũ nữa, tôi mang nó về giường mình, tôi lên giường ngủ lại, vừa ngủ vừa áp nó vào môi như thể áp môi vào da thịt người con gái mà người ta sắp sửa có được, sắp sửa chiếm hữu được.

Người chết đã hiện về! Cô ấy đã đến. Vâng, tôi đã nhìn thấy nàng, tôi đã chạm được vào nàng, tôi đã có nàng, nàng cao, tóc vàng, tròn lẳn, ngực nhỏ rắn chắc, hông nở; tôi đã nhìn đầy âu yếm toàn bộ dáng hình quyến rũ tuyệt vời với những đường cong mê hồn đó.

Vâng tôi đã có nàng suốt đêm suốt ngày. Đêm nào nàng cũng đến, người phụ nữ đã chết, người con gái đã chết đẹp mê hồn, người đáng được chiêm ngưỡng, đáng được tôn thờ, con người bí ẩn, xa lạ.

Niềm hạnh phúc vô bờ bến của tôi to lớn đến mức tôi không thể che giấu mãi được. Tôi cảm thấy một niềm vui siêu nhiên, một hạnh phúc sâu sắc, không thể giải thích được vì tôi đã có được nàng, có được một vật thể không thể nắm bắt được, không thể nhìn thấy được, cái chết! Không một người đang yêu nào có thể thưởng thức những lạc thú điên cuồng, nồng nhiệt, khát khao, dữ dội nhưng cũng đầy đau khổ đó!

Tôi không thể giấu đi niềm hạnh phúc của mình. Tôi yêu nàng đến nỗi tôi không muốn rời nàng ra nữa. Tôi mang nàng đi khắp nơi cùng tôi. Tôi đưa nàng cùng đi dạo trên khắp phố phường như một người chồng khoác tay vợ đi dạo, tôi đưa nàng đến nhà hát, đưa nàng vào ngồi trong những lô 1 sang trọng nhất, như thể đưa người tình bé nhỏ đi chơi... Nhưng người ta đã nhìn thấy nàng... người ta đã đoán ra... người ta cười tôi, cười nàng... Rồi họ ném tôi vào tù như một kẻ thần kinh. Người ta lấy nàng đi... Ôi, bất hạnh làm sao!"

Tập nhật ký dừng ở đó. Đột nhiên, khi tôi ngẩng đầu lên nhìn ông bác sĩ, một tiếng kêu thống thiết, một tiếng gào điên dại, đầy bất lực, một tiếng hét thảm thiết vang vọng khắp nhà thương điên.

"Ông nghe anh ta đấy - Ông bác sĩ nói - chúng tôi phải trị liệu bằng liệu pháp vòi sen cho tên điên dại dâm dục này năm lần mỗi ngày. Vậy là không chỉ có viên đội Bertranđ yêu những xác chết" 2.

Tôi lúng búng, quá xúc động vì ngạc nhiên, vì kinh hoảng, vì thương cảm: "Nhưng... mái tóc... nó có tồn tại thật không?"

Bác sĩ đứng lên, mở cánh tủ đầy chật những lọ thủy tinh và những dụng cụ, và ông ném qua bàn làm việc một dải tóc, vàng dài bay về phía tôi như một con chim vàng.

Tôi chợt rùng mình khi chạm tay vào suối tóc mềm mượt đó. Trong tôi lẫn lộn hai cảm giác, vừa ghê ghê vừa thèm muốn, ghê ghê như thể tôi chạm vào một hung khí đã từng gây tội ác, thèm muốn như đứng trước sự cám dỗ của một vật đáng bị lên án và bí hiểm.

Ông bác sĩ vừa nhún vai vừa nhắc lại:

"Sự tưởng tượng của con người thật là vô cùng".

--------------------------------

1

Lô: trong rạp hát có những khoang kín mà người ta có thể kéo một loại rèm thưa như lưới mắt cáo để những khán giả khác không nhìn thấy họ.

2

Viên cảnh sát đã bị kết án năm 1849 trong một vụ án nổi tiếng thời đó vì tội hiếp dâm một xác chết.

Biết đâu đấy?

Nhưng liệu tôi có thể làm được điều đó không? Tôi có dám làm là viết ra điều đó không? Điều đã xảy đến với tôi quá kỳ quặc, quá khó giải thích, quá khó hiểu, và thật điên rồ! Giá tôi có thể chắc vào những gì mà tôi đã nhìn thấy, chắc chắn rằng đầu óc tôi vẫn hoàn toàn tỉnh táo, bình thường, tôi không bị ảo giác, không bị hoa mắt, hay nhìn nhầm. Sau tất cả những chuyện đã xảy ra, biết đâu đấy?

Giờ đây tôi đang điều trị nội trú trong một bệnh viện tư; nhưng tôi ở đó một cách hoàn toàn tự nguyện chỉ vì cẩn thận, và vì sợ! Chỉ duy nhất một người biết chuyện của tôi. Đó là một bác sĩ ở đây. Tôi sẽ viết câu chuyện đó ra, mong rằng làm thế sẽ rũ bỏ được nó, vì tôi luôn cảm nhận thấy nó, nó ám ảnh tôi như một cơn ác mộng mà tôi không thể chịu đựng nổi.

Nó thế này đây :

Một ấn sĩ cô đơn, một kẻ mơ mộng, một triết gia cô độc nhưng nhân từ, tương đối hài lòng với cuộc sống, không chua chát, không hiềm thù, không độc địa với con người, không thù không oán trời đất. Tôi sống một mình, không thích sự có mặt của người khác trong nhà mình, trong phòng mình. Giải thích về điều đó thế nào bây giờ nhỉ? Tôi không thể giải thích được. Tôi vẫn tham gia vào các cuộc tụ tập bạn bè để vui chơi, ăn uống, tán phét cùng nhau. Nhưng khi nghĩ đến một mối liên hệ riêng tư hơn, một mối liên hộ thân mật hơn, mang tính gia đình hơn, là tôi lại cảm thấy chán ngán, mệt mỏi, cáu kỉnh.

Thế rồi bỗng một hôm tôi cảm thấy mong muốn có một người bạn đời, cái mong muốn nó cứ lớn dần lên trong tôi, quấy rầy tôi, nó khiến tôi không sao chịu đựng được khi nhìn thấy những đôi trai gái tay trong tay, điều đó làm tôi không chịu được và tôi bỏ đi cùng với nỗi cô đơn của mình.

Mong muốn này còn nhiều khát khao hơn cả một nhu cầu, như một đòi hỏi cấp thiết. Chỉ cần có mặt của người khác, không cần góp chuyện với họ, chỉ cần nghe thấy họ nói, hay họ đùa là tôi cũng cảm thấy yên tâm, tôi cảm thấy nếu có họ, sẽ không có điều gì xảy đến với tôi. Xảy ra điều gì nhỉ? Tôi cũng không chắc, có khi đó chỉ là một cơn choáng váng, hay ngất xỉu đơn thuần chẳng hạn. Tôi yêu thích cuộc sống cô đơn, tôi thậm chí không thể nào chịu nổi cảm giác có một người đang ngủ trong nhà của mình; tôi không thể sống được ở Paris bởi sự ồn ỹ, bởi những đám đông sống quanh tôi ở Paris sẽ làm tôi suy kiệt cả tinh thần lẫn thể xác, kể cả khi Paris đang ngủ. Ôi, tôi không sao chịu đựng được, không sao nghỉ ngơi được khi tôi biết, khi tôi cảm thấy, sau những bức tường là những thực thể đang sống, và nó chỉ tạm ngưng hoạt động theo chu kỳ sinh học mà thôi. Tại sao tôi lại như vậy? Ai biết? Nguyên nhân của nó thật vô cùng đơn giản: Tôi rất chóng mệt vì bị sự chi phối của người khác. Và trên trái đất này, kiểu người như tôi có rất nhiều. Con người chúng ta được chia thành hai loại: Một loại cần đến người khác, cần đến người khác để giải trí, để quan tâm, để chăm sóc. Đối với loại người này, sự cô đơn sẽ khiến họ héo mòn, đau khổ. Và một loại người thứ hai, ngược lại, họ mệt mỏi, buồn chán, khó chịu, đau khắp mình mẩy nếu sự yên tĩnh của họ bị phá vỡ.

Tóm lại, đó chỉ là hiện tượng tâm lý mà thôi. Một số người có thiên hướng sống cuộc sống xã hội, một số người khác lại có thiên hướng sống nội tâm.

Tôi, tôi thường chỉ chịu đựng được sự ồn ã náo nhiệt trong một khoảng thời gian ngắn mà thôi, nếu không, tôi sẽ cảm thấy rất mệt, rất khó chịu.

Kết quả là tôi cảm thấy vô cùng thân thiết gắn bó với các đồ đạc trong nhà, đối với tôi, chúng có một tầm quan trọng đáng kể trong lòng tôi. Và ngôi nhà của tôi trở thành một thế giới, trong đó tôi thư giãn, làm việc và sống một cuộc sống cô đơn, bầu bạn cùng tủ tạng, bàn ghế, đồ trang trí... với tôi chúng thân thuộc như người thân vậy. Tôi đã mua chúng, dùng chúng, lau rửa chúng, sửa chữa chúng. Sống giữa chúng tôi cảm thấy hài lòng, hạnh phúc như thể đang sống trong vòng tay âu yếm, ân cần của người thân.

Tôi có một ngôi nhà nằm gần ngoại ô Paris. Tôi đã cho xây ngôi nhà của mình giữa một khu vườn đẹp tuyệt xa cách với những con phố bên ngoài. Những người làm của tôi ở trong một dãy nhà sâu trong vườn rau, hoàn toàn tách biệt với căn nhà chính tôi ở. Căn nhà chính của tôi nằm núp dưới tán cây rậm rì, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Trong đó tôi cảm thấy yên bình, hạnh phúc, và ở đó mỗi tối tôi lại do dự rất lâu trước khi quyết định lên giường đi ngủ, vì tôi còn muốn hưởng thụ sự bình yên này lâu một chút.

Hôm đó, ở Nhà hát lớn thành phố trình chiếu vở Sigurd. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe một vở nhạc kịch hay đến thế. Tan buổi diễn, tôi tung tăng đi bộ về nhà, tai như vẫn còn văng vắng những nốt nhạc, tâm tưởng vẫn còn đang nhớ lại những hình ảnh đẹp của vở ca kịch.

Trời tối, tối đen như mực, tối đến nỗi mấy lần tôi suýt dẫm xuống cống. Từ nhà hát về đến nhà tôi khoảng một cây số, có thể hơn một chút, mất khoảng hai mươi phút đi bộ nếu đi chậm. Lúc đó vào khoảng một giờ sáng, một giờ hay một rưỡi gì đó; nền trời được chiếu sáng mờ mờ bởi một vầng trăng lưỡi liềm vừa lên, một vầng trăng lưỡi liềm buồn bã, trăng lưỡi liềm cuối tháng. Vì trăng lưỡi liềm đầu tháng thường mọc lúc bốn năm giờ chiều, chiếu một thứ ánh sáng, sáng sủa, vui vẻ, bàng bạc, nhưng trăng lưỡi liềm mọc sau nửa đêm thường đo đỏ, ủ ê, lo lắng; đó chính là vầng trăng lưỡi liềm của Sabbat 1. Tất cả những kẻ hay đi chơi đêm đều phải để ý đến dấu hiệu này. Vầng trăng lưỡi liềm đầu tháng thường nhỏ, mảnh như sợi chỉ, tung ra ánh sáng vui vẻ và đổ xuống mặt đất những bóng rõ ràng. Còn vầng trăng thứ hai tỏa ra một thứ ánh sáng chết chóc, lờ mờ đến nỗi mà gần như mọi vật đều như không có bóng khi đi dưới vầng trăng dó. Tôi nhận thấy từ xa, khoảng vườn tối rộng lớn của nhà tôi, tôi không biết vì sao, nhưng tôi cảm thấy bất an, tôi cảm thấy hơi lo lắng. Tôi chậm bước lại. Đêm yên tĩnh, những tán cây rậm rạp trông như một nhà mồ chôn vùi nhà tôi trong đó. Tôi mở cửa hàng rào và đi vào lối đi rợp bóng hai hàng sung xanh rì, vòm cây cong cong trông như một đường hầm cao đi trên những nấm cỏ, dưới những bóng tối xanh xanh mờ ảo, nhìn từ xa trông như những chấm hình ô van trên nền mây.

Khi lại gần ngôi nhà, một mối lo lắng mơ hồ kỳ lạ cứ luẩn quẩn trong tôi. Tôi đứng lại. không một tiếng động nhỏ. Không một ngọn gió, không một tiếng lá cây xào xạc. "Chuyện vớ vẩn gì thế?" tôi nghĩ. Từ mười năm nay tôi luôn về nhà và không bao giờ sợ bất cứ điều gì. Tôi không bao giờ sợ đêm tối, không sợ bất cứ ai, không sợ bất cứ cái gì. Nếu một tên trộm, một tên cướp xông đến tôi, tôi sẽ nhảy ngay lên không do dự. Vả lại tôi cũng có vũ khí, tôi có một khẩu súng lục. Nhưng tôi chưa chạm vào nó vì tôi muốn thử nghiệm cảm giác sợ hãi.

Gì thế nhỉ? Một linh cảm ư? Cái linh cảm huyền bí thường choán hết mọi giác quan của con người khi anh ta nhìn thấy một điều gì đó khó giải thích? Có thể thế sao? Biết đâu đây?

Tôi càng tiến gần ngôi nhà, tôi càng cảm thấy run, khi tôi đến trước tường nhà, dưới mái che, trước cửa nhà đóng kín. Tôi run đến nỗi phải đứng trấn tĩnh một vài phút trước khi mở cửa vào nhà. Để trấn tĩnh lại, tôi ngồi xuống một cái ghế dài, dưới cửa sổ của phòng khách. Tôi ngồi ở đó, hơi run rẩy, đầu dựa vào tường, mắt chăm chăm nhìn vào quầng tối trong tán cây. Lúc đầu tôi chẳng nhận thấy gì lạ thường cả. Tai tôi u u; nhưng điều này vẫn thường xảy ra với tôi. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe thấy tiếng xình xịch của tàu hỏa, tiếng u u của còi tầu, tiếng ồn ỹ của một đám đông.

Khi tiếng u u trong đầu tôi đã bớt đi. Và tiếng động đã trở nên rõ ràng hơn, dễ nhận biết hơn, thì tôi nhận thấy là tôi đã nhầm, vì đó không phải là tiếng động tôi cảm thấy do chứng ù tai thông thường của tôi, mà đó là một tiếng động rõ ràng, hơi lộn xộn, khó phân biệt phát ra phía trong ngôi nhà.

Tôi lần theo tường tìm xem tiếng động ở đâu phát ra, tiếng động vẫn tiếp tục phát ra, chấn động của nó khiến cho mọi đồ vật trong nhà tôi rung rinh.

