Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

Ðọc sách Hạ đỏ có chàng tới hỏiXXX

Ðọc sách Hạ đỏ có
chàng tới hỏi

Hơn một nửa dân số Việt Nam và hơn một triệu người Việt đang sống ở nước ngoài sinh ra khi cuộc chiến tranh cuối cùng của thế kỷ 20 diễn ra trên đất nước Việt Nam đã hoàn toàn kết thúc. Giới trẻ Việt Nam nghĩ gì về chiến tranh? Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Ðỗ Quyên, một thanh niên Mĩ gốc Việt, sinh viên Đại học U.C. Berkeley, California.
talawas
Tên truyện: Hạ đỏ có chàng tới hỏi
Tên tác giả: Viên Linh
Nhà xuất bản: Khai Hóa
Năm xuất bản: 1973
Địa điểm: Sài Gòn, Nha Trang
Thời gian: khoảng mùa hè 1973
Các nhân vật chính:
Nam Đàn – sinh viên đại học Sài Gòn (Văn Khoa; ban Triết học), mới tốt nghiệp, quê ở Nha Trang, yêu Dự Thư
Dự Thư (Ý Hoa) – sinh viên đại học Sài Gòn (Văn Khoa; ban Hán văn), học năm dự bị, yêu Nam Đàn
Các nhân vật phụ:
Bà Trương (Nhược Lan) - mẹ Dự Thư
Ông Trương – cha Dự Thư
Hạ Liên – bạn Dự Thư, yêu Nam Đàn
Phùng – Phụ Giảng ở Văn Khoa, tình địch của Nam Đàn, yêu Dự Thư
Ông Thành – cha Nam Đàn, xếp ga Ngọc Hội
Bà Thành - mẹ Nam Đàn, cô giáo trường nữ sinh tại Nha Trang
Phong, Thu Đà – anh em Nam Đàn
Hà Trường - bạn Nam Đàn
Phương Ý - bạn Nam Đàn, sau lấy Bính
Bính (Bính còm) - bạn Nam Đàn, sau lấy Phương Ý
Bạch Lan – em gái Nhược Lan, dì của Dự Thư, vợ cũ của ông Trương, nay sống bên cạnh chùa Báo Thiên
Thạch Bích - chồng cũ của Nhược Lan, cha ruột của Dự Thư, xếp ga Lương Sơn, bạn thân của ông Thành
Ông Giám Đốc Hỏa Xa - bạn ông Trương, muốn lấy Dự Thư làm vợ

Mở đầu:
Nam Đàn đến nhà Dự Thư, xin ông bà Trương cho phép cô đi Nha Trang với các bạn của anh nhân dịp nghỉ hè. Anh nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên với Dự Thư đầu niên học.

Nội dung truyện:
Cha mẹ Dự Thư cho phép cô đi. Cô ra Nha Trang chung với bạn cô là Hạ Liên và các bạn của Nam Đàn. Ở Nha Trang, cô gặp dì Bạch Lan, thăm ông Bích ở Lương Sơn, nơi cô sanh ra. Nam Đàn và Dự Thư tỏ tình với nhau, nhưng cô lại nhận được điện tín của bà Trương kêu cô về nhà ngay vì cha cô không bằng lòng cô ở đó. Thấy điện tín ký tên “Nhược Lan,” ông Thành mới kể lại cho Nam Đàn biết về quá khứ của bà. Năm 1957, bà vẫn còn là vợ ông Bích, bỏ chồng theo ông Trương, đem theo đứa con gái duy nhất là Dự Thư. Vì vậy, ông bà Thành ngại rằng con mình sẽ có một người mẹ vợ tương lai có quá khứ đáng hổ thẹn. Nam Đàn viết thư thuật lại câu chuyện cho Dự Thư, hẹn về Sài Gòn sẽ đến thăm cô. Về Sài Gòn, bà Trương cho cô hay rằng cha cô không bằng lòng cho cô lấy Nam Đàn, rồi sau một thời gian mới kể lại quá khứ của bà cho con. Mãi đến bữa đám cưới Bính và Phương Ý, cô mới gặp lại Nam Đàn. Tối đó, anh đưa Dự Thư về, bị ông Trương bắt gặp. Ông Trương giận dữ đe dọa Nam Đàn rằng nếu anh còn liên lạc với con ông thì ông sẽ nhờ bạn ông là Giám Đốc Hỏa Xa cho cha anh bị mất việc. Nam Đàn hứa sẽ không trở lại nhà Dự Thư, rồi xuống Vĩnh Long ở chung với vợ chồng Bính và Phương Ý.

