Hổ xám đường số 4
Ngày 15.11.2015 năm vừa qua cô cháu Nguyễn Thị Hải (CESSMA) đã bảo vệ ở Viện đại học Paris VII Diderot một luận án tiến sĩ trong ngành Lịch sử và Văn minh trên đề tài Sự tiếp xúc giữa những siêu nhân tỉnh Cao Bằng và chính quyền trung ương Việt Nam (1820-1886) (1a) qua hai chủ nhiệm Alain Forest và Emmanuel Poisson. Xa Hà Nội, cũng như Cao nguyên Trung Việt, miền thượng du Bắc kỳ hồi đó được xem là hẻo lánh, độc địa, hoang vu, lại có phần nguy hiểm nên cho đến thế kỷ XVII các quan được bổ nhiệm đi Cao Bằng chẳng hạn chẳng dám đến tận nơi mà chỉ cai trị từ xa. Lẽ tất nhiên, vì không nắm được mọi quyền hành, vương triều buộc phải nhân nhượng nhiều đặc quyền cho những thủ lãnh dòng họ địa phương quằng được phong phiên thần bảo vệ biên cương (1b). Ngay khi mới lên ngôi, vua Minh Mạng muốn thực hiện ngay một cuộc cải tổ, tuy không bãi bỏ được tất cả các đặc quyền, cũng thành công giảm hạ được một phẩn nào quyền thế. Nhà vua chắc đã nghĩ đến những lợi ích và là chuyện cần thiết một cuộc quản trị các thành phố trên biên thùy với nước láng giềng hùng mạnh luôn hung hăng nếu không muốn thôn tính thì cũng lấn áp vùng nam kế cạnh. Người Pháp một thời cũng thèm muốn Trung Quốc màu mỡ, cạnh tranh với Anh Quốc từ Ấn Độ đang lăm le xuyên Thái Lan, Miến Điện để đạt đến đích. Sau khi kiểm soát miền nam (1862), Đô Đốc Pierre de la Grandière phái Ernest Doudard de Lagrée thám hiểm sông Mekông tìm đường vào Vân Nam nhưng không thành công (1866). Chính phủ Nam Kỳ chỉ còn theo bước nhà buôn Jean Dupuis đã từng ngược dòng sông Hồng qua bán súng ống cho một ông tướng Tàu (1872-1873). Francis Garnier (1873) rồi Henri Rivière (1883) lần lượt bị quân Cờ Đen giết ở Cầu Giấy nhưng những cái chết nầy mở đường cho Jules Ferry Le Tonkinois, mặc dầu bị công chúng thóa mạ, thông qua quốc hội từ Paris mạnh bước gởi quân đi bình định miền bắc (2). Trên đà thôn tính vùng đồng bằng sông Hồng, quân Pháp lập nền bảo hộ (1884) lên Bắc Kỳ (đặt tên Tonkin, nguyên gốc Đông Kinh) và luôn cả Trung Kỳ (Annam, từ tên xưa An Nam) nhân lúc triều đình Huế lủng củng nội bộ sau khi vua Tự Đức băng hà (1883).
Đường số 4: Lạng Sơn - Cao BằngMiền thượng du Bắc Kỳ độc địa trở nên một vùng quân sự có
tính chất toàn cực vô cùng quan trọng. Con đường nhỏ rải đá số 4, sau trở thành
Quốc lộ 4, năm dọc theo biên thùy Việt-Trung là một lộ trình chiến lược dài 340
km xuyên qua ba tỉnh, nối liền Móng Cái trung tâm duyên hải, giáp giới Trung Quốc
trên vịnh Bắc bộ, và cứ điểm Cao Bằng ở miền đông bắc, giáp ranh với khu tự trị
Quảng Tây dân tộc Choang. Đoạn đường giữa Cao Bằng và Lạng Sơn còn là một trục
giao thông huyết mạch trong cuộc vận chuyển của quân đội Pháp để tiếp tế các đồn
bót Đồng Đăng, Na Sầm, Thất Khê, Đông Khê,... Từ trục nầy cắt ngang những con đường
nối liền quan trọng : ở Tiên Yên đường số 18 xuội về Hòn Gai-Hải Phòng, ở Đình
Lập đường số 13 tiến đến Lục Nam-Bắc Giang, ngang Lạng Sơn đường số 1 từ Hà Nội
lên, đến Cao Bằng đường số 3 xuôi xuống Bắc Cạn, dọc lên Mã Phục-Trà Lĩnh, Phục
Hòa, ở Đồng Đăng đường ngược lên Mục Nam Quan giáp với Bằng Tường - Long Châu,
đặc biệt đường huyện lỵ dẫn tới chiến khu Việt Bắc qua các cứ điểm Bình Gia-Bắc
Sơn, Vũ Nhai - Đình Cả - Thái Nguyên,...Từ xưa, người Pháp đã ý thức lợi thế của
miền cao nguyên Bắc Việt. Năm 1885, trong bước đầu cuộc chinh phục miền bắc,
chì có một tin thất thủ Lạng Sơn mà chính phủ Jules Ferry bị lật đổ (2)!
