Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2025

Ngọn gió vô hồi hoa nở ý niệm

Ngọn gió vô hồi hoa nở ý niệm

Người câu gió đi trên đường biên của hư vô – thực tại, để neo trên thực tại, khép lại trong vận động từ bóng tối đến ánh sáng, từ đêm sang ngày, trong cuộc khai sinh: bóng tối giấu đường bay hạnh phúc/ thế giới dẫu phải khai sinh – muôn loài vẫn cứ tồn tại ngoài ý muốn, cánh cửa he hé mở ra ban ngày đóm ơi (Đom đóm).
Nở xòe trên trang thơ vô sắc, sắc trắng hư vô hay sắc xanh thực tại, là những giọt hoa chưng cất, nhỏ nhoi mà tinh đọng vẻ đẹp đời sống. Hoàng Vũ Thuật đã kiến tạo một thế giới thơ từ ý niệm, từ đó cơi nới chật hẹp, hữu hạn kiếp người, bằng ngôn ngữ được chưng cất tinh đọng từ một đời thơ không bằng lòng với những điều dễ dãi, sẵn có, mà không ngừng tự chất vấn, tìm tòi, đi đến cõi vô hạn của thơ.
Phải mất bao lâu người mới câu được gió? Trong rỗng rễnh càn khôn câu cái vô ảnh vô hình? Với cuộc đời cụ thể một con-người-thơ như Hoàng Vũ Thuật, từ tập thơ đầu tiên Những bông hoa trên cát (1979) đến Người câu gió (2022), là hơn 40 năm đời thơ. Đời thơ mà không phải đời người, vì bản thân thơ đã sống riêng một sinh mệnh, mà trong trường hợp này, đời thơ sẽ còn dài hơn đời người. Thế giới của Người câu gió hướng về cái hư không, nên hiện hữu cụ thể cũng mang một màu sắc khác. Sự hiện diện của hoa, như một tín hiệu của đời sống, không dày đặc mà điểm xuyết, chấm phá, rất ít nét, khiến người đọc gợi nhớ đến những bức tranh Thiền, nhưng sự hiện diện của hoa, như một sự hân thưởng níu giữ con người ở bờ bên này của tồn tại, mà không phải phía bên kia của hư vô.
trong vũ trụ mênh mông bạn ơi bức tranh không màu
lại rất nhiều màu
nói chúng ta rằng trên đời sự thật do ý niệm sinh từ tưởng tượng
(Ý niệm sinh từ tưởng tượng)
Trong thế giới được sinh ra từ ý niệm của Người câu gió, điệu thức chung của thơ chính là trạng thái không màu ấy, trên cái nền không màu trống không, thỉnh thoảng nhà thơ điểm hiếm hoi những giọt màu. Là từng giọt, đơn lẻ, hiếm hoi, dụng tâm. Hoàng Vũ Thuật không đổ màu tràn lan vào thơ, tương ứng với thứ ngôn ngữ tinh giản mơ hồ, không đeo tu sức dày đặc điểm trang. Như thể thế giới được ý niệm tạo ra, đứt – nối trong trường liên tưởng, biên độ nới giãn khó nắm bắt, gương mặt cuộc sống dần được hiện hình. Vì là thế giới của vô sắc, nên màu trắng được nhà thơ sử dụng nhiều nhất (25 lần/ 121 bài) mà không phải màu sắc khác. Không đến mức phóng túng quết đày đặc gam trắng (Họa sĩ Sáng của tôi), sắc trắng trở đi trở lại trong Người câu gió như sự gợi nhắc của hư vô, cũng là trạng thái tinh khôi, thanh sạch nhất của đời sống. Sự hiện diện của tóc trắng, sóng trắng, giấy trắng… trong tổng thể bài thơ ám gợi, vắng những tu sức, thế giới được tạo dựng trong trạng thái uyên nguyên.
Nếu đặt trên đối trọng với đen, có lẽ chúng ta đã có được một bức tranh thủy mặc hoàn hảo, trượt về phía hư vô như chính nhà thơ nhìn nhận: trên đời này tất cả đều hư vô chữ nghĩa rồi biến mất (Chứng thực). Nhưng sắc đen chỉ thỉnh thoảng lướt qua, vì ông đã chọn một màu sắc khác, màu xanh, cái màu xanh muốn ngỏ gì đây (Nhàn đàm), với một mật độ tương đương (24 lần/ 121 bài), để làm đối trọng với sắc trắng trên kia. Với màu xanh đong đầy hy vọng, niềm tin, sự sống, vừa chạm bờ hư vô nhà thơ đã đưa người đọc quay lại trần gian với nhắn nhủ tha thiết: hãy xanh đi lá ơi/ dưới vòm xanh kỳ diệu che mái đầu mây trắng (Chiếc lá mong manh). Như một thông điệp: hãy xanh… Như cách nhà thơ chọn cho mình vị trí của sự giao thoa: tôi vẫn ngồi đấy ở thời điểm/ giữa đêm & ngày, chạm tay vào hư vô, cũng là lúc người nhìn, nghe, cảm nhận rõ hơn bao giờ từng vẻ đẹp nhỏ nhoi của sự sống, những giọt màu nhỏ bé nguyên sơ đến nao lòng không dễ nhìn ra: tiếng chim thả màu nâu/ con ruồi vàng vẽ đường cong trước mặt vệt khói bình yên (Tiếng lá giọt chim). Tiếng lá giọt chim, từng giọt, và dĩ nhiên không thể thiếu những giọt hoa diệu kỳ.
