Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2025

Bên nắng sông chiều

Bên nắng sông chiều

Nắng trốn đi đâu mất, bầu trời giận dỗi tối sầm. Gió vội vàng đong đưa cây quạt. Một luồng không khí mát rượi tràn tới, chạy dài trên hàng dầu ven đường. Cây lá reo vui và những chiếc hoa dầu hân hoan lìa cành, xoay tròn trong gió. Chúng thi nhau múa rồi lăn kềnh lên mặt đất và rơi đầy khoảng sân nhà tôi.
Mưa không đổ, mặt trời ló đầu ra khỏi đám mây đen, tinh nghịch ném những tia nắng chói chang ra xung quanh như ngầm bảo: “Có ta đây! Đừng hòng giở trò mưa ơi!” Chẳng biết mây và mưa có nghe thấy gì không mà trời bỗng trong veo màu mảnh chai biêng biếc. Còn tôi, tôi nghe… bà ra lệnh:
- Nghị! Lấy chổi quét sân đi con!.
Úy trời! Quét sân. Chán chết! Bà mua đất làm chi nhiều quá không biết? Cất nhà ba gian hai chái hẳn hoi thế mà vẫn còn thừa ra khoảng sân rộng ơi là rộng! Một mình bà sống thui thủi ở đây. Chỉ khi phượng nở đỏ rực, ve sầu rền vang trên nhánh lá thì tôi mới xin ba mẹ về đây nghỉ hè. Tưởng là sung sướng, nào ngờ! Bà bắt tôi chọn lựa: Một là nấu nướng, hai là quét sân. Tất nhiên tôi chọn công việc thứ nhì nhưng thông thường tôi giả bộ quên. Chẳng biết bà có khám phá ra ý đồ của tôi không mà thỉnh thoảng bà lấy chổi ra sân quét.
Hôm nay, có bà ở nhà. Hết đường lánh nặng tìm nhẹ, tôi xách cây chổi ra sân. Đứng nhìn khoảng đất rộng rãi nầy đã thấy mỏi lưng. Tôi bực bội dứ dứ cán chổi về phía hàng dầu ngoài kia:
- Đồ quỉ! Hoa lá có rụng thì phải về cội chứ! Sao bay lung tung vào đây cho khổ người ta vậy hả?
- Mầy làm gì vậy Nghị?
Tôi giật nẩy mình, quay lại. Văn đang toét miệng cười với tôi:
- Mầy làm gì mà xỉa xói cây dầu vậy hả?
Một tia sáng bỗng lóe lên trong cái đầu u tối của tôi:
- Tao ra lệnh cho mấy cái hoa dầu kia rụng ngay tức khắc.
- Chi vậy?
- Đặng tao hốt đem bán.
- Ai mua mà bán?
- Bà Ba xóm mình chớ ai. Mua xuất khẩu lời lắm, làm giàu nhấp nháy, mầy ơi.
Văn quýnh lên:
- Chúa ơi! Vậy sao, cho tao quét với nghen!
Tôi làm bộ khó nghĩ, đưa tay bóp trán, gật gù:
- Thôi được, chỗ bạn bè. Nhưng với một điều kiện. Mầy quét, tao hốt, tiền bán chia đôi.
Văn mừng rỡ, đồng ý liền. Trong lúc nó khom lưng quét lia quét lịa thì tôi chạy vô nhà lấy ky. Trở ra, hai phần ba khoảng sân đã sạch bong. Hoa dầu bị gom thành một đống như ngọn đồi thu nhỏ có trăm nghìn cánh. Thấy mồ hôi mẹ, mồ hôi con đầm đìa trên trán Văn. Tôi ân hận bảo:
- Để tao quét cho. Vào nhà uống nước đi!
Sợ tôi nói ngược, Văn dặn dò:
- Nhưng mầy phải giữ lời hứa là chia đôi tiền nha!
Tôi bật cười, gật đầu:
- Ừ mà, rõ khổ!
Văn chạy vào nhà, tôi chưa kịp quét thì tụi thằng Đực, Tú, Tuấn kéo tới. Chúng đứng dạng chân, hai tay chống hông nhìn cứ như dân anh chị ở vườn. Tuấn hất hàm:
- Giỏi quá ta! Bữa nay, mầy quét sân chắc trời mưa to.
Đực góp lời:
- Trời sắp có bão rồi.
Tôi thản nhiên tán:
- Cười người hôm trước, hôm sau người cười, các bạn ạ!
Văn đã trở ra, nó liền khoe:
- Tụi tao sắp giàu rồi.
Đực nghinh mặt:
- Ăn cắp, ăn trộm đồ của ai mà giàu mau quá vậy?
- Ê, đừng hỗn nghe bạn! Hai ông sẽ bán hàng xuất khẩu, hì hì…
Cả ba thằng trợn mắt, kêu lên một lượt:
- Bán gì?
- Hoa dầu! Văn chỉ đống hoa dầu trên mặt đất.
- Trời! Ai mua thứ nầy, khùng vừa thôi hai cha.
- Bà Ba mua cho hai cha chứ ai. Mặt hàng mới, chưa ai biết đâu. Bà Ba bả giàu dữ lắm. Tôi tán thêm vào.
Cả ba thằng nhao nhao:
- Cho tụi tao bán với!
Tôi ra vẻ hào hiệp:
- Cứ tự nhiên, các bạn.
- Bây giờ làm sao?
Tôi mắng mỏ:
- Ngu như tụi mầy thì nghèo chết. Chỉ có vậy mà không biết, để tao chỉ cho. Về nhà lấy chổi quét sân, nếu siêng thì quét cả đường làng. Bao nhiêu bông dầu hốt hết cho vào bao rồi đem tới nhà bà Ba
- Mầy chờ tụi tao làm rồi đem bán một lượt nghen!
- Ừ!
Ba đứa phóng nhanh ra cổng. Văn giành quét tiếp phần còn lại. Nó cho phép tôi ngồi tựa gốc bưởi… canh chừng hoa dầu. Tội nghiệp cái thằng cẩn thận, biết bảo quản “hàng xuất khẩu”. Gió hiu hiu, có lẫn mùi thơm của hoa bưởi ru tôi vào giấc ngủ. Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi thằng Văn lấy chổi chọt vào hông, tôi mới choàng tỉnh.
- Dậy đi ông. Tao mệt muốn chết mà mầy ngủ tỉnh bơ hà! Tụi thằng Đực trở lại rồi kìa.
Tuấn, Tú, Đực đang khệ nệ khiêng cái bao to tổ bố vào cổng. Chúng ném cái bao cạnh đống hoa dầu của tôi rồi bảo:
- Nè, còn nhóc luôn, hốt không kịp.
Đực đưa một ngón tay lên môi, thì thầm:
- Tụi mầy đừng nói cho ai biết nghe, mất giá à! Để tao kiếm tiền mua một trái banh da đá chơi.
Tôi gật đầu tán thành nhưng trong bụng cũng hơi ớn. Tưởng nói chơi, ai dè tụi nó tin thiệt. Tôi tìm cách thoát thân:
- Tụi bây đi hỏi giá đi! Để tao canh chừng cho.
Bốn thằng bạn của tôi chạy ra đầu xóm tìm bà Ba. Còn tôi, tôi cũng chạy ra ngõ sau rồi lủi vô ruộng, băng qua đường. Đến bụi trâm bầu cạnh nhánh sông nhỏ, tôi mới dừng lại rồi chui vào đó.
Vậy là thoát. Bây giờ, chỉ còn chờ mặt trời chếch bóng, khói thổi cơm chiều từ những mái lá kia bay lên nhuộm xám không gian. Lũ bạn tôi cũng như chim bay về tổ, chúng trở lại nhà để ăn cơm. Tôi chỉ chờ có thế.
Tiếng cười trong trẻo bất ngờ vang lên làm tôi hoảng hồn. Ba bốn đứa con gái đang đứng bên bờ sông chuyện trò vui vẻ. Bỗng một đứa trong nhóm bảo:
- Ê, tắm không tụi bây?
Cả nhóm nói như reo:
- Tắm!
Như có ai đánh trống trong ngực tôi. Nhịp tim tự nhiên tăng tốc, nhảy loạn xà ngầu. Nó kêu thình thịch, thình thịch nghe phát sợ. Tôi nhắm nghiền đôi mắt. Để chắc ăn, tôi đưa cả hai tay bụm mặt.
Lát sau, mở choàng mắt, tôi càng kinh hãi hơn khi thấy mấy cái áo vắt trên cành cây gần đó. Và dưới sông, mấy đứa con gái đang nhởn nhơ bơi lội, cười đùa ầm ĩ.
Phút chốc, tôi thấy mình biến thành anh thư sinh ngày xưa. Vào một hôm xa lơ xa lắc nào đó đã lạc vào chốn non bồng. Anh bắt gặp mấy tiên nữ đang tắm suối. Anh ta đã đánh cắp một đôi cánh trắng. Tôi thì khác. Tôi chẳng biết làm sao cho thoát khỏi cái bụi trâm bầu quái ác nầy. Nếu đám con gái dưới kia phát hiện có một thằng nhóc đang ngồi đây. Thế nào tụi nó cũng la ầm lên. Và, tôi, một “Nam nhi chi chí” sẽ mang án oan tức khắc. Cả xã sẽ gọi tôi là… thằng ngó con gái tắm sông. Trời! Có mà chết! Nhục ơi là nhục! Cắn đứt ba cái lưỡi, chết ba lần còn nhục. Phải làm sao đây? A! Tôi nghĩ ra một cách tuyệt vời. Tôi cởi áo trùm kín mặt mày, đầu cổ, chỉ chừa một bên mắt để nhắm hướng. Có như vậy, tụi con gái mới không biết thằng nào đang nhìn chúng. Và, một, hai, ba… chạy! Tôi đứng phắt dậy, chạy! Tôi chạy như bị ma đuổi. Chạy bừa lên mạ non, bùn văng tứ tung. Mặc! Cứ chạy. Chân giẫm phải gai mắc cỡ, đau thấu trời. Kệ! Vẫn chạy. Từ cha sanh, mẹ đẻ tới giờ, chưa lần nào tôi chạy nhanh như lần này, bỏ lại sau lưng tiếng thét của mấy đứa con gái vọng lên từ dưới nhánh sông chiều:
- Oái, oái… ma… ma… ma!
Vừa thấy cổng nhà sau, không kịp xô cửa, tôi nhảy đại lên giường, kéo mền trùm kín từ đầu tới chân, và tiếp tục… run.
Nghe rầm ì như sắp sập nhà, bà tôi chạy vội vào buồng. Bà hốt hoảng kêu lên:
- Trời, con… làm sao vậy… Nghị?
Tưởng tôi trúng gió, bà đi kiếm chai đầu. Tội nghiệp! Bà đổ cả chai dầu lên sống lưng tôi. Khi đã tỉnh táo, tôi xếp cái áo lại, giấu tận đáy rương. Và, từ đó, nó được nằm yên, không bao giờ tôi mặc lại cái áo ấy.
Từ ngày về quê, đây là lần đầu tiên tôi ngủ không yên. Cứ giật mình hoài vì những cơn ác mộng. Tôi thấy lũ bạn báo thù và đang tắm sông thì bị… con gái ngó.
Nguyễn Thị Mây
Nguồn: Trích truyện dài TÍN HIỆU MÙA XUÂN
Theo https://vietvanmoi.fr/