70 năm sau, quân đội viễn chinh càng nhìn rõ tầm quan trọng của con đường chiến
lược số 4 nhưng rủi thay cho họ, những ngày hấp hối của nền thuộc địa kết thúc
cuộc chiến đấu dành độc lập của nhân dân Việt Nam cũng thao diễn ở chốn đôi núi
hùng vĩ nầy. Miền cao nguyên Bắc Việt trở nên một hậu phương cho bộ đội Việt
Nam (lúc đầu được gọi Việt Minh) ngày càng hữu hiệu thêm nhất là từ lúc Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập (1949) bên kia biên thùy, cống hiến một hậu cứ
bền vững trong một lúc tất nhiên là nước bạn. Thêm vào đó, con đường số 4 có đoạn
vốn hẹp lại gấp khúc theo sườn núi, một bên vách đứng, một phía khe sâu, hai xe
ngược chiều khó tránh, hai khe cùng chiều khó vượt, tiến thoái lưỡng nan. Khi bị
chận đánh mà một xe bị kẹt là cả đoàn tắt nghẽn! Nếu địch quân mai phục bên
trên thì lại càng khó chống đỡ! Cả hai phe Pháp và Việt đều ý thức địa thế đặc
biệt nầy nên trận chiến, như trong trò chơi mèo chuột, bên tấn bên thủ, mỗi lần
cải tiến kỹ thuật của mình, hao tổn khá nhiều trong luôn bảy năm cho đến hồi kết
thúc ở Điên Biên Phủ (1954). May cho hậu thế, ngoài những bản báo cáo chuyên
môn quân đội, có nhiều nhân chứng, đặc biệt một Việt, Trung đoàn trưởng Đặng
Văn Việt (3), một Pháp, Đại tá Pierre Charton (4) đề lại vài cuốn sách tường trình sự kiện linh hoạt từ bên trong. Ngoài trận chiến
ngành ngọn, các sách nầy còn rất hấp dẫn với những chi tiết đời sống đoàn binh
tỏ rõ tinh thần bộ đội.Chiến trận ngày 3.8.1950Từ cuối 1947, quân đội viễn chinh Pháp đã có ý định mở cuộc tấn
công Việt Bắc, vào lúc lực lượng Việt Nam đang ở thời kỳ chuẩn bị, với tham vọng
dập tắc kháng chiến trong vòng vài tháng. Tướng Valuy, Tổng tư lệnh quân đội
Pháp ở Ðông Dương giao cho tướng Salan, Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Ðông Dương,
gấp rút chuẩn bị Kế hoạch tấn công Việt Bắc gồm có hai đợt. Đợt nhất,
chiến dịch Léa, nhắm mục đích đánh chiếm khu tam giác Bắc Cạn - Chợ Đồn - Chợ Mới.
Từ ngày 07.11, tướng Valluy phái hai đội quân như hai gọng kìm, một thủy đoàn của
đại tá Communal ngược dòng sông Hồng và sông Lô tiến lên Chiêm Hóa - Tuyên
Quang, một binh đoàn dưới quyền đại tá Bophre từ Lạng Sơn ngược đường số 4 đánh
lên Thất Khê - Cao Bằng rồi vòng xuống Bắc Kạn, khép chặt vòng vây ỏ Đại Thi -
Tuyên Quang. Thêm vào bộ binh, một binh đoàn hàng không của đại tá Sauvagnac nhảy
dù xuống Bắc Kạn và Chợ Đồn, một đoàn khác nhảy xuống Chợ Mới. Họ nghĩ sau tác
chiến của Bophre, chỉ còn cần xây dựng một đai đồn bót trên đỉnh các đồi quanh
Lạng Sơn là bảo vệ được căn cử và các sân bay. Bộ tham mưu tin là chỉ dùng các
máy bay Dakota và Junkers mang tiếp xuống một số tiểu đoàn dự bi chiến dịch
phân tán khắp vùng. Ðợt hai mang mật danh Vành đai (Ceinture) là càn
quét khu tam giác, hy vọng phát hiện được cơ quan chỉ huy lực lượng chủ lực của
tướng Võ Nguyên Giáp, phá vỡ các tổ chức quân sự dân sự của Việt Minh, lùng bắt
chính phủ Hồ Chí Minh và đặt các căn cứ kiểm soát vùng biên giới Hoa - Việt. Đằng
khác, thiết lập một loạt đồn trú trên hai trục Móng Cái - Cao Bằng và Cao Bằng
- Bắc Cạn là ngăn cản được mọi liên lạc giữa hai đội quân Việt Minh và Trung Cộng.