Trên đôi bờ trắng – xanh hư vô – hiện hữu, Hoàng Vũ Thuật nhỏ lên những giọt màu/ giọt hoa làm sáng lên bản chất của tồn tại, một tồn tại hoa, xuất hiện 64 lần, cùng với cỏ, chuồn chuồn, tò vò… neo giữ yêu tin trong bản chất khoảnh khắc của cuộc đời: ta biết ơn thừa nhận sự hiện diện của một loài hoa, một mùa hoa đã quên bao thiên niên kỷ, dòng sông ra giêng đinh ninh hoa và hoa (Niềm tin). Cứ vậy mà nhà thơ đi nhẹ tênh trên đôi bờ tưởng chênh vênh, thản nhiên thiền với gió mà nâng niu thực tại.
Vì là thơ của ý niệm, Người câu gió không dụng tâm miêu tả, khắc họa hình ảnh cụ thể của hoa, dừng lại ở cái hình sắc, nói cách khác, hoa trong thơ Hoàng Vũ Thuật là hoa của ý niệm, khởi từ một cái tên. Hoa là hiện thân của ý niệm về cái đẹp, ông nói về hoa khi nói về sự lãng quên, gãy đổ, mất mát: nhiều cánh hoa đã gãy/ sa mạc đại dương hết thảy đông cứng thành núi đá khổng lồ (Lời kêu cứu của linh hồn chết), Họ từng bắt tay nhau hát vang trong vũ điệu dân ca/ lại nã đạn vào nhịp thở/ xuyên thủng bức tường tình yêu dựng lên/ bảy mươi năm nham nhở/ làm triệu cánh hoa rơi (Những viên đạn hình giọt nước mắt), một cánh hoa hóa thạch thoang thoảng hương thơm (Thử vẽ lại chiến tranh)… Trong mỗi cánh hoa gãy, rơi, hóa thạch phập phống hương sự sống, sự sống hiện diện trong dạng thức hoa, vượt qua nỗi sợ hãi: niềm tin cây liềm thành hoa hồng (Sự sống). Sự hiện diện của hoa trong thơ Hoàng Vũ Thuật vì vậy trở nên chắt lọc, quý giá, từng giọt nhỏ vào bức tranh đơn sắc: trong lặng im của màu có lời cụm hoa mới nhú (Họa sĩ Sáng của tôi), Trong trảng cát tinh khôi nhú lên/ bông hoa bài ca buổi sáng (Cánh ong vàng và bông hoa buổi sáng)…
Tính chất ý niệm khiến hoa trong Người câu gió được sử dụng trong dạng thức tên gọi khái quát. Nhà thơ ít khi gọi tên hoa, nhưng nếu cần gọi, ông gọi thật cụ thể, xuyên qua hình sắc, gọi ra hiện hữu hoa trong bản chất sâu thẳm của nó. Như khi nhà thơ nói về cúc bùn bùn: dưới bùn nâu mọc những bông cúc tím màu đến thơ ngây, ông không dừng lại ở chỗ mọi người thường dừng lại, mà ngẫm ngợi về mùi bùn lam lũ thanh tao mùi bùn lung linh hơn những ngôi sao xa/ mùi bùn sinh nở/ mùi bùn thơm tho đất đai mùi bùn mạch máu nóng hổi/ mùi bùn yêu/ khi ý nghĩ em hóa thạch/ đôi tay mềm vắt qua cánh đồng như sông sẽ trồi lên tim tím triệu năm (Cúc bùn bùn). Khởi từ màu tím, trở về với màu tím, nhưng nhà thơ đã xuyên qua màu tím ấy đi tận nguồn mạch đất đai lẫn linh hồn thời gian. Ông không bằng lòng ngợi ca cái đẹp dễ thấy, dễ nhận biết, mà đào sâu trạng thái của mỗi tồn tại riêng lẻ, nhỏ nhoi, chẳng hạn cỏ, chút bụi, hòn cuội, bùn lầy… nơi cái đẹp khởi sinh:
những hạt bụi nhỏ nhất trung thực thủy chung bền bỉ trong các thứ nhỏ nhất
những hạt bụi nói với nhau nhiều hơn dông dài triết lý
ngôn ngữ vĩnh hằng lặng thinh hiện diện mỗi ngày
(Tôi muốn tôi là hạt bụi)
Ít khi nhà thơ nói rõ màu sắc của hoa, ông cũng không miêu tả chúng. Như đã nói, bông hoa, như là ý niệm về cái đẹp, được nhắc tới ở trạng thái rỗng rênh, người đọc tùy theo tưởng tượng có thể tự đổ màu. Nhưng khi ông đã dụng công cho bông hoa một sắc màu nào đấy, nó nhất định sẽ làm điểm nhấn của toàn bài, làm sáng lên cả bài thơ, như màu đỏ môi kéo thiên đường về mặt đất: bông hoa mẫu đơn nói lời yêu thương kẽ môi em thêm một lần đỏ (Thiên đường dưới chân ta).