Giờ văn miệng

Giờ văn miệng

- Thưa cô, lớn lên, em sẽ làm bố ạ!
Giờ văn miệng phút chốc vui nhộn như giờ sinh hoạt lớp.
Đắn đo giây lâu, tôi hỏi:
- Sao em không mơ ước thành bác sĩ, kỹ sư?
Hoàng Phúc thản nhiên đáp:
- Thưa cô, làm bố tài hơn!
 “Tài hơn!” Chẳng hiểu thằng bé sẽ giải thích thế nào về hai tiếng nầy. Với đề bài: "Lớn lên em sẽ làm gì? Em hãy hình dung khi trưởng thành được làm công việc em đã chọn. Hãy kể những hoạt động của em khi đó”. Lúc soạn đề bài Tập làm văn, tôi không ngờ xảy ra tình huống này.
Đa số học sinh đều nói lưu loát mơ ước của mình. Chúng tưởng tượng sẽ trở thành nhưng công dân tốt, có địa vị, làm việc nhiệt tình, ý thức trách nhiệm cao. Tôi chuyển sang hỏi Trường Hải. Trường Hải đứng lên:
- Thưa cô, lớn lên em sẽ làm bác sĩ.
Có tiếng xì xầm:
- Học dở gần chết mà làm bác sĩ.
- Bạn làm bác sĩ nhớ lộn tên thuốc thì… khổ cho người ta lắm đó.
Tôi vội nhắc:
- Đề nghị các em trật tự! Phải tôn trọng ý kiến của bạn! Mơ ước của Trường Hải tuyệt lắm!
Trường Hải đỏ bừng hai má, em vung tay như tuyên thệ:
- Em sẽ là một bác sĩ giỏi, yêu thương bệnh nhân. Em thức dậy thật sớm, ăn sáng qua loa rồi tới bệnh viện. Phòng khám đông nghẹt bệnh nhân. Em cúi chào chứ không câm như… đau họng.
Có tiếng trêu chọc:
- Lễ phép gớm!
Tôi mỉm cười động viên:
- Tốt! Em bắt đầu công việc ra sao?
- Em ngồi ngay chỗ của mình, mời bệnh nhân theo số thứ tự. Nhưng nếu có người bệnh nặng hay già yếu, em sẽ khám trước. Em tìm ra chứng bệnh nào đã hành hạ họ rồi ghi toa. Em căn dặn bệnh nhân nhớ uống thuốc đúng quy định, dù có đắng cũng ráng chịu.
Thu Trang giơ tay phát biểu:
- Thưa cô, như thế thì chưa phải là bác sĩ giỏi. Khi em khám, em còn xoa dầu, an ủi: "Ngoan thế! Tội nghiệp! Nhưng không sao, vài hôm sẽ khỏi. Ngoài việc uống thuốc, nhớ ăn uống điều độ”.
Tiếng cười rộ lên vui vẻ. Liền đó, một bạn thắc mắc:
- Khám bệnh còn xoa đầu người ta làm chi? Coi chừng bị mắng là vô lễ đó.
- À quên, hihi… ý mình là khi bệnh nhân nhỏ tuổi như mình kìa.
Nhiều cánh tay giơ lên, tôi chọn Vinh, em đứng lên, mắt sáng rỡ:
- Em thường mơ ước sẽ trở thành giáo viên. Em sẽ lên lớp đúng giờ, giảng dạy nhiệt tình. Em nào chưa hiểu, em giảng cho tới khi hiểu. Nếu có em nào không thuộc bài, em chỉ rầy chút xíu thôi.
Thu Hằng xen vào:
- Nếu gặp học sinh lì, rầy cũng không chịu học, bạn làm sao?
- Lúc đó mình đến nhà tìm hiểu nguyên nhân, hihihi… sẵn tiện méc mẹ bạn.
Cả lớp cười rộ. Kế tiếp là em Thắm trình bày:
- Thưa cô, em chọn nghề bán hàng. Sáng sớm, em đã dậy để dọn hàng. Em bày biện ngăn nắp, đẹp mắt. Em sẽ lễ độ với khách hàng. Không cau có khi họ trả giá hoặc khen chê đồ của em. Em sẽ giúp họ chọn lựa loại tốt, bán đúng giá. Em sẽ xem khach hàng là thượng đế ạ!
Tôi phấn khởi bảo:
- Em sẽ là một người bán hàng tốt!
Tới phiên Phúc, em đứng ưỡn ngực, vẻ tự hào :
- Lớn lên em sẽ làm… bố ạ!
Cả lớp cười rộ. Em vẫn thản nhiên tiếp:
- Em sẽ là một người bố thiên tài như… bố em. Mỗi ngày, lúc mặt trời còn ngủ em đã dậy. Em nấu cơm sáng rồi đánh thức các con. Sau khi chúng ăn sáng xong, em đưa chúng đến trường. Sau đó em sẽ quay về chở vợ đi chợ.
Hoàng Phúc chớp mắt, em nhìn về khoảng trời xanh ngoài cửa lớp. Bố Hoàng Phúc làm nghề chạy xe ôm. Ngày nào ông cũng đứng chờ con ngoài cổng trường. Nắng nhuộm đen làn da. Chỉ có nụ cười và ánh mắt lấp lánh tình yêu thương. Ông là tấm gương mà Hoàng Phúc ước mơ noi theo.
Chờ cho học sinh ổn định , tôi kết thúc tiết học bằng lời dặn dò một số nét để hoàn chỉnh một bài văn miệng. Tiếng vỗ tay vang lên cùng lúc tiếng trống tan trường. Các em ùa ra sân như đàn chim non rời tổ.
Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/

Những mùa trăng

Những mùa trăng

Những mùa thu trước, vào đêm rằm tháng tám, mẹ Duy bày chiếc bàn con trong sân. Trên đó, la liệt bánh trái. Bao giờ, cũng có ít nhất một đĩa bánh Trung Thu. Hai chiếc bánh in mặt trăng nằm đối xứng nhau. Một đĩa to đựng trái cây gồm bưởi, cam, nhãn, chôm chôm, bòn bon ... Một mâm nhỏ chất đầy các loại củ như khoai lang, khoai môn, củ chuối. Bộ chưng đèn sành được dịp đứng ngang hàng với chiếc lư đồng bóng loáng. Bình hoa được đem lên sau rốt. Những đóa vạn thọ to tròn, vàng ươm như ánh trăng làm cho cái bàn vĩ vèo bánh trái thêm đẹp đẽ, quyến rũ.
Bấy giờ, cả nhà bắc ghế ngồi dưới gốc cây nguyệt quế để chờ trăng lên. Ông Duy có lệ chỉ thắp nhang, đốt đèn cúng rằm khi vầng trăng gác chênh chếch trên mái lá của dãy nhà đối diện. Có lẽ ông nghĩ rằng ở nơi cao như thế, chị Hằng mới nhìn rõ chiếc bàn con của nhà Duy và sẽ chứng giám cho lòng thành của ông. Nhưng lúc đó, trăng yểu điệu, chậm rải nhích từng chút một. Ban đầu là một quầng sáng nhàn nhạt từ từ nổi lên, nở ra, lan rộng rồi chị Hằng xuất hiện. Chị khoan thai đi lên bầu trời trong vắt. Duy thích thú reo to khi nhìn bóng trăng tròn vành vạnh. Trăng tưới lên mái lá ánh vàng huyền ảo. Căn nhà bỗng chốc mạ vàng, trở nên giàu sang, trịnh trọng. Lúc ấy, mái tóc bạc của ông trông cứ như những sợi bạch kim trùm lên đỉnh đầu. Ông chắp hai tay, mắt ngước nhìn trăng, lâm râm khấn vái. Ông mời chị Hằng xuống ăn bánh rồi phò hộ cho gia đình an vui, hạnh phúc. Và để chờ nhang tàn, ông kêu Duy ngồi cạnh, bắt đầu kể chuyện.
“Cách đây lâu lắm, có một vì vua nhân từ, đất nước thanh bình, thịnh trị. Nhà vua cảm thấy an lòng, mãn nguyện nên cứ vào những đêm trăng sáng, ngài cho bày yến tiệc để cùng các quan thưởng trăng. Như lệ thường, ngày rằm tháng tám vua lại tổ chức cuộc vui. Đêm ấy, trăng tròn và đẹp mê hồn. Vua ngây ngất trước vẻ huyền bí của thiên nhiên kỳ diệu nên dùng rượu hơi nhiều. Ngài đưa tay vẫy gọi trăng và ra lệnh cho chị Hằng phải rước ngài lên thăm cung Quảng Hàn. Lạ lùng làm sao! Vầng trăng bỗng dưng chuyển động. Hai cánh cửa hình bán nguyệt vụt mở ra. Một chiếc cầu vồng lấp lánh sáng thả dài từ cổng trời xuống tận ngự uyển. Chị Hằng cùng các tiên nữ tha thướt qua cầu. Họ đưa nhà vua lên cung trăng thưởng ngoạn. Ở đó, nhà vua được dự buổi dạ hội linh đình chưa từng có trong cuộc đời vương giả của ông. Nhà vua được xem vũ khúc Nghê Thường, được nếm bánh Trung Thu, một loại bánh vừa ngon vừa lạ. Tiệc tàn, các tiên nữ đưa nhà vua xuống trần. Giật mình tỉnh giấc, nhà vua vui mừng được trải qua giấc mơ tuyệt đẹp. Ngài cho gọi đầu bếp và kể ra từng vị trong chiếc bánh, tả lại hình dáng của nó. Chỉ ít hôm sau, người đầu bếp tài ba đã tạo ra những chiếc bánh giống hệt những chiếc bánh trên cung Quảng, đúng như mong muốn của nhà vua. Để dân cũng được hưởng món ngon, vật lạ, vua truyền lệnh làm bánh Trung Thu và cứ rằm tháng tám phải cúng trăng bằng những lễ vật như trong mơ của nhà vua.”
Câu chuyện cổ tích về bánh Trung Thu Duy nghe ông kể không biết bao nhiêu lần, nhưng cậu bé vẫn thích thú khi được ôn lại và Duy thường hỏi ông những câu hỏi cũ:
- Ông ơi! Tại sao cúng trăng phải có các thứ trái cây? Nhiều quá, chị Hằng đâu ăn hết.
Ông bật cười:
- Chị Hằng có bao giờ ăn đâu mà hết với không! Đúng ra, đây chỉ là tục lệ để gợi nhớ chuyện xa xưa, một hình thức tỏ lòng biết ơn tổ tiên, ông bà mà thôi.
Lúc gia đình quây quần quanh mâm bánh, Duy vừa ăn vừa hỏi:
- Những câu chuyện ấy có thật không ông?
Nheo mắt nhìn Duy, ông chế giễu:
- Ông không biết câu chuyện ấy do người xưa tưởng tượng hay là sự thật, nhưng ông nghĩ, cúng trăng chẳng hại gì. Trước cúng, sau ăn. Mỗi năm, chỉ có một mùa trăng đẹp. Mình bày cổ bàn vừa nhấm nháp vị ngọt của bánh vừa ngắm cảnh đẹp thiên nhiên thì còn gì thú vị hơn.
Nhớ lúc phải chờ đợi cúng kiến xong mới được ăn, Duy càu nhàu:
- Cháu thấy cúng kiến mất thời giờ ... chờ đợi lắm.
Ông phì cười:
- Điều gì cháu phải chờ đợi thì khi được nó, cháu mới thấy hết giá trị của mơ ước. Vả lại, ông cháu mình ăn uống vui vẻ, chẳng lẽ để chị Hằng ngó miệng. Mình phải mời chứ, mà đã mời thì phải để người ta dùng trước “ Tiên khách, hậu chủ” mà cháu!
Cỏ May nhìn Duy chăm chú. Cô bé ngạc nhiên lắm. Hai đứa học chung mấy năm liền nên cái tính “ tự ái to bằng cột đình” của Duy, Cỏ May còn lạ gì nữa. Không bao giờ Duy có mặt trong các buổi liên hoan, nếu không đóng tiền. Mặc dù cô chủ nhiệm và các bạn đều yêu quí Duy, biết Duy vừa mất mẹ, hoàn cảnh khó khăn Duy phải sống nhờ vào tiền bán vé số của người ông già yếu. Nhưng các bạn càng ân cần Duy càng né tránh. Duy co rút trong chiếc vỏ ốc tự ái của mình. Lâu dần, Cỏ May tưởng Duy chỉ còn là cái bóng cô đơn trong lớp học.
Đêm nay, ngày rằm tháng Tám, mẹ Cỏ May đã chuẩn bị mọi thứ để cúng trăng. Trong lúc chờ đợi, cô bé ngồi trên chiếc băng đá gần cổng. Giật mình khi thấy bóng ai thấp thoáng bên ngoài. Chạy ra, Cỏ May gặp Duy. Cô bé mừng rỡ kéo bạn vào trong sân.
Cỏ May tíu tít nói:
- Vào nhà Cỏ May chơi nha bạn! Hôm nay, bạn phải ở đây ăn Tết Nhi Đồng với mình nghe. Mẹ Cỏ May mua bánh nhiều lắm.
Duy ngượng ngùng liếc nhìn cái bàn ê hề bánh trái. Ánh mắt buồn bã bỗng dưng sáng lên khi trông thấy dĩa bánh Trung Thu. Cỏ May vội bảo:
- Còn nhiều lắm. Mẹ cất trong hộp. Mình ăn hết, mẹ sẽ lấy ra thêm. Nhưng ... phải chờ cúng xong đã.
Duy nhìn xuống, dí mấy đầu ngón chân trên nền đất. Cậu bé khẽ khàng:
- Không sao, cái gì mình chờ đợi thì lúc có mới quý!
Cỏ May tròn xoe mắt nhìn bạn:
- Bạn nói chuyện y như người lớn !
Hai đứa ngồi trên băng đá. Cỏ May cảm thấy hôm nay Duy lạ lắm. Không mời mà tới, nói chuyện không giống mọi ngày. Trả lời chẳng ăn nhập gì vào câu hỏi của cô bé nhưng Cỏ May chẳng dám thắc mắc với người bạn hiền hậu của mình. Mắt Duy cứ nhìn vào mấy nén hương mẹ thắp. Dường như Duy có điều gì khó nghĩ. Cô bé mong sao cho nhang chóng tàn để mời bạn ăn bánh. Cô bé sợ Duy lại tự ái rồi bỏ về. Nhưng, Duy vẫn kiên nhẫn ngồi chờ. Cuối cùng, việc cúng kiến cũng xong. Mẹ mời ba ngồi vào bàn, ba âu yếm bảo Cỏ May:
- Cỏ May, con mời bạn ngồi vào đây đi con!
Duy rón rén, khép nép ngồi bên Cỏ May. Ba Cỏ May vui vẻ bảo:
- Cháu cứ tự nhiên, thích gì cứ lấy!
Duy sượng sùng, ngồi im. Thấy vậy, mẹ Cỏ May đưa nửa cái bánh Trung Thu cho Duy. Cậu bé run run, đưa hai tay nhận. Bỗng dưng Duy đứng bật dậy, lễ phép nói:
- Con cảm ơn hai bác và Cỏ May. Con xin phép về ạ!
Không để cho ai kịp ngăn cản, duy chạy vụt ra sân, trước những cặp mắt mở to, kinh ngạc.
Chưa bao giờ Duy chạy nhanh đến thế. Cậu bé băng qua dãy phố dài, không buồn nhìn những chiếc đèn lồng đủ màu của đám trẻ đang đi dọc lề đường. Đến trước cổng, Duy dừng lại, kéo áo lau nước mắt. Cậu bé dọn sẵn nụ cười trên môi. Duy sợ nét mặt ủ rũ của mình làm ông lo lắng. Cậu bé nghiêng đầu nhìn nửa cái bánh trong lòng bàn tay rồi chép miệng:
- Chắc ông sẽ mừng lắm!
Duy chạy ào vào nhà. Cậu va phải chiếc ghế, đau điếng. Ông Duy kêu lên:
- Cháu chạy đi đâu dữ vậy? Lại đây, ông có cái này cho cháu.
Ông chỉ nửa cái bánh Trung Thu đặt trên cái đĩa nhỏ để trên bàn. Duy tròn mắt ngạc nhiên:
- Ồ, ông mua bánh hả ông?
- Không, ông Tư ở đầu xóm mời ông. Ông không ăn nhưng ... lấy về cho cháu.
Duy đặt nửa cái bánh của mình vào dĩa rồi ấp a, ấp úng:
- Cháu cũng có quà cho ông.
Hai ông cháu nhìn nhau rồi nhìn hai nửa cái bánh. Bỗng dưng Duy òa khóc. Ông vội quay mặt đi.
Ngoài sân, trăng đã lên cao, trải ánh vàng mỏng manh trên mái lá. Trăng ngậm ngùi nhìn mảnh sân nhỏ thiếu chiếc bàn con. Cây nguyệt quế lặng lẽ đưa hương, đỗ chiếc bóng sậm màu, hiu hắt.
Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/

