Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

"Sóng gió" nơi biên ải trong tiểu thuyết của Võ Bá Cường

"Sóng gió" nơi biên ải
trong tiểu thuyết của Võ Bá Cường

Quá bất ngờ khi nghe tin nhà văn Võ Bá Cường qua đời ngày 12.4.2025 ở quê nhà Thái Bình. Tôi cũng mới quen Võ Bá Cường, nhưng sau vụ ra cuốn sách về Nguyễn Du (có lẽ là “cái dại” cuối đời của Võ Bá Cường), hình như nhiều người đánh giá không đúng về ông. Tôi gửi bài này đến Vanvn.vn như nén hương tiễn đưa bạn văn và giúp bạn đọc phần nào hiểu hơn về những đóng góp ý nghĩa của Võ Bá Cường cho văn học. (Nguyễn Khắc Phê)
Nhà văn Võ Bá Cường (VBC) người từng có nhiều tác phẩm được giải thưởng của Bộ Công An, Bộ đội Biên phòng, Hội Liên hiệp văn học Nghệ thuật Việt Nam…, trước thềm năm mới 2021, tròn 80 tuổi xuân, đoạt liền hai giải thưởng sang trọng của Hội Nhà văn Việt Nam.“Gió Thượng Phùng” (NXB Hội Nhà văn, 2018) đạt giải cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 5 (2016-2020) và “Sóng Cửa Đại” (NXB Hội Nhà văn, 2020) đạt “Giải thưởng Văn học về biên giới và hải đảo” (Tổng kết những sáng tác về đề tài này từ sau 1975 đến 2020).
Không hẳn tác phẩm đạt giải đều hay, nhưng cả hai tiểu thuyết của VBC rất đáng đọc, không chỉ vì cả hai tác phẩm đều thuộc đề tài “nhạy cảm” và có thể nói là “hiểm hóc” nữa. Chúng ta đều hiểu, trong văn chương, đề tài không làm nên giá trị tác phẩm, nhưng thật đáng nể trọng trước công sức một nhà văn cao niên đã thâm nhập thực tế tại những vùng biên ải xa xôi và hiểm trở một cách sâu sắc đến mức tưởng như VBC là người dân tộc Mông ở đỉnh cao Thượng Phùng (Hà Giang) đồng thời là con em lớp người “cố thổ” có công khai phá vùng biển đảo phía Bắc. Hơn thế, với một đề tài “nhạy cảm”, VBC, trong khi không né tránh những sự kiện đau thương do bọn “bành trướng” đã tàn nhẫn gây ra trên 6 tỉnh biên giới phía Bắc vào mùa Xuân 1979, đã chọn được “điểm nhìn” đậm tính nhân văn cao đẹp tương xứng với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người – những chủ nhân các vùng biên ải, thành trì vững chắc bảo vệ Tổ quốc trước mọi kẻ thù…
Đặt tên cả hai tác phẩm đều là địa danh gắn với hiện tượng thiên nhiên (Sóng và Gió) biểu hiện vẻ đẹp mà cũng là sức mạnh của trời đất, tác giả không chỉ gợi chúng ta nghĩ đến những gian lao, nguy hiểm mà nhân dân và chiến sĩ ở nơi đầu sóng ngọn gió phải hứng chịu, mà hướng tâm trí người đọc nghĩ đến Tổ quốc với tình yêu và cả thao thức ở một chiều kích cao cả, vượt trên những va chạm, giành giật nhiều khi là nhỏ nhặt trong cuộc sống trần gian…
Hẳn là với ý tưởng và cách nhìn như thế, cuốn tiểu thuyết có đề tài phản ánh cuộc chiến đấu khốc liệt bảo vệ biên giới phía Bắc mở đầu ngày 17/2/1979, nhưng VBC không trực tiếp miêu tả hoạt động của bộ Tổng chỉ huy, những trung đoàn với vũ khí hiện đại đã tung ra các đòn phản kích có tính chiến lược buộc bọn “bành trướng” rút quân, cũng không chọn Vị Xuyên là nơi pháo địch cày xới ngày đêm thành “lò vôi thế kỉ” rồi “Hang dơi Thanh Thủy vùng biên máu/ Đồng đội nằm đây ta chớ quên” – các địa danh đẫm máu đồng bào và chiến sĩ Việt Nam, mấy năm gần đây đã được sách báo nói đến khá nhiều; mà chọn điểm cao Thượng Phùng hầu như không được truyền thông nhắc đến, với các nhân vật chủ yếu là những cụ già, bà mẹ, những cô gái, chàng trai thô sơ, hiền lành thuộc các dân tộc ít người ở vùng núi cao phía Bắc, chỉ có chức vụ duy nhất là NHÂN DÂN, với vũ khí hết sức thô sơ, nhưng lại có điểm tựa là tinh thần bất khuất và núi non kỳ vĩ không thế lực nào đánh gục được!
