Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2025

Cái nhìn về chiến tranh trong thơ vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975

Cái nhìn về chiến tranh trong thơ vùng
đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975

Do thời cuộc chiến tranh, đất nước bị chia cắt, đa số các nhà thơ sáng tác trong vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 đều đã từng bị bắt buộc tham gia cầm súng cho “phía bên kia”. Tuy nhiên, họ đều là những trí thức, có tinh thần tự tôn dân tộc, chán ghét chiến tranh, căm thù ách ngoại bang; vì thế, họ nhận thức rất sâu sắc về bản chất của cuộc chiến tranh. Cầm súng tham gia cuộc chiến, nhưng họ biết đó là một cuộc chiến phi nghĩa, nên có một cái nhìn về chiến tranh hoàn toàn khác với những nhà thơ – chiến sĩ của dòng thơ ca cách mạng, kháng chiến (cầm súng với ý thức tự giác, đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất nước nhà với một niềm tin tất thắng dù biết sẽ trải qua nhiều gian khổ, hi sinh).
Nhìn về cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc, các nhà thơ – chiến sĩ của thơ ca cách mạng, kháng chiến phản ánh rất rõ nỗi đau thương do kẻ thù gây ra, đi liền với lòng căm thù giặc và một lý tưởng chiến đấu bất di bất dịch. Ở phía ngược lại, các nhà thơ vùng đô thị miền Nam thể hiện nỗi đau chiến tranh qua nỗi buồn thế cuộc cùng với cái nhìn chán chường, bế tắc.
Hướng tới tổng kết 50 năm văn học Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 – 2025), trên tinh thần hòa giải, hòa hợp, gạn đục khơi trong, khơi tìm di sản, chúng ta cùng đọc lại những vần thơ được viết nên bởi chính nỗi đau của những người trong cuộc ấy.
Trong Kế hoạch số 390-KH/BTGTW ngày 15.11.2023 của Ban Tuyên giáo Trung ương về “Tổ chức các hoạt động Tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30.4.1975 – 30.4.2025)” gọi bộ phận văn học, nghệ thuật vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 là “di sản văn học, nghệ thuật miền Nam Việt Nam”. Ở đây, trong bài viết cụ thể này, tôi xin vẫn được gọi là “vùng đô thị miền Nam” để có sự khu biệt giữa dòng văn học giải phóng miền Nam của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trong cùng giai đoạn đó.
1. Cái nhìn đau buồn về cuộc chiến
Sau thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), ta đánh bại cuộc xâm lược gần 100 năm của chủ nghĩa thực dân cũ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước phải chia làm hai miền. Miền Bắc hòa bình, bắt đầu công cuộc dựng xây đất nước và chi viện cho miền Nam làm cuộc kháng chiến chống Mỹ. 21 năm chia cắt, người Việt cả hai miền đều đau buồn, đều hướng về nhau. Trong khi các nhà thơ miền Bắc dù đau thương vẫn vững tin về một non sông thống nhất, vẫn phân định rõ ràng hai màu cờ của đất nước cắt chia:
Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị
Tận chân trời mây núi có chia đâu
Cờ Tổ quốc gọi tâm hồn trong gió
Như mặt trời rực đỏ như lấp lánh sao vàng
Bên kia sông không ra vàng ra đỏ
Cờ ba que hoen ố cả không gian
(Tế Hanh – Nói chuyện với sông Hiền Lương).
Thì các nhà thơ vùng đô thị miền Nam cũng buồn đau trước cảnh chiến điêu tàn khi đứng bên bờ giới tuyến. Nhưng cũng chỉ dừng lại ở “đôi lá cờ phơ phất đôi bờ sông” và cái vạch cắt phân chia giới tuyến đớn đau trên “nhịp cầu vĩ tuyến”. Cờ chẳng buồn bay, cả đất trời tê tái:
Quảng Trị buồn vào giấc ngủ đêm đông
Với thành quách điêu tàn phơi gạch nát
Đường ra Hiền Lương mịt mù gió cát
Đôi lá cờ phơ phất đôi bờ sông
Tôi đến đây nhìn nước chảy một dòng
Màu xanh đỏ phân nhịp cầu vĩ tuyến
Gót độc hành đến đây nửa chuyến
Nửa con đường chữ S dứt nơi đây
Gió không lên cờ chẳng buồn bay
Cho tê tái đất trời bỡ ngỡ
(Kiên Giang – Nửa con đường chữ S).