Chốn bình yên ngày cũ

Chốn bình yên ngày cũ

Đó là ngôi nhà thời thơ ấu của tôi. Nơi đoàn tụ những người thân yêu nhất đời tôi và nơi để nhớ về khi vấp ngã, buồn đau.
Ngôi nhà có mái vòm cao, lợp ngói đỏ au. Những bức tường dầy thô kệch với những cây cột tròn to tướng mà vòng tay ấu thơ ôm không xuể. Ngôi nhà đã gợi trong tôi nỗi thắc về sự tương phản giàu nghèo. Tại sao những con người nghèo rớt mồng tơi như gia đình tôi lại có nó? Ông ngoại tôi đã giải thích: Sau một trận hỏa hoạn, ngôi nhà của ông bà tôi biến thành tro bụi. Để có chỗ trú cho gia đình, ngoại đã nhận làm người gác cổng cho hảng rượu. Nhưng người ta đã lường công ông tôi. Họ bắt ông tôi vừa gác cổng vừa khuân vác chum rượu cho khách mà không trả một xu suốt mười mấy năm đằng đẵng. Cả nhà phải sống dựa vào gánh hàng rong của bà. Rồi Cách mạng tháng tám thành công. Cùng với bao công nhân khác, ông đã đấu tranh quyết liệt với chủ. Tòa án đã đứng về phía người nghèo và ngoại tôi được sở hữu vĩnh viễn ngôi nhà vốn dành cho người gác cổng.
Thuở đó, tôi chưa hiểu lắm về điều nầy. Chỉ biết từng góc nhà, từng viên gạch thấm đẫm tình yêu thương, hằn sâu dấu vết kỷ niệm đẹp đẽ của một thuở bình yên. Cửa chính ngôi nhà quay về hướng đông nhưng mãi đến khi mặt trời chênh chếch đỉnh đầu thì nắng mới lọt thỏm xuống mảng sân xanh màu hoa kiểng. Bấy giờ, hảng rượu đã đóng cửa, không còn hoạt động nhưng nó mãi mãi đứng án ngữ, đưa bức tường rêu phong che khuất dòng sông với hàng dừa nghiêng nghiêng soi bóng. Nhưng ngoại đã làm mát dịu tầm mắt chúng tôi bằng những chậu hoa kiểng tuyệt đẹp. Tôi thích nhất cây khế cao chưa bằng tôi đã chi chít quả vàng be bé.
Gian trước, cạnh cửa sổ, ông đặt một bộ ván gõ nâu bóng, mát rượi. Ông tôi thường ngồi ở một góc ván vừa hút thuốc vừa lơ đễnh nhìn bóng mây trôi bồng bềnh ngoài khung cửa hẹp. Đó cũng là nơi tôi đẩy một giấc trưa no mắt. Khi ngoại lúi húi ủi đồ cho cả nhà thì tôi ngồi vắt vẻo trên thành cửa sổ học bài. Ông thường chế giễu tôi đọc ra rả như cuốc kêu mùa hè, chẳng hiểu nội dung nên học xong, quên liền. Nghĩ cũng lạ, tôi học như nhảy dây, khi đạt thứ hạng cao nhất, khi tụt xuống tận đáy sổ. Cũng trên bộ ván nầy, có biết bao lần tôi bị phạt nằm sấp với cây roi mây đặt trên mông. Và cũng bấy nhiêu lần, tôi thừa cơ hội đánh thêm một giấc đến khi trời xế bóng.
Đối điện bộ ván là cái bàn đá hoa cương mặt hình tròn đã cũ. Nó chỉ có ba chân lành lặn. Chân còn lại bị mẻ một miếng bằng nắm tay. Ông tôi kê chỗ “tật nguyền” của nó vào sát vách nên ít ai biết được. Đêm đêm, ba chị em tôi thường ngồi làm bài tập ở đó hoặc túm tụm nghe bà tôi kể chuyện đời xưa.
Phía sau vách song môn là giường ngủ của mẹ tôi. Từ khi ba tôi bỏ nhà theo người đàn bà khác, một mình mẹ tần tão nuôi cả nhà sáu miệng ăn. Tờ mờ sáng, mẹ đã gánh hàng ra chợ và đến tối mịt mới quay về. Người ta bảo mẹ tôi máu lạnh, chẳng biết ghen, người cứ trơ như đá. Nhưng họ nào biết nhiều đêm mẹ tôi khóc thầm. Và sáng nào bà tôi cũng mang chiếc gối của mẹ ra phơi trên đầu trụ hàng rào. Bà nói ở đó nắng tốt, mau khô. Dầu vậy, nước mắt vẫn tạo một mảng thâm kim ngày một đậm thêm.
Trong gian bếp có một hàng lu để chứa nước mưa và hai cái chứa nước sông để tắm rửa, giặt giũ. Mỗi khi nước lớn, chị tôi thường quảy cặp thùng ra sông lấy nước. Tôi với thằng em trai thường lẽo đẽo theo sau đòi phụ gánh nhưng chị bảo còn bé, gánh nặng sẽ bị lùn, cứ lo học là chị mừng rồi. Thương chị, tôi với thằng em tiết kiệm nước cho chị đỡ vất vả bằng cách mỗi lần tắm chỉ dùng có ba gáo nước. Biết được, ông mắng: “Ở dơ! Hèn chi hôi như cú. Có muốn thành hai rừng cây biết đi như truyện trong sách Quốc văn Giáo khoa Thư không?”. Sau đó, ông làm hai cặp thùng bé tí cho tôi với thằng Út. Từ đó, chiều nào, ba chị em cũng gánh nước đua, vui đáo để!
Thời gian lặng lẽ trôi. Ông bà tôi lần lượt qua đời, chị em tôi lớn dần,có nghề nghiệp ổn định rồi lập gia đình. Tôi và chị ra riêng. Mẹ vẫn còn sống dưới mái nhà xưa. Bây giờ, tóc mẹ đã ngã màu sương khói. Mẹ bị mất trí nhớ, không còn nhận ra chúng tôi là ai. Nhưng mỗi lần bị roi đời quật ngã, tôi quay về quỳ bên gối mẹ, tìm lại phút bình yên ngày cũ.
Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/