Thượng Phùng là vùng địa đầu tỉnh Hà Giang, nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Mông. Để có “vốn” viết nên “Gió Thượng Phùng”, trong “Lời thưa” cùng bạn đọc đầu sách, VBC viết:
“…Tôi đã đặt chân đến hơn chục đồn Biên phòng trong sáu tỉnh. Đường đi khó khăn, xa xôi nhất là Xí Mần – Săm Pun tới Bản Dốc, Pò Hèn… Những tư liệu có được đều tham khảo qua các trang sử Đồn Biên, qua chuyện kể người thật, việc thật. Họ đã từng sống và chiến đấu ở Thượng Phùng (Mèo Vạc) 1978-1990 … đã được gặp con gái Chảo A Nghì (ông là người đứng đầu xã Thượng Phùng, bị “người hàng xóm” hạ thủ năm 1979) hiện cô là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân xã Thượng Phùng, cùng mẹ đẻ cô đã cho tôi biết bao chuyện ly kỳ, bí ẩn, hấp dẫn …Tôi đã có nhiều cuộc “cắm bản” trên Cao nguyên đá…”
Cũng trong “Lời thưa” VBC đã “công khai” ý tưởng thể hiện tính nhân văn, triết lý “hòa hiếu liên bang” của dân tộc Việt qua những trang viết về cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt vốn được xem là “nhạy cảm”. Không phải nhà văn nào cũng thực hiện được ý tưởng tốt đẹp ban đầu. Nhờ bỏ nhiều công sức đi sâu khai thác tư liệu và vốn văn hoá tích lũy nhiều năm công tác ở vùng biển đảo phía Bắc, với kinh nghiệm một tiểu thuyết gia từng có không ít thành tựu, ngay từ mấy chương đầu, VBC đã cuốn độc giả theo từng dòng chữ. Tác giả dẫn chúng ta đến cội nguồn sinh thành nên từng hòn đá, gốc cây, tiếng khèn, màu hoa… cho đến tình nhân ái hòa hợp giữa các dân tộc… nghĩa là những gì có thể gọi là văn hoá, là hồn thiêng sông núi thấm đẫm trên mỗi tấc đất của Tổ quốc. Tất cả, được tác giả “dựng” trên một khung cảnh thật độc đáo:
“Chân núi Sư Tử Sơn, dưới chân ngọn Linh – Xáng Cá có hai mỏm đất như hai răng con ngựa chọc lên trời, chia đôi dãy Sư Tử, tạo thành đường biên giữa hai nước.
Bên kia là thành phố Điền Hòa nước bạn, bên này đất Thượng Phùng  của người Mông nước Việt. Miền biên ải mọc ra hai xóm cách nhau một con suối nhỏ… Nhà cửa đôi bên xoắn bện nương tựa vào nhau như chiếc vỏ đỗ, nhấp nhô cao thấp chạy theo vách đá…”
Xóm Răng Ngựa nước bạn phía đầu suối, gồm hầu hết những người từ Điền Hòa chạy tới lánh nạn thời “Cách mạng văn hoá”. Cuối suối là xóm Mỏ Phàng có mươi nhà người Mông, trong đó có Chảo A Nghì, tuy chẳng ai bầu lên giữ chức vị gì, nhưng được xem như “người đại diện.”  
