Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

Hiện thực chiến tranh cách mạng trong hợp tuyển văn xuôi Hải Dương

Hiện thực chiến tranh cách mạng
trong hợp tuyển văn xuôi Hải Dương

Xưa nay, trong văn học nhân loại, chiến tranh luôn là một đề tài lớn, một “siêu đề tài”, một đề tài thường trực có ý nghĩa trung tâm không thể thay thế.
Soi chiếu vào lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX, ta có thể thấy sự hiện diện đậm nét của đề tài này bởi sự song hành với lịch sử và vận mệnh dân tộc và gắn với các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đó là bốn cuộc chiến tranh lớn: chống Pháp, chống Mỹ, chống bành trướng Bắc Kinh ở biên giới phía Bắc và chống bọn Pôn Pốt ở biên giới Tây Nam. Cùng với dòng chảy của văn học dân tộc, văn xuôi Hải Dương hơn nửa thế kỷ qua đã có nhiều tác giả, tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng đáng ghi nhận.
1. Đội ngũ tác giả
Hợp tuyển có 32 tác giả đủ mọi lứa tuổi, ít nhất cũng có hai thế hệ cầm bút. Sinh trước năm 1975 gồm 23 người (sớm nhất là nhà văn Nguyễn Luận sinh năm 1925). Họ là những tác giả “chủ lực” của cuốn sách bởi những trải nghiệm thực tế đã sống trong chiến tranh, xúc cảm cùng chiến tranh, nhìn và viết về chiến tranh thường với cảm hứng sử thi. Sinh sau năm 1975 gồm 9 người (muộn nhất là nhà văn Huy Hải sinh năm 1994). Họ là thế hệ cầm bút trẻ, mới mẻ, không trải qua chiến tranh nhưng qua những hồi ức chiến tranh được nghe kể, đọc; họ chiêm nghiệm chiến tranh từ lăng kính nhân văn, nhân bản gắn với những giá trị phổ quát của nhân loại.
2. Đề tài chiến tranh cách mạng ở từng giai đoạn
Ở từng giai đoạn mỗi chặng đường, đề tài chiến tranh của văn xuôi Hải Dương được khai thác, tiệm cận và phản ánh ở nhiều góc độ, theo những cảm hứng khác nhau.
Ba mươi năm 1945- 1975 là giai đoạn kháng chiến trường kỳ chống Pháp và Mỹ. Đây là giai đoạn văn xuôi Hải Dương mang âm hưởng sử thi với cảm hứng chủ đạo là ngợi ca. Ở đấy là những sự kiện lịch sử, những chiến công hiển hách, những chí khí anh hùng.
Sau năm 1975, văn xuôi Hải Dương chuyển sang một diện mạo mới. Mặc dù vẫn còn có cảm hứng sử thi (khi viết về cuộc chiến tranh Biên giới ở phía Bắc và Tây Nam, xa hơn là cuộc kháng chiến chống Mĩ và chống Pháp) nhưng giờ đây văn học đã chuyển sang giai đoạn mang cảm hứng thế sự, đời tư. Văn học giai đoạn này hiện diện với một sắc diện, cảm quan không giống trước. Đó là nói đến những mất mát hy sinh, những buồn vui của cuộc sống thường nhật và quan tâm đến số phận con người. Những tác phẩm viết về đề tài này sau chiến tranh đã có những xu hướng viết về sự thật đời sống, về sự ác liệt gian khổ của chiến tranh, những nỗi buồn thời hậu chiến. Sau chiến tranh, với độ lùi cần thiết văn xuôi giai đoạn này đã dần chuyển sang một âm điệu mới: không chỉ có hào hùng mà cả bi thương, không chỉ có chiến trường mà cả hậu phương, bên cạnh những con người anh hùng còn có những số phận bi kịch.