Tôi đã nghi ngại rất lâu xem có phải tôi thật sự nghe thấy tiếng động đó không. Tôi cảm thấy rất rõ ràng có một điều gì đó khác thường, khó hiểu đang diễn ra trong nhà tôi. Tôi không sợ, nhưng tôi... biết giải thích thế nào nhỉ... tôi kinh hoảng. Tôi không cầm đến súng vì tôi đoán chắc rằng tôi sẽ chẳng cần dùng đến nó. Tôi đợi. Tôi đợi rất lâu, không thể tự quyết được gì hết. Đầu óc căng ra vì lo lắng, tôi đứng im, nghe ngóng, tiếng động vẫn đều đều phát ra, càng ngày càng to, có lúc nó to đến mức nghe ầm ầm như sấm.

Rồi đột nhiên, tự cảm thấy ngượng vì sự hèn nhát của mình, tôi vớ lấy chùm chìa khóa, chọn chiếc chìa cần thiết, ấn vào ổ, xoay hai vòng và lấy hết sức đẩy mạnh cánh cửa, ấn mạnh vào chuông cửa.

Một tiếng chuông vang lên như tiếng súng nổ. Và tiếng vọng của nó vang rền khắp nhà tôi. Điều này thật quá sức chịu đựng, thật quá tệ hại, quá đinh tai đến nỗi tôi phải lùi lại mấy bước, tuy cảm thấy vô ích nhưng tôi vẫn rút khẩu súng lục của tôi ra.

Tôi lại đợi thêm một lát nữa. Tôi nghe thấy như có tiếng bước chân lạ đang đi xuống cầu thang, đi xuống sàn, đi lên thảm, tiếng bước chân rất lạ, không phải là tiếng bước chân người, nó như tiếng nạng nện xuống sàn, một loại nạng bằng gỗ và bằng sắt, tiếng nạng nện xuống kêu thình thịch, loảng xoảng... Đột nhiên tôi nhận ra trên thềm cửa nhà tôi có một chiếc ghế bành, chiếc ghế bành lớn để ngồi đọc sách của tôi, nó vừa đi ra vừa nhún nhaỵ. Nó chạy ra vườn. Theo sau nó còn có những chiếc ghế trong bộ ghế sa lông của tôi, rồi đến cái bàn thấp đi trên những chiếc chân ngắn ngủn trông như những con cá sấu, tiếp sau là tất cả các ghế dựa với những bước nhảy như ngựa, và rồi đến các ghế gác chân chạy lon ton như thỏ.

Oai! Xúc động làm sao! Tôi lẩn vào một chỗ, ngồi xổm xuống để ngắm cuộc diễu hành của đồ đạc của mình, bởi tất cả bọn chúng đang rùng rùng bỏ đi, cái này sau cái kia, nhanh hay chậm tùy thuộc vào kích cỡ và trọng lượng của chúng.

Cái đàn dương cầm của tôi đi như phi nước đại, vừa đi vừa rền rĩ những nốt nhạc trong sườn đàn. Những đồ vật bé tẹo chạy lăng xăng trên cát như những con kiến, những chiếc bàn chải đánh răng, những đồ pha lê, những chiếc cúp đang lấp lánh sáng dưới ánh trăng bàng bạc. Những tấm vải bò, trườn dập dờn trông như sóng biển. Tôi thấy bàn làm việc của tôi xuất hiện, bàn làm việc của tôi là một trong những kiệt tác mỹ nghệ quý hiếm của thế kỷ trước, và trong đó là tất cả thư từ riêng tư của tôi, tất cả những chuyện phiêu lưu tình cảm của tôi, nhũng chuyện tình cảm vô cùng riêng tư, không thể cho ai biết, còn nữa, trong đó còn có những tấm ảnh nữa.

Đột nhiên tôi không còn thấy sợ nữa, tôi nhảy bổ lên chiếc bàn và ôm chặt lấy nó như thế người ta tóm chặt lấy tên kẻ trộm, như thể người ta ôm chặt lấy một người phụ nữ đang muốn bỏ trốn; nhưng nó vẫn tiếp tục cuộc hành trình của nó không sao cản lại được. Dù tôi đã lấy hết sức bình sinh để trì cản nó lại nhưng tôi không sao cản nó đứng lại được. Vì tôi cản nó, đẩy nó, trì kéo nó với toàn bộ sức lực, với một nỗ lực tuyệt vọng nên nó không đẩy tôi ra được, nó bèn lăn qua tôi, kéo lê tôi trên cát, và thế là những đồ vật khác liền xéo lên tôi, dẫm lên đùi tôi, làm đau tôi; không chịu nổi, tôi đành buông tay khỏi cái bàn, thế là những đồ vật khác dẫm lên tôi, đạp lên tôi như thể một đội kỵ binh đang đi đạp lên một kỵ binh bị ngã ngựa mà không dừng lại được.

Điên lên vì sợ nhưng cuối cùng tôi cũng lăn được ra khỏi lối đi và trốn sau những cái cây để xem cuộc diễu hành của toàn bộ đồ đạc của mình, tôi thấy xuất hiện cả những đồ vật nhỏ nhất, bé nhất, khiêm nhường nhất, mà ngày thường tôi không để mắt đến, những đồ vật đã từng thuộc quyền sở hữu của tôi.

Rồi tôi nghe thấy phía xa xa, trong nhà tôi, có tiếng vang như trong những ngôi nhà trống không, có tiếng kẹt cửa. Những cánh cửa đóng sập lại từ trên xuống dưới thấp, cho tới tận cánh cửa phòng tiền sảnh mà chính tay lúc nãy đã mở ra và nhìn thấy cảnh ra đi kỳ cục đó. Giờ đây, nó là cánh cửa cuối cùng, tự đóng sầm lại.

Tôi cũng thế, tôi bỏ chạy về phía thành phố, và tôi chỉ lấy lại được bình tĩnh khi tôi vào được trong phố, nhìn thấy người đi lại. Tôi đến nhấn chuông một khách sạn mà tôi là khách quen. Trông tôi như vừa từ một cuộc hỗn chiến với đôi tay, quần áo lấm lem bùn đất, tôi kể lại là tôi đã đánh mất chùm chìa khóa. Tôi không vào khu nhà chính được, và tôi cũng chẳng gọi được bọn người làm vì bọn họ sống trong khu nhà phụ trong vườn rau. Mà vườn rau cũng đã được xây tường bao quanh nhằm tránh con mắt nhòm ngó của bọn trộm rau quả.

Họ dẫn tôi lên phòng, tôi trùm chăn kín người, nhưng tôi không ngủ được, tôi vừa nằm đợi trời sáng vừa nghe tiếng tim tôi đập thình thịch. Tôi đã dặn họ báo cho người nhà tôi ngay khi trời sáng.

Thế nên lúc bảy giờ sáng, có tiếng gõ cửa phòng tôi, tên hầu phòng của tôi ló mặt vào, trông hắn đầy vẻ bối rối:

- Thưa ông, con có tin xấu báo ông. - Anh ta nói.

- Gì thế?

- Kẻ trộm đã trộm hết mọi đồ đạc trong nhà rồi thưa ông, chúng lấy hết, lấy hết, kể cả những đồ vật nhỏ nhất.

Tin này làm tôi hài lòng. Tại sao? Ai biết? Tôi vẫn tự chủ được, tôi chắc chắn sẽ giữ kín những gì tôi đã nhìn thấy, tôi sẽ chẳng kể cho ai nghe những gì tôi đã chứng kiến, tôi sẽ giữ, sẽ giấu nó cho tới khi xuống mồ như giữ như giấu một bí mật khủng khiếp. Tôi trả lời:

- Vậy chắc đó cũng chính là những kẻ đã ăn trộm chìa khóa của ta. Hãy báo ngay cho cảnh sát. Ta dậy đây và lát nữa ta sẽ gặp lại cậu ở nhà.

Cuộc điều tra kéo dài năm tháng, cảnh sát chẳng phát hiện ra điều gì cả, cảnh sát không tìm thấy gì hết, họ chẳng hề tìm thấy một đồ vật nhỏ nào của tôi cả, họ cũng chẳng tìm ra một dấu vết nào của bọn trộm nhà tôi.

Đương nhiên rồi! Nếu tôi nói ra những điều tôi đã biết... nếu tôi nói với họ về điều đó... họ sẽ nhốt tôi lại ngay, tôi đã không nhìn thấy kẻ trộm, tôi không thể nhìn thấy những điều như thế.

Ôi! Tôi im đi thì hơn. Nhưng tôi cũng không mua lại đồ đạc trong nhà. Vì vô ích thôi. Điều đó rồi sẽ lại xảy ra. Tôi không muốn về đó nữa. Tôi không về đó nữa. Tôi không muốn nhìn lại ngôi nhà đó một chút nào.

Tôi quay về khách sạn, và tôi đi khám bác sĩ tâm lý vì sau cái đêm tồi tệ đó tôi cảm thấy lo cho tình trạng thần kinh của mình.

Các bác sĩ khuyên tôi đi du lịch cho thư giãn đầu óc. Tôi nghe theo lời khuyên của họ.

Tôi quyết định đi du lịch ở Ý. Thời tiết ở đó rất tốt khiến tôi cảm thấy khỏe lên. Trong suốt sáu tháng, tôi lang thang từ Gênes tới Venise, từ Venise tới Florence, từ Florence tới Rome, từ Rome tới Nappies. Rồi tôi đi ra đảo Sicile, vùng đất thiên đường với thời tiết ôn hòa dễ chịu, với các thắng cảnh nổi tiếng, những thánh tích còn sót lại của người Hy Lạp và người Normands. Tôi đi qua châu Mỹ, tôi băng qua sa mạc rộng lớn một cách yên bình. Sa mạc, nơi toàn cát vàng mênh mông, yên tĩnh, nơi những con lạc đà, những con linh dương, những kẻ du mục người Ả Rập đi lang thang, nơi không khí nhẹ và trong suốt, không nổi trôi một chút ám ảnh nào, không có cơn ác mộng nào ám ảnh tôi.

Tôi về Pháp, nơi tôi đặt chân về đầu tiên là Marseille, cho dù tôi đang rất vui, cho dù khung cảnh vùng Provence rất vui nhộn, tôi vẫn thấy buồn. Tôi cảm thấy một cảm tưởng rất lạ khi quay trở về nơi này, tôi cảm thấy như trong tôi có một căn bệnh gì đó mà tôi tưởng đã khỏi nhưng mầm bệnh vẫn âm ỉ sống và đang trỗi dậy.

Tôi trở về Paris. Lúc đó đang vào thu, ngay từ lúc mới về tôi đã cảm thấy buồn chán, và tôi lại muốn làm một chuyến đi, trước khi đông sang, tới vùng Normandie tuy rằng tôi chưa hề biết vùng này.

Từ Rouen, tôi bắt đầu cuộc hành trình, và trong suốt tám ngày, tôi lang thang không mục đích, vui vẻ, phấn chấn trong thành phố của thời Trung đại này, tôi lang thang trong các bảo tàng đẹp tuyệt với kiểu kiến trúc gôtích.

Rồi một tối, khoảng bốn giờ, khi tôi đang thả bộ trong một con phố kỳ quặc vì nó nằm trên một dòng sông đen ngòm như mực có tên "Nước của Robec" chảy dọc theo con phố, khi đó tôi đang chú mục vào những kiểu cấu trúc nhà rất lạ theo kiểu cổ thì tôi để ý thấy một loạt các cửa hàng bán đồ cổ liền san sát, nhà nọ nối tiếp nhà kia thành một dãy.

A! Họ chọn được một nơi đắc địa làm sao, những kẻ buôn gian bán lận bẩn thỉu, bán các loại đồ cũ trong một đường phố kỳ dị, trên một dòng chảy buồn thảm, dưới những mái ngói nhọn và lại còn có tiếng kêu kèn kẹt của các cái chong chóng từ thời xưa!

Sâu trong các gian hàng, người ta nhìn thấy chất hàng đống những hòm xiểng bằng gỗ khắc, hàng đống những đồ sành sứ của vùng Rouen, Nevers, Moustiers, những bức tượng vẽ được làm bằng gỗ sồi hình Chúa, hình Thánh, hình Đức Mẹ đồng trinh, hình hoa văn của các nhà thờ, hàng đống các áo choàng lễ, áo lễ, thậm chí còn có cả bình nước thánh và một tủ bánh thánh cổ bằng gỗ thiếp vàng.

Ôi! Thật như kho hàng của cướp biển, đầy đồ đạc đủ các chủng loại, đủ các màu sắc, đủ các thời kỳ, đủ các mẫu mã đang được bày bán cho người mua tò mò.

Sự ham thích những đồ mỹ nghệ cổ lại trỗi dậy trong tôi, tôi đi từ cửa hàng này tới cửa hàng khác.

Trời ơi! Tôi thực sự choáng váng khi nhìn thấy một trong những cái tủ đẹp nhất của tôi nằm ngay ngoài một gian nhà đầy ứ đồ đạc. Một đống đồ đạc quen thuộc nhưng sao trông có vẻ như đồ đạc được lấy ra từ một hầm mộ vậy. Tôi run run tiến lại gần những đồ đạc của tôi, run đến nỗi tôi không dám chạm vào cái tủ thân thuộc của mình. Tôi đưa tay ra một cách do dự.

Chính nó rồi: Cái tủ đứng chỉ có ở thời vua Louis VIII, bất cứ ai đã một lần nhìn thấy nó sẽ nhận ra nó ngay, đưa mắt nhìn sâu vào bên trong, tôi nhận ra ba cái ghế bành bọc thảm chấm của mình, sâu hơn một chút vào bên trong là hai cái bàn của thời vua Henri II của tôi. Hai cái bàn này là loại rất hiếm, người ta chỉ có thể nhìn thấy chúng ở Paris mà thôi.

Bạn thử tưởng tượng xem, tưởng tượng xem lúc đó tôi cảm thấy thế nào!

Tôi tiến vào, ngạt thở vì xúc động, nhưng tôi vẫn tiến vào bởi tôi là một người dũng cảm, tôi tiến vào như một hiệp sĩ thời xưa dấn thân vào một cuộc phiêu lưu chống lại ma quý.

Mỗi bước chân tôi lại phát hiện thêm những đồ vật vốn thuộc sở hữu của tôi: những bộ đèn chùm, sách vở, tranh, đồ vải, vũ khí... tất cả, chỉ trừ có chiếc bàn làm việc đầy thư từ của tôi là tôi không nhìn thấy.

Tôi mò mẫm đi xuống phòng bày bán tối tăm rồi tôi lại trèo lên những tầng trên cao. Tôi gọi, nhưng không ai trả lời tôi. Tôi chỉ có mỗi một mình trong căn nhà rộng lớn và ngoắt ngoéo như một mê cung.

Đêm xuống, tôi đành ngồi trong cảnh tăm tối, trên một trong những chiếc ghế dựa của mình vì tôi không muốn bỏ đi.