“Tối đến, người già dắt trẻ con hai xóm sang nhà nhau chơi hoặc ra đầu núi hóng gió….Dân chúng hai nước coi nhau như một, như cây hoa đào mọc ở đầu dốc, nó không có biên giới, không quốc tịch, chung màu sắc và hương vị…”
Trong bối cảnh ấy, VBC đã xây dựng nên một truyện tình đẹp như cổ tích nhưng kết cục lại bi thảm vì sự phản bội của “người hàng xóm”. Chàng trai là Lý Chi, con họ Lý bên xóm Răng Ngựa, cô gái là Máy Mì con của Chảo A Nghì và là em của A Thàng người Mông đất Việt. Tên Lý Chi lại có xuất xứ từ một truyện cổ: Phía tây nam Sư Tử Sơn có “đôi vợ chồng mãi không sinh được mụn con, sau ông bắt vợ hàng ngày tắm nước suối Linh, ngủ đệm cỏ chi. Da bà ngày một đẹp lên, tóc xanh lên. Đôi mắt nhìn mây trời  nhìn cây núi cứ như cười nói với nhau vậy. Cuối năm bà “tẻ” được đứa con gái, người đẹp như hoa cỏ…” Vợ họ Lý, sau khi sinh Lý Tủa rồi “gày như con ngựa đực… Từ đó cái của “pà” điếc. Năm nay nhờ ngủ ổ cỏ chi…da “pà” trắng ra, thơm ra, cái bụng không “điếc” nữa… Lý Chi được mang tên cỏ chi là thế…” Họ Lý quý nó hơn vàng, còn Chảo A Nghì quý A Thàng hơn hoa tam giác mạch. Có khi ông đặt hai đứa lên hai đùi rung lắc thích thú… Khi lớn lên, có ngày Lý Chi cùng A Thàng cưỡi ngựa vào núi tìm cỏ linh chi, nghe A Thàng thổi sáo. “Những ngọn gió kỳ lạ thổi từ khe ra, đập vào vách núi tạo thành điệu nhạc du dương hòa vào tiếng sáo… Đi lại bãi cỏ chi, hai đứa gặp một vài cây đá hình hài không giống nhau, tự động xếp thành hàng dọc, có cây tuyết phủ trắng…Lý Chi bảo: “Đó là chiếc cầu mây bắc lên trời”… Hai đứa đi vòng vo theo gió thổi… Đứng đó nhìn ra bốn mặt đẹp như động tiên cô…”
Đọc những trang văn của VBC, chợt nhớ đến thủ pháp nghệ thuật “lạ hóa” của nhà văn đoạt giải Nô-ben Mạc Ngôn; nhưng Mạc Ngôn “lạ hóa” thường là do cường điệu; còn VBC “lạ hóa” chính từ sự kỳ vĩ của bản thân cuộc sống nơi vùng biên ải mà nhà văn “chưng cất” lên.
Giữa không gian như huyền thoại ấy, hai đứa hồi tưởng và kể cho nhau nghe những chuyện “đời xưa”. Chuyện mấy trăm năm trước, “bọn mặc áo Tà Pủ, đội mũ “cát két” đen tràn vào nước Việt… Cuộc chiến diễn ra thật khốc liệt ở Mã Pì Lèng. Một ngày sau, ngựa hết cỏ, người hết lương. Binh lính đôi bên buông súng ngồi thở… Tự đâu, tiếng khèn Mông nổi lên… Ba mươi sáu bài khèn thổi giữa canh khuya. Nó là tiếng lâm khốc (rừng khóc) bi ai não nề thổi vào lòng tướng lĩnh gợi nỗi xa nhà… Họ bảo nhau vất ngựa, bỏ trốn khỏi trận địa, chen chúc vượt sông Nho Quế về đất Sư Tử Sơn khiến xác chết đầy đường, nghẽn sông… Rồi A Thàng ngân nga: “Sư Tử Sơn, Sư Tử Sơn / Hỏi người thiếu phụ đêm trường lạnh không? / Sa trường kiếm kích binh nhung / Mẹ già, con dại xem chừng đợi ai?”…”
Hẳn là những câu chuyện xưa như thế đã ngấm dần vào tâm trí Lý Chi, giúp anh “ngộ” ra sự phi lý của cuộc chiến tranh phi nghĩa đang đến gần. Đó là một ngày “người hai xóm gặp nhau thờ ơ, lánh mặt. Dân xóm Răng Ngựa ít sang Mỏ Phàng xay nhờ ngô làm mèn mén…” Rồi Lý Chi cùng một số trai tráng ở xóm Răng Ngựa bị đưa về trại huấn luyện đặc biệt ở Điền Hòa. Bốn năm anh rèn tập dưới trướng đại tá Voòng Xình cũng là thời gian Máy Mì xuống Hà Nội học sư phạm. Theo lệnh những kẻ tự xưng