Quân Pháp lần lượt đánh chiếm Phủ Doản, Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Thất Khê, Na Sầm,
Ôn Châu. Một chuyện bất ngờ là ngày 12.10, chiếc phi cơ chở đại tá Lambert bị
cao xạ bắn rơi, chiếc cặp đựng toàn bộ kế hoạch Léa được bộ Tổng tư lệnh Việt
Minh triệt để khai thác để chống lại cuộc tiến công của quân Pháp. Trận đèo
Bông Lau (giữa hai huyện Tràng Định - Lạng Sơn và Thạch An - Cao Bằng) do tiểu
đoàn 374 Việt Minh tiến hành ngày 30.10.1947 là trận phục kích đầu tiên trên đường
số 4, sau nầy đèo mang tên tử huyệt. Tiểu đoàn nầy được trang bị
tương đối đầy đủ so với các đơn vị khác lúc bấy giờ. Ðằng khác, ban chỉ huy đã
nghiên cứu kỹ địa hình, biết chọn trận địa phục kích hiểm trở. Vì vậy, lúc 17
giờ, khi đoàn xe 33 chiếc của quân đội Pháp, có cả xe bọc thép hô tống, vận
chuyển binh lính, vũ khí trang bị, từ Cao Bằng về Lạng Sơn lọt vào trận địa phục
kích thì bị đánh bất ngờ. Trong lúc cả đoàn dừng lại, đại liên, súng cối từ sườn
núi xả xuống, binh lính đoàn xe nhảy xuống đường, xô nhau chạy, một số vào rừng
sâu...Kết quả : trọn đoàn xe cơ giới tiêu diệt, toàn bộ vũ khí trang thu chiếm,
27 xe phá hủy, 94 lính Pháp và Lê dương, Bắc Phi chết, 101 bắt sống. Chiến dịch
Léa thất bại. Từ đây tiểu đoàn 374 được tặng danh hiệu Tiểu đoàn Bông
Lau. Nhân cảm hứng trận đánh, họa sĩ Phan Kế An vẽ bức tranh Ðèo Bông Lau (2004),
nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác bài Bông lau rừng xanh pha máu (1947) và nhạc
sĩ Đỗ Nhuận bài Ðèo Bông Lau (1948).Bông Lau!Bông Lau! Rừng xanh pha máuBiên cương lưu danh ngàn đời về sauPhạm Duy
|
Đường |
số 4 |
|
Đoạn Cao Bằng - Đông Khê |
Đoạn Đông Khê - Thất Khê |
Kinh nghiệm đánh hai trận mạc Sông Lô và Bông Lau lanh chóng
được phổ biến trên toàn chiến trường Việt Bắc, mở đầu cho hàng loạt trận phục
kích sau này: Bông Lau - Lũng Phầy, Bố củng - Lũng Vài,... ngay cả tập kích lần
đầu tiên diệt trong công sự 50 lính đồn Phủ Thông hôm 30.11.1947. Ðôi bên Việt
Pháp đều có nhận định: ai làm chủ được con đường số 4 ắt nắm thế chủ động chiến
lược, chẳng những chiến trường Việt Bắc mà còn chung cả chiến cuộc toàn Bắc Bộ.