Trong mắt nhìn của các thi sĩ miền Nam, sự cách chia hiện lên với tất cả những buồn thương, tang tóc, nhắc đến quê hương, chỉ nghe tiếng lòng thổn thức:
Quê hương mơ hồ mắt mỏi trông
Vì sao thổn thức mãi trong lòng
Chín năm đã quá nhiều tang tóc
Anh bên này em bên kia sông
(Hoàng Bảo Việt – sao là nhớ).
Cũng là đường ra trận, nhưng đường ra trận của người lính “phía bên kia” xơ xác lá vàng, heo may rét buốt, bóng dáng xanh xao của những em bé và mẹ già đang run sợ dưới những tràng súng nổ:
tôi cũng đang đi đây
ôi đường dài xơ xác!
lá vàng, heo may
bóng dáng xanh xao
những em bé ăn mày
những người anh
máu chảy cả đôi tay
chiều chiến tranh
những mẹ già run sợ
vì tiếng súng cối xay
(Quách Thoại – những buổi chiều Việt Nam).
Hoàn toàn khác với tiếng hát lạc quan trên con đường ra trận của đoàn quân giải phóng:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây
(Phạm Tiến Duật – Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây).
Dù không trực tiếp ra trận, nữ thi sĩ Tuệ Mai vẫn “xót quê hương mây sầu vây bốn hướng” (hào quang tri kỷ) và chua chát“cười trong thấu suốt đau thương” khi cảm nhận về nỗi sầu đau của chiến tranh:
Như thế đấy, trong vỏ sầu ngơ ngác
này thịt da! Sao chửa giã từ xương
ai cười đó, trong niềm vui đổi chác
tôi cười đây, trong thấu suốt đau thương
(Tuệ Mai – nỗi hờn trổi dậy).
Trong khi người chiến sĩ – thi sĩ Giải phóng quân tình nguyện xung phong vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với tất cả niềm tin và nhiệt huyết của tuổi trẻ cùng nhịp bước hành quân rất trữ tình:
Rất trữ tình là nhịp bước hành quân
Vần thơ xung phong là vần thơ chơn chất
Thời đánh Mỹ là thời tươi đẹp nhất
Tỏa nắng cho thơ là triệu ánh mắt anh hùng
(Dương Hương Ly)
thì con đường ra “trận mạc” của những thi sĩ trong vùng đô thị miền Nam tràn ngập nỗi buồn với điêu tàn lá rụng cùng những giòng lệ khô vì đã chảy hết theo “giòng lưu lạc”:
Quê hương buồn trận mạc
Mùa thu rụng điêu tàn
Mắt khô giòng lưu lạc
Người đi còn quá quan
(Mặc Tưởng – người đi).
Chiến tranh hiện lên trong “giấc sầu cô miên” của người lính cộng hòa là những âm thanh chết chóc của tiếng trống di quan cùng hình ảnh những lá cờ tang, màu đỏ quan tài và di hài người chết:
Nằm ôm giấc mộng thâu canh
rêu um lối nhện mốc xanh âm hồn
Trăng xiêm ngãi, gió buồn nôn
đã nghe kỳ tử trống dồn bên tai
Sơn bôi mực đỏ quan tài
ngàn sương rú hẹn tiếng dài chim âu
Buông đôi tay rỗng sọ đầu
mi xuôi mắt ngủ giấc sầu cô miên
(Cung Trầm Tưởng – Ngủ).
Trong cảm nhận của các nhà thơ đô thị miền Nam, chiến tranh cùng lệnh giới nghiêm của chính quyền Sài Gòn đã biến cuộc sống ở đô thị miền Nam trở nên ngột ngạt, tăm tối, trở thành những thành phố chết:
“Cửa đóng lại từ chín giờ”
Như sự chết đột ngột đến chiếm thể xác
Tất cả đều ngừng thở
Ngừng hơi thở và nhắm mắt
Đóng lại từ chín giờ
Đêm tăm tối bắt đầu xuống thành phố
Đêm tăm tối làm sao nhìn thấy nhau
(Đỗ Quý Toàn – Giới nghiêm).