là “con trời”, muốn làm chủ thiên hạ mà trực tiếp là chú Lưu Văn Lèng, Lý Chi trở lại thăm bạn và người yêu ở Mỏ Phàng với nhiệm vụ… tình báo! Mặc dù bị giám sát chặt, nhưng làm sao anh có thể làm hại những người xóm Mỏ Phàng khi họ từng lo chôn cất chu đáo cho chính người vợ của Lưu Văn Lèng khi chị lạc vào rừng bị sói ăn thịt, khi các gia đình ở hai xóm đôi bên đường biên từng thân thiện với nhau như anh em và nhất là còn Máy Mì đó. Cô “tựa lưng vào bờ tường đá, trong lúc ánh nắng chiều  trên đỉnh núi còn le lói… Lý Chi đến cạnh nàng, gọi tên nàng một cách âu yếm…”
Nhưng rồi cũng đến ngày tiếng súng thay tiếng sáo, tiếng khèn du dương! Người “hàng xóm” bị kẻ xấu xúi giục đã bắn chết Chảo A Nghì do biết ông là vật cản để chúng đòi lại đất Thượng Phùng. Còn đại tá Voòng Xình thì trắng trợn tuyên bố: “Tôi sẽ không để một  làng bản, xóm thôn nhỏ nào ở biên giới Nàm Việt tồn tại. Phải đánh chúng nó vào lúc chưa ngủ dậy, còn mơ hồ, chưa hiểu vì sao bạn trở thành thù…”
Thế là cùng với vùng biên 6 tỉnh phía Bắc, “Bầu trời Thượng Phùng hôm nay tím tái bởi hỏa lực pháo binh dồn dập nổ rền trên không trung. Mảnh pháo như cắt ngang dọc màn mây bạc, gây cho người ta một cảm giác kinh hoàng…” Cuộc chiến kéo dài, rồi cũng phải điều quân chủ lực đánh Pôn Pốt từ miền Nam ra. “Từ khắp các cánh rừng, núi cao Thượng Phùng, pháo của ta  bắt đầu khạc lửa. Từ điểm cao, pháo nện quả nào trúng quả đó…” Tuy vậy, VBC không tập trung vào cuộc đấu pháo của quân chủ lực mà cuốn bạn đọc vào trận đánh kỳ lạ đầy mưu trí, lừa đội quân tham ăn đông đặc của đối phương vào “bẫy đá” khe Hà Sò mà “chủ tướng” là A Thàng! Một trận đánh gợi nhớ đến anh hùng Núp ở Tây Nguyên mấy chục năm trước! Vị tướng “quét Pôn Pốt vừa xong, chưa kịp vất ba lô xuống đầu giường bà ấy, ông Lê Duẩn gọi ra…để đánh bọn “bành trướng”,  từ Hà Nội lên, nghe báo cáo đã “vỗ đùi reo lên nói: “Còn mạnh hơn cả súng đạn và lửa cháy, để bảo vệ Tổ Quốc”. ….
Vào lúc quân ta “phản công yếu ớt” thực hiện kế dụ địch tương tự của Trần Hưng Đạo ở sông Bạch Đằng, “Quân hùng tướng mạnh người hàng xóm tràn lên dông đồi như nước vỡ bờ…” Và tức thì, đội mã chiến với những chàng trai Mông chít khăn trắng, in chữ Mông “Trả máu”, như cơn lốc của “Nhà Trời”, xả AK bắn nát cả một cánh quân; rồi những đứa con gái “Nhà Trời” xuất hiện ở dốc Chuồn Tay và những hang hốc chỉ có họ biết, với cung nỏ và cách ném đá mà ông cha người Mông săn thú thành thạo trăm ngàn năm nay khiến bọn giặc như thác nước xô xuống khe Hà Sò đã gài đầy những đá thò, chông thụt, không tiếng kèn nào ngăn nổi. Trong trận chiến kỳ lạ này, chính Máy Mì đã có dịp đối đầu với Voòng Xình, với “một hòn đá sắc cạnh ném vào gối trên con ngựa “Quan lớn”. Nó rú lên một tiếng. Quỵ hẳn. Lại một viên đá tiếp theo vào cánh tay phải của “Quan lớn”. Khẩu súng trong tay văng ra…”