Kết thúc truyện:
Ông Bích nghe ông Thành kể lại chuyện tình duyên giữa Nam Đàn và Dự Thư, lập tức vô Sài Gòn để giải quyết cho hai người lấy nhau. Lúc đó ông mới biết rằng Dự Thư là con ruột của mình, muốn con mình được hạnh phúc chung với người yêu. Đến Sài Gòn, ông gặp bà Trương và Dự Thư, cho hai mẹ con biết rằng chức Giám Đốc Hỏa Xa sắp có người mới thay thế, mà người này chính là bạn thân của ông Bích và ông Thành. Vì vậy, lời đe dọa của ông Trương trở thành vô hiệu. Ngược lại, hai ông Bích và Thành đã có chỗ nhờ cậy, bắt buộc ông Trương bằng lòng cuộc hôn nhân của Nam Đàn và Dự Thư. Rời Sài Gòn, ông Bích đi Vĩnh Long đón Nam Đàn về. Nay Dự Thư đã biết rằng ông Bích mới chính là cha của mình, rồi mẹ cô lại tiết lộ rằng bà vợ cũ của ông Trương lại là dì Bạch Lan, nay đang ở cô độc ở Nha Trang. Cuối truyện, Nam Đàn đến nhà Dự Thư đưa cô đi chơi, bàn chuyện hôn nhân. Lúc đó, ông Trương hết còn dám phản đối.
*