Người lính cộng hòa hiếm hoi được nghỉ phép về thăm quê vào dịp cuối năm cũng rợn ngợp nỗi cô đơn vì chẳng có ai đón đợi, chỉ có mình tự nhìn bóng mình “mặt mũi tiêu điều” soi xuống nước sông, phũ phàng trôi xuôi theo dòng nước:
Có ai đợi ta trên còn đò cuối năm
Ôi, chỉ bóng ta chao bóng nước xuôi dòng
Mặt mũi tiêu điều theo phần đời gió nổi
Cái đời buồn như nước chảy trăm năm
(Nguyễn Đông Giang – Ngày về, qua đò chiều cuối năm).
Nhìn chung, cuộc chiến tranh 21 năm chia cắt đất nước được các nhà thơ vùng đô thị miền Nam nhìn nhận bằng tất cả nỗi đau buồn thế cuộc: đau thương, tan nát, cách chia.
2. Cái nhìn bế tắc, chán chường về cuộc chiến
Xin được mở đầu bằng tư thế cùng những ngẫm suy về bản chất chiến tranh của người lính cộng hòa tham gia cuộc chiến. Họ hoàn toàn bế tắc, chán chường về thân phận lính của chính mình:
Tao đi lính được bốn năm
Mày nghe chuyện lính tưởng rằng tao gân
Tưởng tao trấn thủ lưu đồn
Một tay cờ kiếm anh hùng chí cao
Bốn năm Đỗ Phủ nằm khoèo
Rượu say thơ cũng mệt nhoài tứ chi
Mười phương vẫn một bọn hề
Những thằng bưng điếu vác cờ chạy quanh
Tao nhìn chẳng thiết nói năng
Miệng cười nước mắt lưng tròng gió đưa
(Nguyên Sa – Thư cho bạn).
Trong khi các nhà thơ – chiến sĩ Giải phóng quân đi vào chiến tranh một cách tự nguyện, hiến dâng tuổi 20 của mình choTổ quốc như một lẽ đương nhiên:
chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(nhưng tuổi 20 làm sao mà không tiếc)
nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ quốc?
cỏ sắc và ấm quá, phải không em…
(Thanh Thảo – Những người đi tới biển)
thì các nhà thơ vùng đô thị miền Nam xem tuổi thanh xuân của thế hệ mình khi chia tay trong kỳ Hè họp lớp cuối cùng để “lên đường” vào cuộc chiến, chính là bước vào “một cuộc chơi kỳ cục”:
Cuộc hội họp đã tàn
Những con ve đã chết
Và tất cả bạn bè anh
Đều đã lên đường
Vào chung một cuộc chơi kỳ cục
(Trần Dạ Từ – mùa hè 1965).
“Nửa đêm thức giấc”, ngẫm thân phận mình, họ nhận ra: mang vác trên đôi vai mình không phải sứ mạng của tuổi thanh xuân mà là mang vác trên vai một thế kỷ đau buồn, không còn quá khứ, không có tương lai:
Vai mang thế kỷ buồn đau
Ngày xưa đã mất ngàn sau có còn
(Hoài Khanh – nửa đêm thức giấc).
Chính vì vậy, bước vào cuộc chiến, họ xem như mình đang đi trên chuyến xe lao vào hố thẳm, đi đến ngày “tận số”, bước đường “mạt vận” của kiếp người:
Xe hiện tại dẫn ngày mai xuống hố
Đời hi vọng mà vẫn tin tận số
Ô hô hô! mạt kiếp vận người!
(Quách Thoại – như băng trường tình).
Hoàn toàn khác với tư thế đầy lạc quan của những người chiến sĩ giải phóng khi bước ra chiến trường. Ngồi đợi giờ nổ súng dưới chiến hào, cũng là lúc thấy lòng càng thêm yêu Tổ quốc và quyết hi sinh cả cuộc đời vì Tổ quốc thiêng liêng:
Khi ta cắt rào thép gai
Khi ta ngồi dưới chiến hào đợi giờ nổ súng
Hơn bao giờ, ấy là lúc ta yêu Tổ quốc
Xin hiến dâng người cả cuộc đời ta
(Trần Vũ Mai – Ngày mai).
Tuổi thanh xuân lẽ ra phải là tuổi của khát vọng và lý tưởng hiến dâng sức mình cho tương lai đất nước, nhưng trong thơ các nhà thơ vùng đô thị miền Nam, tuổi trẻ nơi đây hoàn toàn không nhận ra ánh sáng tương lai, tất cả đều là mờ mịt:
Ta nằm đây trong lòng thế hệ
Ngửa mặt đòi xin ánh mặt trời
(Chế Vũ – trong lòng thế hệ).
Chiến tranh hiển hiện trong thơ họ là những bóng dơi chết chóc, những mái đầu phủ trắng khăn sô cùng một tâm hồn mốc ẩm với nỗi sầu âm dương cách biệt:
Ngồi trong vút bóng chim dơi
Mà ghê lạnh cả đất trời thâm sâu
Sương khăn sô, tấm phủ đầu
Che hồn ẩm mốc nỗi sầu âm dương
(Cung Trầm Tưởng – nghĩa địa).
Mỗi mùa xuân phải trực chiến không về quê thăm mẹ, tự thấy mình “già thêm một đỗi”, lòng dạ héo hon, buồn hơn cả nỗi buồn của Chúa:
Thêm một mùa xuân ta già thêm một đỗi
Tim phổi héo hon theo ngày tháng vô tình
Cũng gắng quay về nằm trên đất Mẹ
Chúa đã buồn nhưng ta lại buồn hơn
(Nguyễn Đông Giang – Ngày về, qua đò chiều cuối năm).
Người trở về thăm được cố hương thì quê hương cũng buồn hiu hắt. Muốn bước lên đò thì chiến tranh níu rị, quê mẹ vẫn mãi mãi cách xa:
Tôi trở lại với niềm đau cố xứ
Bến sông chiều Vĩnh Điện hắt hiu mưa
Muốn đi lên nhưng súng vọng đôi bờ
Nguồn với biển trở thành xa cách quá
(Tường Linh – Vọng tình chim).
Nỗi chán chường khi nghĩ đến tương lại mờ mịt. Muốn thoát khỏi hiện thực máu lửa, đi tìm tương lai, thì càng đi càng lạc sâu vào “hoang địa”. Vòm trời chỉ còn là một cổ áo quan:
Tôi trang bị hoài nghi mà thám hiểm tương lai, ngày một lạc sâu thêm vào hoang địa nỗi chán chường cứ trải rộng ra.
Và vòm trời như nắp áo quan bằng cẩm thạch
(Tô Thùy Yên – Lễ tấn phong tình yêu).
Hiện tại là đói khổ chiến tranh, tương lai là sự chết, nên thanh niên miền Nam khi bước vào đời chính là chôn đời vào cổ áo quan:
Đói khổ chiến tranh
Tương lai sự chết
Người đi vào đời
Áo quan chôn vùi
(Ninh Chữ – bài thơ đen).
Trong khi thơ tình của các nhà thơ chống Mỹ, tình yêu và hạnh phúc mỗi con người gắn liền với hạnh phúc chung của cả dân tộc. Họ bước vào cuộc chiến bảo vệ non sông chính là “đi vào hạnh phúc”, buộc cái chết phải cúi đầu cho tình yêu lên tiếng:
Ta nắm tay nhau vào cuộc chiến đấu này
Như đi vào hạnh phúc
Ta nắm tay nhau bao lần đạp qua cái chết
Cái chết cúi đầu
Tình yêu cất lời ca
 (Dương Hương Ly – Bài thơ tình yêu)
thì trong thơ miền Nam, tình yêu cũng mong manh vì cuộc chiến, người lính cộng hoà bước ra chiến trường là tự nguyện gửi lại cho người yêu tất cả những lời thề hẹn:
Mai tôi đi tình này xin gửi lại
Gửi lại tình này xin người nhận đón hai tay
Đường ra chiến trường ai dám nói hay
Nên người chớ bắt tôi đành tâm hò hẹn
(Du Tử Lê – tâm sự người lên mặt trận).
Tặng vật tình yêu không phải là những kỷ vật thông thường, thơ mộng mà chỉ toàn là những tặng vật đưa về từ chiến trường, toàn là những sản phẩm của chiến tranh: “Tặng cho em cuộn dây thép gai/ Thứ dây leo của thời đại mới/ Đang leo kín tâm hồn ta hôm nay/ Đó là tình yêu ta, em nhận đi, đừng hỏi”. Kể cả gông cùm, hầm chông, vòi rồng của những cuộc trấn áp biểu tình mà những thanh niên vùng đô thị miền Nam gửi về từ nhà lao và những cuộc đàn áp, khủng bố dã man:
Ta còn đó em ơi biết bao tặng vật
Còng sắt đeo tay, bao cát gối đầu
Hầm chông nhọn gãi lưng, xe vòi rồng rửa mặt
Biết chọn cái nào để gửi cho nhau
Mà gửi mãi tới bao giờ cho xuể
(Trần Dạ Từ – Tặng vật tỏ tình).
Chiến tranh “dẫm nát tâm hồn” đã biến tuổi trẻ miền Nam thành những “phế binh”, thành những “gã lính canh thô bạo”:
Có thể đời đã để sau lưng tôi chiến tranh mù mịt
Cuộc sống đổi màu trong nước mắt phế binh
Hay ở quanh tôi những đồn phòng ngự
Ðã biến tôi thành một gã lính canh thô bạo
Ði giầy đinh dẫm nát tâm hồn
(Nguyên Sa – Hai mươi).
Có thể nói, cái nhìn bế tắc, chán chường về chiến tranh của các nhà thơ vùng đô thị miền Nam đã thể hiện khá rõ sự nhìn nhận về bản chất phi nghĩa của cuộc chiến mà họ đang tham gia. Từ đó nẩy sinh tâm trạng bi quan, lòng bi phẩn, dẫn đến tư tưởng phản chiến cùng nỗi khát khao về một ngày hòa bình, thống nhất Bác Nam.
3. Tư tưởng phản chiến và khát vọng hoà bình, thống nhất
Tư tưởng phản chiến được thể hiện đầu tiên trong sự hoang mang trước hiện thực lịch sử: đó là nỗi sầu cắt chia đất nước: “Lịch sử những hoang mang/ Với mối sầu chia cắt” cùng sự can thiệp của “Lũ thực dân đế quốc” xâm lược: “Khi anh em giết nhau ngoài phố/ Với lưỡi dao giấu lén sau lưng/ Lũ thực dân đế quốc/ Giương cặp mắt tráo trân”. Chính vì âm mưu xâm lược của ngoại bang đã gây ra cuộc chiến tranh vô nghĩa mà họ phải cầm súng tham dự: “Bắn vào trán chúng ta/ Những viên đạn vô hình/ Cho anh em giết nhau/ Rồi cười lên thú dữ”. Họ cảm thấy “ăn năn” vì đã phải tham gia chiến cuộc, họ chối từ chiến tranh bằng những lời “nguyền rủa”:
bài tình ca hôm nay
là những ăn năn nguyền rủa
(Vương Tân – Đoạn khởi đầu của một bản tình ca).
Họ nhận chân ra được bộ mặt thật của chính quyền miền Nam tay sai với tất cả những lời phĩnh dụ, những khẩu hiệu hô hào vô nghĩa lý:
Sự ngưỡng mộ tôi ném vào các anh
Khi các anh ném vào tôi những câu hỏi ban ngày:
Khẩu hiệu nào hô to thì tổ quốc phì nhiêu?
Câu thần chú nào đọc lên thì đất nước bình yên?
Lời nói thần thánh nào cất lên thì tâm hồn đam mê tôi nằm yên
Nghe hòn đá trẻ thơ hát ở đáy giếng ngoan?
(Nguyên Sa – Đạn đạo).
Cho nên, những tuyên ngôn thơ của Nguyên Sa phủ nhận hiện thực cuộc sống, lên án chiến tranh, trả thơ về với sứ mạng thiêng liêng “màu nhiệm”… chính là bản thể của tư tưởng, ý thức phản chiến:
Anh từ chối chiếc bánh còn thừa, tự do hứa hẹn, chân lý lưỡi lê và những lời an ủi
(Nguyên Sa – Bài giã biệt).
Từ những nhận thức ấy, họ “kêu lên căm thù” trước âm mưu cắt chia đất nước mình của lũ ngoại bang:
ta kêu lên hờn căm
khi quá thể chúng cắt tình ruột thịt
hỡi mẹ hiền nhìn mẹ rưng rưng
yêu chẳng được yêu khóc không dám khóc
(Thanh Tâm Tuyền – Phiên khúc 20).
Họ trực tiếp cầm súng chiến đấu, nhưng vì hiểu được “tuần tự lớp lang” của vở hài kịch lịch sử mà mình tham gia, nên tự mình “treo khí giới”, bỏ súng trở về:
Tôi òa khóc những chiều mây xuống thấp
Treo khí giới trên cành tìm hiểu những ngôi sao
Lịch sử vốn tuần tự lớp lang của hành trình vạch sẵn
Thôi tôi trở về nhà tay trắng cả say mê
(Tô Thùy Yên – Người yêu dấu).
Bị bắt buộc tham gia vào cuộc chiến tranh phi nghĩa nên những người lính cộng hòa xót xa, không nỡ cầm súng bắn “đối phương” dù đạn đã lên nòng:
Hình như cây súng con lạ lắm
sao nó run lên khi đạn lên nòng
tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không?
(Nguyễn Dương Quang – Đêm cuối năm viết cho má).
Nghĩa là, những nhà thơ miền Nam đã nhìn khá rõ sự vô nghĩa của cuộc chiến mà chính họ đang can dự với tất cả nỗi đau, lòng hận thù đối với những kẻ chủ mưu cùng tâm trạng chán chường của người cầm bút:
Niềm đau đất nước mỗi ngày một đau
Câu hỏi đã lớn mỗi ngày một lớn
Những đứa sát nhân, vu oan giá họa
Những đứa chụp mũ, chụp mũ, chụp mũ
Mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân
Bạn bè dần hết theo tỷ lệ nghịch
Chán cả làm thơ, chán cả ngâm thơ
(Nguyên Sa – Bao giờ).
Từ nhận thức bản chất cuộc chiến, từ lòng hận thù âm mưu gây nên chiến tranh, chia cắt của ngoại bang; họ bỏ ngũ, cổ vũ và tham gia vào các cuộc “xuống đường” biểu tình phản đối chiến tranh, lên án bọn tay sai bán nước “dâng linh hồn cho giặc”, “quên cốt nhục” anh em:
hôm nay ta xông ra ngoài phố
ngày 20
nắm tay tròn cáu giận
má phừng lửa yêu thương
môi bỏng niềm tủi cực
đêm qua ai thét giữa đêm dài
tỉnh dậy ôi nao nức
ấy là tiếng hét trong hồn ta
ngã xuống ngã xuống
những kẻ dâng linh hồn cho giặc
những kẻ tối tăm quên cốt nhục
những kẻ bán đứt quê hương
ngã xuống ngã xuống
chân dậm chật đường
kéo về khắp ngả
phá cho tan hoang
nổ tung căm phẫn
(Thanh Tâm Tuyền – Phiên Khúc 20).
Họ mơ ước ngày hòa bình sớm về trên quê hương, đất nước để nghe tiếng trẻ vui cười trên những “đồng lúa xanh bát ngát”; được sống hồn nhiên như cây cỏ giữa thiên nhiên; ngày không nghe tiếng máy bay rải bom, đêm không còn nghe tiếng súng:
Con sẽ lớn lên trong tiếng vui cười
Cùng với đồng lúa xanh bát ngát
Cùng với cỏ cây con sống giữa thiên nhiên
Ngày không nghe máy bay, đêm không nghe súng nổ
(Trần Đức Uyển – thơ viết cho đứa con tương lai).
Ngày mai ấy, vũ khí sẽ trở thành lưỡi cày, lúa tròn mẩy hạt, đồng quê ríu rít tiếng chim, vui say trong làn gió thanh bình:
Lúa có nghĩ rằng ngày mai sẽ khác?
súng sẽ dùng để đúc lưỡi cày
mỗi ba trăng lúa vàng tròn hạt
chim sẽ ca và gió thổi lúa say
(Nguyễn Dương Quang – Đêm kích dưới chân đồi Pá).