Thỉnh thoảng tôi lại hét lên: "Có ai ở đây không? Có ai không?" Tôi ngồi một mình ở đó khoảng hơn một tiếng đồng hồ rồi tôi nghe có tiếng chân bước rất nhẹ, rất khẽ, rất chậm. Tôi không biết tiếng chân đó từ đâu phát ra. Tôi suýt bỏ chạy, những rồi tôi cố lấy lại can đảm, tôi gọi lại một lần nữa và tôi nhìn thấy có ánh sáng ở phòng kế bên.

Một giọng hỏi lại:

- Ai ở bên ấy thế?

Tôi trả lời:

- Một người mua hàng.

Giọng đó đáp lại:

- Muộn rồi, cửa hàng không tiếp khách nữa.

- Tôi đã đợi ông từ hơn một giờ rồi. - Tôi đáp.

- Ông có thể quay lại vào ngày mai.

- Ngày mai tôi phải rời Rouen rồi.

Tôi không dám tiến thêm lên một bước nào nữa, người bên kia cũng không sang. Tôi vẫn nhìn thấy ánh sáng ở phòng bên hắt sáng chiếu lên bức thảm treo tường hình hai thiên thần bay lượn trên cánh đồng người chết. Tấm thảm đó cũng là tấm thảm của tôi trước kia. Tôi hỏi:

- Ông sang đây chứ?

Ông ta trả lời:

- Tôi đang đợi ông đây.

Tôi đứng lên và đi sang phòng bên.

Giữa căn phòng lớn là một người đàn ông nhỏ thó, một người rất nhỏ bé trong một căn phòng rất rộng lớn, khung cảnh đó khiến người ta có cảm giác rất khó tả. Ông ta có một chòm râu mảnh, hung vàng và không hề có một sợi tóc nào trên đầu! Không một sợi tóc nào?

Vì ông ta đang giơ cao cây nến để soi tôi nên cái sọ đầu của ông ta trông như một vầng trăng nhỏ trong căn phòng rộng lớn chất đầy đồ cũ này. Mặt ông ta béo phị, đầy nếp nhăn, đôi mắt bé tí rất khó nhìn thấy.

Tôi mua lại ba chiếc ghế cũ của chính mình và tôi đã phải trả một khoản tiền lớn ngay lúc đó. Sau đó tôi đưa địa chỉ khách sạn của mình cho ông ta, chúng sẽ được giao đến cho tôi trước chín giờ sáng mai. Rồi tôi ra về. Ông ta tiễn tôi ra tới tận cửa đầy vẻ lịch sự.

Tiếp đó tôi đến nhà ông cảnh sát trưởng để khai báo về vụ mất trộm toàn bộ đồ đạc trong nhà tôi và những gì mà tôi vừa nhìn thấy.

Ngay tức khắc ông ta đánh điện hỏi Viện Kiểm sát tất cả những thông tin về vụ trộm ở nhà tôi và đề nghị tôi cùng ngồi đợi câu trả lời. Một giờ sau, ông ta thông tin lại cho tôi:

- Tôi sắp bắt người đàn ông đó và tôi sẽ tham vấn ông ta ngay, bởi ông ta bị nghi là có dính líu tới vụ trộm tại nhà ông. Ông có muốn đi ăn tối không? Hãy quay lại đây sau hai tiếng nữa, tôi sẽ bắt giữ ông ta và tôi sẽ hỏi cung trước mặt ông.

- Vâng, rất cảm ơn ông, thưa ông.

Tôi về khách sạn dùng bữa tối, không như tôi tưởng, tôi đã ăn rất ngon miệng. Dù sao tôi cũng khá hài lòng, người ta đã bắt giữ được ông ta.

Hai giờ sau, tôi quay lại nhà ông cảnh sát. Ông đang chờ tôi.

- A tốt! Ông đây rồi. Người ta không tìm thấy người ông tả. Người của tôi đã tra xét khắp nơi nhưng không hề thấy ông ta.

A! Tôi cảm thấy sắp xỉu.

- Nhưng... các ông có lục xoát kỹ ngôi nhà đó không? - Tôi hỏi.

- Lục soát rất kỹ, nó đã được rà soát đi rà soát lại. Nhưng riêng về người đàn ông, ông ta đã biến mất.

- Biến mất?

- Biến mất. Tối tối ông ta thường lui tới chơi nhà hàng xóm, cũng là một nhà buôn đồ cũ, một bà phù thủy khá kỳ lạ, bà ta là vợ góa của ông Bidom. Tối nay, bà ta không gặp ông ta và bà ta không biết ông ta ở đâu. Phải đợi đến mai thôi.

Tôi bỏ về. A! Những con phố ở Rouen mới buồn thảm, tăm tối, rối ren làm sao.

Tôi ngủ rất tệ và mơ thấy ác mộng.

Không muốn tỏ ra quá nôn nóng, ngày hôm sau tôi đợi đến tận mười giờ mới đến sở cảnh sát.

Người bán hàng vẫn chưa xuất hiện, cửa hiệu của anh ta vẫn đóng cửa.

Ông cảnh sát trưởng bảo tôi:

- Điều gì cần làm tôi cũng đã làm hết rồi. Viện Kiểm sát đã biết hết mọi chuyện; chúng ta hãy cùng tới cửa hàng đó và mở nó ra, ông hãy chỉ hết những đồ vật thuộc quyền sở hữu của ông cho tôi.

Và chúng tôi, gồm cảnh sát, một ông thợ khóa và tôi, cùng đến đó trên một chiếc xe ngựa kéo. Đến đó, ông thợ khóa mở khóa cửa trong vòng vài phút. Khi cửa được mở ra, tôi đi vào trong và chẳng còn nhìn thấy tủ của tôi, ghế của tôi, bàn của tôi ở đâu nữa, chẳng còn bất cứ đồ đạc nào của tôi, trong cửa hiệu đó trong khi tối qua mỗi bước chân đi tôi lại nhìn thấy một đồ vật nào đó của mình.

Ông cảnh sát trưởng ngạc nhiên, nhìn tôi với ánh mắt nghi ngờ.

- Ôi Chúa ơi! - Tôi nói với ông ta - Sự biến mất của những đồ vật đó trùng hợp một cách đáng ngạc nhiên với sự biến mất của ông chủ cửa hàng.

Ông cảnh sát trưỡng mỉm cười:

- Vâng, đúng thế đấy! Ông đã sai lầm vì hôm qua đã mua và đã trả tiền những đồ vốn của ông. Hẳn điều đó khiến hắn cảnh giác.

- Điều khiến tôi khó hiểu, đó là tất cả những chỗ mà hôm qua còn chất đầy đồ đạc của tôi giờ đây đã được thay thế bằng đồ vật khác.

- Ồ! - Ông cảnh sát trưởng trả lời - Hắn ta có cả một đêm cơ mà, và đương nhiên còn có cả những kẻ tòng phạm nữa, ngôi nhà này có liên hệ với các nhà hàng xóm. Đừng lo sợ gì hết, thưa ông, tôi sẽ để ý giám sát vụ án này. Kẻ bất lương không thoát được lâu đâu vì chúng ta sẽ giám sát kỹ hang ổ của hắn.

A! Con tim tôi, con tim tôi, con tim khốn khổ của tôi, nó đập mới mạnh làm sao!

Tôi ở lại mười lăm ngày nữa ở Rouen. Người đàn ông đó vẫn không hề xuất hiện. Chúa ơi! Chúa ơi!

Thế nhưng, vào sáng ngày thứ mười sáu, tôi nhận được thư của người làm vườn nhà tôi ở ngôi nhà hoàn toàn không có đồ đạc của tôi, bức thư kỳ lạ đó như sau:

"Thưa ông,

Tôi vô cùng vui mừng được thông báo với ông rằng đêm qua, một sự việc vô cùng lạ lùng đã xảy ra, không một ai, kể cả cảnh sát lẫn tất cả bọn người làm chúng tôi có thể hiểu và giải thích được. Đó là tất cả mọi đồ đạc của ông đã được để vào đúng vị trí cũ, tất cả, không sót một đồ vật nào dù nhỏ nhất. Ngôi nhà giờ đây lại đúng như trước hôm xảy ra vụ trộm.

Chuyện đó diễn ra đêm thứ sáu rạng ngày thứ bảy. Lối đi bị sụt hỏng như thể người ta đã lôi kéo vật gì rất nặng suốt từ hàng rào đến tận cửa. Dấu vết đó giống hệt như dấu vết hôm sau ngày mà tất cả đồ vật biến mất.

Chúng tôi đang ngóng đợi ông về. Xin kính cẩn chào ông.

Raudin Philippe".

Không! Không! Tôi sẽ không về đó đâu!

Tôi mang bức thư đó đến chỗ ông cảnh sát trưởng ở Rouen.

- Một sự hoàn trả khôn khéo - Ông ta nói - Chúng ta hãy án binh bất động. Một ngày nào đó chúng ta sẽ tóm được hắn.

* * * * *

Nhưng người ta đã không tóm được hắn. Không. Họ đã không tóm được hắn, giờ đây, tôi sợ hắn, như thể đó là một con thú hung ác bị sổng đang đuổi theo tôi.

Không thể tìm thấy! Hắn là không thể tìm thấy, tên quái vật có cái sọ hình mặt trăng! Người ta không bao giờ bắt được hắn. Hắn sẽ không quay về hang ổ của hắn nữa. Duy chỉ có tôi có thể gặp hắn; tôi không muốn.

Tôi không muốn! Tôi không muốn! Tôi không muốn!

Nếu hắn quay lại, nếu hắn quay về gian hàng của hắn, ai sẽ có thể chúng minh rằng những đồ đạc của tôi đã từng ở đó? Chẳng có chứng cứ nào chống lại hắn cả; và hắn mãi mãi chỉ là kẻ bị tình nghi mà thôi.

Nhưng không! Con người đó là không thể có thật. Tôi không thể giữ được bí mật về điều mà tôi đã nhìn thấy. Tôi không thể sống với nỗi sợ điều đó sẽ lại xảy ra một lần nữa.

Tôi đến tìm bác sĩ trưởng của bệnh viện tư này và kể cho ông nghe mọi chuyện.

Sau khi đã hỏi han tôi rất lâu, ông nói với tôi:

- Ông có bằng lòng ở lại đây một thời gian không thưa ông?

- Tôi bằng lòng.

- Ông có tiền chứ?

- Có.

- Ông có muốn ở riêng không?

- Có.

- Ông có muốn gặp gỡ bạn bè không?

- Không, tôi không muốn gặp bất cứ ai hết. Vì người đàn ông ở Rouen có thể sẽ đến tận đây để trả thù tôi.

* * * * *

Và tôi ở lại đó một mình, hoàn toàn có một mình từ ba tháng nay. Tôi dần lấy lại được thăng bằng. Tôi chỉ sợ có một điều... Nếu kẻ bán đồ cổ đó phát điên... nếu người ta đưa hắn đến đây, đến nhà thương điên này... Thì chính nhà tù mà tôi đã chọn để nương náu này cũng không còn an toàn, chắc chắn nữa.

--------------------------------

1

Hội nghị đêm của các phù thủy mà Satăng làm chủ tọa.

Trên nước

Năm ngoái, tôi đã thuê một căn nhà nhỏ ở nông thôn ven bờ sông Seine, cách Paris vài dặm. Tối nào tôi cũng về ngủ ở đó. Ngay từ những ngày đầu mới chuyển đến tôi đã làm quen được với một trong những người hàng xóm của tôi, đó là một người khoảng từ ba mươi đến bốn mươi tuổi, một mẫu người đáng tò mò nhất mà tôi từng gặp. Một người chèo xuồng già, nhưng là một người chèo xuồng kỳ cựu, luôn sống gần nước, trên nước, trong nước. Hẳn ông ta đã được sinh ra trên một chiếc xuồng, và chắc hẳn ông ta cũng sẽ chết trên một chiếc xuồng.

Một tối chúng tôi cùng dạo chơi bên bờ sông Seine, tôi đề nghị ông kể cho tôi nghe vài giai thoại về cuộc đời sóng nước của ông. Thế là ông hàng xóm của tôi bỗng sinh động hẳn lên, khuôn mặt ông bỗng thay đổi hẳn, đầy mơ mộng, đầy cảm xúc, như thể khuôn mặt của một nhà thơ đang xuất thần. Ông yêu, một tình yêu say đắm, khát khao, không cưỡng lại được đối với dòng sông.

Ôi! Tôi có biết bao nhiêu kỷ niệm với dòng sông này, vâng với chính dòng sông mà chúng ta đang dạo chơi cạnh nó đây! Các ông thì khác, đối với các ông sông chẳng có nghĩa gì. Nhưng hãy nghe một thuyền chài nói về nó. Đối với anh ta, đó là một cái gì đó bí hiểm, sâu thẳm, xa lạ, một nơi đầy ảo tưởng và đầy những cảnh huyễn hoặc, nơi trong đêm người ta thấy những gì chưa từng thấy, nghe những gì chưa từng nghe, nơi đó người ta run sợ mà chẳng biết tại sao, cảm giác như thể ngang qua một nhà mồ, có thể còn khủng khiếp hơn một nhà mồ - nơi chẳng có gì ngoài những nấm mộ.

Đất liền là bến bờ đối với dân thuyền chài, và trong những đêm không trăng, không sao, dòng sông như thể là vô tận. Một thủy thủ có thể cảm nhận được điều tương tự đối với biển. Biển thường hung tợn, hiểm ác, biển thường gầm lên, rú lên nhưng nó bao giờ cũng báo trước hiểm họa bằng sóng gầm, gió giật. Trong khi sông lúc nào cũng im lìm đầy phản trắc. Nó không gầm lên, nó luôn chảy nhẹ nhàng không tiếng động, thế nhưng tôi sợ cái dòng chảy im lìm bất tận đấy hơn những con sóng lừng của đại dương.

Những người mơ mộng thì khẳng định rằng trong lòng đại dương là một thế giới xanh bao la, nơi đó những người chết đuối lăn giữa những con cá lớn, giữa những khu rừng kỳ lạ và trong các hang động thủy tinh. Sông chỉ có đáy sâu tối tăm, và người chết sẽ thối rữa ra trong một cái lọ vớ vẩn nào đó. Thế nhưng sông thật đẹp, nó lấp lánh sáng khi bình minh, gợn sóng lăn tăn dưới chân các cây sậy reo vui trong gió.

Thế đấy, tôi tin rằng những câu chuyện được thầm thì khẽ khàng, lọt qua các thân sậy mỏng manh còn buồn ghê gớm hơn những câu chuyện bi thảm được dệt nên bởi sóng gầm đại dương.

Nhưng bởi anh muốn tôi kể cho anh nghe một vài kỷ niệm của chính bản thân tôi, tôi sẽ kể cho anh nghe một chuyện kỳ cục đã từng xảy đến với tôi ở chính nơi đây cách đây khoảng chục năm rồi.

Từ trước tới nay tôi vẫn sống trong nhà của mẹ Lafon, với một trong những người bạn học của tôi, Luis Bernet, anh ta hiện giờ đã bỏ nghề chèo xuồng, bỏ những thú vui hão huyền và bỏ những thói bê tha để ứng cử vào Hội đồng nhà nước. Hội đồng đó đã được đặt ở làng C. cách đây hai dặm. Chúng tôi thường ăn tối cùng nhau, lúc ở nhà tôi, lúc ở nhà anh ta.