Vì vậy, dưới quyền chỉ huy của đại tá Constans, quân Pháp hết sức cố thủ tuyến
đồn bót vững chắc dày đặc công sự nhắm mục đích vừa ngăn chận quân Việt Minh vừa
bảo vệ quân của họ trong vùng biên thùy Cao - Bắc - Lạng. Sau nhiều lần thua
đau, quân Pháp tổ chức phòng bị kỹ hơn, tăng sức hộ tống, lập đội tuần tiểu Lê
dương - Bắc Phi nghiêm ngặt, phân bố đội hình vận chuyển thận trọng,... Bên phần
Việt Minh thì ra sức đẩy lùi quân Pháp xuống miền trung du. Không phải tình cờ
mà phần đông bộ đội của tiểu đoàn 374 là người Lạng Sơn, Cao Bằng thông thạo đường
lối, địa hình. Đằng khác, càng đánh, càng thắng, bộ đội càng thu được nhiều hơn
chiến lợi phẩm trang bị cho đơn vị thiếu thốn lúc ban đầu. Hăng hái, ai cũng
mong muốn thay thế những khẩu súng cổ lỗ sĩ mousqueton Pháp,
súng thất cửu Tàu Tưởng, súng lạc hậu Nga hoàng. Từ đấy, cần phải mưu
trí, táo bạo, tạo thế bất ngờ, thời điểm bất ngờ, không gian bất ngờ,... Trong
tình trạng ấy, năm 1949, tướng Revers, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Pháp, lại
kinh lý vùng Cao - Bắc - Lạng, thấy mất mát kinh phí và sinh mạng ở đồn bót quá
nhiểu, đề nghi rút khỏi đường số 4. Vì hai tướng Carpentier, Tổng chỉ huy Quân
đội viễn chinh, và Alessandri, Tổng chỉ huy Bắc Kỳ, không đồng ý, kế hoạch đang
dùng dằn thì tháng năm 1950 trung đoàn 308 của tướng Vương Thừa Vũ đánh chiếm đồn
Ðông Khê. Chậm mất rồi: nếu đến 1949, quân Pháp chỉ phải chống đỡ những quân du
kích vũ trang đơn sơ, từ nay họ đứng trước trận chiến quy ước với tiềm hỏa lực
lớn, có ngay cả pháo binh yểm trợ do Hoa Cộng, thay thế Hoa Tưởng, tiếp tế. Chiến
lược hoàn toàn thay đổi dọc biên thùy tất nhiên dọc đường số 4: quân đội Việt
Minh từ quấy rối chuyển qua tấn công. Hai ngày sau, thiếu tá Decorse nhảy dù xuống
lấy lại Đông Khê và giữ được non bốn tháng. Sau nầy quân Pháp còn muốn chiếm lại
Đông Khê nhưng không được. Một cứ điểm nữa được đi lại nhiều lần là Thất Khê.
Những đạo binh Pháp dưới quyền chỉ huy của các đại tá Charton, Le Page,
Gambiez, thiếu tá Delcros thuyên chuyển nhiều lần giữa Thất Khê, Đông Khê, Lạng
Sơn. Sau cùng, đại tá Charton phải tổ chức rút khỏi Lạng Sơn những ngày
10-16.10.1950, kể cả pháo cối, mặc dầu hai năm trước Cao ủy Bollaert trịnh trọng
tuyên bố người Pháp sẽ không rời bỏ thành phố xinh đẹp này! Nhiều chỉ trích
chiến lược đã được nêu ra, đặc biệt rút lui dọc đường bộ số 4, khi Ðông Khê còn
ở trong tay quân địch, khi đoàn quân của đại tá Le Page còn bị kẹt trong thung
lũng Cóc Xá dễ bị tấn công, lên đường với tất cả dụng cụ, gia đình ngược với lệnh
trên là bỏ rơi quân binh dân tộc thiểu số Tày, Nùng, Dao, Mông... Dù sao, rời bỏ
Cao Bằng là rút khỏi chiến trận miền bắc, nhất là đồng thời hai căn cứ Lao Cay
và Hòa Bình cùng rơi vào tay quân Việt Minh. Cảm giác luôn thắng thế từ trước
chỉ chống quân du kích nay biến mất trước một quân đội trang bị đầy đủ. Ðể cứu
vớt tình thế, cuối năm 1950 tướng de Lattre de Tassigny, mệnh danh vua
Jean, được bổ nhiệm Cao ủy, Tổng chỉ huy Quân đội Pháp ở Viễn Ðông thay thế
Pignon và tướng Carpentier.
|
Đại tá Pierre Charton |
|
Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt
|
Ông chỉnh đốn Quân đội Viễn chinh, tổ chức Quân đội Quốc gia
Việt Nam để da vàng hóa chiến tranh, thành lập một Chính phủ Quốc gia Việt
Nam trong mục đích dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh
nuôichiến tranh. Ông thành công được phần nào cuộc phục hưng tình thế trong bước
đầu. Ông huy động bay oanh tạc cơ và vận tải ném bom napalm đẩy lui
được tấn công của hai sư đoàn 308 và 312 Việt Minh ở Vĩnh Yên (01.1951), đây là
trận oanh tạc lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương. Sau khi hạ được liên tiếp
bảy đồn dọc tỉnh lộ 18, ba sư đoàn 308, 312, 316 tấn công khu quân sự Mạo Khê.