Cũng có khi ông tự gọi một loại hoa riêng, nhìn thấy một màu riêng, như khi nhìn dòng sông thu: Sông hay là mây đang nối trời với đất/ hoa thiền vàng nếp áo/ hoa gửi mùi hương cho người (Sông thu). Sông – mây – hoa – hương liên tục chuyển hóa như sự biến ảo khôn cùng của dòng sông, cũng là chuyển hướng ý niệm, trên đó sáng lên sắc vàng của hoa thiền. Người đọc có thể băn khoăn đó là hoa gì, mà có khi không cần băn khoăn, nhà thơ cũng không có ý trả lời, ấy là nơi chốn của thơ, ở giữa khả giải và bất khả giải.
Với sự nhạy cảm tột bậc của người tập trung mọi giác quan ngồi câu, một ngày câu hai bàn tay trắng trở về một đời câu tóc xanh/ hóa thành tóc trắng/ lịch trình gió buốt chưa thôi (Người câu gió), Hoàng Vũ Thuật cảm biết tinh tế bước đi của bốn mùa, mỗi ngày, từng thời khắc. Có lần nhà thơ thu cả thế giới vào một mảnh vườn, cứ thế mà một đoạn thơ gom cả bốn mùa qua: mảnh vườn chiếc đu quay/ mùa xuân líu ríu hoa vàng/ mùa hạ hoa muống li ti từng cụm trắng/ chị nhặt chưa hết lá mùa thu/ đông đã tới (Chị tôi và mảnh vườn). Đây là lần nhà thơ tả hoa chi tiết nhất, gom mùa trong mỗi loài hoa, có cả sắc màu vàng, trắng, cả trạng thái líu ríu, li ti… hiếm hoi trong thơ ông, mùa hiện hữu đẹp nao lòng, chóng vánh, để xóa trắng vào chấp chới ngàn lau.
Người và vườn, hạnh phúc và mất mát, được chắt lọc trong từng câu chữ. Câu thơ ông trôi trên dòng sông thời gian, về neo đọng ở mùa xuân, bằng một cách cũng chắt lọc như thế: Màn đêm cuối cùng tan từng mảnh sắc lạnh/ mùa xuân tới như cô gái mỏng mảnh sau cánh áo trắng thơm tho/ mùi hoa sữa nhạt dần – sự nồng nàn đã loãng. Bài Mùa xuân đã nói gì khởi bằng sự tan ra của đêm, bóng dáng mỏng mảnh của mùa xuân cùng mùi hoa sữa nhạt dần, khép bằng hình ảnh bông mai lửa: đêm ba mươi có kẻ ngồi bên nồi bánh chưng cời lên năm tháng/ nở vàng bông mai lửa. Bông mai lửa cũng là một ý niệm trong sự hợp nhất lửa – hoa, nở ra từ thời gian, rực rỡ, nóng ấm, sẽ còn trở lại ở đoạn cuối tập thơ: Bông mai sẽ nở màu vàng biến thành ngọn lửa chói chang (Bông mai sẽ nở).
Người câu gió đi trên đường biên của hư vô – thực tại, để neo trên thực tại, khép lại trong vận động từ bóng tối đến ánh sáng, từ đêm sang ngày, trong cuộc khai sinh: bóng tối giấu đường bay hạnh phúc/ thế giới dẫu phải khai sinh – muôn loài vẫn cứ tồn tại ngoài ý muốn, cánh cửa he hé mở ra ban ngày đóm ơi (Đom đóm). Nở xòe trên trang thơ vô sắc, sắc trắng hư vô hay sắc xanh thực tại, là những giọt hoa chưng cất, nhỏ nhoi mà tinh đọng vẻ đẹp đời sống. Hoàng Vũ Thuật đã kiến tạo một thế giới thơ từ ý niệm, từ đó cơi nới chật hẹp, hữu hạn kiếp người, bằng ngôn ngữ được chưng cất tinh đọng từ một đời thơ không bằng lòng với những điều dễ dãi, sẵn có, mà không ngừng tự chất vấn, tìm tòi, đi đến cõi vô hạn của thơ.
28/3/2025
Hải Miên
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...