Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

"Báu vật trời Nam" - Trái tim bạn đặt ở đâu thì kho báu nằm ở đó

"Báu vật trời Nam" - Trái tim bạn đặt
ở đâu thì kho báu nằm ở đó!

Với khá nhiều tập truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim đã xuất bản, gia tài văn học của Nguyễn Thị Anh Thư khá giàu có. Nhưng với tiểu thuyết “Báu vật trời Nam – bên kia thế giới”, nhà văn đã có bước tiến mới trong hành trình sáng tạo của mình, với sự đổi mới thi pháp tiểu thuyết, nâng cao chất lượng nghệ thuật trong tác phẩm đặc sắc này.
Đó là sư giao thoa đặc trưng của loại hình tiểu thuyết phiêu lưu về đề tài đi tìm kho báu với tiểu thuyết thế sự đời tư về đề tài nỗi đau hậu chiến. Đó là sự kết hợp linh hoạt bút pháp hiện thực và bút pháp kì ảo. Đó là hình ảnh chiếc tù và được lặp lại trên 20 lần để trở thành một biểu tượng nghệ thuật đắt giá. Đó là sự giàu có tri thức lịch sử – văn hóa đa dân tộc cùng thông điệp về hòa hợp dân tộc…
Với những đặc sắc nghệ thuật kể trên, tiểu thuyết “Báu vật trời Nam – bên kia thế giới” đã vượt lên trên “khuôn khổ” một tiểu thuyết phiêu lưu hay, mà mở rộng phạm vi phản ánh đến những thông điệp vừa đau đớn vừa tràn đầy hi vọng.
1. Sự giao thoa đặc trưng thể loại của tiểu thuyết phiêu lưu về đề tài Đi tìm kho báu với tiểu thuyết Thế sự – Đời tư về đề tài “Nỗi đau hậu chiến”.
Loại hình tiểu thuyết phiêu lưu đã có những kiệt tác như Đảo giấu vàng, Mật mã Tây Tạng, Nhà giả kim, Dế mèn phiêu lưu kí .…. Nhìn chung, thi pháp của loại hình tiểu thuyết này có thể tóm lược như sau: – phát hiện “Mật mã chỉ đường đến kho báu” – “Quá trình giải mã khó khăn nhưng li kì” – “Hành trình nguy hiểm nhưng hấp dẫn để đi tới kho báu” – “Xâm nhập địa điểm giấu kho báu” ( hoặc thành công hoặc thất bại).
Với thi pháp cốt truyện kể trên, các tác phẩm của phương Tây phần lớn sử dụng tư duy lô gíc với sự đề cao tính duy lí. Với Báu vậy trời Nam, từ tấm da dê vẽ bản đồ cất giấu kho báu, nhà văn Anh Thư đã có sự kết hợp tuyệt vời giữa suy lí lô gíc của văn học phiêu lưu phương Tây với các yếu tố kì ảo thuộc văn hóa tâm linh Phương Đông. Sự kết hợp này tạo ra sắc thái thẩm mĩ vừa quen vừa lạ với người đọc. Nếu ban đầu hai nhân vật Mike và Robert dùng phép suy lí để tìm ra ý nghĩa tiên báo cho người số 1, số 2 cho cuộc đi tìm kho báu này, thì sau này, với sự xuất hiện của nhân vật Út, bé Nhơn, cùng các chi tiết kì ảo như chiếc tù và, bài đồng dao, Đom Đóm khổng lồ, Rồng ba đầu, mùi thơm của loài hoa lạ… Những tri thức lịch sử – văn hóa về vương quốc Phù Nam cổ, về  các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, kiến trúc, địa lí, khảo cổ… mang tính đa sắc tộc, đa quốc gia vừa góp phần “giải Mật mã” để tìm kho báu vừa tăng thêm sự li kì hấp dẫn cho tác phẩm.
Nếu chỉ có vậy thì đây đã xứng đáng là một tiểu thuyết hay trong loại hình tiếu thuyết phiêu lưu. Nhưng không, sự mở rộng “biên độ hiện thực được phản ánh” không chỉ có vai trò phù trợ cho câu chuyện đi tìm kho báu mà dẫn đến chủ đề thứ hai (tưởng phụ mà hóa chính) cho tác phẩm này. Đó là chủ đề “Nỗi đau Hậu chiến “với một số nội dung chính: – vấn đề di tản và thuyền nhân trên biển; vấn đề đi tìm hài cốt cho những người ngã xuống ở cả hai phía; vấn đề bi kịch lịch sử chuyển hoá thành bi kịch thế sự – đời tư sau chiến tranh …..