Một tối, tôi quay về, một mình, mệt mỏi, kéo cái thuyền của tôi, một chiếc thuyển đánh cá to dài 4 fit 1 một cách nặng nhọc. Tôi luôn đánh rửa nó vào ban đêm, tôi ngừng lại giây lát để thở, và tôi thấy dưới kia, ngay sát những cây sậy, trước cây cầu sắt khoảng hai trăm mét là một cảnh tượng đẹp tuyệt vời: trăng vằng vặc, dòng sông êm đềm sáng lấp lánh, không khí đầy vẻ tĩnh lặng và yên bình. Không khí tĩnh lặng đó khiến tôi muốn nghỉ tay để ngắm và tôi tự nhủ đây là một thời gian thật tuyệt để tự thưởng cho mình một điếu thuốc.

Nghĩ sao làm vậy, tôi thả neo liền.

Chiếc thuyền, trôi nhẹ theo dòng nước rồi dừng hẳn lại khi neo chạm đáy sông. Tôi ngồi một cách thoải mái ở sau thuyền, ngắm sông, ngắm nước. Thật yên ả thanh bình, không có một tiếng động nào khác ngoài tiếng sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền, vào thân sậy, và tôi nhận thấy các bụi sậy cao có một vẻ gì đó rất khác thường và có vẻ như chúng đang cựa quậy.

Dòng sông vẫn hoàn toàn yên tĩnh, nhưng tôi bỗng cảm thấy hồi hộp bởi sự tĩnh lặng một cách kỳ lạ đang bao quanh tôi. Kể cả ếch, cóc - những tên gây ồn ban đêm cũng im bặt. Đột nhiên, ở bên phải tôi, có tiếng ộp ộp của một chú ếch, tôi rùng mình, chú ta im bặt; tôi chẳng nghe thấy bất cứ gì nữa hết, tôi hít một hơi thuốc dài để tự trấn an. Đột nhiên, cho dù tiếng tẩu của tôi ròn vang, tôi vẫn không sao trấn tĩnh được; ngay luồng hơi thuốc thứ hai, tim tôi đã đập rộn lên. Tôi cố lẩm nhẩm hát; tiếng hát của tôi như không bật được ra khỏi cổ họng.

Đã thế, tôi vào trong thuyền, nằm dài ra và nhìn lên bầu trời. Trong khoảng một lúc, tôi nằm yên, nhưng những chuyển động nhẹ nhàng của con thuyền làm tôi lo lắng. Nó có vẻ như có những bước lái chệch khổng lồ, chạm lần lượt vào cả hai bờ sông; rồi tôi tin rằng có một vật gì đó hoặc một sức mạnh không nhìn thấy được nào đó đang hút con thuyền một cách nhẹ nhàng xuống đáy sông, nâng nó lên và để nó rơi xuống. Tôi như đang ở trung tâm bão; tôi nghe thấy những tiếng động xung quanh tôi, tôi đứng vọt đậy: nước lấp lánh sáng, cảnh vật yên bình.

Tôi hiểu rằng tôi đã quá căng thẳng và tôi quyết định quay về. Tôi kéo neo lên. Thuyền của tôi chòng chành nhè nhẹ, có cái gì đó vương vướng, tôi giật mạnh sợi dây neo, không được, neo của tôi đã mắc vào cái gì đó ở dưới đáy sông và tôi không thể nhấc nó lên được; tôi thử cố kéo một lần nữa nhưng vô ích. Dùng mái chèo, tôi cố dịch chuyển vị trí con thuyền hòng kéo được neo lên, mọi cố gắng đều vô ích, neo không kéo được lên, thuyền không đi đâu được. Cáu tiết, tôi giật sợi dây neo một cách điên cuồng. Chẳng có gì nhúc nhích. Thất vọng, tôi ngồi phịch xuống, suy nghĩ xem phải làm gì bây giờ. Tôi không thể nghĩ đến việc cắt đứt dây neo, cũng như không thể nghĩ đến việc bỏ thuyền lại đó. Hôm đó trời đẹp, thế nên tôi cho rằng chưa muộn lắm và có lẽ bạn chài nào đó sẽ đi ngang qua đây và giúp tôi một tay. Tôi ngồi xuống, rút tẩu ra, mồi lửa, cuối cùng ít ra tôi cũng có thể yên tĩnh hút tẩu thuốc của mình. Tôi có một chai rum, tôi uống vài hụm, tình cảnh rủi ro này bỗng khiến tôi phì cười. Cùng lắm thì tôi sẽ ngủ ở trên thuyền đêm nay, dưới bầu trời đầy sao, trời nóng nực như thế này thì đó cũng không phải là điều gì quá khó chịu.

Đột nhiên có cái gì đó động nhẹ vào mạn thuyền; giật thót mình, bỗng đâu mồ hôi lạnh đổ đầy từ đầu đến chân tôi. Tiếng động này chắc chắn là do một vật gì đó trôi theo dòng nước chạm vào thuyền tôi mà thôi, nhưng nó cũng đủ làm tôi lo lắng bồn chồn. Bằng một động tác nóng nảy, tôi lại cố gắng giật dây neo lên, cái neo không lay chuyển, thất vọng, tôi mệt lả người vì những cố gắng vô ích.

Sương xuống, mặt sông bị bao phủ bởi một làn sương trắng dày đặc, sương lan sát mặt sông đến nỗi khi đứng lên, tôi chẳng còn nhìn thấy mặt nước nữa, tôi cũng chẳng còn nhìn thấy ngay cả đến chân mình, thuyền của mình... nhưng tôi vẫn nhìn thấy ngọn sậy và ở phía xa xa là bình nguyên xanh xao dưới ánh trăng bàng bạc với những chấm đen lớn đang tiến dần lên trời, những chấm đen được tạo bởi những nhóm cây dương, tôi như bị vùi tới tận thắt lưng trong một màn trắng kỳ ảo, và bỗng nhiên tôi có những tưởng tượng rất quái dị lạ thường. Tôi tưởng như ai đó đang cố đưa thuyền tôi lên và tôi không thể nhận ra rõ ràng thuyền tôi đang ở trên mặt nước hay lơ lửng trên không, và dòng sông bị bao phủ trong sương dày đặc đầy những sinh vật kỳ lạ đang bơi xung quanh tôi. Tôi cảm thấy khó chịu khủng khiếp, đầu tôi đau nhức, tim tôi đập thình thịch; tôi nảy ra ý định bơi trốn đi, ý nghĩ này khiến tôi rùng mình kinh sợ. Tôi thấy mình bị lạc lối trong sương mù dày đặc, vật lộn trong bụi sậy không sao thoát ra được, thở hổn hển vì sợ, không nhìn thấy bờ đâu, không sao tìm lại được thuyền của mình, có vẻ như chân bị lôi xuống đáy sâu đen kịt.

Thật vậy, bởi tôi cần phải ngược lên ngọn nguồn sông ít nhất là năm trăm mét trước khi tìm thấy một ngọn cỏ, một thân cây để tôi có thể đặt chân, tôi có tới chín phần mười xác suất bị mất phương hướng trong đám sương mù này và chết đuối, chết đuối một kẻ bơi giỏi đến như tôi.

Tôi cố tự giải thích. Tôi cố tự trấn an, cố đẩy lùi cảm giác sợ. Nhưng trong tôi, có một cái gì đó cưỡng lại ý chí của tôi, và cái đó khiến tôi sợ. Tôi tự hỏi cái gì khiến tôi rất sợ; cái tôi gan dạ chế giễu cái tôi nhát gan, và chẳng bao giờ tôi lại cảm thấy rõ ràng đến thế hai mặt đối lập trong con người tôi, một mặt muốn thế này, mặt kia lại muốn thế khác, và hai mặt cứ lần lượt thay nhau chiếm lĩnh tinh thần tôi, trí óc tôi.

Sự kinh hãi ngu ngốc và không thể giải thích này cứ lớn dần trong tôi và trở thành một nỗi kinh hoàng. Tôi đứng im bất động, hai mắt mở to, hai tai căng ra, chờ đợi. Cái gì thế? Tôi chẳng biết đó là cái gì, nhưng hẳn nó kinh khủng lắm. Tôi tin rằng nếu một con cá bị báo trước rằng nó sắp bị câu lên khỏi mặt nước, điều này vẫn thường xảy ra, hẳn nó còn cảm thấy dễ chịu hơn tôi lúc này, căng cứng vì sợ, không hiểu điều gì sắp xảy đến.

Tuy nhiên, bằng một nỗ lực phi thường, tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, tôi tóm lấy chai rượu và làm một ngụm lớn.

Một sáng kiến nảy ra. Bằng hết sức bình sinh, tôi vừa hét thật to vừa quay tứ phía. Cho tới khi khàn giọng, tôi ngừng lại, nghe ngóng. Có tiếng chó tru từ rất xa.

Tôi lại làm hụm rượu nữa rồi nằm dài ra trong lòng thuyền. Tôi cứ nằm như thế có thể một tiếng, hai tiếng đồng hồ, không ngủ, hai mắt mở to, với sự ám ảnh đang bao bọc lấy tôi. Tôi thậm chí không dám ngồi dậy dù rất muốn; tôi đếm từng phút, từng phút. Tôi tự nhủ "Nào, dậy nào!". Và rồi tôi sợ cả việc phải nhúc nhích. Cuối cùng tôi đứng dậy một cách cẩn trọng như thể mạng sống của tôi phụ thuộc vào việc tôi có gây ra tiếng động hay không. Tôi nhìn lên trên mạn thuyền.

Tôi bỗng lóa mắt bởi một cảnh tượng đáng ngạc nhiên đẹp tuyệt vời mà tôi không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Đó là một trong những ảo đăng trong vương quốc của những nàng tiên, nó cũng giống như những gì mà các nhà thám hiểm đã tả, (và chúng ta thường chẳng hề tin), sau khi quay về từ các cuộc thám hiểm những vùng đất xa xôi.

Sương mù trước đây hai tiếng bò dầy đặc mặt sông, giờ đây đang dần mờ đi rồi tan biến để lại một dòng sông yên bình, tĩnh lặng với hai bên bờ cao nổi rõ trong đêm trăng vằng vặc. Cảnh vật tuyệt đẹp, dòng sông sáng lấp lánh nằm giữa hai bờ cao như hai dãy núi dài trắng; và ở trên cao, trên đầu tôi, trăng tròn vành vạnh trôi trên nền trời xanh trắng như sữa.

Các sinh vật dưới nước bừng tỉnh giấc; ếch kêu ộp ộp, cóc nhảy lóc chóc, và tôi nghe thấy, lúc bên trái, lúc bên phải tiếng côn trùng rả rích. Và một điều kỳ lạ, tôi không còn thấy sợ nữa; Tôi đang ở trong một thế giới kỳ lạ đến nỗi mọi điều kỳ dị nhất có diễn ra cũng sẽ không thể làm tôi ngạc nhiên.

Điều đó xảy ra trong bao lâu tôi cũng không biết nữa, bởi cuối cùng tôi thiu thiu ngủ. Khi tôi mở mắt, trăng đã lặn, trời đầy mây. Nước vỗ bập bềnh, gió hú, trời lạnh, bóng tối lan tràn.

Tôi uống nốt chỗ rượu còn lại trong chai, run lập cập vì lạnh, tôi nghe tiếng sậy reo vi vu trong gió một cách buồn thảm. Tôi cố nhìn, nhưng tôi chẳng còn phân biệt được đâu là thuyền của tôi, kể cả đôi bàn tay tôi đưa sát tận mắt mà tôi cũng chẳng nhìn thấy.

Dần dần, bóng đêm cũng tan dần. Đột nhiên tôi cảm thấy có bóng gì đó đi lướt qua, rất gần thuyền tôi. Tôi thốt kêu lên, có tiếng đáp lại; đó là một bạn chài. Tôi gọi anh ta, anh ta lại gần và tôi kể cho anh ta sự rủi ro của tôi, nhờ anh ta giúp đỡ. Anh ta liền áp mạn thuyền anh ta vào mạn thuyền tôi rồi cả hai chúng tôi cùng ra sức kéo dây neo. Cái neo không nhúc nhích. Sáng rồi, một buổi sáng đầy mây, tối, bầu trời xám xịt, lạnh buốt. Một trong những buổi sáng báo hiệu một ngày buồn thảm. Một ngày sẽ mang đến bất hạnh cho bạn. Tôi nhận thấy có một chiếc thuyền nữa đi ngang qua, cả hai chúng tôi cùng gọi váng lên. Anh ta đến giúp chúng tôi một tay; từng chút từng chút một, cái neo nhúc nhích, nó được kéo lên một cách chậm chạp bởi có vẻ như có cái gì đó nặng một cách lạ thường đang bám vào nó. Cuối cùng chúng tôi cũng lôi lên được một khối nặng đen sì, và chúng tôi lôi nó lên thuyền tôi: Đó là xác của một bà già đeo một hòn đá to ở cổ.

--------------------------------

1

1 fit = 0, 3048 m.

Cái chết

Ta đã yêu nàng điên cuồng! Tại sao người ta lại yêu? Thật quá ư kỳ quặc khi ta không còn nhìn thấy bóng hình nàng yêu quý trên trái đất này nữa, lúc đó tâm hồn chỉ còn một ý nghĩ, trong tim chỉ còn một ước muốn duy nhất, trên môi chỉ còn một cái tên: một cái tên được gọi lên không ngừng, được gọi lên liên miên như một lời cầu nguyện khẩn thiết, cái tên như nước trong nguồn, thẳm sâu trong trái tim, trào dâng lên môi khiến phải thốt lên thành tiếng gọi, gọi đi gọi lại, gọi mãi gọi mãi, gọi mọi lúc mọi nơi và liên tục được lặp lại như một lời kinh cầu.

Tôi sẽ không kể một lời nào về tình yêu của chúng tôi. Một tình yêu duy nhất, mãi mãi. Tôi đã gặp và đã yêu nàng. Chỉ thế thôi. Và tôi đã có một năm hạnh phúc trong vòng tay âu yếm, trong sự dịu ngọt, trong tình yêu của nàng. Tôi đã được bao bọc, được ràng buộc, được cầm tù trong tình yêu của nàng, trong ánh mắt nàng nhìn, trong lời nàng nói, trong hơi nàng thở. Khi ấy, tôi như bay bổng trong hạnh phúc, không cần biết đang là ngày hay đang là đêm, tôi đang sống ở đâu, trên trái đất hay trên mặt trăng, tôi đang sống hay là tôi đã chết...

Cuộc sống của tôi lúc đó tràn đầy hạnh phúc, tôi bơi ngụp trong niềm hạnh phúc hoan lạc vô biên. Thế mà nàng chết. Như thế nào? Tôi không biết, tôi không biết nữa.