Chim mồi ngày ấy

Chim mồi ngày ấy

Thuở đó, quê tôi còn hoang dã và nghèo nàn. Có nhiều rừng cây mà cũng lắm mương xẻo. Đất rộng, người thưa. Âm u, trầm uất đã tô vẽ con đường đến trường của tôi nhiều sắc màu độc đáo.
Tôi học ở một ngôi trường nhỏ nhưng rất đẹp. Muốn đến trường, tôi phải chọn một trong hai lối. Một là đường cái tráng nhựa, dọc theo dãy phố có nhiều hiệu chạp phô của người Hoa. Nhưng tôi sợ cái bót có rào mấy vòng kẻm gai và chông chênh phía trước một chuồng cu cao lêu nghêu. Bên trong, một người lính bồng súng, nhìn ra bốn phía như một vị ác thần canh giữ nơi bí hiểm. Hai là con đường đất ngoằn ngoèo, luồn lõi giữa rừng cây, rồi tới con xẻo to, có một cây cầu khi mà tay vịn ngả nghiêng về một phía, huốt tầm tay với. Gặp lúc mưa dầm lại nhằm con nước lớn thì lũ học trò chúng tôi đứa nào cũng khiếp. Dưới xẻo, dòng nước đục ngầu chảy xiết sẵn sàng cuốn phăng, nhận chìm mọi thứ. Qua cầu là tới một ngôi chùa cổ kính và uy nghiêm của người Khmer với những ngọn tháp xám xịt, rờn rợn tượng thần bốn mặt, nhiều tay. Tiếp đó là bệnh viện có hàng rào cẩn thận nhưng lại chừa cái nhà xác bên ngoài. Vốn sợ ma, vừa thấy dạng nhà xác, đứa nào cũng lột dép cầm tay, co giò phóng như bay đến trường cách đó không xa.
Con đường vòng xa lắc, đủ thứ rắc rối thế mà chúng tôi lại thích. Bởi vì chúng tôi đã gặp một người bạn đường to con, lớn tuổi hơn đôi chút, là anh Thao.
Anh Thao cũng đi dọc con đường ấy để … nhặt củi khô. Như hẹn trước, tôi và mấy đứa bạn cùng xóm vừa rẽ vào lối mòn thì anh cũng lầm lũi đi tới. Chúng tôi làm quen và thân thiết chóng vánh. Anh cho biết quê mình xa tít ngoài Trung, cha anh đã chết vì bệnh, mẹ con anh trôi dạt đến lúc gặp người cha kế mới ổn. Chúng tôi rủ anh đi học, anh bảo : Nhà nghèo lắm, chưa dám nghĩ tới. Khi nào khá, sẽ đi học ngay.
Anh thường đưa chúng tôi đến tận cổng. Tan học,về đến chỗ nhà xác đã thấy anh đứng đón. Thấy chúng tôi sợ sệt, anh cười bảo : Người chết là hết! Có làm gì được mình đâu mà sợ? Chúng tôi cảm thấy an tâm hẳn. Nhờ anh, chúng tôi thấy được cái tốt ẩn hiện dọc đường. Như khi cùng ghé lại cái khạp nước mưa đặt bên hông chùa, chúng tôi thả dàn uống những bát nước mưa ngọt lịm thì sau đó anh Thao thường chạy vào chùa, rồi khệ nệ khuân một thùng nước đầy, đổ vào khạp. Anh giải thích rằng người lỡ đường đến sau có sẵn nước uống mà không mất công các sư nặng nhọc. Anh còn bày cách cho chúng tôi biết vui khi vất vả nữa. Anh bảo khi vác bao củi nặng, anh tưởng tượng là bao gạo thì cảm thấy nhẹ liền.
Ngày mưa nào anh cũng chờ chúng tôi. Anh cõng từng đứa qua cầu rồi mới vác bao củi qua sau rốt. Một lần, không hiểu vì lạnh hay mệt mà anh té xuống xẻo. Anh bơi được vào bờ nhưng bao củi chìm mất. Từ hôm đó không thấy anh đi nhặt củi khô nữa. Lạ một điều, mỗi khi trời mưa, nhằm lúc tan học thì lại thấy anh tới chỗ cầu khỉ để cõng từng đứa qua. Lúc ấy, dưới cơn gió quật, ôm chặt vai anh, chúng tôi vẫn cảm thấy ấm áp, an toàn.
Một hôm, tôi thay chị đem cơm cho mẹ bán hàng ở nhà lồng chợ. Gần đó có một nhóm cờ bạc. Người đàn ông làm cái có khuôn mặt dữ dằn và xảo trả. Ông ta xào, ném ba lá bài gồm một hình thằng tây và hai lá toàn nút một cách lão luyện, mồm không dứt : “Đặt vô, đặt vô! Bà con ơi!” Có một người đàn bà đang hồi hộp nhìn một cậu bé chơi bài và luôn chọn đúng lá có hình thằng tây. Tôi suýt kêu lên : “Anh Thao!” Thấy anh gom tiền, người đàn bà động lòng tham, cũng ngồi thụp xuống tham gia. Lạ quá! Bây giờ, anh bắt đầu thua. Tiền của anh và bà nọ cứ bị gom vào túi người làm cái. Khi chị ta đứng lên, vét hết số tiền còn lại thì khuôn mặt anh Thao bỗng bừng đỏ. Anh ngần ngừ khi đặt tiền xuống lá bài. Lần này, cả hai được trúng. Chợt người làm cái đứng phắt dậy, kêu lên : “Lính tới!” rồi bỏ chạy. Ngơ ngác nhìn quanh, như hiểu ra điều gì người đàn bà lủi vào đám đông mua bán. Gã làm cái trở lại ngay. Hắn túm lấy anh Thao đánh, đấm túi bụi, miệng hầm hừ : “Phản nè…! Thằng chó đẻ. Bữa nay tao bỏ đói mẹ con mày. Thử xem có ai tội nghiệp không? Đói rả họng mà còn nhân đạo! Hứ…”. Hắn phun một bãi nước miếng vào mặt anh, rồi bỏ đi.
Nhìn anh đưa tay quệt nước mắt lẫn nước bọt mồm, tôi bật khóc. Quay sang, thấy tôi, anh thảng thốt mấy giây rồi lẳng lặng bỏ đi. Mẹ tôi nhìn theo, lắc đầu : “Tội nghiệp! Thằng chim mồi ngày nào cũng bị cha ghẻ đánh!” Chạnh nhớ cảnh mình, mẹ vuốt tóc tôi, bảo : “Con thấy chưa! Đâu phải ai mồ côi cha cũng ăn cơm với cá đâu! Phải ráng học nghe con!”
Từ đó, tôi không gặp lại anh nữa. Nhưng không bao giờ tôi quên được anh, người đã khiến cho tâm hồn tôi trở nên phong phú, với những ký ức tuổi thơ thấm đẩm mật ngọt nhân ái, bao dung. Chính anh đã cho tôi một niềm tin : dù nghèo khổ, ta vẫn có thể làm cho người khác nể phục!.
Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/

Ngày xưa, hoa bất hạnh

Ngày xưa, hoa bất hạnh…

Hoa bất hạnh nở! Đại nạn tới rồi, bà con ơi…!”.
Tiếng gào báo tin dữ chợt vang lên lồng lộng, liên tục, lan xa, khuấy động tĩnh lặng núi rừng, đánh thức nỗi sợ hãi trong long mọi người. Phút chốc, cảnh hỗn loạn diễn ra kinh khủng chưa từng thấy.
Trong làng, mọi người bàng hoàng chết lặng giây lâu. Họ ngừng tay làm việc , lắng nghe! Khi biết mình không mơ ngủ và nhận ra đó là giọng quen thuộc của Bác Tự, một tiều phu cao tuổi, dầy dặn kinh nghiệm sống. Người ta bật tiếng rên: “Ối, trời ơi chết đến nơi rồi! Chạy mau!”. Lập tức, những bà mẹ bất kể gai gốc, phóng mình ra đường, hớt hải réo gọi con í ới, gấp rút, hụt hơi.
Ngoài ruộng, những người đang lo việc đồng áng ném liềm hái, chạy bay về nhà. Miệng réo gọi tên vợ, con liên hồi. Tiếng hú tìm nhau chen lẫn tiếng chân nện huỳnh huỵch, cuống cuồng.
Người già còn đôi chút bình tĩnh. Họ chạy vội vào nhà. Không chú ý bàn ghế, đồ đạc cồng kềnh, dù quí giá. Họ vớ lấy tay nải nhét vội vài ba bộ quần áo mà tay chụp nhầm. Chân phải đá hất vật cản. Đầu va vào cột cũng chẳng thấy đau. Họ moi tìm tiền của giấu đút bấy lâu, cho vào ruột ngựa, thắt vòng quanh bụng rồi chạy biến đi.
Trẻ con lúc nhúc, táo tác chạy tìm ba mẹ. Chúng va phải nhau, vấp té lăn cù, quần áo cáu bẩn, nước mắt, nước mũi tèm ngoèm chúng cũng chẳng chú ý gây sự, đánh nhau mà lại bật ngay dậy, vừa chạy vừa gào khóc, dù chẳng hiểu mô tê gì.
Sự kinh hãi lên đến mức tột cùng khi dân làng trông thấy muôn thú cũng chạy nạn. Từ các chuồng chim xinh đẹp, chim bồ câu tua tủa bay lên, đen nghịt một khoảng trời. Chúng hối hả vỗ cánh. Loáng cái, chỉ còn lại những chấm đen li ti trên nền trời rờn rợn. Trên các nhành cây, những chú sóc nhảy vội xuống gốc. Chúng tụ lại thành nhóm, chụm đầu vào nhau thầm thì điều gì đó rồi chợt hớt hải chạy nối đuôi nhau thành một hàng dài, xuyên qua cánh rừng thưa, mất dạng. Trong các hang ổ, lũ chuột túi địu con chạy ra, xếp thành hàng dài, phóng đi…
Tất cả bỗng gặp nhau ở bờ sông. Họ nhìn tuyệt vọng sang bờ bên kia. Trong thời điểm này, chiếc thuyền đưa đò bé nhỏ tựa như một thách đố của số mệnh. Nó nhởn nhơ trước sự hãi hùng của con người.
Cậu Tam buộc túi quần áo vào vai tôi, dặn dò:
- Cháu phải bấu chặt cổ cậu, nghe chưa!
Nhảy tòm xuống nước, cậu bơi sang bờ bên kia. Dòng sông rộng mênh mông, nước lạnh buốt. Nhưng chẳng hiểu nhờ vào sức mạnh nào mà cậu bơi qua dễ dàng. Khi đã yên chí thoát cơn nguy khốn, cậu thay quần áo cho tôi, gom ít lá khô, nhóm lửa, sưởi ấm.
Nắng tắt. Đên sắp rơi xuống mặt đất. Cảnh chạy chết vẫn còn sôi động, náo loạn. Những chiếc bè kết vội được thả xuống dòng nước, mang theo năm ba người. Một mảnh ván lập lờ, đỡ lấy một thân người trên đó … Sự khát sống thật mãnh liệt!
Nhớ đến ba mẹ, tôi bật khóc:
- Ba mẹ con đâu rồi … hu hu …?
Cậu Tam ôm tôi vào lòng, nghẹn ngào:
- Nín đi cháu! Chốc nữa sẽ gặp thôi! Chắc ba cháu đã về đến nhà và cõng mẹ cháu chạy nạn.
Tôi nhìn chằm chằm về phía ngôi nhà thân yêu. Thấp thoáng sau lũy tre già, dáng núi Thiêng uy nghi, trầm mặc. Tôi giật tay cậu Tam:
- Cậu à! Cháu có thấy gì khác lạ đâu? Núi Thiêng vẫn đứng yên, hiền hậu …
Trỏ tay về hướng ấy, cậu lắc đầu:
- Đó, màu trắng … màu trắng của hoa Bất Hạnh. Cháu không ngửi thấy mùi hương khác lạ sao?
Đúng là ngọn núi đã chuyển màu bàng bạc, nổi bật giữa không gian xám ngắt. Màu nâu chen lẫn xanh thẫm bấy lâu đã biến mất. Thay vào sắc trắng tang tóc của hoa rừng. Tôi vểnh tai, chum mũi, hít hít mấy cái. Thảng thốt kêu lên:
- Đúng rồi! Mùi hương lạ! Hương hoa …
- Hương hoa Bất Hạnh đó cháu.
- Vậy thì đã sao? Có gì phải sợ đến vậy, hả cậu?
- Cháu còn bé, làm sao biết được. Núi Thiêng sắp khạt ra lửa. Cách nay mấy thế kỷ, ngọn núi nầy đã một lần như thế. Nó tàn sát sinh vật chung quanh. Cậu nghe ông bà kể lại rằng. Nó phát ra tiếng nổ long trời, lỡ đất. Núi há miệng. Bắn tung tóe những tảng đá rực lửa ra tứ phía. Cây cỏ bị thiêu rụi. Nhà cửa bị đốt cháy. Con người bị vùi dập, thiêu sống. Chẳng còn ai sống sót.
- Tại sao ba mẹ cháu không đi chỗ khác cất nhà mà lại ở đây?
Cậu Tam chặt lưỡi:
- Cháu ơi, khổ nỗi, sau đó một thời gian dài, ngọn lửa tàn lụn. Cây cỏ lại hồi sinh. Sự sống tràn trề, quyến rũ người làng bên vượt sông, sang đây lập nghiệp. Phần đông là hạng bần cùng hoặc có hoàn cảnh đặc biệt mới liều mạng như vậy.
- Gia đình mình nghèo lắm hả cậu?
- Không. Ba mẹ cháu cần một chỗ ẩn thân.
- Tại sao thế?
- Ba cháu muốn cưới mẹ cháu nhưng ông bà nội không đồng ý. Vì mẹ cháu là …
Cậu Tam chợt nín lặng, đưa tay che miệng. Tôi giật lấy bàn tay cậu, hỏi dồn:
- Cậu, mẹ cháu là gì vậy cậu?
Ngần ngừ mãi, cậu mới buông thỏng:
- Kỹ nữ!
Tôi bàng hoàng:
- Kỹ nữ?
- Đúng! Mẹ cháu là một kỹ nữ nổi tiếng ca hay, múa đẹp, lại có nhan sắc hơn người.
Tôi vỗ tay, reo lên:
- Mẹ cháu tài quá, hả cậu?
Ừ, nhưng dẫu sao cũng là một kỹ nữ. Ông bà nội cháu không đồng ý cho ba cháu thành thân với mẹ cháu. Không thể sống thiếu nhau được. Ba cháu đã trốn sang đây. Nào ngờ, định mệnh trớ trêu. Hạnh phúc lại sắp tan thành tro bụi!
Cậu Tam ôm lấy mặt. Tôi òa khóc. Chợt nhớ ánh mắt buồn thảm thiết của mẹ khi trùm thêm áo cho tôi, đặt cái túi gấm vào tay cậu Tam, mẹ van nài, hối thúc:
- Cậu Tam, cậu thương chị, cậu ráng lo cho cháu! Đi đi! Đừng chần chờ nữa mà không còn kịp.
Cậu Tam lắp bắp:
- Nhưng còn chị …?
Xô mạnh vai cậu, mẹ gạt ngang:
- Không sao đâu! Anh Bảo sẽ đón chị đi sau.
Nhìn xuống đôi chân bé tí của mẹ, cậu bảo:
- Để em cõng chị, dìu cháu chạy trước. Chốc nữa ảnh sẽ đuổi theo mình.
- Không được. Chị biết chắc chắn chồng chị sẽ quay về rước chị, trước khi trận động đất xảy ra. Chị hiểu. Chị tin. Thôi, cậu đi nhanh lên. Nhớ chăm sóc cháu!
Đôi bàn chân của mẹ tôi rất lạ. Nó bé tí, như hai đóa sen hồng. Những ngón chân co quắp gần như gãy gập. Mẹ đi rất nhanh, như lướt trên mặt đất. Nhưng không vững. Bà có thể té bất cứ lúc nào, khi có va chạm nhẹ. Có lẽ vì vậy mà mẹ không hề ra khỏi nhà. Suốt ngày quanh quẩn xó bếp, chăm sóc tôi, thêu thùa, may vá. Mọi việc nặng nhọc, đồng áng, bếp núc, đều do cậu Tam và ba lo liệu. Nhà tôi thiếu trước hụt sau nhưng ai cũng trầm trồ vì tình yêu thương nồng thắm, hạnh phúc của ba mẹ. Dù là con gái, “Nữ sinh ngoại tộc” nhưng vẫn được quí yêu. Ba định bắt tôi bó chân để có dáng dấp quí phái như mẹ. Nhưng mẹ đã gạt ngang, bảo là “hão huyền”. Bà nói rằng chính mình đã khổ sở vì đôi chân ấy, bà thù ghét tục lệ bó chân. Làm một phụ nữ bình thưởng, hết lòng chăm sóc chồng con hạnh phúc hơn là có đôi chân “hoa sen”. Chúng biến bà thành một người ích kỷ, một loại tầm gửi bám vào kẻ khác, hưởng thụ công sức của người thân. Ba thường phản đối:
- Chỉ nói bậy! Nếu không vì yêu anh, em cũng đâu ra nông nổi. Em cũng sống trên lụa là, gấm vóc. Em đã rời xa kỷ niệm. Nơi mà tiếng hát của em mê hoặc lòng người. Điệu múa của em làm cho bao kẻ đắm say, ngưỡng mộ. Còn anh chỉ là …
- Anh là một công tử con nhà giàu có. Mẹ ngắt lời. Anh đã từ bỏ tất cả, vì em.
Tôi chưa hiểu hết ý ba mẹ. Nhưng tôi biết ba mẹ mình rất yêu nhau. Và, bây giờ, họ thể hiện điều đó. Mẹ cương quyết không rời nhà vì sợ ba chạy về tìm mà không gặp. Còn ba, dù đang làm ngoài ruộng ở đồng xa, ngoài tầm nguy hiểm, ba vẫn quay về tìm vợ. Tôi quì xuống, chắp tay, ngửa mặt nhìn trời, cầu khẩn:
- Lạy trời, đừng giận dữ, cho ba con về kịp để cõng mẹ chạy thoát.
Nhưng, Thượng đế vô tình. Thiên nhiên tàn nhẫn, lạnh lùng. Núi Thiêng nổ tung. Lửa như dòng thác tràn ngập, thiêu rụi tất cả. Ba mẹ tôi bị chôn vùi trong ngọn lửa hung tợn …
… Bà cụ ngừng kể, đưa khăn tay chậm mắt. Giây lâu, bà tiếp:
- Vì vậv, tôi không muốn cháu tôi trở thành một nghệ sĩ. Nó sẽ khổ như mẹ tôi, ngày xưa. Và, biết đâu …
Tôi bật cười, nắm lấy bàn tay của bà ngoại Linh Lan, phân trần:
- Bà thấy đó, ở Việt Nam chưa hề có hiện tượng đó. Tất cả những ngọn núi không có chứa lửa. Núi ở đây hiền hòa. Đôi khi còn là chỗ trú cho con người khi có những trận lũ lụt ập đến.
Chỉ vào đôi chân xinh xắn trong đôi giày cao gót của Linh Lan, tôi tiếp:
- Đôi bàn chân của cháu Linh Lan thừa sức trèo đèo, vượt đường xa. Vả lại, khoa học tiến bộ. Người ta thừa khả năng dự đoán trước thiên tai để bảo toàn tánh mạng, đâu như ngày xưa …
Nhìn chằm chằm vào mặt cháu gái, bà cụ cầm lấy tay Linh Lan vuốt nhẹ lên từng ngón nhỏ thon:
- Nhưng, tôi không muốn cháu tôi khổ. Tôi không muốn nó bị xếp ngang hàng với kẻ “Xướng ca, vô loại”.
Linh Lan đỏ mặt, nhắc khẽ:
- Nội à, bác đây cũng là nghệ sĩ đó!
Thoáng bối rối. Nhưng sau đó, bà trấn tĩnh được ngay, lấy lại vẻ cương nghị buổi đầu. Tôi hỏi:
- Theo quan niệm của bác thì sao? Nghệ sĩ tụi cháu có đáng bị ghép tội như thế không?
- Tôi không nghĩ như vậy vì mẹ tôi xưa kia cũng là ca sĩ và bà là người tốt. Nhưng tiếc là nhiều người không nghĩ như tôi. Họ khinh rẻ nghề ca hát. Khi tôi và người cậu vượt biên giới sang đây sống, chúng tôi người Việt cũng giống như người Hoa đều không trọng nghề này, bảo sao nghệ sĩ chẳng nghèo.
Tôi thầm phục sự tin tường của một người Hoa cao tuổi. Nghịch cảnh đã giúp cho bà bản lĩnh sống. Bà không muốn cô cháu gái duy nhất thi đỗ vào ngành Sân Khấu. Linh Lan chọn ngành Y thì bà mới an tâm. Nhưng, cô bé đã lén thi vào trường Sân Khấu mà lại đỗ đầu bảng. Tuy biết Linh Lan có khiếu ca diễn nhưng lòng bà không an. Nỗi ám ảnh quá khứ như lời đe dọa chực sẵn bên trái tim yêu thương của bà. Tôi thấy cần phải giúp bà thoát ra vùng đau khổ ấy:
- Bác nói rất đúng! Nhiều người đã quan niệm như thế. Nhưng không phải tất cả mọi người đều nghĩ xấu cho nghệ sĩ. Sân khấu cải lương là một thể hình văn hóa truyền thống độc đáo của người Nam Bộ. Người ta đang ra sức củng cố bản sắc dân tộc. Giữ gìn, tôn vinh những gì đẹp đẽ của dân gian xưa. Cháu đồng ý là nghệ sĩ có nghèo nhưng không phải vì nghèo mà cho phép ta đánh giá lãnh vực nghệ thuật này đã suy đồi. Đúng là một số nghệ sĩ chưa được hưởng quyền lợi cân xứng với tài năng. Họ chịu nhiều khó khăn, vất vả khi về chiều, cao tuổi … Phải công bằng mà nói xã hội ta còn nhiều điều phải vươn tới, chiếm lĩnh. Sân khấu cải lương cũng là một trong những vấn đề được quan tâm. Cháu tin rồi đây, mọi sự sẽ tốt lành. Có những vấn đề được khó khăn hơn như chống ngoại xâm, diệt giặc dốt, xóa đói giảm nghèo … mà ta còn làm được. Huống chi chuyện giữ gìn bản sắc dân tộc … Điều đáng nói, đáng mừng ở đây là dù nhận thấy sẽ khó khăn khi vào nghề ca hát mà thanh niên ta vẫn hăng hái lao tới họ thừa hiểu xã hội tiến bộ. Trình độ giải trí cũng phải được nâng cao. Cải lương đang gặp khó. Nhưng không ai lùi bước. Chắc bác cũng từng xem báo và biết rằng nước ta “Đem chuông đi đánh xứ người” và tiếng chuông ấy lại ngân vang, lắng đọng trong lòng khán giả Châu Âu. Gợi được sự chú ý, yêu thích và mong muốn tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Thưa bác, cháu Linh Lan là một cô gái tài năng, thinh sắc vẹn toàn. Rất cần cho sự phục hưng Cải Lương hiện nay. Cháu mong bác nghĩ lại mà cho Linh Lan đến trường rèn luyện.
- Nhưng, liệu sau này, cháu có bị người ta khi, chẳng ai thèm cưới không?
Linh Lan đỏ mặt, nũng nịu:
- Nội kỳ quá hà. Cứ sợ cháu ế chồng. Bác ấy cười cho xem!
Tôi bật cười trước vẻ đáng yêu của cô gái:
- Bác quí cháu Linh Lan dữ quá! Lẽ ra cháu chưa dám thưa chuyện với bác. Nhưng trước những điều trăn trở của một người bà, cháu đành xin phép thưa qua một việc. Lẽ ra, việc này phải được nói trong một hoàn cảnh khác, có trầu rượu hẳn hoi. Cháu chỉ sợ bác không chịu gả cháu Linh Lan thôi, chứ có người muốn xin rước cháu ấy làm dâu con trong nhà.
Bà cụ ngỡ ngàng:
- Bà có thể nói rõ hơn không?
- Dạ, chính cháu đây. Cháu biết thằng Phúc nhà cháu và cháu Linh Lan thương nhau từ lâu. Chúng có hẹn ra trường thì xây dựng gia đình. Nhưng sẵn đây, cháu xin đánh tiếng trước. Xin bác cho chúng được nên duyên!
- Có phải vậy không, Linh Lan?
Linh Lan cúi gầm mặt không dám nói nhưng nhìn đôi gò má đỏ như quả hồng tươi, bà cụ hiểu ngay, mắng yêu:
- Tổ cha bây! Mới nứt mắt ra đã yêu đương.
Linh Lan bỏ chạy vào trong. Bà cụ bật cười. Tôi hỏi:
- Dạ, ý bác thế nào?
- Tôi thì dễ, nếu cháu nó ưng đâu, tôi gả đó. Miễn sao nó được hạnh phúc, tôi có chết cũng vui lòng.
Nắm lấy tay bà cụ, tôi thân mật:
- Linh Lan hạnh phúc là nhờ ở bác. Bác còn lo nghĩ gì nữa. Người hiền đức như bác sống thọ lắm.
- Không đâu, đời tôi sắp tàn rồi! Tết này đã hơn bảy mươi.
Linh Lan trở ra tự bao giờ, cô ôm chầm lấy bà:
- Bà ơi! Bà là mùa xuân của đời cháu. Bà đừng bao giờ chết, nha bà!
Bà móm mém cười, mắt ngân ngấn nước:
- Ừ, bà sẽ sống mãi với cháu. Cháu là hạnh phúc của đời bà!.
Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/