3. Hiện thực chiến tranh cách mạng
Hợp tuyển giới thiệu 32 tác phẩm của 32 tác giả ở nhiều thể loại: tiểu thuyết (trích), truyện ngắn, truyện ký, bút ký. Trong bài viết này, người viết xin giới thiệu một vài tác phẩm tiêu biểu.
Về cảm hứng sử thi
Trước hết là tiểu thuyết Tấn công (bản thảo) của tác giả Phù Thăng.
Nói đến truyện là phải nói đến nhân vật, tuyển tập có nhiều nhân vật đã để lại ấn tượng sâu đậm, thậm chí ám ảnh trong lòng người đọc. Trong tiểu thuyết “Tấn công”  có cả một tập thể anh hùng ở một khu du kích sát đường 5 năm 1957. Nổi bật là nhân vật chính trị viên tiểu đoàn trưởng đã hy sinh anh dũng. Anh như “một tia chớp sáng lòa rực rỡ”, và “Bây giờ ngôi mộ của anh đầy hoa, những bông hoa của vườn cây và đồng nội”.
Trong tiểu thuyết ‘’Bông cúc trắng’’ của tác giả Nguyễn Thị Bích có một nhân vật gây ấn tượng đó là nữ anh hùng liệt sĩ Bùi Thị Cúc- người ở ngoài đời đã được Bác Hồ truy tặng danh hiệu “Sống anh dũng, chết vẻ vang”. Người nữ du kích ấy bị giặc hành hình khi mới tròn hai mươi tuổi. Hình ảnh người nữ anh hùng trong phút cuối cùng của đời mình đầy bi tráng đã làm xúc động người đọc: “ Người con gái đứng dựa lưng vào thành hố, đầu ngả ra bờ đất mới đào nham nhở, hăng nồng hơi cỏ dập nát, đôi mắt vẫn mở trừng trừng nhìn lên bầu trời cao rộng mà như nhìn đôi cánh tay mình còn treo lơ lửng trên cột…”
Rồi hình ảnh cô thanh niên xung phong phá bom trong truyện ngắn ‘’Nữ thần chiến thắng’’ của tác giả Văn Duy: “Một cô gái gầy nhom, trần như nhộng, đầu bịt khăn đỏ, tay giơ cái bộ phận gây nổ, tròn như ống cân đong gạo…nhảy lên bờ hố gào to: Chúng bay ơi, thắng rồi, thắng rồi”. Người cô trần như nhộng bởi trước khi nhảy xuống hố bom làm nhiệm vụ, cô đã cởi hết để lại cho đồng đội xấp quần áo với tờ giấy nguệch ngoạc mấy chữ: “Nếu tao bị, cho cái Liên quần con, áo con, tặng chị Hạ chiếc quần to. Còn cái áo cho con Tí. Chào”. Cô gái đó đã bước vào cái chết thật nhẹ nhàng. Cảm phục thay mà cũng xót xa, thương cảm thay. Tuyển tập đã có bao truyện làm lay động tâm cam người đọc như thế.
Rồi những con đường ra chiến trường sau nhiều trận oanh tạc hủy diệt của B52 “đã biến thành sa mạc chỉ có đất cát tời bời, những gốc cây bật trơ và đá ngổn ngang, không một ngọn cỏ, không một lá cây”.
Rồi khung cảnh tuyến lửa những năm 70 của thế kỉ trước thật náo nức: “Dọc đường không biết bao nhiêu là văn công, họa sĩ, cán bộ tuyên truyền, đơn vị bộ binh, công binh, pháo binh, xăng dầu, thanh niên xung phong, nườm nượp vào Nam”.
Chiến trường đã mang hai vẻ mặt đối lập: vừa “bi” vừa “tráng”.
Về cảm hứng thế sự, đời tư
Với hơn 400 trang viết của 32 tác giả, Hợp tuyển “Văn xuôi Hải Dương viết về chiến tranh cách mạng” đã phản ảnh chân thực, sinh động, cảm động về hiện thực chiến tranh cách mạng của đất nước và tỉnh nhà.