Một đêm mưa gió, nàng về nhà, ướt sũng, ngày hôm sau, nàng húng hắng ho, rồi nàng cứ ho mãi trong suốt một tuần và cuối cùng nàng ốm, nằm liệt giường.

Điều gì đã xảy ra? Tôi không biết nữa.

Các bác sĩ đến, viết đơn thuốc rồi đi. Người ta mang đến đủ các loại phương thuốc, một hộ lý cho nàng uống tất cả các loại thuốc các bác sĩ kê. Tay nàng nóng, trán nóng và lấm tấm mồ hôi, ánh mắt nàng rực sáng đầy vẻ u buồn. Tôi nói chuyện với nàng, nàng đáp chuyện với tôi. Chúng tôi đã nói những gì tôi cũng không biết nữa. Tôi đã quên cả rồi, tôi đã quên hết, quên hết. Nàng chết, tôi nhớ rất rõ tiếng thở dài cuối cùng của nàng, một tiếng thở dài rất khẽ, rất nhẹ, tiếng thở dài cuối cùng.

Người trông nàng thốt lên: "A". Tôi hiểu, tôi hiểu ngay. Tôi đã chẳng biết gì nữa. Không một chút nào nữa hết. Tôi nhìn thấy một linh mục thốt lên: "Cầu chúa phù hộ cho con". Với tôi có vẻ như ông ta đã xúc phạm nàng. Tôi đuổi ông ta đi. Một người khác đến, ông này có vẻ rất tốt, rất hiền từ. Tôi khóc khi ông nói với tôi về nàng. Người ta hỏi tôi hàng nghìn điều về thủ tục mai táng. Tôi không biết nữa. Thế nhưng tôi nhớ rất rõ cái áo quan, nhớ rất rõ tiếng búa đóng nhốt chặt nàng trong đó. Ôi! Chúa ơi!

Nàng đã bị chôn chặt! Bị chôn chặt! Nàng! Trong cái huyệt này! Một vài người bạn đến đưa tiễn nàng. Tôi chạy. Tôi trốn. Tôi lang thang vô định ngoài phố. Rồi tôi trở về khách sạn. Ngày hôm sau tôi sẽ lên đường về nhà.

Hôm qua tôi về Paris.

Khi tôi nhìn lại phòng mình, phòng của chúng tôi, đồ đạc của chúng tôi, mọi thứ của nàng vẫn còn nguyên ở vị trí cũ, như khi nàng còn sống, đau buồn biết mấy, vật vẫn còn đây mà người đâu mất rồi. Tan nát cõi lòng, tôi đóng cửa sổ lại và định đi. Làm sao có thể ngồi lại giữa những đồ vật thân yêu đầy kỷ niệm này được, làm sao có thể ngồi giữa những bức tường, những bức tường đã bao bọc nàng, che chở nàng. Tôi như vẫn nhìn thấy bóng dáng nàng qua những thứ nàng còn để lại, chịu không nổi, tôi vớ lấy cái mũ để đi. Đột nhiên, khi tôi đi đến cánh cửa ra vào, tôi đi ngang qua chiếc gương lớn mà nàng đã đặt ở đó để ngắm lại từ đầu đến chân mỗi khi đi ra ngoài, trang phục, đầu tóc đã hoàn toàn ưng ý hay chưa. Tôi đứng hẳn lại trước cái gương. Cái gương đã thường xuyên phản chiếu hình ảnh nàng, hẳn nhiên nó vẫn còn giữ lại bóng hình nàng.

Tôi đứng đó, run rẩy, mắt dán chặt vào gương, một mặt gương phẳng, sâu, trống rỗng nhưng nó đã từng bao chứa toàn bộ bóng hình nàng, cũng như tôi, cũng như đôi mắt si mê của tôi từng ngắm nhìn nàng. Điều đó khiến tôi phát sinh cảm giác yêu mến cái gương, tôi chạm vào nó, nó lạnh ngắt! Ôi! Kỷ niệm! Kỷ niệm! Cái gương đau khổ, cái gương sáng láng, cái gương muôn năm, cái gương khủng khiếp làm tôi đau lòng như đang bị tra tấn.

Hạnh phúc thay những con người có trái tim như một cái gương, như một tấm gương mà mọi hình ảnh chỉ lướt qua và được xóa sạch đi, quên đi tất cả những gì nó từng bao chứa, tất cả những gì từng đi qua, tất cả những gì, những gì từng soi, từng ngắm trước nó với đầy tình âu yếm, thương yêu! Ôi tôi mới đau khổ làm sao!

Tôi bỏ ra đường và dù không muốn, nhưng không hiểu sao tôi lại đi về phía nghĩa trang. Tôi tìm ngay thấy mộ nàng không khó khăn gì, một cây thánh giá bằng cẩm thạch với vài chữ: "Nàng đã yêu, được yêu, và đã chết".

Nàng đang ở dưới đó, dưới tít sâu lòng đất, đang thối rữa! Khủng khiếp quá! Tôi bật khóc nức nở, trán tì xuống đất.

Tôi ở lại đó rất lâu. Rồi tôi nhận thấy rằng trời đang dần tối. Bỗng nhiên tôi muốn, một mong muốn kỳ quặc điên rồ, được ở lại cùng nàng đêm nay, đêm cuối cùng này để khóc trên mộ nàng. Nhưng người ta sẽ trông thấy tôi, người ta sẽ đuổi tôi đi. Làm thế nào bây giờ? Tôi phải mưu mẹo một chút mới được. Tôi đứng lên và đi lang thang trong thành phố của người chết. Tôi đi, đi mãi. Nó mới bé nhỏ làm sao, thành phố của người chết, so với thành phố kế cận, thành phố của những người đang sống. Tuy rằng số lượng người đã chết nhiều hơn nhiều so với người đang sống, chúng ta, những người sống cần đến rất nhiều những nhà cao tầng, những con phố, vô cùng nhiều những quảng trường để cho bốn thế hệ có thể cùng nhìn thấy ánh mặt trời, cùng uống nước, cùng uống rượu vang và cùng ăn bánh mì. Thế nhưng tất cả những thế hệ của những người chết, vô cùng nhiều, từ thời cụ tổ đến tận thời chúng ta thì gần như lại chẳng có gì cả, chỉ một khu nhỏ, gần như không có gì hết. Đất bao chứa họ, chôn vùi họ, xóa đi thân thể hình ảnh của họ. Vĩnh biệt!

Ngay khi vào khu nghĩa địa, tôi thấy có một nhà mồ bỏ không, đấy là nơi mà có những người đã được chôn và đã rữa vào trong đất, với tấm bia mộ đã mục nát, và chính tại cái mộ này, sẽ có một người mới chết khác sẽ được chôn và sẽ rữa ra tại đây. Hoa hồng dại và những cây bách mọc xanh mướt ngôi nhà mồ do được bón bằng xương thịt người chết.

Tôi ở đó có một mình, mỗi một mình. Tôi thu mình nấp sau một cây to. Tôi trốn ở đó, hoàn toàn được che khuất bởi những cành lá rậm rạp.

Và tôi đợi, bám chặt vào thân cây như một kẻ chết đuối bám vào cọc. Khi trời đã tối, tối đen như mực, tôi rời chỗ nấp và dò dẫm từng bước nặng nề trên mảnh đất toàn người chết. Tôi lang thang rất lâu, rất lâu nhưng tôi không tìm thấy mộ nàng. Tay giơ ra phía trước, mắt mở to, tay tôi, chân tôi, đầu gối tôi, ngực tôi, và cả đầu tôi nữa đụng bốp bốp phải các mộ khác. Tôi dò dẫm đi mãi mà không tìm thấy được mộ nàng. Tôi dò dẫm, sờ soạng đi trong đêm tối như một người mù tìm đường, tôi sờ vào đất đá, vào bia mộ, vào các vòng hoa tươi, vào các vòng hoa héo. Tôi đọc tên bằng cách lấy ngón tay sờ lần theo chữ khắc. Bóng tối mới tệ hại làm sao! Bóng tối mới tệ hại làm sao! Tôi không tìm được mộ nàng!

Không có ánh trăng! Màn đêm khủng khiếp! Tôi sợ, một nỗi sợ khủng khiếp bao trùm. Trên một con đường nhỏ lờ mờ hiện ra giữa hai hàng mộ, những ngôi mộ lù lù. Luôn luôn là những ngôi mộ. Bên trái, bên phải, đằng trước, đằng sau, xung quanh tôi toàn mộ là mộ! Thậm chí tôi cũng đang ngồi lên một ngôi mộ bởi đôi chân quá mệt mỏi và quá sợ hãi đã không còn đứng được nữa. Tôi nghe tiếng tim tôi đập dồn dập, và tôi nghe thấy xung quanh những tiếng động khác lạ đang vọng đến! Tiếng gì thế nhỉ? Những tiếng động lộn xộn khó phân biệt, hay đó là do đầu óc quá mệt mỏi và sợ hãi của tôi tưởng tượng ra trong đêm đen tối thui này, hay tiếng động đó phát ra từ dưới lòng đất, nơi chôn đầy xác người chết này? Tôi nhìn quanh...

Tôi đã ở đây được bao lâu rồi nhỉ? Tôi không biết nữa. Tôi đờ ra vì khiếp sợ, tôi sợ cuống cả lên đến nỗi chỉ cần một tiếng động nhẹ cũng khiến tôi chết khiếp. Hình như tôi cảm thấy tấm đá hoa cương trên mộ tôi đang ngồi chuyển động. Đúng, rõ ràng là nó đang chuyển động, nó đang dâng cao lên. Tôi nhảy phắt sang mộ bên cạnh, tôi thấy tận mắt phiến đá mà tôi vừa ngồi dịch chuyển, đùn lên; và một bóng ma xuất hiện, xuất hiện từ dưới ngôi mộ, một bộ xương khô với cái lưng khòng khòng. Tôi nhìn rất rõ cho dù lúc đó trời tối đen như mực. Trên tấm bia vừa đùn lên tôi lờ mờ đọc được dòng chữ: "Nơi yên nghỉ của Jacques Olivant, mất ở tuổi năm mốt, ông yêu mến bà con thân thuộc, ông luôn tốt bụng và tử tế, ông chết, trong sự yên bình của Chúa".

Trong lúc tôi đang đọc dòng chữ được khắc cẩn thận trên tấm bia thì bóng ma vừa hiện ra lúc nãy dường như cũng đọc những gì đã được ghi trên mộ ông ta. Bóng ma nhặt một viên sỏi trên đường, một viên sỏi có cạnh sắc, rồi ngồi tỉ mỉ, cẩn thận cạo sạch những chữ người ta đã ghi trên bia, sau khi tấm bia đã được cạo sạch, bóng ma viết lại lên bia những dòng chữ cháy sáng: "Nơi đây yên nghỉ Jacques Olivant, chết ở tuổi năm mươi mốt, vì muốn sớm có được gia tài ông đã cư xử tàn tệ khiến bố ông chết sớm, ông bạc đãi vợ, đánh đập con cái, lừa lọc họ hàng, ăn cắp khi có thể và chết một cách khốn khổ".

Sau khi hoàn tất việc viết lại mộ bia, bóng ma đứng bất động một lúc chiêm ngưỡng tác phẩm của mình. Quay người lại tôi thấy các mộ khác cũng đã mở hết, những bóng ma từ các ngôi mộ khác đã chui hết ra khỏi mộ, tất cả bọn họ đều đang xóa những lời dối trá mà cha mẹ, anh em, người thân đã ghi trên mộ bia của họ thay vào đó là những dòng chữ về sự thật của họ. Và tôi thấy tất cả bọn họ đều là những kẻ đáng ghét, xấu xa, đạo đức giả, nói dối, nghiện rượu, vu không, ghen ăn tức ở với người khác. Giờ đây, những con người mà trên bia mộ ghi những lời ca ngợi họ là những ông bố đáng kính, người chồng, người vợ chung thủy, người con hiếu thảo, thương nhân trung thực, những người đàn ông và đàn bà không có gì đáng chê trách... họ đang loay hoay sửa lại những tấm bia trước khi đi vào cõi vĩnh hằng để ghi lại trên đó những sự thật khắc nghiệt, ác độc, khủng khiếp mà những người còn sống đã không biết, hoặc là đi coi như không biết. Và tôi đột nhiên nghĩ rằng chắc giờ này vợ yêu của tôi cũng đang làm vậy trên bia mộ của nàng. Tôi không còn thấy sợ nữa, tôi chạy giữa các ngôi mộ, chạy xuyên qua các bóng ma, chạy giữa những bộ xương người chết để đi tìm nàng, đi tìm mộ nàng. Một lát sau, tôi trông thấy từ xa bóng hình yêu dấu của nàng, tôi nhận ra nàng ngay dù không nhìn được mặt nàng vì nó đã bị khăn liệm che phủ. Và trên mộ bia nàng lúc trước tôi đã đọc: "Nàng đã yêu, được yêu và chết". Giờ đây đã được ghi lại với dòng chữ: "Một hôm dối chồng đi ngoại tình, mắc mưa, cảm lạnh, chết".

Hình như là sáng hôm sau, người ta tìm thấy tôi, bất tỉnh cạnh một ngôi mộ.

Anh ta?

Viết cho Pierre Decourcelle

Bạn thân mến, bạn không hiểu tí gì ư? Còn tôi thì hiểu đấy. Bạn tin rằng tôi điên rồi sao? Có thể tôi hơi điên, nhưng không phải điên theo cách bạn nghĩ đâu. Vâng, tôi đã kết hôn. Thế đấy.

Thế nhưng tôi không hề thay đổi các quan niệm tôi đã có trước đây. Tôi coi những mối quan hệ mang tính hợp pháp, chỉ là những trò ngớ ngẩn. Tôi chắc rằng cứ mười đôi vợ chồng thì phải có đến tám đôi ăn ở với nhau mà không cưới xin. Những đôi cưới nhau là những kẻ dốt nát, từ bỏ quyền có được tình yêu tự do, điều vui vẻ và tốt đẹp duy nhất trên đời này, họ đã từ bỏ niềm hạnh phúc được sống tự do theo ý mình bằng cách tự gắn đời mình vào một người đàn bà hay một người đàn ông cụ thể nào đó... Không bao giờ tôi cảm thấy tội lỗi khi yêu một phụ nữ, bởi tôi luôn yêu quá nhiều người. Tôi mong có được hàng nghìn đôi tay, hàng nghìn đôi môi để có thể ôm xiết cùng một lúc thật nhiều cô nàng, yêu kiều và đỏm dáng. Ấy thế nhưng tôi lại kết hôn.

Tôi nói thêm rằng tôi biết về người vợ sắp cưới của tôi rất ít. Tôi mới chỉ gặp cô ấy khoảng bốn năm lần. Tôi biết cô ấy không muốn làm tôi phật ý; đối với tôi thế là đủ để có thể cưới cô ấy. Cô ấy nhỏ bé, tóc vàng, người tròn trịa. Rồi một ngày kia, tôi sẽ khát khao mong muốn một cô cao lớn, tóc nâu, người mảnh khảnh.