Nhân vật ông Ba mang nỗi đau tan nát gia đình, vợ và con ruột người chết, người mất tích khi vượt biên. Rời chức vụ Vụ trưởng, xin về làm Trưởng đảo, chôn cất khoảng 40 tử thi trôi dạt vào đảo, vớt rồi cửu sống Út, ông Tư, Mike và Rôbert… Đau thương mất mát mà không hận thù, vẫn yêu thương cứu vớt những người xa lạ, kể cả những người trước đây ở bên kia chiến tuyến. Đó là vẻ đẹp Nhân, Trí, Dũng của tâm hồn Việt Nam, sức mạnh Việt Nam.
Nhưng nỗi đau dai dẳng mang tính bi kich trong trái tim ông Ba là có thật. Đặc biệt là sự cự tuyệt, xua đuổi của con trai ruột với ông. Nỗi đau  của thân phận Thuyền nhân di tản có trong Út khi nhớ về chuyện thuyền gặp cướp biển, của ông Tư khi bị đẩy xuống biển trôi dạt…
Chiến tranh đã lùi xa. Tiếng vọng kinh hoàng của nó còn làm chảy máu trái tim triệu người. Chỉ có yêu thương, vị tha để hoà hợp dân tộc mới làm tiếng vọng ghê  gớm kia câm nín.
“Báu vật trời Nam – bên kia thế giới” của Nguyễn Thị Anh Thư không chỉ là một tác phẩm văn học về tình cảm gia đình, mà còn là một bức tranh sâu sắc về những mối quan hệ đầy phức tạp và cảm xúc giữa cha mẹ và con cái.
2. Sự kết hợp linh hoạt bút pháp hiện thực và bút pháp kì ảo trong tác phẩm hấp dẫn này
Sự giao thoa hòa quyện hai bút pháp nghệ thuật kể trên đã đồng hóa  Ảo – Thực, tạo ra bức tranh nghệ thuật đa sắc thái. Khi hai nhân vật Mike và Robert chuẩn bị đi tìm kho báu và chưa tới Việt Nam, bút pháp hiện thực chiếm vai trò chủ đạo trong quá trình giải Mật mã từ bản đồ vẽ trên tấm da dê, từ cảnh sắc, sinh hoạt phương Tây. Sau khi họ đến đảo Hòn Ông tại Việt Nam, gặp Út và bé Nhơn, nhận chiếc Tù và kì lạ, bút pháp kì ảo đã tái hiện một hành trình khám phá kho báu như thực như mơ, cảnh vừa trần thế vừa thần tiên: “Một hang động khổng lồ trải ra trước mắt ba người. Một thác nước lớn tỏa hơi nghi ngút (…) Đôi mắt Ngài như hai viên kim cương đen phát sáng long lanh, nhưng con mắt giữa trán Ngài thì nhắm lại như đang ngủ”… (trang 185).
Khi chuyển sang loại hình tiểu thuyết về đề tài “Nỗi đau Hậu chiến”, bút pháp hiện thực lại chiếm vai trò chủ đạo. Đây là cảnh tàu cướp biển tàn sát những người dân lành trên chiếc ghe nhỏ: “Mặt biển đen thẫm chẳng còn nhìn thấy được gì. Con tàu cướp biển bật đèn pha sáng chói (…). Những tiếng thét kinh hoàng bì biển đêm nuốt chửng”…(trang 73).
Đó là cảnh ông Ba với xác người trôi ngoài biển dạt vào đảo, chôn cất và lập bia dù không biết tên của họ ( trang 45-46),…
Nhưng không chỉ có thế, các hiện tượng kì ảo gắn với văn hóa tâm linh phương Đông làm tăng thêm sự huyền bí, hấp đẫn cho những trang viết li kì này: báo mộng; thần giao cách cảm; tìm mộ liệt sĩ … Có lẽ ám gợi nhiều nhất là cảnh tìm mộ liệt sĩ Trần Hoà Bình: “Con bướm trắng chao lượn vài vòng, nó lướt tới đậu vào giữa lòng tay ông Hạnh (…) một chiếc đũa cắm xuống đất, đặt một quả trứng lên đầu chiếc đũa (…) Từ lúc đó Đại tá Trần Hạnh cứ ôm chặt bộ cốt của con trai cuốn trong bọc ni lon trong lòng không rời ra nữa”… (trang 224,225,226).