Khi chiến tranh chấm dứt, họ sẽ “giã từ vũ khí” trở về dựng lại mái nhà, khoác áo nâu ra đồng làm ruộng hay “trở về thay vợ giữ con”. Kết thúc chiến tranh là “nắm hạnh phúc trong bàn tay còn lại” và “chan yêu thương cho tất cả tâm hồn”:
Ngày nào đó cuộc tương tàn chấm dứt
Làng hoang vu người trở lại dựng nhà
Tôi mặc áo nâu trở về làm ruộng
Tôi trở về làm lại kiếp người ta
Ngày nào đó không còn nghe tiếng súng
Tôi trở về thay vợ giữ con
Nắm hạnh phúc trong bàn tay còn lại
Chan yêu thương cho tất cả tâm hồn
(Nguyễn Đông Giang – Cho Tương Lai Bắt Gặp).
Giấc ngủ chập chờn trong thời chiến sẽ thay bằng giấc ngủ say. Tro bụi tàn cũng sẽ “kết trái đơm bông” và những dòng “mưa ngọt” sẽ thay cho những dòng nước mắt:
Quê hương thoát khỏi cảnh tàn phá
Hạnh phúc đo bằng giấc ngủ say
Những người đã khuất không xao nhãng
Tro bụi còn kết trái đơm bông
Những người sống sót thêm tin tưởng
Mưa ngọt thay vì lệ trẻ thơ
(Hoàng Bảo Việt – thèm đi).
Nỗi đau cắt chia đất nước đã tạo nên một “vết rạn” trong lòng, vì thế, họ luôn khát khao đợi chờ ngày thống nhất non sông:
Chao ôi vết rạn trong lòng Việt
Đã bón bao nhiêu máu giống nòi
Chừ vẫn còn chia Nam, Bắc mãi
Bao giờ cho mặn miếng trầu cay?
(Thanh Việt Thanh – bâng khuâng hồn lạc vào xuân mộng).
Dù có phải “buồn thắt ruột” vì chiến tranh, chia cắt; dù phải sống trong bế tắc, chán chường; họ luôn khát vọng: đợi chờ ngày hòa bình, thống nhất để được “đi tàu suốt” cho “Bắc với Nam má tựa vai kề”:
Nghĩ đến quê hương buồn thắt ruột
Biết bao lâu con mới được về?
Biết bao giờ con đi tàu suốt
Bắc với Nam má tựa vai kề?
(Trần Đức Uyển – Thư gửi mẹ).
Họ chất chứa trong lòng nỗi đau thương trước thân phận của quê hương, của những người “con một mẹ” Việt Nam bị chiến tranh chia cắt. Họ “hát lên to lớn” như một lời khẳng định để “con cháu ngày sau nghe rõ”: Người Việt dù ở miền Bắc hay miền Nam “cùng là con một mẹ”; nước Việt Nam là một, chẳng kẻ thù nào có thể cắt chia:
ta hát lên to lớn
con cháu ngày sau còn nghe rõ
mà nhớ
đất ta là của ta
đừng ai hòng cắt xẻ
chúng ta thương yêu nhau
cùng là con một mẹ
chiếm lại trọn đất đai
xoá sạch oán thù
(Thanh Tâm Tuyền – Phiên Khúc 20).
Cùng một cuộc chiến tranh, nhưng cái nhìn về chiến tranh trong thơ ca của văn học cách mạng và kháng chiến là một cái nhìn vừa hiện thực vừa lãng mạn cách mạng. Người chiến sĩ Giải phóng quân ra trận với quan điểm, niềm tin và lý tưởng rõ ràng: Vượt qua gian khó, hi sinh, bền gan chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Còn cái nhìn về chiến tranh của thơ ca vùng đô thị miền Nam là một cái nhìn hoàn toàn đau buồn, chán chường, bế tắc. Vì vậy, người lính cộng hòa trong thơ miền Nam (kể cả bản thân nhà thơ), do bị bắt buộc cầm súng và hiểu rõ bản chất “lính đánh thuê” của cuộc chiến tranh mà mình can dự, nên không hề có lý tưởng chiến đấu; từ đó nẩy sinh tư tưởng và hành động phản chiến cũng như khát vọng về một ngày hòa bình, thống nhất Bắc Nam.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
– Trần Tuấn Kiệt. 1967. Thi ca Việt Nam hiện đại (1880-1965), Nhà sách Khai – Trí xuất bản. thivien.net (Một vài trích dẫn thơ đô thị miền Nam khác)
– Một số tác giả, tác phẩm thơ cách mạng, kháng chiến được trích từ các tập thơ của các tác giả.
21/4/2025
Mai Bá Ấn
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...