Cô ấy không giầu, cô là con gái một gia đình trung lưu. Đó là một cô gái như bao cô gái khác, không có gì đặc biệt, sẽ là một người vợ đảm, một người mẹ hiền. Không có gì đáng ngợi khen nhưng cũng chẳng có gì đáng chê trách, trong một xã hội thị dân tầm thường. Người ta nhận xét: "Cô Lajolle là một cô gái tốt". Ngày mai họ sẽ nói: "Bà Raymon là một phụ nữ rất tốt". Cô ấy thuộc về một lớp thiếu nữ ngoan ngoãn tử tế, mà người ta rất yên tâm và vui lòng lấy về làm vợ. Để rồi một ngày nào đó, người ta lại khám phá ra rằng người ta thích bất cứ một người phụ nào khác ngoài người phụ nữ mà người ta đã chọn. Chắc là cậu sẽ hỏi vì sao tôi kết hôn? Tôi xin thú thật với cậu, lý do lạ lùng và thật vô lý đã đẩy tôi đến quyết định điên rồ đó: Tôi kết hôn để không phải ở một mình!

Tôi không biết phải giải thích thế nào, phải nói thế nào cho bạn hiểu. Bạn hắn sẽ lấy làm thương hại tôi, khinh thường tôi, khinh bỉ tôi cho rằng tôi thật ti tiện và thật đáng khinh biết mấy.

Đêm xuống tôi không còn muốn ở một mình nữa. Tôi muốn cảm thấy có một ai đó ở gần tôi, dựa vào tôi, một người có thể nói, có thể kể chuyện, chuyện gì cũng được, điều gì cũng được.

Tôi muốn đánh thức người đó dậy chỉ để hỏi một câu, hỏi bất kỳ điều nào đó, một cách đột ngột, một câu hỏi hoàn toàn ngu ngốc, chỉ để nghe được một giọng nói, để cảm thấy có người đang sống trong ngôi nhà của mình, để cảm thấy có người đang thức, có bộ óc đang hoạt động, và để đang đêm giật mình thức giấc, tôi nhìn thấy mặt một con người đang nằm cạnh tôi... bởi vì... bởi vì... (Tôi không dám thú nhận điều đáng xấu hổ này)... bởi vì tôi sợ, sợ phải ở một mình. Ôi, bạn vẫn chưa hiểu tôi.

Tôi không sợ hiểm nguy. Nếu có kẻ nào lén vào nhà tôi, tôi sẽ giết nó không nháy mắt. Không sợ ma, không sợ quỷ, tôi không sợ người chết. Tôi tin rằng người chết là hết.

Vậy mà!... Vâng. Vậy mà!... Thế đấy! Tôi sợ chính bản thân mình! Tôi sợ cảm giác sợ; sợ cảm giác co thắt tim vì sợ, sợ cảm giác khủng khiếp của nỗi sợ không thể hiểu được.

Hãy cười đi nếu bạn muốn. Đó là một điều đáng sợ không sao nguôi quên! Tôi sợ những bức tường, những đồ vật trong nhà, những vật dụng thân quen, đối với tôi, đó là một dạng sinh vật sống. Tôi sợ nhất là sự mất tỉnh táo trong suy nghĩ, trong đầu óc tôi, thỉnh thoảng đầu óc tôi lại bấn loạn lên bởi một cơn điên giận rồ dại vô lý.

Thường thì đầu tiên tôi cảm thấy một sự lo lắng vô cớ xâm chiếm tim óc tôi, rồi sự lo lắng đó khiến tôi nổi da gà. Tôi nhìn quanh, chẳng có gì! Tôi muốn một điều gì đó! Điều gì nhỉ? Một điều gì đó có thể hiểu được. Bởi tôi chỉ sợ, bởi vì tôi không hiểu nỗi sợ của tôi.

Tôi nói! Tôi sợ giọng nói của tôi. Tôi dạo bộ! Tôi sợ có người lạ sau cửa, sau màn che, trong tủ, dưới giường. Tuy tôi luôn biết rõ chẳng có gì cả. Tôi quay phắt lại bởi tôi sợ có cái gì đó sau tôi, cho dù tôi biết rõ chẳng có gì sau tôi cả.

Tôi bồn chồn, tôi cảm thấy sự hốt hoảng đang lớn dần lên trong tôi; và tôi tự nhốt mình trong phòng; tôi nằm im trong giường, trốn trong ga giường và thu tròn người lại như một hòn bi, tôi nhắm chặt mắt lại một cách tuyệt vọng và tôi cứ nằm im thin thít như thế rất lâu trong khi nghĩ đến cây nến đang cháy trên bàn ngủ và rằng cần phải đứng lên để tắt nó đi nhưng tôi không dám. Đó chẳng lẽ không phải là sự kinh hoảng sao?

Trước kia, tôi chẳng sợ gì cả. Chẳng có gì có thể tác động được đến tinh thần tôi, chẳng có gì có thể xáo trộn được tâm hồn cân bằng yên tĩnh của tôi. Giá có ai nói trước với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ bị một căn bệnh sợ vô lý, ngu ngốc, khủng khiếp ám ảnh, hẳn tôi sẽ cười nhạo anh ta. Tôi mở những cánh cửa tối tăm với sự tự tin: tôi lên giường một cách từ tốn, không đẩy những chốt cửa, và tôi không bao giờ nhỏm dậy giữa đêm để đảm bảo rằng mọi lối vào nhà đều đã được đóng kín.

Thế mà những điều đó bắt đầu xảy ra từ năm ngoái, theo một cách rất đặc biệt, kỳ cục. Lúc đó vào một tối thu ẩm ướt, khi người hầu gái thu dọn bàn, sau khi tôi dùng cơm tối, tôi tự hỏi tôi sẽ làm gì tiếp. Tôi đi đi lại lại trong phòng mình một lát. Tôi tự nhiên cảm thấy chán ngấy mọi thứ, không sao làm việc được, thậm chí cũng không sao tập trung được để đọc. Kính cửa mờ đục vì ngoài trời đang mưa nhẹ; tôi buồn chán, một nỗi buồn không nguyên do, len lỏi vào trong tôi. Khi bạn ngồi buồn trong nhà, trong một khí trời như thế, bạn cũng cảm nhận được một nỗi buồn, khiến bạn có thể phát khóc lên được, khiến bạn muốn nói chuyện với ai cũng được để xua đi cái cảm giác nặng nề đè trĩu lên tim bạn. Tôi cảm thấy cô đơn. Nhà của tôi, giờ đây với tôi có vẻ thật hoang vắng như thể nó không bao giờ là một nhà dân ở. Một cảm giác cô độc chụp xuống tâm hồn tôi. Làm gì bây giờ? Tôi ngồi xuống. Vừa ngồi xuống tôi đã có một cảm giác rất sốt ruột, khiến tôi đứng phắt lên và lại bắt đầu đi lại trong phòng. Có lẽ tôi cũng hơi sốt, bởi tay tôi đã được tôi chắp lại sau lưng như người ta vẫn làm khi người ta đi dạo một cách từ tốn, đang nóng rực lên, và tôi để ý đến điều này. Rồi bỗng nhiên một cơn rùng mình chạy suốt sống lưng tôi. Tôi cho rằng không khí ẩm ướt đã làm tôi nhiễm lạnh và tôi nảy ra ý muốn đốt lửa. Tôi nhóm lửa lên; đó là lần đầu tiên trong năm. Và tôi lại ngồi xuống nhìn ngọn lửa. Nhưng ngay khi tôi vừa ngồi xuống thì tôi lại có một cảm giác bồn chồn rất lạ, cảm giác này thúc tôi đứng bật dậy, và tôi cảm thấy cần phải bỏ đi, cần phải hoạt động, cần phải tìm đến một người bạn.

Tôi ra ngoài. Tôi đến nhà ba người bạn cùng lớp mà chẳng gặp được ai, rồi tôi quyết định đi ra đại lộ, quyết định tìm ai đó để làm quen.

Trời âm u. Những vỉa hè loáng nước. Trời ấm, một không khí ấm cúng nhưng vẫn có thể làm cho bạn rùng mình vì lạnh, không khí đầy hơi nước bao phủ khắp các đường phố, và có vẻ sẽ làm tắt ngấm mọi ngọn lửa ga.

Tôi vừa bước đi những bước uể oải, vừa lẩm bẩm: "Tôi chẳng tìm được ai để chuyện trò cả". Tôi đã xục xạo rất nhiều lần trong các quán cà phê, từ phố Madelein đến tận ngoại ô Poissonier. Tôi chỉ thấy toàn những người tẻ nhạt ngồi trầm tư trước một cái bàn, thậm chí chẳng buồn uống cho hết đồ uống mình đã gọi.

Tôi cũng đã lang thang vơ vẩn rất lâu trên đường phố, và vào khoảng mười hai giờ đêm tôi bắt đầu quay bước trở về nhà. Tôi rất bình tĩnh nhưng vô cùng buồn chán. Ông gác cổng, người luôn đi ngủ trước mười một giờ đêm, mở ngay cửa cho tôi, không phải là thói quen của ông ta, và tôi nghĩ: "Á à, chắc chắn là có người thuê nhà mới vừa mới lên phòng đây".

Khi tôi ra khỏi nhà, bao giờ tôi cũng khóa hai lần khóa. Thế mà bây giờ tôi thấy nó đang hé mở, tôi hơi lạ, tôi cho là người ta mang thư đến cho tôi.

Tôi vào nhà, nến vẫn còn đang cháy, căn phòng sáng mờ mờ, tôi lấy nến để ra nhóm lò. Khi đi gần đến lò sưởi, tôi nhận thấy có ai đó đang ngồi trong ghế bành của tôi, quay lưng lại tôi và đang hơ chân sưởi ấm. Tôi hơi sợ, nhưng rồi tôi nghĩ chắc đó là một người bạn tôi đi ngang qua rẽ vào chơi với tôi. Người gác cửa đã cho anh ta mượn chìa khóa vào phòng đợi tôi. Trong một giây, tôi nghĩ đến mọi tình huống, chốt kéo cửa được kéo ngay và cửa nhà tôi được đẩy ra.

Bạn tôi?, tôi chưa nhận ra đó là ai vì tôi chỉ nhìn thấy mỗi mái tóc anh ta, hẳn anh ta đã thiếp đi trong khi đợi tôi về, thế nên tôi đi đến để đánh thức anh ta dậy. Tôi ngắm nhìn anh ta, một tay thõng xuống, hai chân khoanh tròn, đầu anh ta hơi nghiêng về tay ghế bên trái, anh ta đang say sưa ngủ. Tôi tự hỏi: Ai thế nhỉ? Hay ai đó vào nhầm phòng. Tôi đưa tay ra định lay vai anh ta... Tôi chạm tay vào thành ghế! Chẳng có ai ở đó nữa. Cái ghế rỗng không.

Giật mình làm sao, trời ơi!

Tôi lùi ngay lại như thể gặp một mối nguy hiểm khủng khiếp đã xuất hiện trước mắt tôi. Tôi quay phắt lại vì cảm thấy có ai đó đứng sau lưng mình; rồi ngay sau đó tôi lại cảm thấy một nhu cầu bức thiết quay lại nhìn cái ghế, tôi lại quay phắt lại một lần nữa. Tôi đứng, ngạt thở vì sợ, cuống lên, không còn nghĩ được gì nữa.

Nhưng tôi là một người đàn ông bình tĩnh, tôi lấy ngay lại được tinh thần. Tôi nghĩ: "Mình vừa bị ảo giác, có thế thôi". Ngay lập tức tôi suy nghĩ về hiện tượng này. Tư duy của tôi làm việc hết tốc lực. Tôi đã có một ảo giác, đó là một điều không thể chối cãi được, trong khi tôi vẫn đang rất minh mẫn và tỉnh táo, đầu óc tôi vẫn hoàn toàn bình thường. Tôi cũng không hề làm việc quá sức, hiện giờ tôi cũng không hề phải bận tâm lo lắng bất cứ vấn đề gì. Duy chỉ có mắt tôi đã lầm lẫn, thị giác đã đánh lừa trí óc. Mắt tôi đã có một ảo ảnh, một trong những ảo ảnh khiến cho những người ngây thơ tin rằng những điều huyền bí đang hiện hữu. Đó chỉ là một trong những tai biến của dây thần kinh thị giác, thế thôi, chẳng có gì khác, cũng có thể do hơi xung huyết một chút.

Tôi đốt đèn lên, khi nghiêng người về phía ngọn lửa tôi nhận thấy tôi đang run, và tôi giật mình đứng thẳng lên như thể có ai đó chạm vào tôi từ phía sau. Tôi không còn hồn vía nào. Tôi đi lại vài bước trong phòng, tôi nói to lên, tôi hát khe khẽ một vài giai điệu.

Rồi tôi đóng cửa phòng lại, khóa hai lần khóa, tôi cảm thấy hơi yên tâm một chút. Ít nhất thì cũng chẳng có ai có thể vào được phòng tôi.

Tôi lại ngồi xuống và suy nghĩ rất lâu, về sự việc vừa xảy ra với tôi; thế rồi tôi lên giường đi ngủ, tôi thổi tắt đèn. Trong vài phút, mọi việc đều bình thường, tôi nằm ngửa, thấy mọi việc đều bình thường như mọi ngày. Thế rồi bỗng tôi thấy cần dậy, ngó lại một vòng trong phòng; tôi lật người lại, đèn của tôi chỉ còn hai ba đốm lửa nhỏ chỉ soi sáng được đến chân ghế bành; và tôi tin lại nhìn thấy một người đang ngồi trong đó.

Rất nhanh tôi khêu cao đèn lên. Nhầm sao, tôi lại chẳng nhìn thấy gì nữa hết. Tuy nhiên, tôi đứng lên và đem giấu cái ghế bành ra đằng sau giường. Rồi tôi lại vặn nhỏ đèn đi và cố gắng ngủ đi. Tôi không sao ngủ được, tôi nhớ lại mồn một tất cả những điều đã xảy ra trong tối nay. Thế là tôi cuống lên, ngồi phắt dậy, khêu cao đèn lên cho ánh sáng soi rọi khắp phòng, rồi tôi ngồi im trên giường, thậm chí không dám nghĩ đến việc ngủ lại nữa.

Tuy nhiên đã hai lần tôi ngủ thiếp đi, và cả hai lần tôi lại thấy cảnh cũ. Tôi tự cho rằng mình điên mất rồi.

Khi trời sáng, tôi mệt phờ và tôi ngủ luôn tới tận trưa. Thế là rõ rồi. Tôi đã bị sốt, tôi đã có một cơn ác mộng, tôi biết gì nào? Tôi đã bị ốm, thế thôi. Tuy nhiên tôi thấy mình thật quá ngu ngốc.