Đoán trước, ông huy động ba tiểu đoàn lại bảo vệ, cho hải đoàn xung phong vào
sông Bạch Đằng yểm trợ hải pháo và máy bay dội bom. Mặc dầu nhiều quân binh chết,
ba chiến xa bị hủy, chiếc mảy bay Hellcat bị bắn rơi, Mạo Khê thành công thủ thế,
các sư đoàn Việt Minh không chiếm được mục tiêu (03.1951). Trận đánh Bờ sông
Ðáy kéo dài 26 ngày (05 - 06.1951) trên một chiến tuyến dài 80km: sư đoàn 308
đánh Ninh Bình, sư đoàn 304 đánh Phủ lý, sư đoàn 320 đánh vào giáo khu Phát Diệm
phía nam Ninh Bình. Pháp huy động lực lượng lớn gồm ba liên đoàn lưu động,
một liên đoàn thiết giáp, hai tiểu đoàn nhảy dù, ba hải đoàn, bốn tiểu đoàn
pháo, 30 chiến đấu cơ. Bốn trận nối tiếp nhau: Ninh Bình, Yên, Cư Hạ, Phát Diệm,
đông bắc Phủ Lý, hai bên tổn thất nặng. Pháp nhờ biết huy động lanh các lực lượng
tiếp viện hải, không quân nên chống cự hữu hiệu. Qua những trận nầy, quân Việt
Minh chưa thấy thắng được ở đồng bằng nhưng tỏ ra đã mạnh hơn trước. Ở xứ Thái
gồm Sơn La, Lai Châu, lực lượng Việt Minh tấn công gồm các sư đoàn 308, 312,
316, sư đoàn pháo 351 và các đơn vị công binh. Ngày 17-10 sư đoàn 308 đánh đồn
Nghĩa lộ trong đó có 700 quân Pháp, pháo dữ dội rồi xung phong chiếm đồn bắt
nhiều tù binh (17.10.1952). Các đồn ở miền này bị đánh chiếm, quân Việt Minh đã
thành công làm tan rã hệ thống phòng thủ dọc sông Hồng.
Những trận đánh quyết liệt
giữa núi non hùng vĩ Việt Bắc
Kiệt sức sau mấy năm chiến đấu, buồn rầu sau cái chết của người
con độc nhất trung úy ở chiến trận Ninh Bình, đau khổ bị một bệnh ung thư hoành
hành, bất lực cảm xúc ý chí đấu tranh dành độc lập không sờn của đối phương, tướng
de Lattre rời Ðông Dương cuối năm 1951, từ trần đầu năm 1952 và được phong Thống
chế. Trong một thời gian ngắn ông đă đem lại tinh thần cho quân đội viễn chinh,
trong khung cảnh uy thế rạng rỡ, ông đã tạo ra một ý nghĩa để phục hồi và thế
giới hóa cuộc chiến Đông Dương. Tướng Salan và Cao ủy Letourneau thay thế ông,
cố gắng nối tiếp sự nghiệp của ông nhưng dây đàn đã đứt khó nối lại và viễn tượng
một Điện Biên Phủ bắt đầu chớm nở trong vùng núi non hùng vĩ Bắc Việt. Thật ra
các tác giả bài viết, sách báo Pháp cũng như Việt đều đồng ý: thất bại ở Chiến
dịch Biên giới là tiền đề dẫn tới thảm bại Ðiện Biên. Ðường số 4 mang
danh Ðường rực lửa. Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt được mệnh danh Ðệ
tứ Quốc lộ Ðại vương hay, nôm na hơn, Hổ xám đường số 4 nối
gót Hùm thiêng Yên Thế Ðề Thám (1858-1913) một thời Cần vương (5).
(1b) Nguyen Thi Hai, Haute région de la rivière Gam: un siècle d’intégration d’une
marche frontière au Vietnam (1820-1925), Péninsule n° 71-2015(2)
(2) Võ Quang Yến, Jules Ferry - Le Tonkinois, Dien Dan Forum (diendan.org)
22.12.2015
(3) Đặng Văn Việt, Đường số 4 rực lửa, nxb Giáo dục (tái bản lần thứ 3) Hà Nội,
1997; La R.C.4, Campagne des frontières (1947-1950), Ed.en langues
étrangères, Hanoi, 1990
(4) Colonel Pierre Charton, RC4, La tragédie de CaoBang, Ed. Albatros,
Paris 1975
(5) Võ Quang Yến, Hùm thiêng Yên Thế, Chim Việt Cành Nam (chimviet.free.fr
số 63/1.6.2016).
Thành Xô đầu hè 2016
Võ Quang Yến














Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét