Thứ Tư, 29 tháng 9, 2021

Người đàn bà bên kia vĩ tuyến 1

Người đàn bà bên kia vĩ tuyến 1
Khu rừng lau 2

PHẦN MỘT

TIẾNG HÁT TỰ LÒNG ĐẤT

CHƯƠNG MỘT
KHU RỪNG GIÀ

I

Hình ảnh lá cờ vàng ba gạch đỏ phe phẩy thanh bình vẫy gió còn mãi mãi về sau này in hằn trong tâm tưởng Miên một ấn tượng của thịnh vượng và của tình người. (Ôi, còn được sống trong tình người, nàng thách thức mọi gian lao!) Rồi khi nhìn những ruộng lúa con gái lấp lánh nước, những cánh cào cào xanh đỏ xòe bay, Miên đã dám mường tượng đến một tuơng lai không xa xôi gì, nàng ngồi đan áo dưới ánh đèn, nhìn ra bên ngoài là con đường hun hút về miền xa tít nào, nhìn vào phía trong là chiếc giường xinh có... Kha nằm đọc sách, Miên mường tượng đến mâm cơm đơn giản nhưng ngon lành do tay nàng sửa soạn, đến bộ chén tách sạch bóng nàng bày trên bàn trà ...

Trên trời khối mây trắng chuyển dịch nhẹ, mặt trời chui dần vào một khối mây đen lớn ùn lên như núi, ánh sáng đương bâng khuâng lồng lộng bỗng tối hẳn, thoạt tối xầm nhưng sau đó vài ba tia sáng thấm qua được kẽ mây mỏng khiến con đường Miên đương dẫn đầu cùng cả vùng ruộng lúa bao quanh nàng bỗng rưng rưng một thứ ánh sáng u hoài. Miên chợt thấy nhớ Kha vô cùng, nhớ như hai người đã thành vợ chồng và đương bị giang sơn cách trở. Nàng muốn quay lại để được thấy mặt Kha mà không dám. Nàng chậm bước một chút thì Hiển, Kha cũng chậm lại theo, nàng đành như người mù nghiêng tai lắng tìm ánh sáng tiếng chân thân yêu, nhưng chẳng hiểu sao, cả Hiển lẫn Kha cùng bước quá nhẹ, nên chỉ những tiếng chân phía sau đó nhòa đi trong tiếng chân nàng.

- Có nên dừng lại đây một chút không? - Hiển hỏi.

- Đồng ý - Kha đáp vội vã.

- Em cũng đồng ý lắm - Miên nói sau cùng và quay lại nhìn Kha, Hiển.

Đó là một cái quán bên đường, cách đồn Bảo - chính phất phới ngọn cờ quốc gia không bao xa. Họ cần phải nghỉ để xả hơi. Đôi gò má Miên hồng lên, vừng trán hiền lành của nàng lấp lánh mồ hôi. Trong quán khi đó chỉ có một bà già bán hàng và một người lính Bảo Chính, người lính này hầu như cũng chẳng thèm để chú ý đến bọn Miên, Hiển, Kha, mặc dầu ba người vừa bước chân vào, anh có ngẩng lên nhìn. Ba người ngồi xuống ghế dài lật ba chiếc bát đàn gọi ba bát nước chè tươi và một đĩa kẹo vừng. Hướng quán nhìn về cánh đồng rộng bên kia đường, một màu xanh mênh mông, làn gió dìu dịu từ khoảng đại dương cẩm thạch đó lùa vào như có thần lực làm tiêu tan mọi lo âu cực nhọc trong lòng ba người.

Bà chủ quán - ý chừng tiếp tục câu chuyện bỏ dở - cất giọng thân mật hỏi người lính Bảo Chính:

- Thế mới rồi cậu về nghỉ phép mười lăm ngày có gì lạ không?

Người lính lơ đãng chép miệng thở dài:

- Chẳng có gì lạ bà ạ (anh lại chép miệng) có con bé Dung đẹp nhất làng lấy thằng Dật mới lên cai xếp, tôi chẳng thiết về nữa.

Thấy Kha mỉm cười kín đáo, bất giác Miên cũng mỉm cười theo, mỉm cười cho thái độ chất phác về tình yêu của chàng trai miền quê đi lính Bảo chính.

- Thế ông cụ vẫn khoẻ mạnh - bà quán hỏi tiếp - năm ngoái tôi về qua làng, thấy cụ còn khoẻ mạnh lắm.

Lần này chàng trai chép miệng một cách hài hước:

- Ôi chao, ông cụ nhát quá bà ạ, lần trước về thăm nhà tôi có biếu cụ chiếc đèn pin, lần này về, tôi hỏi chiếc đèn pin đâu, cụ bảo "tao phải ghè đập ngay tối hôm đầu rồi." hỏi "Sao", cụ bảo : "nhà gấn bốt, thằng bé cháu (con anh trưởng) cứ mang đèn ra bấm lập lòe nhỡ ngứa mắt nó câu cho mấy phát moóc chê, chẳng phải đầu phải tai!" Bà bảo cụ tôi nói thế có chán không?

Rồi như để cho quên bực rọc, anh với một chai bia độc nhất trong đám mấy chai li mô nát xếp trên cao, ghè răng mở nút nút bia. Đúng vào lúc đó, Miên kính đáo ngắm khuôn mặt đen xạm của anh: đôi má hơi hóp, lưỡng quyền cao, quai hàm bạnh răng nanh bịt vàng, cả hàm răng ám khói thuốc, khuôn mặt liều lĩnh mà thực thà. Anh thổi chiếc nút bia ra xa ngoài cửa, rồi ngửa cổ tu ừng ực. Có chiếc xe đạp vừa lướt qua quán tiến về phía tỉnh, một người đàn ông tóc chải mượt đèo một cô miũm mĩm áo màu quần trắng. Anh lính Bảo chính ngửa cổ tu đến lần thứ hai thì chai bia đã vơi quá nửa, anh quả thực đương muốn phá " sầu thành "bằng rượu bia. Anh ngửa cổ tu gấp một lần nữa vì thoáng có tiếng động cơ nổ đằng sau. Trên con đường liên huyện bụi tung trắng xóa như vôi bột, một chiếc xe Dodge 4 phăng phăng tiến lại như con tuấn mã coi khinh quãng đường không chút hiểm trở.

- "Xếp" của tôi đã tới!" - người lính Bảo chính nói cùng lúc với tiếng phang rít bên ngoài, và một thanh niên sĩ quan to lớn có để ria mép thò đầu ra nói lớn, giọng thân mật:

- Ê, chú mày, công việc xong rồi chứ? Lên!

Người lính Bảo chính vừa "dạ dạ" vừa nhảy lên liền phía sau, chợt người sĩ quan nhíu lông mày, chăm chú nhìn Kha hơn nữa rồi quát, vẫn bằng giọng thân mật:

- Có phải thằng Kha đấy không?

Từ lúc chiếc Dodge4 dừng lại, Kha vẫn không hề chú ý đến ai, nghe tiếng hỏi, chàng giật mình ngẩng lên, đôi mắt tròn xoe miệng há rồi lập tức chuyển thành nụ cười sáng ngời hân hoan:

- Luận! Trời, cậu đóng quan mấy rồi?

- Hà hà, suýt đóng quan sáu! Cách đây ba ngày, trong một chiến dịch càn quét, tao bị phục kích.

- Mình và mấy người bạn kia (Kha chỉ Hiển và Miên) vừa chân ướt chân ráo hồi cư đến đây chưa biết phải trình diện và xin giấy má tạm thời ở đâu.

- Giấy má mẹ gì, lên đây theo tao.

Luận nhảy xuống, bảo người lính lái xe ngồi xuống dưới, khẽ cúi chào Miên, Hiển (chào lấy lệ, chẳng lẽ lại không chào) rồi nói luôn với Kha:

- Xin cứ lên xe tất cả, rồi đâu có đó.

Nói dứt, Luận nhảy lên ngồi trước tay lái, Kha đã trả tiền bà quán và nói vắn tắt mấy lời về lý lịch của Luận cho Hiển, Miên hay:

- Cha này trước ở ban kịch Tháng tám (ban kịch thành lập sau ngày cách mạng 19 - 8) có tản cư ít lâu, rồi vào thành.

Kha lên xe, ngồi ngay bên tay mặt Luận, hỏi:

- Sao cậu lại vào nghề lính?

Luận đã vào số cho xe chạy lẹ, dáng rất thành thạo đáp:

- Chó nó thích vào lính cho Tây. tao lẩn, nhưng lần thứ ba nó tóm ngay tại nhà, lôi sềnh sệch xuống Nam Định theo học lớp sĩ quan chín tháng ở đó.

Ngưng một chút, Luận hỏi:

- Sao đương ở ngoài đó lại về?

- Cậu còn hỏi câu đó à?

Luận cười.

Phía sau xe có Hiển, Miên, người lính Bảo chính tài xế, người lính thất tình (ở quán), và hai bà cùng đứng tuổi vốn là hai bà chủ thầu các độ vật vãnh cho nhà binh. Thâm tâm hai bà cũng coi khinh vẻ ăn mặc tiều tụy của hai anh em Hiển, Miên, tuy nhiên để tỏ ra mình là hạng người lịch thiệp, hai bà cũng có dịu đôi mắt nhìn: khi hai anh em khom lưng bước vào và khi Hiển, Miên cúi chào thì hai bà cũng khẽ cúi đầu đáp lại, sau đó mới tiếp tục câu chuyện đương dở dang. Đây hẳn cũng là buổi đầu hai bà gặp nhau, hai bà đang khoe sự sung túc ở miền quê của riêng bà.

- Nhà tôi vườn ao trước; đán h cá, chúng tôi chỉ ăn cá chắm, cá chép thôi bà ạ, cá mè thì cho người làng (bà làm điệu nói vói người làng) lấy về mà ăn đi, nhà tôi không ăn cá này đâu, mang về mà ăn đi, nhà này không có bán!

- Nhà tôi bà ạ - bà kia tiếp - lò than lúc nào cũng hồng. Khách đến nhà, nhổ mấy củ xu hào, con gà chỉ kịp kêu đến "quéc" một cái là đã luộc ở trong nồi rồi. gạo tám thơm, gạo rự, gạo ré cánh ... chẳng thiếu thứ gì.

Xe đến chỗ quành, Luận không hãm bớt tốc lực, mọi người mất thăng bằng, xô về một chiều. Lời đàm thoại của hai bà thích ứng ngay với hoàn cảnh:

- Gớm, như đi máy bay!

- Ấy thưa bà, trên máy bay được cái người ta còn có giây da buộc lấy mình như thế này này ạ. (bà làm điệu giây da quấn ngang bụng).

Tiếng Kha reo vui hỏi Luận:

- Ồ kìa, loại xe gì mà kỳ lạ vậy?

- Mày thật là mán rừng, loại xe vespa của Ý đấy! - Luận đáp.

- Xe nhỏ mà chạy lẹ quá, trong thanh nhã chứ không hùng hồn như loại xe mô tô cũ.

- Vespa, tiếng ý là con ong, mày chú ý xem nhìn chiếc xe hao hao giống con ong.

- Ờ nhỉ.

- Loại xe này giờ đây phổ thông lắm, họ cho thuê sáu mươi đồng một giờ.

Luận bỗng phang "kít" cho xe đỗ trước một đồn binh rồi bảo Kha:

- Để tao vào gặp thằng trưởng đồn rồi bảo Kha:

- Để tao vào gặp thằng trưởng đồn lê dương ở đây một chút.

Hiển và Miên cũng thò đầu ra nhìn. Đây là một đồn binh ở ngoài tỉnh lỵ Vĩnh Yên. Những bao cát xếp cao quanh lỗ châu mai trước đồn, thấp thoáng có bóng người lính gác bên trong. Một toán tù binh khác, cứ hai người một, khiêng thùng phân đi đổ. Mấy tên lính Tây đội ca lô xanh (mũ lê dương) đương chỉ trỏ ra lệnh cho tù binh, một tên nói gì với thầy đội thông ngôn đứng gần đấy, thày cười cầu tài và gật đầu lia lịa. Cách đồn binh một đường hẻm nhỏ, bắt đầu có nhà thường dân. Ánh nắng đã chói chang, đống rác lớn gần tiệm ăn tỏa hơi nồng nặc hòa với mùi rãnh nước đen ngòm chảy ri rỉ từ cửa tiệm ăn ra cống lớn, một đứa trẻ trần truồng ngồi bĩnh gần đấy.

Luận đã trở ra và cho xe chạy rẻ theo đường vào tỉnh lỵ, xe cộ đủ loại xuất hiện: xe bò; xích lô, xe đạp, vélo solex, vespa, ô tô hàng … và đã thấy thấp thoáng nhiều bóng áo màu, quần trắng của các thiếu nữ con nhà khá giả. Hai người lính được lệnh Luận cho xuống đồn trước (đồn này do Luận chỉ huy và đóng sát tòa tỉnh trưởng), hai bà chủ thầu xuống khoảng gần chợ; khi chỉ còn bọn Hiển, Kha, Miên trên xe, Luân mới quay xuống nói với tất cả.

- Tôi sẽ đưa các bác đến một gia đình người quen, sớm mai tôi sẽ đích thân đưa các bác ra bến xe về Hà Nội. Khi tới Gia Lâm các bác nhớ xuống trình diện với ty Công An, xin giấy thông hành tạm thời, rồi tìm người thân làm chứng bảo đảm để được cấp thẻ căn cước. Như vậy là «chu» rồi, các bác khỏi phải đến trình diện tại ty Công An ở đây để rồi bị giữ lại qua đêm như tù.

Kha nói mấy lời cám ơn Luận, nhưng Luận hầu như bỏ ngoài tai mấy lời khách sáo đó, và tiếp tục câu chuyện vói riêng Kha:

- Thằng cha Trưởng Ty trước làm ở bên Kiểm Tục, dùng thuốc cường dương như cơm bữa; qua đêm ở đấy, em gái mày có thể bị nguy (Luận tưởng Miên là em gái Kha), mày nên nhớ ở tỉnh nhỏ thì Kiểm Tục, Công An, Hiến Binh là vua, đó là Dịch hạch, Dịch tả và Thương hàn, mấy hôm trước đây tao mới chửi cho chúng nó một trận.

Luận cho xe chạy dọc theo phố chợ, rồi rẽ vào một đường phố khác, hai bên là nhà ở chứ không phải là cửa hàng. Chiếc Dodge4 còn rẽ vào một đường phố hẹp nữa, không khí yên tĩnh như giữa miền quê dừng lại trước một căn nhà có hàng rào duối gai trước cửa, một chút sân rải đá cuội phía trước, vây xung quanh có cây ăn quả mới lớn, trông còn khẳng khiu lắm. Luận đưa Hiển, Kha, Miên vào giới thiệu với cụ chủ nhà trạc sáu mươi tuổi, xin cụ cho ở nhờ đến sớm mai sẽ ra xe hàng hồi cư về Hà Nội. Cụ vui vẻ nhận lời, giới thiệu Miên vói cô con dâu đứng gần đấy: người con trai vừa đi chơi quanh lối xóm về, cụ giới thiệu với Hiển, Kha. Những người đàn ông bắt tay nhau hỉ hả. Luận to béo bao nhiêu thì Đản (tên người con trai cụ chủ) gầy nhom bấy nhiêu, nhất là mái tóc anh lại cố tình để dài, nghệ sĩ. Thấy tay anh cầm quyển Tản Đà vận văn, Luận nói giỡn thân mật:

- Thời đại nguyên tử rồi mà còn đọc kinh Thi! (Ý Luận chỉ muốn nói là đọc thơ).

Lập tức Đản giơ tay lên vuốt mái tóc dài, nước da trắng trên khuôn mặt gầy càng xanh lướt thêm để phản đối và anh đáp:

- Ô hay, chính bom nguyên tử được làm ra để bảo vệ Kinh Thi chứ.

Cụ chủ xếp cho bọn Hiển lên ở căn gác xép, phía sau. Dưới bếp gia nhân đương bận rộn làm gà, thái xu hào, cà rốt. Cụ chủ nói với Luận:

- Chả hôm nay nhà tôi có kỵ, chiều mời trung úy bớt chút thì giờ đến sơi cơm với chúng tôi.

- Dạ cám ơn cụ, nếu có thì giờ thế nào cháu cũng lại - Luận đáp.

Một năm trước đây, cô con gái mười chín xuân xanh của cụ lọt vào cặp mắt diều hâu cú vọ của tên trưởng ty Kiểm Tục (mà hiện là trưởng ty Công An). Ngày đó Luận cũng vừa được cử đến đóng đồn ở đây, ngẫu nhiên gặp ông cụ đứng trước cửa, đôi bên bắt chuyện, ông cụ kể lại sự tình, Luận nổi cơn anh hùng "giữa đường thấy sự bất bằng mà tha ", đến gặp phăng tên trưởng ty Kiểm Tục, báo cho hắn biết người con gái mười chín tuổi kia là em nuôi của Luận. Cô gái thoát, năm sau lấy chồng, Luận được gia đình này coi như ân nhân. Đản cũng mới lấy vợ được hai tháng nay.

Luận từ biệt mọi người trở về đồn và giao hẹn chiều sẽ lại. Kha, Hiển, Miên lần lượt vào buồng tắm. Họ định tắm xong thì thủng thẳng ra chợ ăn trưa, nhưng cụ chủ đã kêu dọn cơm và mời cả ba lên ngồi cùng bàn, từ chối làm sao cũng không được. Điều Miên còn nhớ trong bữa cơm đầu tiên miền quốc gia đó là mặc dầu đã cố giữ ý mà ba người vẫn ăn nhanh và ăn khoẻ nhất, đúng tác phong kháng chiến! Tắm rửa xong thay bộ đồ mới sạch sẽ (tuy vẫn nâu sồng) trông họ không đến nỗi nào.

Sau bữa ăn, Đản nói chuyện với Hiển, Kha, Uyển, vợ Đản, thủ thỉ nói chuyện với Miên ở góc hiên. Đàn bà làm quen nhau hơi chậm, nhưng khi đã quen thì tâm sự liền. Thì ra Đản và vợ đương giận nhau. Đản hiện làm thư ký tại một quận cách tỉnh lỵ hai mươi nhăm cây số. Quận lỵ này có hai thư ký, hai người thỏa thuận dàn xếp với sự ưng ý thông cảm của quận trưởng là mỗi người trong một tuần có thể về với gia đình được ba ngày, Đản về vào những ngày thứ sáu, thứ bảy và chủ nhật. cặp vợ chồng mới này âu yếm nhau lắm. Thứ sáu vừa rồi, về tới nhà, Đản thấy vợ từ buồng tắm ra, đã mặc coóc sê nhưng chưa mặc áo, chỉ khoác ngoài có chiếc khăn bông lớn, chàng bất bình nói mỉa: " Mới đi vắng có bốn ngày mà đã ăn mặc hở hang thế, đi vắng hàng tháng có lẽ khỏa thân mất ", tức thì Uyển công phẫn đáp lại cũng có đôi phần trắng trợn. Thế là hai vợ chồng giận mát nhau. Hai ngày qua rồi, chỉ còn một hôm nữa thôi ( mai thứ hai Đản đã phải đến quận lỵ). Ngắm thân thể đẫy đà của vợ Đản, Miên mỉm cười nghĩ thầm: " Rồi tất đêm nay hai anh chị phải làm lành nhau."

Mãi tới một giờ, những người bạn trẻ mới giải tán để đi ngủ trưa một tí. Miên nằm trên giường nhỏ, Hiển và Kha trải chiếu xuống sàn vào một góc, Miên đã chợp ngủ, nàng mệt lắm rồi, nàng không ngờ khi Kha cũng đã ngáy khẽ, Hiển còn lắng nghe Đản từ một căn phòng bên dưới rền rỉ ngâm bài "Cảm thu tiễn thu" của Tản Đà:

Từ vào thu đến nay.

Gió thu hiu hắt,

Sương thu lạnh,

Trăng thu bạch,

Khói thu xây thành

Lá thu rơi rụng đầu gềnh

Sông thu đưa lá bao nghành biệt ly.

Hiển nghe mà rùng mình, chàng nhớ lại thuở thịnh thời của thực dân, nhớ lại hình ảnh cô đầm hãnh tiến rượt đuổi người thanh niên Việt ở trước rạp Eden. Chàng mường tượng những cảnh tù đày ở Côn Lôn, Lao Bão lẫn lộn với những cảnh thanh niên trụy lạc ở Khâm Thiên, ở ngõ Sâm Công, rồi những cảnh làm đĩ, những cảnh người ngoại quốc nhìn người Việt bằng con mắt miệt thị, những cảnh trí óc thông minh Việt Nam đã không được sử dụng, mà còn bị hạn chế để đến nỗi kẻ biết lái xe tăng được coi như một kỳ tài quái kiệt, chàng nghĩ đến cảnh đời trống rỗng, người xót thương cho dân tộc chỉ còn biết kêu than tiêu cực: nhạc "Giọt mưa thu" của Đặng Thế Phong, thơ "Cảm thu tiễn thu" của Tản Đà; chàng nghĩ đến những ngày hè oi ả, tiếng ve kêu ánh ỏi dưới hai hàng me hay hai hàng phượng vĩ hoa đỏ rực báo mùa thi, than ôi thi cử mà làm gì, nhà trường sản xuất ra những kẻ hiên ngang thì mất đầu như Nguyễn Thái Học, Ký Con, những hạng tầm thường "phi cao đẳng bất thành phu phụ" thì gác tía lầu son.

II

Bốn giờ chiều, Luận đến sớm ngỏ ý đón Hiển, Kha, Miên để đưa đi một vòng qua các phố tỉnh lỵ gọi là "xem tình hình quốc gia". Miên từ chối khéo, nàng ở lại, xuống bếp giúp Uyển sắp đặt các đồ nấu nướng. Lên xe Dodge 4, cả ba người đàn ông cùng ngồi trên, Kha ngồi giữa ngay sát bên tay mặt Luận, Hiển lơ đãng nhìn cảnh sinh hoạt của dân chúng hai bên lề phố, trong khi Luận huyên thuyên nói về chuyện vợ con của chính anh:

- Thật tình moa coi en (elle) như vợ chính thức rồi, cần chó gì phải giá thú giá thiếc, nhưng moa vừa đi opération (công tác) nửa tháng về, elle đã ngoại tình. Mà với ai? Với thằng bạn thân của mình mới chó chứ.

- Cậu có đánh thằng bạn? Kha hỏi.

- Ấy mình cũng định thế, thằng cha đó cran (gan) lắm, nó nói với moa, chính vợ mày tấn công tao trước, mày về cảnh cáo nó thì hơn". Lần đầu moa tha thứ, moa chỉ vào elle giao hẹn: "Tôi báo cho cô biết là tôi bỏ qua chuyện trở về trước, nhưng từ nay trở về sau, cô phải ngừng lập tức cái trò bỉ ổi ấy!" Lần sau moa đi opéraration, elle lại chứng nào tật ấy; sau bữa ăn tối, moa lẵng lặng bước vào phòng elle như thường lệ, dừng lại trước mặt elle, mím chặt môi, đứng nghiêng người về phía bên phải, phóng một quả đấm thôi sơn vào đúng quai hàm, elle lộn đi mấy vòng trên chiếc giường rồng rồi ngã xấp xuống đất. Elle gan lắm, không khóc một tiếng trừ tiếng kêu thất thanh duy nhất lúc thoạt đầu, rồi xếp va li đi ngay, hôm sau chiếu điện thấy có một fêlure ( rạn nứt) ở khoảng đó.

Kể dứt câu chuyện một cách rất tự nhiên, coi như Kha đã biết elle là ai rồi, Luận cất tiếng hát một bản tình ca than cho duyên kiếp bẽ bàng, giọng trầm buồn rất đỗi thương cảm, chính Kha cũng không ngờ con người có giọng ca nghệ sĩ ấy lại cũng là con người vũ phu của thế đứng "nghiêng mình bên phải" và "phóng một quả thôi sơn" lên quai hàm người đẹp. Giọng hát trầm buồn bỗng ngừng bặt, tốc độ xe giảm hẳn, tiếng Luận hốt hoảng cùng với tiếng kèn kẹt của cần sang số:

- Bỏ cha tôi rồi, đồ giả;

Kha ngơ ngác hỏi:

- Giả gì kia?

- Mày trông con bé đứng trước cửa, bên tay mặt mày:

- Cô giáo tiểu học mới đổi tới đấy. Sáng nay tao gặp elle đi lễ chùa, ngực thế này (Luận phác một vòng trước ngực mình), mà bây giờ trong elle mặc áo cánh đứng trước cửa, ngực lép xẹp. Của giả rồi! Đau thế!

Xe chạy nhanh dần và giọng hát trầm buồn của Luận lại nổi lên, Kha nghe mà có cảm giác Luận đương đặt cả cuộc đời mình lên chiếu bạc ván chót và biết mình thua nên thả cho đời tan trước vào tiếng hát đó.

Từ lúc lên xe, Hiển vẫn cúi đầu suy tư, đôi khi chàng có mỉm cười, hoặc cười thành tiếng khẽ góp vào câu chuyện của Luận, nhưng rõ là chỉ có tính cách xã giao thôi.

Luận bỗng bẻ quặt tay lái. Hiển xô vào Kha và cả hai xô vào cánh tay "hải tặc" của Luận. Xe vút về phía trước, chồm lên, tiếng phang rít, tiếng Kha ngạc nhiên:

- Ồ đã đến nhà này!

Thì ra trên đường về, Luận cho xe chạy quành ngả khác đi vào một đường hẹp nhưng vắng và khi xe nhô khỏi đường hẹp đó chỉ quặt ngoẹo sang tay trái một chút là tới nhà.

Khách đã lác đác đến, trong nhà đèn nến sáng choang, không khí tấp nập nhưng nghiêm nghỉnh. Ba người bạn trẻ lén thẳng lên gác xép để đứng ngồi thoải mái. Kha lục ba lô tìm cuốn sổ tay. Đã từ lâu chàng có thói quen ghi chép những cảm nghĩ.

Tiếng Luận:

- Kha này!

- Gì?

- Mày còn nhớ dạo chúng mình đóng kịch?

- Còn.

- Dạo đó chúng mình trẻ quá nhỉ?

- Ừ.

- Thời đó tao theo riết em nào, em đó phải chết. Đủ mánh lới. Rồi khi đã "biết" em hai ba lần rồi, a lê hấp, đá! Giờ đây trong nét mặt mày còn đẹp, mày còn giữ được vẻ cao thon, thì thì "xí" trai quá rồi, bụng thấy một ngày một to, đít một ngày một xệ xuống.

Kha, Hiển cùng bật cười. Kha nói:

- Cậu cứ nói vậy chứ trông costaud như cậu con gái nó mới dễ mê.

Luận vung tay ý muốn tìm lới phản đối, tay chàng quơ xuống chiếu đụng phải tập giấy có bìa ngoài mà Kha sắp xếp vào ba lô. Chiếc bìa tung ra, Luận nhìn vào và reo:

- A, mày làm thơ đấy à?

Kha chặc lưỡi:

- Thôi đôi khi buồn, làm chút ít.

Luận đọc, chăm chú đọc, vỗ đùi đen đét:

- Được, được lắm! tao cũng làm thơ đấy nhé, viết cả truyện ngắn nữa, vẫn đăng đều ờ tờ Quân Đội, bán nguyệt san của Nha Chiến Tranh Tâm Lý.

- Giỏi đấy!

- Để tao giữ tập thơ này của mày rồi cho đăng dần vào bán nguyệt san Quân Đội và một vài tờ civil khác tao quen.

- Cũng được, miễn là bố đừng đánh mất của con, và cũng chỉ nên lấy một số ít thôi, bao giờ đăng hết hãy lấy sau.

- Cậu về Hà Nội đã biết sẽ ở địa chỉ nào chưa?

Hiển đở lời Kha:

- Chúng tôi sẽ ở nhà số 78 phố Chợ Hôm, anh ghi cho để nếu tiện dịp mời anh tới liên lạc với chúng tôi cho vui.

Luận giữ chừng chục bài thơ và ghi địa chỉ trên vào sổ tay, Kha cất tập thơ còn lại vào ba lô.

Hiển ra nằm khoèo trên chiếc chiếu giải ở góc nhà. Luận nói với Kha:

- Tụi nhà văn trong báo Quân Đội già có, trẻ có. Tụi trẻ vào đấy để tránh ra trận chết cho thực dân, nếu tao gặp chúng trước thì giờ này cũng đã ở trong ban biên tập đó rồi. Tuy thế nhưng khi lâm trận mới thấy rằng mình chẳng bao giờ chết cho thực dân hết, mình hết để xây dựng một cái gì …. một cái gì tốt đẹp và bền vững cho đất nước. Có lẽ vì đã từng ra trận và trực tiếp linh cảm thấy cái gì tốt đẹp và bền vững ấy nên đôi khi nhàn rỗi tao đâm ra tí toáy muốn làm thơ, làm văn. Cũng không đến nỗi dở đâu, để rồi có dịp tao gửi đến cho mày những tờ báo đó.

Suy nghĩ một phút Luận tiếp:

- Tao ưng tập thơ này của mày lắm, đó là tập thơ đầu tay chứ gì. Trong văn chương tao tin và yêu những tác phẩm đầu tay vì đây là tiếng nói tinh khiết nhất của tình cảm ban dầu, càng những tác phẩm về sau ngoài bút càng … điếm đi (Luận cất tiếng cười lớn). Đúng thế, người ta thì bảo là "già giặn hơn", tao thì cho là "điếm hơn", vẫn những tình cảm cũ nhưng nặng về kỹ thuật để dễ ngụy trang, làm ra vẻ mới lạ, nhiều khi tác phẩm chỉ thuần túy là vấn đề kỹ thuật! Cho nên tự rút kinh nghiệm, với bất cứ tác giả nào quốc tế hay quốc nội tao cũng chỉ đọc ba bốn tác phẩm đầu, còn thì …(Luận làm điệu bằng tay) lướt, lướt!

Kha cười chậc lưỡi:

- Cũng có lý!

- Thế còn mày - Luận hỏi – Mày viết lách vào trường hợp nào, nhớ không?

Kha mím chặt môi, cười mỉm, ngước nhìn. Hình ảnh Vân thoáng trong trí chàng. Suốt trong mấy tháng đầu, cuộc kháng chiến sục sôi trong bầu không khí căm hờn quân thực dân cướp nước, Kha hoàn toàn quên Vân. Nhưng khi trung đoàn Thủ Đô đã tản lên miền Trung du, cuộc kháng chiến mở rộng trong không gian và nhuốm màu sắc trường kỷ trong thời gian, thì lòng người kháng chiến cũng phải giữ cho nó chừng mực để mà trường kỷ chiến đấu, hình ảnh Vân lúc đó trở lại thân yêu hơn bao giờ hết.

Luận nhắc lại câu hỏi:

- Sao, mày viết lách vào trường hợp nào, nhớ không?

- Kháng chiến được khoảng một năm thì ông Hồ có dịp làm một bài thơ khuyến khích nhân dân:

Ngành ngành thi đua

Người người thi đua

Ta nhất định thắng

Địch nhất định thua

Đọc xong bài thơ trên, mình chỉ hơi nhíu lông mày nghĩ thầm: "Thơ đếch gì thơ thế! " Tuy nhiên dạo đó mình còn quý ông Hồ, nên chỉ phản ứng bằng cách làm một bài thơ trữ tình nói về tình người mẹ cày cấy ở cánh đồng nhà nhớ người con ra đi diệt giặc, cầu chúc cho giặc chóng tan và con được yên lành trở về, đó là bài thơ số một cậu giữ. Bài thơ viết xong mình cất vào đáy ba lô.

Nửa tháng sau, một nhà phê bình văn học của Đảng hết lời ca ngợi bài thơ trên của ông Hồ và đề cao ông là "đệ nhất thi sĩ của thời đại", làm mình phát bẳn lên: " Ừ, gọi là bài thơ để phổ thông trong nhân dân thì được, nhưng vì bài thơ đó mà nâng ông Hồ lên là đệ nhất thi sĩ bợ đỡ như vậy chó nó cũng không ngửi được". Uất ức, mình phản ứng bằng một bài thơ trữ tình thứ hai và khi chép xong cẩn thận mình lại cất xuống đáy ba lô. Sau đó ông Hồ thỉnh thoảng vẫn làm thơ và lần nào mình cũng phản ứng lại bằng một bài thơ trữ tình chép xong cất vào ba lô. Chẳng bao lâu đáy ba lô trữ được một tập thơ khá dầy, vì qua mấy lần đầu phản ứng mà làm thơ, nhưng rồi nguồn thơ ở mình đã được nguồn thơ của "đệ nhất thi sĩ" gián tiếp khai phá nên chỉ thỉnh thoảng hứng cảnh sinh tình mình tự động sáng tác lấy. Bề ngoài mình vẫn đi khai hội, kiểm thảo với các "đồng chí" nhưng bên trong là cả một thế giới trữ tình riêng.

Đôi mắt Kha càng dõi về phía xa qua khung cửa sổ, bên ngoài trời đã về chiều. Kha nhớ lại thứ hoa cúc dại có đầy rẫy ở quê nhà. Kha nhớ lại hình ảnh Vân đã có lần hiện lên trong một giấc mơ làm nhòa nhưng cụm hoa vàng. Kha tiếp trong khi Luận như bị thôi miên bởi dáng điệu kể chuyện của Kha:

- Một lần có anh bạn "đồng chí" vỗ vào ba lô hỏi: "đựng những gì mà dầy cộm thế này?" Mình đã đáp lại rất bâng quơ: "Ừ nhỉ, người trìu mến những gì xếp ở đáy ba lô? Đáy ba lô cũng là đáy lòng!"

III

Khách đến ăn giỗ đã đông đủ, nhưng thể theo lời yêu cầu của bọn Hiển (và của Luận nữa) cụ chủ nhà ưng để đám bạn trẻ đó quây quần ăn với nhau trên gác xép. Khi mọi người vừa ngồi xuống quanh mâm cỗ thì có tiếng radio vọng lên tự căn phòng vợ chồng Đản dưới nhà: nữ danh ca Thùy Trang đương cất giọng não nùng. Vợ Đản vùng đứng dậy như bị điện giật, tiến ra phía cửa sổ ngó xuống, nhận thấy đó là thằng cháu họ, chừng mười lăm tuổi, tự ý vào buồng vặn radio, nàng bước rầm rầm xuống thang, vút một cái tới phòng, tắt nghiến radio cho tiếng Thùy Trang câm bặt. Kha và Miên cùng chú ý thấy Đản hơi mỉm cười đượm chút kiêu hãnh, bàn tay gầy và trắng xanh của anh khẽ đưa lên vuốt mớ tóc dài, và mãi tời khi nghe tiếng bước chân vợ dồn dập trở lên, anh mới kín đáo nói khẽ với mọi người:

- Bà đầm tôi nhất định không bao giờ cho tôi nghe Thùy Trang.

(Khi còn là người yêu của Đản, biết anh thích nghe Thùy Trang hát, Uyển mếch lòng nhưng chưa tiện nói ra. Là vợ Đản rồi, mỗi khi Đản mở radio đón nghe Thùy Trang, Uyển thoạt vùng vằng nện guốc ầm ĩ trong phòng để phá đám, rồi khóc, sau cùng nàng quyết liệt tắt radio).

Miên không rõ những chi tiết trên đây, nhưng thấy Uyển biểu lộ lòng nghen như thế nàntg tin rồi đêm nay đôi vợ chồng đó sẽ làm lành nhau và Miên thấy trong lòng vui vui.

Từ lúc đi vào miền quốc gia, nét mặt Hiển vẫn buồn buồn đôi mắt thường cúi xuống trầm lặng; trái lại Kha cũng như Miên lòng tràn đầy hân hoan, nghe ngắm hết điều này đến việc nọ, nhường như gặp cái hay thì họ vui, gặp cái dở thì họ cố tìm ra khía cạnh ngộ nghĩnh để tha thứ.

Tối hôm đó đã khuya lắm, Miên nằm trên giường còn nghe tiếng Hiển trằn trọc đằng góc phòng, rồi tiếng chàng thở dài, kế đó là tiếng Kha sực thức giấc hỏi:

- Anh chưa ngủ a, Hiển?

- Chưa - Hiển đáp.

Vừa lức trời đổ mưa, chỉ một phút sau tiếng mưa rơi dìu dịu rất dều trên mái ngói, Hiển phát biểu cảm tưởng:

- Nghe mưa rơi nhớ Việt Bắc ghê. nếu chúng nó không phản bội kháng chiến, sau này đất nước hoàn toàn độc lập, những kỷ niệm đó với mình quý giá biết chừng nào.

- Cảnh vùng quốc gia ngộ nghĩnh đấy chứ? – Kha hỏi lại.

Hiển ừ hử và tiếng Kha tiếp:

- Đương ở thế giới ngoài kia con người giống như những đồng xu, nói theo kiểu Maxim Gorki, vào đến đây tôi có cảm tưởng mình vào một khu rừng già …

Miên mỉm cười trong bóng tối, nàng rất ưng và thông cảm với Kha ở hình ảnh "khu rừng già", rồi nàng chợp ngủ.

Sớm hôm sau Miên thức dậy trước nhất ra giếng vục nước, rửa mặt đánh răng. Vợ chồng Đản còn dậy sớm hơn vì hôm nay đã tới phiên Đản tới quận làm việc. Quả như Miên tiên đoán, họ đã làm lành với nhau, và tuy họ chỉ thì thầm sợ kinh động giấc ngủ của người khác, nhưng dáng điệu họ thật là ríu rít; họ vừa bước xuống thềm thì gặp Miên từ giếng vào, đôi bên thân mật chào nhau và Uyển nói khẽ với Miên:

- Em tiễn nhà em ra xe.

- Vâng – Miên đáp – lát nữa chúng ta sẽ gặp nhau. Chúc anh Đản đi làm việc vui vẻ, thứ sáu lại về với chị.

Miên toan nói thêm vài lời cám ơn và từ biệt Đản vì lát nữa bọn nàng đã xuôi Hà Nội, nhưng nàng thấy rõ rằng lời nàng sẽ vô ích và nhạt nhẽo không để đâu cho hết đối với cặp uyên ương bịn rịn đó và nàng chỉ còn biết dừng lại ngắm họ ra cổng. Tuy sớm nay chẳng lấy gì làm lạnh, Uyển cũng khoác thêm chiếc áo len bên ngoài, chiếc áo len mầu nâu không hợp với nước da hơi xỉn của nàng, Uyển cố giữ vẻ khép nép để thu gọn hơn thân hình hơi xồ xề của nàng trong lần len. Người Uyển còn muốn chun lại hơn nữa khi nàng ngã đầu lên vai Đản. Đó cũng là cách "điệu" cho thêm phần quyến rũ - với trực giác của giới phụ nữ, Miên hiểu ngay thế. Nhưng nàng có hiểu đâu câu chuyện tình của hai người, nó thật lý thú, như chất hương của hoa nở, chất mật rừng man rợ vừa lên men, cứ thế mà tỏa ra, mà bốc lên, quyên lấy nhau, làm say lòng nhau.

Đản được bổ tới làm thư ký cho quận lỵ đó thì Uyển cũng vừa được nghỉ hè, từ trường tỉnh về trông nom giúp mẹ cửa hàng xén ngay sát nơi Đản trọ. Đây là lần đầu tiên Đản xa nhà, và cũng như hầu hết các chàng trai khác trong cùng trường hợp, anh cảm thấy tâm hồn vừa bâng khuâng vì tới chốn lạ, vừa ngây ngất vì hương vị tự do. Giá như Đản gặp Uyển ở ngay tỉnh lỵ Vĩnh Yên thì Uyển cũng đến bị lẫn ngay trong đám hương sắc trung bình của những cô gái tỉnh, nhưng Đản vốn thích ngâm thơ và thường cũng biết mình thuộc nòi đa tình. Các bạn công chức trẻ cùng trọ đều suy tôn Đản là thi sĩ. Uyển từ tỉnh về bất ngờ, nàng về quận lỵ sau Đản chừng ba hay bốn hôm là cùng vào một buổi chiều tà, giờ gà lên chuồng. Lúc đó Đản vừa bỏ kính trắng, từ căn gác trọ, đôi mắt hấp háy của chàng chợt nhìn xuống miếng sân vuông vắn bên nhà Uyển, khoảng giữa nhà trên và bếp, cháng bất chợt thấy bong một thiếu nữ - bong Uyển – đang vơ vội mấy chiếc quần áo trên giây. Khi chàng mang kính lên thì nàng đã vào nhà. Lòng bồi hồi chàng buột miệng ngâm bài "Cảm thu tiễn thu" của Tản Đà. Một anh bạn trẻ thấy thế bèn tưới dầu thêm vào lửa:

- Nàng học đệ tứ trường tỉnh đấy, chiều nay mình vừa gặp, xinh lắm.

Sự thực anh bạn đó có gặp ghiếc gì đâu. Sớm hôm sau vào giờ đi làm, qua cửa hàng, Đản có đưa mắt nhìn vào thấy nàng cũng vừa từ quầy nhìn ra, dường như nàng đã hiểu chính chàng là người ngâm thơ chiều hôm qua. Thật ra chàng có thấy nước da nàng hơi xỉn và thân hình nàng hơi xồ xề, nhưng người con gái nào đến tuổi dậy thì mà chẳng tỏa ra một cái gì mê hoặc và thiết tha? Buổi trưa tan sở về, chàng tạt vào cửa hàng nàng mua một hộp Gibb đánh răng, các bạn trẻ đứng ngoài kẻ thì dặng hắng, kẻ thì khúc khích cười làm nàng cứ phải cúi gầm mặt, hai tay luống cuống mãi mới gói xong cho chàng hộp Gibb. Ôi, tiếng dặng hắng đó, tiếng cười khúc khích đó đã là những dây dợ vô hình nhưng vô cùng kiên cố buộc trói lấy chàng và nàng ngay từ buổi sơ ngộ. Trong buổi sơ ngộ này, chàng đặc biệt chú ý đến mái tóc nàng cố ý chải xõa xuống che một chút đuôi mắt lim dim bên trái. Khi chàng trả tiền, nàng ngước nhìn cám ơn, đôi mắt nàng một bên to, một bên hơi nhỏ và hơi lé một chút, chính vì vậy mà khi nhìn vào đôi mắt ấy, chàng như thấy mình bị thâu hút vào một thế giới kỳ ảo làm điên đảo tâm hồn. Rồi mỗi lần chàng vào cửa hàng mà có bạn theo, nàng thường ngượng ngập, nhưng nếu chỉ có mình chàng thì nàng lại có khoé nhìn vẫn ngượng ngập đấy mà vẫn thiết tha khiêu khích làm sao. Rồi nàng lại mượn sách của chàng, phần nhiều là những tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, đôi khi nàng cho con bé người làm mang sách sang gửi giả trước giờ chàng đi làm về một vài phút, bên trong thế nào cũng có vài hàng cám ơn mà bên dưới trước khi ký nàng có ghi "Em gái anh". Nàng rất thành khẩn chỉ xin làm "em gái anh" thôi. Cho đến một buổi sớm kia – đa cảm như chàng thì trọn đời chẳng thể quên được buổi sáng ấy – chàng vừa ra khỏi nhà trọ để đến văn phòng quận thì nàng cũng vừa từ trong cửa hàng dắt xe đạp tiến lên mấy bước cùng một chiều với hướng chàng đi, dáng nàng uyển chuyểnnhư rắn trườn trên cỏ xanh mà đồng thời cũng hiền như chim câu, rồi nàng ngồi lên yên xe bắt đầu đạp xe, hai dây xú chiêng nổi hằn vuông vắn từ hai bên vai xuống, chiếc áo dài nàng mặc hôm ấy màu hồng nhạt đến nỗi chàng có cảm tưởng đó chính là màu da thịt nàng hồng lên ánh qua làn vải. và đấy mới thật là màu da của nàng chứ! Nàng hơi đẫy ư? Không, nàng chỉ tràn đầy sức sống! Trông thấy thân hình nàng mà như ngửi thấy hương thơm, thứ hương thơm nồng ấm tỏa ra tự miền da thịt tràn trề sức sống của nàng. Chàng dừng lại đợi cho bong nàng cùng chiếc xe bon từ từ khuất hẳn sau lối rẽ. Chàng bâng khuâng tiến bước, tới trước một villa nọ chàng vô tình ngửng lên thấy một cô gái trạc đôi tám đương khoanh tay tựa cổng nhìn chàng nửa như tò mò quan sát nửa như chờ đợi bâng quơ. Thấy chàng ngửng lên cô quay vào dáng đi cũng uyển chuyển gót guốc bước mau trên lối đi phủ đất cát màu đỏ ẩm hơi sương, để lại những dấu hằn rất rõ khiên vô cớ người con gái bỗng đượm một vẻ đẹp huyền hoặc. Nhưng cái vẻ uyển chuyển kia, những bước hằn trêbn cát đỏ kia, vẻ kiều diễm chợt tăng lên bội phần của người con gái kia đều quy tụ cả về NÀNG - Uyển – như trăm ngàn con suối nhỏ đổ ra song lớn cho rộng đôi bờ. Trong trí CHÀNG thật ra chỉ còn có NÀNG! Ngay buổi trưa hôm đó chàng mang sang cho nàng mượn một quyển truyện khác, bên trong có bức thư tỏ tình của chàng khởi đầu bằng câu đượm tính chất quyết liệt : "Em yêu ngàn đời của anh …" Buổi chiều chàng sang cửa hàng và nhân lúc vắng người đó nhắc lại vắn tắt những điều đã viết trong thư. Nàng chịu. Tình yêu của chàng và nàng luôn luôn là một ước vọng hiến dâng, nhưng vì họ yêu nhau thật nên các góc cạnh sỗ sàng của dục vọng được xóa mờ đi.

Con cú vọ Thời Cuộc sắp dùng lưỡi hái Chiến Tranh để chia rẽ đôi chim khuyêncủa Ái Tình: có người bà con từ Hà Nội lên báo cho chàng hay là chàng sẽ nhận được giấy động viên vào Nam theo học lớp sĩ quan ở Thủ Đức. Chàng đâu chịu hy sinh tình yêu để xông pha tên đạn cho quyền lợi lũ thực dân cướp nước và lũ tay sai bù nhìn bán nước! Tình yêu đã giúp chàng đủ sức chịu đau đớn khi tự chặt một đốt của ngón tay trỏ, tình yêu đã giúp chàng mưu cơ, biết thản nhiên trả lời vị bác sĩ quân y ở phòng trưng binh là chàng đã chặt đốt ngón tay đó để thề không đánh bạc. Dĩ nhiên người ta không thể cho gia nhập đoàn thể quân nhân một người không thể bấm cò súng. Chàng trở về với chức vụ thư ký quận lỵ. Chàng trở về với nàng, vĩnh viễn với nàng, vĩnh viễn với tình yêu; Hôn lễ cử hành sau đó ít lâu. Chàng thiết tha yêu cầu nàng chọn áo cô dâu màu hồng nhạt, chiếc áo cũng bó sát lấy thân hình. Chàng bàng hoàng nhưng chững chạc đi vào đêm tân hôn; khi ôm thân thể tràn đầy sức sống của nàng, chàng thì thầm ngâm lại bài thơ "Cảm thu tiễn thu" của Tàn Đà, lời thơ có thêm chất men tình yêu nên ngưng đọng như bức ảnh mà linh động như một khúc phim. Rõ rang trong bong tối mà chàng thấy da thịt "người em yêu ngàn đời" đương dậy lên thành màu hồng của áo. Chàng và nàng say sưa trong mối tình bát ngát như cánh đồng lúa đương xuôi về miền Trung châu và cao vút như ngọn Tam Đảo chiều chiều in cắt trên vòm trời tím ngát. Rồi nàng ở lại với gia đình chàng ra đi quận ly làm việc bốn ngày, về với nàng ba ngày. Tình yêu tiết lộ vì hoàn cảnh ấy càng khoác màu vĩnh cửu, chàng chỉ mới mất có một điều tự do là không được nghe Thùy Trang hát, nhưng điều cấm đóan này là một vinh dự chứ đâu là một thiệt thòi? Hai tháng thần tiên trôi qua, cũng có những phút giằn giỗi nhỏ nhưng đó chính là gia vị của tình yêu. Mãi tới kỳ vừa qua sảy miệng, chàng nói một câu hơi nặng tình; vì bất chợt bị chạm lòng tự ái nàng cũng không kìm được tình cảm khi đáp lại. Rồi buổi tối hôm đó nàng nằm trên giường, chàng nằm ở divan đọc sách mãi tới khuya, khuya lắm, chàng mới tắt dèn vờ ngủ cho đến khi ngủ thật. Hai đêm qua như vậy, Sáng ngày thứ ba thì bọn Hiển, Kha, Miên tới do chiếc Dodge 4 của Luận.

Khi cặp vợ chồng trẻ đã ra khuất cổng, Miên toan quay vào thì Kha từ gác xép xuống. Miên thấy niềm vui của mình tinh khiết như ban mai, nàng cười tươi và đon đả nói:

- Em tưởng anh còn ngủ.

- Hiển thì còn ngủ thật – Kha đáp – hôm qua Hiển trằn trọc mãi.

- Để em đưa anh ra giếng. Đi về phía này anh.

Hình như tới lúc đó Miên mới chú ý tới tiếng gà gáy xa, nàng né mình bước vào lối nhỏ, cũng tới lúc đó nàng mới kịp nhận thấy cỏ hai bên lề ướt đẫm sương đêm, và khi nàng cúi xuống vục nước cho Kha, nàng chằm chằm nhìn vào đôi chân Kha, đôi chân đi đôi dép kháng chiến bằng lốp ô tô.

Tám giờ Luận tới cùng chiếc Dodge 4 quen thuộc, lúc đó Hiển, Kha, Miên cũng vừa ăn sang với cụ chủ nhà xong, đương nghe cụ bàn chuyện thời sự và than phiền chẳng hiểu bao giờ chiến tranh mới chấm dứt, đất nước độc lập thật sự. Bộ ba vội vã đứng dậy từ biệt cụ, nhắc lại những lời cám ơn nồng nhiệt mà từ lúc ngồi xuống ăn sang ba người đã tiếp lời nhau nói.

Luận đưa ba người ra bến xe, chính chàng mua ba vé hạng trên. Luận căn dặn thêm một lần nữa khi ba người về đến Gia Lâm nhớ phải vào Ty Công An trình diện mà xin cấp giấy thông hành tạm thời. Đợi tới lúc xe hàng nổ máy hiển, Kha, Miên mới từ biệt Luận lên chỗ ngồi của mình trên xe. Xe hàng chuyển bánh, Luận còn đứng lại làm hiệu vẫy tay cho đến khi x era khỏi bến.

- Thế là yên chí - Luận nghĩ thầm – không còn sự gì có thể xảy ra được nữa. Luận đã lầm, chàng có ngờ đâu chính sự chu đáo của chàng mà Kha bị giữ lại ở Gia Lâm rồi giải về đề lao trung ương Hà Nội. Giá như Kha bị khám bắt ở ngay Vĩnh yên, Luận còn can thiệp kịp.

CHƯƠNG HAI

CHIẾC NHẪN SAPHIR

I

Kha bị giữ lại ở ty Công An Gia Lâm đã được ba ngày. Hai ngày đầu – hai ngày này mát trời – Miên cùng bà Tư từ Hà Nội sang xin vào thăm nhưng người ta không cho, viện cớ việc xét hỏi chưa xong. Ngày thứ ba Hiển và Miên đều đã xin được thẻ căn cước, buổi chiều hai anh định cùng đi thăm Kha, bà Tư can:

- Cậu Hiển chớ nên sang Gia Lâm. cậu vào chỗ đó gặp Kha làm gì? Cậu là thanh niên, cậu vừa ở ngoài ấy vào, cậu mới được cấp thẻ căn cước ngày hôm nay, mà cậu lại sang thăm cái người bị tinh nghi về cùng một chuyến với cậu, nhỡ người ta ngứa mắt giữ luôn câu lại để tra xét thì sao, cậu cứ mặc tôi và cô Miên là được rồi.

Hiển thấy lời bà Tư nói có lý. Đúng vào lúc bà Tư đương sửa soạn đi, thì có người tới hớt hải mách mối hàng. Miên nói luôn với bà:

- Thôi tôi đi một mình cũng được, tôi có thẻ căn cước rồi mà, bà cứ đi cho xong việc buôn bán kẻo lỡ dịp may.

Và Miên đi một mình. Nàng vẫn đi bằng xe đạp, chiếc xe đầm kiểu Peugeot mà cô con gái ông chủ nhà có nhã ý để nàng sử dụng suốt ngày như xe riêng của nàng.

Hôm nay trời nắng. Nắng đầu tháng bảy mà chói chang bốn ngả. Khi xe qua cầu Long Biên còn có hơi mát của nước và gió lộng, khi xe bắt đầu bon xuống dốc đầu cầu, hơi nóng từ mặt đường bốc lên ngột ngạt. mặt đường nhựa chảy ra nát nhẽo, bên trên phủ lượt bụi trắng xóa, khi bánh xe lăn qua, khoảng nhựa mềm quánh khẽ lún xuống để lật ra màu đen lấp lánh như than đá. Quãng đường nào hết nhựa, bụi đá nơi đó bạc phếch luôn luôn bị tốc lực của đủ loại xe hơi lớn nhỏ làm cho bốc tung lên, rồi tóa ra, phú lên những lùm cây khô cằn hai bên lề đường; khoáng này gợi xa xôi đến hình ảnh khắc khổ của sa mạc với ánh nắng chói rực mà sức nóng làm cho đá nát vàng phai. Nhìn cả một giải đường xa phía trước chỉ thấy rực hơi, nhiều chỗ lấp loáng như gương. Xuống hết dốc, Miên đạp xe từ từ vào phố Gia Lâm.

Hai dãy nhà thấp hai bên đường phố hôm nay cũng có bộ mặt khác dưới nắng: những tường vôi loang lổ càng làm tăng vẻ ngột ngạt của oi bức, những mái rêu xám đen càng tăng vẻ tạm bợ của cuộc sống chưa có lối thoát. Cảm giác chua chát, buồn bã đó mãi đến hôm nay mới len vào tâm tưởng Miên, có lẽ vì hôm nay nàng mới chú ý đến ngoại cảnh một chút. Hôm đầu về đến đây thì Kha bị giữ lại, lòng Miên rối như mớ bòng bong. Rồi về tới Hà Nội, tìm đến nhà ông bà chủ nhà cũ ở phố Chợ Hôm, rồi gặp lại ông bà Tư ngay bên hàng xóm, hai anh em (Hiển, Miên ) phần lo cho Kha phần lo cho mình, có lúc nào Miên kịp chú ý đến ngoại cảnh, hay nói đúng hơn, ngoại cảnh chỉ là tiếng xe cộ ồn ào, những bóng người nhộn nhịp, thế thôi. Trong khoảng ồn ào nhộn nhịp một cách xa vắng ấy, là niềm lo âu của Miên về Kha, lo âu đến se sắt cõi lòng. Sáng ngày thứ ba, nhờ bà Tư giới thiệu với ông em rể làm ở phòng dịch Nha Công An Bắc Việt. Hiển, Miên được người bảo đảm chắc chắn để lấy thẻ căn cước, mối lo vợi đi đôi chút. Và hôm nay, lần thứ ba sang Gia Lâm, Miên mới có dịp ngửng đầu nhìn thẳng vào ngoại cảnh chan hòa ánh nắng.

Chẳng hiểu lần vào thăm Kha, có được phép? Hay cũng như hai lần trước bị họ từ chối, viện cớ việc xét hỏi chưa xong.

Miên tới Ty Công An Gia Lâm đúng lúc nơi đây vừa mở cửa làm việc buổi chiều, nghĩa là khoảng hai giờ rưỡi.

Vẫn như hai lần trước, Miên đến thẳng bàn giấy của một nhân viên trẻ tuổi nhất, khi đó y còn đứng và đương dùng chiếc mùi xoa phẩy bụi bên ghế rồi trên bàn giấy. Người y tầm thước, mặt lưỡi cầy, mái tóc chải mượt, mượt đến như dính liền với da đầu. Bao giờ y cũng mặc chemisette trắng, quần hàng tussor màu vàng ngà ngà. Đôi giày trắng để da y đi đóng theo kiểu mới nhất của các "công tử" đương thời, nghĩa là phần mũi ngoài cùng dẹp và cong lên tưởng như giầy đã bị đè lâu dưới một cái giương nặng, vừa được chủ rút ra. Thấy Miên tới, y cúi đầu chào, miệng nở nụ cười xã giao, đôi môi mỏng căng bóng để lộ hai hàm răng có những kẽ đen vì hút thuốc lá. Nụ cười đó lẽ ra phải Sở Khanh lắm, nhưng trái lại đượm vẻ chân thật, có lẽ vì ý nhận thấy khuôn mặt Miên lúc nào cũng dịu dàng chân thật như vậy.

- Thưa ông hôm nay tôi đã đưọc phép gặp anh tôi chưa ạ?

Ngay từ hôm đầu, Miên đã có cách hỏi như vậy, khiến viên công an đó tưởng nàng là em họ Kha.

- Thưa cô được đấy ạ - y đáp trong khi đôi mắt Miên sáng lên.

Nhân viên công an tiếp:

- Xin cô ngồi chờ một phút, người tùy phái tới, tôi sẽ bảo xuống mời ông anh của cô lên.

Chừng ba phút sau, người tùy phái lên, dẫn ba người bị giam vì tình nghi. Ba ngưòi đó tới ba bàn khác, ngồi đối diện với nhân viên công an của từng bàn để trả lời những câu chất vấn trước khi viết tờ cung. Câu hỏi khẽ xen với câu hỏi sẵng, bỗng một tiếng nạt nộ ở bàn bên làm Miên chột dạ:

- Ông đừng để tôi phải dùng đến biện pháp cứng rắn. Lời ông khai láo hết!

Vừa lúc đó, người tùy phái đã trở lại, dẫn theo Kha cùng vào.

Nhân viên công an giơ tay mời Kha ngồi đối diện với Miên mà nói chuyện, rồi y tiếp tục cúi xuống làm bộ chăm chú xét hồ sơ, kỳ thực đôi mắt y đưa đẩy và tai phải của y luôn luôn nghiêng hướng về câu chuyện để theo dõi.

- Em và anh Hiển – Miên nói với Kha - hiện về ở số 78 phố Chợ Hôm với ông chủ nhà cũ, nơi ngày xưa chúng em trọ học.

Kha cười, gật đầu làm bộ cũng biết chỗ đó và đáp:

- Thế thì tốt lắm, nhưng cần nhất Hiển và cô phải có việc làm để bảo đảm đời sống. Tôi chắc Hiển có thể dạy học, cô có thể xin vào làm tại nhà thương Phủ Doãn chẳng hạn.

Miên khẽ gật đầu:

- Vâng em cũng nghĩ thế. Anh Hiển chắc đi dạy học, em mà được vào làm nhà thương Phủ Doãn thì còn gì bằng.

Miên dựa vào câu nói của Kha mà trả lời như vậy, giọng nàng lơ đãng vì còn mãi ngắm khuôn mặt Kha (khi đó Kha hơi cúi xuống nhìn chân nàng) khuôn mặt xạm nắng gió những ngày qua, râu cằm và râu mép mọc đã khá dài, đôi mắt tuy nhìn xuống mà vẫn đượm sức mạnh man rợ. Khi Kha ngẩng lên Miên hơi lái tia nhìn chệch đi một chút.

- Tôi đã viết xong tờ khai – Kha nói - để ông Phó Trưởng Ty xét, chắc chỉ nay mai được về. Tôi sẽ về ngay số 78 phố Chợ Hôm.

Miên cười, nụ cười đầy tin tưởng và đáp:

- Vâng em chắc là thế.

Và cũng từ lúc đó Kha mới hay hai hôm trước đây Miên đều có tới đây mà không được phép gặp chàng. Bỗng sực nhớ ra điều gì, Miên ngồi thẳng người thò vội tay vào túi áo cánh bên trong, rút ra tập giấy bạc, khi xoè ra gồm có năm tờ hai chục. Nàng nói với Kha, giọng thốt nhiên ân cần:

- Anh cầm lấy kẻo nhỡ cần tiêu việc gì.

Thấy Kha có thái độ ngần ngại, Miên giục, giọng cương quyết.

- Anh cầm lấy!

Kha giơ tay đỡ lấy tập giấy bạc, im lặng nhìn Miên như muốn hỏi tiền ở đâu ra. Hiểu ý Miên tiếp:

- Em vừa bán chiếc nhẫn saphir sáng nay. Bán được ba trăm.

Nàng cười, nụ cười vô cùng thơ ngây và uốn cong ngón út tay trái của nàng lên. Phải rồi chiếc nhẫn saphir mà Kha nhận thấy lần đầu ở trên đỉnh núi lạng Hạc Thủy khi chàng nói với Miên về màu tím phớt hoa lau, chiếc nhẫn đó nay không còn nữa.

Tiếng Miên nói:

- Nhẫn đó em mua vào tết năm em mười bốn tuổi, dạo đó em đeo nó ngón tay này (Miên cong ngón tay giữa lại) nhưng rồi mỗi tuổi một lớn, các ngón tay cũng lớn theo (Miên cười, viên công an trẻ tuổi cũng cười theo vì lời nói thơ ngây của nàng), năm mười bảy tuổi em phải đổi nó sang ngón này (Miên lại cong ngón tay út lên)

Kha cười nhìn thẳng vào đôi mắt Miên, Miên vội quay đi (có lẽ chẳng bao giờ nàng kham được sức mạnh man rợ của đôi mắt ấy).

Tiếng Kha:

- Và từ ngày đó, cô không phải đổi sang ngón nào khác nữa vì không còn gón nào bé hơn, và cô cũng hết lớn rồi.

Kha cười khẽ hòa với tiếng cười khẽ của Miên. Lúc đó Miên mới dám nhìn thảng vào đôi mắt của chàng trai khá kỳ dị đó.

Lòng Kha tràn ngập một nỗi vui bâng khuâng vì chàng thấy mình vừa khám phá được tiếng nói bí mật của chiếc nhẫn saphir vắng mặt. Thấy rằng không nên kéo dài câu chuyện Kha đứng dậy điềm nhiên bảo Miên:

- Thôi cô cứ yên lòng về nhé. Cô làm ơn báo ngay cho chú ruột tôi là ông Hạo biết tôi đã về. Cô biết làng Định Quyết chứ, cách nhà thương Bạch Mai không bao xa, cô đi xe điện đến cộc đường, làng ở bên trái. (Chàng giơ năm tờ giấy bạc lên). Cám ơn cô về cái này.

Viên công an trẻ tuổi cũng đứng lên vẫy người tùy phái ở góc phòng để người này dẫn Kha trở lại nhà giam. Y còn cười nhìn Kha, Miên một lần nữa, nụ cười chứng tỏ y đã hiểu Kha, Miên không phải là an hem họ.

Bên ngoài bàn giấy Công An đã có cảnh binh. Kha theo người tùy phái rẽ vào ngõ hẻm bên trái. Ngõ hẻm được chăng giây thép gai dọc theo chiều sâu và ngay đầu hẻm cũng đã có lính cầm súng đứng gác.

Miên nhìn theo bóng Kha đi sâu vào gần cuối hẻm. Người lính gác ở trong cùng mở cánh cửa sắt của căn nhà bên phải, Kha bước vào và khuất bóng. Đó là nhà tạm giam.

Miên còn tần ngần đứng lại mấy phút sau. Khuôn mặt người lính ngoài cùng cũng như dáng điệu người lính phía trong cùng đều lạnh lùng như nhau.

II

Ba hôm trước đây Hiển, Kha từ biệt Luận rời Vĩnh Yên trên chuyến xe bàng tám giờ rưỡi sáng. Sau hai giờ chạy, xe về tới Gia Lâm. Theo thường lệ, xe phải dừng lại trước ty công an để nhân viên công lực kiểm soát hành khách và hành lý. Theo đúng lời căn dặn của Luận, Hiển, Kha, Miên cùng vào bàn giấy ông trưởng ty trình diện và xin cấp giấy thông hành tạm thời. Hành lý của ba người hồi cư phải mang xuống để các nhân viên khám xét kỹ. Họ xét hành lý của Kha trước. Lần này họ đòi xem cả ví tiền, do đó họ tìm thấy mấy chiếc ảnh kỷ niệm Kha chụp với mấy người bạn cùng mặc đồ quân sự. Họ giở tiếp đến quyển sổ tay và đọc thấy có những dòng liên quan đến kháng chiến. Thế là Kha bị giữ lại. Kể từ phút thấy mình có thể bị lôi thôi, Kha làm như không hề quen biết Hiển, Miên không thấy gì, họ coi hai người như thường dân hồi cư và cấp ngay cho giấy thông hành tạm thời.

Khi Hiển, Miên đã lên xe về Hà Nội, Kha bình thản ngồi trước viên công an sắp thẩm vấn chàng. Kha tin ở sự thẳng thắn của mình. Có lẽ cũng thông cảm với ý nghĩ của Kha viên công an nói:

- Thì ra ông là ngưòi quy thuận, giá ông nói trước thì chúng tôi khỏi phiền ông như thế này.

Kha điềm nhiên mỉm cười khẽ gật, tỏ ra chàng hiểu ý viên công an, sự thực đó là lần dầu tiên chàng nghe thấy chữ "quy thuận" và qua lời nói trên của viên công an thì hình như những người quy thuận phải được biệt đãi mới phải. Kha đã thẳng thắn trả lời những câu chất vấn của viên công an. Cuộc nói chuyện giữ hai người rất hòa nhã, tưởng như Kha nhân có việc đi qua tạt vào hàn huyên với người bạn quen.

Sáng hôm sau việc thẩm vấn chuyển sang viên công an khác. Viên này có thái độ hục hặc ngay từ phút đầu, vì vậy khi viết tờ khai, Kha ghi ngay ở trang đầu:

" Tôi yêu cầu ông Trưởng ty coi tôi như người quy thuận. Tôi tự ý về vùng quốc gia chứ không phải là tù binh".

Ngay buổi chiều ông phó trưởng ty mời chàng vào bàn giấy (ông trưởng ty còn bận đi kinh lý). Là một người học thức và có tâm huyết ông nói ngay là ông rất xúc động khi đọc hết cuốn sổ tay của Kha. Chính những tư tưởng Kha ghi trong đó xui ông quyết định có biệt nhỡn với chàng. Đã được đọc tư tưởng Kha qua những trang nhật ký, giờ đây nghe lại chính giọng Kha nói, giọng nói êm đềm nhưng chững chạc và gẫy gọn, lại được nhìn thẳng vào đôi mắt Kha, đôi mắt man rợ một cách đáng yêu, cả nhân cách Kha như thoát ra thành mùi hương của núi rừng, thơm hắc lẫn lộn, nhưng ngay thẳng lớn mạnh không một bàn tay nhỏ mọn nào phong tỏa nổi. Câu chuyện chuyển sang thành chuyện tàm tình. Ông khóa trưởng ty cho Kha hay ông sanh ở châu lỵ Lạng Sơn. (Phải chăng vì thế ông có óc liên tưởng ví nhân cách Kha như mùi hương bát ngát của núi rừng?) Cha ông làm tri châu mười lăm năm ở đó cho đến ngày chết. Ông theo học ở Albert Sarraut gần hết bực trung học, vì cha mất mà bỏ dở. Ông rất ưng những tư tưởng của Kha ghi trong sổ tay vì đều là – theo đúng lời ông nói – "những tư tưởng chính đính của một tâm hồn cương trực đòi gìn giữ nhân phẩm bằng đủ mọi cách ở mọi trường hợp. Những tâm hồn đáng quý như Kha rất cần cho những ai thật tâm muốn nắm giữ chính quyền để xây dựng chủ nghĩa quốc gia."

Gần cuối câu chuyện ông yêu cầu Kha viết lại tờ khai cho rõ hơn, còn việc chàng yêu cầu phải coi chàng như một người quy thuận thì đó là bổn phận dĩ nhiên của ông.

Thái độ ân cần của ông phó Trưởng Ty có ảnh hưởng tức khắc đến nhân viên công an hỏi cung Kha ban sáng. Khi Kha trở ra bàn ngồi viết tờ khai, y mang đến mời chàng ly nước trà nóng pha đường.

Căn phòng Kha bị giữ chỉ là phòng tạm giam, một phòng vuông lớn mỗi bề chừng sáu thước, nền lát gạch, tối đến mọi người trải chiếu ra mà ngủ. Hai ngày Kha bị giữ ở đó, trong phòng có chừng hai chục người bị giam, phần nhiều là dân tổng lý các léng lân cận bị tình nghi, người trẻ nhất chừng ba mươi tuổi, người già nhất chỉ tới năm mươi là cùng. Bàn tán chuyện vui, họ nói cười oang oang y như họp việc làng tại một gian đình. Giữa phòng là bàn chắn hoặc tổ tôm với năm người chính và thường kém theo năm chân chầu rìa (họ được quyền đánh tổ tôm như vậy, cỗ bài do người nhà gửi vào). Những người khác thì hoặc nằm khểnh xem sách, hoặc nằm quay mặt vào tường ngủ cho lại mắt vì đêm qua đã thức khuya chơi bài. (Như Kha đã chứng kiến, họ thường chơi bài đến mười một giờ khuya). Chiếu bạc chỉ tạm ngưng vào bữa ăn buổi trưa và buổi chiều.

Nói về ăn uống nhà thầu nơi đây khá có lương tâm, cơm gạo trắng bong, món canh thường là canh bí nấu với sườn, món gắp thường là thịt kho dừa. kể so với nếp sống khắc khổ ngoài hậu phương thì cơm trại giam như thế không thể đòi hỏi hơn và - điều này mới đáng quý – nó chứng tỏ cái tinh thần nhân đạo phơi phới của miền quốc gia. Sau bữa ăn mọi người được ra giếng gần đấy vục nước rửa mặt mũi chân tay. Ngay sau nhà giam là cái đầm lớn chậc ních sen Nhật bản. Giếng ở ngay sát đầm nên nước vục lên cũng tanh tanh như có mùi rễ sen.

Tới chiều hôm thứ bas au khi được gặp Miên, lòng Kha tràn trề hy vọng và bâng khuâng, tràn trề hy vọng từ sau cuộc hội kiến ông phó Trưởng ty một thanh niên có tâm huyết, bâng khuâng vì sự kiện Miên bán chiếc nhẫn saphir. Kha không sao quên được nụ cười thơ ngây và cảm động của Miên khi kể qua chuyện chiếc nhẫn saphir vừa bán.

Kể từ buổi đầu tiên gặp Miên ngoài hậu phương, rồi sang vùng tề Vĩnh yên cho đến lúc Kha giữ ở Gia Lâm đã hai ngày qua rồi, rất nhiều khi Kha nói chuyện với Hiển, đôi khi nói chuyện với Miên. Kha cũng biết là Miên xinh, Miên thùy mị nhưng nàng thùy mị quá, hiền hậu quá, không một khoé mắt, không một nụ cười có tính cách khêu gợi chút ít, vì vậy đã là bạn thân của Hiển, Kha tự động có khuynh hướng coi Miên như em. Nhưng lần này vẫn ở con người xinh xắn và thùy mị ấy, có một sự kiện vượt mức bên trong: chiếc nhẫn saphir không còn trên ngón út của nàng: chiếc nhẫn saphir không còn, nhưng màu đỏ lấp lánh thấu đến khu tâm tình u ẩn. Kha cảm động thấm thía ở cử chỉ thầm lặng ấy. Chàng đợi chiều nay hoặc mai được tự do về Hà Nội … Chàng sẽ có cử chỉ gì, có lời nói nào với Miên? Chính chàng cũng chưa rõ, nhưng chắc phải đằm thắm hơn thái độ coi Miên như em. Nhưng Kha đã không may, số chàng còn nặng nợ, đúng lúc ông Phó Trưởng Ty đọc xong tờ khai, sắp tính chuyện ký giấy trả tự do cho chàng thì ông Trưởng Ty đi kinh lý về. Ông Trưởng Ty là một công chức già trên ông Phó Trưởng Ty một thế hệ, ông rất sợ trách nhiệm. Việc Kha bị giữ lại vì trong người có ảnh chụp, lại có tài liệu viết liên quan đến " ngoài kia" ông cho là TY không đủ thẩm quyền định đoạt. Ngay buổi chiều hôm đó Kha được mời lên xe jeep đưa về khám lớn nha nha Công An Bắc Việt gần toà án Hà Nội. Nhân viên Nha ký nhận Kha vào cuốn sổ công văn của nhân viên Ty mang theo. Kha cảm thấy mình cũng không hơn gì một tập công văn, một món hàng vô tri giác. Quả vậy, vào đến khám lớn, giá trị con người xuống dưới số không. Chàng phải in tay, chàng phải ngồi nghiêng cho nhân viên Nha lấy những đạc điểm của khuôn mặt, rồi người ta đưa chàng vào văn phòng nhà giam, nơi đây người nói như sai khiến và câu sai khiến nào cũng có tiếng chửi đệm. Chàng phải để lại văn phòng giây lưng, ví tiền(bên trong có năm tờ giấy hai mươi đồng của Miên). Sau cùng người ta dẫn chàng vào sà lim số 9, hẹp chừng một thước, sâu ba thước và đã có ba người bị nhốt trước trong đó.

Người thứ nhất chừng trên bốn mươi tuổi quê ở Bắc Giang chuyên nghề trồng rau. Suốt gày ông nói một cách hào hứng về phương pháp trồng rau như thế nào cho có kết quả tối đa. Đôi khi tạm ngừng chuyện trồng rau, ông chợt nhớ đến thân phận hiện tại của ông và ông thở dài nói khẽ: "Thật là oan tôi" giọng não nuột khác hẳn giọng hào hứng vừa qua khiến chính Kha ngồi nghe mà cũng tưởng như là tiếng của hai người khác nhau. Tất cả anh em đều thông cảm là ông oan thật.

Người thứ hai khoảng bốn mươi trở lại, sức dài vai rộng. Ông làm ở sỡ Lục Lộ và bị tình nghi ăn tiền. Có lẽ chính cái vóc ngưòi tráng kiện đó đã hại ông, nó chính là lời thách đố ngấm ngầm với tên tây lai hỏi cung và bị tra điện lần thứ hai về trước được mấy phút. Nửa đêm về sáng ông bị đau quặn bụng. Trong bóng tối chỉ nghe giọng nói không cũng biết là ông đương nhăn nhó. Ông xin lỗi anh em vì phải xử dụng một trong ba cái gáo dừa đi cầu vào đó (cái gáo dừa này dùng để dùng để đựng thức ăn trong bữa cơm).

Người thứ ba là một thanh niên khá vạm vỡ dưới ba mươi tuổi. Khuôn mặt tròn, nước da trắng xanh gần như bủng, răng trước cửa thuộc loại bàn cuốc. Cả hàm răng màu trắng nhờ nhờ nhệch vì trước là răng đen sau dùng át xít đánh lại. Anh đeo trước ngực tấm plaque hình chữ nhật, cả khuôn mặt anh, nhất là khi anh cười, đượm vẻ đần độn mất cá tính, nhưng khi anh ngâm thơ giọng anh trong và cao vút. Lúc đó anh như thoát xác, đôi mắt anh chợt long lanh trong bóng tối, khuôn mắt trắng bệnh của anh, có ánh hồng của máu dồn lên, bỗng đẹp như khuôn mặt hoàng tử trong cổ tích khi gặp được cô bé chăn chiên ưng ý. Anh lại ca vọng cổ Saigon, bắt đầu là những câu nói lối nhịp điệu khúc mắc như nhịp bước của con hươu non trong rừng tìm mẹ; khi hết chỗ nói lối anh xuống giọng để vào nhịp, giọng anh mịn như triền sông lao mình vừa đủ dốc không gợn một chút sóng.

Thế là Kha mến anh chàng và từ đấy không một phút nào Kha thấy chàng đần độn đáng ghét nữa. Thường khi chàng ngừng ca, có tiếng vỗ tay ở sả lim bên cạnh sà lim số 8, hoặc đôi khi có tiếng bên đó - tiếng con gái – nói giọng qua tường dầy:

- Hát nữa đi!

Đến bữa, cửa các sà lim mở dể nhận các thức ăn. Kha mới biết sà lim số 8 có nhốt hai người đàn bà, một đứng tuổi và một dưới hai mươi, dáng mảnh mai, chắc là một nữ sinh? Giọng giục " Hát nữa đi " chính là giọng của cô.

Khoảng thời gian cho những người sà lim láng giềng trao đổi chút ít câu chuyện thật ngắn ngủi, chỉ chừng năm phút kể từ lúc mở cửa sà lim lại đóng để mọi người bị giam ăn bên trong. Năm phút đó sao mà quý giá, đủ để cô nữ sinh nhìn vào đôi mắt anh bạn ca vọng cổ khen một câu ngắn gọn nhưng không kém phần tình tứ;" Hay lắm anh! " Có hôm nhận được quà lê, táo của gia đình bên ngoài gửi vào - chỉ những người lấy cung xong mới được nhận – cô nữ sinh gửi sang biếu bên sà lim số 9 một trái lê và một trái táo. Ai cũng nhận đó là lộc của anh bạn ca vọng cổ. Được chứng kiến năm phút hối hả giao ngát tâm tình đó, Kha liên tưởng đến Miên, đếu uy lực của chiếc nhẫn saphir nhỏ xinh và kín đáo nay không còn, nhưng ánh sáng của nó lại đi vào một hiện hữu khác, hiện hữu tâm linh.

Hôm nào cũng khoảng bốn giờ rưỡi sáng, tất cả cửa sà lim đuợc mở và dưới ánh đèn vàng kệch như mệt mỏi vì thức khuya, mọi người ồ ạt ùa ra làm mấy việc cần thiết: đi cầu, rửa mặt, đánh răng hoặc tắm … Mười lăm phút sau đã ai phải về sa lim nấy.

Mỗi buổi sáng cô nữ sinh được tha, cô gửi lời chào tất cả an hem sà lim số 9 và nhắc khéo với " ai " địa chỉ của cô. Tính ra cô đã bị giam sáu tháng. Rồi anh bạn ca vọng cổ cũng được quyền chuyển lên nhà A, điều mà ai ở sà lim cũng thèm muốn vì những người thuộc nam giới mà được chuyển lên nhà giam công cộng A hoặc B, ấy là điềm sắp đến ngày tha về. Kha được biết anh này cũng bị giam mất đến bảy tháng rồi. Thế nào khi được ra, anh chàng chẳng tìm đến nhà nàng! Bóng tối và tường dầy của sà lim không ngăn nổi tiếng gọi của trái tim. Năm phút cửa mở nhận cơm tù để nhận đồ trao tặng, đồ trao tặng tuy nhỏ mọn nhưng lại vô cùng lớn lao vì giá trị tượng trưng của nó, nơi đây trai gái trao tặng nhau như vậy là trao tặng cả tâm hồn.

Kha rùng mình nghĩ đến ngày mai của chàng. Theo như lời anh em cùng sà lim nói thì mặc dầu chàng đã được hỏi cung xong bên Gia Lâm, về đây ngưòi ta vẫn hỏi lại. «Người ta» đây là tên tây lai chuyên môn vừa uống bia vừa hỏi cung, mặt đỏ như Quan Công, mắt long sòng sọc, thường xuyên giận dữ vô cớ. và chàng có thể bị giữ trong này sáu bảy tháng nữa là thường!

Thốt nhiên Kha nhớ đến lần chạy giặc gian lao ngày nào trên cánh đồng ngập nước làng H. thuộc huyện Thạch Thất gần chân núi Ba Vì.

Trước ngày tác chiến, bà Giáo đã ra tận villa đường Bờ Sông nơi Kha ở, khuyên mẹ cứ yên chí ở trong quê. Quân Pháp chỉ khiêu khích thôi, chứ chiến tranh đã chắc đâu bùng nổ.

Bà Giáo về. hai hôm sau – 19-12 – 1946 - chiến tranh bùng nổ. Bà ở trong quê nóng lòng sốt ruột đợi. Qua đi một tháng bộ đội Pháp từ Hà Nội đánh tỏa ra các miền quê lân cận. bà Giáo căn dặn khắp người làng để nhỡ ai sau này có gặp Kha thì báo cho Kha biết bà tản cư lên Tuyên Giang ở một trong những nhà người quen cũ. Khi qua huyện Thạch Thất (Sơn Tây) bà giáo gặp một bà bạn buôn cũ lúc đó tản cư ở làng H. gần chân núi Ba Vì. Với con mắt quan sát lão luyện của nhà buôn, hai bà đồng ý là chính khoảng tiếp giáp giữa hai vùng bị tạm chiếm và kháng chiến này mới là đất buôn bán. Tuy nhiên bà giáo vẫn lên Tuyên để dặn dò mấy bà quen trên đó là Kha có tới thì bào bà hiện tản cư ở làng H. thuộc huyện Thạch Thất gần chân núi Ba Vì. Bà đinh ninh dặn mọi người như vậy chẳng khác gì xếp đặt một việc mà bà biết trước sẽ xảy ra đúng như dự đoán. Bà có sầu khổ vì xa con độc nhất nhưng bà không thấy máy mắt, nóng ruột, trái lại khi lắng tâm nghe ngóng bà vẫn cảm thấy yên tĩnh thoải mái, linh tính làm mẹ nhủ với bà rằng chắc chắn là Kha không việc gì.

Rời khỏi Trung Đoàn Thủ Đô, tiện đường Kha tới đồn điền Lợi Ký mong gặp Vân thì người yêu đã lấy chồng! Bù lại, nơi đây Kha gặp được người bạn mới – Tân. Đôi bạn Tân Kha rời đồn điền Lợi Ký rủ nyhàu tới làng Đại Đống (cách Phú Thọ chừng hai cây số) để cùng ghi tên học Thuốc, nhưng nửa đường Tân hay tin mẹ ốm phải về Bắc Ninh tức khắc. Kha đổi ý định khô,ng đến ghi tên học Thuốc ở Phú Thọ, mà sang sông về Vĩnh Yên ghi tên học Luật để được gần nơi mẹ tản cư. Chàng đã ghi tên học Luật rồi tìm đến Thạch Thất gặp mẹ. vào buổi chiều chàng vừa bước chân tới làng H. cả vùng này còn bình yên. Hai mẹ con gặp nhau cùng khóc. Đã hơn một tháng qua bà Giáo không tự ý buôn bán được gì, chỉ hùn vốn với người chủ nhà để chia lãi nhỏ. Bệnh tức ngực cũ của bà - hậu quả bao năm ngược xuôi lao tâm lao lực trước đay trở lại trầm trọng, nhiều lần bà thấy nghẹt thở như có cối đá đè ngang ngực, sở dĩ bà gắng gượng ở lại làng H. chỉ để trông ngóng tin tức Kha. Với bà sự Kha đột nhiên ""lù lù về"" không hề là một xuất hiện bất ngờ, linh tính làm mẹ đã báo cho bà hay trước là tất nhiên sẽ vậy. Gặp Kha rồi, đinh ninh dặn dò đủ điều rồi, bà giáo tmình phải về thành gấp để trị bệnh. Bà thấy tha thiết sống, cần phải sống cho đến ngày kháng chiến thành công, bà sẽ trở ra hậu phương chăm nom Kha cho đến ngày Kha có vợ có con. Trường kỳ kháng chiến thì đứa con độc nhất của bà cũng phải thành lập gia đình có vợ có con để nối dõi tông đường chứ. Kể ra mới gặp con được có một ngày mà đã vội chia tay, ít quá thật đấy, nhưng quá quyến luyến ở thêm ngày nào bệnh tình nặng thêm ngày ấy, có khi thành vĩnh biệt!

Kha tiễn mẹ theo đoàn người đi buôn về vùng tề chiều hôm trước, chàng còn ở các vị trí của chúng tự bao giờ, ào ạt tấn công từ mấy ngã, một cuộc hành quân càn quét, chắc thế. Kha theo đám dân chúng gồng gánh, cõng địu, bồng bế ra lánh giặc ở một bãi tha ma giữa đồng, bên cạnh một đầm sen rộng và dài mang hình ảnh một con sông, chàng mừng thầm mẹ về thành vừa kịp lúc. Mấy lần Dakota liệng thấp quan sát thấy toàn là dân chúng nên không oanh tạc. Bộ binh địch tự ba bề đương tiến lại, buổi chiều nhoà nhòa đã nghe thấy tiếng đạn liên thanh ở làng bên kia đầm sen. Kha thấy phải rời gấp vùng này, một thanh niên trẻ măng như chàng sa vào tay địch trong một cuộc hành quân tảo thanh như thế dễ gì mà thoát chết. Chàng lội bì bõm miết mải đến ba tiếng đồng hồ liên trên cánh đồng mênh mông, lúa đã cao ngang thắt lưng. Ba bề tiếng đại bác gầm, tiếng liên thanh rít, Kha giữ vững hứng sao Bắc Đẩu mà tiến ra ngoài vòng tử địa. Ánh sáng sao Bắc Đẩu lúc đó thể hiện niềm vui lâng lâng trong lòng chàng mừng mẹ đã thoát nạn!

Ngày nay trong sà lim số 9 không nhìn thấy sao Bắc Đẩu!

Nhưng còn chiếc nhẫn saphir! Còn chiếc nhẫn saphir!

Bá giáo về thành được sáu tháng, bệnh tình có thuyên giảm. bà còn sống ở quê Định Quyết ngót hai năm nữa bệnh tức ngực mới đột nhiên tái phát, lần này là lần cuối.

Trường Luật Kha theo đã giải tán, một phần sinh viên được biên chế về các cơ quan thích hợp, một phần lớn tình nguyện theo học trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Kha thoạt xin sang làm việc ở bộ Tư Pháp. Nơi đây, vì biết chàng có khiếu văn nghệ, ngoài công việc thường ngày người ta còn ủy cho chàng trông nom tờ nội san. Một năm qua đi, chán công việc văn phòng, Kha theo gót các bạn cũ xin theo học trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn khóa Bảy. Chàng hay tin mẹ mất cũng vào dịp này. Mối duyên văn nghệ còn đeo đẳng kha khi toàn thể học viên khóa Bảy đã tề tựu ơ» Phụng Minh Thôn (Côn Minh), ngoài giờ tập luyện quân sự Kha còn được hiệu bộ ủy cho trông nom tờ nội san của trường.

Một lần nữa Kha vươn vai, ngẩng nhìn trần sà lim số 9. Chàng mặc cho ý nghĩ miên man về hình ảnh chiếc nhẫn saphir muốn lẫn vào với ánh sao Bắc Đẩu.

Ôi chiếc nhẫn saphir, ánh sáng như thổn thức trên vòm xanh cao thăm thẳm thanh bình. Ánh saphir như đương rọi qua mây mờ của thời gian, sương mù của đau khổ thành một vệt sáng hy vọng mong manh nhưng chẳng bao giờ tắt.

CHƯƠNG BA

VỀ LÀNG

I

Kha theo Miên và bà Tư ra khỏi Nha Công An vào phút cuổi giờ tan sở. Lần đầu tiên gặp Kha, nhưng bà Tư coi chàng như chỗ quen biết cũ, hay đúng hơn coi chàng như người trong nhà. Bà Miên quý mến Miên qua nên hễ ai là bạn của Hiển, Miên là bà coi như người nhà rồi. Bà quý mến Miên đến nỗi ngay buổi đầu tài ngộ bà cứ ân hận một cách vô lý nhưng thành khẩn là sao mãi đến bây giờ bà mới được gặp Hiển, ông anh ruột của cô Miên.

- Chúng ta hãy cứ đứng đây cậu ạ, đợi xe! – Bà vừa cười vừa nói với Kha khi cả ba người đã ra khỏi cổng sắt đứng trên vỉa hè sát đại lộ Trần-Hưng- Đạo, đại lôi dài nhất Hà-Nội chạy từ cửa chính ga Hàng Cỏ đến nhà thương Lanessan.

Bà ngắm Kha thêm chút ít rồi tiếp, vẫn giọng vui-vẻ ấy:

- Đầu tóc râu tia thế kia, người Hà-Nội trông biết ngay là dân hậu phương hồi cư.

Bà quay lại nói với Miên:

- Ấy cái dạo nhà tôi về đây cũng thế, cũng đầu tóc, cũng râu ria như cậu gì đây (bà quên tên Kha). Tôi buồn cười đến chết. Mà nào ông ấy có chịu cắt tóc cạo râu ngay đâu. Ngày nào cũng vậy, tắm gội xong, ông lên xếp bằng tròn trên sập, vuốt râu vuốt tóc, ông nói mình đã thoát phong trần nhưng nên giữ những hình tích phong trần này để làm kỷ niệm. Tôi kỳ kèo mãi ông mới chịu đến hiệu hớt tóc cách đấy ba nhà.

Giọng nói đang trong-trẻo của bà bỗng đượm vẻ sầu thương như ánh nắng vàn mùa thu bỗng có áng mây buồn trôi qua che rợp cảnh vật:

- Chẳng bào giờ cô Miên à, cậu gì ạ, chúng tôi quên những ngày phong trần! Bà rút khăn mùi xoa chấm nước mắt:

- Cám ơn cô Miên đã trông nom nấm mồ cháu Lân.

Giọng bà nghẹn-ngào phải ngừng lại mấy giây rồi mới tiếp:

- Cứ tình hình như thế này chẳng biết ngày nào chúng tôi mới mang được cháu về.

Người ngoại quốc nào nghe bà Tư vừa nói mà chẳng tưởng lầm là con bà còn sống. Miên lúng-túng chưa biết tìm cầu nào an ủi. Từ ngày gặp lại bà Tư, bao nhiêu lần như thế rồi. Câu chuyện đương vui vẻ, chợt vì một liên tưởng nào làm bà nghĩ đến Lân, đứa con xấu số chết gục chôn vùi ở một xó trung du xa-xôi, thế là bà khóc và Miên lúng túng… lúng-túng vì nàng biết lời nói nào của thế gian cũng trở thành giả dối nhỏ mọn trước nỗi đau khổ sâu rộng của người mẹ đó. May sao vừa thoáng thấy hay xe xích lô từ xa lại, Miên vội xuống đường vẫy rối-rít Kha lên một xe, Miên và bà Tư lên một xe. Khả ngả đầu trên thành nệm, ngẩng nhìn trời. Vài tia nắng quái còn vưởng-vất trên những ngọn me cao vút, thỉnh-thoảng đối mắt Kha bắt gặp một chùm hoa phượng, mầu đỏ muộn-màng còn sót lại của mùa hạ đó như trao tới chàng mọt nụ cười nửa buồn rầu nửa riễu cợt.

Mới hôm qua đây khoản chín giờ sáng, ngoài hành lang tít phía xa dưới cổng tò vò chính giữa trại giam, có tiếng gọi:

- Phạm-Mạnh-Kha!

Thấy Kha còn ngơ-ngác, một anh bạn trả lời lớn giúp chàng:

- Dạ!

Sau bảy ngày bị giữ tại sà-lim số 9, hôm nay là lần đầu tiên Kha được gọi lên phòng giấy. Người ta sẽ đưa chàng sang phòng hỏi cung có tên tây lai mặt đỏ, hơi thở sặc mùi bia chăng? Không, người ta dẫn chàng lên gác vào phòng chụp hình.

Ông thợ chụp hình có lòng tốt muốn an-ủi mọi người, với ai ông cũng bảo là thế nào rồi cũng được tha, vì vậy lời an-ủi của ông không còn một chút giá trị gì. Có điều, lời nói của ông chân tình nên người nghe cũng không thấy bực rọc.

Từ ngày anh chàng ca vọng cổ lên nhà A (và hôm sau anh ta được tha) sà-lim số 9 có thêm anh mới người loắt-choắt rất bẻm mép. Anh thân mật làm quen với Kha, kể chuyện tâm sự với Kha, rồi luôn thể hỏi Kha về quê quán, gia đình, nghề nghiệp. (Sau này suy ra, Kha đoán anh là nhân viên của Nha ném vào).

Sau đấy Kha được chuyển lên nhà A, chàng biết như vậy mình không bị hỏi cung lần nữ. Hú vía! Một điều không may khác, Kha lên nhà A đúng vào ngày Nha mở chiến dịch phòng ngừa nhân dịp thủ tướng từ Nam ra Bắc kinh lý. Bao nhiêu người trước đây bị tình nghi hoặc mới được thỉ nhưng còn bị theo dõi đều có trát đòi tới Nha rồi bất chợt giữ lại tam giam chật ních cả hai nhà A và B. Đêm đến người năm chen- chúc kín trên sàn, kín gầm sàn. Nhiều lúc Kha thấy nghẹt thở, hễ chợp ngủ, lập tức bị bóng đè không vùng vẫy được chân tay, toàn thân toát mồ hôi lạnh, tưởng rồi cứ như vậy cho đến khi bị chết ngạt hẳn. Ai nấy mong chóng tới ban ngày để được hưởng ba giờ ra sân giải trí vào buổi sáng, trưa và chiều.

Buổi chiều hôm sau Kha được gọi lên phòng văn thư. Tới đây chàng đã thấy Miên ngồi đợi. Ông trưởng phòng hỏi chàng thêm vài lời, rồi bắt đầu làm giấy phóng thích, ông cần hai người đứng ra bảo đảm. Khi Kha trở lại văn phòng nhà giam lấy dây lưng và ví tiền, Miên phải vội về kiếm thêm bà Tư (nàng biết Hiển vào giờ đó chưa về) để giấy tờ làm kịp trước giờ tan sở.

Kha không bị thẩm vấn lại, chàng được sớm lên nhà A và sau cùng được tha, tất cả những may-mắn đó là công bà Tư luôn luôn đến nhà ông em rể thúc dục nhờ nói với những người có đủ thẩm quyền. Tính từ ngày Kha bị giữ ở Gia Lâm đến ngày chàng được thả tự do đã mười một ngày qua. Hiện chàng được cấp giấy thông hành tạm thời, hẹn một tháng sau còn phải ra Nha trình diện lần nữa.

Bà Tư đưa Kha, Miên về tận nhà, ngồi nán lại chuyện trò đến năm phút, khi đứng dậy cáo từ bà nói với Kha:

- Thôi thế này là tôi mừng cho cậu, rồi đây có học như cậu thì thiếu gì việc làm.

Kha cám ơn bà Tư đã hết lòng giúp mình, chàng cũng cảm thấy yên lòng trước tương lai.

Bà Tư đi rồi. Hiển chưa về, chỉ còn Kha, Miền trong nhà. Đôi mắt Kha rán theo từng cử chỉ của Miên như môi khát không chịu dời bình nước đương uống. Miên biết vậy, nàng không dám nhìn Kha. Để khỏi luống-cuống, nàng vừa sửa-soạn chỗ nằm cho Kha vừa kể lại sự tình:

- Em và anh Hiển ở nhà học ngày xưa, số 78 phố Chợ Hôm, được một tuần thì anh Hiển em được bà Tư giới thiệu làm gia sư cho một lũ trẻ của hai gia đình kia họp lại gồm chừng mười đứa. Họ trả năm trăm một tháng. Anh Hiển em không muốn ở lại lâu phiền ông chủ cũ, bèn tìm thuê được gian nhà ở phố Hàng Vôi này, ba trăm một tháng. Bà Tư cho chúng em vay thêm hai ngàn làm số dự trữ, như vậy chúng ta còn cầm cự được ít nhất là ba tháng nữa, tới ngày đó hoặc anh Hiển , hoặc anh , hoặc em có chỗ làm tử tế rồi thi vấn đề kinh tế khỏi phải lo. Thực ra ba anh em mình chỉ cần mỗi tháng kiếm hai ngàn là thừa ăn thừa tiêu.

Miên cười ngẩng nhìn Kha, nàng vội cúi xuống ngay, vì thoàng chạm phải tia nhìn của Kha vẫn theo rõi nàng. Miên có cảm tưởng những điều nàng vừa nói chỉ để nàng nghe mà thôi, nhưng nàng cũng đành phải nói tiếp:

- Khoảng bảy giờ anh Hiển em về, em sửa-soạn làm cơm là vừa, anh đi tắm rửa rồi nằm nghỉ một lát cho lại sức, em may sẵn cho anh bộ pyjama mầu xanh treo ở mắc kia. Cái áo sơ-mi trắng mới nguyên cũng là của anh đó. Gần đây có hiệu may quần tây, rồi anh sẽ tới may một hoặc hai chiếc quần, về đến đây ăn mặc như ngoài kia không được đâu anh ạ.

Miên cúi mặt toan đi ra, nàng bỗng dừng lại vì có tiếng Kha thoáng như tiếng thở dài:

- Vâng cám ơn cô, cám ơn cô nhiều lắm, nhất là số tiền cô đã bán nhẫn, chiếc nhẫn saphir.

Miên mỉm cười ngước nhìn Kha, không dấu được vẻ sung-sướng, nhưng nàng lúng-túng không tìm được lời đạp lại.

Kha tiếp:

- Màu saphir là màu xanh lợt, nhưng chiếc nhẫn của cô màu đỏ hoa lựu thì phải.

Miên cố trấn áp sự bối rối:

- Vâng, nhưng … nhưng… là em muốn nói đó là thứ đá không được quý bằng kim cương.

Thấy Kha im lặng không hỏi gì thêm, Miên cúi đầu vội-vã đi ra…

Kha vừa tắm xong thì Hiền về. Đã được bà Tu, Hiển đi như chạy, chàng gọi tên Kha ngoài cổng. Đôi bạn tri kỷ nắm chặt tay nhau, nhìn nhau cười không thành tiếng và không sao thốt thành lời. Rồi bàn tay Hiển vỗ mạnh lên vai Kha mấy lần, vỗ thật mạnh khiến Kha tuy vẫn cười mà hơi nhăn mặt. Miên đứng trong bếp, tay phải cầm đôi đũa sào nấu, tay trái che miệng dấu nụ cười.

II

Vào thời này ở Hà-Nội xuất hiện một loại chủ kỳ là thường gọi chủ trương, Loại chủ này xuất vốn thuê hẳn một ngôi nhà lớn rồi hắn ngăn ngôi nhà ra thành nhiều căn phòng nhỏ cho thuê lại với giá cắt cổ, bóc lột cả về tiền điện tiền nước nữa.

Chỗ Hiển, Kha, Miên hiện thuê ở, nguyên trước là nhà để xe hơi, không có của hậu, nên ban ngày thì oi bức mà đêm thì bí hơi. Nhà garage này ngăn thành ba gian. Hiển, Kha, Miên ở gian giữa, gian bên phải là tiểu gia đình ông cai Bính, gian bên trái là tiểu gia đình ông ký Thản có cô em gái đương theo trung học.

Ông cai Bình trạc trên bốn mươi tuổi, người cao lớn vạm-vỡ. Ông mới góa vợ được một năm, hai con ông đều học tư thục, đứa con trai lớn mười sáu tuổi học đệ tứ, người con gái nhỏ mười bốn tuổi học để nhất. Trước ông làm cai trong nhà máy dệt Nam-Định và là cầu thủ nổi tiếng của đoàn cầu Cotonkin. Nay ông cai đã có tuổi, tuy không còn tung tăn trên sân cỏ, nhưng vẫn còn nặng nợ với nghiệp bóng tròn, mỗi khi có những trận đấu lớn ông vẫn được anh em đề cử chân giám biên. Những ngày đó ông mặc sơ-mi đen, quần sóoc đen, cũng đi giày đinh y như cầu thủ và ông cầm cờ trong banh mà chạy lên chạy xuống theo đường biên, ông phất cờ cương quyết như một mệnh lệnh mỗi khi quả da vượt khỏi làn vôi biên. Ông nổi tiếng là một giám biên có lương tâm nhà nghề, rất vô tư. Ông hiện làn ở sở binh như Pháp.

Ông ký Thản (ở gian trái) dáng người mảnh-khảnh, da trắng tinh. Khi còn trẻ chắc-chắn ông có vẻ đẹp rất thư sinh của cái thời xa-xôi nào "Hoa cù hồng phấn nữ, tranh khán lục y lang" nhưng bây giờ đây ông đã năm mươi tuổi, trán khá nhiều nếp nhăn lưng hơi gù, ông tính tình thuần-thục, hiện làm thư ký cho sở Viện-Trợ Mỹ.

Gia đình chủ trương ở gian chính giữa nhà trên, gian đẹp nhất, rộng nhất. Hắn chỉ hơn ba mươi tuổi hơn chút ít, xưa đi lính cho Pháp đóng đội, dáng người lùn thấp, da thiết bì, mắt trắng rã. Khi nói chuyện hắn cố làm ra vẻ thủ-thỉ điềm-đạm, mắt nhìn đi nơi khác, thỉnh-thoảng liếc trộm người đối thoại một cái. Vợ hắn là một mụ béo thấp, bụng lúc nào cũng như có mang được ba bốn tháng mặc dầu mụ tuyệt đường sinh nở từ sáu bảy năm nay rồi. Ca dao ta có câu:

Những người béo trục béo tròn,

Ăn vụng như chớp đánh con rầm rầm

Mụ đúng thuộc loại đàn bà đó-trừ điểm ăn vụng, ngày nay mụ ta giàu rồi, Ba con mụ - môt trai hai gái – đều học trường Tây. Mụ vẫn lớn tiếng mắng con bằng giọng rêu-rao: "Mày học trường Tây mà ngu như bò".

Cùng cánh ở garage với nhau nên Hiển, Kha, Miên quen thân này với hai gia đình ông Cai và ông Ký.

Buổi tối, sau bữa ăn, giọng ông Cai oang oang, ông phê bình những tin tức chiến sự trong ngày bằng một giọng sành-sỏi rất có thẩm quyền khiến nhiều người thoạt nghe đều tưởng trước đây ông là cai lính chớ không phải cai thợ. Khi sắp có một trận cầu lớn (mà thế nào ông cũng được mời giữ chức giám biên) ông phê bình, ông tiên đoán đến một tuần trước. Sau khi làm xong nhiệm vụ giám biên về, ông lại đối chiếu những điều tiên đoán với sự thực vừa xảy ra trên sân cỏ. Có khi lời tiên đoán của ông đúng, những cũng nhiều khi ông vỗ đùi than phiền mấy điểm sai vì ông không dè thằng N. hoặc thằng T đá kỳ này "ma bùn" quá. Ngoài ra ông ưa nhắc lại chuyện mà ông nghe lỏm được của một người bạn đã đang vào đoàn thợ không chuyên nghiệp O.N.S (ouvries non spécialistes) qua Pháp vào năm 1935. Người đó kể- chẳng biết có đúng không – là đã gặp một anh công sứ cũ ở nhà nước nhà bị thải về, thất nghiệp, phải xin một chân gác cửa hotoel. Ông Cai rất tin chuyện đó, mỗi lần nhắc lại ông thường cười kết luận:

- Cho nên tôi vẫn khinh cái giống Tây thuộc địa ở đây, cứ tống cổ chúng nó về nước là biết nhau. Người Pháp thật ở chính quốc, người ta lịch sự nhiều chứ.

Ông ký Thản góp chuyện bằng giọng dẽ-dàng hơn, ông thường bàn về cách trồng cây, cách chăn nuôi, cách nuôi con mà ông đọc được trong sách Mỹ. Nhưng khi nào ông khen Mỹ niều quá thì lại bị ông Cai gạp khéo bằng câu:

- Chẳng qua vận nước mình không may, chứ ông cha mình ngày xưa kém cóc gì ai!

Ít ngày sau Kha muốn về thăm làng. Vẫn bà Tư, khi đó vừa đến chơi, cất lời can gián:

- Cậu mới có giấy thông hành tạm thời, vè làng làm gì vội. Bây giờ đi lại khó –khăn, chợt cái Tây nó về vây làng, lúc đó hối không kịp.

Miên nói:

- Thôi để em về làng báo ông chú cho anh.

Kha gật đầu:

- Vâng, thế thì cám ơn cô.

Miên mỉm cười kin đáo. Có lẽ vì yên chí mình sẽ là vợ Kha nên thái độ của nàng càng điềm-đạm, nhiều khi nàng tự thu nhỏ lại, tê liệt bất động dưới cái nhìn của Kha.

Hai giờ chiều, cùng với giờ mọi người đi làm, Miên đi bộ ra Bờ Hồ lên chuyến xe điện Kim-Liên để về làng Định Quyết. Năm giờ chiều Miên trở lại, ông Hạo – chú Kha – theo sau.

Ông Hạo dựng ô vào góc nhà, chưa kịp ngồi xuống ghế đã kể-lể ngay với Kha:

- Nào chú có biết đâu là anh được ra từ ba hôm nay. Dạo này anh bị giữ ở Gia-Lâm, cô Miên đây có về báo cho chú thím. Chú thím lo quá mà chẳng biết làm thế nào. Anh ra được chóng thế ngày là may lắm. Có người chạy bạc nghìn mà vẫn bị nhốt năm bấy tháng mới được ra. Có người bị lừa (ông Hạo lắc đầu) thời buổi ma quái này chúng nó nhiều mánh-khóe lừa lắm anh ạ. Có thằng nghiện thuốc phiện chuyên nhận lời nói giúp cho người mới hồi cư bị bắt được tha, nhưng hắn quen ai mà nói. Người ta đến hỏi, hắn khất lần là sắp được, rồi năm bữa nửa tháng sau … hai ba tháng sau…nạn nhân được thả, hắn điềm nhiên đòi lễ. Kẻ nào không nộp đủ khoản tiền đã hứa, hắn dọa sẽ tìm cách bắt giam lại. "Nhất nhật tại tù" ai mà chẳng ngại?

Ông Hạo lắc đầu chép miệng làm cả chòm râu cằm lưa-thưa của ông rung lên:

- Thời buổi ma quái này chúng nó có nhiều mánh-khỏe làm tiền quá!

Kha hỏi thăm về việc mẹ chết hơn hai năm trước đây, về việc chôn cất mẹ, về tin tức làng. Ông Hạo thuật lại tường tận. Ông nhấn mạnh về việc chôn bà giáo cùng một thửa ruộng với ông giáo là sáng kiến của ông.

Sau ngày bà giáo mất, ông Hạo vốn nghèo và hiếm-hoi bán khu đất nhỏ của mình để về ở hẳn nhà ông bà giáo mà trong nom dương cơ cho cháu còn ở hậu phương.

Ông bà Hạo đồng niên với nhau-năm nay cùng bốn mươi tám tuổi – chỉ sinh hạ được một gái đặt tên là Hĩm đã đi ở riêng. Ông Hạo không lấy vợ lẽ, ông thường nói với mọi người cùng làng:

- Chà, con nào mà chẳng là con, miễn có hiếu là được.

Nhưng cả làng ai cũng biết là ông sợ bà Hạo mà không dám tính chuyện lấy vợ bé.

Bà Hạo nhanh-nhảu, hiền lành dễ-dãi với mọi người nhưng rất cả ghen và đanh thép với ông. Khi cái Hĩm còn nhỏ thường lấy áo bọc chày giã cua giả làm em rồi ru:

Con cò trắng bạch như vôi

Có ai lấy lẽ bố tôi thì về.

Mẹ tôi chẳng đánh chẳng chê,

Mài dao cho sác móc mề mà xem.

Bài hát ru đó người ta bảo chính bà Hạo dạy con để gián tiếp cảnh cáo ông Hạo. Co người kể rành mạch hơn là mỗi lần cái Hĩm hát bài đó, bà Hạo lại nhai cho giập miếng trầu vừa đủ nát bét, mầu còn trắng lờ lờ chưa chuyển sang đỏ hẳn, rồi nhổ xuống khoảng chênh –chếch gần chỗ ông Hạo như có ý nói: "Tôi thì nghiền xác nó ra như thế này này".

Kha bảo ông Hạo cởi áo dài để chàng treo trên mắc rồi hỏi:

- À quên chú cho cháu biết cô Hĩm đi ở riêng đã có cháu nào chưa?

Ông Hạo thở dài:

- Ấy lẽ ra thì được một đứa con trai đầu lòng rồi, nhưng tội nghiệp tháng ba năm ngoái thằng bé bị cảm nặng rủi gặp hôm Tây về vây làng để kiểm soát, chúng không cho ai ở nhà cả, thành thử mẹ phải bế con ốm ra đầu đình tập trung. Đến gần chiều cuộc kiểm soát xong, bố nó vội phóng xe ra phố mua thuốc, nhưng muộn quá, hôm sau thằng bé chết.

Ông hạo ngừng lại một giây như nghẹn-ngào nhưng khuôn mặt vẫn nhẫn nại:

- Thực rõ hoài, thằng bé kháu quá đi mất, giời để làm người bây giờ nó đã biết nói đủ điều rồi đấy!

Hai chú cháu hàn huyên mãi đến khi Miên dọn cơm chiều. Hiển cũng vừa đi dạy học về. Trong bữa ăn ông Hạo luôn luôn khen mừng Kha tốt số:

- Làm sao mà gặp được những người bạn tốt đến thế! (Ông ám chỉ Hiển và Miên).

Một trăm bạc Miên đưa cho ngày nào ở Gia-Lâm, Kha may được chiếc quần tropical, còn lại mấy chục, tối hôm đó Kha mời chú đi xem chèo cổ ở rạp Lạc-Việt (Kha còn nhớ tính chú thích chèo cổ).

Giữa hai màn hát ông Hạo chợt nhớ ra điều gì, nói:

-À anh Hãng con ông phán Nghị cũng đã về Hà- Nội được ba bốn tháng nay rồi đấy, anh biết chưa?

Kha giật mình:

- Anh Hãng về rồi ư hở chú? May quá nhỉ. Hình như một năm trước đây bà phán Nghị có mang cô Thi về Hà-Nội chữa bệnh.

Ông Hạo gật đầu:

- Nay thêm anh Hãng về nữa, chỉ thiệt có ông Phán.

- Sao lại thiệt ông Phán hở chú?

- Ông tự tử ỏ đồn điền Phú-Thọ!

- Ông Phán tự tử?

- Thỉ chính anh Hãng trốn về Hà-Nội báo tin đó cho bà Phán mới hay. Úi chà, được tin dữ, bà nhất định ra hậu phương để mua áo quan chôn cất lại cho chồng "chúng nó có cấm thì hãy giết bà trước đi" – bà nói thế. Ông Phán chết trần truồng không có cả bó chiếu!

Kha cúi mặt thở dài:

- Ông Phán tự tử, điều đó thực cháu cũng thấy làm lạ.

Ông Hạo tiếp:

- Tội nghiệp bà Phán nay chỉ còn xương bọc da. Bà tư lự về việc đó quá, bất kể đêm ngày, hễ sực nhớ đến thảm cảnh bạ lại khóc lóc, kể lể, nguyền rủa. Bà vẫn chưa ra được hậu phương để chôn cất cho chồng vì anh Hãng về kịp thời, khuyên bà hãy nán lại một thời gian, vả hiện giờ bà cũng yếu lắm …Anh đến thăm bà một chút, bà vẫn mở của hiệu ở phố Hàng Vải Thâm.

Suốt màn hát cuối cùng Kha cũng chẳng xem được gì, chẳng nghe được gì. Chàng nhớ ngày ông bà phán Nghị về làng Định Quyết mua lại dương cơ của ông hàn Lợi chênh-chếch đối diện với dương cơ nhà chàng, chỉ cách có con đường xóm. Ông bà Phán thay phiên nhau có mặt ở làng, bà thu xếp bày biện nhà cửa bên trong, ông tu chỉnh bên ngoài, sửa lại hàng rào găng, giồng thêm các loại hao và rất nhiều cây ăn quả. Rồi chủ nhật, ngày lễ, lũ con cháu ông bà Phán về quê hóng gió đồng; con trai con gái lớn của ông bà còn kéo thêm nhiều bạn học khác. Tuy mới tới ngụ cư, nhưng ông Phán đã hiền lành lại chịu khó, bà Phán thì khéo, lũ con cháu vui, ngoan nên gia đình ông Phán sớm chiếm được tình cảm của người lân cận, chỉ một năm sau dân làng Định-Quyết coi gia đình ông Phán như những người chính thức, đã đến định cư tại đây mấy đời rồi.

Ông giáo mất, bà giáo giao thiệp với bà Phán như tình hàng xóm thân thiết "bán anh em xa, mua láng giềng gần". Nhưng cũng phải đến vụ hè năm đó Kha mới thật quen Vân và … và tới ngày đầu xuân kia …

Kha chợt ngửa đầu lên thành ghế mỉm cười xa- xôi.

Tấn hát đến đoạn chót lâm ly, đưa mắt thấy Kha mỉm cười ông Hạo không hiểu sao cháu mình lại cười được vào đoạn này. Tiếng vỗ tay của cả rạp. Mấy bà mấy cô ở hàng ghế trước lấy khăn tay kín đáo chấm nước mắt, kín đáo hỉ mũi.

Ra khỏi rạp hai chú cháu lên một xe xích lô. Ông Hạo nói:

- Thôi chú ra thăm anh, thấy anh khỏe mạnh yên lành chú mừng, mai chú về sớm.

- Vâng-Kha đáp-chú về chú bảo thím cháu đừng phải ra đây. Chú gặp bà ngoại cháu, chú gặp các cô, dì, chú bác cháu, xin chú cứ nói là cháu gửi lời hỏi thăm, đừng ai phải ra đây thăm cháu. Được nhà Công – An phát thẻ căn cước xong, cháu tức khắc sẽ về làng thăm tất cả họ xa họ gần.

III

Hai chú cháu ăn sáng ở hiệu phở Đông Mỹ ra Kha đưa ông Hạo lên tầu điện Kim-Liên để về làng, rồi chàng thong -thả ngược đường Hàng Đào, tạt ngang Hàng Bồ, rẽ sang phố Hàng Vải Thâm.

Ngôi hàng cũ của bà phán Nghị ở phố Hàng Vải Thâm xưa sầm uất là thế mà nay trong lèo-tèo xơ- xác, thực họa vô đơn chí. Bà Phán đương cặm-cụi xếp lại mấy xúc vài trong tủ kính. Đúng như lời ông Hạo nói bà chỉ còn da bọc xương.

Kha bước vào cửa, chàng vẫn giữ cách chào thân mật ngày xưa:

-Lạy bác ạ

Bà Phán giật mình quay lại. Qua đi một giây định thần bà nhận ta Kha ngay. Bà có dáng vồn-vã được gặp Kha, nhưng vẫn không quên và không đáu nổi nỗi đau đớn của riêng bà. Khép vội cửa kính lại bà nói:

-Kìa anh Kha, ngỡ ai. Bác chẳng được tin gì anh từ cái ngày anh cùng anh Tân dời khỏi đồn điền nhà bác.

Hai hàng nước mắt ứ lên tuôn ròng ròng chảy ngoằn-ngoèo xuống khoảng má hóp của bà, đồng thời những vết nhăn trên trán bà bỗng chuyển động cho sâu hơn như thể khép chặt lấy những gì là sầu khổ hơn như thế để khép chặt lấy những gì là sầu khổ bên trong. Bà nói:

-Bác giai chết mất rồi cháu ạ, bác bị bức tử, bác chết chôn trần như nhộng có khổ không cháu ơi. Bác có ngờ đâu gia đình vận hạn đến thế.

Kha chưa biết nói-năng ra sao thì bà Phán đã lớn tiếng gọi con sen ra trông hàng thay, bà mời kha vào trong nhà rồi trong khi bà mởi tủ lấy trà pha nước, bà hỏi Kha theo thứ tự thời gian ngược lại: Kha hiên làm gì, ở đâu? Kha về Hà-Nội ngày nào? Kha về Hà-Nội bằng đường nào, cách nào? Trước khi đó chàng ở đâu?

Mãi nửa giờ sau Kha mới hỏi được một câu về Hãng và Thi. Bà Phán trả lời:

-Em Hãng về đây được bốn tháng rồi anh ạ. Vì thương tôi tuổi già, em nó đi làm để kiếm thêm đỡ-đần. Em nó làm được ngót hai tháng, rồi em nó cũng đến thôi, công việc này đi làm xa lắm, em nó ngại.

- Thưa bác thế còn em Thi?

- Em Thi, vâng…

Bà Phán chép miệng ngừng lại ở đây. Người chết làm bà thắc-mắc nhiều là ông Phán, người sống phải làm bà thắc-mắc nhiều là Thi, Bà tiếp:

- Vâng emThi… Cứ bảo về Hà-Nội sẵn thầy sẵn thuốc mà nào có khỏi hẵn. Kể ra đầu năm vừa tồi em nó khá lắm, bác đã mừng, đánh đùng cái, khi được tin dữ về bác giai, nó thét lên "Ba ơi" rồi ngất, bệnh cũng đùng đùng trở lại, một tuần sau lại ho ra máu. Mất bao nhiêu tiền bác sĩ mà nay xe ra nó cũng chỉ gọi là khá hơn chút ít. Người ta khuyên em nên sống chỗ thoáng khí bệnh sẽ lui dần. Bác cho em nó về trong quê, mượn một con nhỏ vừa để đỡ-đần vừa để ở với em làm vui.

- Nhưng thưa bác thỉnh-thoảng em Thi có ra đây thăm bác?

Bà Phán gật đầu:

- Có anh ạ, thỉnh-thoảng em nó có ra, nhưng thường chỉ ở chơi đến chiều là về. Phải ngủ ở quê cho yên tĩnh, không khí trong sạch. Buồn thì cũng phải chịu vậy chứ sao, vả lại bác cũng về trong quê luôn mà. Hàng họ ế-ẩm, buôn bán khó-khăn, mình lại chẳng trường vốn như xưa, bác có thể cứ để con sen nó trong hàng mà ở trong quê cả ngày cũng được. Gia đình vận hạn đen-đủi đủ đường!

Biết là câu chuyện chẳng thể nào xoay sang cho vui-vẻ đôi chút được, Kha đứng dậy xin phép về, hứa hàng ngày sẽ lại thăm bà để rồi còn gặp Hãng gặp Thi. Bà Phán tiễn chàng ra tận cửa hiệu. Bà đứng nhìn theo Kha khuất sau phố Hàng Bát Đàn rồi mới quay về ngồi bên quầy hàng. Từ xưa bà vẫn có tình cảm đặc biệt với Kha. Nhiệt tình giữa Kha và Vân bà không hề biết, nhưng bà vẫn có ý nghĩ là tất nhiên bà giáo sau này sẽ hỏi Vân cho Kha để hai nhà thông gia. Thốt nhiên bà chép miệng… Chiến tranh bùng nổ…rồi về đồn điền…rồi Vân lấy viên chủ tịch huyện Thanh Ba…Nhỡ nhàng cả!

Hôm sau vào giờ Hiển phải đi dạy lũ trẻ, Miên đi nộp đơn xin vào làm tại nhà thương Phủ-Doãn, Kha thủng-thẳng đến phố Hàng Vải Thâm.

Bà Phán thoáng thấy chàng, ánh vui lộ trên nét mặt. Bà nói:

-Em Hãng nó về từ sáng nay. May quá, nó cứ lồng-lộn muốn gặp anh mà bác lại quên mất địa chỉ anh dặn hôm qua.

-Kha đấy phải không? Vào đây mau lên!

Kha khẽ cúi đầu xin phép bà Phán tồi đi thẳng vào, hơi ngạc nhiên ở điểm Hãng nóng ruột muốn gặp chàng mà sao không chạy ra đón. Hãng vẫn nằm sõng-sượt trên giường có buông màn. Vén màn lên, Kha chui vào và khi thấy Hãng xiết chặt tay mình Kha mới yên chí là Hãng nóng lòng gặp mình thật. Hãng mặc pyjama ròng-rọc xanh, dáng người vẫn vạm-vỡ, nhưng đôi mắt buồn, rất buồn. Kha ngả lưng nằm ngay bên Hãng bắt đầu nói chuyện, Kha hết sức tránh không nhắc chuyện xưa. Nhắc lại làm gì, thấy nhau ở đây há chẳng đã là nói đến lời tâm sự cuối cùng rồi sao? Kha không hỏi về sức khỏe của Thi và đời sống của Vân từ ngày theo chồng về ở hẳn cơ quan hành chính… Nhưng khi Kha hỏi về công việc Hãng làm bây giờ, giọng Hãng trở nên công phẫn:

-Nhục

-Việc gì kia chứ?

Hãng nói như không hề chú ý đến câu gặng hỏi của Kha.

-Cũng may chỉ còn hơn một tháng nữa là hết contrat.

Rồi Hãng vùng đứng dậy thay quần áo và bảo Kha:

-Rồi để tôi giới thiệu cậu với thằng An, cậu dạy thay tôi. Nào chúng ta đi ngay cho kịp.

An cũng là con nhà giầu, bạn cũ của Hãng, biết nhau từ ngày Hãng mới ở Pháp về. Hiện là hiệu trưởng một trường tư thục khá lớn tại Hà-Nội, An muốn Hãng phụ trách lơp Pháp văn cho mấy lớp trung học. Vì contrat còn hơn một tháng nữa mới hết nên Hãng đưa Kha lại giới thiệu cho An. Họ là bạn bè trẻ, thâm hồn thẳng-thắn, cởi mở, nên sự thông cả có ngay từ phút đầu nói chuyện. Trông gương mặt Kha An hiểu con người đó chắc- chắn không thể phụ lòng tin của chằng mảy-may.

Kha sẽ phụ trách từ tuần sau Pháp Văn cho hai lớp Việt Văn, lương tháng trên ba ngàn. Kha mỉm cười nghĩ đến lời Miên nói ngày nào chàng vừa ở nhà giang ra: "…ba anh em mình chỉ cần mỗi tháng kiếm được hai ngàn là thừa ăn thừa tiêu".

Ở nhà An ra, Kha đưa Hãng về phố Hàng Vôi giới thiệu với Hiển và Miên. Đó là lần đầu tiên Hãng, Hiển, Miên gặp nhau.

Miên e lệ đề nghị với Hãng:

-Thưa anh, để mời anh ở lại sơi cơm chiều chúng tôi một thể.

Thoáng suy nghĩ, rồi Hãng đáp:

-Thế này tiện hơn, cả bốn chúng mình đi ăn chim quay Siêu-Nhiên. Cho tôi được cái hân hạnh đạt tiệc trình diện!

Hãng cười trước, rồi cả bốn cùng hòa theo thỏa-thuận.

Trước đây Hãng bộc tệch gà tồ như Tây con, qua sự đau khổ của chính bản thân anh ở hậu phương, qua sự đau khổ của cả gia đình anh trong cơn vận nạn, lại sự dằn vặt của chính anh hiện giờ vô ý chui vào làm nơi không hợp, Hãng đã biết tự đào sâu tình cảm để cử chỉ và ngôn ngữ tuy vẫn giữ được dáng-đấp gà tồ cố hữu nhưng trầm xuống và đậm-đà ý nghĩa lên nhiều.

Hôm đó, chiều thứ bảy, bốn người ra đi vui-vẻ. Trong bữa ăn ba người đàn ông không quên nhắc lại câu chuyện và khung cảnh Phụng-Minh-Thôn là nơi họ đã từng sống và chứng kiến những cảnh hãi-hùng bi đát…

Ăn xong Hãng kéo mọi người vào xi-ne. Mười hai giờ khuya Kha, Hiển, Miên mới về đến nhà. Tuy không nói ra nhưng cả ba đều cảm thấy đời họ bắt đầu sang một khúc quành mới mà họ hy vọng là sẽ sáng-sủa hơn.

IV

Bảy giờ sáng hôm sau, tiếng ông cai Bính oang oang ngoài sân đãnh thức mọi người. Ông nói với mụ chủ trương:

-Tôi nói cho bà biết tiền điện tháng này không thể nhiều thế.

Tiếng mụ chủ trương muốn làm già:

-Ý cụ định bảo tôi ăn gian à?

Vẫn tiếng ông cai oang oang:

-Bà ăn gian hay không thì bà với giời biết, tôi chỉ biết chắc-chắn tháng này tôi dùng điện không hơn gì tháng trước, có phần kém là khác, vậy không có lý do gì tôi phải giả cao hơn.

Tiếng anh chồng gọi vợ (hắn nấp sau khe cửa nhìn ra):

- Thôi mình vào đi, cụ giả bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu.

Tiếng ông Cai càng như lệnh vỡ:

-Ông nói như vậy là không được, tôi không phải là thằng bủn xỉn đáng bốn mươi năm đồng bạc điện mà chỉ gỉ có ba mươi đồng. Tôi giả ba mươi đồng như tháng trước là thừa đủ với số tiền tôi tiêu thụ.

Anh chồng:

-Vâng, vâng thì nào tôi có dám nói gì.

Đương đà hăng, công cai Bính chưa chụi ngừng, ông tiếp:

-Ông bà chủ trương biệt thư này đã lợi nhiều thứ rồi, ông bà chỗ cao chỗ rộng chẳng mất đồng xu nào, chúng tôi ở cái nhà garage nóng bỏ mẹ ấy.

Vẫn nấp sau khe cửa nhìn ra, anh chồng nói giọng ôn tồn hơn nữa:

-Vâng, vâng, thưa cụ thì nào tôi có dám nói gì.

Rồi quát vợ:

-Tôi đã bảo mình vào mà!

Kha lúc đó vừa mở cửa ra sân, ông Cai ghé tai chàng nói thì thầm nhưng cũng để ông ký Thản đứng cách đấy mươi bước nghe rõ:

-Ông giáo ạ (ông Cai vẫn gọi cả Hiển và Kha là ông giáo) tôi còn lạ gì con mẹ đó tẩy số tiền điện đi rồi tăng lên.

Kha gật đầu hưởng ứng:

-Vâng cụ trực tính nói thế là phải.

Vì thấy ông Cai vẫn thường gọi mình là "ông giáo" nên khi giao thiệp Kha vẫn gọi ông là "cụ". vả mốt của Hà-Nội ngày đó cứ bốn mươi tuổi trở lên đã có thể được tôn lên "cụ" rồi.

Vừa kéo Kha vào nhà ông cai Bính vừa chép miệng:

-Ông giáo ạ, tôi phải cái tính nóng, hễ lúc nổi nóng lên thì cứ nói cho sướng cái mồm đã, nhưng nói xong lại hối. Kể vợ chồng nó ăn cắp một tí tiền điện có là bao. Ông giáo tính ở đời này có biết bao thằng ăn cắp tầy trời ấy chớ. Vừa rồi mở cửa chợ phiên ở Ấu-Trĩ-Viên, mấy thằng chóp bu ăn lễ ngập mặt của Tàu rồi cho chúng mở sòng tài sửu đề biêt bao gia đình tan nát, mấy đám tự tử bằng thuốc độc, mấy đám nhảy xuống hồ Tây, ông giáo bảo thế có ăn cắp à? Thằng Tây ăn cắp nước của chúng ta từ tám mươi năm nay đương thì bị thằng Quốc –Tế-Cộng –Sản ăn cắp lại. Mấy thằng chính khách quốc tế tuyên bố ấm-a ấm- ớ chỉ rình đục nước béo cò cũng là những thằng chúa ăn cắp.

Ông cai bỗng thừ người dáng uể-oải hẳn như một cầu thủ đã thấm mệt lúc sắp mãn cuộc đấu, ông ghé lại gần Kha hơn tiếp:

-Ông giáo ạ, chúng nó ăn cắp hết! Tôi vì sinh kế làm cho sở Binh-Nhu Pháp, đồng lương chẳng được là bao, nhưng tôi cũng đủ tiền nuôi hai con tôi ăn học, đủ cả quần áo, giày dép để diện, mô-by-lét để làm vì…(ông cai hạ giọng hơn nữa) ông giáo ạ tôi cũng ăn cắp (giọng ông trở lại bình thường) nhưng cái ăn cắp của tôi khác. Thằng Tây ăn cắp của mình, tôi làm cho thằng Tây vì sinh kế, tôi cuỗm lại của nó, cuỗm càng khéo, càng nhiều, càng hay: như vậy chỉ là tôi tước lại một phần nhỏ nào những của cải mà thằng Tây nó ăn cắp của mình. Như vậy thì tôi không phải là ăn cắp!

Kha gật đầu mấy cái để tỏ là đồng ý với ông cai về ở điểm "cuỗm càng khéo, càng nhiều, càng hay". Kha lại lắc đầu mấy cái để tỏ rằng chàng đồng ý ở điểm "như vậy thì ông cai không phải là ăn cắp", rồi Kha nói:

-Cụ nói đúng lắm, đúng lắm!

Ông cai dang rộng hai cánh tay:

-Đấy có phải không ông giáo?

Rồi ông ôn tồn tiếp:

-Ông giáo ạ, lắm lúc nhìn đời, tôi muốn về làng tậu mẹ nó mấy thửa ruộng, rồi cáy cấy chăm nuôi lấy mà ăn, quanh mình ông chú bà bác, ông cậu bà dì, anh em thân thuộc toàn là những người chân phương thật-thà, thế lại hay. Nhưng chết cái, không được ông giáo ạ, các người ở vùng quê mình dạo này khổ lắm. Ừ thi mấy thằng Việt-Minh giết chết mấy thằng Tây thực dân, rồi mấy thằng Tây thực dân lại giết chết mấy thằng Việt-Minh chết tiệt phản dân hại nước, chúng nó cứ việc giết lẫn nhau cho đến khi cả hai bên cùng chết cả, như thế còn gì bằng! Nhưng cái thằng bỏ mẹ Việt –Minh lại cắn trộm thằng Tây mấy cái, thằng Tây nổi khùng nhảy sổ lại đánh, thì đầu chẳng phải tai, chỉ chết dân, khổ thế!

Kha gật đầu:

-Khổ thật, người dân mình khổ thật, những lời nhận xét của cụ thật chí lý. Thoáng thấy Hiển, Miên đã đậy rửa mặt, Kha xin phép ông cai về buồng.

Ông cai thủng-thẳng ra sân thờ phảo một tiếng, dang tay ưỡn người như để xua cho hết nỗi bực dọc chứa-chất trong lồng ngực ra, rồi ông cất giọng oang oang:

-Chà tôi muốn về quê quá đi mất!

Và từ đấy cứ mỗi lần bất bình với cuộc đời ở chốn phồn-hoa đô-hội này, công cai lại nói lớn, giọng sách-mé như chửi đổng: "chà,tôi muốn về quê quá đi mất!"

V

Câu nói lớn của ông cai cũng là câu nói thầm trong bụng của Kha:

-Chà, tôi muốn về quê quá đi mất!

Kha đã đi dạy học được một tháng và chàng cũng đã tới trình diện Nha Công-An, nhưng ở đây họ chỉ gia hạn giấy thông hành tạm thời chứ chưa cấp thẻ căn cước. Kha chưa dám ra khỏi Hà-Nội vì thế.

Phải về thăm quê chứ! Cứ nghĩ mình về Hà-Nội được hơn một tháng mà chưa về thăm quê, Kha thấy thực vô lý. Chàng ghi tên theo Đại –Học Văn –Khoa. Còn nhớ sau cuộc cách mạng tháng tám giành được độc lập, một số học giả, nhà văn, nhà thơ có mở ngay Văn-Khoa tại đại-học-đường, để phát huy tư tưởng học thuật dân tộc, nhưng ngành đại học này chưa hoạt động được trọn niên khóa thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Gần đây một số học giả vùng quốc gia ý thức được sự cần thiết của "ngành linh hồn nền đại học dân tộc" đó, bèn nương theo lời tuyên bố huênh hoang của chính quyền bù nhìn mà tương kế tựu kế xin mở lại Đại-Học Văn-Khoa. Cả giáo sư lẫn sinh viên đều ý thức được tầm quan trọng và sự khó-khăn ban đầu của ngành này nên mọi người tìm đến nhau với tinh thần thân hữu cởi mở vô cùng. Hơn nữa lớp sinh viên mấy niên học đầu đều đã tới tuổi đứng đắn, cỡ xấp xỉ "tam thập nhi lập". Chính lúc Kha tới đây ghi tên, chàng gặp một số người bạn cũ, xưa cùng học với chàng dưới trung học và cũng vì cuộc kháng chiến mà việc học bị gián đoạn. Giảng đường Đại-Học Văn-Khoa được viện trưởng (người Pháp) dành cho dẫy nhà thấp phía bên, nơi trước đây quân Nhật nhốt ngựa. "Đại-học chuồng ngựa" là lời riễu đương thời (lẽ tất nhiên thực dân Pháp không ưng gì người Việt phát triển ngành quốc học này) những lời riễu đó càng là chất kích thích cho cả giáo sư lẫn sinh viên.

Trong khoảng thời gian này ông Hạo có ra thăm chàng hai lần nữa. Vì Kha đã bắt đầu kiếm được tiền nên hai lần sau này mâm cơm thết (do Miên làm) hậu-hĩ lắm và lần nào, tối đến Kha cũng mời ông Hạo đi xem chèo cổ ở rạp Lạc-Việt.

Vợ chồng cô Hĩm cũng ra thăm Kha một lần và nói rằng anh em bà con trong làng ai cũng nóng lòng được gặp "bác giáo". (Trong câu chuyện, vợ chồng cô Hĩm tự xưng "em" và gọi Kha là "bác giáo", đúng kiểu xưng hô của miền quê giữa những người đã trưởng thành).

Tuy là bước đầu Kha vào nghề dạy học, bài giảng của Kha bao giờ cũng cố cho dồi-dào ý kiến, chàng trích dẫn những tỉ dụ linh động hấp dẫn lấy ngay ở cuộc đời hay những tác phẩm nổi danh quốc tế. Kha chú trọng nhất lá sao cho lũ học sinh khỏi bị nô lệ vào tư tưởng của bài văn, trái lại biết nương vào bài văn đó để thẩm định lại mọi ý nghĩ của mình và của người. Trong những cuộc mạn đàm thân mật với An (ông hiệu trưởng) Kha không dấu sự ghê tởm của chàng trước những phương pháp tuyên truyền ngày nay theo kỹ thuật "tha nhân ám thị" với những khẩu hiệu, truyền đơn, biểu ngữ nhồi vào óc, nhồi vào tai, nhồi vào mắt, chúng là tê liệt trí thông minh, đàn áp nhân phẩm, hủy diệt tự do.

Nghe những lời phê bình quá thẳng-thắn đó đã có lần An bảo Kha: "Anh không bao giờ làm chính trị được, tâm hồn anh là một nhà làm bằng kính".

An quý Kha lắm, nghĩ về Kha, An còn có hình ảnh khá ngộ-nghĩnh mà An chỉ nghĩ thầm trong bụng: "Con người ấy cho dẫu có dìm sâu xuống bùn chỉ để hở mỗi đôi mắt, và chỉ cần nhìn thấy đôi mắt ấy thôi, người ta cũng biết mình đương đứng trước một người ngay thẳng.

Cũng kể từ ngày đi dạy học, Kha ít có thì giờ đến thăm bà Phán. Hãng thì tời thăm Kha luôn thỉnh thoảng-thoảng vào dịp đi vắng vài ngày Hãng đến báo cho biết trước. Tuy nhiên cho đến giờ, Hãng làm ở đâu chính Kha, Hiển cũng không biết, và chẳng cần biết, nhất là Kha, chàng thấy rõ Hãng luôn luôn lẳng tránh mỗi khi câu chuyện có thể đưa đến câu hỏi đó.

Đã hơn một tháng gần Miên! Những ngày còn ở trong nhà giam, Kha nghĩ hễ được tha, chàng sẽ thú thực, lòng quý mến của chàng với Miên ngay. Nhưng đến nay chàng thấy không cần. Chàng cho rằng cách sống hợp với chàng nhất và xứng đáng với tình bạn của Hiển, nhất là thẳng-thắn coi Miên như em, rồi khi hoàn cảnh thuận tiện, sẽ thẳng-thắn hỏi Miên làm vợ.