Đi tìm hài cốt anh Giải phóng quân là liệt sĩ Trần Hòa Bình, tình cờ lại tìm thấy hài cốt người lính Việt Nam Cộng hòa nằm cùng một địa điểm. Nằm dưới đất sâu hai người lính vốn là kẻ thù giờ là bạn hữu. Không chỉ trân trọng như nhau, gia đình liệt sĩ Trần Hòa Bình nhường chiếc tiểu sành duy nhất cho hài cốt người lính Việt Nam Cộng hòa (VNCH), còn đưa anh về tận quê nhà, trao anh cho người thân mòn mỏi mong chờ. Biết bao ý nghĩa nhân đạo sâu sắc mà không ngôn từ nào diễn tả hết.
3. Hình ảnh lặp đi lặp lại thành biểu tượng nghệ thuật đắt giá
Chiếc Tù và trong Báu vật trời Nam, Nguyễn Thị Anh Thư khéo léo sử dụng những hình ảnh lặp đi lặp lại để xây dựng các biểu tượng nghệ thuật, góp phần làm sâu sắc thêm những chủ đề lớn của tác phẩm. Những hình ảnh này không chỉ làm nổi bật những ý tưởng chủ đạo mà còn tạo ra sự kết nối giữa các thế hệ, giữa quá khứ và hiện tại, đồng thời phản ánh những giá trị tinh thần sâu sắc.
Chiếc tù và – Một trong những hình ảnh lặp đi lặp lại và trở thành biểu tượng nghệ thuật đắt giá trong tác phẩm là chiếc tù và. Chiếc tù và không đơn giản chỉ là một vật dụng trong câu chuyện mà trở thành biểu tượng sâu sắc cho sự kết nối giữa các thế hệ, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa những mất mát và hy vọng. Nó đại diện cho những gì đã bị lãng quên và giờ đây được hồi sinh, mang trong mình một ký ức đầy tiếc nuối nhưng cũng là một lời hứa về sự tái sinh, về sự phục hồi.
Chiếc tù và này không chỉ gợi nhớ đến những thời khắc đau buồn mà còn là lời nhắc nhở về sự hy sinh, mất mát của cha ông qua các thế hệ. Cảnh cậu bé tìm thấy chiếc tù và, với hình ảnh chiếc sừng trâu ánh lên dưới lớp rêu mịn màng, gợi lên vẻ đẹp ma mị, đầy cảm xúc và ám ảnh: “Chiếc sừng trâu ánh lên những nét chạm trổ tinh tế, đẹp một cách ma mị dưới một lớp rêu mịn màng”. (Trích đoạn khi Nhơn lại tìm thấy chiếc tù và).
Hình ảnh chiếc tù và trở thành một mạch ngầm kết nối những tâm hồn trong gia đình, những ký ức chưa bao giờ mất đi, những khao khát và hy vọng tái ngộ trong tình yêu thương gia đình.
Biểu tượng của sự tái ngộ và tình cảm gia đình
Bên cạnh chiếc tù và, những cuộc gặp gỡ, sự nhận ra, hối hận và tha thứ là những chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm, được thể hiện qua những hình ảnh đầy xúc động và mang tính biểu tượng. Những lời nói, những cử chỉ tha thứ, và những khoảnh khắc tái ngộ giữa các nhân vật chính là sự hồi sinh của tình yêu thương gia đình, là sự hòa giải không chỉ giữa các thành viên mà còn là sự nối lại mối liên hệ đã bị cắt đứt.
Khi Cát Bình nhận ra tình yêu thương của cha mình, đó là một khoảnh khắc thấm đẫm cảm xúc. Nhận thức về sự hy sinh và đau khổ của người cha đã mở ra một cánh cửa tâm hồn, nơi những lời nói đầy xúc động của ông Ba thể hiện niềm hạnh phúc tột độ khi con trai đã trở về: “Cảm ơn Trời Phật… Con tôi đã trở về với tôi rồi!” (Trích đoạn khi ông Ba nhận được tin từ Cát Bình).