Cái đẹp của chiến thắng trong “Gió Thượng Phùng” là bà con người Mông và chiến sĩ ta đã đối xử nhân đạo với tù binh, cứu chữa thương binh đối phương. Thế nhưng chính vào lúc Chính phủ Việt Nam ra lệnh Tổng động viên và bọn “bành trướng” huyênh hoang “Chúng ta đã dạy cho họ bài học. Chúng ta đã chiến thắng và bắt đầu rút quân”, thì Lưu Văn Lèng và đại úy Lô bắt Lý Chi dẫn đường với cả đoàn binh lính sang Thượng Phùng vừa đe dọa, vừa đấu lý để đòi lấn đất. Trong cuộc đấu tranh mới này, mặc cho cụ Dống Sò như một “già làng” thay mặt dân Thượng Phùng hết lời bày tỏ điều hơn lẽ thiệt, mặc cho hàng loạt cờ Tổ Quốc dựng thành biên giới, bọn cướp đất vẫn khởi sự bằng việc buộc Lý Chi khai hỏa vào chính A Thàng. Nhưng anh đã chống lệnh và “Lưu Văn Lèng nổ hai phát súng liền vào sau lưng Lý Chi” và lập tức “một hòn đá sáu cạnh vung lên vào giữa mặt Lèng… Đại úy Lô đã nã một băng đạn vào người A Thàng… Máy Mì không kể gì sống chết, cho ngựa vòng qua chỗ Lý Chi và A Thàng. Không khí đôi bên đều sôi sục vì cái chết oan ức của hai đứa trẻ hai nhà…”
Hình ảnh tác giả miêu tả cuối tác phẩm là cảnh Máy Mì cầm tấm vải lanh “xé ra từng đoạn, phủ lên người Lý Chi và A Thàng. Cả vùng đất phủ màu trắng trên mái tóc của các mẹ hai dân tộc…” Và Máy Mì giơ tay ôm lấy người mẹ mù lòa của Lý Chi, “kéo tấm khăn lanh trắng quàng sang cổ mẹ. Người mẹ xóm Răng Ngựa bảo: – Hình như mẹ ngửi thấy mùi thơm của nắng mới trong chiếc khăn…”
Đọc “Gió Thượng Phùng”, phóng viên Tạp chí “Văn nghệ quân đội” trong cuộc trò chuyện với VBC đã đặt vấn đề, tác giả “mong muốn một sự hòa hiếu, tôn trọng đạo lí của hai bên. Nhưng với những gì diễn ra trên thực tế, liệu những “khát vọng” đó có cơ hội hiện thực hóa không thưa ông?” Một câu hỏi không dễ trả lời. Chỉ có thể tỉnh táo nhìn thẳng “những gì đang diễn ra” và thời gian sẽ cho chúng ta biết “lời giải” cuối cùng …
Với vốn sống bám trụ vùng biển đảo phía Bắc hơn chục năm, VBC đã viết “Sóng Cửa Đại” như một “người trong cuộc”. Có thể tác phẩm “Sóng Cửa Đại” là một cách VBC cho chúng ta biết “những gì đang diễn ra” nơi “đầu sóng ngọn gió” trong cuộc chiến đấu mới bảo vệ biên giới và biển đảo của Tổ Quốc.
Cũng như “Gió Thượng Phùng”, VBC “tiếp cận” đề tải biển đảo từ góc nhìn văn hoá – lịch sử đậm tính nhân văn. Do đó, trong Phần I, tác giả tái hiện chuyện những cư dân đầu tiên khai phá vùng đảo phía Bắc – mà trung tâm là đảo Hòn Lợn – với những sự tích như là huyền thoại dữ dội, đẹp đẽ, khi chàng Chu – thủ lĩnh tốp người đầu tiên đi tìm mộ tổ và khai phá Hòn Lợn.
“Một rạn đá đen ngòm lởm chởm như lưng chú cá mập. Nơi đó, chưa in dấu chân người. Lưng chừng nó gồ lên  như một đường cong cắm đầy vẩy hà trắng bạc, lẫn trong sóng mù khơi…
Tiếp theo đó bãi cát mỏng vàng xuộm rồi đến dãy Hòn Chồng. Đá chồng đá lì lợm, vô  ngôn, thách thức… Vách đá là tiếng chim, tiếng rít của chú kì đà, chú khỉ đỏ đuôi, nghịch ngợm quăng mình từ cành nọ sang cành kia hái quả…”
Anh thanh niên họ Chu dẫn đoàn người lên đảo trong khung cảnh đó. “Nhà dân cố thổ đã mở toang cửa đón họ, đêm đêm thơm mùi đóm cây ké. Ánh lửa bùng sáng, trai gái cũ mới quen nhau dưới rừng thông…” Chàng đã tìm được mộ tổ, coi Hòn Lợn như quê hương và cuộc sống cứ thế sinh sôi. Rồi một ngày họ tìm ra kho vũ khí ông bà trong một hang đá nằm trên đồi vọng cảnh nhìn ra Cửa Đại. Trận đánh hào hùng ngày xưa với “thằng hàng xóm ti tiện bất nhân” được gợi lại như sự tiên báo cuộc chiến mới đầy gian nguy, phức tạp sớm muộn sẽ diễn ra.