Chiến tranh kết thúc, hòa bình trở lại, nhưng cuộc sống thời hậu chiến đâu phải chỉ có niềm vui. Bao “nỗi buồn chiến tranh” như một di chứng để lại với những người sống.
Truyện ‘’Góc khuất chiến tranh’’ của tác giả Nguyễn Thanh Cải đã viết về những cuộc ngóng đợi, kiếm tìm những người con, người chồng đi lính không trở về. Ở truyện có hình ảnh cô Xuân – vợ liệt sĩ “bền bỉ với cuộc hành trình Tây Nguyên, Lâm Đồng, Minh Hải, Kiên Giang, Côn Đảo, không quản ngại nơi chân trời góc bể…” để tìm chồng. Trớ trêu thay, người lính đã mãi mãi không trở về nhưng con riêng của anh với một người phụ nữ khác đã có công cứu sống anh lại trở về.
Truyện “Những tán bằng lăng xanh ngắt” của tác giả Nguyễn Đình Giao (Ban Thơ) cũng là một câu chuyện cảm động thời hậu chiến. “Người lính Vị Xuyên” (Hà Giang) trước khi nhập ngũ đã để lại giọt máu của mình cho người anh yêu- một cô giáo cấp 1. Lời hứa trầu cau với cô gái ấy anh chưa thực hiện được. Rồi người mẹ đơn thân lại ra đi sau một tai nạn để lại đứa con bé bỏng côi cút. Kết thúc truyện là lời tán thán của tác giả: “Là người một nhà sao không có duyên cùng nhau hưởng phúc?…Chiến tranh đã cướp đi của mọi người nhiều quá, cả máu xương, danh dự và hạnh phúc của người lính”.
Truyện ngắn ‘’Trong một khoang tàu’’ của tác giả Lê Ngưng lại kể chuyện sáu con người trong một khoang tàu. Sáu con người, sáu số phận, sáu tính cách khác nhau, trong đó có một người đàn bà đi tìm hài cốt chồng là một người lính ở vùng cực nam Tây Ninh và một người lính trở về nhưng do hậu quả của chiến tranh nên đã bất lực trong sinh hoạt vợ chồng. Có một điểm giống nhau ở họ là: “những vết thương chiến tranh vẫn còn ngấm đau trong lòng mỗi người, nhất là những người có chồng con đã mất”.
Truyện ngắn ‘’Khúc ru vườn cũ’’ của tác giả Nguyễn Hải Yến lại là cả một nỗi đau buồn thấm thía từ cảnh vật đến cõi lòng người. Đó là nỗi buồn của người thân ra đi mãi mãi, của chờ đợi, ngóng trông, của những ước mong đến mòn mỏi: mong được gặp lại những người thân yêu đã chết trong chiến tranh, dù chỉ là một cái bóng (ma) thoáng qua. Rồi đau đáu những ước mơ hết chiến tranh, ước mơ hòa bình:” giá đừng đánh nhau…” của nhân vật. Những ước mơ ấy là tiếng nói mới mẻ, đầy nhân văn trong văn học thời hậu chiến.
Còn nhiều truyện khác như: “Ông lão và cây hương’ (Nguyễn Luận), “Mùa thu đang tới” (Đỗ Hiền Hòa), ‘’Khúc sông xưa’’ (Nguyễn Tố Hiệu), ‘’Cô Son’’ (Nguyễn Phong Sơn), ‘’Nụ hôn đầu’’ (Nguyễn Sĩ Đoàn), ‘’Thương những mùa trăng’’ (Trần Thúy Lành)…Bao nhiêu số phận khác nhau nhưng vẫn một “Nỗi buồn chiến tranh” như thế với rất nhiều nước mắt. Rõ ràng, văn xuôi Hải Dương thời hậu chiến đã cởi mở hơn khi nói về “thân phận con người”.