Những câu nói này không chỉ thể hiện sự cảm động của ông Ba mà còn là sự tái sinh của mối quan hệ cha con, là dấu hiệu của sự tha thứ và hòa giải sau những năm tháng đầy đau đớn. Hình ảnh này, như chiếc tù và, trở thành một biểu tượng của sự tái ngộ, của tình cảm gia đình mạnh mẽ, không gì có thể phá vỡ.
Thông qua những hình ảnh này, nhà văn đã khéo léo phản ánh những giá trị nhân văn sâu sắc, gửi gắm thông điệp về sự hy sinh, tình yêu thương vô điều kiện và sức mạnh của sự tha thứ trong gia đình. Những biểu tượng nghệ thuật này không chỉ làm cho câu chuyện thêm phần cảm động mà còn khiến người đọc suy ngẫm về những mối quan hệ trong cuộc sống của chính họ.
Biểu tượng chiếc Tù và cùng những âm thanh của nó còn tượng trưng cho vẻ đẹp và sức mạnh của bản sắc văn hoá Việt Nam: – Căm ghét cái xấu cái ác; tôn vinh bảo vệ cái đẹp, cái thiện: “Âm thanh vang rền khắp bốn phương tám hướng và đập vào vách đá, thành hang (…) nhuộm vẻ ảo diệu lên khắp mọi cảnh vật trong hang động…” (Tr 1.88)
4. Thông điệp nghệ thuật nhà văn muốn gửi gắm
Trong Báu vật trời Nam, Nguyễn Thị Anh Thư không chỉ xây dựng một câu chuyện cảm động về tình cảm gia đình mà còn gửi gắm những thông điệp nghệ thuật sâu sắc về sự hối hận, tha thứ, sự kết nối giữa các thế hệ và tình yêu thương vô điều kiện. Những thông điệp này không chỉ giúp tác phẩm thêm phần thấm thía mà còn khơi gợi những suy nghĩ sâu sắc cho người đọc về những giá trị tinh thần quan trọng trong cuộc sống.
Sự hối hận và tha thứ
Một trong những thông điệp mạnh mẽ mà nhà văn muốn truyền tải là sức mạnh của sự hối hận và tha thứ trong các mối quan hệ gia đình. Thông qua nhân vật Cát Bình, nhà văn cho thấy rằng đôi khi sự tổn thương sâu sắc và những mâu thuẫn trong gia đình chỉ có thể được chữa lành khi con người biết mở lòng và tha thứ. Cát Bình, dù ban đầu đầy hận thù và cảm giác bị bỏ rơi, đã dần nhận ra những hy sinh vô bờ bến của cha mình. Quá trình này là một hành trình tự nhận thức và trưởng thành, nơi Cát Bình không chỉ đối diện với những đau khổ của bản thân mà còn nhìn thấy những nỗi khổ của người khác, nhất là người cha mà anh từng trách móc.
Cảnh Cát Bình nhận ra sự hy sinh của cha mình là một khoảnh khắc quan trọng trong tác phẩm, đánh dấu sự chuyển biến trong tâm hồn anh: từ sự tức giận, oán hận sang sự tha thứ và hòa giải. Đây là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của sự tha thứ trong bất kỳ mối quan hệ nào, nhất là trong gia đình, nơi sự tha thứ là chìa khóa để giải quyết mọi khúc mắc và hàn gắn vết thương tâm hồn.
Sự kết nối giữa các thế hệ
Thông điệp thứ hai mà tác phẩm muốn gửi gắm là sự kết nối giữa các thế hệ. Dù thời gian có trôi qua, dù có những khó khăn, đau đớn, mối quan hệ gia đình vẫn luôn tồn tại và có thể được tái lập. Nhà văn khẳng định rằng các thế hệ trước dù đi qua chiến tranh, mất mát, nhưng những giá trị về tình yêu, sự hy sinh và đoàn kết vẫn sẽ được truyền lại cho các thế hệ sau.
Hình ảnh chiếc tù và là một biểu tượng mạnh mẽ cho sự kết nối này. Nó không chỉ là vật thể vật lý mà còn là biểu tượng của mối liên kết vô hình giữa các thế hệ trong gia đình, là sợi dây nối liền quá khứ với hiện tại. Khi chiếc tù và được tìm thấy, nó không chỉ đánh thức ký ức về những thời khắc đã qua mà còn là cơ hội để các thế hệ tìm lại nhau, để sự kết nối gia đình được khôi phục, vượt qua mọi thử thách thời gian và chiến tranh.