Tên truyện lấy từ bài thơ “Tình sầu” của Huyền Kiêu. Bài thơ là đối thoại giữa một anh chàng đến hỏi một cô gái, nhưng chỉ có em cô trả lời. Câu trả lời của đứa bé thay đổi theo mỗi mùa xuân hạ thu đông. Mùa xuân cô thiếu nữ còn ngây thơ, còn đi bắt bướm:
Xuân hồng có chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi hoa thắm cài đầu
Đi bắt bướm vàng bên nội.
Đến mùa hè, thì cô đã không còn bắt bướm hay cài hoa trên tóc mà đã vấn khăn. Có lẽ là cô đã đến tuổi lấy chồng. Cái nên thơ của mùa xuân hồng đã đổi qua mùa hè đỏ rực rỡ.
Hạ đỏ có chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi khăn thắm quàng đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối.
Đến mùa “thu biếc” thì cô đã biết đau khổ mà “Ði hái tình sầu trong núi.” Qua “đông xám,” cô thiếu nữ qua đời, “Đã ngủ trong lòng mộ tối.” “Hạ đỏ” tức là thời điểm trong cuộc đời cô thiếu nữ mà vẻ đẹp của cô rực rỡ nhất, tình cảm của cô nồng nàn nhất, không còn thơ dại như xưa nhưng lại chưa mất tính hồn nhiên, biết mơ mộng nhưng chưa bị thất vọng. Tựa sách muốn nói đến cao điểm của đời người con gái về mặt tình cảm lẫn sắc đẹp. “Chị đẹp” trong trường hợp này tất nhiên ám chỉ Dự Thư, cô nữ sinh viên nhỏ bé.
Màu đỏ rực rỡ của mùa hè trong tựa truyện cũng được nhắc đến qua những cành hoa phượng ở nhà Dư Thư. Tiểu thuyết lấy bối cảnh là mùa nghỉ hè của các cô các cậu sinh viên. Đầu truyện, Nam Đàn đến nhà Dự Thư là hoa phượng vỹ mới nở: “Phượng Vỹ rực rỡ trên đầu. Hoa Phượng đỏ ối, nở bừng trong nắng ban mai. Tuần lễ trước chàng tới đây, Phượng Vỹ chưa nở một cánh nào” (tr.9). Suốt truyện, mỗi chương thường mở đầu hoặc kết thúc bằng vài dòng về những cây phượng nhà Dự Thư. Lúc Nam Đàn gặp bà Trương lần đầu, nghe bà kể rằng hồi đó mình cũng ở Nha Trang, “mặt bà phản ánh màu hoa Phượng Vỹ, đỏ hồng” (tr.20). Đêm trước khi đi Nha Trang, Dự Thư ngắm hoa phượng nhà mình. Màu hoa xám dưới ánh đèn néon xanh làm cô rùng mình, như tiên đoán rằng sẽ có chuyện không may xảy ra trong chuyến du lịch của cô. Suốt thời gian chờ đợi Nam Đàn đến thăm mình trước bữa đám cưới của Bính và Phương Ý, độ nở của hoa phượng vỹ như đánh dấu sự di chuyển của thời gian. Hai người xa nhau, nhưng hoa phượng vẫn tiếp tục nở. Lúc Nam Đàn hứa không liên lạc với Dự Thư, hoa phượng cũng buồn theo: “vài cánh Phượng Vỹ lả tả rơi xuống đầu chàng” (tr.250). Cuối truyện, hai người biết rằng chuyện hôn nhân của mình sẽ thành. Một giai đoạn mới trong cuộc đời họ sắp bắt đầu. Hoa phượng cũng phản ảnh cái phút giao thời ấy: “Ngoài sân, hoa Phượng Vỹ đỏ tươi rung rinh trong gió từ những tàng của cây Phượng già lẫn những tàng của cây Phượng trồng sau, ở hai đầu sân” (tr.299).
Dù bối cảnh của câu truyện là thời chiến tranh, những thảm cảnh của chiến tranh đều vắng mặt trong truyện. Cuộc chiến không đem lại các nhân vật những mối đau khổ cay đắng mà chỉ tạo cho họ những trở ngại nho nhỏ. Vì vậy, họ đề cập đến nó không quá hai lần. Khi các bạn của Nam Đàn và Dự Thư bàn về tương lai thanh bình, Bính nói rằng anh sung sướng vì cuộc du hí nầy là lần đầu từ mười năm trở lại mà anh được đi xe hơi trên con đường Xuyên Việt. Câu này cho độc giả biết rằng câu truyện xảy ra sau đình chiến năm 1972 (tr.99). Qua câu nói của Bính, chiến tranh chỉ là một trở ngại giao thông. Tiếp theo, Hà Trường và Bính đùa với nhau rằng sau khi đất nước thanh bình, hai người sẽ về quê làm ruộng, chăn nuôi (tr.100). Họ đùa như vậy được vì chiến tranh ảnh hưởng việc làm ruộng ở nông thôn, nhưng lại không ngăn cản cản việc học hành, nghề nghiệp của những người như họ, những người thuộc về thành phần trí thức ở thành thị. Lần thứ nhì nhắc đến chiến tranh là khi đến thăm ông Bích. Từ ngày chiến tranh bùng nổ, xe lửa không còn chạy đến vùng ấy vì mất an ninh, ông Bích tự nhiên lại rảnh rang. Ông kể cho các bạn của Nam Đàn rằng gần đây ông nghe tin đường xe lửa đã sắp chạy trở lại Lương Sơn (tr.124-125). Đối với ông Bính, cuộc chiến chỉ là một trở ngại nhỏ, khiến ông không có việc làm, nhưng cũng không hệ trọng cho lắm. Cái thảm kịch trong đời ông Bích, sự đau đớn trong hoàn cảnh Nam Đàn và Dự Thư không phải do chiến tranh gây nên, mà do những rắc rối về tình cảm của mọi thời đại: bị vợ, bị chồng phản bội, bị cha mẹ cấm đoán tình duyên.
Qua cuốn tiểu thuyết này, ta có thể hiểu rằng đối với tầng lớp trung lưu và thượng lưu, đối với thành phần trí thức sống trong thành phố, những nơi không bị mất an ninh, cuộc chiến đối với họ rất xa xôi. Mạng sống, nghề nghiệp của họ không bị đe dọa như đối với dân ở thôn quê. Họ vẫn có thể sống một cách thản nhiên như trước, vẫn yêu đương, vẫn tiếp tục đi nghỉ hè như lúc thanh bình. Dù những nhân vật trong tiểu thuyết có đau khổ thật, nhưng đó là cái khổ của riêng từng cá nhân chứ không phải nỗi buồn chung của đất nước.
Nói rằng đời sống thành thị không bị ảnh hưởng trực tiếp như đời sống nông thôn không có nghĩa rằng mọi người định cư tại thành phố thời ấy đều sống an bình như gia đình Dự Thư và Nam Đàn. Ta cũng có thể đọc tiểu thuyết theo một quan điểm khác, hiểu câu truyện như một giấc mơ của thời đó. Những độc giả miền Nam mong muốn được một đời sống không bị chiến tranh lấn át, chỉ phải chịu đựng những nỗi đau đời thường trong hoàn cảnh một đất nước thanh bình. Vì vậy, họ cần những tiểu thuyết giải trí viết về tình yêu trai gái, tình cảm thật lãng mạn để làm dịu đi cái căng thẳng của thời chiến. Lời tình tứ giữa Nam Đàn và Dự Thư, cái quá khứ “giựt gân” của bà Trương đều giúp họ quên đi những tranh chấp chính trị, quên đi một xã hội bị thời thế đảo ngược. Cũng theo phong trào này mà thời ấy có nhiều nhà văn viết truyện tình một cách vô tư, không hề nhắc đến chính trị, nhứt là sau 1963 (Võ Phiến, tr.217-218). Hơn nữa, vì bối cảnh là sau đình chiến năm 1972, câu truyện có thể nói lên cái hy vọng về một đời sống tương lai hòa bình. Tiểu thuyết Hạ đỏ có chàng tới hỏi là một biểu tượng của một thời đầy lòng mong muốn một cuộc sống dân sự thời bình.
Tài liệu tham khảo:
- Viên Linh. Hạ đỏ có chàng tới hỏi. Los Alamitos, Ca.: Xuân Thu, 1989.
- Võ Phiến, Hai mươi năm văn học Miền Nam, 1954-1975. Westminster, Ca.: Văn Nghệ, 1986.
28/5/2005
Ðỗ Quyên
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là con trưởng của Hiếu Vũ ...