Cuối tháng vừa rồi lĩnh lương hơn ba ngàn, Kha đưa cả cho Miên làm thủ quỹ, rồi mỗi khi chàng và Hiển cần tiêu món gì lại hỏi Miên, điều đó không đủ là một lời hứa hôn sao?

Ba ngày trước đây Kha có tạt vào thăm bà Phán. Bà nói:

-Tuần nào em Thi cũng ra đây một lần. Em có hỏi thăm anh.

Kha nghĩ thầm nếu chàng về làng, chàng sẽ sang thăm Thi ngay. Ôi, chàng quên sao được kỷ niệm ngày đầu chàng hôn Vân đến thác loạn tâm thần, ngày đó Thi còn nhỏ xíu…Ngày chàng dời đồn điền, Thi mới mười tám. Tới ngày nay ồ tính ra Thi đã hai mươi ba tuổi, dễ thường bằng tuổi Miên, vậy thời Thi đã trưởng thành rồi, chẳng biết trông Thi có khác xưa nhiều?

Sáng nay không rõ bực dọc điều gì ông Cai lại ra sân dang tay, ưỡn ngực:

-Chà tôi muốn về quê quá đi mất!

Phải về thăm quê chứ! – Kha nghĩ thầm như vậy. Chàng muốn về quê ra đồng thăm mộ mẹ, chàng muốn về thăm làng cũ, gặp bà con anh em, những người chân phương thật-thà, chàng muốn về quê nhìn lại căn nhà cũ và sang thăm Thi một chút…Nhưng điều cốt yếu là đến đứng dưới mái hiên nơi chàng ôm Vân lần đầu.

Thế là tới ngày chủ nhật tuần đó, trong khi Hiển đưa Miên đi gặp mấy người quen để hỏi về đơn xin của Miên và nhà thương Phủ-Doãn sao chưa được chấp thuận. Kha nhất quyết một mình về làng tuy chàng chưa có thẻ căn cước.

Ngày hôm đó trời bỗng nhiên vẩn mây, gió hiu-hắt. Người ta cho Kha biết Tây thường về vây các làng vào lúc gà gáy rồi kiểm soát cho đến trưa, chàng bèn đợi đến chín giờ sáng mới ra bến xe điện mang theo một cái cặp trong đựng vài thứ quà. Xuống xe điện ở Kim-Liên, đi một quãng nhỏ nữa, rẽ vào con đường đồng bên trái, Kha đã trông thấy cây si, lũy tre thưa và cổng làng loang-lổ xiêu vẹo. Tới gốc si đầu làng, nhân vắng bóng người, chàng dừng lại ngắm cảnh chung quan rồi ghé mắt nhìn theo con đương chính từ cổng hút vào.

Kha mới xa Việt-Bắc có hơn một tháng nay, khu cảnh rộng lớn của núi rừng cong nguyên vẹn trong trí. Về tới Hà-Nôi nơi hoàn toàn đo bàn tay người tạo tác, nhưng số người đông, số nhà đông, số đông đánh lừa được cảm giác của Hà-Nội với cảnh núi cao rộng của Việt-Bắc. Nay về tới đầu làng, ngắm làng nằm giữa thiên nhiên, Kha chụp ký ức thiên nhiên Việt-Bắc vào làng và chàng thấy làng nhỏ xíu đến tức cười. Ngày xưa con đường chính của làng sao mà dài, gò lưng phóng xe ngoẵn-ngoèo mãi mới tới nhà; giờ đây cũng con đường ấy trước mắt Kha sao mà nhỏ, hẹp tưởng chỉ cần bước mấy bước là đã đến ngay cổng chùa cuối làng. Nhà của hai bên đường tuy có chiều đổ nát nhưng vẫn còn đủ, xưa kia hai dãy nhà đó sầm uất biết bao, nay trông lại Kha bâng-khuâng có cảm tưởng tất cả những dãy nhà đó, tất cả những đường ngàn lối dọc kia đều như bày như đắp trên…sa bàn và chính Kha cũng vừa biến thằng bé tí con để hợp với trò trẻ con đó.

Kha chui vào cổng làng, đặt bước đầu tiên trên con đường chính lát gạch xếp nghiêng. Kể từ lúc đó chàng luôn luôn chỉ đi được vài bước phải dừng. Các ông chú bà bác, anh em trọng họ ngoài làng hầu như từ hai bên đổ ra, từ phía trước lại liên tiếp...liên tiếp…Nào những lời thăm hỏi, nào những lời ôn qua chuyện cũ, nào những lời trách móc thân mật… Tới đâu chàng cũng thấy đấu vết chiến trang sự hàn gắn tuy có nhưng chỉ tạm bợ. Thêm một điều lạ: mọi người đua nhau để râu dài. Nhiều anh em cỡ tuổi Kha để râu quai nón xồm-xoàm trông đến hay. Mãi về sau Kha mới vỡ lẽ: sự cố tình già nưa như vậy là để khỏi bị Tây bất chợt về làng bắt đi phu. Vào trường hợp đó, nạn nhân chỉ vào bộ râu nói: "Moi, vieux notable!" (Tôi là kỳ mục già nua mà!) May thì được tha.

Người đầu tiên kha gặp là ông Toán. Ông Toán tay cầm quạt lông ở trong hàng nước đầu hàng bước ra. Ông trạc năm mươi tuổi, râu dài và rậm, loại râu mà người làng làng Định-Quyết vẫn gọi là "râu sàm Tào-Tháo". Hồi còn trẻ ông có tiếng là "mày râu nhẵn-nhụi áo quần bảnh-bao". Người làng ai cũng biết chuyện hổi đó ông Toán có hỏi cô Nai (tên tục mẹ Kha) hoa khôi của làng nhưng bị cô từ chối, chê là trọc phú. Cô ưng lấy chàng thư sinh gia tư bậc trung tên là Lãm mà sau này thi đỗ được bổ làm giáo viên tiểu học, dạy học năm năm ở trường phủ Hoài-Đức, rồi đuổi Tuyên Quang dạy hơn hai mươi năm nữa, ngày gần về hưu thì mất ở đó.

Bị thất tình, ông Toán bắt đầu đọc truyện Kiều và thuộc rất nhiều đoạn.

Ông đã lấy vợ và có nhiều con mà vẫn còn nhắc đến hận xưa. Thấy bà giáo hiếm-hoi, sinh nở mấy lần mà rồi chỉ còn được có Kha, ông thường nói: "Giá lây mình có phải con cái đầy đàn không". Thỉnh-thoảng gặp Kha – hồi Kha còn nhỏ -trên đường làng, ông Toán thường chỉ vào mặt hỏi:

-Có phải mày là thằng "Tuyên" con giáo Lãm?

Kha sinh ở Tuyên-Quang nên ông Toán nhất định gọi Kha là "Tuyên", ông làm như không hề biết có tên Kha và cho rằng ông có quyền đặt tên Tuyên" cho con ông giáo Lãm, ông lại đinh ninh rằng rồi đây cả làng sẽ công nhận cái tên đó.

Ông đã đứng tuổi, vẫn tiếp tục đọc Kiều, thuộc có thể nói gần trọn quyển và nảy ra tính thích đố Kiều. Ngày ngày sau bữa cơm, ông phe-phấy cái quạt ra hàng nước, ông đọc một câu tám chữ và thách người nghe đọc ngay câu sáu chữ ở trên.

Khi vừa bước qua cổng làng, Kha nhận ngay ra ông và ông cũng nhận ra Kha ngay. Mặt ông đỏ gay, ông nói sặc mùi rượi. Ông chỉ vào mặt Kha:

-Có phải anh là thằng Tuyên con giáo Lãm ở xóm chùa? (ông phất cái quạt lông về phía trước). Trông anh tôi biết ngay là thằng Tuyên!

Ông kéo bừa Kha vào hàng. Bà hàng và mấy người có mặt trong làng lúc đó đều là bà con gần họ xa cả. Kha lễ phép cúi chào tất cả mọi người. Ông Toán nắm độc quyền câu chuyện. Ông vừa phe-phẩy quạt vừa nói với "Tuyên" là ông chán đời, chán "anh Hồ" lừa dân bán nước (đã từ một năm nay có đồn binh Việt-Pháp đóng ở cánh đồng cuối làng nên những dư luận loại đó nói công khai mà không sợ). Ông chán cả mấy anh "chó chết" trong vùng quốc gia cũng lừa dân bán nước. Ông nhắc lại cho "Tuyên" nhớ-tuy chàng vẫn nhớ lắm – trước đây ông là một trong những người giàu có nhất làng. Rồi ủng hộ "anh Hồ", rồi ba năm tản cư, rồi đến khi "biết thừa" cộng sản – tuy là mãi đến ba năm sau mới… "biết thừa" – ông hồi cư, thì gia sản mười phần còn một. Giờ đây ông chỉ còn hơn hai mẫu ruộng tốt và một ao thả cá mè. Ông chẳng ham làm giầu như ngày xưa nữa, ông uống rượu cho mát phổi – ông bảo thế - và cho quên sầu. (Thực dân còn nắm chính quyền kia, rượu đâu có thiếu!) Mỗi ngày hai bữa túy lúy! Ông còn rắp tâm hút thuốc phiện nữa (thứ này càng không thiếu) nhưng cũng là may cho ông – và không may cho thực dân – ông lại sáng suốt nhận thấy rằng ông đã sa-sút, số gia sản ít ỏi còn lại kia không cho phép ông lao mình vào khói thuốc để quên sầu.

Thấy câu chuyện tâm sự của ông đã vời-vợi, Kha chào ông, chào mọi người. Vừa bước ra khỏi cửa hàng, chàng đã nghe tiếng ông ngâm vang:

Tấm riêng riêng những nặng vì nước non

Tiếp theo là giọng thách thức:

- Tôi đó các ông, trên câu đó là gì?

Kha thấy bà Nụ dường như vô tình tiến về phía chàng. Bà Nụ là cô họ chàng. Kha còn nhớ hồi còn nhỏ mỗi dịp hè hay mỗi dịp giỗ tết, họp mặt đông đủ, chàng vẫn được bà Nụ quý và chiều nhất trong hàng các cháu. Tuy rất nghèo nhưng chẳng lần nào gặp Kha bà không móc túi lấy ra cho cháu một trinh Khải-Định hay ba đồng Bảo-Đại. Có lần bà móc mãi chỉ thấy có đồng trinh Minh-Mạng - thứ tiền này gờ mép rộng hơn trinh Khải-Định và tiêu không được – Bà cũng ân cần trao cho Kha và Kha cũng sung-sướng nhận lấy, rồi cả hai cô cháu cùng hỉ-hả chẳng kém gì mấy lần trước.

Tiến tới gần Kha, bà Nụ nheo mắt – bây giờ mắt bà kém rồi – bà chợt phá cười, chỉ vào mặt Kha, y như ông Toán chỉ vào mặt chàng khi nãy, bà nói:

-Cái thằng bé kia, cháu cô!

Kha cười:

-Cô ơi, cháu cứ định thủ xem cô có còn nhớ cháu không?

-Sao lại không nhớ!? – bà Nụ cướp lời – cô gì, cô lốc cô lô mà lại không nhớ cháu!

Nghe cô nói "cái thằng bé kia" chẳng khác hồi nào cháu còn nhỏ.

Bà Nụ cười… bà tíu –tít, Kha không kịp xen lời. Cũng may bà Nụ phải ra thăm đồng, Kha hẹn:

-Sẽ có hôm cháu về ở hẳn nhà cô một buổi để cháu nói chuyện lâu!

Rồi đến mấy ông chú, mấy ông anh họ, ông nào cũng để râu dài bằng ông Toán hay gần bằng ông Toán. Khả rẽ và một ngõ xóm thăm bà Quân – em ruột mẹ chàng. Ông Quân chết đã lâu, bà ở vậy nuôi ba con, đứa con trai lớn tên là Ty đã trưởng thành và đã dạm vợ; Thơ, cô gái thứ mới lên mười (năm bố chết cậu còn ẵm ngửa). Vừa bước qua cổng vào tới sân cỏ, mùi rơm ẩm, mùi phân lợn, phân bò quyện lấy Kha như một lời chào đón vô hình. Kha thấy dì cởi trần, vấy và yếm màu nước dưa, đang cho lợn ăn, Kha biết là dì vẫn nghèo như xưa.

Thấy Kha vào, bà Quân cười ra nước mắt. Kha chạy ngay đến bên chuồng lợn. Bà Quân vừa lấy dải yếm chấm nước mắt vừa nói hết nỗi-niềm dì mong cháu, em (bà Quân) thương chị (mẹ Kha). Kha cũng không cẩm được nước mắt khi nghĩ đến cảnh mẹ góa con côi mà khi mẹ chàng chết cũng không được gặp con.

Chàng mở cặp lấy ra bọc nhật trình:

-Thưa gì cháu mua được mấy thước the La-Cả biếu dì để may áo dài.

-Cháu ơi, cháu còn mua làm gì, cháu mới hồi cư đã phong lưu đâu.Có hết mới về, ai cũng vậy. Về mà dì cháu còn được gặp nhau, còn thấy nhau mạnh cả là mừng rồi.

Không muốn đẻ dì băn-khoăn về chuyện biếu sén này, Kha hỏi sang chuyện khác, Kha hỏi thăm bà ngoại còn sống, Bà Quân nói:

-Bây giờ bà già lắm cháu ạ. Khổ, thế mà cụ vẫn cứ thích nuôi lợn, ai lại tháng chạp năm ngoái, giời rét căm căm mà cụ dậy từ năm giờ sáng ta chợ xin bã rượi và nước chua về nấu cám cho lợn.

Thấy và Quân lại băn-khoăn cúi nhìn bọc nhật trình, Kha vội xin phép dì đi thăm cụ ngoại ngay.

Kha đi sâu vào ngõ xóm, rẽ vào cổng bên phải, chàng gặp ngay ông cậu ngồi trên thềm và bà mợ đứng dưới sân.

Ông cậu vuốt râu – ông cũng mới để râu dài - nói:

-Cậu được tin anh về định ra thăm nhưng ông Hạo cho biết anh sẽ về, bà con đừng ai phải ra thăm cả, thành thử cậu lại thôi. Cậu ít ra Hà-Nội, giá mà đi tìm được chỗ anh ở cũng vất-vả lắm.

Tiếp chuyện cậu mợ được mấy câu, Kha nhìn quanh và hỏi:

-Dạ thưa cậu mợ, bà đâu ạ?

Bà mợ đáp:

-Ấy cụ đang ngắm lợn ở sau vườn. Cụ ngắm con lợn nái của cụ cả ngày. Chả ngày nào cụ không nhắc đến cháu đâu.

Kha ra sau vườn. Bà ngoại chàng quả đã già lắm.

-Mày về đấy ư con – cụ vừa giữ lấy cả hai bàn tay Kha vừa nói – làm sao hôm nay mời về, bà mong mãi.

-Tại cháu chưa có giấy.

Thấy bà ngơ-ngác Kha biết cụ già, tai nặng, chàng ghé thấp xuống nói lớn hơn, ngắt câu thành tững quãng ngắn:

-Cháu chưa có thẻ căn cước! Hôm nay cháu cũng chưa có thẻ căn cước. Nhưng nhớ bà cháu cứ về. Chiều cháu lại ra phố sớm!

Cụ gật gật đầu:

-À …à…

Kha mở cặp lấy ra gói nhật trình khác, vẫn ghé xuống nói lớn:

-Cháu mua biếu bà mấy thước the La-Cả để bà may áo dài, mấy thước vải chúc-bâu đã nhuộn nâu để bà may áo cánh và một chiếc khăn nhiễu.

-Ồ … mua làm gì nhiều thế con, bao nhiêu tiền cả thảy?

-Độ hai trăm rưỡi thôi bà ạ.

Cụ cười:

-Giá mày cứ đưa bà hai trăm rưởi , bà nuôi đôi lợn con, ngoảnh đi ngoảnh lại có nghìn bạc con ạ. Mày về mạnh khẻo thế này bà mừng, cứ như cậu mày thì đến chết cũng không quên được thằng Nam.

Nam là con giai trưởng của ông cậu Kha. Nam chết vì bị máy bay bắn khi cùng gia đình tản cư từ Bắc-Ninh lên Bắc Giang. Ngày nay dưới Nam chỉ còn Bắc là giai, mười ba tuổi và Đông là gái mười một tuổi cùng theo học trường làng.

Kha chào bà, chào cậu mợ, nói là còn về thăm nhà cũ của cha mẹ.

Ra đến đường cái chính, Kha gặp ông tư Hi cũng vào vai chú họ chàng, người làng vẫn hay gọi ông là ông "Tư Cửu Văn", có lẽ vì ông gầy lại lộ hầu, trong người lúc đi, lúc đứng, lúc ngồi đều dài ngoẵng như chữ "cửu văn" trên con bài tổ tôm. Lẽ cố nhiên ông "Tư Cửu Văn" cũng để râu dài. Trong lúc nói chuyện ông luôn luôn cúi sát xuống ta Kha nói thầm, thành thử câu chuyện có vẻ quan trọng tuy sự thực chẳng có gì quan trọng cả. Khi câu chuyện hàn huyên giữa hai chú cháu có bề ngoài quan trọng đó xong, Kha xin phép chú rẽ sang ngõ bên trái. Chàng phải đến thăm một nhà cuối cùng nữa, nhà ông cả Bê, ông bác họ nhưng lại là chỗ thân tình, gần gũi chẳng khác gì bác ruột.

Khi gặp cụ bà thanh sinh ra ông cả Bê ở ngay ngõ. Cụ cũng già bằng bà ngoại chàng, nhưng tai thính hơn. Cụ khoe với Kha, cụ có bốn trăm bạc vốn đưa cho ông cả Bê, tháng tháng ông cả Bê cứ giữ bốn trăm để khi cụ "nằm xuống" lấy đó mà mua quan ván, thiếu bao nhiêu thì bù.

Trong khi tiếp chuyện với cụ, ông bà cả Bê, nhận biết là Kha bèn ra tận ngõ đón chàng. Cả hai ông bà cùng mừng lắm.

Kể tất cả những bậc vào hàng chú bác để râu mà Kha gặp từ nãy đến giờ thì bộ râu của ông cả Bê đẹp hơn cả. Râu năm chòm, đúng là râu Quan Công. Nhất là khuôn mạt của ông cả Bê lại vuông chữ điền với nước da rám nắng, khỏe mạnh (ông vẫn có tiếng là người cày khỏe và hay làm nhất làng).

Ba bác cháu vừa nói chuyện vừa hàn huyên được mấy câu thì có tiểng trẻ con khóc trong nhà, ông cả Bê bảo vợ:

-Kìa bà vào bế cháu, nó dậy rồi.

Bà cả Bê bế một thằng nhỏ chừng lên ba ra. Kha hỏi:

-Thưa bác, có phải con anh hai Hứa cháu đấy không ạ?

Bà Cả gật đầu:

-Phải , con thằng Hai đấy. Tên nó là Hiến nhưng phải gọi chệch là Chiến vì bố nó đặt tên thế nào lại trùng phải tên cụ ngoại ông trưởng Thự đằng xóm chợ. Bố mẹ nó vừa ra thăm đồng, chẳng còn bao lâu nữa đã gặt vụ mùa rồi.

Lúc đó Kha mới dám hỏi gượng nhẹ về chuyện Dinh. Dinh là con trưởng ông Cả, trước đây vào biệt động đội bị Tây lê-dương đi tuần bắt được bắn chết rồi quăng xác ở ngay đồng làng.

Ông Cả chợp mắt im lặng. Bà cả thở dài nói:

-Bác cứ nghĩ đến anh cháu lúc nào lại đứt từng khúc ruột.

Một tay và kéo vạt áo lên chấm nước mắt. Kha hỏi:

-Thưa bác thế chị Cả cháu đâu?

Bà Cả nghẹn-ngào:

-Từ ngày anh cháu lâm nạn rồi sau đó mấy tháng bác vợ nợ nó cũng chẳng về. Nó buôn bán ở Hải-Phòng. Hôm nọ giỗ hết anh cháu, nó về từ sớm, đến trưa lại đi ngay.

Ông Cả tiếp:

-Chồng nó chẳng may như vậy, con cái thì không…

-Cả khuôn mặt ông Cả bỗng như chuyển động mạnh, quai hàm bạnh ra, ông khóc nức lên, hai giọt nước mắt lăn vội trên gò mà rồi đọng vướng ở hai bên râu mép, giọng ông như tiếng kêu ở một vật gì nứt rạn:

-Giây rễ không có thì để mặc nó tìm giây rễ khác.

Kha hiểu là ông cả Bê muốn nói: vợ Dinh đã không có con với Dinh thì đành để cho tái giá mà kiếm lấy chút giây rễ về sau.

Tiếng khóc nức và hai giọt nước mắt đó cảu ông Cả còn ám ảnh Kha cho đến khi chàng theo bước chân bà Cả đưa ta thăm mộ cha mẹ.

(Được ông Cả Bê cho hay ông bà Hạo đều ra đồng làm cỏ từ sớm, chàng không về thẳng nhà vội, mà theo bà Cả Bê ra thăm mộ cha mẹ trước).

Kha đến chỗ góc ruộng khuất gió, đánh diêm châm hương rồi thành kính cắm lên hai nấm mồ xanh của cha mẹ gần sát nhau. Giờ vẫn vẩn mây, gió hiu-hắt … Cả ngày hôm đó như vậy. Kha cúi đầu nhìn là khói hương bốc lên tưởng tượng lại khuôn mặt cha rồi mẹ, chàng tưởng tượng lại ngày mẹ chết cô độc ở quê, cố suy đoán ý tưởng của mẹ lúc lâm chung. Hai giọt nước mắt ứ trên mi, hơi ứ lê cổ và chàng thở dài gượng nhẹ. Trong khi đó tiếng bà Cả khấn xuýt-xoa:

-Thôi thì chú thím sống khôn chết thiêng, chú thím phù hộ cho anh chị làm ăn gặp vận, che-chở cho con cháu khỏi mọi tai ương.

Chia tay cùng bà cả Bê ngoài mộ mẹ, Kha tiến thẳng vè phía lúy tre cuối làng rồi đi vào con đường đất gồ-ghề những về chân trâu, hai bên lề đường là loại cỏ may xác-xơ, vài chú bướm nhỏ xíu cánh tím phớt bay rất lẹ và đổi hướng luôn luôn, như lũ tre nghèo , khỏe mạnh và hồn nhiên miền quê. Thấp thoáng qua lũy tre, nơi là giếng khơi vắng người, nơi là ao bèo với những khoảng đất loang-lỗ ống ánh màu nước thăm –thẳm.

Ngang qua cổng chùa làng chừng năm mười thước tới dương cơ nhà Kha ở bên tay phải chênh-chếch đối diện với dương cơ nhà Vân bên tay trái. Dừng lại, quay nhìn về phía sau, Kha vừa kịp nhận thấy mấy cánh cò trắng bay nghiêng trên nền xanh mênh-mông và như bất động của cánh đồng lúa thấp –thoáng sau lũy tre già. Ông Hạo chưa đi làm đồng về. Qua cổng bước vào sân, mùi cống rãnh nhà hàng xóm bốc lên thoang-thoảng và thân thuộc không hề làm vẩn đục bầu không khí khoáng đạt và trầm lặng của cả vùng xóm này. Có tiếng võng kĩu-kịt từ một căn nhà tranh khuất sau hàng rào dâm bụt cao vồng bên kia vườn. Kha ngập-ngừng tiến thêm mấy bước nữa rồi đứng sững trước bực gạnh lên thềm nhà. Mặc dầu có chú thím trong nom mà cỏ vẫn mọc đây đó quanh thềm, Kha cảm thấy mình cũng yếu đuối như nhánh cỏ.

Cô Hĩm – nhà trong sâu ngõ xóm – vừa bước vào cổng dáng tơi-tả. Giọng cô sang-sảng kiểu cách trong câu chuyện rất đượm vẻ xã giao thăm hỏi "bác giáo", cô xin lỗi là đã không biết "bác giáo" về ngay từ phút đầu.

Kha vẫn giữ khuôn mặt bình tĩnh và giọng nói điềm đạm trả lời cô câu này, bổ khuyết câu khác hoặc thân ái gạt đi khi cô trở lại chuyện quy lỗi về cô vì đã không biết tới đón. Giọng nói của cô không hề làm xao động cái yên tĩnh của xóm quê, trái lại giọng nói sang-sảng đó như biến thành một dòng âm thanh đơn độc để trang trí cho cái yên lặng đơn giản thơ-ngây của cả vùng.

Ông bà Hạo cũng đã hay tin và hớt-hải tự ngoài đồng về, tuy nhiên câu chuyện hàn huyền giữa Kha với chú thím trầm tĩnh hơn nhiều. Cô Hĩm đa nhanh-nhảu vào bếp đặt nồi nước sôi, bắt gà, cắt tiết, làm lông …

Kha hỏi thăm chồng con cô Hĩm thì được cô cho hay anh có chân trong ban chấp-hành liên-đoàn công-chức sở Thủy-Lâm chủ nhật này anh phải ra sở từ sớm để họp, chắc rồi vui anh vui em ở lại luôn đến chiều mới về. Lại thêm một dịp cô Hĩm tỏ lời ân hận vì " nếu biết bác giáo về chơi thì chằng họp dừng hành, nhà em nhất định phải ở nhà chứ!"

Mâm cơm gia đình hôm đó ăn muộn có đúng bốn người: ông bà Hạo, Kha và cô Hĩm. Ăn cơm xong vừa hai giờ chiều. Kha không sang thăm thi vì bà Hạo cho biết Thi đã ra Hà-Nội từ sớm. Đáng tiếc cho cả hai!

Bốn giờ chiều, nắng hanh vàng mùa thu phơi-phới, Kha không ngớt cảm thấy mình ngợp trong hương quê và tình quê như con cá nhỏ sau một thời gian phiêu lưu bỗng tìm thấy đường trở về vịnh sông quen thuộc. Dẫu sao Kha cũng phải ra Hà-Nội sớm, hai xấp bài học trò chưa chấm còn đợi chàng ngoài đó. Tạm biệt chú thím, ra gần tới bến xe điện, Kha còn ngoái lại một lần nữa nhìn cổng làng với cây si, với lỹ tre, với cánh đồng xanh lúa bao quanh và Kha chợt cảm thấy cơ thể tràn ứ nhựa sống, tàm hồn sáng lộng một niềm tin. Chàng kiêu hãnh vô cùng về tình quê đó, chàng thấy mình đúng là một thân cây có rẽ bắt sâu xuống lòng đất mát rợi và phì nhiêu, mặc sức hút mầu lên nuôi thân vững chắc, nuôi lá xanh rờn, nuôi hoa kết trái.

CHƯƠNG BỐN

ÔNG CHỦ BÁO

I

Thật ra kể từ ngày bỏ "ngoài kia" vào thành một tháng sau, Kha và Hiển đều nhìn thấu thực trạng (cũng như Hãng trước đây). Trong cuộc sống mấy ai chịu dời bỏ hy vọng, nhưng ba chàng đều ngầm cảm thấy hy vọng quả là hết sức mong-manh, họ luôn luôn ở thế xoạy lưng không dám nhìn vào thực trạng tuyệt vọng của xã-hội. - Ngày đó - chưa về làng - Kha cứ phải luôn luôn nghĩ đến cảm tình của chàng với Miên, ôn lại tình yêu cũ của chàng với Vân, rồi ao ước muốn được gặp Thi để xem người con gái yếu đuối về thần kinh ấy ngày nay khác xưa thế nào ... Tất cả những ý nghĩ đó, Kha cố tình làm cho ra vẻ bận rộn để khỏi nhìn xuống vực thẳm mà chàng cùng một số bạn thân đã bị tình thế xô tới đứng chênh-vệnh ngay trên bờ.

Từ sau ngày về làng, chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh trên cảnh vật và nhất là trên những tâm hồn thuần phác của quê hương, tình cảm Kha bỗng chồm lên như con thú dữ bị thương. Với sự lồng-lộn đó, Kha vừa chống đối với hoản cảnh, vừa chống đối với chính minh (chống đối vì cái gì, chính chàng cũng chẳng cần soi-mói cho rõ) những mong tìm được một lối thoát. Nhưng rồi sinh lực và niềm tin thâu nhận được tự quê nhà sớm tản-mát mất hút sau máy ngày trở lại Hà-Nội, chẳng khác một cụm bọt sà-phòng lớn thoạt rơi trên mặt nước rồi lăn tăn... lăn tăn... tụt dần xuống, thu nhỏ lại cho đến khi tan biến hẳn vào khối nước lạnh-lùng, lạnh-lùng như định mệnh. Ôi cuộc đời phơi mặt nơi đây có biết bao điều ghê tởm: những bộ mặt chính khách được treo đèn kết hoa đón rước, nhưng lũ hình nộm được thực dân bôi mặt vẽ hề đó, chúng có xương đâu mà đứng vững, có hồn đâu mà thương dân; những khuôn mặt lọc-lừa của lũ con buôn đô thành, lũ gà què ăn lần cối xay, bốn bề là khói lửa; những hình ảnh lam-lũ của lũ người dời bỏ miền quê xa-xôi, tìm tới ánh sáng kinh thành, bám lấy cuộc sống chênh-vênh, những khuôn mặt gái quê rũ vẻ chân phương sớm thành bệ-rạc vì cam chọn đường bán trôn nuôi miệng.

Không còn dối mình được nữa, nhìn vào đâu Kha cũng chỉ thấy những đổ vỡ, cái gì còn tạm đứng được đều là đứng một các lủng-liểng, cô-độc, mỏng-manh tạm-bợ, giá trị không bằng con chó rơm. Cả guồng máy chính quyền bù nhìn tại thủ đô là hình ảnh một người khuôn mặt thì hủi, tai điếc, mắt thông manh, chân tay hậu đậu, phổi ruỗng nát, tim sưng, mạch máu hết co rân, ruột ung thư ... Ban ngày đi vào sự ồn-ào của thành phố mà là đi vào sa-mạc của tâm hồn. Đêm đến nghe tiếng súng ầm-ì vọng lại tự các miền ngoại ô hạy tự bên kia bờ sông, mỗi tiếng súng bùng lên như một cái gì rứt đi tự trái tim để rồi rội mạnh trở lại tàn phá chính xuất phát điểm đó.

Vừa may lúc Kha, Miên, Hãng gặp Khiết, rồi Khoá, rồi Hãng kết họp lại thành gia đình Văn-Hoá. Cùng giả tắc biến! Cuộc đời máy ai chịu bước đường cùng?

Hôm đó vào buổi chiều thứ bảy, Miên đương sửa-soạn bữa cơm chiều khá thịnh soạn vì Hãng đã nhận lời tới ăn.

"Phải đấy - lời Hãng khi nhận lời - nên có sự hội-họp như vậy, nhìn mặt nhau cho ấm lòng!"

Ba người vừa gặp nhau được một lúc thì có tiếng xe Jeep rồ máy ngoài cổng, máy tắt, tiếng ai gọi lớn:

- Có phải Kha ở đây không, Kha ơi!

Kha reo:

- A Luận!

Cả Kha, Hiển, Hãng cùng ra sân đón Luận vào với một người đứng tuổi, trạc băm sáu, băm bẩy, đeo kính trắng gọng vàng.

Luận giới thiệu ngay để phá tan bầu không khí ngỡ-ngàng:

- Xin giới thiệu với các anh đây là anh Khiết, chủ bút tuần báo VĂN-HOÁ (cười) tờ tuần báo trí thức và ưu thời mẫn thế nhất Hà-Nội ngày nay (với Kha) anh Khiết muốn gặp cậu để nói chuyện.

Khiết nói ngay:

- Thật ra câu chuyện đó cũng là câu chuyện chung, được gặp các anh đông vui thế này tưởng không gì hơn nữa.

Sau mấy phút mọi người tự giới thiệu một loạt, Khiết vào chuyện hướng về Kha, giọng ấm và trong, rõ ra là người không bao giờ có ý trong những giao thiệp bằng hữu:

- Qua lời giới thiệu của Luận về anh rồi được đọc mười bài thơ của anh mà tôi nhất quyết giữ lại, tôi được biết anh - cũng như tất cả chúng ta đây - có mang nhiều thắc-mắc thời đại và là người có ... (Khiết lắc đầu cười) xin lỗi anh, tôi định nói "và là người có tâm huyết" nhưng sợ xúc phạm đến anh bởi mọi danh từ cao đẹp của chúng ta ngày nay đều bị ô uế cả mất rồi, anh cho phép tôi tạm nói là anh không vô tình với thời cuộc. Tôi còn được biết thêm hậu phương anh có phụ trách về văn nghệ, chúng ta nên họp tác anh ạ, hẳn anh cũng đồng ý với tôi là nếu chỉ một mình đơn thương độc mã, chắc-chắn chúng ta không ai có thể làm nên trò-trống gì...

Nước da Khiết trắng, khi chàng nói máu dồn lên mặt làm cho đỏ hồng, đôi mắt chàng lấp-lánh sau cặp kính trắng gọng vàng. Khiết hơi thấp nên chàng luôn luôn dướn người lên cố cho cao ngang tầm mắt Kha như để cho lời nói chí tình của mình dễ đi thẳng vào tâm hồn Kha. Vừa rồi - Khiết tiếp - Luận có giới thiệu tuần báo Văn- Hoá là tờ báo trí thức và ưu thời mẫn thế nhất Hà-Nội ngày nay, mong lắm thay, vì thưa các anh tờ báo đó chỉ mới được giấy phép thôi, có chăng nửa tháng nữa mới ra chào đời.

- Ủa báo của anh chưa ra? - Kha ngạc nhiên hỏi.

- Vâng chính thế. Tôi vào nghề luật sư tập sự được hơn một năm nay, nghề đó chỉ để nuôi sống, tôi còn phải hoạt động nữa chứ và ... và lần này tôi đã nghĩ chín, nhát định hoạt động văn hoá. Nhân dịp tôi vừa lên cãi một vụ ở Vĩnh-Yên, gặp Luận, chú em họ, Luận khoe với tôi mười hai bài thơ của anh, đọc xong tôi có ý kiến liền, nếu anh ưng chúng ta sẽ "đào viên kết nghĩa" vào dịp này.

Kha giơ tay làm một cử chỉ gồm cả Hãng, Hiển và chàng rồi đáp lời Khiết cũng bằng giọng chân tình:

- Thưa anh, chúng tôi phải lấy làm xấu hổ mà thú thực với anh rằng kể từ ngày chúng tôi ở "ngoài kia" vào đâỵ, chúng tôi chưa có can đảm nhìn thẳng vào thực tại. Nhưng xét cho cùng, dù muốn hay không rồi thực tại nó cũng chọc vào mắt mình cho kỳ mình phải tỏ thái độ. Cũng xin thú thực, ở "ngoài kia" tôi có đôi lần phụ trách văn nghệ, nhưng, xin anh lưu ý, có chỉ là những nội san xoàng thôi. Ngày nay được anh mời cộng tác tôi tự thấy lúng-túng, lúng-túng thật chứ không phải nói khách sáo, trước sự thành-thực giản-dị của anh, tôi sẽ không xứng đáng với anh chút nào nếu tôi khách sáo, lúng-túng vì cảm thấy minh đương bơi giữa sự đau khổ rộng lớn như đại dương của dân tộc, biết viết gì bây giờ, thưa anh? Bất lực! Bất lực! Chép nguyên sự thực thì phải một pho sách hàng vạn trang, nhưng nghệ thuật đâu phải là chep nguyên sự thực?

Miên đã khuân máy chiếc ghế của nhà ra sân. Hiển muợn thêm mấy chiếc nữa bên nhà ông Cai, mọi người đã ngồi xuống, trừ Kha và Khiết còn tiếp tục câu chuyện.

Khiết gật đầu:

- Tôi rất đồng ý với anh ở điểm "biết nói gì về nỗi đau khổ rộng lớn như đại dương của dân tộc bây giờ", tôi chỉ biết là từ sau khi gặp Luận để gián tiếp biết về anh, không hiểu tại sao tôi muốn đặt một lòng tin vô bờ vào anh, không phải là tin ở tài năng văn nghệ - con đường nghệ thuật vô cùng biết thế nào mà đặt mốc tài năng, thưa anh - nhưng là tin ở sự thanh khiết tâm hồn thể hiện qua lời thơ của anh. Thời buổi này sau khi đã kinh qua bao hiện thân của lọc-lừa phản trắc, mỗi khi tìm được thấy người để tin, quý hoá lắm anh ạ.

Kha mỉm cười, nụ cười hơi héo-hắt, chàng thoạt không biết nói gì để đáp lời Khiết. Từ chối lời khen ư? E rằng khách sáo. Yên lặng nhận lời khen ư? Kể cũng không sao, nhưng kể cũng đáng buồn cho tình trạng đầy lọc lừa phản-bội của đất nước.

May sao Miên vừa bưng nước ra, Kha mời Khiết ngồi xuống, mọi người cùng khoan thai nhắp chén trà, bắt đầu vào câu chuyện chung. Hiển nói:

- Chúng ta ngồi nói chuyện ở sân thế này cho mát, hôm nay tiện thể giữ anh Luận và anh Khiết ở lại cùng ăn cơm với chúng tôi, chả chiều thứ bảy cô em tôi có làm được mấy món đặc biệt. Cũng là bữa tiệc nhỏ để chào mừng tuần báo Văn-Hoá sắp ra đời.

Khiết cười ha hả nói: "Được lắm! được lắm!" cùng lẫn với lời Luận "D"accord! D"accord!"

Và Luận thở phào:

- Thế là tôi làm tròn phận sự của một tên ... chỉ điểm văn nghệ!

Mọi người cùng cất tiếng cười vui-vẻ.

II

Khi mọi người đã vào cả trong nhà ngồi quây quần quanh bàn ăn, Khiết nói:

- Tôi đã thất bại trên con đường chính trị các anh ạ, vì hoàn cảnh cũng có, vì không hoàn toàn hợp với sở nguyện cũng có.

- Anh nói không hoàn toàn hợp với sở nguyện là sao? - Hiển hỏi.

Tôi muốn nói mình luôn luôn có khuynh hướng dùng vương đạo, mà gặp toàn bá đạo.

Cẩu đạo thì đúng hơn - Luận nói và mọi người cười ồ.

Khiết tiếp:

- Nhưng đã chót vào con đường chính-trị biết những ngộ ngách của nó, âu cũng thành nghiệp chướng của mình, khó bỏ lắm các anh ạ, nhất là khi minh muốn truyền bá vương đạo chống bá đạo. Tôi với cô nàng Chính-Trị bây giờ như anh chồng trẻ lấy cô gái già hơn minh nhưng có sức mê hoặc, cô ta nắm vững nghệ thuật chiều chồng lại biết hờn giỗi đúng mức nữa khiến mình đành chịu bỏ tay trong cái vẻ đắm say của mê hồn trận đó.

Kha cười:

- Nghe anh nói tôi cũng mê chính-trị luôn.

Sau khi đã thất bại - Khiết tiếp - trở về đây vào nghề luật sư tập sự, đêm nằm vắt tay lên trán suy nghĩ... suy nghĩ lung lắm hơn một năm giời, tôi thấy rằng mình còn một con đường để dung hoà với chính mình, đó là con đường văn hóa, chỉ có con đường này giúp ta vươn lên cao hơn mọi khuynh hướng chính trị làm một cuộc tổng hợp, chỉ có con đường này giúp ta vươn tới trước mà thỏa sức vùng-vẫy bơi lội trong lý tưởng của mình. Chọn cái thế giới thuần tinh thần này thoạt tôi tự hỏi có phải mình đã đào ngũ với chính mình. Không, tôi không hề phụ cái "nghiệp dĩ" của tôi, trái lại trong khi thấy rằng vương đạo còn thiếu thiên thời, địa lợi, nhân hoà thì vào lĩnh vực văn hoá tôi vẫn đợi thời mà là hoạt động, nói một cách khác, đợi thời một cách tích cực, đợi thời mà tạo thời.

Hãng gật đầu:

- Anh nói đúng!

Thức ăn đã được Miên mang lên dần, bày đủ, mọi người giúp nhau cho đá vào ly, mở biạ, rót bia, nâng ly, đụng ly chúc tụng... Phút ồn-ào đầu bữa ăn đã ngơn- ngớt, Khiết lại dẫn đầu câu chuyện, suốt bữa ăn:

- Thực ra, thưa các anh, đây không phải là lần đầu tiên tôi làm báo, khoảng 1936 tôi đã là chủ nhiệm tờ báo Pháp ngữ: LA VOIX DES JEUNES. Dạo đó tôi vừa học xong Luật, nhưng không học thi tri huyện, mà ra dạy học, mặc dầu bị thầy tôi chửi thậm tệ - (Khiết là con một ông tuần phủ). Tôi dạy ở trường tư thục lớn kia, giáo sư gồm toàn những "cây" cách mạng sau này. Tôi còn nhớ giá giờ ngày đó: 1e année chín hào, 2e année một đồng mốt, 3e année một đồng ba, 4e année một đồng rưỡi. Tôi có mấy anh bạn đồng chí trước cùng ở Học-Sinh-Đoàn trong Việt-Nam Quốc-Dân Đảng, rồi vào năm 1931 lại cùng tham gia Mặt Trận Phản Đế mà cáp lãnh đạo tối cao là một số chính khách ngày nay còn sống như U-Nu của Miến-Điện, Soekarno của Nam-Dương... Chúng tôi hùn tiền lương dạy học lại, làm báo. Báo Pháp ngữ ngày đó không phải kiểm duyệt, không phải xin phép, chỉ cần báo trước hai mươi bốn tiếng đồng hồ và khi in xong thì nạp bản: hai tờ ở Biện-Lý-Cuộc, hai tờ ở toà Đốc-Lý...

Kha hỏi:

- Sao thực dân Pháp đặc ân cho báo Pháp ngữ hậu-hĩ thế anh?

- Bởi vì tụi chúng biết báo Pháp ngữ chì bọn trí thức đọc, mà bọn này thì đã được thực dân cho hưởng nhiều đặc quyền rồi, tinh thần cách mạng còn mấy? Tờ LA VOIX DES JEUNES (bốn trương) in mỗi tuần ba ngàn tờ hết bốn mươi đồng. Theo dõi hai số đậu, mật thám Pháp biết bọn tôi nhật định chống đối chúng, chúng lại biết chúng tôi rất nghèo nên làm ngơ cho ra đến số 3 rồi dự định tịch thu vào số 4, tịch thu vào lúc đó mới thật ác vì chúng tôi sẽ bị các đại lý thực hiện câu "dậu đổ bìm leo" mà quỵt hết tiền. Tin đó tôi được người bạn làm trong toà Thống-Sứ báo ngầm cho biết trước. Thường thì LA VOIX DES JEUNES phát hành vào chiều thứ hai, kỳ đó chúng tôi làm việc suốt buổi chiều thứ bảy, bài viết chửi thực dân thật kịch liệt, máy in chạy suốt đêm, sáng chủ nhật xong, chúng tôi gói cả báo cũ còn lại với báo mới gửi bằng xe hàng đến đại lý các tinh. Sáng thứ hai, mười tên mật thám - mười ta, hai Tây - ạp lại toà báo với hai chiếc cam-nhông.

Khiết cất tiếng cười, đôi mắt chàng long-lanh sau cặp kính trắng gọng vàng, cả khuôn mặt ngời sáng một vẻ ranh-mãnh đáng yêu. Chàng thuật tiếp:

- Tên mật thám Tây chào tôi rất lễ phép, thứ lễ phép của mèo tin rằng đã cầm lỏng chuột trong tay, rồi xuất trình giấy cho phép tịch thu báo: "Thưa ông chúng tôi được lệnh đến tịch thu báo của ông". Tôi cũng cười rất xã giao và rát lễ phép đáp: "Thưa ông, tiếc là ông đến hơi muộn, chúng tôi đã cho phát hành". Qua đi một giây chưng-hửng, tên đó giữa lại được sắc diện điềm nhiên ngay: "Nếu vậy xin ông cho chúng tôi tịch thu số còn lại." Tôi chỉ lên bàn giấy: "Thưa ông còn lại đúng hai tờ đây, xin ông cho tôi giữ lại một tờ làm kỷ niệm!"

"Chúng tôi được lệnh tịch thu tất cả những báo cũ."

"Thưa ông báo cũ chúng tôi cũng gửi đi cho hết rồi!"

Khiết lạị cất tiếng cười đắc ý như muốn ngừng ờ đáy, Luận ra chiều nóng ruột " Rồi sau ra sao anh?

Chúng nó đành phải lên xe chứ sao. Đúng lúc xe chuyển bánh, tên mật thám Tây còn giơ tay chào tôi một lần cuối-cùng với lời nói:

- Bien joue! A la prochaine... (Chơi vố giỏi đấy, hẹn lần sau...)

Về sở chúng gọi giây nói ra ngay nhà bưu điện bảo ngừng gửi tất cả những kiện báo LA VOIX DES JEUNES, nhưng đã biết trước vậy chúng tôi đâu có dại gửi bằng đường bưu chính, chúng tôi gửi theo xe hàng kia.

Nụ cười dí-dỏm còn đọng sáng vành môi dưới, nhưng Khiết khẽ chớp mắt và lắc đầu ngao-ngán:

Về tinh thần thì thắng nhưng về vật chất thì mình vẫn thua, thua to. Đúng như họ đã dự tính trước, đợi đến số bốn mới ra nghị định tịch thu, các đại lý báo "dậu đổ bìm leo... lở đào cao đắp" tức khắc, không một đại lý nào chịu thanh toán sòng phẳng, tụi mấy thằng chúng tôi nhẵn túi lương dạy học!

Hãng rót thêm bia cho Khiết, nói:

- Đó là bước đầu văn-hoá thất bại của anh!

- Ấy kế tiếp bước đầu văn-hoá thất bại đến bước đầu chính trị nữa chứ.

- Cũng thất bại? - Hiển cười hỏi.

- Cũng thất bại! - Khiết cười đáp.

Nhấp xong một ngụm bia, Khiết tiếp:

- Sau khi đã thất bại về "báo bổ" cuối năm đó chúng tôi đi sát với các anh em thợ xẻ ở phố Bắc- Ninh, xui được các anh đình công chống chủ Pháp bóc lột, nhưng nào tụi tôi đã có kinh nghiệm gì, chĩ chú trọng vào việc đình công mà quên khuấy việc lập quỹ cứu cấp để giữ vững tinh thần anh em trong một thời gian tối thiểu. Đình công được ba hôm, thợ xin đi làm lại...

Miên hỏi khẽ:

- Chắc các anh phải đến chia buồn cùng họ?

Khiết trợn mắt một cách khôi hài:

- Chết, cô lại xui dại chúng tôi đến chia buồn cùng họ ư? Chúng tôi trốn chí chết, đến hàng năm sau không dám gặp họ. Gặp là họ đánh ạ! họ cho là mình lừa họ, là mình xui... "trẻ con ăn cứt gà" mặc dầu trong số thợ xẻ có người xấp-xỉ tuổi ông cụ thân sinh tôi.

Mọi người lại một dịp cười vang...

Kha hỏi:

- Hết "báo bổ" đến chính trị, hết chính trị đến gì hở anh?

- Ấy hết chính trị đến quân sự!

Thấy mọi người không kìm được loạt cười ồ, Khiết sắp gắp thức ăn lên miệng bèn ngừng lại giơ cao đầu đũa làm hiệu gõ gõ vào không khí rồi nói bằng giọng nghiệm trăng:

- Dạ dạ, quân sự thật ạ, không phải chuyện bỡn! số là vào những năm 1942- 43 tổ chức thanh niên hương thôn được quân Nhật cho hoạt động công khai, tôi bèn nảy sáng kiến nương vào thời cơ đó tổ chức đoàn Thanh-Niên Hưng-Quốc, một mặt tuyên truyền chống việc Nhật-Pháp thu thóc, chống việc Nhật bắt dân quê nhổ mạ để trồng bông và trồng đay, mặt khác bí mật mua súng ống chống lại cả Nhật lẫn Pháp. Xin nhớ là những hoạt động đó hoàn toàn do sáng kiến của tôi chứ không ăn nhằm gì với đoàn thể Việt-Minh cả. Thanh-Niên Hưng-Quốc Đoàn sau này hỗn hợp làm một với Quốc-Gia Thanh-Niên Đoàn, một tổ chức ngoại vi của Quốc-Dân Đảng.

Tiệc tàn. Miên đã chuyển dần bát đĩa xuống bếp và mang đồ nước lên. Khuôn mặt Khiết bỗng đượm buồn, lời Khiết cũng bắt đầu trở thành nghiêm trọng, giọng chàng thủ thỉ chỉ vừa đủ nghe khiến Hãng ngồi ở đầu bàn nhiều khi phải hơi nghiêng tai lắng nghe mới theo rõi được câu chuyện:

Đại tướng G. ngoài kia chính là bạn học với tôi. Hắn thông minh xuất-sắc và được tên Chánh Mật-Thám Pháp M. nhận làm con nuôi, âu cũng là kế mua chuộc cùa thực dân để đầu độc nhân tài của ta. Nhà G. đầy hai tủ sách Mát-xít... Các anh nên nhớ ngày đó mật thám Pháp bắt được ai toa trữ sách Mác-xít, người đó có thể bị từ sáu tháng đến ba năm tù, ấy là chưa kể thời gian điêu-đứng bị chúng thảm vấn. Nhưng G. đây là con nuôi M. câu chuyện tất nhiên khác hẳn.

Khiết khẽ lắc đầu ngừng câu chuyện lại đến một phút rồi mới tiếp:

- Lịch sử tám mươi năm thực dân Pháp cai trị mình, chúng luôn luôn bị những vố "lộng giả thành chân", o bế trí thức để giới này cam phận tay sai, thì về sau chính giới trí thức lãnh đạo cách mạng, tham gia cách mạng làm gương cho quần chúng ; nghị định số 82 ngày 6-4-1878 của Thống Đố Nam-Kỳ Laíont bắt các nhân viên thừa hành phải đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ để dễ bề sai bảo thì sau này chữ quốc ngữ lại biến thành một lợi khí văn-hoá nhiệm mầu cho người mình chống ngoại xâm, xây quốc học. Đến như M. o-bế G. để rồi G. thành mác-xít thật, âu cũng ià một vố "lộng giả thành chân" nhỏ. Thành thử khôn ngoan đến như thực dân mà rồi cũng chẳng cái dại nào giống cái dại nào.

Hiển đặt sâu cái nhìn bỡ-ngỡ lên khuôn mặt đượm buồn của Khiết, hỏi:

- Anh là bạn thân với G.?

Khiết lắc đầu:

- Thân thì không hẳn là thân lắm, mà cũng không đến nỗi sơ. Biết là G. có trong tổ chức mát-xít nhưng thoạt tôi cũng không ác cảm gì với hắn cho lắm. Vào lúc bầu không khí cách mạng đang xục-xôi nhất - sau ngày 19-8 - người Pháp ờ Hà-Nội phải tổ chức thành nhóm để tự bảo vệ cho nhau, họ có bảo bà M. nên dời nhà riêng ở phố Hàng Đay đến ở với họ, bà từ chối vì bà bảo: "G. là con nuôi tôi, nó phải bảo vệ tôi chứ". Bà bị giết ngay hôm sau. Ở đây tôi hãy bỏ cái điểm bà M. là người Pháp, bà M. là vợ tên chánh Mật Thám thực dân, chồng bà ấy làm mật thám sao lại bắt bà ấy chịu trách nhiệm, tôi chỉ đứng trên quan điểm nhân loại mà phán xét. Hỏi rằng người dân quê Việt-Nam nào mà không biết căm thù thực dân Pháp, nhưng đến sau ngày 9-3-45 Pháp bị Nhật hất cẳng, nhiều toán lính Pháp lẩn trốn vào rừng trung du mấy ngày đói khát, buổi sáng kia có tên ra đón đường làm hiệu xin cơm một người đàn bà Việt đương gồng-gánh tới chợ. Từ tâm xúc động, bà không nhìn y là kẻ thù, mà chì biết trước mắt bà lúc đó là một người thất thế đói khát rách rưới, bà ân cần trao cho y nắm cơm, rơm rớm nước mắt. Người Việt minh biết căm hờn nhưng lại biết tha thứ, đáng quý ở chỗ đó. Để cho đàn em giết một người đàn bà mà mình đã nhận làm mẹ nuôi và nhất là vì người ta quá tin mình trên phương diện tinh cảm mà không đề phòng, tôi thấy kém nhân nghĩa. Nhưng thôi, hãy cho việc đó G. không biết, hoặc biết mà không kịp ngăn, điều này mới khiến tôi quyết định xa hẳn G. Sau cách mạng tháng tám tôi đương làm chủ-tịch tỉnh Kiến-An thì đựơc G. mời về giữ chức chánh văn phòng bộ Nộị-Vụ, bộ hắn phụ trách. Giời ơi, tôi về có mấy ngày mà đơn khiếu nại từ các nơi gửi về hết chồng này đến chồng khác, rồi những người khăn sô áo ngang kéo tới đầy Bắc-Bộ-Phủ, con khóc cha, vợ khóc chồng, anh khóc em, đòi đền mạng. Thê thảm vô cùng! Tôi trợn tròn mắt đòi G. cấp tốc giải quyét ổn thỏa, cấp tốc trừng trị những tên làm láo ỷ thế giết người để trả tư thù, cấp tốc ra chỉ thị cho cấp dưới phải thận trong việc lên án tử hình... G. nói: "Nước Nga trước đây hy sinh tám triệu cho cách mạng thành công thì mình cũng có thể hy sinh nửa triệu chứ sao?" Hắn nói đến thế thì thật hết rồi! Dân số mình ít-ỏi, một người ngã là máu chảy ruột mềm, gương ông cha xưa hết sức tiết-kiệm máu suốt dòng lịch sử chống Tàu là thế, mà nay hắn cầm bằng hy sinh nửa triệu, các anh hãy tưởng tượng con cháu nửa triệu đồng bào sáu số đó khăn xô áo ngang...

(Sau này khi hay tin tại Điện Biên Phủ G. áp dụng chiến thuật biển người của Tàu, Khiết đã thật không láy làm lạ)

Khiết tiếp:

- Tôi từ chức chánh văn phòng, nói với hắn: "anh quan niệm như vậy tôi không thể hợp tác với anh được!" Chính phủ Liên Hiệp thành lập xong, cử một phái đoàn thiện chí sang Trùng Khánh yết kiến Tưởng-Giới-Thạch, chúng tôi dùng áp lực bắt Việt-Minh phải để cho ông Bảo-Đại cùng đi nói là để thêm uy tín và càng sáng tỏ thiện chí, kỳ thực để sẽ tôn ông lên làm "minh chủ" làm bình phong cho một mặt trận quốc gia thống nhát sau này, như thế tiện bề ngoại giao với liệt cường bên thế giới tự do. Đại biểu các đoàn thể quốc gia sẽ tuỳ theo phương tiện mà từ các ngả đổ về tạp trung tại Nam-Kinh.

Một số lớn đại biểu Quốc-Dân-Đảng theo quân đội rút lui từ Yên-Báy tới Lao-Kay để rồi tới Nam-Kinh bằng con đường ngang qua Côn-Minh.

Một đại biểu tham chính thì dùng đường hàng không từ Hà-Nội qua Côn-Minh, qua Trùng Khánh, sẽ gặp ông Bảo Đại ở đây, cố thuyết phục ông tới Nam-Kinh phó hội.

Một toán đại biểu khác đi đường Móng-Cáy, qua Đông-Hưng, rồi tới Nam-Kinh bằng con đường ngang qua Ngô-Châu.

Một toán đại biểu khác nữa đi đường Lạng-Sơn qua Liễu-Chau để tới Nam-Kinh.

Còn toán do tội cầm đầu thì dời Hải-Phòng bằng đường thuỷ, qua Hương-Cảng, tới Thượng-Hải, rồi từ Thượng-Hải chúng tôi tới Nam-Kinh bằng xe hoả.

Khiết mím môi gật-gù nhưng chưa nói tiếp, Hãng hỏi:

- Các anh gặp ông Bảo-Đại ờ Nam-Kinh?

Khiết lắc đầu:

- Không, ông không đến.

- Sao thế? - Hiển hỏi:

- Vì Uỷ-Ban Giải-Phóng của ông thành lập với cụ Trần-Trọng-Kim không được thống chế Trưởng-Giới-Thạch và tướng Marshall ủng hộ.

- Vì sao thế anh? - vẫn lời Hiển.

- Dạo đó Mỹ còn ngây thơ lắm, tin ông Hồ là người có tinh thần quốc gia. Biết cơ sự như vậy, ông Bảo-Đại dời Trùng-Khánh về Hương-Cảng, nơi đây hình như ông nhờ Anh trung gian cho tiếp xúc với Pháp, không phải ông muốn đầu hàng Pháp mà là muốn tìm một giải pháp dung hoà nào đó.

Còn các anh ở lại Nam-Kinh?

- Chúng tôi tiếp tục chờ đại biểu các đoàn thể kháng chiến quốc gia từ miền Nam tới để chuẩn bị thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống-Nhất Toàn Quốc. Trong thời gian đó, một lần chúng tôi thành lập một phái đoàn nhỏ, đệ cử một vị lão thành cách mạng làm trưởng đoàn, cùng đến Trùng-Khánh xin yết kiến thống chế Tưởng- Giới-Thạch để tỏ bày lập trường cùng mọi lẽ thiệt hơn, mong được sự ủng hộ tích cực hơn của Quốc-Dân Đảng Tàu. Tới gặp được thống chế Tưởng-Giới-Thạch thì vị lão thành của chúng ta - người rất đạo đức nhưng quá thật-thà và còn cổ quá - khề khà nói: "ít khi được dịp gặp Tưởng Tổng-Tài, nay được hân hạnh đó xin có một bài thơ tặng Tưởng Tổng-Tài".

Thống chế Tưởng-Giới-Thạch tuy ngạc nhiên nhưng cũng cười xã giao đợi nghe. Rồi đọc thơ, rồi vài lời giải thích thêm ý nghĩa. Thời gian tiếp khách đã được án định trước, đến giờ viên Sứ-Trưởng - tựa như trưởng ban nghi lễ của ta - ra thựa nhỏ với Tưởng Thống Chế là phái đọân Tây-Tạng hiện đương đợi được yết kiến. Thế là việc chính chưa bàn được máy, coi như viên gạch nhỏ ném mất hút xuống sông sâu.

Mọi người vẫn yên lặng theo rõi câu chuyện Khiết thuật với một nhịp điệu trầm buồn. Tiếng Kha:

Rõ hoài!

Khiết cải chính:

- Chẳng hoài đâu, ờ Nam-Kinh một thời gian tôi đã có dịp quan sát, nghe- ngóng và thấy rằng Quốc-Dân Đảng Tàu đã hủ hoá quá rồi. Một anh tỉnh trưởng mới lên - tỉnh bên họ lo bằng cả nước mình - thôi thì mang cả họ hàng làng nước đặt vào guồng máy chính quyền, ấn hành tiền tệ mới, thu vét vàng về... cứ như thế, tại mỗi miền mỗi lần thay đổi người cầm đầu, là toàn thể cánh cũ lật nhào, quan tân chế độ tân mà! Nhưng thôi việc mình mình cứ làm, chúng tôi vẫn chuẩn bị thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thổng-Nhất Toàn Quốc Toàn Quốc. Trong khi chờ đợi tôi viết báo, viết cho Courrier de Shanghai và North Chiana Morning Post ( Hoa-Bắc Chiêu Báo). Tôi vừa làm cái thoi liên-lạc với các anh em giữa Nam-Kinh với Thượng-Hải vừa làm quản lý cho cả hai nơi, vì vậy tôi cũng biết kinh doanh tí ti. Nam-Kinh có món hàm- ạp, vịt muối để hấp với sôi, ngon nhất thế giới; mỗi khi từ Nam-Kinh đi Thượng-Hải tôi mang theo vài tá hàm-ạp, cứ bán hết mười hai con như vậy thì được lãi hai con ; ở Thượng-Hải về Nam-Kinh tôi mang theo gấm Thượng-Hải dạ Thượng-Hải...

Giọng Miên phát biểu vui hẳn, như một luồng gió muốn thổi quang bầu trời u-ám: "Anh kinh doanh giỏi thế thì nền tài chính cách mạng rồi-rào quá rồi anh nhỉ?"

- Không đâu cô ơi, bởi tôi phải nuôi một số anh em khá đông nên nhiều khi còn ít tiền quá, anh em bèn kéo nhau đến "nhậm-xà" tại Tân-An Mỹ-Quán trước Bộ Ngoại Giao đường Tôn-Trung-Sơn làm ra vẻ phong lưu tài tử một lũ, kỳ thực đến gọi thật nhiều lạc rang, ăn thứ đó chả chóng đầy, rồi về nhà mỗi anh làm thêm một bát cơm với món gắp duy nhất, món dưa góp ca-la-thầu măn-mặn nữa là... bế mạc!

Khiết cười, đứng dậy nói:

- Thôi chúng ta cũng nên tạm bế mạc cuộc họp mặt ở đây, chứ cứ nói chuyện mãi về cuộc đời hoạt động hải ngoại của tôi thì... chán lắm!

Hãng cũng đứng dậy nói:

- Bây giờ còn sớm (chàng nhìn đồng hồ) mới tám giờ rưỡi, chúng ta hãy mỗi người kéo một ghế ra sân ngồi cho mát, nói chuyện thêm một lúc nữa.

- Vâng thì ra! - Khiết đáp và mỗi người lôi xành-xạch một ghế ra sân.

Hiển vươn vai sung-sướng:

- Chà mát thật, thoáng thật.

Kha hỏi Khiết:

- Con đường Nam-Kinh Thương-Hải dài bao nhiêu cây số hở anh?

- Chừng hơn ba trăm cây gì đó. Từ Nam-Kinh đi Thượng-Hải tuần tự qua máy thị trán chính này: qua Tô Châu, gái Tô-châu đẹp có tiếng đấy, đôi má cứ tự nhiên hồng lên, khí hậu nơi đây thế, qua Trần-Giang, qua Vô-Tích rồi đến Thượng- Hải trong ra cửa bể Ngô Tùng.

- Có đúng địa danh Vô-Tích trọng truyện Kiều của cụ Nguyễn-Du: Hoạn Thư sai Khuyển, Ưng đến Lâm-Chuy bắt Kiều về Vô-Tích?

- Chính thị!

Kha gật gù vẻ mơ-màng:

- Thích nhỉ, anh đi qua những nơi mang những tên gợi cảm lạ.

- Chà có tâm hồn thi sĩ thì chẳng phải đi đâu xa, cứ ờ ngay Nam-Kinh anh cũng ngắm được nhiều cảnh, nghe được nhiều tên gợi cảm.

Thế là tưởng ra sân để thay đổi câu chuyện, rồi cũng trở lại chuyện Nam-Kinh, nhưng lần này Khiết đã khéo chuyển hướng câu chuyện, chứng tỏ "nhà chính khách có khuynh hướng vương đạo" này cũng có tâm hồn nghệ sĩ lắm (có thể mới vương đạo được chứ). Khiết nói:

- tháy Nam-Kinh còn vượng địa e đế vương còn có thể xuất hiện nơi đây, bèn sai lấy vàng yểm cho hết vượng khí, vì vậy có tên Kim-Lăng. Phía Bắc Nam-Kinh có cái đồi gọi là Kê-Minh-Sơn trên Kê-Minh-Sơn có một ngôi chùa nhỏ gọi là Kê-Minh-Tự. Tương truyền Vũ-Đế cất quân đi dẹp giặc đến đây hạ lệnh cho quân nghỉ, định đến sáng hôm sau mới bắt đầu tiến đánh. Vào canh hai Vũ-Đế sực dậy nghe có tiếng gà gáy ngỡ sắp sáng bèn hạ lệnh cho quân sĩ dậy. Giặc ập tới cướp trại, Vũ-Đế không bị đánh bất ngờ, trái lại còn nắm đựợc thế chủ động để tận diệt địch. Sau đó Tề-Vũ-Đế nằm mộng thấy một ông già chống gậy tới cho hay ông là thần núi đã làm cho gà gáy để nhà vua hạ lệnh quân sĩ chuẩn bị kịp thời. Do đó Tề-Vũ-Đế đặt tên núi này là Kê-Minh-Sơn và cho xây Kê-Minh-Tự để tạ ơn thần. Dưới chân Kê-Minh-Tự có một cái giếng cạn gọi là Yên-Chi-tỉnh, sát miệng giếng là một phiến đá lớn rất nhẵn, lấm tấm đỏ màu máu. Lại tương truyền rằng Trần-Hậu- Chủ đời Lục-Triều vì mê yến ẩm với nàng Trương-Quí-Phi, mê khúc Ngọc-Thụ Hậu- Đình-Hoa, mà rồi cơ nghiệp nhậ Trần tan vỡ. Vào lúc tình thế đã nguy khốn quá rồi, quần thần cương quyết đòi giết nàng Trương khiến nàng phải lẩn xuống Yên-Chí- Tỉnh trốn, quân sĩ tìm được, lôi lên chặt đầu trên phiến đá...

Kha nói:

- Ờ cũng tương tự chuyện Đường-Minh-Hoàng với Dương-Quý-Phi.

Khiết gật đầu:

- Vâng, đại khái vậy. Anh xem tôi cũng chịu khó nhớ sử tích Nam-Kinh đấy chứ, tôi ở đấy hơn một năm còn gì! Người ta còn nói Trần-Hậu-Chủ đã cho xây trên núi này khá nhiều cung điện mà di tích ngày nay chỉ còn lại cái nền Bắc-Cực-Các, đứng ở đây trông tháy toàn thể Nam-Kinh. Phía Nam Nam-Kinh xưa có Minh-Cố- Cung rộng mênh-mông, nơi chứa ba ngàn cung nữ nhưng nơi này cũng bị tàn phá hệt vào hồi có loạn Thái-Bình Thiên-Quốc (1850-64). Di tích xưa, nay chỉ còn chiếc cầu gọi là Ngũ Long Kiều. Trên đồi phía Tây Nam-Kinh có Mạc-Sầu-Hồ - Hồ không bao giờ buồn - tương truyền có từ đời Nam Tề. Ngoại thành cũng về phía Tây còn có Huyền-Vũ-Hồ, đặt tên vậy vì tương truyền đời Tống người ta có thấy một con rồng đen xuất hiện ở đây. Huyền-Vũ-Hồ đặc biệt có một thứ sen hoa tím và vàng rất lớn, trong hồ có năm hòn đảo nhỏ gọi là Ngũ Châu. Sau cùng về phía Tây-Bắc, ngay trong thành Nam-Kinh, còn một sử tích đáng nhớ nữa là núi Dã-Thành nơi xưa Ngô- Vương đúc kiếm báu. Chữ "dã" đây nghĩa là đúc. Lẽ cố nhiên đó cũng chỉ là một cái đồi thôi.

Khiết ngả người lên thành ghế, ngửa cổ nhìn trời, dáng hơi mơ-mộng tiếp:

- Nhưng mang nặng màu sắc văn nghệ ở đát Tràng-An này phải kể đến một phụ lưu nhỏ của sông Dương-Tử chảy qua nơi đây, sông Tần-Hoài. Trên bò' sông có Phu-Tử Miếu, nhưng điều khôi hài là quây xung quanh ngôi đền thờ đức vạn thế sự biểu, nhan-nhản những trà lâu với các ca nữ chào đón khách tìm hoa.

Người Việt chúng ta nhiều người thuộc hai câu thơ của Đỗ-Mục:

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu-Đình-Hoa.

Trích ở bài "Bạc Tần-Hoài" - đậu thuyền ở bến Tần-Hoài - chính là con sông Tần-Hoài này phát nạuyên từ tình Giang-Tô, chảy ngang qua Nam-Kinh, rồi theo hướng Tây-Bắc mà đo vào Dương-Tử-Giang.

Khiết bật cười vùng đứng dậy, giọng dứt khoát:

- Nhưng thôi, tôi lại nói chuyện sông Tần-Hoài nữa thì hết đêm mát, chúng ta còn gặp nhau nhiều mà. Tôi định nửa tháng nữa tờ Văn-Hoá ra số đầu, rồi cứ hằng tuần hoặc tối thiểu hai tuần một lần, gia đình Văn-Hoá chúng ta đây họp nhau lại góp ý kiến về tờ báo hoặc đặt bất cứ vấn đề thắc mắc nào của người nào, như vậy vừa thân ái mà vừa tự do, tránh mọi gò bó máy-móc nó làm việc họp thành một cực hình. Các anh nên nhớ là tất cả các anh đây và cô... cô gì nữa, đều thuộc gia đinh Văn- Hoá.

Khiết hướng về Miên lúc đó vừa rửa bát đĩa xong cũng tiến ra sân để sửa-soạn tiễn khách:

- Cám ơn cô đã cho ăn nem, ăn bún chả trong bữa tiệc "đoàn viên kết nghĩa" này!

Miên đã lây bầu không khí cởi mở của đám đàn ông, nàng vui-vẻ đáp:

- Nhưng thưa anh đào viên đã chẳng có cây đào nào, lại những sáu người kết nghĩa, vừa đúng gấp đôi số người xưa.

Khiết cười đáp:

- "Lực lượng đào viên" phải kể thêm ông anh vợ tôi là Khoá, và một đồng chí đã chia bùi sẻ ngọt với chúng tôi nhiều ở Nam-Kinh, anh Hãng, người từng đêm đêm phải đi thổi saxophone tại các bar ở Nam-Kinh để kiếm thêm tiền nuôi anh em, rồi đây tôi sẽ có dịp giới thiệu họ với các anh.

Mọi người đủng-đỉnh tiễn Khiết, Hãng, Luận ra cổng, Kha nói:

- Kể cuộc đời làm cách mạng của các anh ở hải ngoại vui đấy chứ.

Khiết cười ngửa cổ:

- Nghe anh nói "làm cách mạng" mà tôi xấu hổ. Mình biết phận mình tài đức mỏng-manh chỉ mong gặp "minh chủ" để đem hết tài khuyển mã ra phò, ra đến ngoài nhìn các cáp lãnh đạo thì...

Khiết hạ giọng:

- Chỗ này giữa anh em nhà mới dám nói, nhìn các cấp lãnh đạo, người có đạo đức thì thiếu khả năng và cổ quá, người có chút kiến thức thời thế thì tham quyền cố vị, tranh giành nhau, nghi kỵ nhau, giá như tôi được chứng kiến năm "đấng" lãnh tụ thực tình đoàn kết tranh đấu lấy quyền lợi tối cao của quốc gia làm trọng, thì tôi đã không nản. Cho nên ngày đó "Vẹm" nó thắng mình là phải, nó có tổ chức, có huân luyện, cô cán bộ, mình thiếu nhiều quá.

Mọi người đã ra đến cổng. Thấp-thoáng sau rặng cây trước nhà băng Đông- Dương là ánh đèn rực-rỡ của Bắc-Bộ-Phủ. Một bác xích-lô uể oải đạp ngang qua rồi rẽ về hướng hồ Hoàn-Kiếm, một chiếc Citroen màu đen bóng loáng vút về phía bờ sông. Khiết dừng lại, mọi ngưỡng đứng quây xung quanh chàng trên khoảng vỉa hè rộng.

Khiết nói nhanh để chóng tới đoạn kết thúc, cho câu chuyện có đầu có cuối (tính Khiết vốn ưa thế):

- Rồi chúng tôi cũng gắng gượng lập được Mặt-Trận Quốc-Gia Thống-Nhất Toàn-Quốc ỏ" Thượng Hải vào năm 1947, thoạt dự định hoạt động cả quân sự lẫn chính trị, đồng thời kết nạp và huấn luyện thêm cán bộ, nhưng rồi bỏ giải pháp quân sự mà chỉ chú trọng giải pháp chính trị, cùng dời xuống Quảng Châu (Hoa-Nam), thiết lập trụ sờ ở Hoa-Địa bên kia sông Châu-Giang, cử người bí mật về nước tiếp xúc với các nhân sĩ, dự định triệu tập hội nghị quốc gia ở Hồng-Kông nhưng bị Pháp phá, không thành. Ẳy đó! Tôi tới thăm mộ Phạm-Hồng-Thái vào dịp này mà thấy tủi với tiền nhân.

- Mộ Phạm-Hồng-Thái ở Quảng Châu? - Kha hỏi.

- Vâng. Giữa sông Châu-Giang có đảo Sa-Điện, trên đảo là toà khách sạn Thắng-Lợi Đại-Hạ, nơi Phạm-Hồng-Thái ném bom ám sát trượt toàn quyền Merlin. Tôi được nghe thuật lại, dạo đó thực dân Pháp còn định đòi xác liệt sĩ họ Phạm, nhưng chủ tịch Quảng-Đông là Hồ-Hán-Dân không chịu, cho chôn cất rất trọng thể tại Nhị-Hoa-Cương. Hồ-Hán-Dân còn có sáng kiến cho dựng lên mộ liệt sĩ họ Phạm một tấm bia kỷ niệm hình tạc đạn. Tôi có tới vạch lá đọc bài minh đó để được biết thêm liệt sĩ họ Phạm là người của Việt-Nam Quang-Phục lãnh tụ là cụ Phan-Bội- Châu.

Mọi người nghe giọng Khiết như lạc hẳn đi, đôi chỗ bất ngờ ngừng lại nửa chừng, Khiết quả đã cảm động đến nghẹn-ngào khi nhắc tới kỷ niệm này. Một phút sau đợi cho thật trấn tĩnh, Khiết mới tiếp:

Rồi hay tin ông Bảo-Đại về nước, chắc là ông không tin ở lực lượng quốc gia có thể chống nổi Việt-Minh nên mới đi với Pháp, ông quên rằng có non yếu mới trưởng thành, ông đi với Pháp mới là sai. Rồi Hiệp-Nghị-Thư Hạ-Long ra đời, tiền thân của Hiệp-Định Elysée: thực dân nhận cho mình tự trị trong Liên-Hiệp-Pháp. Buồn ôi là buổn!

Hai tay Khiết cùng phác một cử chỉ theo bề rộng sang hai bên rồi mới tiếp:

- Ngay sau đó một số anh em trẻ chúng tôi nhận thấy rằng nước Tàu không còn là sinh địa cho cách mạng quốc gia Việt-Nam nữa. Cộng-sản Tàu thế lực ngày một lớn, Quốc-Dân Đảng Tàu ngày một hủ hóa, nói là ngày một hủ hoá, sự thực thì sự hủ hoá đó đạt tới tuyệt mức từ lâu rồi, Pháp thì xảo quyệt luôn luôn lợi dụng được tình trạng hủ hoá đó để phá mình. Hơn nữa chúng tôi nhận định rằng Việt-Nam là đơn vị chính yếu của Đông-Nam Á, sau này mọi hoạt động của Việt-Nam tát phải tung hợp với mọi hoạt động của các nước bạn trong cộng đồng Dông-Nam-Á, thi cơ sở cách mạng của ta đặt ở Trung-Hoa, dù là Hoa-Nam đi nữa, cũng xa trung tâm của mội-trường hoạt-động quá. Chúng tôi bèn tính chuyện chuyển trụ sở hoạt động sang Ản-Độ. Tôi có đến Hồng-Kông xin hội kiến với vị lãnh sự Ấn ở đấy và nhờ chuyển một bức tâm thư của chúng tôi tới ông Nehru, được ông này phúc đáp, mời qua New-Delhi. Rủi thay, đúng vào thời này - khoảng giữa 1948 - tại Nam-Bộ phe quốc gia kháng chiến (phần lớn là Bình-Xuyên), bị Việt-Minh ra mặt khủng bố, làm cảnh trên đe dưới búa, đe là thực dân Pháp, búa là Cộng sản hay ngược lại cũng thế!

Mọi người cùng cười, Khiết bước vội lên xe Jeep, Luận cũng lên theo và cho mở máy, Khiết thở phào một tiếng cực lớn:

- Thôi muộn quá rồi, chúng ta còn gặp nhau nhiều. Ấy các anh đừng tưởng với ai tôi cũng tâm sự tràng giang đại hải như thế đâu, riêng với các anh thôi, nhất kiến vi cựu, tôi giao thiệp thuần bằng trực giác thế, thấy bầu không khí cởi mở, thấy lời giao tình nồng ám, biết là chơi với nhau được thì tâm sự liền!

Mọi người bắt tay nhau từ biệt. Khi chiếc Jeep đã vút về phía trước, tiếng Khiết còn vang lại:

- Thôi nhé, chào hoạt động Văn-Hoá!

CHƯƠNG NĂM

CÔ GÁI BÊN SÔNG TẦN-HOÀI

I

Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa

Dạ bạc Tần-Hoài cận tửu gia

Cảnh con sông Tần-Hoài, khói mờ mờ trên dòng nước lạnh, trăng mờ mờ trên bãi cát trắng, Khiết còn nhớ lắm. Tiếng hát trên sông Hương nước nhà càng làm tôn vẻ trầm lặng của dòng sông chốn cố đô, nhưng tiếng hát trên sông Tần-Hoài ồn-ào hơn vì còn kèm theo cả tiếng trống lớn. Không nhưng trên sông mà cả trên lầu các tửu điếm đều có ca nữ múa hát, càng về khuya càng ồn vì các khách khi đã quá chén bèn rủ nhau đánh "toan", cùng giơ tay hét lớn như trò chơi "oản tù tì" của trẻ con Việt - họ bảo phải thế mới dã rượu. Cũng có đôi khi tiếng ồn-ào chợt bặt đi trong khoảnh khắc, khách ngồi uống trà trên quán lắng nghe xa xa ở bên kia sông vọng lại tiếng ca nương, thật đúng với hai câu dưới bài "Bạc-Tần-Hoài" của nhà thơ đời Vãn Đường:

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu-Đình-Hoa.

Buổi sáng, thủy triều rút, thuyền mắc cạn nằm ngổn-ngạng trên bùn đen, tháp- thoáng trong khoang vài ca nương mới dậy, mặt không phấn son uể-oải vươn vai che miệng, sông Tần-Hoài quãng này, giờ này trông thật tiêu điều. Nhưng cũng giờ này, quãng trên một chút, cảnh lại khác hẳn, ven bờ sông là bãi cát trắng xoá thoai- thoải, trên bờ sông là hàng liễu rủ, những người đàn bà mặc quần hồng, đi giặt quần áo, tay cầm chày. Giữa sông có cái soi và cũng có dáng liễu rủ và lấp-loáng đàn cò khi bay lên, lúc sà xuống, thực là cả một bức tranh cổ tuyệt đẹp.

Bữa cơn họp mặt lần đầu chiều nào, khi nhắc đến sông Tần-Hoài, Khiết vội lảng đi vì chàng biết nếu tiếp tục tất nhiên chàng sẽ thuật lại mối tình của chàng với cô gái bên sông Tần-Hoài mà chàng mới cưới làm vợ được hơn một năm, cô gái đó là em Khoá, người bạn đồng niên với chàng. Một buổi sơ kiến mà đã tâm sự ngay "thiên tình sử" của mình thì dù bản tính cởi mở đến mầy xem ra cũng chương-chướng. Câu chuyện đó tất nhiên sau này Khiết có dịp kể lướt với các bạn Hiển, Hãng, Kha.

Ông đô Cán - (cha Khoá) - không có đứa con nào với đời vợ trước cả, số hiếm hoi vì - theo như sự nhận xét của ông đồ Thinh - (cha Chủy) - cung tử tức của ông Mần-Trí (tên tự của ông đô Cán) có sao Bạch Hổ, hổ thường ăn con (như vậy thì ông còn ... ăn cả đời vợ trước nữa). Năm thăng chửc từ thừa-phái lên đô lại, ông Mần-Trí được chuyện nhậm từ huyện lỵ Lập-Thạch (Vĩnh-Yên) tới huyện lỵ Yên- Hưng (Quảng-Yên), năm đó ông đã goá vợ được hai năm và thực sự nghiện thuốc phiện được một năm. ông thường từ huyện lỵ Yên-Hưng xuống thuyền biển hay ca- nô đến hai miền Đồng-Bài và Ninh-Tiếp, hai miền này nhô hẳn ra vịnh Hạ-Long thành hình một bán đảo nhỏ, dân cư chuyên nghề làm muối-nầu. ở Ninh-Tiếp ông gặp một cô gái vừa đến tuổi dậy thì, xinh đẹp, thông minh, biết viết chữ nho, đọc được chữ nôm và lẽ cố nhiên cả chữ quốc ngữ nữa, cô Mai. Cha cô là một nhà nho đã đỗ cử nhân nhưng không chịu ra làm quan, có hoạt động cho phong trào Đông- Kinh Nghĩa-Thục, bị bắt đày ra Cộn-Đảo rồi chết ở đó. Lớn lên cô giúp mẹ mở một ngôi hàng xén nghèo nàn, cuộc sống lần hồi lay-lứt. ông đô Xán đã giúp cô một sổ tiền vốn nhỏ để thuê nhân công ngày ngày gánh nước biển đổ vào trõ rồi đi chặt những cây xú, cây vẹt làm củi đun" khi nươc biển đã bốc hết hơi thì gạn láy muối.

Thứ muối-nấu của hai miền Đông-Bài và Ninh-Tiếp này đặc biệt hạt nhỏ và trắng, mặn vừa phải, thường dùng ở mâm ăn, vắt chanh rắc tiêu để chấm thịt, không đủ mặn như muối Văn-Lý để muối dưa muối cà. Làm muối được một năm, gia đình sung túc, không những hai mẹ con đỡ vất-vả mà còn dư tiền cưu mang cho người con nhà bác tiếp tục ăn học tại Hải-Phòng. Đùng một cái, điều mà Mai không ngờ nhất, ông Đô ướm hỏi nàng làm vợ, ông Đô với nàng như anh cả với em út, số tuổi chênh lệch dễ đến mười lăm mười sáu tuổi. Mai biết ông Đô nghiện thuốc phiện, điều mà nàng không ưa chút nào, nhưng biết sao bây giờ, mẹ con nàng làm ăn mát mặt, há chẳng nhờ lòng tốt hết sức tìm cách giúp đỡ của ông Đô? Những lời giáo huấn của cha thuở nhỏ rồi của mẹ về sau này khi cha nàng đã bị đày ra Côn-Đảo, những điều lễ nghĩa nàng đọc trong sách chữ nho, những gương lễ nghĩa nàng đọc trong sách chữ nôm không cho phép nàng xử sự như một người vong ân: nàng nhận lời. Âu cũng là trường hợp đem thân mà trả nợ đời cho xong! Yên bề nghi thất nghi gia, Mai vừa đầy năm mẹ cũng vừa đầy tháng con, đứa con trai đầu lòng đó đặt tên là Khoá. Mẹ nàng mất, từ đấy Mai bỏ nghề làm muối, theo chồng mười lăm năm trường hết huyện lỵ trung du này đến châu lỵ thượng du khác, thêm mấy lần nữa hữu sinh nhưng vô dưỡng.

II

Khoá lớn lên gần mẹ hơn là gần cha. Năm lên năm Khoá đã được mẹ dạy Tam- Tự-Kinh; năm lên sáu, vẫn mẹ dạy vỡ lòng chữ quốc ngữ rồi mới tới trường, ông Đô đổi đi đây đi đó luôn, ít khi Khoá được học ba năm liền một trường. Khoá rất khéo tay, năm mười ba tuổi đã biết tiêm thuốc phiện cho cha, mà tiêm khéo. "Tài giả vi nô", chính vì vậy mà ông Đô giữ dịt lấy con, không chịu gửi Khoá về thành thị tiếp tục theo trung học. Tiêm thuốc cho cha, nhưng Khoá vẫn gần mẹ; ở trường học hay ở trường đời, có điều gì bỡ-ngỡ, Khoá chỉ hỏi mẹ mà chẳng bao giờ hỏi cha. Bà Đô hai cũng đã khuyên ông Đô đừng kéo dài thời gian nằm bên bàn đèn để làm mất nhiều thời gian học bài của Khoá và khi có bạn hút thì hai người tiêm cho nhau, Khoá tuyệt đối chỉ hầu có cha.

Sau cùng ông Đô đổi lên Lao-Kay. Lúc này ông đã già yếu lắm rồi, nghiện nặng, lộc giời kém đi, số tiền lương đổ cả vào cái xe cái lọ nhỏ bé mà không đáy. Bà Đô hai có mang lần nữa...

Người anh con nhà bác trứơc được bà cưu mang nay học đã thành tài, có bằng thông ngôn, được bổ chân thư ký toà lãnh sự thoạt ở Vân-Nam rồi đổi đến Mông-Tự. Từ Lao-Kay sang Mông-Tự đắt Tàu hết một ngày đường. Vào dịp ông Đô xin nghỉ hằng năm một tuần, Khoá đựơc theo cha mẹ đi Mông-Tự thăm ông bác bên ngoại này. Chuyến đi đó là khúc quành lớn trong đời Khoá, là mấu nút cho bao biến cố, biến cố nội tâm, biến cố gia đình, năm đó Khoá vừa mười sáu tuổi. Từ Lao-Kay đến ga Piche-Tchay thì xuống, sang chiếc tàu hỏa nhỏ hơn đi vào Mông-Tự, (tự ga Piche-Tchay, xe hỏa lớn đi thẳng Vân-Nam). Cảnh đồi núi miền cao nguyên này thổi vào hồn Khoá một tình cảm dạt-dào man-mác lạ, gió cao nguyên còn như nhân đà đó thổi nâng hồn Khoá lên một miền phóng khoáng và suốt đời Khoá sau này nhất nhất mọi cử chỉ đều đượm tính chất phóng khoáng của gió cao nguyên. Lẽ cố nhiên tiểu gia đình ông Đô Cán là thượng khách của ông Hải - tên người anh con nhà bác của bà Đô hai. Ngay hôm đầu, Khoá được cha mẹ cho mặc áo ám để bác Hải dẫn đến thăm một cái hồ trên núi cao miền Khề-Lùng-Thán, cách Mông-Tự mấy chục cây số (ông Đô ở nhà, còn phải hút, bà Đô vì có mang nên tránh leo núi) Khóa được bác Hải kể chuyện rằng hồ này xưa có con rắn tu thành rồng ...

Ở Mông Tự giong nhứ ở Lao-Kay cũng có cảnh sáng dẫn tù đi làm cỏ vê, chiều dẫn về, và cũng như ở Lao-Kay các tù nhân đều bị xích chân trông thật thê-thảm.

Sau này khi đọc thiền giai thoại về tài ứng đối của cậu nhỏ Cao-Bá-Quát, Khoá rất thâm cảm và khâm phục câu đối lại của danh sĩ họ Cao:

Câu ra của nhà vua:

Nước trong leo-lẻo cá đớp cá

Câu đối lại:

Trời nắng chang-chang người trói người

Khoá cho rằng về sau họ Cao "kiến cơ nhi tác" nổi lên ở Mỹ-lương là phải lắm.

Sau cuộc thăm hồ Khề-Lùng-Thán, buổi trưa hôm sau có tiếng thanh la lạ tai và cả khu phố rộn vẻ kinh hoàng. Thì ra đó là tiếng thanh la báo hiệu buổi chiều sẽ xử tử một tội nhân. Bãi xử ở ngay sau toà lãnh sự nên cả ông Đô và Đô cùng đến xem. Khoá còn nhớ tên tội nhân là Lão-Chén, y nghiện, trạc bốn mươi, theo giặc cỏ, rủi bị quan quân vây bắt được tại trận. Khoá lại còn nhớ cả dáng người gầy gầy và khuôn mặt lầm-lì của y khi bị dẫn ra pháp trường chói quặt tay vào chiếc cọc vuông bằng gỗ lim. Nhìn y, Khóa thấy lòng xúc động và thương y lắm. Tuy mới mười sáu tuổi nhưng Khoá đã biết xét đoán, vẻ lầm lỳ của Lão-Chén không phải là vẻ lì-lợm của một tên táng tận lương tâm, mà chỉ là vẻ lầm-lì của một kiếp sống nghèo hèn và ngu dốt. Vì nghèo hèn và ngụ dốt nên tìm vào một lối thoát khộng có... lối thoát, rồi đến khi bị bắt thì lại sáng suốt một cách đơn giản mà nhận thấy rằng khóc cũng vô ích. Lão-Chén có hai vợ, người vợ cả cao gầy như chiếc đũa, mặt sát tận xương, nước da vàng khè, lúc mụ đi thì xiêu đổ nhưng lúc dừng lại trước mặt Lão-Chén (khi đó đã bị trói vào cọc) thì hai chân ống sậy dang ra, khí thế hết sức vững-vàng, mụ xỉa xói vào mặt Lão-Chén chửi bới, nhiếc móc là đi theo giặc để bây giờ mụ phải xấu hổ sống cô độc giữa người sống. Trong khi mụ chửi rủa riếc móc, Lão-Chén vẫn củi đầu giữ nguyên vẻ lầm-lì tưởng nhự rồi đây sau khi đã nhận đủ mười lăm viên đạn trên cơ the, y vẫn giữ nguyên vẻ lầm-lì như vậy. Người vợ hai của Lão-Chén đến chậm hơn mấy phút, nàng ít tuổi hơn người vợ cả nhiều, như chị cả với em út, nàng địu một đứa con nhỏ trên lưng, tất-tả chạy lại khóc lóc, kể-lể, giọng thật oán thương. Nghe nàng khóc Lão-Chén tuy vẫn giữ nguyên vẻ lầm-lì nhưng có khẽ ngước nhìn, miệng lẩm-bẩm điều gì chỉ đủ cho chính y nghe thấy mà thôi. Có tiếng loa hạ lệnh cho người nhà tội nhân đứng giãn ra hai bên pháp trường. Người vợ cả lảo-đảo tiến sang rìa bên tả, miệng không ngớt riếc móc, người vợ hai vẫn khóc lóc và hơi khom người địu con tiến về rìa bên hữu. Người ta mang lại một cái phướn nhỏ bằng giấy cắm vào sau cổ áo tội nhân. Pháp trường hiu-hắt gió chiều và chiếc phướn có hàng chữ dài biên tội trạng của Lão-Chén khẽ uốn cong khoảng giữa, rồi khoảng đuôi luột khỏi lưng Lão-Chén mà phắt-phơ một chút, trông như một cánh tay thứ ba của Lão- Chén vừa được thần linh ban cho để Lão-Chén vẫy tay chào vĩnh biệt người vợ trẻ địu con. Một loạt súng vang động lạnh-lùng và khốc liệt. Lão-Chén gục xuống, người vợ trẻ khóc lớn hơn chạy lại, đầu gục xuống sát đất ngay bên dưới đầu Lão-Chén, tay phải nàng nắm lấy chiếc phướn giấy như nắm tay chồng, nhưng rồi công chúng tới xem quanh pháp truờng đổ xô lại cướp giật của nàng chiếc phứơn giấy vì họ tin rằng chiếc phướn đó mà đem đốt trong đêm khuya sẽ khiến Lão-Chẻn hiện hình; nhiều người khác tới lấy khăn tay chấm vào máu Lão-Chén, họ tin rằng khoảng máu đó đốt thành than hoà với nước uống có thể bách bệnh tiêu tán vạn bệnh tiêu trừ. Cái nước Tàu rộng lớn và đông dân cư quá cỡ này hẳn như không ngày nào, ở bất cứ nơi nào, là không có chuyện lạ. Mới chiều hôm trước xử tử Lão-Chén thì hôm sau có một đoàn người cưỡi ngựa ăn mặc lịch sự tiến vào sân toà lãnh sự, đoàn người này gặp ai trong sân hay trên thềm toà lãnh sự cũng dúi cho một lá vàng chừng môt phần tư lượng. Khoá khi đó đương đứng phát-phơ trên thềm, được người đứng tuổi nhất, bệ vệ nhất dúi cho một lá vàng nửa lượng. Thoạt Khoá không hiểu sao. Những người đó xin vào yết kiến lãnh sự Pháp. Lát sau rồn-rập nhiều người ngựa nữa kéo tới chật sân, đủ cả nam phụ lão ấu, rất nhiều thiếu phụ còn trẻ măng vài người torng số ôm con ngồi trên ngựa, một số ngựa khác thồ những hòm xiểng, giỏ, đẫy...

Hôm sau Khóa mới vỡ lẽ người đứng tuổi bệ vệ dúi vàng cho Khoá hôm trước là viên đốc phủ Vân-Nam họ Đường. Y bị người anh nổi loạn chiếm được ưu thế quân sự ào-ạt tiến chiếm Vân-Nam. Biết không thể địch lại được anh, y vơ-vét hết của cải chất lên ngựa thồ, một số thuộc hạ thân tín và tất cả những cô vợ trẻ đều được theo y đến xin tỵ nạn tại toà lãnh sự Pháp. Hôm trước hôm sau, cả y lẫn đoàn tuỳ tùng, lẫn của cải đều đã vượt biên giới sang Lao-Kay.

Thành Mông-Tự phía ngoài xây gạch, phía sau đắp đắt cho dày thêm. Ngày cuối cùng ở đây, Khoá đi thơ-thẩn trong thành, nhìn mãi nếp sống thanh bình của người dân cũng chán, bèn ra hỏi cổng thành, cổng phía Tây hay phía Nam về sau này Khoá không sao nhớ rõ nữa. Ai dè đi khỏi cổng thành chừng ba bốn trăm thước là cả một thế giới khác hẳn: xác chết ngổn-ngang gần xa hai bên vỉa đường, từng đàn quạ đen thấy động bay lên rào rào, cất tiếng kêu quang-quác. Khoá quét vội tia nhìn một vòng rồi quay lại, rảo cẳng... Kiểm soát lại trong ký-ức những gì vừa nhìn, Khoá ôn thấy có xác chết bị rỉa hết môi hai hàm răng trắng nhờ hô ra sát bên hàng lợi thâm xịt, có những xác vừa trương phồng, có những xác trương đã lâu ngày mặt xanh lè, toàn thân bắt đầu rỉ nước... thật là muôn phần rùng-rợn, mà điểm kỳ lạ là cảnh đó chỉ cách cảnh thanh bình trong nội thành Mông-Tự chừng bốn trăm thước là cùng. Bữa cơm trưa và bữa cơn chiều hôm đó Khoá không ăn được mấy, nửa bát là cùng, vì hễ nâng bát cơm lên là cảnh xác chết ngổn-ngang rữa nát bị rỉa khoét lại hiện lên làm Khoá muốn nôn oẹ đành phải ăn đào, lê, táo và lựu trừ bữa. Khoá cũng không hỏi gì thêm bác Hải để biết là chết đói, chết dịch hay họ là giặc cỏ bị quan quân vây bắn. Đương ở Việt Nam nhỏ bé, thanh bình biết quý mạng người, Khoá sang nước Tàu rộng lớn, dân đông, giặc-giã cướp bóc thường xuyên, mạng người rẻ như mạng con ong cái kiến, Khoá thấy ngợp và choáng váng. Ngay từ ngày ấy Khoá đã biết sở dĩ có sự coi rẻ nhân mạng như vậy chỉ vì người Tàu sinh-sôi nảy-nở nhiều quá. Vài năm sau biết suy nghĩ sâu hơn, Khoá thấy vấn đề hạn chế sinh dục là vấn đề khản cáp cho nước Tàu và khi chàng đọc đến "Croissez et multipliez = Hãy sinh sôi nẩy nở" chàng rùng mình nghĩ ngay rằng câu đó sai biết chừng nào khi đem áp dụng cho nước Tàu.

III

Mãi đến trước hôm trở về Lào-Kay, ông Hải mới biết việc học của Khoá dở-dang, lẽ ra Khoá phải lên trung-học được hai năm rồi, ông đã đề nghị ông bà Đô Cán để Khoá ở lại với ông vì tại Mông-Tự có trường trung học Pháp. Bà Đô muốn vậy lắm, ông Đô đâu có chịu, ông nhất định bắt Khoá về, nói rằng sẽ cho Khoá theo học ở Hà-Nội tiện hơn, kỳ thực ông giữ Khoá để ngày ngày tiêm thuốc hầu ông. Nhưng về đến Lao-Kay hai tháng sau thì ông Đô bị bạo bệnh từ trần, ông Hài hay tin lập tức về Lao-Kay phúng điếu và ngỏ ý muốn đưa bà Đô và Khoá sang ở hẳn Mông-Tự.

Bà Đô để Khoá đi theo, bà căn dặn Khoá phải cố học cho nên người, gắng đuổi kịp hai năm phí-phạm. Riêng bà, bà xin lỗi ông Hải vì phải ở lại Lào-Kay để trông nom ngôi hàng sén mà bà mới mở kể từ sau ngày ở Mông-Tự về. Ngôi hàng được mở để bù vào những thiếu hụt của ngân quỹ gia đình, cũng có thể trực giác, bà biết là ông Đô chẳng thọ được bao lâu nữa, bà cần chuẩn bị cuộc đời tự lập nuôi con. Bà từ chối lời mời của anh - ông Hải - sang Mông-Tự vì bà luôn luôn làm theo tinh thần của đạo nho: quân tử thi ân bất vọng báo. Ấy ơn của mình giúp ai thì viết trên cát như vậy, nhưng nếu chịu ơn người thì ơn ấy được bà khắc sâu lên đá. Việc bà chịu lấy ông Đô há chẳng là ơn cưu mang của ông được khắc lên đá? Không ngờ bà còn một lần thể hiện việc khắc ơn lên đá theo thể thức "đem thân mà trả nợ đời" tương tự.

Khoá theo ông Hải đi Mông-Tự, tiếp tục việc học. Hai tháng sau bà Đô sinh cô gái mà vì cảnh mẹ góa con côi bà không thiết tìm tên đặt, bà chỉ gọi giản tiện là cái Bé.

Ngôi hàng sén ít vốn của bà ở chốn lam sơn chướng khí này đã như chiếc cây còi mọc trên đất sỏi lại gặp kỳ hạn hán. Kẻ ra chỉ cần bà viết vài dòng cho ông Hải thì hoặc bà sang Mông-Tự, hoặc ông Hải cáp vốn buôn cho bà, nhưng tuyệt nhiên bà không chịu hé thốt một lời, bà cũng không về xuôi để cho thỉnh-thoảng gặp Khoá (vào dịp được nghỉ vài ngày liền, thế nào Khoá cũng dời Mông-Tự về thăm mẹ).

Bà Đô năm đó trên ba mươi tuổi, vẻ đẹp tươi mát thuở còn là cô Mai dĩ nhiên không còn, nhưng nếp sống trầm mặc và đức hạnh đã gìn giữ tuổi trẻ cho bà, khiến thứ nhan sắc đoan trang trong một tuổi đời đã chín đó không phải là thiếu phần quyến rũ.

Ngay sát bên ngôi hàng sén nhỏ của bà là cửa hàng tạp hoá khá đồ sộ của một người Tàu trạc tuổi bà, đã góa vợ (vợ Việt) và có một người con trai. Khi ông Đô chế, người này có lấy tình lân lý sang phúng điếu theo đúng thủ tục Việt-Nam. Rồi cửa hàng sén của bà Đô thiếu thứ gì, chú Nìn (Niên) - tên người Tàu - lại cho người làm khuân sang, nói rằng "xin cứ bán đỡ, khi thu được tiền rồi trả lại sau cũng được". Mỗi khi xuôi Hà-Nội cất hàng, chú Nìn cũng hỏi xem bà Đô cần mua thêm thú hàng nào đặc biệt. Đã từng là nhà buôn nhỏ trước đây, chú Nìn biết cửa hàng càng nhỏ càng cần có những món hàng đặc biệt để lựu ý khách hàng. Món hàng đặc biệt của cửa hàng bà Đô là những đồ trang sức bằng đồi mồi: lược, gương, hộp phấn, ví tay... Những thứ hàng đó tuy nhỏ xinh mà đắt tiền, chú Nìn chỉ cần hỏi ý bà Đô hôm trước hôm xuôi Hà-Nội là hôm trở về đã tự động xuất vốn mua đủ các thứ (và thứ hàng đó tuyệt nhiên tại cửa hiệu tạp hoá của chú không hề bán: chú để bà Đô giữ độc quyền). Hàng đắt tiền có bán được những ít và chậm, lọại hàng phổ thông bán được khá nhiều nhưng toàn là những người quen cũ, lại phần đông là những nhân viên cấp dưới ông Đô xưa, họ mua chịu chẳng lẽ không bán, họ chịu lâu chẳng lẽ nặng lời đòi sao tiện, rồi phần quên đi, phần họ đổi đi nơi khác, quỵt, lưng vốn mỏng- manh của bà Đô đã hết từ lâu, vốn của chú Nìn không bao giờ đòi, thái độ quân tử của người Tàu chính cống đó làm bà Đô thắc-mắc. Có đôi lần tự ý bà nói rõ sự tình và xin lỗi chú Nìn về sự thanh toán chậm thì chú Nìn gạt đi một cách cương quyết và rắt thật tình.

Hai năm qua đi... Khoá vẫn từ Mông-Tự về thăm mẹ vào những ngày nghỉ. Cái Bé đã lũn-cũn biết đi biết chạy. Đúng vào lúc bà Đô quyết định dẹp cửa hàng và chưa biết tính sao về món nợ lên tới bạc trăm - (như bạc vạn bây giờ) - với chú Nìn, thì vào một buổi chiều đông, sương muối phủ ngập thung lũng Lao-Kay, chú Nìn sang thăm bà Đô, thái độ rất điềm đạm, rất thanh lịch, chú ngỏ ý cầu hôn với bà. Lẻ ra bà Đô có thể từ chối, đành vay tiền ông Hải mà thanh toán nợ nần với chú Nìn, rồi đợi ngày Khoá học thành tài đi làm giả nợ cho mẹ, nhưng định mệnh con người do chính con người dự phần tạo tác và quyết định, thái độ bà Đô lại không chịu vong ân, không muốn phiền ai - dù phiền anh, phiền con - phải gánh chịu thiệt-thòi vì mình, bởi vậy sau mấy ngày suy nghĩ bà nhận lời. Bà viết một bức thư dài trần tình với ông Hải và với Khoá. Ong Hải đổi đi Vientiane, bà bằng lòng để Khoá đi theo ông, học nốt hai năm nữa thi lấy bằng thành chung.

Từ ngày bước đi bước nữa, bà đặt tên cho cái Bé là Cam. Nhũ danh của bà là Mai có nghĩa là cây mai, tên Cam bà đặt cho cô gái út cũng là cây cam, cùng bộ mộc, nhưng thực ra hai tên Mai và Cam đó trong cõi tiềm thức mung-mung mạc-mạc lại dính-líu đến bài thơ "Cán mai gốc mít cho cam" mà bà dùng làm lời mở đầu bức thư trần tình của bà gửi riêng cho Khoá. Đọc bức thư trần tình của mẹ, Khoá đã gục mặt lên gối khóc nức-nở. Bài thơ mở đầu này Khoá thuộc lòng, vẫn hằng ôn tới như ôn một nhận định chân lý để liệu mà điều chỉnh cho đúng hướng tiến trên đường đời đầy chông gai:

Cán mai gốc mít cho cam,

Ở đời luống những miên-man nợ-nần.

Có người nợ cả bản thân,

Nợ xa vũ trụ nợ gần thê noa

Có người nợ cả hàng hoa,

Miếng giầu chén nước đương xa chơi bời.

Toàn bài nhận định về con người nợ lẫn nhau cả về vật chất lẫn tinh thần này, duy một câu Khoá không hiểu: "Có người nợ cả hàng hoa". Trong thời gian theo học ở Vientiane, Khoá hằng suy nghĩ và tự hỏi hai chữ "hàng hoa" đó, ý mẹ định nói gì, mẹ định ám chỉ những cái phù phiếm ở đời chăng?

Trong bức thư trần tình, bà Đô hai còn nhắc đến câu chữ Hán mà Khoá cũng nhớ mãi sau này: "Điểm điểm chích chích bất sa dĩ. Bà giải thích và bàn rộng cho con hay: giọt nước sau theo giọt nước truớc không thay đổi, đàn bà theo chồng phải giữ cho trinh tĩnh con cái mới hay được. Vì hoàn cảnh "ở đời luống những miên man nợ- nần" ép bà phải bước đi bước nữa, nhưng một khi đã theo chồng, hãy giữ lòng trinh tĩnh, giữ đức thuỷ chung, đó cũng là cách để đức lại cho con sau này.

IV

Chú Nìn là con út của một gia đình ba anh em giai ở Nam-Kinh. Anh cả và anh hai ở lại thành phố quê hương hùn vốn mở tiệm ăn lớn đường Tôn-Trung-Sơn. Chú Nìn dời quê hương sang lập nghiệp tại Việt Nam. Ngôi hàng tạp hóa của chú ở thị trấn biên giới Hoa Việt này phát đạt cũng chẳng kém gì tiệm ăn của hai anh ở Nam- Kinh. Đời vợ trước của chú Nìn là một cô gái Việt sắc-sảo và đôi chút !ẳng-lơ. Chú Nìn thì lại cả ghen, vì vậy hạnh phúc gia đình không đựợc êm đẹp cho lắm. Người vợ đó mất vì chứng sốt rét rừng, để lại cho chú một thằng con trai, chú gửi con về Nam-Kinh nhờ hai anh trông nom cho ăn học. Một mình trên đất Việt điều khiển ngôi hàng phát đạt, chú Nìn đêm đêm thường tìm an-ủi ở chốn ca lâu, có một lần chú mắc bệnh tình, ông Đô tới nhậm chức, thuê nhà ngay bên nhà chú. Nếp sống hoà thuận của gja đình ông Đô nhắc chú nhớ lại nếp sống lủng-củng của gia đình chú trước đây. Ông Đô mất, chính vẻ hiền thục của bà Đô khiến chú quyết tâm giúp bà, hoàn toàn bất vụ lợi, mãi hai năm sau chú Nìn mới nảy ý xin cầu hôn cùng bà. Khi bà Đô đã về với chú, chú nảy lòng ghen ngấm-ngầm. Chú cho rằng người đàn bà Việt-Nam nào cũng có thành kiến với người ngoại chủng và khi buộc lòng phải kết hôn với họ, ít khi chịu giữ trung thành. Bà Đô càng hiền thục, chú càng lo sợ ngầm-ngầm, như một đứa trẻ ước một được Trời Phật ban cho mười. Chú quyết định trở về Nam- Kinh, không muốn bà Đô gần-gũi các đồng bào của bà.

Tội nghiệp bà Đô! Chỉ vì bà mang nặng nghiệp "nợ xa vũ trụ, nợ gần thê noa" bà lại "khư khư mình buộc lấy mình vào trong"" không chịu mang nợ ai, dù phải - đã hai lần bà "phải" như vậy - "đem thân mà trả nợ đời cho xong", bà đành mang bé Cam (khi đó đã lên năm) theo chồng đi Nam-Kinh. Chú Nìn đem hết dấn vốn của chú ở Việt-Nam về hùn với hai anh, khuếch trương rất có hiệu quả tiệm ăn đường Tôn- Trung-Sơn, chú cho đứa con trai có với đời vợ trước đi du học Mỹ.

Càng xa đất tổ, tình yêu nước càng thiết tha đậm-đà, bà Đô dạy bé Cam học chữ Hán đọc theo giọng Việt, bà dạy vỡ lòng bé Cam học chữ Quốc ngữ. Cuối đường Tôn-Trung-Sơn có một gia đình người Việt đã lưu lạc tại quê người nhiều năm cũng vừa dọn tới, bà bèn đến kết thân.

Chú Nìn quả là một người Tàu kỳ cục, chú có cái đam mê của Kim-Trọng, cái hào phóng của Thúc-Sinh, nhưng lại thêm cái lòng ghen khủng-khiếp của Othello Tây Phương. Thấy bà Đô hay đi lại nhà người đồng hương, chú ghen với cả nước Việt-Nam - chú biết bà Đô chỉ vì nhớ nước mà giao thiệp như vậy - chú bèn vận động giới thiệu bà Đô vào giúp việc cho nhà thương Nam-Kinh, tập sự làm nữ y tá. Như vậy bà Đô sẽ bận-bịu suốt ngày và chỉ có bé Cam là được tự do đến đằng gia đình ông Kiển - tên người đồng hương - để học thêm về chữ quốc ngữ và đàm thoại bằng tiếng Việt trong bầu không khí gia đình Việt cho khỏi mất gốc. Cuộc đời nghẹn-ngào thiếu quê hương của bà Đô kéo dài được hơn một năm thì bà hay tin Khoá đã đỗ bằng thành-chung ở Vientiane và sửa soạn về nước, vì ông Hải được thuyên chuyển về Hải-Phòng. Bà vội vã phúc đáp thơ con trong có đoạn:

" Con ơi, con được về thăm đất nước mẹ mừng. Mẹ và em con giờ đây nghìn trùng cách trở cố hương biết có ngày tái ngộ? Con ơi, cổ nhân nói học như hải, biết thế nào cho vừa. Nay con đã đậu bằng thành chung, vốn kiến thức cũng tạm đủ, về đến nước nhà, con nên kiếm việc làm và tiền lương hàng tháng phải nộp tất cả bác Hải, bác cho bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu, hoặc cần bao nhiêu thì xin bấy nhiêu. Mẹ có thể lấy tiền của ông Nìn ờ đây gửi về cho con tiếp tục ăn học, nhưng mẹ không muốn phải mang ơn ông Nìn hơn nữa; chắc-chắn con cũng đồng ý với mẹ như vậy. Đặt chân tới nước nhà, con phải về làng Liên-Phú thăm quê của cha con và nhận họ hàng bên nội, rồi xuống Hải-Phòng, qua bến đò Bính, qua bến đò Rừng, tới Quảng Yên, xuống tầu biển tìm đến Ninh-Tiếp quê mẹ, nơi làm muối-nấu cho cà nước dùng".

Bà Đô có viết riêng cho ông Hải một lá thư khác, trong đó bà cám ơn ông Hải đã thay bà nuôi Khoá ăn học nên người, bà xin ông Hải coi Khoá như con.

Ông Hải vẫn coi Khoá như con! Và Khoá đã tuân theo lời mẹ, tiền lương tháng đầu - Khoá đã thi được vào làm Quan-Thuế - Khoá đưa biếu hết ông Hải. Cử chỉ tượng trưng này làm đẹp lòng cả đôi bên, sau đó ông Hải hoàn lại cho Khoá tiêu gần đủ. Ông đã hỏi vợ cho Khoá, con gái một người bạn mà ông quen thân tự ngày mới đổi đến Vientiane.

Ông Hải mắc chứng huyết áp quá mạnh - hypertension - từ lâu rồi, chuyến phi cơ chở ông cùng gia đình tự Lào về Hà-Nội, qua dãy Trường-Sơn gặp bão lớn, nhồi lên nhồi xuống, ông bị ngất. Phi cơ hạ cánh, người ta chở ngay ông sang nhà thương Đồn-Thủy (Lanessan). ông qua khỏi lần này, nhưng miệng hơi méo, cơ thể suy nhược trông thấy. Hai tháng sau một cơn huyết áp quá mạnh khác tấn công ông Hải lần chót, lần này ông bị đứt mạch máu óc, chết tức khắc. Khoá phải cưới vợ gấp

- Có thể gọi là cưới chạy tang. Năm sau đứa con đầu lòng ra đời, Khoá đặt tên là Thanh.

Tất cả những tin vui buồn lẫn-lộn đó đều có thư tới Nam-Kinh, mối sầu xa sứ của bà Đô vì thế cũng vời-vợi đôi phần vì bà có cảm tưởng bà vẫn tham dự vào cuộc sống những người thân tại quê hương. Đó là vào giữa năm 1937 - bà xa quê hương đã hai năm rồi.

V

Gia đình ông Kiển - người đồng hương duy nhất của bà Đô ở Nam-Kinh - gồm hai vợ chồng ông và hai thằng con trai đã gần đến tuổi trưởng thành, gia đình này chuyên nghề buôn thuốc Bắc và sâm Cao-ly. Thì ra ông Kiển mới từ Bắc-Kinh dời về Nam-Kinh. Ông nhận thấy khí thế người Nhật rất hung bạo, họ đã nắm vững tình thế ở Cao-Ly và luôn luôn gây gỗ với người Tàu ở biên giới, ông cho rằng chiến tranh Trung Nhật chẳng sớm thì muộn tất bùng nổ, và ngòi nổ tất nhiên ở Bắc-Kinh rồi, ông bèn dời Bắc-Kinh về Nam-Kinh. Chưa được một năm thì xảy ra vụ án Lư-Cầu- Kiều (ngày 7-7-1937) cách Bắc-Kinh năm dặm, rồi chiến tranh Trung Nhật bùng nổ đúng như lời ông tiên đóan, và Bắc-Kinh bị chiếm hai tuần sau. ông Kiển rất lấy làm đắc ý về nhãn giới chính-trị của ông, chẳng ngày nào là ông không kể công với vợ con "Bà mày xem, chúng bay xem, tao không tiên đoán giỏi thì bây giờ mắc kẹt ở Bắc-Kinh rồi nhé, vốn liếng đi đời nhà ma rồi nhé!" ông đâm ra theo rõi tình hình nước Tàu. ông nói với vợ con: "Đấy rồi bà mày xem, chúng bay xem, hội nghị chín cường quốc họp ở kinh-đô Bỉ nhất định can thiệp bắt quận Nhật rút về vị trí cũ. Tưởng-Giới-Thạch đã ra lệnh cho quân ông phải giữ từng tấc đất đấy". Rủi thay lần này ông tiên đoán sai, hội nghị chín cường quốc quá lơ-là, chiến tranh tiếp diễn ác liệt, Nhật tiến quân như vào chỗ không người. Chiến thuật tiêu thổ kháng chiến đã đươc đề cập đến. Nhưng điều ông Kiển không ngờ nhất là tháng mười một năm đó quân Nhật đổ bộ lên Thựợng-Hải. Ẩy thế mới chết, ông vốn ghét chiến tranh mà bây giờ chiến tranh lại bịt mất đường ra biển của ông, giá có muốn chạy đi Hồng-Kông bằng đường thủy bây giờ cũng vô phương. Chưa hết, sáu tháng sau - tháng mười hai - quân Nhật ào-ạt tiến chiếm Nam-Kinh đã dời đô về Trùng-Khánh và chiến thuật tiêu thổ kháng chiến bắt đầu được áp dụng thực sự. May là quân Nhật chiếm xong Nam-Kinh bèn cố bọc nhung bàn tay sắt vỗ-về dân chúng Nam-Kinh một chút để còn rảnh quân tung đi chiếm Hán-Khảu, Quảng Châu. Hơn nữa, Nhật-Bản phải ve-vuốt Nam-Kinh vì Nhật cũng thấy trước rằng dù có chiếm cả Bắc-Kinh và Nam-Kinh thì cũng còn mắc míu ngã ba ngã bảy khác, chẳng thể chiếm trọn vẹn được nước Tàu, Nhật muốn mua chuộc phe ôn hoà Quốc-Dân Đảng Tàu để thành lập một chính phủ thân Nhật (như ở Cao-Ly) như vậy danh chính ngôn thuận hơn nhiều. Uông-Tinh-Vệ đã bỏ Trùng-Khánh qua Hà-Nội. Quân Nhật đổ bộ lên đảo Hải-Nam (tháng 2-9-39), thế là cả miến Hoạ-Nam bị phong tỏa. Uông-Tinh-Vệ cũng đã từ Hà-Nội bay sang Hương-Cảng rồi về lập Chính phủ thân Nhật ở Nam-Kinh. Tranh ảnh tố cáo sự tàn ác của quân Nhật đầy rẫy ở Nam-Kinh, nào cảnh chúng đốt làng quê, nào cảnh chúng chặt đầu, mổ bụng dân quê, nào cảnh những người đàn bà Tàu bị hiếp đến chết loã thể chúng còn lấy cỏ may cắm đùa vào âm-hộ. Nhưng ở chính Nam-Kinh thì việc đó không có. Cũng may cho Kiển! Và tuy cả miền Hoa-Nam bị phong toả, ông vẫn mua được quy, thục ở Bắc-Kinh và sâm ở Cao-Ly để gửi bằng phi cơ qua Hồng- Kông, thành thử bộ mặt của chiến trinh đối với riêng ông Kiển ở Nam-Kinh không lấy gì làm gớm-ghiếc cho lắm, do đó ông cũng chẳng thiết tiên đoán điều này điều nọ mà làm gì, nói một cách khác ông không bận tâm nhiều về thời cuộc chiến tranh nữa kể cả khi có tin động trời: quân Nhật bất thình lình rội bom tiêu diệt hạm đội Hoa-Kỳ đậu ở Trân-Châu-Cảng ngày 7-12-1941. Nhưng sau này, vào tháng tám 1945 quân Nhật đầu hàng đồng-minh vô điều kiện, Trung-Hoa Quốc-gia chuyển bại thành thắng, thì ông Kiển chợt lại thấy lòng sợ chiến tranh, ông sợ rồi đây không khéo Quốc Cộng Tàu đánh nhau to, và khi người Tàu đánh người Tàu trong nội địa thì cụộc sống người Việt ngoại quốc không thể nhu-nhơ được, ông cho rằng vượng địa đối với riêng ông bây giờ phải là Hồng-Kông. Thế là ông sửa-soạn thu vén hàng-họ tiền-nong từ biệt bà Đô, mang gia đình xuống Thượng-Hải, ở đấy ông lấy vé tàu thủy đi Hồng-Kông. Quả nhiên Hồng-Kông từ sau ngày thế chiến thứ hai chấm dứt, buôn bán ngày một phồn thịnh. Quả nhiên Quốc Công đánh nhau to Trung Cộng cả thắng, họ Tưởng rút ra Đài-Loan và nhất là sau đấy nước Anh với óc thực tế vô cùng linh- động và minh mẫn - (mà nhiều người lên án là bỉ-ổi) - đã "phá rào" đồng-minh, dùng Hương-Cảng làm cửa ngõ giao thông với Trung-Cộng để thu lợi, thì Hương Cảng quả là chốn thiên đường của giới thương mại.

Thế là thêm một lần nữa ông Kiển lại tiên đoán đúng thời cuộc.

VI

Trở lại chuyện bà Độ và bé Cam ở Nam-Kinh, qua ít bữa xao-xuyến vì tin Nhật đổ bộ Thượng-Hải, qua mấy ngày kinh hoàng quân Thiên-Hoàng tiến chiếm Nam-Kinh, cuộc sống của tiểu gia đình bà với chú Nìn trở lại bình thường.

Bà đã theo xong khoá huấn luyện nhà thương và là một nữ y-tá gương mẫu của nhà thương Nam-Kinh. Trong khi gia đình ông Kiển gọi bà là "bà Nam-Kinh" để gián tiếp ghi nhận sự kiện bà đến cư ngụ tại Nam-Kinh trước ông, thì những nữ đồng nghiệp của bà tại nhà thương Nam-Kinh gọi bà một cách kính mến là "Dể-Nàm Thai- Thai" (bà Việt-Nam).

Việc quân Nhật phong tỏa Hoa-Nam không quan trọng bằng việc bà thấy bé Cam vẫn được thấm nhuần đều không khí gia đình Việt-Nam, nói tiếng Việt thông thạo - (bà chỉ không ưa ông Kiển ở chỗ ông loay-hoay bận bịu quá nhiều về vấn đề buôn bán, tiền nong mà ít nhắc đến đất tổ) - và bà vẫn nhận được thơ đều của thằng con trai quý mến của bà bên đất tổ. Việc Uông-Tinh-Vệ bỏ Trùng-Khánh qua Hà-Nội thì bà biết vì Hà-Nội là Thủ-đô đất tổ của bà, còn việc họ Uông dời Hà-Nội đi Hồng- Kông rồi lập chính phủ thân Nhật ở Nam-Kinh thì có cái gì liên lạc với đất tổ đâu mà bà cần phải nhớ?

Tất cả những người Tàu bà con họ gần họ xa với chú Nìn, bà đều giao thiệp rất mực hoà-nhã đủ lễ, nhưng bà đặc biệt quý mến một người em họ chú Nin chỉ vì người này đã từng buôn bán lâu ngày ở Hải-Phòng và khi về Tàu thì luôn mồm than phiền một câu duy nhất "Chà, nhớ phở Việt-Nam quá!"

Bà có nhớ ngày quân Nhật bất thần dội bom xuống hạm đội Hoa-Kỳ ở Trân-Châu- Cảng không phải vì chính biến cố đó, mà thư từ liên lạc giữa Nam-Kinh với nước nhà bỗng xáo-trộn hẳn, một tháng trời qua bà không nhân được lá thư nào của Khoá. Rồi thư Khoá tới, Khoá vẫn làm ở đoan, bé Thanh, cháu nội của bà, đã sắp lên năm. Vào năm 1943 bà được Khóa thư cho hay là Khoá không chịu được đời sống công chức, đã xin nghỉ dài hạn ở đoạn sau năm năm phục vụ ngành này. Sở dĩ Khoá phải xin nghỉ dài hạn không lương để rồi sẽ tìm cách xin thôi sau vì thiên-hạ còn ở trong tình trạng chiến tranh, công chức đâu đựợc quyền xin thôi. Bà sung- sướng không thể tả được khi đọc những bức thư dài Khoá thuật lại những chuyến buôn lỗ lãi. Khoá lại tả cảnh Lào, nếp sống Lào trầm tĩnh hiền hoà khác hẳn nếp sống ào-ạt hỗn-độn của Tàu. Đã tám năm giời bà không gặp Khoá, bà không thể mường tượng nổi thằng con giai độc nhất của bà bây giờ vẻ mặt dáng người ra sao. Bà còn giữ nguyên vẻ mặt dáng người của "nó" năm nào ở Lào-Kay nhưng chắc- chắn "nó" bây giờ khác xưa nhiều. Nhưng cứ đọc thư không thôi, bà cũng tin rằng Khoá khôn ngoan lanh-lợi và ăn nói có duyên lắm.

Chú Nìn thuở còn ở Lao-Kay, sau ngày người vợ cả mất, hay đi tìm khuây ở ca lâu và một lần mắc bệnh tình, vì vậy mà khi tục huyền với bà Đô chú không thể có con được nữa. Đó là cái phúc lớn cho bà Đô, bà vẫn cám ơn thầm Trời Phật về điều này, một mình bà trả nợ đủ thôi, nợ chẳng nên thành dây thành rễ mà làm gì!

Tháng tám 1945 Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, nước Trung-Hoa bước lên hàng cường quốc thứ năm trong hàng ngũ đồng minh, vinh hạnh đó bà chẳng hề sơ múi của chú Nìn. Tại nước nhà cách mạng tháng tám thành công, nghe nói có lộn-xộn nội bộ, nhưng bà vẫn nhận được thư đều của Khoá, thế là được! Nhưng rồi sang năm sau phòng quan rút về Tàu, nghe chừng nội bộ lộn-xộn dữ, thư Khoá không tới, rồi kháng chiến toàn quốc... bà Đô có cảm tưởng bà rơi chìm nghỉm xuống một vực sâu. Thêm một tin sét đánh: gia đình ông Kiển nhất định dời đi Hồng- Kông, "thật là con người bất nhân, chỉ nghĩ đến tiền" - bà nghĩ thầm thế, nhưng rồi bà hồi tâm thấy rằng mình đã ích kỷ, trách cứ ông Kiển vô lý chỉ vì thương và lo cho Cam không còn một hình bóng nào của đất tổ để mà bấu víu cho khỏi mất gốc.

Cam đã mười sáu. Có phải đây là xứ lạnh, con gái dậy thì muộn, hay vì xa đất tổ thân yêu thích hợp cho sự nảy nở cơ thể cũng như tâm hồn, Cam tuy tới tuổi đôi tám mà còn ngây-ngô như đứa nít mới lớn. Nước da Cam trắng hồng và rất mịn, khuôn mặt tròn phúc hậu, mái tóc mềm, đen, cắt ngắn ngang vai, đôi mắt to đen lúc nào cũng như ngạc nhiên hết từ vật này đến vật nọ, hết từ chuyện này đến chuyện nọ. Cam chính là hình ảnh xinh đẹp phúc hậu của bà Đô xưa hồi còn con gái, nhưng kém sắc-sảo hơn nhiều. Nhìn Cam người ta có thể liên tưởng đến một đức trẻ chỉ có cơ thể lớn bồng lên một cách bất thường. Bà Đô cũng hiểu thế lắm, bà muốn phát điên lên, trời ơi, rồi đây không còn một gia-đình Việt-Nam nào nữa ở đây, thì Cam sẽ ra sao, Tàu không ra Tàu, Việt không ra Việt!

Chỉ còn một điều làm bà yên lòng đôi chút là Cam nói tiếng Việt rất sõi, rất trôi chảy. Điều này bà phải nhớ ơn gia đình ông Kiển, nhớ ơn nhiều, nhiều lắm.

Vừa may lúc đó Khiết tới. Lạy giời, lạy Phật!

VII

>Như chúng ta biết, Khiết cùng một số bạn cách mạng trẻ sang đây hoạt động tìm thế liên minh các lực lượng quốc gia để chống lại đoàn thể Việt-Minh Cộng-Sản hiện đương nắm chính quyền. Khiết hoạt động mạnh, đi đi lại lại như mắc cửi trên con đường xe hỏa nối Nam-Kinh với Thượng-Hải, nhưng vào dịp phải đợi, hoặc đợi tổ chức hội nghị sắp tới, hoặc đợi đại biểu đoàn thể bạn sắp tới... thì Khiết hết sức lợi dụng những ngày giờ được nghỉ xả hơi đó mà vãn cảnh Nam-Kinh, đi thăm và tìm hiểu những sử tích Nam-Kinh. Khiết mua một bản đồ Nam-Kinh có kèm một quyển chỉ nam sơ lược, nhiều khi Khiết phải lật mở cuốn Trung-Quốc Sử-lược để tra cứu thêm về một vài nhân danh, địa danh...

Hôm đó vừa ở Thượng-Hải về Nam-Kinh, Khiết đã tới gặp vị lão thành cách mạng, xin người đứng làm trưởng phái đoàn dẫn anh em đến yết kiến Thống-Chế Tưởng-Giới-Thạch tại Trùng-Khánh để giành lấy sự ủng hộ tích cực hơn của Quốc- Dân Đảng Tàu, vị lão thành cách mạng quyết định hôm sau phái đoàn sẽ lên đường. Thế là Khiết được dịp nghỉ xả hơi từ trưa hôm đó đến sáng hôm sau. Chàng thủng- thẳng đi ngược dòng sông Tần-Hoài lên phía trên, nhìn bãi cát trắng phau với hàng liễu rủ, cái soi ở giữa sông tràn ngập ánh nắng trưa, trông tưởng như có nhích lại gần bờ hơn chút đỉnh. Chàng vừa tựa vai vào một thân liễu thì có tiếng hỏi rụt-rẻ nhưng trong-trẻo, ngay phía sau:

- Xin lỗi ông, ông có phải là người Việt-Nam không ạ.

Khiết giật minh quay lại, chết chưa, chàng mải suy nghĩ làm sao mà có người theo sát mình phía sau một quãng đường không biết. Người hỏi là cô gái khuôn mặt tròn phúc hậu đôi mắt mở rộng thơ ngây, Cam. Chàng gật đầu:

- Vâng, tôi là người Việt-Nam, sao em biết?

- Thưa ông mẹ cháu đoán vậy nên sai cháu theo ông hỏi.

Khiết càng ngạc nhiên, hỏi:

- Thế mẹ em đâu?

Cô gái chỉ về một cái quán có hàng cột sơn đỏ đằng xa và nói:

- Mẹ cháu dặn nếu quả ông là người Việt-Nam thì mời ông lại đằng quán.

- Thì chúng ta lại!

Khiết nói vậy rồi cùng cô gái quay gót, trong bụng đoán thầm mẹ cô hẳn người Việt lấy Tàu và mở ngôi hàng ở đó. Khiết chỉ đoán đúng đại thể, sự thực không hoàn toàn như vậy. Hôm đó bà Đô hết giờ làm việc đương trên con đường từ nhà thương Nam-Kinh về nhà, bà chợt dừng lại trên vỉa hè chú ý nhìn theo một khuôn mặt hơi cúi xuống và đăm chiêu đi ngược chiều ở bên kia đường sát bờ sông Tân-Hoàị. "Đúng là khuôn mặt người Việt-Nam mình" bà tự nhủ. Bà có quay lại bước theo mấy bước ngập-ngừng toan đích thân sang hỏi. "Mẹ!" tiếng Cam đã từ nhà đi đón như thường lệ. Bà gật đầu cười lại với con, nhưng óc vẫn suy nghĩ lung lắm chưa biết tìm cách nào để hỏi người đó cho khỏi đường đột vô lễ. Bà chợt tìm ra, chỉ người khách vẫn lững-thững tiến bảo Cam: "Mẹ trông người kia ngờ-ngợ là người đồng hương, con hãy chạy lại hỏi nếu phải là người Việt-Nam thì con mời ông ta lại, mẹ ngồi đợi ở quán ăn này đây". Thấy Cam ngần ngại, Cam vốn rụt rè như vậy bà nói luôn: "Mau lên con, không có người đó đi mất".

Khiết lại, bà Đô gọi trà bánh thết, bà có hỏi qua vì sao Khiết có mặt ở đây rồi bà tự giới thiệu hoàn cảnh bà. Bà nói vắn tắt nhưng đầy đủ, bà giới thiệu Cam với Khiết và bày tỏ nỗi lo âu vô cùng của bà về nỗi Cam đã không được sống ở nước mà lại không có một bóng gia đình Việt nào ở đây rồi thì ra sao?

Khiết hiểu ý bà Đô muốn tuy ở đất Tàu nhưng luôn luôn phải có "làn gió Việt" thổi qua để người con gái lớn lên ở đầt Tàu kia của bà khỏi mất gốc vì - lời bà luôn luôn nhắc tới trong câu chuyện - "cây có gốc, nước có nguồn, con người mà gốc chẳng biết nguồn không hay thì còn ra cái gì!"

Bà Đô chép miệng lắc đầu ngừng nói khi câu chuyện tâm sự với người đồng hương đã hết. Bà còn biết nói gì hơn? Bà bịn rịn còn muốn kéo dài giây phút họp mặt thêm chút nữa, bà hỏi:

- Dạ thưa, ở bên nhà quê ông ở đâu đấy ạ?

Thưa bà - Khiết đáp - tôi quê ở Sơn-Tây, huyện Thạch-Thất!

- Quý hóa quá! Thế ông cùng các bạn hữu còn ở đây bao lâu nữa ạ?

- Thưa, chúng tôi cũng không rõ, còn tuỳ ở công việc và cấp trên.

- Thưaaa... ....

Bà Đô ngừng lại, bà muốn mời cả bọn đồng hương đó đến nhà ăn cơm lắm nhưng bà biết chú Nìn sẽ phật ý lớn (tuy chú ưng chịụ) bà không muốn vậy.

- Thưa a a... ông cho biết quý danh để lỡ lần sau có gặp tôi thưa tên cho

tiện.

- Thưa tôi là Khiết, Lê-Tịnh-Khiết!

Đôi mắt bà Đô chợt sáng lên. Tuổi tác không hề làm cùn nhụt trí thông minh của bà, bà thấy ngay cơ hội:

- Ông họ Lê? Trời ơi, ông cùng họ với tôi, quý hoá quá, tôi quê ở Quảng- Yên.Thôi thế này ông nhé... nhưng chẳng hay hiện giờ ông có bận việc gì cần đi ngay không ạ.

- Thưa sớm mai tôi mới phải đi.

- Vâng nếu vậy thì mời ông về nhà tôi bây giờ, tôi giới thiệu ông với nhà tôi. Vâng... tôi giới thiệu., xin ông thứ lỗi cho... tôi giới thiệu ông là em họ tôi mới ở bên nước nhà sang đây hoạt động cách mạng... chúng ta há chẳng đồng tộc với nhau là gì... vâng xin ông cho phép tôi được nhận ông là em.

- Thưa bà sang đến đây đựợc bà nhận họ coi là em, thật hân hạnh cho tôi!

- Con ơi - bà Đô run run nắm lấy tay Cam đặt lên tay Khiết - từ nay con phải gọi ông Khiết đây là "cậu Khiết" nghe không, vai "cậu" là "em mẹ" con nhớ chứ?

Cam gật đậu, bà Đô rơm-rớm nước mắt, vội đứng dậy để dấu sự đó, bà tiến ra quầy giả tiền rồi quay lại mỉm cười - bà đã giữ lại bình tĩnh - nói với Khiết:

- Nào mời ông theo tôi!

Khiết từng chứng kiến nhiều cảnh nhận họ của người Tàu đổi với người Việt, thật hồn nhiên: "Ủa ông họ Lý à, tôi cũng họ Lý đây, chúng ta là anh em cả mà". "Tốt lắm tiên sinh họ Trần, tôi cũng họ Trần, tưởng ai xa lạ!" Điều đáng quý và lý thú là sau khi nhận họ như vậy người Tàu có bổn phận mời người bà con tự phương xa lại về nhà chè-chén phè-phỡn. Chúng ta hãy tưởng tượng trong đám thanh niên xuất ngoại làm cách mạng kia, vào đúng lúc phải "nhậm xà" với lạc rang trừ bữa mà được ông Tàu nhận họ như vậy để rồi mình có thể kéo thêm một vài anh bạn đến dự tiệc nhận họ thì còn gì bằng. Câu chuyện kéo nhau đi ăn gỡ như vậy, nhìn bằng con mắt nghiêm trang thực chẳng có gì đáng hãnh diện, khốn nhưng người Việt mình ưa trào phúng, nhất là vào những lúc thất vọng ê chề buồn nản nặng chĩu, thì thái độ trào phúng không những là lối thoát mà còn là phương pháp mầu nhiệm để bồi đắp lại những sinh lực đã mất.

Khiết ưa tìm hiểu đến nơi đến chốn, thấy rằng thái độ nhận họ một cách chí tình của người Tàu chẳng phải vì người Tàu quá ngây thơ. Nguyên do thuở nhỏ họ cắp sách đến trường, thì môn địa lý dạy ở nơi này vẫn mặc nhiên coi cái mẩu đất nhỏ bé dính liền với nước Tàu ở miền cực Nam kia là của nước Tàu, rồi cả những người không cắp sách đến trường cũng bị lây cái quan niệm lờ-mờ đó và coi cái tên "Dệ Nàm" (tiếng Quan-Hỏa) hay Dịt-Nàm (tiếng Quảng Đông) là tên một quận huyện nào đó của nước Tàu.

Nhưng chẳng biết lần này sẽ ra sao vì là trường hợp người vợ "Dệ Nàm" nhận họ.

Khiết đã theo bà Đô về tới nhà. Bà giới thiệu Khiết với chú Nìn, giọng thao thao bất tuyệt. Khiết tuy đã nghe và nói khá sõi tiếng Quan-Hỏa mà chỉ hiểu được lõm- bõm, hình như đó là tiếng nói của tình cảm mà người nghe cần trực giác nhiều hơn cần lý trí. Chú Nìn chắc cũng chẳng hiểu gì hơn Khiết, nhưng chú nghe bằng trực giác, chú thong-thả vuốt râu mép gật-gù, miệng bập bập ống điếu thuốc lào, phun khói từng đợt nhịp với tiếng "ừ ừ" như để chấm câu. Khi bà Đô vừa dứt, chú thân ái ngẩng nhìn Khiết... Bà Đô sung sướng ứa nước mắt khi thấy chú Nìn ra nắm lấy hai cổ tay Khiết lắc lắc mấy cái mà rằng:

Hẳn hỏ, ủa mán ta tchya tú shử sấn síi!

(Tốt lắm, chúng ta đều là thân thích cả mà!)