Tình yêu thương không điều kiện
Cuối cùng, nhà văn muốn khẳng định rằng tình yêu thương, đặc biệt trong gia đình, là thứ không có điều kiện. Dù có những mất mát, hận thù hay hiểu lầm, tình yêu thương vẫn luôn là sợi dây vô hình giữ cho các mối quan hệ không bị đứt gãy. Câu chuyện về Cát Bình và người cha của anh là minh chứng rõ ràng cho sức mạnh của tình yêu thương không điều kiện. Những người thân yêu trong gia đình sẽ luôn tìm cách vượt qua mọi khó khăn để trở về bên nhau, vì tình yêu thương là thứ không thể bị thời gian hay hoàn cảnh dập tắt.
Khi ông Ba thốt lên: “Con tôi đã trở về với tôi rồi!” (Trích đoạn khi ông Ba nhận được tin từ Cát Bình), đó là khoảnh khắc không chỉ mang ý nghĩa về sự tái ngộ mà còn là sự chứng minh về sức mạnh của tình yêu gia đình. Mặc dù đã trải qua bao đau đớn, sự xa cách, nhưng cuối cùng, tình yêu thương đã chiến thắng, giúp họ tìm lại nhau sau bao năm tháng xa cách.
Thông qua những thông điệp này, Nguyễn Thị Anh Thư không chỉ kể một câu chuyện gia đình đầy cảm xúc mà còn làm nổi bật những giá trị tinh thần mà mỗi người trong chúng ta đều cần phải trân trọng: sự tha thứ, tình yêu thương và sự kết nối giữa các thế hệ. Những giá trị này không chỉ có ý nghĩa trong tác phẩm mà còn có thể áp dụng vào cuộc sống thực tế, giúp chúng ta hiểu và sống tốt hơn với những người thân yêu quanh mình.
Giá trị nội dung lớn lao nhất của tác phẩm này là tinh thần phê phán chiến tranh, là thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca những con người lí tưởng, những người lính Cụ Hồ như ông Ba, ông Mười. Vĩ thanh khép lại tác phẩm này là tinh thần hóa giải hận thù hòa hợp dân tộc. Phải chữa lãnh “Nỗi đau hậu chiến”, để yêu thương, tha thứ hàn gắn mọi “vết thương” cả hữu hình và vô hình.
Kết luận:
Báu vật trời Nam không chỉ là một tác phẩm văn học về tình cảm gia đình, mà còn là một bức tranh sâu sắc về những mối quan hệ đầy phức tạp và cảm xúc giữa cha mẹ và con cái. Câu chuyện về sự hối hận, những mất mát, và quá trình hàn gắn, tìm lại tình cảm gia đình sau chiến tranh đã được nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư khắc họa một cách tinh tế qua từng chi tiết, từng nhân vật. Văn phong nhẹ nhàng nhưng đầy sức nặng, những nhân vật với chiều sâu tâm lý đã làm nên một tác phẩm đậm đà cảm xúc, khiến người đọc không khỏi rung động trước những diễn biến tâm lý, những xung đột nội tâm và những khoảnh khắc cao trào trong hành trình tìm lại tình yêu thương.
Đây là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, không chỉ mang đến một câu chuyện đầy xúc động mà còn gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình, sự tha thứ, và tình yêu thương vô điều kiện. Báu vật trời Nam xứng đáng là một tác phẩm để người đọc không chỉ thưởng thức mà còn suy ngẫm, bởi nó chứa đựng những bài học quý giá về cuộc sống và con người, trong và sau chiến tranh.
Báu vật trời Nam! Không phải là kho báu vàng bạc mà là lòng cao thượng, tình yêu thương tha thứ, đấy mới là kho báu tuyệt vời nhất “Tuy chúng cháu chưa tìm được kho báu, nhưng chúng cháu luôn cảm thấy may mắn, được đặt chân lên đất nước Việt Nam này. Ở nơi này có những câu chuyện thật phi thường, cùng những con người thật phi thường. Chắc đây mới thực sự là kho báu dành cho chúng cháu”. (Tr. 248)
9/4/2025
Nguyễn Đức Hạnh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...