Xóm Cầu Tàu

Xóm Cầu Tàu

Đó là tên gọi của xóm tôi. Nơi quy tụ những kẻ trôi sông, lạc chợ. Nơi tạm trú của khách thương hồ, nơi ẩn náu của những người nghèo khạc ra tro, nghèo ho ra máu… như gia đình tôi. Tất cả đều nghèo. Chúng tôi sống xúm xít quây quần bên nhau trên mảnh đất hoang dã, lở lói, lỗ chỗ những vũng nước ăn luồn từ dòng sông chở nặng phù sa ngầu đục. Phong thổ độc đáo, con người thì độc chiêu, đáng sợ. Người vùng lân cận nghe tên “Xóm Cầu Tàu” đã phát ớn da gà.
Cả xóm độ vài chục nóc nhà. Ngoài dãy nhà trệt dàn hàng ngang, cửa ngóng về phía dòng sông, còn bao nhiêu mái lá lụp xụp khác mọc lên tự do, không theo thứ tự nào. Nhà thì xây cửa cái về hướng đông. Nhà lại quay sang hướng tây. Nhà có mặt tiền hướng về phía bắc. Nhà lại quay “Hậu môn” ngay cửa nhà người khác. Cả vùng chỉ có ba ngôi nhà lớn, xây cất theo kiểu Tây. Ngôi biệt thự đẹp nhất thuộc quyền sở hữu của chủ hãng nước đá. Căn nhà bề thế thứ hai là… cái đề - bô rượu. Chủ nó ở tận trời Tây. Hằng ngày nó được một gã ăn mặc bảnh tỏn lui tới trông nom. Người ta gọi hắn là “Ông đại lý hãng rượu”. Ngôi nhà thứ ba mái ngói đỏ tươi. Tuy nhỏ nhưng khang trang, ấm cúng. Đây là chỗ trú của gia đình người gác cổng hãng rượu. Người ấy chính là ông ngoại tôi. Người nghèo nhất xứ nầy. Ông chấp nhận làm bảo vệ không công cho chủ hãng rượu để đổi lấy chỗ che mưa, che nắng cho gia đình. Trước đây, ngoại cũng có một ngôi nhà lá ba gian, hai chái. Nhưng ông đã bán nó để chữa bệnh cho bà ngoại tôi. Tiền hết, cả nhà lâm vào cảnh bần cùng. Biết ông tôi có chút đỉnh võ nghệ, ông đại lý tới gạ gẫm. Những lời đề nghị của ông ta thật bất công. Nhưng cái nghèo đã khiến ông tôi trở thành nhu nhược. Ngoại phải vừa giữ cổng hãng rượu, vừa đong rượu vào thùng, vác xuống đò máy cho khách. Kiêm luôn việc canh và bán củi cho ông đại lý. Phải nói hắn có tài khai thác sức lao động. Hắn không để ông tôi được rảnh rang. Ông tôi có tài đắp đầu lân, đầu sư tử, vẽ tranh Phật. Nhưng ít khi có cơ hội thi thố. Mỗi năm ông chỉ tạo hình được một cái đầu mãnh sư vào dịp tết. Số tiền kiếm được cũng chẳng nhiều. Cả nhà phải sống nhờ vào gánh hàng rong của bà và mẹ tôi.
Khi tôi lớn lên, vừa đủ để hiểu được nỗi nhọc nhằn, tủi cực trong câu chuyện ngày xưa mà ngoại kể thì Tây đã về nước. Nhưng cái hãng rượu vẫn còn chễm chệ đứng án ngữ trước ngõ nhà tôi và bao nhiêu nhà khác như một vật chứng bất công, tàn nhẫn. Nó ngăn tầm mắt tôi và mọi người. Che khuất dòng sông êm đềm trôi giữa đôi bờ rợp mát bóng dừa. Cả xóm ra vào bằng một con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo. Mùa nắng đầy bụi, mùa mưa ngập ngụa bùn đất. Sự cách biệt sang hèn đã gợi trong lòng tôi nỗi đau từ thời thơ ấu. Không ngày nào tôi không nghe tiếng chửi bới nhau vì những chuyện bé như hạt tiêu. Chung quy tại nghèo. Hôm thì bà Sáu Huôi mắng bà Tám Tàng tham lam. Mấy cục gạch bà ném xuống chỗ đất trũng cho nước không đọng, bỗng dưng chúng biết chạy sang nhà bà Tám Tàng, nằm chương ướng ngay lối đi. Hôm thì ông Tư Liễng chửi ông Tư Tòng “Cõng rắn cắn… lối xóm”. Ỷ có sức khỏe, dắt chư vị về ăn nhậu rồi kiếm chuyện đánh lộn với trai tráng trong xóm.
Xóm tôi vui nhất là lúc tiếng còi tàu thét vang dọc đường sông. Tiếng tu tu vọng lại, rõ dần, báo hiệu tàu sắp cặp bến. Tàu còn nhấp nhô đàng xa, tiếng chửi bới ỏm tỏi rộ lên. Họ giành chỗ đứng để rước khách cần khuân vác. Tàu vừa bỏ neo, gác đòn dong, mạnh ai nấy nhảy xuống. Bất kể hiểm nguy, họ te te chạy xuống tàu, gặp ai thì chụp lấy túi xách, te te chạy lên bờ. Khách thương hồ hoảng vía, sợ mất hành lý, họ quáng quàng chạy theo bất kể hiểm nguy. Có lần, bác Ba Biền sơ ý rơi tòm xuống sông. May là cứu kịp nhưng nước sông có dịp chui qua mũi, ộc vào miệng, đội bụng, căng rốn nhìn phát khiếp. Phải mất mấy ngày bác mới hoàn hồn. Thấy vậy, ngoại tôi khuyên lối xóm: “Không phải chỉ có đói mới chết mà bị tai nạn cũng có thể chết”. Họ cãi: “Đói thì thường gặp, còn tai nạn thì hiếm thấy hơn”. Vậy là đâu lại vào đấy. Mãi đến lúc chủ đò máy hăm dọa: “Nếu còn vậy nữa, tui sẽ cho tàu cặp bến khác!”. Họ đành phải đổi thái độ, đứng trên bờ chờ khách. Ai vừa bước lên, cả chục mạng ào tới, người vỗ vai, kẻ vỗ mông, hỏi: “Có gì cho em xách không?”. Cũng tại làm vậy mà anh Hai Lâu bị một bà khách tát cho mấy cái vì tưởng lầm anh muốn sàm sỡ.
Sau bước ngoặc đó, người trong xóm đổi nghề khá nhiều. Ông Tư Liễng lập giàn nhạc… ma chay gồm năm người. Mỗi người sử dụng một nhạc cụ. Nào là đàn cò, đàn kìm, đàn bầu. Nào là trống, chiêng… Tay nghề chưa điêu luyện nên âm thanh họ xướng ra ngắc ngứ, trục trặc như bị ai cản họng. Láng giềng an ủi: “Nghe cũng muốn… chết lắm chứ bộ!”. Bà Tám Tàng trổ nghề đón ghe chuối về ủ chín đem bán. Chưa thấy ai đếm nải chuối lạ như bà Tám. Lâu lâu lại nhảy lùi cả chục số. Mới đếm tới 27, 28 đến 19, 20, 21…Tôi kêu lên: “Í ẹ, Bà Tám đếm lộn rồi. 28, 29, 30 chứ…”. Từ dưới ghe, bà nhảy lên bờ, lôi tuột tôi vào nhà, đến trước mặt ngoại, hỏi tội: “Nè, có cháu mà không biết dạy, để nó ăn rồi đi đập nồi người khác”. Ông chưng hửng: “Chuyện gì nữa?”. Nghe tôi kể lại, ông bật cười: “À, thì ra nó tưởng bà đếm sai. Chớ không biết bà định ăn gian người ta. Thôi, để tôi dạy nó: Mai mốt con nghe, thấy bà Tám làm gì kì cục con cũng giả đui, giả điếc, giả câm nghe không”. Bà Tám ngoe nguẩy bỏ đi sau khi ném lại một câu: “Đồ hà bá vật!”. Tuy vậy, từ đó bà không bao giờ đếm sai, dù tôi bao phen rình xem thử.
Bà Sáu Huôi bỗng nghĩ ra một kế sinh nhai tuyệt diệu: Cho mướn chỗ ngủ. Gặp khách lỡ chuyến đò, bà rước vào nhà… cho mướn giường, chiếu. Còn vợ chồng con cái bà thì ngủ chùm nhum trên sàn nhà. Bà bảo: “Những đêm như vậy thường ngủ say, mộng đẹp, sáng ra còn được tiền mua gạo”.
Con Bé Tí trạc tuổi tôi, nhà ở cuối hẻm. Nó nghĩ ra một chước kinh thiên động địa. Mỗi lần đi bán bánh cam về ngang qua chỗ bán vật liệu xây dựng, nó lén lấy trộm một viên gạch. Nó định để xây nhà tường. Đến khi mẹ nó mất, người ta mới phát hiện được, số gạch lên đến cả thiên được dấu dưới gầm giường. được lôi hết ra để làm mả đá cho mẹ nó. Bé Tí gào khóc thảm thiết trước mộ mẹ và thề: “Từ nay con không ăn cắp nữa. Chắc tại con tham mà mẹ chết, bỏ con hu hu…”.
Từ hạt cát đến hàng cây. Từ ngôi nhà đến từng người trong xóm. Tất cả đã tô đậm trong tôi niềm thương cảm, thiết thân vô hạn. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh ông Tư Liễng đã dùng chiếc xe ba bánh chở nhạc cụ bấy lâu để chở ngoại tôi vào bệnh viện khi ngoại tôi té từ trên chiếc thang xuống đất. Cả xóm lúp xúp chạy theo. Người khóc, kẻ… chửi trời, mắng đất. Thượng đế bị lôi tuột xuống trần về tội bất công. Còn tôi, bấy giờ tôi hiểu rõ hơn câu nói: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Khi hoạn nạn mới biết lòng người nhân hậu.
Bây giờ, xóm tôi đã khấm khá hơn. Nhiều ngôi nhà lụp xụp được thay bằng nhà tường khang trang, đẹp đẽ hoặc nhà cao tầng. Lũ trẻ xóm tôi đã truởng thành, có nghề nghiệp ổn định. Chỉ tiếc nhiều người lập nghiệp phương xa. Nhưng tôi biết tất cả bọn tôi đều cùng ý nghĩ: Xóm Cầu Tàu mãi là chốn để nhớ về.
Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/