VIII

Theo ông Hải dời Vientiane, rời mái học đường - Collège Pavie - nơi niên khoá cuối cùng vừa qua. Khoá lĩnh phần thưởng hạng ưu, về đến Hà-Nội Khoá gặp kỳ nộp đơn thi vào hai nơi: Toà Sứ và Sở Quan-Thuế. Trong khi chờ kết quả, Khoá theo đúng lời mẹ dạy, thoạt về quê nội - làng Liên Phú - rồi quê ngoại - miền Ninh- Tiếp - nhận họ hàng cả hai bên.

Sản xuất muối-nấu vẫn là "nghề tay mặt" của quê ngoại, Khoá gặp một ông cậu khá vui tính, buổi chiều, chỉ đoàn người nhà đi chặt củi về nấu muối, ông nói:

Cây xú, cây vẹt thổ sản của miền đồng lầy này lại được dùng làm củi đun nước biển của vùng. Rõ thật "nồi da nấu thịt".

Trở lại Hà-Nội, Khoá về thăm quê vị hôn thê ở Văn-Lý (Nam-Định). Nhạc phụ Khoá có ruộng muối ở đây Khoá không ngờ quê mẹ đã làm muối, đến quê vợ cũng làm muối nốt. Vì nhớ đến mẹ nhiều mà Khoá thích chú ý đến muối. Khoá so-sánh thấy muối nấu hai miền Đồng-Bài Ninh-Tiếp (Quảng-Yên) khác với muối Văn-Lý, phương pháp làm cũng khác. Ruộng muối là những vùng đất tháp phẳng không cao hơn mặt biển bao nhiêu, có những con ngòi dẫn nước biển vào. Khoá đã cùng nhạc gia cho gánh cát trải phẳng thành một lớp mỏng trên mặt ruộng muối, xung quanh luôn luôn có nước biền thấm qua đất. Buổi chiều Khoá cùng gia nhân vun cát lại thành đống, xúc lên phên, giội nước chất muối lọc theo mương chảy dồn về một cái hố xa, hôm sau láy gầu vục lên đổ vào một cái sân lát xi măng hay vôi gạch, xung quanh có gờ nhỏ cao chừng năm phân để giữ nước. Dưới sức nóng mặt trời nước bốc hơi còn lại muối, một thứ muối kết tinh thành từng hạt khá lớ màu ửng hồng - phải chăng vì có nước sông Hồng chảy ra cửa bể Văn-Lý? Muối Văn-Lý nổi tiếng hơn cả, chính thứ muối này mới đủ độ mặn để muối dưa, muối cà, là những món ăn nghèo, thuần tuý dân tộc.

Rồi Khoá cũng đã từng theo gia nhân xe muối đến kho có rào xung quanh, một phó đoan ngồi kiểm soát, ra lệnh người phụ việc phát rổ, muối được xúc vào rổ cho có ngọn rồi đội vào đổ trong kho. Những người dân chuyên đội thường cạo đầu nhẵn thín (để về nhà dễ gội), thêm nước da người miền biển rám hồng, trông chẳng khác những vị sư hổ mang loại Lỗ Trí Thâm. Kho muối lợp tuyền bằng cói, hai chân mái chấm sát mặt đất, bên trong muối đổ đầy sát nóc. Mỗi lần đổ xong rổ muối ra, tên phó đoan người Pháp lại vứt vào rổ cho một jeton, sau này đổi thành tiền. Khoá hỏi:

- Thưa thày về mùa lạnh thì vùng ta nghỉ làm muối?

Cụ đáp:

- Mùa lạnh cũng có làm nhưng số thu hoạch rất ít, gọi là mùa chiêm.

Vui câu chuyện cụ giảng thêm:

- Những năm mưa nhiều mất mùa muối, miền Bắc đành tiêu thụ tạm muối Nam. Cách đồng bào miền Nam làm muối giản dị hơn, chỉ việc đắp con trạch - (thứ bờ ruộng nhỏ, nói theo danh từ miền Bắc) - giữ nước, cho đến khi nước hao đi, trơ muối lại, muối Nam cục to, màu trắng, mặn chát, chứ không thành hột nhỏ đều, màu hồng và mặn dịu như muối Văn Lý nhà. Vì muối Nam không "hợp giọng Bắc" nên vào những muối mất mùa, người Văn Lý thường lấy gạch non nghiền nát ra thành bụi rắc vào nhuộm màu hồng để giả làm muối Văn Lý.

Có lẽ vì thấy cậu con rể tương lai thực sự muốn hoà mình vào nghề làm muối, dù chỉ là về chơi mấy ngày, cụ càng mến; sau bữa rượu tối, cụ nằm khểnh trên chiếu giải ở góc sân dưới một gốc mít lớn, vừa phẩy quạt nhìn ao vừa thuật lại sự tích của cụ xưa:

- Trước đây tôi nghiện từ năm mười tám tuổi, anh biết không. Cả họ ghét tôi như ghét một con chó ghẻ, chỉ có hai người thương tôi, một là mẹ - mẹ nào mà ghét con - hai là chị dâu. Chị về làm dâu hồi tôi còn nhỏ xíu từng cõng tôi lên vai mang sang chơi các nhà hàng xóm, vì vậy mà lúc tôi lớn lên trót hư hỏng chị không nỡ ghét nữa. Tôi bực mình bỏ nhà đi đăng lính. Vì tôi có học đến cours moyen bập bẹ nói ít tiếng Pháp nên được đóng cai, cai nhà giấy- caporal fourrier- đóng ở Ban Mê Thuột. Lúc đó tôi đã thôi không hút nữa, tôi muốn thôi là thôi anh nghe chưa, cuối năm tôi gửi về biếu mẹ ba chục đồng, biếu bà chị dâu một chục đồng. Ba năm trấn thủ ở Ban Mê Thuột tôi xin nghỉ phép về quê để biếu mẹ số tiền dành dụm là tám trăm đồng. Đi khỏi địa phận Ban Mê Thuột bằng voi, rồi lên xe hàng xuống Nha Trang, lên tàu thuỷ về Bắc, trên tàu thuỷ tôi sà vào đám bạc nướng hết tám trăm, về thăm mẹ, trần như nhộng. Nhưng mà thôi, mất tám trăm nhưng tôi đòi lại cho đất nước Việt Nam mình hai tỉnh Ban Mê Thuột và Kontum, không tốn một tên quân, cũng chẳng phải đem công chúa mà đổi lấy hai châu Ô, Lý như kiểu người xưa. Anh ngạc nhiên ư, sự thực là thế đó, lịch sử đâu có ghi tên tôi, tôi là thứ anh hùng vô danh mà. Chả dạo đó tôi giúp việc rất đắc lực cho tên đại lý người Pháp ở đấy. Thoạt các giấy tờ hành chánh về hai tỉnh Ban Mê Thuột và Kontum đời tên đại lý trước đều xếp vào hồ sơ nước Lào. Đến đời tên đại lý này, thì hắn ngờ ngợ không biết nên xếp vào nước Lào, hay vào nước Việt. Tội viện ngay lý: "ông cứ trông bản đồ trên tường kia, lại xin ông nhớ cho chiếc dốc dời khỏi tỉnh Ban Mê Thuột đổ về phía Ninh Hoà thì tất nhiên hai tỉnh này phải thuộc về An Nam mới hợp lý". Hắn chặc lưỡi gật đầu nói: "Vậy thì đồng ý!" Thế là từ đấy hễ cứ đánh giấy tờ hành chánh thuộc hai tỉnh Ban Mê Thuột và Kontum tôi tự động xếp vào hồ sơ nước An-Nam nhà ta. Tôi nghĩ rằng nếu cũng có một người Lào giúp việc tên đại lý và y nói tiếng Pháp cũng thạo bằng tôi hay hơn tôi thì e rằng khó có thể dễ-dàng xếp trả hai tỉnh trên về cho đát nước mình. Đấy anh xem lịch sử có những chuyện vớ-vẩn như vậy, hậu thế "toạ hưởng kỳ thành" đâu có biết đến công ơn tôi.

Khoá thấy lời nhạc phụ quả chí lý và chàng cất tiếng cười hưởng ứng vì thấy tuy cụ nói vậy mà giọng chẳng hề gay-gắt oán trách hậu thế vong ân.

Về thăm mẹ và chị xong - cụ tiếp - tôi trở lại Ban-Mê-Thuột. Trước khi đi, tôi chặt đồng xu "nhát bách chi phân" làm bốn, thề là từ nay không đánh bạc nữa. Tôi được theo tên đại lý sang Vientiane, nơi đây làm ăn khá, cuối năm tôi gửi mandat về biếu mẹ hai trăm năm chục đồng và bà chị đầu năm chục đồng, thì một tháng sau mẹ gửi cho tôi...

Khoá thấy nhạc phụ ngừng lại chỗ đó, ngừng quạt, khẽ nghển cổ lên hỏi:

- Anh có biết mẹ tôi gửi cho cái gì không, gửi cho một... cô vợ!

Cả hai cha con cùng cười. Vị nhạc phụ lại nằm xuống, phẩy mạnh chiếc quạt giấy lớn, mùi rượu nồng-nàn toả đến chỗ Khoá ngồi, tựa như chính câu chuyện làm nồng-nàn hơi rượu, ông cụ tiếp, giọng rất trào lộng:

- Trời ơi bà mẹ vợ anh thì thật là đi ỉa không biết đường về! Khi mà vợ anh sinh ra, tôi phải gửi về quê nhà để nhờ bà chị dâu nuôi giúp, vì vậy mà vợ anh ngày nay vẫn gọi bà chị dâu tôi là "chị đẻ". Sau hai năm giời xa nhà, lần này tôi để dành được ngàn rưỡi bạc, toàn bạc hoa xoè. Vào dịp tết Nguyên đán, cứ chỗ nào có Việt kiều là có đám xóc đĩa. Tôi mang mấy đồng đi đánh chơi, thua, tôi bảo bà mẹ vợ anh về lấy cho tôi vài đồng nữa, bà ấy về lấy, tôi lại thua. Cứ như vậy đến mười lần tôi bảo bà ấy về lấy tiền, bà ấy lẳng lặng nghe theo chẳng hề cản tôi lấy một câu. Rồi tôi đích thân về lấy, lấy hàng vốc bạc hoa xoè, trong trí không hề quên trước đây khi từ biệt mẹ đã chặt đồng xu làm bốn để thề. Sang đến canh hai, tôi thấy rằng số ngàn rưởi bạc hoa xoè chỉ còn chừng ba bốn chục bạc là cùng. Thôi thì đã mất cho mất hết, thế lại khỏi ân hận, tôi vơ cả đống còn lại đó tới chiếu bạc đặt hết sang phía chẵn. Nhà cái "chẵn về", mở ra lẻ. Tôi cho rằng đó chẳng qua số mệnh đánh dứ mình một đòn cho có vẻ "lẳng-lơ", rồi mới thu một lần cuối, khánh tận. Tôi vẫn đứng ghé chân chèo tạm bợ để nguyên tiền bên chẵn. Nhà cái hấp tấp mở bát ngay, ý muốn thanh toán tôi cho rồi, như người đao phủ bỗng nổi một cơn lương tâm, cho hành quyết gấp để thu ngắn thời gian bi đát của tên tử tội. Bát đồ sấp hai, chẵn. Tôi để nguyên. Bát mở: sáp tư! Tôi vẫn để nguyên. Bát mở: ngửa tư! "Thật là kỳ dị!" Cả làng cười ồ nói vậy. Tôi vẫn để nguyên, máu hồi sinh đã dồn lên mặt. sấp hai! Lúc đó tôi mới lách ngồi xuống kẻo đống tiền về bắt đầu đánh cẩn thận. Cả làng nhường như chống lại tôi. Tôi đặt một bên thì họ bảo nhau đặt cả sang bên đối lập vì họ không thể quan niệm rằng tôi đã đỏ lại có thể đỏ mãi được. Nhiều khi một mình tôi đặt chẵn (hay lẻ), nhà cái còn hô với tôi "bán sạch lẻ" (hay chẵn), tất nhiên tôi mở liền, thường mười lần họa là thua một. Cuối canh tư sang đầu canh năm, tôi vét sạch làng, bà rnẹ vợ anh vẫn ngồi chồm-hỗm gần đấy đợi tôi, chẳng vui lúc đó mà cũng chẳng buồn trước đây, tôi bảo bà ấy vào nhà mượn bà chủ quang gánh, bà gánh về hai rổi bạc hoa xoè đầy! Tôi xin giải ngũ, vẫn ở lại Vientiane buôn bán và nhất định không đánh bạc nữa, lần này nhất định thật. Rồi tôi đứng làm đại diện Việt kiều bên ấy. Từ ông thượng thư Phạm-Quỳnh đến ông thiếu Hà-Đông Hoàng-Trọng-Phu ở bên nước nhà hét ra lửa, sang đến Vientiane là phải đến thăm tôi trước. Tôi quen ông Hải nhà cũng vào dịp này đấy, đôi bên thành bạn tri kỷ. ông Hải đổi về tôi cũng về theo, tôi về thẳng quê nhà đây giúp bà chị dâu một tay làm muối, nghề cũ. Chỉ tội nghiệp bà mẹ vợ anh mất ở bên đó ba năm trước đây. Phần mộ của bà tôi cho xây đẹp nhất, chọn chỗ sơn thủy hữu tình nhất, bên bờ sông Mê-Kông. Rồi đây có thể cao hứng tôi cho dời bà về quê, bởi tuy sinh thời bà ít nói, nhất là ít yêu cầu tôi điều gì nhưng khi biết mình sắp chết bà có giối-giăng lại là hãy cố mang bà về quê cha đất tổ!

Nhạc phụ ngưng câu chuyện ở đấy. ông phe-phẩy quạt, chừng như đã thấy rã rưựu, ông phe-phảy quạt thêm mấy cái nữa rồi thiu thiu ngủ. Khoá rưng rưng nước mắt nghĩ đến mẹ mình. Cũng kể từ đấy câu chuyện bỗng thành một ám ảnh lớn với Khoá, chàng luôn luôn sợ mẹ chết nơi đất khách quê người.

Sau này - năm 1947 - đương tản cư ở Lạt-Sơn (Phủ Ịý) nghe tin mẹ dời Nam- Kinh về Hà-Nội bằng đường hàng không, Khoá đã bất chấp việc buôn bán còn dở- dang, bất chấp cả Công-An Việt-Minh, tạm để vợ con ở lại hậu phương, một mình dời Lạt-Sơn lên Đồng-Quan rồi vào thành (cùng hai người nữa) bằng con đường Văn-Điển. Khi hai mẹ con gặp nhau ở Hà-Nội rồi, Khoá mới yên chí là mẹ không đến nỗi phải gửi xương nơi đất khách quê người. Đồng thời Khoá được cô em út - Cam, năm đó tuổi vừa đôi tám - thủ-thỉ kể cho nghe cảnh mẹ từ trên phi cơ xuống, bà quỳ lạy cảm tạ Trời Phật và cúi xuống vừa khóc vừa hôn mảnh đất quê hương - khi đó là khoảng phi đạo xi-măng cốt sắt của phi trường Gia-Lâm.

Thật ra cử chỉ đó dù là chí thành cũng rất dễ biến thành hài kịch dưới con mắt bàng quan, nhưng lòng chí thành quá cô đọng của bà Đô kết lũy trong bao nhiêu năm - mười ba năm kể từ 1935 là năm bà rời Lao-Kay đi Nam-Kinh - nên bà đã thực sự thôi miên cả đám hành khách Việt có, Tàu có, Mã-Lai có, Ấn có... tất cả những giống người khác nhau trên đều do trực giác mà cảm thông thấy ngay rằng bà cụ đang quỳ xuống hôn phi trường kia là người đàn bà đã lưu lạc lâu năm nơi quê người. Một số nữ công nhân làm việc ở phi trường cũng thấy xúc động lây, kín đáo chấm nước mắt. Phi đoàn gồm ba người, đều là người Pháp, xuống sau cùng họ dừng lại một chút trước cảnh tượng đó và họ cũng lập tức hiểu ngay... Viên quan ba hoa tiêu kính cẩn cất chiếc béret basque màu xanh nước biển xuống và khẽ nghiêng đậu khi bước qua chỗ bà Đô quỳ, hai vai đương rung động, bà khóc không thành tiếng.

IX

Từ ngày tự nhiên được làm quen với gia đình bà Độ, vào những dịp nhàn rỗi Khiết có lại thăm bà cùng chú Nìn. Cam vẫn gọi Khiết bằng "cậu" và xưng "cháu", nhưng những danh từ "cậu cháu" đó, Cam dùng một cách vui-vẻ, hình như chỉ cốt để phân biệt nàng với tha nhân, tuyệt nhiên không đượm vẻ kính cẩn, cách biệt hẳn, như bên nước nhà, Khiết coi đó là một điều ngộ-nghĩnh để giải trí. Rồi mỗi lần có dịp đi thăm các di tích lịch sử: Huyền-Vũ-Hồ, Mạc-Sầu-Hồ, Yên-Chi-Tỉnh, Dã- Thành... Khiết đều cho Cam đi theo. Giá ở nước nhà, con gái mình vừa đến tuổi mười sáu như vậy, bà Đô quyết chẳng dám để cho tự nhiên đi chơi với bất cứ người đàn ông nào ở tuổi nào, nhưng đây là ở Nam-Kinh, người Việt ở đây lại hiếm như đất sỏi hiếm trạch, nên bà Đô còn lấy làm hỉ-hả là Cam đã được "cậu Khiết" đưa đi đây đó. Thường thì sau mỗi lần đi thăm một nơi về, "hai cậu cháu" vào giải lao tại một trà thất nào đó bên sông Tần-Hoài. Và nhiều lần Khiết quan sát Cam ngây thơ ra đùa nghịch bên ven sông với mấy cô bé bán lạc rang, hay mấy thiếu phụ bán miến nộng nấu với mề gà - đây cũng là thứ quà đặc biệt của Nam-Kinh như thứ hàm ạp hấp với sôi vậy - Khiết đặt thầm cho Cam cái tên "cô bé bên sông Tần-Hoài!

Khi bộ tham mưu của Mặt-Trận Quốc-Gia Thổng-Nhát Toàn Quốc dời xuống Hoa-Nam, Khiết đến chào chú Nìn lúc đó đương ốm, thì cả bà Đô và Cam cùng khóc, chính chú Nìn phải nghểnh cổ khỏi giường bệnh tìm mấy lời vỗ-về an-ủi hai mẹ con.

Khiết đâu có ngờ chàng xuống Hoa-Nam chừng hai tháng sau thì bệnh tình chú Nìn trở nên trầm trọng rồi chú tạ thế. Sau khi đã săn-sóc cho chú mồ yên mả đẹp để tạ ơn tri ngộ, bà Đô để lại cho hai anh chú Nìn phân nửa gia tài để hai người tiếp tục trông nom đứa con giai chú Nìn đương theo họ ở Mỹ, bà mang Cam về nước ngay. Nghe nói miền Quảng-Yên chưa yên, bà mua vé máy bay về Hà-Nội. Tỉnh nào cũng được, thành phố nào cũng được, miễn là đuợc sống giữa đồng bào trên đất tổ!

Năm 1948, Khiết từ Vọng-Các tới Nam-Vang chàng được các đồng chí bố trí cho về nước theo ngả qua Kampot rồi vượt biên giới về Hà-Tiên nước nhà (Chàng về tìm phưong kế giải quyết vụ phe quốc-gia kháng chiến bị Việt-Minh ra mặt khủng bố, đương lâm cảnh trên đe dưới búa). Vùng này trước đây vẫn yên tĩnh, rủi thay khi Khiết vừa đặt chân tới Kampot thì đoàn convoi gồm hai mươi nhăm xe GMC của quân đội viễn chinh Pháp bị giật mìn phục kích tơi-bời khoảng biên giới giữa Miên với tỉnh Châu-Đốc, Phòng Nhì Pháp lập tức cho tung màng lưới trinh sát dầy đặc. Khiết phải xuống một chiếc thuyền đánh cá Miên, dự định qua hải phận nước nhà sẽ sang một chiếc thuyền máy khác, ven theọ vịnh Thái-Lan mà về Rạch-Giá. Chàng bị giữ ngay khi vừa bước chân xuống thuyền đánh cá. Căn cứ vào quốc tịch, người Pháp cho chở Khiết bằng phi cơ quân sự về Sàigòn, nhốt chàng ở khám lớn Catinat, năm tháng sau đưa ra tòa án quân sự và mặc dầu chẳng có chứng cớ gì nhưng duy việc Khiết nhập nội Cao-Miên trái phép đủ để toà này lên án chàng mười năm biệt xứ, đày ra Côn-Đảo. Ngay tuần đầu, vào một buổi sớm sắp bị dẫn đi làm ở Sở Cây, một người bạn đồng cảnh đã nói khẽ với Khiết: "Anh mới bị đày ra đây mà đêm bị cùm, ngày đi làm tại lò nung vôi, như vậy phải cẩn thận lắm, một tháng sau anh có thoát khỏi Sở Tiêu mới cầm bằng là được ở tù mãn hạn" - "Làm Sở Tiêu còn vất-vả hơn ư hở anh?" Người bạn bật cười vì câu hỏi ngây thơ của Khiết: " Anh tưởng Sở Tiêu là gì, sở giồng chuối tiêu hay giồng hồ tiêu chăng? Sở Tiêu ở phía Tây-Nam Côn-Đảo, không có một cây chuối tiêu , chẳng có một giây hồ tiêu, đi đến đấy là ... tiêu đường về, đó là một bãi phẳng gần sát hồ sen, nơi thực dân thủ tiêu các chính trị phạm mà chúng cho là nguy hiểm nhưng không thể lên án tử hình vì e lộ-liễu mất chính-trị".

Chưa đầy một tháng qua Khiết bỗng nhận được giấy ân xá nhưng bị trục xuất khỏi miền Nam, phải trở về nguyên quán.(Mãi sau hiệp định Genève, Khiết mới hay một đồng chí cũ trong Mặt-Trận Quốc- Gia Thống-Nhất Toàn-Quốc của chàng được thực dân o-bế phong cho giữ chức vị tối cao chính phủ bù nhìn. Người bạn đó bị mua chuộc, tuy hết tinh thần cách mạng nhưng tình nghĩa đồng chí còn, nên ngầm ra lệnh ân xá và trục xuất chàng. Khi khám phá ra "ân nhân" thì thế nước đã thay bực đổi ngôi, quân đội Pháp lần lần rút khỏi miền Nam tự do, "ân nhân" cũng phải cao chạy xa bay và hiện nay còn lưu vong trên đất Pháp).

Lúc còn ở Côn-Đảo, ngờ mình rồi đến bỏ thây nơi Sở Tiêu, Khiết giữ một thái độ đợi chờ rất bình tĩnh. Chàng nghĩ dù có chịu thua số mệnh thì cũng thua một cách chững-chạc chẳng việc gì mà ưu phiền, mình đã làm hết sức mình rồi mà. Nhưng đến khi được tha, bắt trở về nguyên quán (miền Bắc) đặt chân đến Hà-Nội, nhìn những bóng áo xanh, áo đỏ cùng những suối tóc thề quanh hồ Hoàn-Kiếm, Khiết bỗng thấy tiếc đời vô cùng, tưởng như mình sắp bị thực dân dẫn tới... Sở Tiêu. Khiết gặp bà Đô ngồi trên ghế xi-măng, bên cạnh một thiếu nữ "mặt hoa da phán". Không hiểu sao Khiết lại nhớ đến thành ngữ rất... tuồng này, như Tiết-Đinh-Sơn khen Phàn-Lê-Hoa chẳng hạn, khi chàng gặp Ịại Cam, vì thiếu nữ độ chính là Cam, vẫn khuôn mặt phúc hậu xưa bên bờ sông Tần-Hoài, nhưng đôi mắt có chiều linh động hơn tuy vẫn giữ vẻ thản nhiên như xưa. Phải chăng vì cây Việt-Nam đã được gặp thuỷ thổ Việt-Nam để nở hoa? Cô bé bên sông Tân-Hoài nay đã là cô gái... bên sông Tần-Hoài (bởi mặt hồ Hoàn-Kiếm lúc đó gợn sóng xanh biếc như hệt sóng sông Tần-Hoài vào những sớm đẹp trời). Đôi bên nhận ra nhau ngay, bà Đô kéo tuột Khiết về ngôi hàng bán giày dép của bà ở HàngTrổng gần đấy, đó cũng là lần đầu tiên Khiết gặp vợ chồng Khoá và Thanh, đứa cháu nội đầu lòng của bà Đô. Cũng may Khiết sớm biết Khoá đồng niên với chàng, từ đấy, để thân mật, Khiết gọi bà Đô bằng bác, Cam cũng ấp-úng gọi chàng bằng anh và xưng em.

X

"Ừ trước đây quen xưng hô cậu cậu cháu cháu, nay đổi sang anh anh em em thl ngượng-nghịu một chút là phải" - Khiết nghĩ vậy rồi sang với Khoá lúc đó miệng cười mỉm rất tươi, rất chào đón.

Khiết vào chuyện trước:

- Thế mà anh đồng niên với tôi đấy. Dạo tôi gặp Bác ở Nam-Kinh mỗi lần đến thăm bác là người chỉ nhắc đến anh, hai tuần người không nhận được thư của anh thì người có thể phát điên lên được.

- Vâng, anh tính tôi xa mẹ tôi mười ba năm còn gì. Dạo đó mẹ tôi đi Nam- Kinh thì tôi dời Mông-Tự đi Vientiane.

- Anh đi cũng đã nhiều đấy chứ!

- Các cụ nói đúng anh ạ, đi một ngày đàng học một sàng khôn, mà là những bài học thắm thía, đi vào bằng cả năm cửa ngõ giác quan nên càng thắm thía. Cho đến ngày nay tôi còn giữ đựơc cảm giác man-mác miền cao nguyên Mông-Tự. Mỗi khi mặc áo ấm tôi lại sực nhớ ngày nào mặc áo ấm để đi đến miền Khề-Lùng-Thán ngắm chiếc hồ rộng trên núi, nơi có con rắn tu thành rồng. Chính câu chuyện cổ tích rắn tu thành rồng này đã mãi mãi tác động đến trí cố gắng của tôi về sau. Tôi vẫn thầm nhủ "nếu mình không cố gắng làm được cái gì khác thường thì ít nhất mình cũng nên hoài bão như vậy và phải biết kính phục những người đã thực hiện được những việc khác thường, tức là những rắn đã biết tu để hoá thành rồng."

Khoá kể luôn cho Khiết nghe cái chết của Lão-Chén rồi kết luận:

- Cái cảnh xử bạn Lão-Chén cũng để lại trong hồn tôi một bài học, môt lời khuyên gián tiếp: con người đứng truớc cái chết, thực trống rỗng, thể xác mình rơi vào cái chết như giọt nước rơi vào cái vực không đáy, biệt tích, biệt tích và biệt tích! Đừng nên ngu xuẩn thu vén cả đời mình cho thành một giọt nước cực lớn để cuối cùng đem dâng cho miệng vực. Hãy tự xoi mòn giọt nước, biến giọt nước thành hương thơm, đến giờ tối hậu giọt nước nhỏ xíu lăn xuống vực nhưng hương thơm còn lại phảng phát trên miệng vực! ở Mông-Tự mấy năm, hằng ngày chứng kiến nếp sống ào-ạt xô-bồ của người Tàu, đến khi sang Vientiane nếp sống của người Lào khác hẳn, thực là hai thái cực ở hai đầu đối chiếu nhau. Tôi thoạt theo bác Hải tôi về Hà-Nội đợi bác lấy xong giấy tờ ở sở Toàn Quyền, rồi lên tàu hỏa đi Nghệ An. Từ Nghệ-An lên ô-tô qua đèo Kim-Cương sang Thakhek. Từ Thakhek chúng tôi xuống tầu thuỷ, bốn ngày liền tầu cố vươn lên ngược dòng sông: lá bánh, vỏ chuối xuôi dòng trông buồn lạ. Chiều đến thế nào tôi cũng lên boong tầu ngắm dòng sông mênh-mông tịch mịch. Tới Vientiane, tiếp xúc với người Lào thì cảm giác buồn và tịch mịch được thay thế bằng cảm giác vui vui thanh bình hơn. Tôi hoà mình dễ-dàng với nếp sống Lào. Người Lào rất tốt, chất phác, hồn nhiên, thẳng-thắn. Tôi có cảm tưởng họ còn theo nếp sống bình thản nguyên thủy. Nhà ở ít cần hàng rào vây quanh nhà, thức ăn hằng ngày chỉ cần đơn giản vài nắm xôi với ít mắm chấm. Buổi tối con trai tự do đến nói chuyện với con gái bên guồng quay tơ dưới ánh cà boong (mặt cưa trộn với nhựa thông bó bằng lá, đốt). Dân tộc Lào luôn luôn hòa nhã và bao dung, đi nhỡ độ đường cứ việc vào chùa mà xin ăn. Nơi đây chỉ có hai mùa, mùa khô và mùa mưa, nhưng sông Mê-Kông thì mùa nào cũng rộng và đẹp, hai bên bờ cây xanh la đà rủ xuống mặt nước. Đương quen nếp sống thoải mái ở Lào, khi phải về Hà-Nội chứng kiến cách sống bon chen lừa-lọc ở đây, tôi phát ngán, muốn trở lại Lào ngay. Cũng may sau đó, tôi về thăm quê nội, quê ngoại, khí hậu lại chớm sang thu nhắc-nhở cảnh bốn mùa đất Bắc, rồi nhìn những cô gái thắt lưng xanh đỏ miền quê, các cô sắc-sảo hơn gái Lào nhưng còn giữ được thiên tính hồn nhiên, về Hà-Nội tôi thi cả hai nơi: Toà Sứ và Sở Quan-Thuế, đỗ cả hai nơi, nhưng tôi chọn ngành Quan-Thuế vì biết mình sẽ về Văn-Lý, quê vợ và trông coi ngành muối cũng là nghề của quê mẹ tôi xưa...

Khiết mỉm cười nghĩ thầm: "Mình đã là anh thích ngỏ tâm sự lại gặp cái anh thao thao gấp bốn mình. Sợ nụ cười của mình có thể bị hiểu lầm là thất lễ với bạn mới, Khiết vội hỏi:

- Trong thời gian anh làm ở Đoan, có gặp điều gì khó chịu không?

Thế là Khoá lại được dịp thao thao:

- Khó chịu có, dễ chịu cũng có. Tôi đến nhậm chức ở Văn-Lý, làm việc hết sức thẳng thắn, không nhận hối lộ một xu, thằng chánh đoan người Pháp lại là một cây ăn tiền, y được một đồng nghiệp của tôi, người Việt, ngang cấp với tôi, chỉ đường cho hươu chạy. Cả hai cùng ghét tôi thậm tệ, nhưng tôi cần gì. Một hôm tôi cầm quyển sách in đương đọc dở tới sở. Tên chánh đoan đòi mở quyển sách đó xem. Thoạt tôi giơ cho y thấy đầu đề sách là một cuốn khảo cứu về triết lý và tôn giáo. Dạo đó phải thường trực ở sở thì mở ra đọc tiếp. Tên chánh đoan vẫn đòi tôi phải trao cho quyển sách để y khám bên trong. Tôi xừng-xộ nói phăng là y không có quyền. Lúc đó tôi cũng chưa hiểu là y định khám cái gì. Y xông lại muốn giựt, tôi vứt quyển sách ngay dưới chân và nói lớn: "Tuy ông bằng tuổi cha tôi, nhưng tôi báo trước nếu ông động đến người tôi, động đến quyển sách, tôi sẽ cho ông một cái tát tức khắc!" Lời tôi nói vang vang, cương quyết như đinh đóng cột, y chùn lại, vợ y ở bên nhà (chánh đoan có nhà ở sát bên sở làm) vội chạy sang dàn hoà:

"Trời sao hai ông lại để chuyện đáng tiếc xảy ra như vậy?" Tôi giải thích cho người đầm đó biết nguyên do chồng bà vô cớ đòi khám quyển sách tôi cầm tay. Thì ra bạn đồng nghiệp người Việt của tôi nói vu là trong cuốn sách đó tôi gài một bản báo cáo mật lên ông Chánh Thanh-tra. Người vợ dàn hoà xong câu chuyện, tôi bèn cúi xuống nhặt cuốn sách và nói: "Bây giờ ông không đòi mở cuốn sách ra xem nữa thì tôi tự mở cho ông thấy là không có gì trong đó, nhưng sau đây tôi sẽ viết đơn lên cho ông Chánh Thanh Tra và đơn đó qua tay ông chuyển. Tôi làm cái gì thì làm quan minh chính đại, tôi không làm lén-lút như một thằng hèn!" Ngay buổi chiều, tôi đánh máy làm ba bản lá đơn đưa lên Chánh Thanh Tra ở Nam-Định, trong đó sau khi trình bày sự việc đã xảy ra tôi đề nghị xin cho thực hiện một trong ba điều: hoặc để tôi từ chức, hoặc để tôi nghỉ dài hạn, hoặc thuyên chuyển tôi về nơi khác làm việc. Một bản gửi theo hệ thống hành chánh qua tên chánh đoan, một bản gửi bằng thư bảo đảm, một bản tôi giữ. Tuần sau Chánh Thanh-Tra đến, hắn vỗ vai tôi nói: "Không phải ông đổi đi mà chính đối phương của ông!" Viên chánh đoan mới đến, hắn với tôi thành đội bạn tri kỷ vì hắn cũng thẳng-thắn và chúa ghét tật ăn hối lộ. Ngay buổi đầu hắn đến ôm lấy tôi rồi mới bắt tay và nhắc đi nhắc lại ba lần câu: "Chúng ta nên thề với nhau là tuyệt đối không bao giờ ăn hối lộ". Lúc đó dân chúng làm muối tại Văn-Lý đương cần giải quyết gấp một việc. Nguyên hai năm truớc các ruộng muối ở Văn-Lý không ra hàng lối nào hết, sở Quan-Thuế bắt họ phải tự lực sửa lại, ruộng muối đựợc chia thành từng lô đều nhau để dễ bề kiểm soát, Nông-Phố Ngân Hàng xuất vốn cho họ vay rồi trừ dần. Không may họ đương còn phải trả nợ thì năm nay trời mưa nát đất thối cỏ, muối mất mùa. Một đại diện của dân Văn-Lý tới gặp tôi, bày tỏ sử tình nếu năm nay nhà đoan tiếp tục trừ nợ - mỗi thúng muối đổ vào kho, lĩnh một jeton, đổi thành tiền một hào rưỡi, bị khấu mất năm xu tiền nợ còn một hào - thì gia đình họ đói mất. Người đại diện kính cẩn đặt lên bàn giấy của tôi một phong bì dán kín và nói khẽ: "Nếu ngài nói giúp được điều ấy thì dân chúng cả hạt Văn-Lý chúng tôi sẽ biếu ngài số tiền là một ngàn đồng, đây gọi là một ít chúng tôi đưa đến trước để làm tin". Tôi mỉm cười, làm bộ không để ý đến chiếc phong bì và nói: "ông cứ về nói với anh em là tôi sẽ hết sức nói giúp việc này". Người đại diện vừa ra, tôi thân mật vậy mời viên chánh đoan ở phòng việc kế bên sang, tôi chỉ chiếc phong bì và nói qua về lời đề nghị của dân Văn-Lý. Viên chánh đoan mở phong bì thấy bên trong có số tiền hai trăm đồng cười hỏi tôi: "Ý anh thế nào về việc xin hoãn nợ của dân Văn- Lý?" Tôi đáp: "ông nên đi Nam-Định ngay gặp ông Chánh Sứ, trình bầy rõ sự việc và xin quyết định hoãn nợ". Y đáp: "Anh nói đúng, để dân chết đói là điều thất sách vô cùng!" Tôi chỉ cái phong bì: "ông hãy cho cất cái này vào tủ sắt, chúng ta sẽ nói chuyện với dân sau" Y đáp: "Đồng ý" và cất. Y đi Nam-Định ngay buổi chiều, mười giờ hôm sau đã trở về với hỉ tín: viên chánh sứ Nam-Định đồng ý hoãn nợ. Tôi cũng báo ngay việc đó với người đại diện và bảo: "chủ nhật tới các ông hãy họp đủ đại diện tất cả các phường tại đình làng gần đây, tôi sẽ đến". Người đại diện vội-vã ra về, chắc là để quyên đủ số tiền đã hứa với tôi. Chủ nhật tôi và viên chánh đoan tới, cùng mọi người uống chén trà ở gian giữa đình; tôi nhường viên chánh đoan việc hoàn lại cho người đại diện phong bì tiền. Từ đấy người dân Văn-Lý hiểu chúng tôi lắm và viên chánh đoan càng quý tôi. Ba năm giời làm việc với y, hễ tôi bị ốm, lập tức y thu xếp xe nhà đưa tôi đi nhà thương Nam-Định liền, cách đó bốn chục cây số.

Khiết thấy Khoá chớp mắt cúi xuống, khuôn mặt thoáng buồn, tiếp:

- Thế mà tôi bỏ đoan!

- Vì tên chánh đoan khác tới?

- Không, tên chánh đoan cũ vẫn còn chính vì hắn mà tôi xin nghỉ dài hạn.

- Ủa! Anh giận vì y bị hủ hoá?

- Không, y vẫn thanh liêm, chúng tôi vẫn quý nhau!

- Ủa!

Chúng tôi vẫn theo lệ: tết Tây tôi đến ăn cơm Tây với y - y độc thân - tết Ta y đến cơm với tiểu gia đình tôi. Tết Tây năm đó tôi uống vang khá say với y, vào lúc dùng cà-phê tôi cao hứng nói: "Anh thấy không anh đỗ Brevet elementaire, tôi đỗ Diplome, hai cấp bằng tương đương, chỉ vì anh là người Pháp, anh học ở trường Thuộc Địa ra nên anh là chef tôi". Y cũng đã ngà ngà say, đáp liền: Hai cấp bằng tương đương thật nhưng không giống nhau, chúng tôi là người Âu có cá tính văn hoá riêng, chúng tôi đã thành tập quận mà tập quán là thiên tính thứ hai. Bằng cấp của tôi tuy thấp, nhưng giá anh có bằng thạc sĩ của chúng tôi, anh cũng không thể hơn tôi, vì cái học của các anh không thành nếp,chỉ là cái học bắt chước!" Thật tình lúc đó tôi tỉnh rượu ngay, ai mà không tỉnh rượu hở anh, lời nói của y là cả một thùng băng giá giội ào lên đầu lên cổ lên lưng. Tô đã từ lâu tự huấn luyện được tính "tiên trách kỷ, hậu trách nhân", câu đáp của y là cả một quốc sỉ cho tôi, nhưng tôi không nổi khùng, tôi nhận ngay rằng chính lời nói trước của tôi đã khiêu khích y phản ứng lại như thế. Vì hơi men, vì vui câu chuyện, tôi đã vô lễ với bạn trước, tội phải chịu hậu quả đó là phải. Thấy tôi sững-sờ y cũng hỏi ngay và nói chữa: "Chết chưa, tôi say nên nói lung-tung quá, thật ra đâu phải các anh ai cũng thế. Như anh chẳng hạn, anh há chẳng có một nhân cách đặc biệt là gì?" "không không - tôi đáp - chính tôi phải cám ơn anh, cám ơn nhiều lắm, bởi anh đã cho tôi một của quý vô giá, anh đã cho tôi Sự Thật." Y nói luôn "Đừng, anh đừng để ý đến lời tôi vừa nói, xin lỗi anh, lời nói đó xấu nhiều hơn tốt, sai nhiều hơn đúng". Tôi thít hai hàm răng lại, cố giữ vẻ mặt bình tĩnh nhưng chắc là trắng bệch vì đau-đớn, giọng tôi hết sức bình thản: "Có sự thật mà vì quý nhau chúng ta không nỡ nói sự thật đó được chôn vùi thật kỹ, được hai phiến đá Ý-Thức và Bổn-Phận đậy chặn nắp, được Tình Bạn phủ hoa, chúng ta ai mà chẳng yên chí rằng như vậy là Sự Thật được mồ yên mả đẹp, nhưng sự thật là sự thật, anh thấy không, bằng cách này hay cách khác nó luột khỏi hầm giam. Tôi phải cám ơn anh, chính tôi phải cám ơn anh!" Thấy tôi nói lưu-loát và điềm đạm như vậy, y càng hối hận, nhưng lúng túng chưa biết nói thế nào để chống chế lại lời tôi nói, tôi đã đứng dậy cáo lui, chúng tôi bắt tay nhau thật chặt và thật lâu, tôi tiếp tục nói thao thao, nhưng là những lời cám ơn về bữa ăn, cốt để xoá nhoà bầu không khí ân hận. Rồi tôi về. Từ hôm sau chúng tôi lại hằng ngày gặp nhau, Tết âm lịch năm đó y có vui-vẻ tới chúc Tết và ăn cơm Việt-Nam với tiểu gia đình tôi như thường lệ, nhưng vẫn có cái gì là gượng-gạo lởn-vởn trong không khí giữa tôi và y. Cả hai chúng tôi cùng biết vậy và cùng cố ý lấp-liếm đi cho nhau - lại láp-liếm sự thật - và cũng như lần trước, sự thật lại xuất kỳ bất ý luột khỏi hầm giam, lần này chính tôi là con đồng cho Sự Thật ốp vào. Hôm đó vừa hết giờ làm việc, y sang bàn giấy tôi ngồi xuống nói chuyện gẫu, coi như một thứ apérítif trước khi về nhà ăn cơm chiều. Nói được mấy câu thì bên ngoài đổ mưa, chúng tôi lắng nghe rồi cùng chìm trong mơ-màng. Trên nền tiếng mưa rơi rào-rào trên mái, tôi nghe lại rất rõ lời y nói ngày nào: "...Chúng tôi là người Âu có cá tính văn hoá riêng, chúng tôi đã thành lập tập quán...Bằng cấp của tôi tuy thấp, nhưng giá anh có bằng thạc sĩ của chúng tôi anh cũng không thể hơn tôi, vì cái học của các anh không thành nếp, chỉ là cái học bắt chước". Tôi muốn gầm lên cho át tiếng mưa rào-rào trên mái ngoài: "Hỡi các vị trí thức, hỡi các vị đã có văn bằng cử nhân, tiến sĩ, thạc sĩ tốt nghiệp ở đại học đường Ba-Lê, quý vị thông minh lắm mới đỗ được văn bằng cao tại nước người nhưng quý vị có nghe thấy chăng, cái học đó mà không trở về nguồn chỉ là cái học bắt chước cái học vong bản và người ta có quyền và có lý khinh quý vị!" Tôi chua xót mà nghĩ rằng lúc đỏ tiếng kêu của tôi - tiếng kêu siêu âm nhưng có thật - là tiếng kêu giữa sa mạc. Tôi nhắm nghiền mắt lại, lắng nghe mình tự nhắc lại tiếng kêu thảm khốc đó trong cùng thẳm tâm linh. Mưa bên ngoài đã nhẹ hẳn, tâm hồn mệt mỏi, tôi hẻ mở mắt nhìn qua cửa, một cơn gió vừa lùa vào, bất giác tôi đọc khẽ hai câu thơ của Sully Prudhomme:

Souvent aussi la main qu'on aime Effleurant le coeur le meurtrit.

(Thường khi chúng ta giống như bàn tay chạm vào trái tim tội giết người.)

Tôi chợt giựt mình tỉnh ngộ vì vừa đọc dứt hai câu thơ thì đến lượt tiếng y thở dài, tôi nhìn và nhớ ra y, y nhìn lại nhường như thầm trách sao người phương Đông hận thù dằng-dặc, nhưng rồi cả hai chúng tôi cùng cố phác một nụ cười xí-xóa, hắn đứng dậy, đi mấy bước đến cửa sổ nhìn mưa chỉ còn lất-phất và thốt cùng với tiếng thở mạnh. "Le vase brisé = Cái bình đã bị phá vỡ". Tình bạn của chúng tôi quả đã là chiếc bình có vết rạn, vết rạn nhỏ xíu vô hình nhưng ngày một mở rộng, trầm trọng vô phương cứu chữa. Hôm sau tôi nói với y: "Bây giờ còn thời kỳ chiến tranh, công chức không thể xin thôi được, nhưng anh làm ơn xin cho tôi được nghỉ dài hạn một năm, sau đó tôi sẽ xoay sau". Tôi nói thêm để việc xin nghỉ dài hạn bớt đột-ngột: "Anh xem đấy quân Nhật phong tỏa hết miền Hoa Nam rồi. Trước đây nhờ người Pháp giúp, Trung Hoa còn chuyển quân nhu, máy móc, vải... vào cửa bể duy nhát Hải-Phòng bằng con đường xe hỏa duy nhất Hải-Phòng - Vân-Nam, nay con đường đó bị quân Nhật đổ bộ lên Đông-Dương bịt nốt, phi cơ đồng minh đã mấy lần dội bom tàn phá đất cảng, tội chán đời công chức lắm rồi, anh hãy giúp tôi!" Y buồn rầu gật đầu: "Vâng tôi xin hết sức giúp anh việc đó". Y đã hết sức giúp thật! Y lên Tổng Nha Quan Thuế rồi y phải đi Hà-Nội tới phủ Toàn Quyền... Và tôi được nghỉ một năm. Tôi sang Lào tìm lại - nói là "tắm lại" thì đúng hơn - dòng sông thuần phác thần tiên...