Tôi đã qua một ngày rất tuyệt, tôi ăn tối ở một quán cà phê âm nhạc, tôi đi xem kịch, rồi tôi quay về nhà. Nhưng ngay khi tôi đi về gần tới nhà tôi lại cảm thấy một mối lo lắng lạ lùng xâm chiếm lấy tôi. Tôi sợ lại phải nhìn thấy anh ta, thấy ma. Không phải vì sợ ma, sợ anh ta, không phải vì sợ sự có mặt của anh ta, tôi không tin là có ma hiện hữu, nhưng tôi sợ rằng tôi sẽ lại có ảo giác, tôi sợ, cảm giác sợ khi tôi gặp ảo giác.

Trong suốt hơn một giờ đồng hồ, tôi lang thang trên các phố, cuối cùng tôi thấy làm thế quả thật quá ngu ngốc nên tôi đi về nhà. Tôi run đến nỗi không sao đi lên cầu thang được, tôi còn đứng ở trước thềm cửa phòng mình đến mười phút, rồi lấy hết can đảm tôi tra chìa vào ổ; tôi cầm sẵn đèn ở tay và đạp mạnh vào cửa để mở nó ra, ngay khi cửa vừa mở tôi nhìn ngay về phía lò sưởi, chẳng có gì ở đó. "A!..."

Nhẹ nhõm làm sao! Vui sướng làm sao! Hạnh phúc làm sao! Tôi bước vào phòng với một hơi thở nhẹ nhõm. Nhưng tôi vẫn chưa cảm thấy hoàn toàn yên tâm, tôi giật nẩy mình quay lại, bóng tối trong góc phòng làm tôi hơi lo lắng.

Tôi ngủ không được ngon, thức giấc thon thót bởi những tiếng động tưởng tượng. Nhưng tôi không hề nhìn thấy anh ta nữa. Không hề. Hết rồi! Kể từ hôm đó, tôi sợ phải ở một mình vào ban đêm. Tôi cảm thấy cái nhìn của ai đó cứ ở quanh tôi, sát cạnh tôi. Anh ta không xuất hiện nữa, không! Thế nhưng quan trọng là tôi vẫn luôn cảm thấy anh ta ở đó, trong khi lý trí sáng suốt của tôi vẫn cười nhạo tôi và luôn khẳng định rằng chẳng có gì đâu! Vậy nhưng tôi vẫn luôn nghĩ đến anh ta và luôn tưởng tượng đến anh ta, luôn nhớ đến anh ta.

Một tay thõng xuống, đầu nghiêng về phía bên trái như thể một người đang say ngủ... Ôi, thôi nào, quá đủ rồi đấy, Chúa ơi! Tôi không muốn nghĩ đến anh ta nữa!

Thế nhưng điều ám ảnh đó là gì vậy? Tại sao lại dai dẳng đến vậy? Chân của anh ta để sát gần lửa! Anh ta ám ảnh tôi, điên rồ thật, nhưng, Anh ta, Anh ta là ai? Tôi biết rõ rằng anh ta không tồn tại, rằng chẳng có gì hết! Anh ta chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng, trong sự khiếp sợ, trong sự lo lắng của tôi mà thôi! Ôi, thế là quá đủ rồi.

Tôi cố tự thuyết phục mình, cố làm mình yên tâm, cố làm mình tin chẳng có gì nhưng vẫn vô ích. Tôi không thể ở lại nhà một mình vì anh ta đang ở đó, tôi không nhìn thấy anh ta nữa vì anh ta không cho tôi nhìn thấy anh ta nữa. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì anh ta vẫn còn đang ở đó, trong óc tôi. Anh ta đã trở nên vô hình, thế nhưng anh ta vẫn ở đó. Anh ta ở sau cửa, trong tủ, dưới gầm giường, trong các góc tối. Nếu tôi ngó ra đằng sau cửa, nếu tôi mở tủ ra kiểm tra, nếu tôi soi đèn vào gầm giường, nếu tôi soi sáng các góc tối, thì chẳng có gì nữa hết; thế nhưng tôi luôn cảm thấy anh ta ở đằng sau tôi. Nếu tôi quay phắt lại tôi sẽ chẳng nhìn thấy gì. Tôi chẳng nhìn thấy anh ta nữa. Thế nhưng anh ta ở đó, ngay sát gần tôi, tôi tin thế.

Thật ngu ngốc nhưng điều đó thật tồi tệ. Bạn muốn gì? Tôi không thể làm thế nào cho bạn hiểu được.

Nhưng nếu tôi có hai người trong nhà, tôi sẽ cảm thấy, vâng, tôi sẽ cảm thấy yên tâm rằng anh ta sẽ không còn ở đó nữa. Bởi vì anh ta chỉ ở đó khi tôi có một mình, duy nhất mình!

Vô hình "Le Horla"

(Bản viết đầu)

Bác sĩ Marrande, bác sĩ nổi tiếng nhất, lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba người bạn đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học chuyên nghiên cứu về khoa học tự nhiên đến phòng mạch tư của ông để cùng xem xét, kiểm tra và chẩn trị cho một người bệnh của ông. Khi họ đã tề tựu đông đủ, ông nói: "Tôi sắp đưa ra đây một trường hợp kỳ lạ nhất, đáng lo lắng nhất mà tôi đã từng gặp. Thế nên, tôi sẽ không nói trước một điều gì về người bệnh của tôi với các bạn, anh ta sẽ tự nói cho các bạn nghe".

Rồi ông bác sĩ nhấn chuông, một nhân viên phục vụ đưa vào một người đàn ông. Ông này rất gầy, gầy như một bộ xương khô, gầy như những người phát điên vì những suy tưởng, và bị những suy tưởng bệnh hoạn gặm nhấm đến tận xương tận tủy, nó làm con người ta hao mòn, còn hơn cả là sốt cao hay bị lao phổi.

Người đó chào mọi người rồi vừa ngồi xuống vừa nói:

Thưa các ông, tôi biết vì sao các ông tụ tập đến đây và tôi sẵn lòng kể cho các ông nghe chuyện của tôi, vì bạn của tôi, bác sĩ Marrande đã đề nghị tôi như thế. Trước đây người ta cho rằng tôi điên. Giờ đây họ không chắc lắm. Một thời gian nữa các ông sẽ thấy rõ rằng tôi hoàn toàn bình thường, hơn thế nưa tôi còn sáng suốt, minh mẫn hơn bất cứ ai trong các ông, bất hạnh thay cho tôi, cho các ông và cho cả nhân loại.

Tôi sẽ kể lại chuyện của mình một cách thật chi tiết để các ông dễ hình dung:

Tôi năm nay bốn mươi hai tuổi, tôi chưa kết hôn. số tiền tôi được thừa kế, đủ để tôi sống suốt đời một cách tương đối vương giả mà không phải làm gì hết. Trước đây tôi sống ở một ngôi nhà trên bờ sông Seine ở Biessard, một nơi gần Rouen. Săn bắn và câu cá là trò tiêu khiển ưa thích của tôi. Nhà tôi dựa vào một dãy núi lớn, trên núi là một trong những khu rừng đẹp nhất nước Pháp, khu rừng Roumare, và trước nhà tôi là một trong những dòng sông đẹp nhất thế giới.

Nhà tôi rộng, xinh xắn, cổ kính với tường nhà phía ngoài sơn trắng, bao quanh nhà là một cái sân lớn, rợp bóng mát của những cây cổ thụ tuyệt đẹp, những cây này bò được lên tới tận rừng bằng cách leo lên những sườn núi mà tôi sẽ nói đến sau.

Người làm của tôi, hay nói đúng hơn những người làm trước kia của tôi gồm có một người đánh xe, một bác làm vườn, một gã hầu phòng, một bà đầu bếp và một bà quản gia. Tất cả bọn họ đều đã làm cho nhà tôi từ rất lâu rồi, người ít nhất cũng đã mười năm còn người lâu nhất là mười sáu năm, nghĩa là họ biết rõ tôi, biết rõ mọi ngóc ngách trong nhà tôi, quen thuộc mọi con đường nơi chúng tôi sống, quen mặt tất cả những người thân thích của tôi. Họ là những người phục vụ tốt và biết giữ mồm miệng. Điều đó rất quan trọng đối với những gì tôi sắp nói ra đây. Tôi phải nói thêm rằng sông Seine, con sông nằm dọc theo vườn nhà tôi thì khá rộng và tàu bè có thể qua lại theo đường đó để đi đến Rouen, và hàng ngày tôi vẫn ngắm các con thuyền lớn, cái chạy bằng buồm, cái chạy bằng hơi nước đến từ khắp nơi trên thế giới đi ngang qua khúc sông đó.

Cách đây một năm, vào một ngày cuối thu, tôi bỗng thấy vô cùng khó chịu, bất ổn, một sự khó chịu bất ổn kỳ lạ và không thể giải thích được. Ban đầu tôi cảm thấy lo lắng bồn chồn, khiến tôi thường giật mình thức giấc lúc nửa đêm, và khi đó tôi rất dễ bị kích động đến nỗi chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi phát run. Tôi lúc nào cũng trong tình trạng bồn chồn, dễ nổi cáu một cách khó hiểu. Tôi đã đi khám bác sĩ và ông này đã kê cho tôi một liều thuốc an thần và liệu pháp tắm hương sen.

Tôi tắm vòi sen hai lần sáng tối mỗi ngày, tôi uống thuốc an thần. Kết quả là tôi bắt đầu buồn ngủ, nhưng cơn buồn ngủ còn đáng sợ hơn cả sự mất ngủ. Vừa nằm xuống nhắm mắt lại tôi đã như rơi tõm vào hư không, tôi cảm thấy như bị kéo bị lôi, tôi cảm thấy sợ vô cùng. Tôi như cảm thấy có cái gì đè nặng lên ngực tôi, cảm thấy như có đôi môi của thần chết đang lướt trên môi tôi. Khoảnh khắc đó đáng sợ không thể tả được.

Các ông hãy thử tưởng tượng một người đàn ông đang ngủ bị ám sát, và khi tỉnh dậy thấy một con dao cắm vào họng mình, người mình bê bết máu, và mình không thể thở được nữa, mình sắp chết mà không biết tại sao lại thế, cảm giác tương tự như thế đấy!

Tôi gầy đi một cách đáng lo ngại, và tôi vẫn tiếp tục gầy đi; và đột nhiên tôi cũng nhận thấy, người đánh xe, một người to béo cũng đang gầy đi như tôi. Cuối cùng một hôm tôi hỏi anh ta: "Cậu có sao không, Jean? Cậu ốm à?" Anh ta trả lời tôi: "Tôi cho là tôi cũng bị bệnh như ông, tôi gặp ác mộng mỗi đêm".

Vậy nên tôi cho là nhà ở cạnh sông có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe con người, nên dù lúc đó đang vào đúng mùa săn, tôi cũng quyết định đi đâu đó, khoảng hai ba tháng để thay đổi không khí thì một sự kiện nhỏ, rất lạ, được tình cờ nhìn thấy, đã khiến tôi ở lại.

Một tối, khát nước quá, tôi uống một hơi hết nửa cốc nước và tôi nhận thấy rằng bình nước của tôi vốn được đặt ở trên tủ bày đồ, đối diện với giường tôi đầy tới tận miệng. Đêm đó tôi gặp lại cơn ác mộng mà tôi vừa kể cho các ông nghe. Khi thức giấc, tôi đốt nến lên, cảm thấy bồn chồn khó chịu, tôi muốn uống chút gì đó để lấy lại bình tĩnh, ngạc nhiên khi thấy bình nước của tôi rỗng không. Tôi không tin vào mắt mình nữa. Hoặc ai đó đã vào phòng tôi hoặc tôi bị mộng du. Đêm hôm sau, tôi muốn thử lại. Tôi khóa phòng lại, để tin chắc rằng không ai có thể vào được phòng tôi. Tôi thiếp ngủ và tôi lại tỉnh dậy, hệt như đêm hôm trước. Ai đó đã uống hết nước trong bình mà tôi vừa nhìn thấy hai giờ trước đó. Ai đã uống nước của tôi? Hẳn nhiên là tôi rồi, thế nhưng tôi không chắc về điều đó lắm, hoàn toàn không chắc rằng liệu tôi có thể ngồi dậy uống hết nước, trong cơn mê ngủ sâu và nặng nề như thế.

Thế nên tôi nảy ra một mẹo nhỏ để thử xem có phải tôi đã làm những việc đó trong tình trạng vô thức không. Một tối, tôi đặt cạnh bình nước một chai rượu vang boócđô lâu năm, một tách sữa mà tôi rất ghét, và vài cái bánh sô-cô-la loại tôi rất ưa chuộng. Rượu và bánh còn nguyên vẹn, sữa và cà phê hết sạch. Thế là mỗi tôi tôi thay đổi đồ uống và thức ăn. Luôn luôn như thế: đồ ăn không bao giờ được đụng tới, đồ uống thì chỉ sữa tươi và nhất là nước luôn hết sạch.

Những sự nghi ngờ cứ bám riết lấy tôi. Lẽ nào chính tôi đã thức dậy mà không nhận thức được và uống cả những thứ mà tôi vốn rất ghét, bởi có lẽ trạng thái đờ đẫn trong cơn mộng du đã khiến vị giác tôi thay đổi, khiến tôi ưa thích những thứ mà bình thường tôi không bao giờ đụng đến và từ chối những thứ ngày thường tôi hay ăn. Thế là tôi lại dùng một mẹo khác để đánh lừa chính mình. Tôi buộc tất cả mọi thứ bằng một băng vải bằng muxơlin và gói chúng vào một chiếc khăn ăn bằng lanh. Rồi trước khi lên giường đi ngủ, tôi lấy nhọ bôi lem luốc tay mình, miệng mình, râu mình.

Khi tỉnh dậy, mọi thứ vẫn nguyên vẹn, như khi lúc tôi đi ngủ, thế nhưng có vẻ như có ai đó đã chạm vào chúng, bởi cái khăn ăn không còn như lúc tôi để nữa, và hơn thế nưa, sữa và nước đã bị uống sạch. Cửa phòng tôi vẫn khóa và những người hầu đã được tôi dặn canh cửa cẩn thận, không thể bất cẩn để ai đó lọt vào. Một câu hỏi lớn được đặt ra: Ai đã ở bên cạnh tôi hàng đêm? Tôi cảm thấy, thưa các ông, tôi kể quá nhanh chăng. Các ông tủm tỉm cười, hiển nhiên các ông nghĩ rằng: "Đồ điên". Lẽ ra tôi đã phải tả kỹ hơn để cho các ông cảm thấy được cảm giác của một người bị nhốt kín trong nhà của mình, trong chính phòng ngủ của mình, tinh thần hoàn toàn minh mẫn, nhìn thấy bình nước của mình vơi hắn đi so với trước khi mình đi ngủ. Lẽ ra tôi phải làm gì đó, để cho các ông có thể hiểu nổi nỗi giày vò đã khiến tôi đau khổ mỗi tối, mỗi sáng. Cảm giác buồn ngủ không cưỡng lại được và cảm giác sợ hãi khủng khiếp khi tỉnh dậy. Thế nhưng tôi vẫn cứ phải sống như thế trong suốt một thời gian dài.