Nhưng sau chiến tranh không chỉ có nước mắt buồn mà còn có cả những giọt nước mắt vui: nước mắt của Bắc Nam thống nhất, của trở về, của sum họp. Rồi hòa giải dân tộc. Rồi xóa bỏ hận thù của những người thuộc chiến tuyến khác nhau. Rồi phát triển…Văn xuôi thời hậu chiến cũng có nhiều niềm vui, những bức tranh tươi sáng. Truyện ‘’Bánh đúc làng Gianh’’ (Nguyễn Thu Hằng) là câu chuyện của hóa giải hận thù giữa người chiến thắng và kẻ chiến bại. Trong truyện ‘’Người ở lại Tây Nguyên’’ (Đỗ Tuấn Tơn) có người đại đội trưởng C15 trinh sát thuở nào nay làm kinh tế giỏi trở thành tỷ phú trên đất Tây Nguyên. Bút ký ’’Nơi tận cùng của tình yêu Tổ Quốc’’ (Vũ Tuyết Mây) viết về đồn biên phòng Sì Lở Lầu ở Phong Thổ, Lai Châu. Trong chiến tranh biên giới phía Bắc, cán bộ chiến sĩ của đồn hầu như hy sinh hết, nhưng nay cũng trên mảnh đất ấy có một đồn biên phòng mới với các cán bộ, chiến sĩ hết lòng bảo vệ biên cương, canh giữ từng tấc đất nơi địa đầu Tổ Quốc.
Ký ức về “một thời đạn bom, một thời hòa bình”.
Từ xưa đến nay, văn học luôn là kho lưu giữ ký ức không chỉ của cá nhân mà còn của cả nhóm, cộng đồng, dân tộc và cả nhân loại. Có thể thấy, hợp tuyển văn xuôi này đã lưu giữ một phần ký ức của người Hải Dương mà khi đọc độc giả Hải Dương không khỏi trân trọng và biết ơn.
Đó là đường 5 anh hùng thời kỳ chống Pháp trong tiểu thuyết ‘’Tấn công’’ tác giả Phù Thăng; là câu chuyện về ‘’Đêm trước 30.10.1954 – ngày giải phóng thị xã Hải Dương’’ của tác giả Nguyễn Thế Trường; là một thị xã Hải Dương “cổ bình yên có từ gần hai trăm năm trước” trong truyện ngắn ‘’Nụ hôn đầu’’ của tác giả Nguyễn Sĩ Đoàn; là cầu Lai Vu, cầu Phú Lương, cầu phao ở xã Cộng Hòa, Nam Sách nơi con đường 5B chạy qua năm 1967 mà máy bay Mỹ ném bom rất ác liệt trong truyện ‘’Giữ cho đường thông xe, đồng xanh lúa’’ của tác giả Hồ Duy Khuông; là cầu Ràm nơi mùa đông năm 1949 quân Pháp đánh tới trong truyện ‘’Khúc sông xưa’’ của tác giả Nguyễn Tố Hiệu, là ngã Ba Hàng, dòng Lai Vu, sông Kinh Thầy, núi đá Kinh Môn, Đông Triều trong ‘’Khúc ru vườn cũ’’ của tác giả Nguyễn Hải Yến…Tất cả, đã trở thành một phần ký ức của người dân Hải Dương trong những năm đánh thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Lời cuối: Với hơn 400 trang viết của 32 tác giả, Hợp tuyển “Văn xuôi Hải Dương viết về chiến tranh cách mạng” đã phản ảnh chân thực, sinh động, cảm động về hiện thực chiến tranh cách mạng của đất nước và tỉnh nhà. Cuốn sách không chỉ giúp người đọc tăng thêm nhận thức về lịch sử hào hùng nhưng cũng rất bi thương của dân tộc mà còn giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trân trọng biết ơn sự hy sinh của các thế hệ đi trước với thế hệ trẻ ngày nay. Đó là giá trị đáng quý của Hợp tuyển.
10/4/2025
Nguyễn Thị Lan
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...