Nhưng cuộc sống biển đảo không chỉ phải đối phó với kẻ xấu xâm nhập quấy rối mà mỗi con thuyền, mỗi hàng cây, mái nhà luôn đứng trước sự đe dọa của sóng thần, bão tố. Trưởng đảo họ Chu vừa tìm được bạn đời – cô gái mù Huyền Nhiên xinh đẹp, hát hay trong một nhóm dân cư dạt vào đảo sau một trận bão, thì chính chàng cùng hơn chục trai tráng trên đảo ra biển gặp bão lớn rồi không trở về. “…Trời tối sẫm lại, gió càng lớn. Nhìn ra biển đen như mực… Tuy mắt nàng không nhìn thấy nhưng vẫn cảm nhận được đảo Hòn Lợn tan hoang sau bão…”
Mối tình đẹp rồi vụt tắt như ánh sao băng của chàng Chu và Huyền Nhiên như là một thông điệp về sự cao quý và mong manh của mọi giá trị vật chất và tinh thần được kiến tạo nên trên biển đảo Tổ Quốc; cũng có nghĩa dân tộc ta đã và sẽ phải trả một giá đắt mới giữ được vùng biển đảo mà tạo hóa ban tặng để không ngừng bồi đắp, vun xới cho nó sinh sôi, kết quả.
Kế nghiệp trưởng đảo họ Chu, chàng trai Chu Đức sau 5 năm vào đất liền học tập, trở lại đảo, đã lãnh đạo bà con mở trường học, xây dựng lại cuộc sống bình yên… Nào ngờ, sau ván cờ tranh hùng giữa “Mao” và “Tưởng”, tiếp theo là bạo loạn “Cách mạng văn hoá”, “gần một tỉ dân Trung Quốc chọi nhau, biết bao nhà phải li tán, dạt dẹo sang các nước láng giềng kiếm ăn….” Thế là “dân đảo lúc nào cũng nơm nớp lo sợ những trận cuồng phong khác… Đó là những con người từ đâu gom tới đã mang đến đảo đủ bệnh hoạn, bài bạc, hút xách, chơi bời… Con đường đất phố Cụt Hòn Lợn, người Tàu dận giày vải, tai đeo vòng… Lúc nào cũng vang lên dọc phố Lốc bổng xoèng, Lốc bổng xoèng… Bão người gây ra mới  đáng sợ…”
Trong nhóm người Tàu ấy, Lý Cố “tuổi gần tứ tuần. Áo quần “tơ tuốt, ăn nói nhẹ nhàng, làm nghề viết thư thuê cho những người Tàu không biết chữ… Lý Cố được cấp trên chỉ đạo cắm sâu vào tuyến đảo nước Việt, càng sâu càng tốt. Kể cả quan hệ máu thịt cũng không sao…” Và hắn đã chọn được cô Gáo – chồng cô tử nạn trên biển cùng chàng Chu trong cơn cuồng phong năm nào. Đến khi gieo được “giống” trong bụng Gáo, hắn mới tiết lộ phải lấy cô gái quê Phúc Kiến vừa sang đất Việt, bảo Gáo “bỏ” đứa bé đi, nhưng cô tâm sự với chị Huyền Nhiên: “Em phải được làm mẹ, phải được có con như chị, để sau này nhờ cậy nó. Con em sẽ là cây thông trên đảo. Em nuôi dạy nó thành người tử tế, trả mối hận này ”. Rút cục Lý Cố thua cuộc trước người mẹ bản lĩnh đảo Hòn Lợn; hắn chưa làm nên sự tích gì thì đã bị cách đối đãi đậm tình nghĩa của dân đảo thuyết phục khi Gáo đưa con trai Lý Rằm đến nhận bố Lý Cố và chào bố để vào đất liền học trường nội trú. Gáo không thèm tranh chồng với cô gái Phúc Kiến, bảo con đến chào dì… Khi Lý Cố đổ bệnh rồi qua đời, Gáo và Lý Rằm nghỉ học về lo mọi sự chu đáo, khiến lão ngộ ra mình đã mang tội với đất Việt… 
Hẳn là VBC muốn tiếp tục ý tưởng đề cao tính nhân văn làm nên sức mạnh Việt Nam thông qua câu chuyện gia đình “xuyên biên giới” sắc tộc này. Cũng với tinh thần này, có chuyện một chiến sĩ bộ đội biên phòng ghé quán cắt tóc của chú Voòng mới học việc, càng sửa càng hỏng, “Ngổ không “nám” lấy tiền”; thế mà sau chuyền công tác vào Hòn Gai, anh đã “mua cho chú bộ Tông đơ Pháp hẳn hoi”…
Nhưng cây hòa hiếu biên giới chỉ kết quả khi cả hai bên có thành tâm. Trong đám tang Lý Cố, nghe có tiếng chê trách lão ăn ở hai lòng, Chu Đức nói: “Con chuột đào lỗ tới đâu, bị nước Việt lấp tới đó…Chết là hết, mọi người đừng nhắc tới chuyện xấu của lão khiến mẹ con Lý Rằm thêm đau khổ. Tha thứ, tha thứ tất cả. Cảnh giác, hai chữ đó luôn bỏ túi khi ở chung với anh hàng xóm ti tiện”.