Bỗng nhiên, một ngày, điều kỳ lạ đó không diễn ra nữa. Chẳng có gì suy suyển trong phòng tôi nữa, nước và sữa vẫn còn nguyên đó. Thế là hết những tháng ngày lo sợ. Tôi khỏe dần lên. Niềm vui sống lại trở về với tôi. Rồi tôi biết thêm rằng một trong những người hàng xóm của tôi, ông Legite, cũng gặp phải hiện tượng lạ lùng giống hệt tôi. Tôi càng tin chắc rằng ở gần sông đã gây nên tình trạng bệnh ảo giác như vậy. Người đánh xe của tôi đã xin thôi việc và rời khỏi, nhà tôi từ một tháng nay, khi xin nghỉ việc anh ta có vẻ bị bệnh rất nặng. Mùa đông đã qua, trời vào xuân. Một sáng, khi đang đi dạo trong vườn, gần một bồn hoa hồng, tôi nhìn thấy, một cách rõ ràng, ngay sát cạnh tôi, một bông hồng rất đẹp bỗng bị bẻ ngang thân, như thể có một bàn tay vô hình hái nó, rồi nó đi theo một đường cong như thể ai đó cầm nó đưa lên mũi ngửi, rồi nó cứ treo lơ lửng trong không khí như thế ngay trước mặt tôi, cách tôi chừng ba bước chân. Lạ lùng, tôi giơ tay chụp lấy bông hoa. Nó biến mất, tôi chẳng còn thấy gì nữa hết. Tức điên người, vô lý là giữa ban ngày, ban mặt mà lại có ảo giác như thế!

Nhưng đó có phải là ảo giác không? Tôi tìm cành cây. Tôi thấy nó ngay lập tức, vết bẻ vẫn còn tươi, bông hoa bị bẻ nằm giữa hai bông khác vẫn còn đang trên cành, tôi không nhầm được vì trước lúc nó bị bẻ tôi đã nhìn ngắm nó rất kỹ. Tôi quay về nhà, đầu óc rối bời. Thưa các ông, xin hãy nghe tôi, tôi hoàn toàn bình tĩnh; tôi không hề tin vào các lực lượng siêu nhiên, kể cả bây giờ tôi cũng vẫn không tin; nhưng kể từ lúc đó, tôi hoàn toàn tin chắc, như là tin có ngày và đêm rằng tồn tại ngay gần tôi một vật thể sống vô hình, đến chơi nhà tôi, rồi bỏ đi, và rồi lại quay lại. Sau đó một lúc tôi lại có bằng chứng về điều đó. Giữa hai người làm của tôi đang nổ ra một cuộc khẩu chiến vì một cái cốc rất đẹp của Ý, nằm ở trên tủ bày đồ ở phòng ăn tự nhiên vỡ ra. Người hầu phòng bảo tại bà bếp, bà bếp bảo tại chị lau dọn, chị lau dọn bảo không biết ai làm vỡ nhưng không phải chị ta. Và trong cơn tức tối họ mới tố cáo ra để tôi biết hàng đêm đã có người xuống gian bếp phụ uống trộm sữa. Các cửa được đóng kỹ vào buổi tối và được mở ra vào buổi sáng. Thế mà hàng đêm có người đã đến gian bếp phụ uống trộm sữa. Ai? Người hay ma? Sự tò mò cộng với tức giận đã giày vò tôi suốt đêm ngày, khiến tôi lúc nào cũng bồn chồn, lo lắng. Nhưng rồi mọi việc xáo động đó một lần nữa lại chấm dứt khiến tôi lại tin rằng đó chỉ là ảo giác, chỉ là mơ thôi. Nhưng lại xảy ra một sự kiện thế này:

Ngày 20 tháng Bảy, lúc chín giờ tối. Trời rất nóng, tôi mở toang cửa sổ, đèn bàn tôi vẫn sáng, tôi nằm dài ra trong ghế bành và thiu thiu ngủ. Tôi ngủ khoảng bốn mươi phút, tôi thức giấc bởi một cảm giác rất khó tả, tôi mở mắt ra, vẫn nằm im. Đầu tiên tôi chẳng nhìn thấy cái gì hết, rồi bỗng nhiên tôi thấy một trang sách tự giở. Thật lạ vì không hề có một ngọn gió nào, ngạc nhiên tôi đợi. Khoảng bốn phút sau, tôi nhìn thấy, vâng thưa các ông chính mắt tôi nhìn thấy một trang sách nữa lại giở sang và nằm ép xuống trang sách trước, như thể có một ngón tay vừa giở sang trang.

Ghế bành của tôi rỗng không nhưng tôi tin nó đang ở đó. Nó, người vô hình! Tôi nhảy phắt ra rất nhanh hòng bắt được nó, hòng chạm được vào nó. Nhưng trước khi tôi kịp tới nơi thì cái ghế ngồi ở bàn làm việc của tôi đổ nhào, như thể nó đã xô ghế đứng phắt dậy và bỏ chạy; đèn của tôi cũng đổ và tắt ngấm, cái cốc vỡ tan tành, cánh cửa sổ bị đẩy mạnh như thể người bị đuổi đẩy mạnh nó ra để thoát thân. Tôi nhảy bổ đến cái chuông và rung liên hồi gọi người hầu đến. Khi người hầu phòng xuất hiện, tôi nói:

- Ta đánh đổ và làm vỡ hết cả. Đưa cho ta cái đèn.

Đêm đó tôi không ngủ, lẽ nào tôi lại trở thành trò chơi của ảo giác. Lẽ nào không phải tôi là người đã làm đổ ghế, là người đã làm tắt đèn, những suy nghĩ đó khiến tôi phát điên.

Không, không phải tôi! Tôi tin chắc như thế tuy rằng tôi rất muốn tin vào điều ngược lại. Đợi chút. Sinh vật đó, tôi biết gọi tên nó thế nào đây? Người vô hình. Không, như thế chưa được. Tôi đặt tên cho nó là Le Horla. Tại sao tôi lại đặt tên như thế tôi cũng không biết nữa. Thế rồi Le Horla không mấy khi rời tôi nữa. Tôi luôn cảm thấy sự có mặt của nó bên cạnh tôi suốt ngày suốt đêm. Hàng giờ hàng phút tôi đều cảm thấy sự có mặt của nó bên cạnh tôi như thể nó đang sống cuộc sống của tôi.

Không thể nhìn thấy nó khiến tôi bực bội vô cùng, tôi đốt hết số đèn mà tôi có trong nhà hòng một lúc nào đó có thể nhìn thấy được nó. Cuối cùng tôi đã nhìn thấy nó.

Có thể các ông không tin, nhưng sự thật là tôi đã nhìn thấy nó. Chuyện là thế này, hôm đó tôi lấy bừa một quyển sách xuống, chẳng đọc chữ nào nhưng ngồi im rình; rình cái người mà tôi cảm thấy đang ở rất gần tôi. Đương nhiên là nó đang ở trong phòng rồi, nhưng nó đang ở đâu? Nó đang làm gì? Làm thế nào để bắt được nó? Tôi căng tai căng mắt ra rình. Đối diện với tôi là giường ngủ làm bằng gỗ sồi. Bên phải tôi là lò sưởi. Bên trái tôi là cửa ra vào mà tôi đã đóng lại rất cẩn thận. Đằng sau tôi là chiếc tủ gương lớn mà hàng ngày tôi vẫn đứng trước nó để cạo râu, mặc quần áo, và tôi thường có thói quen liếc nhìn mình từ đầu đến chân mỗi khi đi qua nó. Thế là tôi làm ra vẻ như đang đọc sách để lừa nó; đột nhiên tôi cảm thấy, một cảm giác rất rõ ràng nó đang đọc qua vai tôi, rõ ràng nó đang đứng đó, sượt cả vào tai tôi. Tôi đứng phắt dậy và quay ngoắt lại phía sau nhanh đến nỗi suýt ngã. Và thế là... tôi đứng đối diện với cái gương nhưng tôi không nhìn thấy mình trong gương! Chiếc gương hoàn toàn trong suốt, sáng loáng những không hề có hình tôi trong đó mặc dù tôi đang đứng đối diện... Tôi nhìn chiếc gương lớn, trong suốt từ đầu đến chân. Tôi trừng trừng nhìn, hoảng hốt đến mức không dám nghĩ đến chuyện tiến gần lại, cảm thấy rõ rằng giữa tôi và chiếc gương là nó và rằng nó vẫn trốn thoát khỏi sự tìm kiếm của tôi, nhưng cơ thể không thể nhìn thấy được của nó lại che được hình ảnh phản chiếu của tôi. Tôi sợ biết bao! Thế rồi tôi nhìn thấy hình ảnh của tôi dần dần hiện lên trên gương, hình bóng của tôi dần hiện như đi đến từ trong sường mù, như đến từ làn nước. Và cũng giống như sóng nước, hình bóng của tôi hiện dần lên trong gương từ trái sang phải, dần dần, từ từ, từng giây từng giây rõ nét dần lên. Cuối cùng hình tôi đã in rõ trong gương như mọi ngày tôi vẫn soi.

Tôi đã nhìn thấy nó, cảm giác sợ đó giờ đây khi nhớ lại vẫn khiến tôi rùng mình.

Ngay ngày hôm sau, tôi đã đến đây, tôi đã đề nghị được giám sát chặt chẽ và không để cho tôi bỏ đi được. Giờ đây, thưa các ông tôi đã rút ra được kết luận.

Bác sĩ Marrande, sau một thời gian nghi ngờ, đã quyết định đến quê hương tôi. Ba người hàng xóm của tôi hiện nay cũng đang trong tình trạng giống hệt như tôi trước đây. Phải không bác sĩ?

Ông bác sĩ trả lời: "Đúng thế đấy!"

Có phải ông đã khuyên họ để sữa và nước mỗi đêm trong phòng họ để xem xem phải chăng khi thức giấc nước và sữa đã biến mất. Họ đã làm theo và họ đã thấy rõ nước và sữa đã biến mất giống như ở nhà tôi?

Bác sĩ trả lời một cách trầm tĩnh: "Chúng đã biến mất".

Vậy đấy thưa các ông, một sinh vật, một sinh vật mới, sinh vật này hiển nhiên cũng được sinh sản thêm, nhiều thêm như con người chúng ta vừa xuất hiện trên trái đất. A! Các ông lại cười mỉm! Tại sao? Bởi sinh vật này vô hình. Nhưng mắt chúng ta, thưa các ông, chỉ là mắt thịt, chúng ta chỉ nhìn thấy những gì thiết yếu, cần thiết cho sự tồn tại của chúng ta. Những gì quá bé, những gì quá lớn, những gì quá xa chúng ta đều không nhìn thấy được. Mắt chúng ta không thể nhìn thấy hàng triệu triệu sinh vật đang sống trong một giọt nước, mắt chúng ta cũng không thể nhìn thấy được những sinh vật đang tồn tại, đang sống trên các hành tinh lân cận. Mắt chúng ta cũng không thể nhìn thấy được những vật trong suốt. Nếu đặt trước mặt chúng ta một tấm kính lớn trong suốt, không một gợn vết, chắc chắn chúng ta sẽ va đầu vào đó như những con chim vẫn thỉnh thoảng va đầu vào kính cửa sổ nhà chúng ta. Vậy nên, mắt chúng ta cũng không thể nhìn thấy một cơ thể trong suốt đang tồn tại; chúng ta không nhìn thấy không khí cho dù nếu không có không khí con người chúng ta sẽ chết, chúng ta không nhìn thấy gió mặc dù gió là một trong những hiện tượng mạnh trong tự nhiên, nó có thể hất ngã con người, đẩy đổ một tòa nhà, trốc rễ cây cổ thụ, dâng nước ở biển lên, quật nát cả vách đá hoa cương. Những cái đó thì chả ai ngạc nhiên vì nó đã xuất hiện từ lâu, các ông có nhìn thấy điện không? Ấy thế mà nó vẫn tồn tại đấy thôi. Sinh vật mà tôi gọi tên nó là Le Horla nó cũng tồn tại. Nó là ai? Nó là cái gì? Thưa các ông, có thể nó là loài sinh vật tiếp sau con người tồn tại trên trái đất. Nó có thể sẽ khuất phục chúng ta, nô lệ hóa chúng ta, và cũng có thể chúng sẽ ăn thịt chúng ta như chúng ta cũng đã thuần hóa, nuôi dưỡng rồi ăn thịt bò, lợn...

Từ nhiều thế kỷ nay, người ta đã biết đến, đã nghi ngờ và đã nói đến sự có mặt của một cái gì đó vô hình. Nỗi sợ những gì vô hình luôn ám ảnh, đe dọa và làm cha ông ta khiếp sợ. Nó đã đến. Tất cả những truyền thuyết về các nàng tiên, về ma quỷ, về người lùn dị dạng, về những lực lượng siêu nhiên mà con người không nắm bắt được... chính là nói về nó, nói về kẻ vô hình mà ông cha ta đã lo sợ, đã dự cảm thấy được.

Và ngay cả những gì mà chính các ông đang làm, thưa các ông, từ nhiều năm nay, cái mà các ông gọi là thuật thôi miên, thuật ám thị. Chính nó đã được các ông thông báo, các ông đã tiên đoán.
Tôi nói với các ông rằng nó đã có mặt trên trái đất, cụ thể là ở quê hương tôi. Chính nó cũng đang thử dùng sức mạnh một cách đầy âu lo như loài người thuở trước. Nó còn chưa biết hết về khả năng và sức mạnh của nó nhưng rồi nó sẽ sớm nhận thức được thôi, rất sớm nhận thức được thôi. Vậy mà trong khi đó, thưa các ông, tôi đã đọc được trong một mẩu báo mà một người từ Rio de Janeiro mang đến cho tôi như sau: "Mới đây một dạng bệnh mất trí mới đã xuất hiện ở vùng San Paulo. Người dân ở những vùng này đang tự cứu lấy mình bằng cách rời bỏ quê quán, rời bỏ nhà mình vì họ khẳng định rằng có một loại ma cà rồng vô hình đang hoành hành trên xứ sở của họ, hút máu của họ khi họ đang ngủ để sống, ngoài ra chúng chỉ uống nước và sữa!"
Tôi phải nói thêm rằng một vài ngày trước khi tôi có những đêm khủng khiếp giày vò đến suýt chết như thế, tôi đã nhìn thấy đi ngang qua nhà tôi một chiếc thuyền ba cột buồm của Brazil cùng cờ hiệu giang rộng ra của nó... Tôi đã nói với các ông rằng nhà của tôi nằm ngay bờ sông, và nó lại trắng toát... Sinh vật vô hình đó hẳn là đã trốn trên con tàu đó...
Tôi chẳng còn gì để nói thêm nữa, thưa các ông.
Bác sĩ Marrande đứng lên và than vãn: "Tôi cũng thế, tôi không biết phải chăng người đàn ông này điên hay chúng ta điên... hay... hay phải chăng những người kế vị chúng ta thật sự đã đến".
Guy de Maupassant
Người dịch: Vũ Yến Ly
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt

Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là con trưởng của Hiếu Vũ đế...