- Anh sang Lào có một mình?

- Vâng chỉ là một cuộc du lịch nhỏ thôi mà, tôi định sang Lào một tháng, thăm người quen, sống thoải mái cho lại sức...

Và rũ cho hết hận đời!

Chính thế, mình bị người ta khinh như vậy, mà khinh đúng, đau-đớn chua xót thật nhưng cũng không biết tìm phương cứu chữa ra sao đành đi tìm quên lãng vậy, rồi khi đã tạm nguôi thì quay về kiếm kế sinh nhai khác nuôi vợ con, không ngờ chuyển sang nghề buôn ngay dịp này. Sang Lào được nửa tháng tôi nhận được thư của nhà tôi, cuối thư có nói cau khô bên nhà đương lên giá lắm. Đó cũng là nói cho vui chuyện, nhưng tôi quan sát thấy cau khô tại Vientiane thừa mứa, tôi bèn điện về cho biết giá mua bên này và bảo nhà tôi tính xem nếu có lãi thì gửi bằng măng-đa tất cả số tiền dành dụm sang cho tôi. Nhận được măng-đa, tôi còn vay thêm của bè- bạn quen biết lại hùn với một người bạn miền Nam mới quen mua vơ-vét hết cau khô ở Vientiane và miền phụ cận, tất cả là hai tấn, gửi về bằng phi cơ, lãi hai mươi nhăm vạn. Ha ha, coup d"essai coup de maitre anh thấy không. Thế là tôi bắt đầu vào nghề buôn, mà buôn lớn!

Về Hà-Nội tôi mua được hai máy xay bột gạo của Nhật, mở hãng xay bột gạo thay bột mì làm bánh (đã từ lâu bột mì bị nghẽn đường, và cũng khan hiếm nên hoàn toàn không có ở đây). Rồi nhà binh giao gạo cho tôi xay, máy chạy suốt ngày đêm, tiền vào như nước, đúng là như nước, tiền giấy đóng tùng sắc lớn - thứ sắc đựng gạo. Tháng ba 1945 đồng quê nước mình nhan-nhản những người chết đói - hai triệu người theo như sự ước lượng đương thời - riêng làng tôi không bị một nạn nhân nào. Tôi giúp ban hương lý mở quỹ cho những người có tiểu công nghệ vay không phải trả lãi, mở quỹ cửu tế, thành lập ban cứu tế nhận gạo của tôi gửi về, ngày ngày thổi cơm phát chẩn.

Một năm nghỉ dài hạn qua, nhà đoan gọi tôi trở lại nhiệm sở, tôi lần khần chưa chịu đến và đương tìm cách xin gia hạn thì vụ đảo chính 9-3-45 Nhật hất cẳng Pháp. Nha Quan-thuế chuyển sang tay người Nhật và người Việt. Nhân lúc hỗn quân hỗn quan này tôi xin thôi, thế là hoàn toàn đoạn tuyệt cuộc đời công chức kể từ đấy. Thủ tướng Trần-Trọng-Kim lên, phong trào thanh niên được phát động từ thành thị đến thôn quê, tổng trưởng là ông Phan-Anh. Tôi về làng được thanh niên bầu làm đoàn trưởng. Nhân dịp này tôi tổ chức thanh niên thành một lực lượng gương mẫu làm động cơ cải tổ những tục lệ cũ nào xét ra cổ hủ. Thanh niên học hỏi, thanh niên canh gác làng, thanh niên đắp đường xá... Việt-Minh lên, họ có cử cán bộ đến tiếp xúc với tôi. Không biết vùng anh thế nào, chứ vùng tôi thì nhìn khắp mặt Việt-Minh, toàn là những tên thành tích bất hảo thời trước. Tôi từ chối lời mời tham gia của họ vì nghĩ chúng không phải là người tốt, mai sau chúng gây dựng được gì? Chúng chê tôi là có óc xã hội mà không có óc chính trị. Làng bầu chủ tịch. Những người cũ ép tôi ra ứng cử. Tất nhiên là tôi thua phiếu nhưng thua sát nút. Thôi cũng may, trước đây tôi đã giúp làng, nếu không ứng cử e có điều nghi kỵ ; ứng cử trượt, tôi trở lại Hà-Nội. Một hôm có người Tàu, bạn buôn cũ, đến thăm tôi, mang theo một người béo tốt, trắng-trẻo nhưng khuôn mặt Tàu không ra Tàu, Nhật không ra Nhật. Y là thứ trưởng kinh tế Siam lưu vong, y đã từng du học ở Pháp, đỗ kỹ sư. Y và người bạn Tàu của tôi đương công tác để mở một công ty thương mại lớn. Đã từng biết tài tháo-vát của tôi, ông bạn Tàu đến mời tôi cùng tham gia. Tôi nhận lời làm phó giám đốc cho hãng Trung-Việt Thương-Mại Công-ty này, vừa nhập cảng những thứ cần dùng vừa xuất cảng những thổ sản. Công ty hoạt động từ giữa 1946 đến cuối năm đó thì chiến tranh kháng Pháp bùng nổ. Trước khi tản cư, ngay tỉnh tôi về thăm làng, Việt-Minh bắt giữ liền, chúng gọi luôn tôi là Việt gian (?), chúng bịt mắt tôi, dẫn đến miệng một cái hố đào sẵn, lên đạn... Lúc đó tôi mới thấy là con người ta quả có thể coi cái chết nhẹ như lông hồng hoặc vì mình đương thực hiện một chính nghĩa lớn, hoặc vì mình tự xét không có điều gì xấu hổ với lương tâm. Tôi ở trường hợp thứ hai. Đứng trên miệng hố và bị bịt mắt tôi tiếp tục thảo luận với chúng. Đại loại chúng căn vặn tôi làm sao tôi buôn to bán lớn thế, làm sao tôi giàu thế, tôi có làm gián điệp cho Pháp không? Tôi trả lời, tôi cắt nghĩa, tôi dẫn chứng từng điểm. Tôi còn nói cho chúng hay là chính nhờ có sự bảo đảm của tôi, nhân danh Trung Việt Thương Mai Công Ty mà chính phủ mua được của Mỹ mấy chiếc tàu thuỷ nhỏ để dùng vào công việc chuyên chở. Chúng tha tôi. Khi chiến tranh bùng nổ tôi đưa vợ con tản cư về miền Lạt-Sơn (Phủ Lý) rồi một mình đi buôn muối trên con đường từ Văn-Lý - lại Văn-Lý - theo sông Đinh-Cơ qua các miền Độc-Bộ, Tam-Toà thuộc huyện Nghĩa-Hưng (Nam- Định), rồi rẽ vào sông Đáy qua Ninh-Bình, ngược Phủ-Lý, ngược Hà-Đông, ngược Sơn-Tây tới đổ muối ở huyện Thạch-Thất. Muối tập trung hết ở đây trước khi phân phát đi khắp Việt-Bắc.

Khoá chợt phác một nụ cười rất thoát tục khiến những lời kế tiếp như lời tiên tri:

- Tôi đã chứng kiện cảnh non nước đổi màu anh ạ, thật là kinh dị. Lần đó bán xong một chuyến muối tôi về thăm vợ con ở Lạt-Sơn vừa lúc quân Pháp mở cuộc hành quân càn quét khá lớn, chúng tôi chạy lên núi Bồ-Vô, ngọn núi đá khá cao, lánh nạn. Từ trên đỉnh tôi nhình rõ thấy quân Pháp tiến vào làng Lạt-Sơn, mấy tên lính bận đồ ka-ki đuổi theo mấy người dân chạy ra đồng, khói súng thoát khỏi nòng, đầu có cắm lưỡi lê, rồi tiếng tắc bọp... Một người dân gục ngã... một tên lính xông tới thẳng cánh thục mũi lưỡi lê hất ngửa, hai cánh tay nạn nhân giơ lên, toàn thân có oằn-oại, đầu ngật nghiêng về một phía. Bất động! Từ trên cao và xa nhìn xuống, cảnh bi thảm của rượt đuổi, đâm xỉa, oằn-oại đó diễn ra hoàn toàn trong nín lặng như đương xem một cuốn phim câm. Màu cảnh vật đương sáng tỏ bỗng từ từ đổi sang biêng-biếc, tim-tím tưởng như linh hồn người quá cố thoắt biến thành màng kính màu đó che lấy mặt trời. Lòng tôi thổn-thức đến nghẹn- ngào trước cảnh non nước nhuộm màu tang thương và tang tóc đó. Thực dân Pháp mang quân từ nước họ sang đây để chiếm lại nước mình, làm sao mà nói chuyện nhân nghĩa được với họ, tôi lại nhớ đến cảnh bị Việt- Minh bịt mắt dẫn ra miệng hố, lên cò súng và tôi linh cảm thấy rằng đất nước mình đương bắt đầu đi vào cuộc bể dâu, cuộc bể dâu sẽ kéo khá dài. Non nước đổi màu, chính là sự báo hiệu của một cuộc vân đục bắt đầu, mới bắt đầu thôi...đau khổ còn dài, chết chóc còn nhiều, cặn bã sẽ ngày một vẩn lên khiến mặt nước từ vần đục ngầu, từ đục ngầu đến đen kịt...Rồi vào lúc thất bại nhất, ê chề nhất, rũ rợi nhất, tới lúc đó dân tộc mình có tái sinh mới tái sinh. Đó là thị kiến của tôi vào lúc non nước đổi màu đó. Để rồi đây chúng ta nghiệm xem có đúng không. Tôi tin rằng con người có một nặng khiếu đặc biệt về thị kiến, một đời người họa là có một lần được trời đất vén màn mở động cho nhìn suốt tương lai. Tấm màn mênh-mông hạ xuống, cửa động khép lại, mình bị ném lại với thực tại, với kích thước không thời-gian nhỏ xíu. Tôi đâm thích tìm đọc loại sách bàn về những bí hiểm của vũ trụ, về tâm linh giới, về thần giao cách cảm... đồng thời tôi cũng hiểu rằng sau khi tấm màn mênh-mông hạ xuộng, cửa động khép lại thì hành động đó cũng chẳng khác gì hành động tiếc rẻ của kẻ cúi xuống nhặt một hòn đá nhỏ để cố tìm, cố gợi trong ký ức hình ảnh của cả trái núi.

Khóa ngừng nói chắc cũng khá lâu. Đôi bạn cùng nhìn xuống để cùng ngó vào nỗi lòng suy tư của riêng mình. Tiếng bà Đô kéo họ trở lại thực tại:

- Thế nào hai ông nói chuyện đã xong chưa?

- Ồ mẹ! - Lời Khoá.

- Chết chưa, cháu phải về! - Lời Khiết.

Bà Đô cười:

- Về đâu hãy vào ăn cơm đã, các ông tưởng sớm sao, một giờ trưa rồi đấy ạ.

- Chết chưa! - Khiết vừa cười vừa thốt!

Vợ Khoá im lặng gọt dứa ở góc quầy để lát nữa đét-se (tráng miệng).

Bà Đô dẫn đầu:

- Vào trong này hai ông.

- Ủa! thưa bác chỉ còn hai chúng cháu?

- Cả nhà ăn xong từ lâu! Lâu rồoii...

XI

Gặp nhiều việc bận vì phải tìm cách xoay-sở giấy tờ vào luật sư tập sự cho yên chuyện mà cũng không xong, cách đến một tháng sau Khiết mới tới thăm bà Đô thì gia đình bà vừa nhận được tin buồn, riêng Khoá tâm hồn bị chấn động hẳn, Khoá đã tạm ngừng đi buôn để làm ... chính trị, nếu tham gia hội đồng thành phố là làm chính trị.

- Anh còn nhớ - Khoá hỏi Khiết - tên chánh đoan người Pháp tôi kể với anh lần trước?

- Còn chứ - Khiết đáp.

- Khi tôi tự ngoài kia vào đây gặp mẹ tôi, rồi lại trở ra đón vợ con về, tôi có và y có gặp lại nhau. Y đã lên chức thanh tra, y còn giới thiệu tôi với một luật sư người Pháp khác, cũng rất nhã nhặn lịch thiệp. Giá như tôi không gặp một vố bị sự thật ném vào mặt thì cũng đã kết thân với người bạn thứ hai này. Trong những cuộc đàm đạo thân mật nhất tôi vẫn tỉnh táo giữ đủ xa cách. "Tiếc thay anh không phải là người có đạo!" - một hôm người bạn mới nói với tôi như vậy. "Người Việt chúng tôi hầu như có khả năng dung hoà tất cả những đạo giáo lớn trong thiên hạ" - tôi trả lời. "Nhưng anh có đủ đức tính của một người ngoan đạo" - y nhấn mạnh bằng một giọng hoà nhã. Tôi thông cảm ngay vì biết Âu Châu có truyền thống về công giáo nên những người thẳng thắn, giàu tình thương, nghiêm chỉnh thường được khen là có đủ đức tính của người ngoan đạo.

Bác Hải tôi có hai con, chị gái lớn đã lấy chồng, người anh giai - anh Sơn - hơn tôi một tuổi, cùng học một lớp với tôi ở Collège Pavie. Sơn với tôi tính tình khác hẳn nhau. Sơn thích giàu sang, thích danh vọng. Người anh cao dong-dỏng, da trắng, tóc đen, mắt sáng. Cách đây không lâu, một hôm anh Sơn hỏi tôi: "Mày cũng quen luật sư Henri à?" Tôi gật đầu. "Lâu chưa?" Tôi đáp chưa được chừng một năm. Rồi thôi. Trước đây một tháng Henri đến thăm tôi tại nhà đây - có vài lần Henri đến thăm như vậy. Chúng tôi lại cùng nhau đàm đạo về tôn giáo. Tôi kết luận với Henri: "Người Việt chúng tôi sợ nhất sự cuồng tín. Tôi nghĩ đạo là đường đi, các dân tộc khác nhau như những người ở những phía khác nhau của một trái núi nên đều có những đường đi riêng lên đỉnh. Tôi nghe nói nguời theo đạo Hồi cho rằng tất cả mọi người đều là tín đồ Hồi giáo, có thay đổi là chỉ tại về sau mà thôi. Nếu quả nghĩ vậy thì người Hồi giáo đã lầm. Tâm hồn đẹp nhất là tâm hồn bao dung!" Henri đồng ý với tôi lắm. Sau cùng Henri ngỏ ý khuyên tôi hãy tạm ngừng buôn, vào làm hội viên hội đồng thành phố. "Tôi buôn vì khoái bận rộn, khoái tổ chức, khoái đi đây đi đó, sự thành công về tiền nong không quan trọng, chứ còn làm hội viên hội đồng thành phố thì chẳng có cái gì tôi khoái cả", tôi nói với Henri thế, y lắc đầu đáp: "Thế mà anh sẽ khoái vì người ta sẽ đặt anh vào một công tác hợp với tính tình cương trực của anh, tôi đã gặp ông thị trưởng người Việt rồi mà, chính tôi đề nghị anh vào công việc đó, anh sẽ giữ chức ủy viên cố vấn đồng bào hồi cư của anh." Tôi nhận lời. Từ đấy tôi gặp Henri luôn, y ở phía đại diện cho những người Pháp ở đây. Trong câu chuyện khi y nói gần nói xa, khi nói thẳng với tôi, khi lại như nói với không khí... Y nói đến tình hình cả Đông-Nam-Á tương lai có thể bị Cộng Sản uy hiếp vì Trung Cộng đã hoàn toàn làm chủ lục địa. Chiến tranh Cao-Ly đã tạm ngừng, nước Cao-Ly đã bị cắt làm đôi nhưng Cộng Sản đâu có chịu ngừng? Y nói đến giải pháp nên tổ chức trước một chính phủ Việt lưu vong bên ngoài để phòng hờ bát trắc. Y nói đến một số tiền lớn lắm y có thể trao cho người đứng ra tổ chức chính phủ lưu vong. Y nói có cách liên lạc với nhau bằng đường lối tuyệt bí mật không ai kiểm soát được. Bỗng một lần y quay lại nhìn tôi đặt câu hỏi hững hờ: "Người đó tại sao không là anh? Anh nói tiếng Pháp lưu loát như tiếng mẹ đẻ, anh có khả năng tổ chức..." Tôi cũng cười đáp ngay lại, vì cũng một lúc tôi nhớ đến vết thương cũ với tên chánh đoan, nhớ đến những động tác câm nín của cạnh rượt đuổi đâm xỉa, cảnh non nước đổi màu nhìn từ trên ngọn Bồ Vô, nhớ đến hồ Khễ-Lùng-Thán, đến Lão-Chén... tôi đáp ngay rằng "Nếu tôi là người đó thì chắc anh sẽ khinh tôi lắm. Bởi vì công việc đó do các anh là người ngoại quốc đứng ra giật dây, tiền các anh bỏ ra, và liên lạc hết sức bí mật tức là kém quang minh chính đại". Henri cười nụ cười bao giờ cũng rất điềm đạm rất hoà-nhã rồi cùng tôi tạm biệt.

Ngoài công việc cứu trợ, tôi tích cực tham gia ý kiến trong các phiên họp đại hội đồng. Thực ra nào mình đã được quyết định cái gì lớn đâu. Tôi bác bỏ dự án của phe đại diện cho những người Pháp muốn nắm độc quyền trông coi về vệ sinh thành phố mà đòi phải cho bỏ thầu. Một đại diện Pháp hỏi: "ông hãy trả lời là các ông giúp chúng tôi diệt độc tài xây dựng tự do hay các ông đến đây chỉ để bảo vệ quyền lợi lỗi thời của thực dân?", về việc đổi tên đường Paul Bert thay vào tên một danh nhân Việt khác, phe đại diện Pháp cũng phản đối, tôi trả lời: "Ông Paul Bert có hai khuôn mặt; khuôn mặt nhà bác học Paul Bert thì Pháp quốc được hưởng và chúng tôi rất kính trọng, khuôn mặt ông Toàn-Quyền-Đông-Dương là đại diện cho chủ nghĩa thực dân lỗi thời. Dân chúng Việt-Nam chỉ biết có ông Toàn-Quyền Paul Bert, vì vậy vì thanh danh của nứớc Pháp hiện thời và của người Pháp ở đây, chúng tôi thấy thay tên ông đi là hợp lý" Ngoài giờ họp, một đại diện Pháp có nói với tôi nửa như thán phục nửa như mỉa-mai: "Tại sao lý ông nêu lên luôn luôn thắng chúng tôi?" Tôi đáp: "Vì chúng tôi là những người vừa thoát khỏi bị trị - (tôi nói vậy cho nhã) - và Thượng Đế thường về phe kẻ yếu, lý của chúng tôi có Thượng Đế ủng hộ!" Cả đôi bên cùng cười xoà. Tuyệt nhiên trong những vụ tranh luận, người bạn luật sư của tôi không hề lên tiếng. Y giữ trọn vẹn tình bạn với tôi.

Một tuần trước đây anh Sơn đến chào chúng tôi nói là trở lại đất Lào buôn bán rồi luật sư về Pháp. Hôm nay chúng tôi vừa được tin anh bị ám sát ở khoảng biên giới Miên và Thái-Lan.

Tới lúc đó bà Đô mới chấm nước mắt nói:

- Thế là anh tôi tuyệt tự!

- Nét mặt Khoá băn-khoăn và đau-đớn nhưng về vấn đề khác, chàng hỏi Khiết.

- Có thể thế không anh? Có thể thế không anh?

Khiết hỏi:

- Ai cho anh biết tin Sơn chết?

- Chị tôi. Tức chị ruột anh Sơn. Trước khi đi Sơn có lại chào chị, Sơn đi cùng một người bạn nữa mà chị biết. Thư báo tin Sơn chết là thư của người bạn đó. Có thể thế không anh? Có thể Sơn ra đi là trong âm mưu lập chính phủ lưu vong. Và việc bại lộ, Sơn bị đối phương giết?

Khiết đã lăn-lóc trong trường chính trị. Những thủ đoạn đặt màng lưới gián điệp quốc tế, sửa-soạn con bài, thủ tiêu đối phương ... thì ở cái thời đại bá đạo này đâu có là chuyện lạ. Nhưng Khiết biết nói gì với Khoá bây giờ? Khiết chào bà Đô, bắt tay Khoá ra về ngay. Chính Khiết cũng bâng-khuâng và buồn. Khi ngang qua quầy hàng, Cam khẽ cúi chào. Khuôn mặt Cam trong sạch như thiên thần làm Khiết thấy đỡ buồn nản cho những nhơ-bẩn lọc-lừa tàn-bạo trong chính giới. Khiết dừng lại. Cam nói khẽ:

- Mai thong-thả mời anh lại chơi.

Khiết gật đầu dịu-dàng đáp:

- Vâng mai tôi sẽ lại.

Rồi Khiết ra cửa, xuống hè. Trước khi sang đường Khiết quay lại lần nữa. Cam vẫn nhìn theo, và khi chàng quay lại như vậy, đôi mắt Cam vẫn mở to, không hề chớp chớp hoặc quay đi ngượng-nghịu. Cô bé mới lạ chứ!

Hôm sau Khiết đến hiệu giày của bà Đô thật, gặp một thanh niên chỉ kém mình chừng hai ba tuổi, mặt mũi tuấn tú, đang thảo luận gì với Khoá, rất sôi-nổi. Cuộc thảo luận tạm ngừng vì có mặt Khiết, bà Đô giới thiệu ngay:

- Anh Khiết ạ, đây là em Hữu, Lê-Văn-Hữu, cháu gọi tôi bằng cô. Ngày gặp anh ở Nam-Kinh, khi nghe anh xưng họ tên Lê-Tịnh-Khiết tôi nẩy ý nhận họ ngay vì nhớ đến cháu Hữu đây. Hữu bị Việt-Minh bắt ngay từ ngày đầu kháng chiến, chuyển hết trại giam này sang trại giam khác, hơn ba năm trời mới được tha, cũng mới được quân đội Pháp trong một chiến-dịch càn quét quơ được vào đây, thật phúc đức.

Trong câu chuyện kế tiếp, Khoá biết thêm Hữu đã từng theo hoạt động bên một lãnh tụ quốc gia trẻ tuổi nhưng vô cùng lỗi lạc. Trước đây hồi Khiết hoạt động cách mạng ở Nam-Kinh chàng có lần được đọc ít tài liệu và thi ca của vị lãnh tụ này đồng thời với tin đồn là vị lãnh tụ đó đã bị Việt-Minh giết. Nay Khiết hỏi lại Hữu về tin đó, Hữu cả quyết rằng những người như ông L. - tên nhà lãnh tụ - đâu có thể sa vào tay Vẹm chết uổng. La Hữu cũng đoán vậy thôi, nhưng lời chàng đượm một niềm tin sắt đá và sáng-suốt tựa như khi đọc Tam-Quổc-Chí ta luôn luôn đứng ở phe Gia-Cát, tin rằng nhất cử nhất động của Gia-Cát đều là mưu trí thông suốt.

Khiết ra ngồi gần quầy hàng để nói chuyện với bà Đô, sự thực còn theo tiếng gọi trong sạch và kỳ lạ của trái tim vì có Cam ngồi đấy. Lúc đó Khiết chỉ nghĩ thầm: "Ta cần quan sát cô gái bên sông Tần-Hoài này xem sắc-sảo được tới đâu rồi".

- À anh Khiết hiện giờ ở đâu - bà Đô hỏi.

- Thưa bác cháu hiện ở với người nhà ở Hàng Bông Thợ Ruộm. Đẻ cho chính quyền theo rõi khỏi nghi ngờ, cháu đương muốn làm đủ giấy tờ xin vào tập sự luật sư, nhưng vừa mới ở chốn lưu đày chân ướt chân ráo về đến đây, chính quyền chưa dám cấp (Khiết cười) có lẽ cháu lại phải trốn đi Nam-Kinh mất.

- Thôi, anh lại đây ở với gia đình nhà tôi.

- Phải đấy - Lời Cam thốt sát liền với lời mẹ, nếu không phải hai giọng đục trong khác nhau, Khiết có thể nhầm tưởng là lời của một người.

- Cám ơn bác - Khiết đáp nhưng nhìn Cam - thày đẻ cháu thất lộc đi có để cho cháu vài căn nhà cho thuê làm hoa lợi đủ chi dùng hằng năm, chếch với cửa hàng của bác đây, căn nhà sát với hội Khai-Trí Tiến-Đức, cũng là nhà của cháu, có lẽ sang năm họ trả, khi đó cháu nhất định giữ lại ở để được gần bác!

- Ồ thích nhỉ! - Cam nói ót trước, đôi mắt vẫn thản nhiên mở rộng, chẳng tỏ vẻ gì là ngượng-ngập, mà bà Đô xem ra cũng không quan tâm đến sự vồ- vập quá trớn đó của con gái. Đặc biệt với Khiết thì thế chăng?

Do đó Khiết cảm thấy nhẹ-nhàng đỡ phải giữ ý, chàng đứng dậy nói:

- Xin phép bác cháu đi lên đền Quan-Thánh xem nơi này có bị chiến tranh làm sứt mẻ gì không. Cô Cam có muốn đi không nào, xem mãi cổ tích Nam- Kinh bây giờ về phải xem cổ-tích Việt-Nam chứ.

Rất tự nhiên và rất tin cản bà Đô bảo Cam:

- Ừ con đi với anh đi, anh sẽ chỉ dẫn cho mà xem.

- Con vào thay áo đã nhé, mẹ!

Khiết bắt tay tạm biệt Khoá và Hữu (từ lúc có mặt Khiết, hai người này vẫn tiếp tục thảo luận say mê nhưng trầm tiếng) rồi ra đi cùng Cam, như người anh trưởng dẫn cô em út - mà đúng là thế! Khiết tự khám phá: đích thực từ sau lần bị đi đầy và có thể chết hụt ở Sở Tiêu, Côn Đảo, chàng sợ cô đơn. Tuy nhiên khi cùng Cam bước vào đền Quan-Thánh, rồi ra đứng bên tường hoa ngắm hồ Trúc-Bạch, rồi sang đường Cổ-Ngư ngắm hồ Tây mênh-mông, Khiết và cả Cam nữa, đều thấy thanh- thản, y hệt ngày nàọ cùng đi thăm những cổ tích ở Nam-Kinh. Khiết hỏi, Cam trả lời, lời nói vang vang đày-đặn vừa như sưởi ấm chính tuổi thơ của nàng vừa giúp Khiết thấy lại tuổi thơ của chàng và tuổi thơ của cả hai bỗng trở thành một vẻ đẹp hằng cửu đượm chút rộn-ràng vì qua lăng kính hiện tại. Khi đưa Cam từ đền Quan-Thánh về, Khiết hiểu rằng Cam quả thật đã là cô gái chứ chẳng còn là cô bé nữa. Mặc dầu những lời Cam nói thường không dự liệu gì hết, nhưng chính vì thế mà cách nói, câu nói của nàng có cái duyên hấp dẫn lạ, nhiều lúc Khiết rờn-rợn thấy Cam bỗng trở thành một thiên tài của quyến rũ. Mãi suy nghĩ, Khiết đưa Cam về đến cửa rồi cũng quay ngay về, chẳng để ý đến lời chào của Cam. Buổi tối, sau bữa cơm, Khiết leo lên sân thượng nằm lười-lĩnh trên ghế xích-đu, ngẩng nhìn trăng sáng sao thưa. Chàng chợp ngủ trong hình ảnh và âm thanh của con sông Tần-Hoài. Trong mơ con sông trở thành mênh-mông vì im lặng, dòng sông xuôi miết, đây đó gợn anh ngân quang, thảng thốt có tiếng ì-ọp của sóng nứớc vỗ vào chân cừ bên dưới trà thát...

XII

Hữu khoát tay nói:

- Cái dở của những chủ nghĩa khác là mạ vàng những khuôn đúc vũ-trụ quan để gò ép nhân-sinh quan vào. Làm sao có thể đem những định luật của vật giới áp dụng cho nhân giới? Phải biết chia ra từng tầng, phân biệt khuôn mặt khách quan với khuôn mặt bị chủ quan hóa của muôn vật. Vũ trụ từ vô nguyên qua nhất nguyên, sang đa nguyên, tưởng chúng ta có thể lấy một hình ảnh thô-thiển như vầy: trước đây khi khối lửa trái đầt vừa tắt, trải qua một thời kỳ mưa mấy triệu năm liền, loài người chưa xuất hiện, mưa là mưa, khách quan tuyệt đối, chẳng có ai mong ai ghét nên tốt xấu chưa phân: vô nguyên! Khi loài người xuất hiện thấy mưa, nghĩ đến mưa, dùng nước mưa, thì ấy là mưa cho người, thiên nhiên đã từ vô nguyên sang nhất nguyên. Nhưng anh nghĩ xem làm gì có thứ người trừu tượng, đã nói người là phải người của một dân tộc nào. Dân tộc khác nhau, Đông Tây khác nhau, thì quan niệm về một sự việc cũng có thể xê dịch khác nhau chẳng nhiều thì ít, từ nhất nguyên biến sang đa nguyên là thế. Đó là một vài lời rất thô-thiển của tôi nói ra mong anh nương vào đấy mà thông cảm để nhập điệu vào hình thái sống động của chân lý. Chân lý vốn uyển-chuyển, nhịp- nhàng, linh động, mà nô lệ cho lời thì chẳng khác chi muốn lấy que củi vẽ cánh bướm ; chân lý rộng lớn huy-hoàng mà nô lệ vào lời, chẳng khác chi muốn đem mây hồng sớm mai nhốt vào hộp sắt, muốn lấy thìa nhỏ vục-cạn biển. Ấy nói rằng từ vô nguyên chuyển sang nhát nguyên, từ nhất nguyên chuyển sang đa ngụyên để thích hợp với từng hoàng cảnh dân tộc, nhưng có dân tộc nào là sống đơn độc ngoài cộng đồng của xã hội loài người? Và có con người nào sống tách khỏi hoàn cảnh thiên nhiên? Cho nên trong hệ thống dọc, thuộc ngoại giới, ba yếu tố: dân tộc, xã hội loài người, thiên nhiên phân ranh nhau đường này, lại hòa hợp nhau nửa khác. Nếu có hệ thống dọc thì cũng có hê thống ngang, nếu nói đến ngoại giới thì cũng phải kể đến nội tâm. Khởi điểm ở hệ thống ngang này lấy người làm gốc, đi tự người rồi trở về cho người, người vừa là khởi điểm vừa là cứu cánh của mọi xây dựng. Anh có thấy xã hội chúng ta ngày nay còn nặng thú tính? Một nhà tư tưởng gọi thời này là "hạ ngươn", đúng lắm. Giang Hà nhật hạ nhân giai trọc ! Phải kiến lập, anh ạ, một xã hội loài người trên một kiến trúc nhân tính, ngõ hầu giúp con người làm chủ láy mình. Muốn trọn vẹn nhân tính củạ một con người cân đối hãy thực hiện cho được ba mục tiêu: về nhu yếu tính phải bình sản. Anh nhớ cho là "bình sản" chứ không phải "cộng sản", đừng để người thì phè-phỡn thừa mứa, người thì lần không ra. Chính là chúng ta phải tận kỳ sở năng, toại kỳ sở nhu, chính kỳ sờ mệnh. Anh có thiên tài như Mozart mà chẳng đủ điều kiện để thiên tài phát triển thì anh cũng mai-một trong tăm-tối như bất cứ hoa hèn cỏ nội nào làm sao chính kỳ sở mệnh được?

Về sắc tính, trai gái phải được giáo dục về trinh tính trong hôn nhân, về xã hội tính con người phải biết hoà đồng với đồng loại trên thực thể dân tộc nói riêng, trên bình diện nhân loại nói chung.

Có sung thực nhân tính bằng Bình, Trinh, Hoà như vậy mới giúp con người làm chủ được mình. Mẩu mực của nền văn minh mà nước Việt mình cổng hiến cho nhân loại sau này chính là một nền văn minh nhân chủ. Ngước nhìn Tuyệt-Đối là thứ ngôn tận tưởng tuyệt, thoát sự vưựt-lý, chúng ta có thái độ cung kinh, nhưng trở về với Ta, với Người, chúng ta phải làm cho rạng-rỡ cái ý thức con người làm chủ mình chứ không phải con người phóng thể - aliéné - ươn hèn!

Khiết giơ tay khẽ gật đầu hỏi:

- Anh cho tôi hỏi, hình như vào năm 1940 hay 41 chi đó, khi vị lãnh tụ cho ra bản tuyên ngôn có nói là ông ghi lại tất cả những điều sở đắc trong bao nhiêu năm suy ngẫm để cống hiến toàn thể quốc dân?

- Đúng thế! Nghĩa là một cách semer à tout vent. Lãnh tụ nghĩ đến dân tộc truớc, thành lập Đảng chỉ để phục vụ dân tộc. Ai giữ kín tài liệu làm của riêng như giữ con niêm cổ, thực là ngu xuẩn, bởi hiểu biết tài liệu chưa đủ, còn thực hiện; hiểu biết và thực hiện cũng chưa đủ còn phải luôn luôn thức tỉnh trong việc tu dưỡng. Cuộc sống rộng lớn như vậy, linh động như vậy, kém phần tụ dưỡng làm sao cho sự hiểu biết và thực hiện được vừa sâu sắc vừa thuần hậu? Có những bậc sinh như tri thì sự học hỏi của người ta nhập chủ xuất chủ; bọn người thường chúng ta thì cũng có những kẻ nhập nô xuất nô bất quá chỉ là một thứ mọt sách, hoặc một thứ nhập lý xuất khẩu nói như vẹt ích gì ; phải làm sao nhập nô xuất chủ nghĩa là phải nhập lý xuất sự biết và thực hiện và tu dưỡng mới được! Còn nói chi đến những hạng vong quốc, hạng bảo thủ làm chướng ngại vật ngăn cản bước tiến của dân tộc, hạng không được ăn thì đạp đổ, bàn ngang tán láo phá hoại mọi công trình kiến tạo của kẻ khác.

- Nhưng bây giờ anh đành thúc thủ thế này?

- Thl tôi cũng mới bị quơ ở ngoài kia vào đây như anh mới ở Cộn-Đảo về, chúng mình trong này lại càng thiểu não, cộng sản còn lợi thế lắm nắm chính nghĩa chống thực dân... Đành lợi dụng thời gian này làm thời gian tu dưỡng, đọc, thảo luận, mỗi người đem lại một bó đuốc để cùng soi sáng cho nhau. Thanh kiếm chính nghĩa không chóng thì chày tất dời khỏi tay những người duy vật...

- Được lắm, trước đây tôi đã có đọc một ít tài liệu và cả mấy bài thơ chính khí của L. nữa. Không ai phủ nhận được rằng con người ấy là kết tinh của tinh thần dân tộc, với hoài bão thực hiện một nền văn hoá tổng hợp của nhân loại, bởi vậy những lời đầy nhiệt thành của ông đều tìm thấy âm hưởng ở bất cứ con dân Việt nào.

- Anh có biết vì sao cho đến hôm nay tôi mới dám nói chuyện với anh nhiều thế không?

- Kẻ từ ngày tôi gặp anh lần đầu đến nay dễ đến bảy tám tháng qua đấy nhỉ?

Khoá từ nãy vẫn im lặng theo rõi câu chuyện, lúc đó mới nói:

- Bảy tháng đúng!

Khiết hỏi Hữu:

- Vì sao?

- Vì lời anh nói với Khóa hôm qua là anh có thể chịu đựng mọi tính xấu trừ tính kiêu ngạo. Tôi rất đồng ý với anh ở điểm đó, cổ nhân cũng đã nói trời đất ghét nhất tính kiêu ngạo và mến nhất đức khiêm nhường. Bảy tháng qua tôi ít dám nói chuyện với anh bởi được biết anh đã hoạt động cách mạng hải ngoại, anh lại mới bị đầy Côn Đảo về, anh có đủ nhân tố để ... "ta đây con người cách mạng", mà tôi thì sẵn-sàng kính nhi viễn chi những con người đó. Câu nói của anh hôm qua mới thật khiến tôi tin vào cái bề ngoài điềm đạm của anh.

Khiết cười, Hữu đứng dậy từ biệt mọi người, Khoá lái xe vừa đưa Hữu về vừa đi lấy hàng cho mẹ. Khiết ra ngồi quầy với bà Đô, Cam cũng vừa tự nhà trong ra tới. Bà Đô cười bảo Khiết:

- Con bé lạ, con gái Việt-Nam nuôi ở đất Tàu mà cạo lớn như đầm!

Cam nhìn mẹ vẫn bằng đôi mắt mở rộng, bình thản. Tiếng Khiết cười lớn hoà với tiếng cười âu yếm của bà Đô chẳng hề làm Cam luống-cuống hoặc cười lây. Đôi mắt nàng sáng lên chút ít chứng tỏ nàng có nghe thấy câu nói đùa của mẹ, nhưng miệng nàng vẫn mím hờ và không hề phác một nụ cười mỉm. Chính thái độ phần như bình tĩnh kín đáo, phần như ngây thơ khờ-khạo đó càng làm duyên quyến rũ của Cam thêm mãnh liệt và trong bảy tháng qua nhiều khi Khiết thấy muốn điên đầu, trở lại tuổi hai mươi vì thái độ đó. Bà Đô tiếp:

- Anh có biết không, bây giờ mỗi bữa nó chỉ dám ăn có một bát cơm. Con bé sự phát phì.

Cam mím môi, lơ-đãng nhìn ra hè phố. Một người khách vừa bước vào. Khiết đứng dậy từ biệt. Chàng lững thững theo đường hồ Hoàn-Kiếm. Chàng ngồi lên một chiếc ghế xi-măng, chân vô tình đặt lên một phiến đá vỡ, mặt nhẵn thín, nhường như đội chỗ có lấm tấm hồng làm chàng liên tưởng đến phiến đá tương truyền đã chặt đầu Trương-Quý-Phi bên Yên-Chi-Tỉnh, và thốt nhiên chàng nhớ lại" nhớ rất rõ-ràng mấy dòng tản văn của một khách hào hoa nào đó viết bằng bút chì bên mép phiến đá sát miệng giếng. Vì vô tình thấy những dòng chữ viết bằng bút chì nên Khiết có tò mò nghiêng đầu đọc. Chàng mỉm cười đọc lại. Chắc là người viết đến thăm Yên-Chi- Tỉnh trước chàng và Cam không lâu. Những dòng tản văn chan-chứa tình hoài, chẳng hiểu tác giả thương cảm cho cái chết của nàng Trương-Quý-Phi hay thương cảm cho nỗi-niềm cô đơn của chính bận thân. Cũng tưởng là đọc đi đọc lại hai lần do một phút tò mò thoáng qua, rồi sau máy dòng đó tất chìm vào quên lãng còn bới lên làm gì, mà có bới lên vị tất đã nhớ hết. Mưa mùa hè, tuyết mùa đông hẳn đã lau chùi kỹ phiến đá bên Yên-Chi-Tỉnh, nhưng những dòng chữ xuất hiện nhát thời đó, ai dè ngày nay tái hiện trong trí chàng rõ-ràng đến từng nét phẩy, nét mác:

Y! Vân bạch, thuỷ thương, lựỡng tựơng huyền tuyệt.

Nhân sinh tư thế nhi bất đắc nhất tri kỷ tắc cô thầm tịch tịch, túng sử thiên tuế năng trường tại hựu hà vi tai?

(Mây trắng với nước xanh xa nhau vời-vợi.

Ôi, trên đời dù có sống tới ngàn tuổi mà không gặp người tri kỷ, thì cuộc sống quạnh hiu kia cũng bằng thừa)

XIII
Khiết đã hăm hở tích cực hoạt động cách mạng. Với lòng thành kính đi tìm "minh chủ", rồi thất vọng ê-chề nhưng chàng quyết không "bán đồ nhi phế". Ngày nay chàng được dịp cùng Khoá tham khảo thêm về lý thuyết cách mạng dân tộc với Hữu, chẳng khác được ăn vừa lúc đói, được uống vừa lúc khát. Là con người đã hoạt động nên Khiết có óc thực tế, đã từ lâu chàng hằng nghĩ: một cây chẳng thể làm nên rừng, một lãnh tụ dù siêu việt cũng khó gây thành sự nghiệp lẫy-lừng và lâu bền, nếu đại đa số quần chúng còn chưa được giác ngộ. Ý tưởng trở lại hoạt động văn hoá của Khiết phải chăng manh nha từ đây? vốn tư tưởng khoáng đạt ghét câu nệ, lại khiêm nhường. Khiết thành tâm tìm hiểu mọi điều hay, hiểu qua lăng kính của chàng. Chàng rất đồng ý với Hữu ở chỗ khi nghiên cứu thì phải xé lẻ ván đề, khi giải quyết chớ quên phải giải quyết đồng đều một lượt. Nhưng con người làm sao phân thân điều khiển cho đủ các ngành chính trị, kinh tế, văn hoá? Trong tình trạng hiện tại, với những người như Khiết, hầu như chỉ còn khu vực văn hoá là rộng đất "dụng võ" hơn cả. Thì bao giờ văn hoá chẳng là ngọn triều có thể đi xa và thám sâu hơn cả trọng quảng đại quần chúng, hãy tận tình hoạt động trong ngành này làm chất men ủ mầm cho mọi trào lưu tiến hoá.
Ý tưởng trở lại hoạt động văn hoá ngày một ăn sâu mở rộng trong tâm hồn Khiết như vậy. Thêm nữa chưa bao giờ Khiết thấy mình sống quân bình như dạo này, phải chăng vì chàng thực sự yêu Cam. Chàng rắp tâm đợi dịp thuận tiện ngỏ ý với bà Đô xin Cam làm vợ. (Còn thái độ Cam luôn luôn như vậy thì Khiết biết nói gì với nàng?) Tình cảm thông suốt, nhiều khi Khiết thảo luận hàng giờ với Hữu, còn Khoá thì nghiêng về phía thần bí của lý thuyết, đó cũng là do hoàn cảnh đặc biệt của Khoá.
Một năm qua kể từ ngày Khiết đựơc tha từ Côn-Đảo về, chính quyền mới chịu cấp đủ giấy tờ cho Khiết để chàng xin được vào tập sự luật sư. Chàng đã lấy lại ngôi nhà sát bên hội Khai Trí Tiến Đức chếch với căn hàng của bà Đô. Hôm đó chàng đến báo tin mừng với bà Đô, nhưng dù mừng đến mấy cũng không đủ phá vỡ bức thành ngượng-ngập mỗi khi chàng muốn chuyển sang câu ngỏ ý cầu hôn với Cam. Chẳng lẽ rồi việc này đành phải nhờ Khoá? Vừa lúc đồng hồ điểm rãi rệ mười hai giờ trưa. Thế là Khiết nương vào tiếng chuông đồng hồ nói câu quyết định mà chàng đã nhẩm đi nhẩm lại bao nhiêu lần rồi: "Thưa bác, cháu thấy em Cam cũng đã trưởng thành cháu muốn xin bác em Cam làm vợ". Tiếng chuông đồng hồ bao lấy lời Khiết cho bớt những góc cạnh đột-ngột hoặc vụng-về. Bà Đô cúi đầu nghe, một lần chớp mắt. Tiếng chuông dứt vừa khít với câu nói của Khiết. Bà Đô ngẩng nhìn dịu- dàng mỉm nụ cười phúc hậu, nói:
- Được thế, bác còn mong gì hơn!
Mộng hoạt động văn hoá mãi đến hơn một năm sau Khiết mới thực hiện được sau khi kết thân với bọn Hiển, Hãng, Kha, Miên. Nhưng mộng lứa đôi với Cam thì ba tháng sau đã thành tựu. Trong thời gian ba tháng là vị hôn thê, chỉ có đôi lần Cam chớp chớp mắt trước Khiết tỏ ý e thẹn, nhưng rồi đôi mắt lại mở rộng bình thản. Cam cương quyết ăn cữ để người thon, Khiết bảo thế nào cũng không nghe. Khiết nói ngắn hay dài - (lẽ cố nhiên Khiết chỉ biết nói ngắn hay nói dài, chứ nói giằn-giỗi thì cụng chẳng ăn thua gì với Cam) - Cam cũng chỉ lắc đầu, nhìn chàng bằng đôi mắt bình thản mà cương quyết, miệng không mỉm cười.
"Con bé này - Khiết nghĩ thầm - khi là vợ mình rồi, còn phải giáo dục nhiều". Nhưng Khiết không hề phủ nhận rằng quả thực chàng đã tìm thấy ở cơ thể thơm non ấy thứ hương cỏ dại của thiên nhiên khả dĩ iàm chàng quên những thất bại và thất vọng ê chề trên chính trường vừa qua.
Và rồi Cam - cô gái bên sông Tần-Hoài - bỡ ngỡ đi vào vợ chồng như đi vào hư vô nhưng là thứ hư vô quyền đặc lại dần như thể tiên-thiên-vô-cực đương quyện rất nhanh thành tinh-vân, và tinh vân đương tự vo tròn rất nhanh thành tinh cầu. Dưới bàn tay vuốt-ve của Khiết, Cam thấy bàn tay đó bỗng hoang đường thần thoại, bàn tay thoa đánh thức cảm giác như bàn tay đêm thoa đến đâu làm mọc lên những vì sao đến đấy.
Cam đã tự khám phá thấy cơ thể nàng và đồng thời khám phá thấy tình yêu.
Năm 1964
Doãn Quốc Sỹ
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt 2 Tháng Chín, 2022 Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là co...