Hương đồng bằng

Hương đồng bằng

Nắng tắt, bầu trời ngan ngát tím. Gió dìu dịu làm những tán lá dừa nhẫy nhượt xanh. Bóng tối loang dần, tràn ngập khắp nơi. Không gian như bị phủ trùm bởi một tấm màn nâu sẫm. Ngột ngạt! Bức bối! Bỗng, trăng lên. Vầng trăng tròn to như một cái đĩa đỏ rừng rực nhô lên từ chân trời đàng đông, lửng thửng đi lên, nằm chênh chếch trên tán lá dừa ven sông, rắc những luồng sáng nhàn nhạt xuống dòng sông vắng lặng, nhuộm vàng suồm suộm những đóa Điệp Lào dọc bờ bên bồi.
Càng lên cao, trăng càng thu nhỏ, sáng vằng vặc. Những vì sao nhấp nhánh đã mờ dần. Ánh trăng dịu dàng trải một tấm voan mỏng mảnh vàng óng ánh. Gió quyện hương hoa hoàng lan thơm ngát. Mọi thứ chợt bừng sáng, thơm tho. Quyên tự hỏi chẳng lẽ trăng sáng hơn đèn? Cũng có thể lắm! Bởi vì giữa ánh trăng, Quyên nhìn thấy con đường bên kia sông thấp thoáng bóng người, hai con chó nhỏ đùa giỡn, chạy đuổi nhau quanh gốc cây bã đậu. Rải rác những chiếc xuồng ba lá nhấp nhô giỡn sóng. Trăng rơi xuống giữa dòng sông chấp chới, khi chìm, khi nổi.
Ông ngoại Quyên ra tới đầu hẻm, bắt gặp Quyên ngồi vắt vẻo trên cái đòn gánh đặt ngang hai miệng thùng nước đầy, mắt đăm đắm nhìn
vầng trăng trôi dập dềnh trên mặt nước. Ngoại chắc lưỡi:
- Con nhỏ nầy làm ngoại hết hồn. Tưởng con lọt xuống sông sao mà
không gánh nước vô nhà. Quyên quay lại, mỉm cười:
- Ngoại nhìn kìa! Có ai múc ánh trăng vàng đổ đi.
- Bày đặt mơ mộng. Thôi, vô nhà! Bà ngoại đang “tụng kinh” kia kìa, liệu hồn!
Quyên chẳng ngạc nhiên chút nào. Bà ngoại vốn nóng tính nhưng hiền khô. Suốt ngày, bà ngoại hết càu nhàu chị Hai đến rầy la Quyên. Chỉ có Út Toàn là được cưng như trứng. Trong nhà ai cũng hiểu điều đó. Nhất là ông ngoại. Ông thường giải thích nguyên nhân gây ra triệu chứng “Khẩu xà, tâm Phật”.
- Người ta bảo gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Thật đúng với trường hợp nầy. Bà ngoại tụi bây bị mắng riết rồi nhiễm luôn vi trùng quạu quọ. Phải nhìn nhận bà cố lạ đời thiệt. Bữa nào bà không chửi bà ngoại bây thì ăn cơm không vô.
Quyên trố mắt:
- Bởi vậy ngoại mới ra riêng cho bà cố hết mắng vợ phải không?
Ngoại phì cười, mắng yêu:
- Cha mầy! Đâu có dễ vậy. Tưởng thoát, ai dè lâu lâu, bà cố bây đi xe kéo qua đây chửi bà ngoại cho đỡ ghiền.
- Sao bà cố ở ác với bà ngoại quá vậy. Ông ngoại?
- Ngoại đã giải thích bao nhiêu lần rồi mà con cứ hỏi đi hỏi lại mãi. Chính ngoại cũng không rõ lắm. Có lẽ do ngoại con không đẻ được mụn con nào để nối dõi tông đường nên bà cố ghét. Bà bảo gái độc không con. Bà vừa tức con dâu vừa tức bản thân. Vì chính bà đã lựa dâu. Ông ngoại bị ép duyên đó nghen. Hồi đó, ngoại còn nhỏ, chưa muốn lấy vợ còn ham vui chơi. Nhưng bà cố bắt đi coi mắt vợ. Nhìn thấy bà ngoại bây lúp ló ở cửa buồng, cười rúc rích mãi, hổng chịu ra. Sợ trễ hẹn với lũ bạn, ngoại xông đại vô buồng, nắm tay, kéo ra. Bà ngoại bây hồn phi phách tán, luýnh qua luýnh quýnh vấp phải ngạch cửa, sợ té, bà ôm chầm lấy ngoại. Ngoại cũng ôm lại. Vậy là sa lưới. Nhưng khi thành hôn rồi thì đủ thứ chuyện rắc rối, toàn chuyện tủn mủn, vụn vặt. Chúng như những con mối gậm nhấm dần mòn mái ấm gia đình.
Quyên thở dài:
- Đó là những chuyện gì vậy ngoại?
- Bà cố thường ca cẩm về đôi chân to bè của con dâu Nó không được như chân bà “Đôi gót sen vàng”. Dù biết chuyện đó đã quá lỗi thời. Bây giờ không ai thèm bó chân để có những cái ngón bị cúp xuống, gãy gập như cùi. Chúng khiến cho bước đi lóng cóng, liêu xiêu như sắp ngã. Bà cố biết rõ hơn ai hết với những bàn chân được phát triển bình thường mới có bước đi vững vàng, đủ sức gánh vác chuyện nặng nhọc. Hoặc ít ra cũng là việc nhà. Bà đã ngủ quên trong ảo tưởng quyền quý xa xưa. Cứ cố tình thắp hào quang ảo quanh mình bằng cách nhắc đi nhắc lại rằng ít ai có được đôi chân bé tí như chân mình. Bà đã chịu đớn đau biết bao mới sở hữu nó. Bà làm cho mọi người ngán ngẩm nhưng không ai dám nói ra. Không ai dám bảo quan niệm đó quá tai hại. Vì như vậy người phụ nữ gần như vô dụng. Và điều đó xảy ra bên Tàu. Và chính họ cũng nhận ra sai lầm.
Quyên gánh nước vào nhà. Dựng đòn gánh cạnh đó, trút nước vào cái lu rồi đi tắm. Tiếng mẹ dịu dàng vọng ra từ nhà trước:
- Mẹ đã bảo con mướn người ta gánh đi. Mới bây lớn gánh nước nhiều quá sẽ bị lùn.
Quyên liến thoắng trả lời:
- Con không sợ! Lùn thì đỡ tốn vải may quần áo.
- Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún đó nghen. Nói không nghe lời, sau này bị chê đừng hối hận nghen.
Quyên đâu muốn cãi mẹ và bà. Quyên thương mẹ, thương bà nhiều lắm. Mẹ rất có hiếu dù chỉ là một đứa con nuôi. Mẹ sẵn sàng bỏ hết mọi thứ để được sống bên ngoại và phụng dưỡng hai người đã cưu mang mình dù không chút huyết thống. Dù cho ba mê vợ bé, mẹ cũng cắn răng chịu đựng để tảo tần nuôi sáu miệng ăn và chuyện học hành của con. Nhà nghèo, Quyên muốn tiết kiệm chút nào đỡ chút nấy. Vả lại, ông ngoại còn làm cho Quyên cặp thùng to bằng... ống ngoái trầu của bà. Tuy mất công gánh nhiều lần nhưng chẳng mệt chút nào.
Nó đi ra sân. Ông ngoại đã nhấc cái ghế bố to đùng do ngoại tự đóng dạo nọ, đặt cạnh hàng rào trông ra dòng sông. Ông nằm vắt chân chữ ngũ, tay gác lên trán, mắt đăm đăm nhìn bầu trời đêm. Quyên đến ngồi bên cạnh ngoại, hai chân đong đưa. Ông bỗng nói:
- Quyên, ngoại đố con đếm được chòm sao ở góc trời kia nhưng phải kèm theo chữ Ông sao sáng.
- Dễ ẹc! Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng, bốn ông sáu sang...
- Lanh chanh quá làm sao được việc chứ! Ngoại cười to. Muốn làm việc gì cũng phải tập trung tư tưởng dù chỉ nhỏ thôi. Con nhớ chưa.
- Dạ. Hihi... giờ ông kể chuyện cho con nghe đi. Chuyện thời thơ ấu của ngoại đó.
- Kể hoài, con nghe không chán à?
- Dạ không. Con vẫn cứ thích nghe!
Quyên nằm xuống cạnh ngoại lắng nghe giọng trầm trầm của ông:
- Hồi đó, ngoại còn bé lắm! Ông cố con đã giao cho ngoại một cây kéo và bảo hãy cắt vạt cỏ ở góc sân kia. Ngoại thắc mắc hỏi sao không nhổ quách đi cho tiện thì ông ấy bảo đi chân không trên cỏ êm hơn trên đất. Ngoại hất mặt lên trời bảo là chuyện nhỏ. Nhưng khi bắt tay vào việc, ngoại mới biết việc đó không nhỏ như ngoại tưởng. Bấy giờ mới thấm thía câu “nói thì dễ mà làm mới biết đá biết vàng”. Sự ba hoa chích chòe của ngoại đáng xấu hổ. Những nhát kéo vụng về làm bãi cỏ nham nhở như mái tóc bị sởn so le, trông còn xấu hơn lúc để mọc tự nhiên. Thật không ngờ, ông cố lại khen ngoại có kiên nhẫn. Biết chịu khó làm. Nếu cố gắng hơn dần dần sẽ giỏi. Ngoại mừng lắm! Thấy mình quan trọng hẳn ra. Ông cố lại giao cho ngoại một cây kéo lớn hơn, dặn khi rảnh rỗi hãy tỉa hàng rào. Cũng không hơn lần trước. Ngoại cầm kéo bằng hai tay, cắt lia, cắt lịa. Chừng nhìn lại trông nó giống một bức tường xanh xơ xác, méo xẹo. Ai đi ngang cũng tức cười. Ngoại tưởng ông cố sẽ rầy nhưng trái lại, ông khen làm nhanh hơn ông nghĩ. Ông dặn lần sau cắt cẩn thận hơn. Phải canh cho ngay ngắn thì mới đẹp. Ngoại hiểu ra, làm được, làm nhanh là một việc còn làm cho nó đẹp, hoàn chỉnh thì phải cần nghĩ cách. Thế là lần sau ngoại căng dây ở hai đầu hàng rào, canh cho ngay ngắn rồi mới cắt và tất nhiên làm chậm hơn nhưng khi xong thì chính ngoại còn phải hài lòng. Bà con láng giềng đều khen ngoại khéo tay. Sau rốt, ông cố giao cho ngoại cây kéo hớt tóc. Sau giờ học, ngoại phải ra tiệm hớt tóc của ông cố để học nghề. Tội nghiệp mấy ông chú của con. Họ bị... đưa đầu cho ngoại thử việc. Tóc của họ vừa dầy vừa trơn, ngoại cắt trợt lớt hoài khiến họ kêu đau rần trời. Người nào cũng xin ông cố cho... để tóc dài để khỏi phải mang một mái tóc quái đản, chẳng khác gì cái miểng dừa bể xẹo xọ chụp lên đầu.