Tác giả đã báo hiệu cuộc chiến đấu quyết liệt trong Phần 2 như thế. Cuộc chiến đấu mới không phải với các sư đoàn cùng xe tăng, đại pháo mà với bàn tay khôn khéo, kín đáo của “ông hàng xóm” tuồn đô la, gái đẹp nuôi dưỡng những băng “xã hội đen”, vu oan lớp cán bộ từng chiến đấu anh dũng thời chiến tranh như cô Chén khiến cô phải tự tử, mồi chài, lôi cuốn được cả từ Trưởng Đồn Công An cho đến Chủ tịch Tỉnh và đến tận các ban, ngành Trung ương, mượn tay những kẻ đầu cơ địa ốc, mở các khu nghỉ dưỡng, giải trí, cờ bạc, không chỉ để dần chiếm những vị trí đẹp nhất, giàu tài nguyên trên vùng biển đảo phía Bắc mà làm tha hóa con người và nhiều mặt đời sống của xã hội chúng ta.
Trong “Gió Thượng Phùng”, tác giả cũng đã hé mở mưu đồ thâm hiểm của “người hàng xóm” bằng “biên giới thủng”. Trước trận chiến khai mở tháng 2/1979, “già làng” Dống Sò đã chỉ cho mọi người biết: “Chỗ này có ông lớn đứng sau, cho mở đường qua biên giới. Hàng ngày, xe tải của mấy tay doanh nghiệp rùng rùng chở quặng, kim loại quý đổ sang nhà họ… Cái đau là ở chỗ đó…” Nhưng đến “Sóng Cửa Đại” thì chúng âm thầm xuyên biên giới vô hình bằng tiền, vàng và gái đẹp.  
Với chiến thuật “tằm ăn lá dâu”, sau hàng chục năm, đảo Hòn Lợn cùng với nhiều hòn đảo nhỏ đã có khuôn mặt khác hẳn. Khi điện lưới từ đất liền theo cáp ngầm ra đảo, cũng là lúc những con người có công mở đất “trồng phi lau, trồng cây mắm, cây vẹt ngăn sóng ở Hòn Lợn đều dời đi nhường chỗ cho các công trường xây dựng đường sá, khách sạn… Ông chủ từ đất liền mang vàng và tiền…Còn dân đảo Hòn Lợn thành người bốc vác, làm thuê… Những ông chủ mới thi nhau  xẻ thịt banh da đất đảo…”
Những người như Huyền Nhiên, Chu Đức. Lý Rằm… thấy rõ điều đó, nhưng “ông chủ” thực sự lại giấu mặt điều khiển từ xa và thế lực đồng tiền có sức biến Trần Hồng – Phó Bí thư, Chủ tịch Đảo thành tay sai, lại khéo núp chiêu bài “Đổi Mới”, họp Đảo ủy “thường lấn lời Chu Đức: “Phải cẩn thận không mắc bệnh bảo thủ trì trệ, phải “Đổi mới” toàn diện kể cả tư duy và hành động”. Trớ trêu thay, Chủ tịch Trần Hồng là cháu ruột của Trần Hà, đương chức Phó Bí thư Tỉnh, người từng về xây dựng đảo buổi ban đầu khó khăn, nên quyền uy tiếng nói của ông ta lấn át lẽ phải!
Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, những con người đã đổ biết bao mồ hôi xương máu khai phá đảo Hòn Lợn và những đảng viên trung kiên, bất chấp sự đe dọa của bọn “xã hội đen”, đã mạnh mẽ lên tiếng tố cáo và sau hai đoàn thanh tra, vụ án thật sự thượng tôn luật pháp và công lý đã được khai mở…
Chúng ta từng được biết, vừa qua nhiều vụ án đã khởi tố các quan chức cấp cao, kể cả Bộ trưởng, tướng lĩnh. Có lẽ điều đó đã giúp VBC mạnh tay thể hiện sự tha hóa của nhiều cán bộ thuộc hạng VIP trên vùng biển đảo phía Bắc; chỉ khác, trong “Sóng Cửa Đại”, tác giả chỉ rõ kẻ “hàng xóm giấu mặt” Lâm Chín, Thiết Vân được giật dây từ xa… Do Chủ tịch huyện đảo Trần Hồng và Trưởng Công an bị bọn xấu mua chuộc, đoàn thanh tra do Phó Bí thư Tỉnh ủy Trần Hà về Hòn Lợn đã phải “tạm trú” tại đồn biên phòng để bảo đảm an toàn…
Bọn Lâm Chín-Thiết Vân, tưởng đã điều khiển được Trưởng Công an và Chủ tịch huyện đảo, cho bọn “xã hội đen” đến ám sát cô Lãm là Trưởng Đoàn Thanh tra đợt I đang phải điều trị tại Bệnh xá Đồn Biên phòng, nhưng chúng không biết thiếu tướng Hà Sàm, Giám đốc Công an Tỉnh, từng bám trụ đảo Hòn Lợn trước đây, nay với nghiệp vụ và công nghệ hiện đại và nhờ tai mắt nhân dân, đã biết rõ âm mưu của chúng, cứu được cô Lãm, thu giữ mọi chứng cứ; chúng cũng không biết Trần Hà khi trở lại đảo cùng cô Lãm, được nghe tiếng nói trực tiếp của người dân, được bà con đón tiếp hồn nhiên, nồng ấm, gợi ông nhớ lại một thời bám trụ vùng đảo, “nhớ vị khoai lang trong núi Tì Mỏm Vàn nấu với gạo nương do cô Hiên chăm chút” ông đã dần thoát khỏi mê mụ trong ốc đảo quyền uy không nghe được “Tiếng Dân”. Và khi được các đồng chí cùng cấp chỉ rõ những tội ác bọn xấu đã núp bóng Trần Hồng tác oai tác quái trên đảo ra sao, ông đã “tỉnh ngộ”, không bao che cho đứa cháu hư hỏng…
Công lý được thực thi, vùng đảo trở lại bình yên và những dự án phát triển hòn đảo thành một điểm du lịch-sinh thái tốt lành do chính lớp trẻ là con em của đảo chủ xướng được thực hiện, mở ra một thời kỳ mới trên vùng biển đảo phía Bắc của Tổ Quốc…
Một kết thúc “có hậu” làm nhẹ lòng người sau bao sóng gió. Có thể sẽ có bạn đọc chưa thỏa mãn, nhất là khi vùng biên ải và Biển Đông vẫn luôn “động”, ẩn chứa những cơn “sóng ngầm” khó lường và những con “cá mập” tham ăn vẫn chưa biết sợ, vẫn nuôi ảo mộng trốn thoát hoặc sẽ có kẻ gỡ khỏi “lưới” pháp luật cũng như mạng lưới “dân kiểm tra” đang không ngừng bủa vây khắp nơi. Cuộc sống là vậy; sóng yên biển lặng là nhất thời. Và tác phẩm văn học, dù bao quát đến đâu cũng chỉ là một góc nhìn, một khoảnh khắc so với lịch sử. Tuy vậy, “Sóng Cửa Đại” cũng như “Gió Thượng Phùng” của VBC đã cho chúng ta “hiểu thế nào là “biên giới thủng”, “biên giới mềm”, “biên giới cứng” … Biên giới tổ tiên ta để lại là văn hóa.” Và như thế, tác giả đã truyền cho chúng ta niềm tin và hy vọng lòng nhân ái, sự hướng thiện của con người là những “cột mốc” trường tồn, là thứ “vũ khí mềm” luôn sát cánh cùng với các chiến sĩ đang ngày đêm gìn giữ biên cương Tổ Quốc…
Trường An - Huế, 14/4/2021
Nguyễn Khắc Phê
Nguồn: Tạp chí “Nhà văn và Tác phẩm”, 2020; đã in trong tuyển tập “Phê bình ngoại hạng” - Những trang sách thức tỉnh con người – NXB Tổng hợp TPHCM, 2022
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...