Quyên bật cười:
- Rồi ngoại có thành công không?
- Có chứ! Có công mài sắt có ngày nên kim! Năm mười bốn tuổi, ngoại đã nổi tiếng hớt tóc khéo nhất vùng.
- Từ đó, ngoại làm thợ luôn hả ngoại?
- Đâu có, ngoại phải lo học chữ. Những ngày nghỉ mới ra tiệm phụ cha cho quen tay nghề.
Quyên nằm xuống cạnh ngoại:
- Rồi tới chừng nào ngoại mới ra phụ ông cố luôn?
- Khi ông cố mất. Năm đó, ngoại mới mười sáu tuổi. Ngoại phải nghỉ học để kiếm tiền lo cho gia đình. Bà cố con xưa là tiểu thư quyền quý, Có biết làm gì ngoài việc thêu thùa. Rồi do loạn lạc, túng thế, bà phải lấy một người nghèo khó. Đó chính là ông cố. Tuy nhiên, ông cố đúng là một người chồng tốt, một người cha tốt. Ông đã lo cho vợ con đầy đủ. Ông đã dạy cho các con mình rằng được làm việc là một điều hạnh phúc. Mỗi công việc sẽ cho ta nhiều bài học về cuộc sống. Có lao động mới tồn tại. Ngoại cũng tin như vậy! Nhờ có nghề hớt tóc mà ngoại đã thay cha chạy gạo nuôi cả nhà. Phải nhìn nhận bà cố là người biết sắp xếp cuộc sống gia đình. Trước tiên, bà cho ngoại nghỉ học hẳn để hành nghề. Bà lo cưới vợ cho ngoại lúc ngoại mới tròn mười tám tuổi. Bà chọn một đứa con dâu vừa đẹp vừa giỏi nhất xóm. Và con dâu lại trở nên một người kiếm tiền cho bà một cách dễ dàng.
Quyên kinh ngạc kêu lên:
- Eo ơi! Bà cố bắt bà ngoại con làm gì vậy ông?
- Làm bánh bao, bánh bò, bánh mặn... ôi thôi đủ thứ bánh. Ngoài ra còn mua thêm nhiều hàng hóa khác rồi gánh vào Sóc để bán đổi lúa cho người dân tộc Khmer.
- Bán đổi lúa! Bán đổi lúa là sao vậy ông?
- Nghĩa là bán cho ai thích ăn bánh không phải trả tiền liền. Bà ngoại con cho thiếu chịu, ghi sổ để đó. Đợi tới mùa lúa chín, người ăn bánh chịu sẽ trả bằng cách quy ra thóc. Coi lại sổ xem mình thiếu bao nhiêu giạ lúa thì đong lúa trả.
- Ủa, sao con thấy như vậy lâu có tiền hơn bán lấy tiền mặt.
- Ừ! Đúng là lâu hơn nhưng lời gấp năm gấp bảy. Lại dễ bán hơn. Vì người nghèo đâu có tiền tiêu vặt. Họ chỉ trông đợi vào mùa lúa chín.
Quyên ngồi bật dậy, nhìn ông:
- Làm như vậy là tốt hay xấu vậy ngoại?
- Vừa tốt vừa xấu! Tốt ở chỗ bán như vậy người nghèo có thể ăn uống, mua hàng hóa khi họ túng thiếu, không có một xu dính túi. Nhưng việc này cũng rất xấu vì tạo cho một số người nghèo thói quen ăn trước trả sau, không đè nén được sự thèm muốn nhất thời về điều không cần thiết. Không biết tiết kiệm. Đã nghèo sẽ nghèo thêm.
- Eo ơi! Sao bà cố lại làm như vậy. Ngoại biết sao không cản mẹ mình?
- Lúc đó, ngoại còn quá nhỏ để hiểu và vì lo hành nghề cũng không chen vào chuyện của mẹ. Nhưng bà ngoại hiểu rõ. Tuy còn nhỏ nhưng lại rất thông minh và nhân hậu. Và đã làm giảm tội cho gia đình chồng bằng một cách tuyệt vời.
Quyên nắm hai bàn tay ông áp lên má:
- Kể tiếp đi ngoại! Bà đã làm sao?
Ông cười, giọng hân hoan hơn:
- Sau nhiều năm vâng lời mẹ chồng bán hàng đổi lúa, bà con thấy nhà ngày càng ngày càng khá giả hơn. Các ông chú con, người học may, người làm thợ mộc đã ra nghề, đã được bà cố hỏi vợ cho. Năm đó, trời hạn hán mất mùa. Những người thiếu nợ phải nợ thêm năm nữa. Chưa kể lại mua thêm, thiếu thêm rất nhiều. Bà cố con mừng quýnh vì sắp giàu to, bà cho làm một cái bồ lúa to gấp ba bình thường để chuẩn bị chứa lúa góp thu về. Đúng lúc đó, bà ngoại con làm mất sổ nợ. Do việc bán buôn một tay bà ngoại con lo nên cả nhà đâu biết ngô khoai gì. Đâu biết ai nợ, nợ bao nhiêu và nhà ở đâu? Vậy là mất trắng! Bà cố điên tiết, hết đánh đến mắng nhiếc đủ điều. Lôi cả dòng họ con dâu ra chửi, nhục mạ. Chưa hả giận bà còn đuổi bà ngoại con ra khỏi nhà để cưới vợ khác cho ngoại. Nhưng ông đâu chịu nghe theo. Bà con tuy làm mất sổ nợ nhưng trước đây đã đem lợi đến cho gia đình biết bao nhiêu. Công còn nhiều gấp mấy lần cái đánh mất. Nên ngoại đã bỏ nhà theo bà ngoại con. Ngoại thấy ở đây cần người gác cổng nên xin vào làm để có nhà cho vợ con ở. Tuy vất vả nhưng ở đây vui hơn gấp nghìn lần ở nhà con à. Chỉ tiếc, lâu lâu, bà cố lại đi xe lôi, xe kéo đến đây mắng nhiếc, chì chiết bà ngoại con.
- Con có điều nầy chưa rõ nè ngoại. Vì sao làm mất sổ nợ mà ngoại bảo là đỡ tội cho gia đình chồng?
- Đúng là vậy con à. Thật ra, những người thiếu nợ kia đâu biết là bà con làm mất sổ nợ. Vì bà ngoại con vào Sóc tuyên bố do hạn hán, mất mùa, bà cố cho hết tất cả nợ họ còn thiếu. Hãy an tâm lo làm ăn mà thoát đói. Họ mừng quýnh. Hết lời ca ngợi công đức của bà cố con. Thật may, mùa sau họ trúng lớn. Ngày Giáp tết, họ mang nào heo nào gà, nào lúa, nào nếp mới... đến nhà tạ ơn. Hết lời ca tụng bà cố. Vỡ lẽ, bà cố hối lỗi, đi xe lôi qua rước ông bà ngoại về nhà ăn tết.
- Rồi ông bà có về không?
- Có chứ. Về đốt nhang mừng tuổi ông bà, chúc tết mọi người rồi đi.
- Sao không ở luôn vậy ngoại?
- Bà cố con đã có các chú chăm lo rồi, còn bà ngoại con chỉ có ông ngoại thôi. Vả lại, ở riêng không ai... chửi. Ha ha... Bà ngoại con tuyệt nhất trên đời! Đúng là như vậy. Đối với ông, bà là một phụ nữ tuyệt vời mà ngoại từng biết.
- Dạ. Con yêu bà lắm!
- Chưa hết đâu con. Còn chuyện này nữa. Khi bà cố bệnh nặng, sắp qua đời thì những người Khmer thiếu nợ kia đã tự động quyên góp trong Sóc được một số tiền lớn để mang ra cho bà cố con thang thuốc. Rồi khi bà cố mất, họ kéo đến chật cả nhà, than khóc như chính người thân của họ ra đi. Bấy giờ, mọi người mới hiểu sâu sắc một điều rằng lòng nhân ái là một gia tài lớn lao nhất đối với mỗi con người (Danh ngôn).
Đêm đã về khuya. Ngoại giục Quyên đi ngủ để mai còn đi học sớm. Quyên cầm tay ông:
- Ngoại ơi! Ngoại muốn sau này con làm nghề gì?
- Nghề gì cũng được, tùy theo ý thích của con miễn là một nghề lương thiện.
Quyên nhìn vầng trăng lơ lửng trên cao:
- Con muốn trở thành cô giáo. Để con dạy cho học trò của con phải tốt với mọi người như bà ngoại của con.
Ông mỉm cười:
- Ừ, tốt lắm! Muốn vậy thì phải ráng học cho giỏi. Cô giáo dở toán nghen. Cô giáo mà toán chỉ có năm điểm thì chưa là tấm gương sáng đâu nghen cô nương!
Quyên mắc cỡ nhớ lại bài toán kiểm tra sáng nay chỉ đạt điểm trung bình. Nó đưa nắm đấm lên cao, hét lên:
- Kể từ nay, con nhất định đạt điểm mười!
Ông cười thành tiếng. Trên cao, vầng trăng nghiêng nghiêng, lung linh, vằng vặc sáng!.
Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...